Ghi Chú: Đây là bản dịch chỉ dùng trong tham khảo học tập, do đó có các từ in đậm, nghiêng, gạch chân, tô màu, hoàn toàn của bản dịch.
Cosmic Fire Semester S6 (567-731)
[Commentary S6S1]
2. The Laws of Thought [567]—2. Các Định Luật của Tư Tưởng [567]
|
There are three great laws, that we might term the fundamental laws of the cosmos, of that greater system (recognized by all astronomers), of which we form a part, and seven laws inherent in the solar system. These seven we might consider secondary laws, though, from the standpoint of humanity, they appear as major ones. |
Có ba đại định luật, mà chúng ta có thể gọi là các định luật căn bản của vũ trụ, của hệ thống lớn hơn (được mọi nhà thiên văn công nhận) mà chúng ta là một phần, và bảy định luật vốn có trong hệ mặt trời. Bảy định luật này chúng ta có thể xem là các định luật thứ yếu, dù xét từ quan điểm nhân loại, chúng dường như là các định luật chính yếu. |
a. Three Cosmic Laws—a. Ba Định Luật Vũ Trụ
|
The first of the cosmic laws is the Law of Synthesis. It is almost impossible for those of us who have not the buddhic faculty in any way developed, to comprehend the scope of this law. It is the law that demonstrates the fact that all things—abstract and concrete—exist as one; it is the law governing the thought form of that One of the cosmic Logoi [568] in Whose consciousness both our system, and our greater center, have a part. It is a unit of His thought, a thought form in its entirety, a concrete whole, and not the differentiated process that we feel our evolving system to be. It is the sumtotal, the center and the periphery, and the circle of manifestation regarded as a unit. |
Định luật thứ nhất của vũ trụ là Định luật Tổng Hợp. Gần như không thể cho những ai chưa phát triển năng lực Bồ đề hiểu thấu phạm vi của định luật này. Đây là định luật biểu lộ sự kiện rằng mọi sự—trừu tượng và cụ thể—đều hiện hữu như Một; đó là định luật chi phối hình tư tưởng của Vị trong các Thượng đế vũ trụ [568] mà trong Tâm thức của Ngài cả hệ thống của chúng ta, và trung tâm vĩ đại hơn của chúng ta, cùng có phần. Nó là một đơn vị trong Tư tưởng của Ngài, một hình tư tưởng trọn vẹn, một toàn thể cụ thể, chứ không phải tiến trình biến phân mà chúng ta cảm nhận hệ thống đang tiến hoá của mình là như vậy. Nó là tổng số, là trung tâm và chu vi, và là vòng tuần hoàn biểu lộ được xét như một nhất thể. |
|
The second law is the Law of Attraction and Repulsion. Fundamentally, the law describes the compelling force of attraction that holds our solar system to the Sirian; that holds our planets revolving around our central unit, the sun; that holds the lesser systems of atomic and molecular matter circulating around a center in the planet; and that holds the matter of all physical plane bodies, and that of the subtle bodies coordinated around their microcosmic center. |
Định luật thứ hai là Định luật Hấp Dẫn và Đẩy Lùi. Căn để, định luật này mô tả lực hấp dẫn cưỡng bách vốn giữ hệ mặt trời của chúng ta lệ thuộc vào Sirius; vốn giữ các hành tinh của chúng ta quay quanh trung tâm của chúng, Mặt Trời; vốn giữ các hệ thống nhỏ hơn của vật chất nguyên tử và phân tử chuyển lưu quanh một trung tâm trong hành tinh; và vốn giữ chất liệu của mọi thể trên cõi hồng trần, và của các thể vi tế, được phối kết quanh trung tâm vi mô của chúng. |
|
The third law is the Law of Economy, and is the law which adjusts all that concerns the material and spiritual evolution of the cosmos to the best possible advantage and with the least expenditure of force. It makes perfect each atom of time, and each eternal period, and carries all onward, and upward, and through, with the least possible effort, with the proper adjustment of equilibrium, and with the necessary rate of rhythm. Unevenness of rhythm is really an illusion of time, and does not exist in the cosmic center. We need to ponder on this, for it holds the secret of peace, and we need to grasp the significance of that word through, for it describes the next racial expansion of consciousness, and has an occult meaning. |
Định luật thứ ba là Định luật Tiết Kiệm, và là định luật điều chỉnh mọi điều liên hệ đến tiến hoá chất liệu và tinh thần của vũ trụ sao cho đạt lợi ích tốt nhất và với ít phí tổn năng lượng nhất. Nó làm cho hoàn hảo mỗi sát-na thời gian, và mỗi kỳ vĩnh cửu, và đưa tất cả tiến lên, và tiến cao, và xuyên qua, với nỗ lực ít nhất có thể, với sự điều chỉnh quân bình thích đáng, và với nhịp điệu cần thiết. Sự không đều của nhịp điệu thực ra là một ảo tưởng của thời gian, và không tồn tại trong trung tâm vũ trụ. Chúng ta cần suy gẫm điều này, vì nó chứa bí quyết của an bình, và chúng ta cần nắm ý nghĩa của từ xuyên qua, vì nó mô tả sự mở rộng tâm thức của giống dân kế cận, và có một ý nghĩa huyền môn. |
|
In the nomenclature of these laws much is lost, for it is well nigh impossible to resolve abstractions into the terms of speech, and not lose the inner sense in the process. In these laws we again have the threefold idea demonstrated, and the correspondence, as might be expected, holds good. [569] |
Trong thuật ngữ gọi tên các định luật này, rất nhiều điều bị mất mát, vì gần như không thể quy chuyển các trừu tượng thành ngôn ngữ mà không đánh mất nội nghĩa trong tiến trình ấy. Trong các định luật này chúng ta lại thấy ý tưởng tam phân được biểu lộ, và sự tương ứng, như có thể mong đợi, vẫn đúng [569]. |
|
– The Law of Synthesis—The Will Aspect—1st Aspect. |
Định luật Tổng Hợp—Phương diện Ý Chí—Phương diện thứ nhất. |
|
– The Law of Attraction—The Love Aspect—2nd Aspect. |
Định luật Hấp Dẫn—Phương diện Tình thương—Phương diện thứ hai. |
|
– The Law of Economy—The Activity Aspect—3rd Aspect. |
Định luật Tiết Kiệm—Phương diện Hoạt động—Phương diện thứ ba. |
b. Seven Systemic Laws —b. Bảy Định Luật Hệ Thống
|
Subsidiary to the three major laws, we find the seven laws of our solar system. Again we find the law of analogy elucidating, and the three becoming the seven as elsewhere in the logoic scheme. In each of these seven laws we find an interesting correlation with the seven planes. They are: |
Phụ hệ đối với ba định luật chính là bảy định luật của hệ mặt trời chúng ta. Một lần nữa chúng ta thấy định luật tương đồng làm sáng tỏ, và bộ ba trở thành bộ bảy như trong toàn thể đồ hình thuộc Thượng đế. Trong mỗi định luật trong bảy định luật này, chúng ta tìm thấy một tương quan lý thú với bảy cõi. Chúng là: |
|
1. The Law of Vibration, the basis of manifestation, starting on the first plane. This is the atomic law of the system, in the same sense that on each of our planes the first subplane is the atomic plane. |
Định luật Rung Động, nền tảng của biểu lộ, khởi tác trên cõi thứ nhất. Đây là định luật nguyên tử của hệ thống, theo nghĩa tương tự như trên mỗi cõi của chúng ta, cõi phụ thứ nhất là cõi nguyên tử. |
|
2. The Law of Cohesion. On the second plane cohesion is first apparent. It is the first molecular plane of the system, and is the home of the Monad. Divine coherency is demonstrated. |
Định luật Kết Dính. Trên cõi thứ hai, kết dính trước hết hiển lộ. Đó là cõi phân tử thứ nhất của hệ thống, và là nhà của Chân thần. Tính kết hợp thiêng liêng được biểu hiện. |
|
3. The Law of Disintegration. On the third plane comes the final casting-off, the ultimate shedding of the sheaths, of the fivefold superman. A Chohan of the sixth Initiation discards all the sheaths beneath the monadic vehicle, from the atmic to the physical. |
Định luật Phân Rã. Trên cõi thứ ba đến sự trút bỏ tối hậu, sự loại bỏ rốt ráo các vận cụ, của vị siêu nhân ngũ phân. Một Chohan ở lần Điểm đạo thứ sáu loại bỏ tất cả các vận cụ bên dưới vận cụ chân thần, từ atma đến hồng trần. |
|
4. The Law of Magnetic Control holds sway paramountly on the buddhic plane, and in the development of the control of this law lies hid the control of the personality by the Monad via the egoic body. |
Định luật Kiểm Soát Từ Tính nắm quyền chi phối tối thượng trên cõi Bồ đề, và trong sự phát triển quyền kiểm soát định luật này ẩn tàng sự chế ngự phàm ngã bởi Chân thần qua trung gian thể chân ngã. |
|
5. The Law of Fixation demonstrates principally on the mental plane and has a close connection with manas, the fifth principle. The mind controls and stabilizes, and coherency is the result. |
Định luật Cố Định biểu lộ chủ yếu trên cõi trí và có liên hệ mật thiết với manas, nguyên khí thứ năm. Thể trí chế ngự và ổn định, và kết dính là kết quả. |
|
6. The Law of Love is the law of the astral plane. It aims at the transmutation of the desire nature, and links it up with the greater magnetism of the love aspect on the buddhic plane. |
Định luật Tình Thương là định luật của cõi cảm dục. Nó nhằm chuyển hoá bản chất dục vọng, và nối kết nó với sức thu hút lớn lao hơn của phương diện tình thương trên cõi Bồ đề. |
|
7. The Law of Sacrifice and Death is the controlling factor on the physical plane. The destruction of the form, in order that the evolving life may progress, is one of the fundamental methods in evolution. |
Định luật Hiến Tế và Tử Vong là yếu tố chi phối trên cõi hồng trần. Sự hủy diệt hình tướng, hầu cho sự sống tiến hoá có thể tiến bước, là một trong các phương pháp căn để trong tiến hoá. |
|
The Intermediate Law of Karma.—There is also an intermediate law, which is the synthetic law of the system [570] of Sirius. This law is called by the generic term, the Law of Karma, and really predicates[1] the effect the Sirian system has on our solar system. Each of the two systems, as regards its internal economy, is independent in time and space, or (in other words), in manifestation. We have practically no effect on our parent system, the reflex action is so slight as to be negligible, but very definite effects are felt in our system through causes arising in Sirius. These causes, when experienced as effects, are called by us the Law of Karma, and at the beginning they started systemic Karma which, once in effect, constitutes that which is called Karma in our occult and oriental literature. |
Định luật Trung Gian về Nghiệp quả. —Cũng có một định luật trung gian, là định luật tổng hợp của hệ thống [570] Sirius. Định luật này được gọi bằng danh xưng tổng quát là Định luật Nghiệp quả, và thật ra khẳng định hiệu ứng mà hệ Sirius có trên hệ mặt trời của chúng ta. Mỗi trong hai hệ, xét về cơ cấu nội tại của mình, là độc lập trong thời gian và không gian, hay (nói cách khác), trong biểu lộ. Thực tế chúng ta hầu như không ảnh hưởng đến hệ Mẹ của mình, hiệu ứng phản hồi quá nhỏ nhặt đến nỗi có thể bỏ qua, nhưng những hiệu ứng rất rõ rệt được cảm thọ trong hệ của chúng ta do các nguyên nhân phát sinh ở Sirius. Những nguyên nhân này, khi được kinh nghiệm như hiệu quả, được chúng ta gọi là Định luật Nghiệp quả, và khởi thủy chúng đã khởi động Nghiệp quả hệ thống vốn, một khi đã vận hành, cấu thành cái được gọi là Nghiệp trong văn học huyền bí và Đông phương của chúng ta. |
|
The Lipika Lords of our system, the systemic Lords of Karma, are under the rule of a greater corresponding Lord on Sirius. |
Các Đấng Lipika của hệ chúng ta, các Đấng Chúa Tể Nghiệp Quả hệ thống, nằm dưới quyền của một Đấng Chúa Tể tương ứng vĩ đại hơn trên Sirius. |
|
We have therefore: |
Vậy chúng ta có: |
|
1. The three cosmic laws of Synthesis, Attraction and Economy. |
Ba định luật vũ trụ về Tổng hợp, Hấp dẫn và Tiết kiệm. |
|
2. The Sirian law of Karma. |
Định luật Nghiệp quả của Sirius. |
|
3. The seven laws of the solar system. |
Bảy định luật của hệ mặt trời. |
|
As we have been told, our seven major vibrations are the vibrations of the lowest cosmic plane; there is our habitat. Our Logos Himself, the heart of His system, is on the cosmic astral plane; he is polarized there. Just as the units of the fourth Creative Hierarchy, the human, are evolving through the use of physical bodies, but are polarized at this time in their astral vehicles, so we have seen that the objective solar system forms the physical body of the Logos, though His polarity is in His astral body. It is significant that in this greater manvantara, the Logos is to take the fourth cosmic Initiation. A hint which may enlighten lies in the correspondence which exists between this statement and the [571] fourth root-race development, and this, the fourth or astral round. 81 |
Như đã được nói, bảy rung động chính của chúng ta là các rung động của cõi vũ trụ thấp nhất; đó là nơi cư ngụ của chúng ta. Chính Thượng đế của chúng ta, trái tim của Hệ thống của Ngài, ở trên cõi cảm dục vũ trụ; Ngài phân cực tại đó. Cũng như các đơn vị của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, tức nhân loại, đang tiến hoá thông qua việc sử dụng các thể hồng trần, nhưng hiện thời phân cực trong các thể cảm dục của họ, thì chúng ta đã thấy rằng hệ mặt trời khách quan cấu thành thể hồng trần của Thượng đế, dù phân cực của Ngài là trong thể cảm dục của Ngài. Điều đáng chú ý là trong đại manvantara này, Thượng đế sẽ thọ lần Điểm đạo vũ trụ thứ tư. Một gợi ý có thể khai sáng nằm trong sự tương ứng hiện hữu giữa mệnh đề này và [571] sự phát triển của Giống dân gốc thứ tư, và cuộc tuần hoàn thứ tư hay cảm dục này. 81 |
|
81 The present Round, which is the fourth, is the one in which desire, or response to contact and sensation is being brought to its fullest expression. In the next round, the fifth, the fifth principle of mind, or manas, will reach fruition. |
81 Cuộc Tuần Hoàn hiện tại, là cuộc thứ tư, là cuộc mà dục vọng, hay sự đáp ứng với tiếp xúc và cảm thọ, đang được đưa đến biểu hiện trọn vẹn nhất. Trong cuộc tuần hoàn kế tiếp, cuộc thứ năm, nguyên khí thứ năm là trí, hay manas, sẽ đạt thành tựu. |
|
The system of the Sirian Logos is on the cosmic mental plane, and in a subtle way, incomprehensible to us, our Logos, with His system, forms a part of a still greater Logos. This does not involve loss of identity, though the matter is too abstruse to express more adequately. It is in this analogy that the basic idea can be found of all teaching given out about the Grand Heavenly Man. The whole conception of these laws is bound up in this idea. We have the three laws of the cosmic higher planes, holding in a synthesis of beauty the greater and the lesser system. Next we have the great law of Sirius, the Law of Karma, on the third subplane of the cosmic mental plane, which law really controls our Logos, and His actions, in the same way as the ego—in due course of evolution—controls the human personality. |
Hệ thống của Thượng đế Sirius ở trên cõi trí vũ trụ, và theo một cách vi tế, vượt ngoài sự thấu hiểu của chúng ta, Thái dương Thượng đế của chúng ta, cùng với hệ thống của Ngài, cấu thành một phần của một Thượng đế còn vĩ đại hơn nữa. Điều này không hàm ý mất căn tính, dù vấn đề quá uyên áo để có thể diễn đạt thỏa đáng hơn. Trong phép loại suy này ẩn tàng ý niệm căn bản của mọi giáo huấn đã được ban ra về Đấng Đại Thiên Nhân. Toàn bộ quan niệm về các định luật đều gắn kết trong ý tưởng ấy. Chúng ta có ba định luật của các cõi cao vũ trụ, ôm trọn trong một hợp âm mỹ lệ cả hệ lớn lẫn hệ nhỏ. Kế đến là đại định luật của Sirius, tức Định luật Nghiệp quả, trên cõi phụ thứ ba của cõi trí vũ trụ, định luật thực sự chi phối Thái dương Thượng đế của chúng ta và các hành động của Ngài, giống như chân ngã—đến một lúc nào đó trong tiến hóa—chi phối phàm ngã con người. |
|
We need to remember that, under the Law of Correspondences, we shall have a relationship in the Cosmos, similar to that existing in the microcosm between the ego and the personality. The suggestion holds much that we might consider with benefit. We must not, however, carry the analogy too far; as we have not yet evolved to where we have planetary consciousness, still less systemic, how can we really expect even to conceive of the A B C of cosmic truth? Just broad hints, wide conceptions, and generalities, are as yet possible. Of one thing we can be sure, and that is that identity ever remains. |
Chúng ta cần nhớ rằng, theo định luật tương ứng, chúng ta sẽ có một mối liên hệ trong Vũ trụ tương tự như mối liên hệ giữa chân ngã và phàm ngã trong tiểu thiên địa. Gợi ý này hàm chứa nhiều điều chúng ta có thể cân nhắc một cách lợi ích. Tuy nhiên, chúng ta không nên đẩy phép loại suy đi quá xa; vì chúng ta chưa tiến hóa đến mức có tâm thức hành tinh, càng chưa nói đến tâm thức hệ thống, thì làm sao có thể mong mỏi hiểu nổi “vỡ lòng” về chân lý vũ trụ? Hiện tại, chỉ những gợi ý rộng, những quan niệm bao quát, và những khái quát là khả hữu. Có một điều chúng ta có thể chắc, ấy là căn tính vẫn luôn tồn tại. |
|
Let me explain by illustration: |
Hãy để tôi giải thích bằng minh hoạ: |
|
Each one of us, in due process of evolution, forms part of one of the Heavenly Men, Who Themselves form the [572] seven centers in that greater Heavenly Man, the Logos. Yet, though we are merged with the whole, we do not lose our identity, but forever remain separated units of consciousness, though one with all that lives or is. In like manner our Logos loses not His identity, even though He forms part of the Consciousness of the Logos of Sirius. In His turn, the Sirian Logos forms one of the seven Grand Heavenly Men, who are the centers in the body of ONE OF WHOM NOUGHT MAY BE SAID. |
Mỗi người trong chúng ta, theo đúng tiến trình tiến hóa, hợp thành một phần của một trong các Đấng Thiên Nhân, mà Chính Các Ngài lại cấu thành [572] bảy trung tâm trong Đấng Thiên Nhân vĩ đại hơn, tức Thái dương Thượng đế. Tuy rằng chúng ta được dung hợp vào Toàn Thể, chúng ta không đánh mất căn tính, mà mãi mãi vẫn là những đơn vị tâm thức riêng biệt, dù nên một với mọi sự sống. Tương tự như vậy, Thái dương Thượng đế của chúng ta không mất căn tính của Ngài, dù Ngài cấu thành một phần của Tâm thức của Thượng đế Sirius. Đến lượt Ngài, Thượng đế Sirius là một trong bảy Đấng Đại Thiên Nhân, vốn là các trung tâm trong Thân thể của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ. |
The Laws and the Planes —Các Định luật và Các Cõi
|
We might, while studying the seven laws of the solar system, take them plane by plane, showing certain things—three in all: |
Khi khảo cứu bảy định luật của hệ mặt trời, chúng ta có thể xét theo từng cõi, trình bày một vài điều—tổng cộng ba điều: |
|
1. We might study their effect as they demonstrate on the path of involution. |
Chúng ta có thể khảo sát ảnh hưởng của chúng khi biểu hiện trên con đường giáng hạ tiến hoá. |
|
2. As they manifest on the path of evolution, or return. |
Khi chúng biểu lộ trên con đường thăng thượng tiến hoá, hay con đường trở về. |
|
3. We might also touch on the laws as they affect the human and deva organisms that evolve by means of them. |
Chúng ta cũng có thể đề cập đến các định luật khi chúng tác động lên các cơ cấu nhân loại và thiên thần, là những cơ cấu tiến hóa nhờ các định luật ấy. |
|
As we do this, we shall gradually get a broad general idea of how this system of ours (the thought-form of the Logos), was gradually built up, how it is controlled and held together, and how numerous and intricate are the interrelations. Certain fundamental hypotheses are assumed, which must form the background for all we would say. We must assume first that a Builder, or some Creative Mind, is working to bring about an ordered production, and is seeking to manifest through a demonstrable objective. The objective universe is but the product of some subjective mind. Next we must posit that the material for the building of this universe lay ready to the hand of the Builder, and that this material itself is the fruit of some previous system, all that is left of some past consummated product. Given, therefore, the Builder and the material, we must next accede [573] to the proposition that this Builder proceeds with His building under some definite laws that guide His choice of material, that control the form that He erects, and that indicate to Him the process to be followed in the consummating of His idea. We must not forget that three great symbols stand, in the mind of the Logos, for each of His three systems, that the whole exists for Him as a concrete thought-form, for He is learning to manipulate the matter of the cosmic mental plane on concrete levels, in the same way that man is working on the laws of thought, and on the building of thought-forms. |
Khi làm như vậy, chúng ta sẽ dần dần có một ý niệm tổng quát về cách hệ thống này của chúng ta (hình tư tưởng của Thượng đế) được cấu tạo dần dần ra sao, nó được kiểm soát và liên kết chặt chẽ thế nào, và sự liên hệ đan xen phức tạp đến mức nào. Vài giả thuyết căn bản được giả định, phải làm nền tảng cho mọi điều chúng ta muốn nói. Trước hết, chúng ta phải giả định rằng có một Vị Kiến Tạo, hay một Trí Tuệ Sáng Tạo nào đó, đang làm việc để đưa đến một sản phẩm có trật tự, và đang tìm cách tự biểu lộ qua một đối tượng có thể minh chứng. Vũ trụ khách quan chỉ là sản phẩm của một trí tuệ chủ quan nào đó. Kế đến, chúng ta phải giả định rằng vật liệu để xây dựng vũ trụ này nằm sẵn trong tay Vị Kiến Tạo, và bản thân vật liệu ấy là hoa trái của một hệ thống trước đó, là tất cả những gì còn lại của một sản phẩm đã hoàn tất trong quá khứ. Như thế, có Vị Kiến Tạo và có vật liệu, thì chúng ta phải chấp nhận [573] mệnh đề rằng Vị Kiến Tạo ấy tiến hành công cuộc kiến tạo theo một số định luật xác định, vốn hướng dẫn sự lựa chọn vật liệu của Ngài, chi phối hình tướng mà Ngài dựng lập, và chỉ ra cho Ngài quy trình cần theo để thành tựu ý tưởng của Ngài. Chúng ta đừng quên rằng có ba biểu tượng vĩ đại đứng sừng sững trong tâm trí của Thượng đế cho mỗi trong ba hệ thống của Ngài, rằng toàn thể hiện hữu đối với Ngài như một hình tư tưởng cụ thể, vì Ngài đang học cách vận dụng chất liệu của cõi trí vũ trụ trên các cấp độ cụ thể, cũng như con người đang làm việc với các định luật của tư duy, và với công cuộc kiến tạo các hình tư tưởng. |
|
It is impossible to do more than sense the symbols of the systems past and present. Perhaps if we could visualize a swastika of ten arms revolving at right angles, of a radiant green color, all the ten arms emanating from a central blazing sun, we might have some idea of the thought-form that formed the basis of System I, the activity system. The basic thought-form for the second system embodies the green swastika of the first manifestation, and adds to it concentric and interlaced circles in blue, in groups of three, linked by one large circle. Both symbols are, of course, in the higher dimensions. The symbol for the next system is unknown. After grasping and conceding these three basic ideas, we can now proceed to the working out of the laws of the system on the seven planes, remembering always that these seven laws hold good on the numerically corresponding subplane on each plane. Let me briefly illustrate: |
Chúng ta không thể làm gì hơn là cảm nhận các biểu tượng của các hệ đã qua và hiện tại. Có lẽ nếu chúng ta có thể hình dung một chữ vạn mười cánh quay theo các góc vuông, với màu lục rực sáng, cả mười cánh đều toả ra từ một mặt trời trung tâm rực lửa, chúng ta sẽ có được phần nào ý niệm về hình tư tưởng làm nền cho Hệ I, hệ hoạt động. Hình tư tưởng căn bản cho Hệ thứ hai bao hàm chữ vạn màu lục của lần biểu lộ thứ nhất, và thêm vào đó những vòng tròn đồng tâm và đan xen màu lam, theo các nhóm ba, được nối bởi một vòng tròn lớn. Cả hai biểu tượng, dĩ nhiên, ở trong các chiều cao hơn. Biểu tượng cho hệ kế tiếp thì chưa được biết. Sau khi nắm và thừa nhận ba ý niệm căn bản này, giờ đây chúng ta có thể tiến hành khai triển các định luật của hệ thống trên bảy cõi, luôn ghi nhớ rằng bảy định luật này đều hiệu lực trên cõi phụ tương ứng về mặt số học của mỗi cõi. Hãy để tôi minh hoạ ngắn gọn: |
|
The fourth law, Magnetic Control, for instance, holds sway on the fourth subplane of each plane, in the fourth round, and in the fourth root-race specially. We shall then have the correspondence as follows: |
Định luật thứ tư, Kiểm soát Từ tính, chẳng hạn, ngự trị trên cõi phụ thứ tư của mỗi cõi, trong cuộc tuần hoàn thứ tư, và đặc biệt trong giống dân gốc thứ tư. Khi ấy chúng ta sẽ có sự tương ứng như sau: |
|
– 4th Law—Magnetic Control. |
Định luật thứ tư—Kiểm soát Từ tính. |
|
– 4th Ray—Harmony or beauty. |
Cung thứ tư—Hài hòa hay mỹ lệ. |
|
– 4th Plane—The buddhic. [574] |
Cõi thứ tư—Cõi Bồ đề. [574] |
|
– 4th Subplane—Buddhic Magnetic Control. |
Cõi phụ thứ tư—Kiểm soát Từ tính Bồ đề. |
|
– 4th Round—Dense Physical Magnetism, controlling sex manifestation on the physical plane, and inspired by astral desire, the reflection of the buddhic. |
Cuộc tuần hoàn thứ tư—Từ tính hồng trần đậm đặc, kiểm soát sự biểu lộ tính dục trên cõi hồng trần, và được cảm dục truyền hứng, vốn là phản ảnh của Bồ đề. |
|
– 4th Root-Race—The Atlantean, in which the above qualities specially demonstrated. |
Giống dân gốc thứ tư—Chủng tộc Atlantis, nơi các phẩm tính trên biểu lộ đặc biệt. |
[Commentary S6S2]
1. The Law of Vibration —1. Định luật Rung động
|
This is the law of the first plane, and it governs all the atomic subplanes of each plane. It marks the beginning of the work of the Logos, the first setting in motion of mulaprakriti. On each plane the vibration of the atomic subplane sets in motion the matter of that plane. It is the key measure. We might sum up the significance of this law in the words, “light” or “fire.” It is the law of fire; it governs the transmutation of differentiated colors back to their synthesis. It controls the breaking up of the One into the seven, and then the reabsorption back into the One. It is really the basic law of evolution, which necessitates involution. It is analogous to the first movement the Logos made to express Himself through this solar system. He uttered the Sound, a threefold Sound, one sound for each of His three systems, and started a ripple on the ocean of space. The Sound grows in volume as time progresses, and when it has reached its full volume, when it is fully completed, it forms one of the notes in the major cosmic chord. Each note has six subtones, which, with the first, make the seven; the Law of Vibration, therefore, comprises eighteen lesser vibrations and three major, making the twenty-one of our three systems. Two multiplied by nine (2×9), makes the necessary eighteen, which is the key number of our love system. Twenty-seven holds hid the mystery of the third system. |
Đây là định luật của cõi thứ nhất, và nó cai quản tất cả các cõi phụ nguyên tử của mỗi cõi. Nó đánh dấu khởi đầu công cuộc của Thượng đế, lần khởi động đầu tiên của mulaprakriti. Trên mỗi cõi, rung động của cõi phụ nguyên tử làm chuyển động chất liệu của cõi ấy. Nó là độ chuẩn chủ âm. Chúng ta có thể tóm tắt ý nghĩa của định luật này bằng các từ “ánh sáng” hay “lửa.” Đó là định luật của Lửa; nó cai quản sự chuyển hoá các màu sai biệt trở về tổng hợp của chúng. Nó chi phối việc phân giải Nhất Thể thành bảy, rồi lại thu nhiếp về Nhất Thể. Thực ra, đó là định luật căn bản của tiến hóa, vốn tất yếu bao hàm giáng hạ tiến hoá. Nó tương tự với cử động đầu tiên mà Thượng đế thực hiện để tự biểu lộ qua hệ mặt trời này. Ngài đã xướng Âm, một Âm Thanh tam phân, mỗi âm cho một trong ba hệ thống của Ngài, và khởi động một gợn sóng trên đại dương không gian. Âm ấy lớn dần theo thời gian, và khi đạt đến biên độ viên mãn, khi hoàn tất trọn vẹn, nó tạo thành một trong các nốt trong hợp âm vũ trụ chủ âm. Mỗi nốt có sáu âm phụ, cộng với âm đầu, thành bảy; do đó, Định luật Rung động gồm mười tám rung động thứ cấp và ba rung động chủ, làm thành con số hai mươi mốt của ba hệ thống chúng ta. Hai nhân với chín (2×9) tạo nên mười tám cần thiết, vốn là con số then chốt của hệ Bác ái của chúng ta. Hai mươi bảy ẩn chứa bí nhiệm của Hệ thứ ba. |
|
On the path of involution, the seven great Breaths or Sounds drove to the atomic subplane of each plane, and [575] there the basic vibration repeated in its own little world the method of logoic vibration, giving rise itself to six subsidiary breaths. We get the same correspondence here as we did in the matter of the Rays, for we shall find that the lines of vibration are 1-2-4-6. Logically this would be so, for involution is negative, receptive, and corresponds to the feminine pole, just as the abstract rays were 2-4-6. This truth requires meditation, and an attempt to think abstractly; it is linked to the fact that the whole second system is receptive and feminine; it concerns the evolution of consciousness of the psyche. |
Trên con đường giáng hạ tiến hoá, bảy Đại Hô Hấp hay Âm Thanh đã dồn đến cõi phụ nguyên tử của mỗi cõi, và [575] tại đó, rung động căn bản đã lặp lại trong thế giới vi tiểu của nó phương thức rung động của Thượng đế, tự nó phát sinh sáu hơi thở thứ cấp. Ở đây chúng ta lại có sự tương ứng như đã thấy trong vấn đề các Cung, vì chúng ta sẽ nhận ra rằng các tuyến rung động là 1-2-4-6. Luận lý mà xét thì phải vậy, vì giáng hạ tiến hoá là âm, tiếp thụ, và tương ứng với cực nữ, cũng như các cung trừu tượng vậy. Chân lý này cần được tham thiền, và cần nỗ lực tư duy trừu tượng; nó liên hệ với sự kiện rằng toàn bộ Hệ thứ hai là tiếp thụ và mang tính nữ; nó liên quan đến tiến hóa tâm thức của tâm hồn. |
|
On the path of evolution this law controls the positive aspect of the process. All is rhythm and movement, and when all that evolves on each plane attains the vibration of the atomic subplane, then the goal is reached. When, therefore, we have achieved the first main vibrations, and have perfected vehicles for all evolutions (not merely the human), of fivefold atomic subplane matter, then we have completed the round of evolution for this system. In the coming system we shall add the next two vibrations that complete the scale, and our Logos will then have completed His building. |
Trên con đường thăng thượng tiến hoá, định luật này chi phối phương diện dương của tiến trình. Tất cả là nhịp điệu và chuyển động, và khi mọi cái tiến hóa trên mỗi cõi đạt đến rung động của cõi phụ nguyên tử, thì mục tiêu đã đạt. Vậy nên, khi chúng ta đã thành tựu các rung động chủ đầu tiên, và đã hoàn thiện các hiện thể cho mọi loại tiến hóa (không chỉ nhân loại), được cấu nên bằng chất liệu của cõi phụ nguyên tử ngũ phân, thì chúng ta đã hoàn tất chu trình tiến hóa của hệ này. Trong hệ tới, chúng ta sẽ thêm hai rung động kế tiếp để hoàn chỉnh thang âm, và Thượng đế của chúng ta sẽ hoàn tất công trình Kiến tạo của Ngài. |
|
The fourth Creative Hierarchy, that of the human Monads, has to learn to vibrate positively, but the devas proceed along the line of least resistance; they remain negative, taking the line of acquiescence, of falling in with the law. Only the human Monads, and only in the three worlds, follow the positive line, and by resistance, struggle, battle and strife learn the lesson of divine acquiescence. Yet, owing to the increase of friction through that very struggle, they progress with a relatively greater rapidity than the devas. They have need to do this, for they have lost ground to make up. |
Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, tức các Chân thần nhân loại, phải học rung động theo chiều dương, trong khi các thiên thần tiến bước theo con đường ít trở ngại nhất; họ lưu lại trong trạng thái âm, chọn con đường thuận thuận, tuân theo định luật. Chỉ có các Chân thần nhân loại, và chỉ trong ba cõi thấp, mới theo nẻo dương, và bằng đối kháng, đấu tranh, giao chiến và xung đột mà học bài học thuận phục thiêng liêng. Tuy vậy, vì ma sát tăng lên do chính cuộc chiến ấy, họ lại tiến bộ với tốc độ tương đối nhanh hơn các thiên thần. Họ cần như vậy, vì họ có khoảng cách đã mất cần bù đắp. |
|
The Law of Vibration is the law of progress, of movement and of rotation. On the seventh or lowest plane, the vibration is slow, clogged and lethargic from the [576] standpoint of the first, and it is in learning to vibrate or to rotate more rapidly, that we mount the path of return. It involves, therefore necessarily, the building in of finer matter into the vehicles, both deva and human. In this second system, on the five planes of human evolution, we have the five vehicles—physical, astral, mental, buddhic and atmic—which have all to be purified, rarefied, intensified and refined. In the two lowest, the physical and the astral, only matter of the five higher subplanes, of their respective planes, is to be found, for the two lowest subplanes are too low for deva or human bodies; they were dominated in the first system. The mental body is the first in which we find matter of all the subplanes. The aim of evolution for us is love dominated by intelligence—or intelligence dominated by love, for the interaction will be complete. The human race came into the chain at a point where it naturally took bodies of the fifth astral and physical subplanes, and we can see here an analogy to the coming into the fourth root-race of the more advanced Egos. |
Định luật Rung động là định luật của tiến bộ, của chuyển động và của xoay vần. Trên cõi thứ bảy hay thấp nhất, rung động chậm, ngưng trệ và trì độn nếu nhìn từ [576] quan điểm của cõi thứ nhất, và chính nhờ học cách rung động, hay xoay nhanh hơn, mà chúng ta leo lên Con Đường Trở Về. Do đó, tất yếu là phải xây dựng xen vào trong các hiện thể, cả của thiên thần lẫn con người, chất liệu tinh tế hơn. Trong Hệ thứ hai này, trên năm cõi của tiến hóa nhân loại, chúng ta có năm hiện thể—thể xác, thể cảm dục, thể trí, thể Bồ đề và thể atma—tất cả đều phải được thanh lọc, tinh luyện, tăng cường và làm cho tinh tế. Ở hai cõi thấp nhất, cõi hồng trần và cảm dục, chỉ có chất liệu của năm cõi phụ cao hơn của các cõi tương ứng được tìm thấy, vì hai cõi phụ thấp nhất quá hạ liệt cho các thể của thiên thần hay con người; chúng đã bị chế ngự trong Hệ thứ nhất. Thể trí là thể đầu tiên mà trong đó ta thấy có chất liệu của tất cả các cõi phụ. Mục tiêu tiến hóa đối với chúng ta là tình thương do trí tuệ chủ đạo—hoặc trí tuệ do tình thương chủ đạo, vì tác động qua lại sẽ được hoàn tất. Nhân loại đã đi vào dãy ở một điểm mà ở đó tự nhiên họ thọ nhận các thể thuộc cõi phụ thứ năm của cảm dục và hồng trần, và chúng ta có thể thấy một phép loại suy với việc các Chân ngã tiến bộ đi vào giống dân gốc thứ tư. |
2. The Law of Cohesion —2. Định luật Cố kết
|
This is one of the branch laws of the cosmic Law of Attraction. It is interesting to notice how this law [Law of Attraction] demonstrates in this Love-System in a threefold manner: |
Đây là một trong các định luật phân nhánh của Định luật Hấp Dẫn vũ trụ. Thật thú vị khi để ý cách định luật Hấp Dẫn này biểu hiện trong Hệ Bác ái theo một cách thức tam phân: |
|
– On the plane of the Monad, as the law of cohesion, the law of birth, if we might use that term, resulting in the appearance of the Monads in their seven groups. Love the source, and the Monad of love, the result. |
Trên cõi chân thần, như định luật cố kết, định luật sinh xuất, nếu cho phép dùng thuật ngữ ấy, đưa đến sự xuất hiện của các Chân thần trong bảy nhóm. Bác ái là nguồn, và chân thần của Bác ái là kết quả. |
|
– On the plane of buddhi, as the law of magnetic control. It shows itself as the love-wisdom aspect, irradiating the ego, and eventually gathering to itself the essence of all experience, garnered[2], via the Ego, through the personality lives, and controlled throughout from the plane of buddhi. Magnetism, and the capacity to show love, are occultly synonymous. |
Trên cõi Bồ đề, như định luật kiểm soát từ tính. Nó biểu lộ như phương diện Bác Ái – Minh Triết, chiếu rọi chân ngã, và rút về mình tinh hoa của mọi kinh nghiệm, đã được thu hoạch, qua Chân ngã, xuyên suốt các đời phàm ngã, và được kiểm soát xuyên suốt từ cõi Bồ đề. Về mặt huyền bí, từ tính và khả năng biểu lộ tình thương là các đồng nghĩa. |
|
– On the astral plane, as love demonstrating through the [577] personality. All branches of the law of attraction, demonstrating in this system, show themselves as a force that ingathers, that tends to coherence, that results in adhesion, and leads to absorption. All these terms are needed to give a general idea of the basic quality of this law. |
Trên cõi cảm dục, như tình thương biểu hiện qua [577] phàm ngã. Mọi phân nhánh của định luật Hấp Dẫn biểu lộ trong hệ này đều tự tỏ ra như một lực quy tụ, hướng đến sự cố kết, đưa đến sự dính kết, và dẫn đến sự hấp thụ. Tất cả các thuật ngữ này đều cần thiết để phác họa ý niệm tổng quát về phẩm tính căn bản của định luật này. |
|
This law [Law of Cohesion] is one of the most important of the systemic laws, if it is permissible to differentiate at all; we might term it the law of coalescence[3]. |
Định luật này [Định luật Cố kết] là một trong những định luật hệ thống quan trọng nhất, nếu có thể cho phép phân biệt; chúng ta có thể gọi nó là định luật đồng tụ. |
|
On the path of involution it controls the primal gathering together of molecular matter, beneath the atomic subplane. It is the basis of the attractive quality that sets in motion the molecules and draws them into the needed aggregations. It is the measure of the subplanes. The atomic subplane sets the rate of vibration; the Law of Cohesion might be said to fix the coloring of each plane. It is the same thing in other words. We need always to remember in discussing these abstract fundamentals that words but dim the meaning, and serve but as suggestions and not as elucidations. |
Trên con đường giáng hạ tiến hoá, nó chi phối sự gom tụ nguyên sơ của vật chất phân tử, bên dưới cõi phụ nguyên tử. Nó là nền tảng của phẩm tính hấp dẫn khiến các phân tử chuyển động và hút nhau vào những tập hợp cần thiết. Nó là thước đo của các cõi phụ. Cõi phụ nguyên tử ấn định nhịp rung; có thể nói Định luật Cố kết ấn định sắc điệu của mỗi cõi. Nói cách khác cũng là một điều. Chúng ta luôn cần nhớ, khi bàn đến các yếu tố căn bản trừu tượng này, rằng ngôn từ chỉ làm mờ nghĩa và chỉ có thể làm gợi ý, chứ không thể minh giải. |
|
In manifestation the cosmic Law of Attraction controls all these subsidiary laws, just as the Law of Synthesis governs pralaya and obscuration, and the law of Economy deals with the general working out, along the line of least resistance, of the logoic scheme. During manifestation we have most to do with the Law of Attraction, and it will be found, on study, that each subsidiary law is but a differentiation of that law. |
Trong thời kỳ biểu hiện, Định luật Hấp Dẫn vũ trụ chi phối tất cả các định luật thứ cấp này, cũng như Định luật Tổng hợp cai quản giai kỳ qui nguyên (pralaya) và sự che khuất, và Định luật Tiết Kiệm lo việc triển khai tổng quát theo con đường ít trở ngại nhất trong đề án của Thượng đế. Trong thời kỳ biểu hiện, chúng ta có nhiều việc nhất với Định luật Hấp Dẫn, và sẽ thấy, khi khảo cứu, rằng mỗi định luật phụ chỉ là một biến phân của định luật ấy. |
|
This second law of the system governs specially the second plane, and the second subplane on each plane. It might be interesting to work this out and trace the underlying correspondence, bearing in mind always that all that can be done is to point out certain things, and indicate lines of thought that may lead, if pursued, to illumination. |
Định luật thứ hai của hệ đặc biệt chi phối cõi thứ hai, và cõi phụ thứ hai của mỗi cõi. Sẽ thú vị nếu triển khai điều này và truy tầm sự tương ứng nằm dưới, luôn nhớ rằng tất cả những gì có thể làm là chỉ ra vài điều và gợi mở những hướng tư duy có thể, nếu theo đuổi, dẫn đến soi sáng. |
|
Ray Two and Law Two are closely allied, and it is [578] interesting to realize that it is on the second subplane of the monadic plane that the majority of the Monads have their habitat; there are a few Monads of power or will on the atomic subplane, but their numbers are not many, and they simply form a nucleus in evolutionary preparation for System III, the power system. The majority of the Monads are on the second subplane and they are the Monads of love; on the third subplane can be found quite a number of the Monads of activity, but numerically not as many as the Monads of love. They are the failures of System I. |
Cung Hai và Định luật Hai gắn bó mật thiết, và thật [578] thú vị khi nhận ra rằng trên cõi phụ thứ hai của cõi chân thần có nơi cư ngụ của đa số các Chân thần; có một ít Chân thần của quyền lực hay ý chí ở cõi phụ nguyên tử, nhưng số lượng không nhiều, và họ chỉ hình thành một hạch nhân để chuẩn bị tiến hóa cho Hệ III, hệ Quyền lực. Đa số các Chân thần ở trên cõi phụ thứ hai và họ là các Chân thần của Bác ái; trên cõi phụ thứ ba có thể thấy khá nhiều các Chân thần của Hoạt động, nhưng về số lượng thì không nhiều bằng các Chân thần của Bác ái. Họ là những “kẻ thất bại” của Hệ I. |
|
There is a direct channel, as we know, between the atomic subplane on each plane. This is more or less true of each subplane and its corresponding higher subplane numerically, and there is, therefore, a direct and quite expansive channel between the second subplane on all planes, enabling the Monads of love to link up with peculiar facility with all their vehicles when composed of second subplane matter. After initiation, the causal body is found on the second subplane of the mental plane, and monadic control then commences. |
Có một kênh trực tiếp, như chúng ta biết, giữa cõi phụ nguyên tử trên mỗi cõi. Điều này đúng hơn kém đối với mỗi cõi phụ và cõi phụ cao hơn tương ứng của nó về mặt số học, và do đó, có một kênh trực tiếp và khá rộng giữa các cõi phụ thứ hai trên mọi cõi, giúp các Chân thần của Bác ái nối kết một cách đặc biệt dễ dàng với mọi hiện thể của họ khi các hiện thể ấy được cấu tạo bằng chất liệu của cõi phụ thứ hai. Sau khi điểm đạo, thể nguyên nhân được tìm thấy trên cõi phụ thứ hai của cõi trí, và khi đó sự kiểm soát của chân thần bắt đầu. |
|
The Monads of love return (after life in the three worlds and the attainment of the goal) to their originating second subplane, that being also the goal for the monads of activity who have to develop the love aspect. In the five worlds of human evolution both groups of Monads have to control atomic and molecular matter as well and this is done by the utilization to the full (as full as may be possible in this second system), of the will or power aspect. |
Các Chân thần của Bác ái quay trở về (sau đời sống trong ba cõi và đạt mục tiêu) cõi phụ thứ hai nguyên thủy của họ, đó cũng là mục tiêu cho các chân thần của Hoạt động, những vị phải phát triển phương diện Bác ái. Trong năm cõi của tiến hóa nhân loại, cả hai nhóm Chân thần đều phải kiểm soát cả chất liệu nguyên tử lẫn phân tử, và điều này được thực hiện bằng cách vận dụng trọn vẹn (trọn vẹn nhất có thể trong Hệ thứ hai này) phương diện ý chí hay quyền lực. |
|
The “Kingdom of God suffereth violence and the violent take it by force,” or by Will or power. It is not Will, as we shall know it in the final system but it is Will as known in this system, and it has to be utilized to the uttermost by the evolving Monad in his struggle to control each atomic subplane. The Monads of power have [579] a much greater struggle, and hence the fact so often apparent that people on what we term the power Ray, have so often a hard time, and are so frequently unlovable. They have to build in on all the six planes the love aspect, which is not prominent in their development. |
“Vương quốc của Thượng đế chịu sức công phá và kẻ quyết liệt chiếm hữu bằng sức mạnh,” hay bằng Ý Chí hay quyền lực. Đó không phải là Ý Chí như chúng ta sẽ biết trong Hệ cuối cùng, mà là Ý Chí như được biết trong hệ này, và nó phải được vận dụng tới mức tận cùng bởi Chân thần đang tiến hóa trong cuộc phấn đấu nhằm kiểm soát mỗi cõi phụ nguyên tử. Các Chân thần của quyền lực [579] phải trải qua một cuộc đấu tranh lớn lao hơn nhiều, và do đó, sự kiện thường thấy là những người mà chúng ta gọi là người cung quyền lực thường trải qua thời kỳ khó khăn, và thường khó mến. Họ phải xây dựng phương diện Bác ái trên cả sáu cõi, vốn không nổi bật trong tiến trình phát triển của họ. |
|
A hint has been given us as to the approximate figures governing the Monads: |
Một gợi ý đã được đưa ra cho chúng ta về các con số xấp xỉ chi phối các Chân thần: |
|
– 35 Thousand million Monads of love, |
35 tỷ Chân thần của Bác ái, |
|
– 20 Thousand million Monads of activity, |
20 tỷ Chân thần của Hoạt động, |
|
– 5 Thousand million Monads of power, |
5 tỷ Chân thần của Quyền lực, |
|
making a total of sixty thousand million human Monads. The Monads of power, though in manifestation, are as yet very rare in incarnation. They came in, in large numbers, at the close of the moon chain, and will come in again in full numerical strength in the last two rounds of the present chain. |
tổng cộng sáu mươi tỷ Chân thần nhân loại. Các Chân thần của Quyền lực, tuy đang biểu hiện, nhưng hiện còn rất hiếm khi lâm phàm. Họ đã đến, với số lượng lớn, vào cuối Dãy Mặt Trăng, và sẽ lại đến với đầy đủ sức mạnh về số lượng trong hai cuộc tuần hoàn cuối của Dãy hiện tại. |
|
We might now briefly trace the correspondence in the second round and the second root-race, showing how the Law of Cohesion was specially active at these periods. A condition of nebulosity[4] of a pronouncedly volatile condition, marked the first round and race. Movement, and the accompaniment of heat, is their distinguishing quality, much as in System I, but in the second round, and also in the second race, a definite cohesion is noticeable, and form is more clearly recognizable in outline. Cohesion is also plainly to be seen as the distinguishing feature of our present system, the second. It is the aim of all things to unite; approximation, unification, a simultaneous attraction between two or more is ever to be seen as a governing principle, whether we look at the sex problem, or whether it demonstrates in business organization, in scientific development, in manufacture, or in politics. Well might we say that the At-one-ment of the many separated is the keynote of our system. |
Giờ đây chúng ta có thể lược khảo sự tương ứng trong cuộc tuần hoàn thứ hai và giống dân gốc thứ hai, cho thấy Định luật Cố kết hoạt động đặc biệt mạnh trong những thời kỳ này. Một tình trạng tinh vân với đặc tính cực kỳ linh volatile đánh dấu cuộc tuần hoàn và giống dân đầu tiên. Chuyển động, cùng sự kèm theo của nhiệt, là phẩm tính nổi bật của chúng, giống như trong Hệ I, nhưng trong cuộc tuần hoàn thứ hai, và cũng trong giống dân thứ hai, một sự cố kết rõ rệt được nhận thấy, và hình tướng được nhận ra rõ nét hơn. Cố kết cũng hiển nhiên là đặc trưng phân biệt của hệ hiện tại của chúng ta, Hệ thứ hai. Mục tiêu của muôn vật là hợp nhất; xích lại gần, hợp nhất, một sức hút đồng thời giữa hai hay nhiều bên luôn luôn được thấy như một nguyên lý chi phối, dù nhìn vào vấn đề tính dục, hay khi nó biểu hiện trong tổ chức kinh doanh, trong phát triển khoa học, trong sản xuất, hay trong chính trị. Rất có thể chúng ta nói rằng Nhất như của muôn phần tách biệt là chủ âm của hệ chúng ta. |
|
One more suggestion may be given: On the path of [580] involution this law governs the gathering together and the segregation of matter; on the evolutionary path it controls the building of forms. It has been stated that the matter of the lowest subplane forms the basis of a new plane; therefore we have on the atomic subplane a point where merging takes place, which makes it a plane of synthesis, just as in the same way the first or logoic plane is the plane of synthesis for this system. There takes place the merging of evolution into an inconceivably higher state. |
Có thể đưa ra thêm một gợi ý: Trên con đường [580] giáng hạ tiến hoá, định luật này chi phối việc gom tụ và phân lập vật chất; trên con đường tiến hóa, nó kiểm soát công cuộc kiến tạo hình tướng. Người ta đã nói rằng chất liệu của cõi phụ thấp nhất tạo nền móng cho một cõi mới; do đó trên cõi phụ nguyên tử có một điểm nơi sự dung hợp diễn ra, khiến nó trở thành một cõi của tổng hợp, cũng như theo cách ấy cõi thứ nhất hay cõi Thượng đế là cõi tổng hợp cho hệ này. Tại đó diễn ra sự dung hợp của tiến hóa vào một trạng thái cao cả đến mức bất khả tư nghị. |
3. The Law of Disintegration —3. Định luật Phân rã
|
This is the law that governs the destruction of the form in order that the indwelling life may shine forth in fullness. It is another aspect of the Law of Cohesion—the reverse side (if one might so express it), and is just as much a part of the divine plan as that of attraction. It is one of the laws that ends with the solar system, for the great laws of attraction, cohesion and love last on into that which is to come. The Law of Disintegration has its correspondence in cosmic law, but it is almost incomprehensible to us. The Law of Economy holds the key to this law. When the Monad has circled through all disintegrating forms, and has achieved the sixth Initiation, it is resolved into its primal monadic source, and the five lesser sheaths are destroyed. Later on the Monads themselves are synthesized, not disintegrated. This law controls only from the third plane, and ceases action in this particular fashion when the third plane is transcended. |
Đây là định luật chi phối sự hủy hoại hình tướng hầu cho sự sống nội tại có thể sáng rỡ trọn vẹn. Nó là một phương diện khác của Định luật Cố kết—mặt trái (nếu có thể nói như vậy), và cũng là một phần của Thiên Cơ như Hấp Dẫn vậy. Đây là một trong những định luật chấm dứt cùng với hệ mặt trời, vì các đại định luật của hấp dẫn, cố kết và bác ái còn tiếp tục vào những gì sẽ tới. Định luật Phân rã có sự tương ứng trong luật vũ trụ, nhưng hầu như không thể hiểu nổi đối với chúng ta. Định luật Tiết Kiệm là chìa khóa cho định luật này. Khi Chân thần đã chu du qua mọi hình thể phân rã, và đạt lần điểm đạo thứ sáu, nó được hoàn nguyên về nguồn Chân thần nguyên thủy của mình, và năm vỏ bọc hạ đẳng bị hủy diệt. Về sau, bản thân các Chân thần được tổng hợp, chứ không bị phân rã. Định luật này chỉ chi phối kể từ cõi thứ ba, và chấm dứt hoạt động theo cách đặc thù này khi cõi thứ ba được vượt qua. |
|
This law is one of the most difficult for the race to understand. Some of its workings (those on the path of evolution), can be seen and somewhat comprehended, but on the path of involution, or of construction, the working out of the law is not so apparent to the superficial observer. |
Định luật này là một trong những điều khó hiểu nhất đối với nhân loại. Một vài tác động của nó (những tác động trên con đường tiến hóa) có thể thấy và phần nào được lĩnh hội, nhưng trên con đường giáng hạ tiến hoá, tức con đường kiến tạo, sự triển khai của định luật không hiển lộ như vậy với người quan sát hời hợt. |
|
On the path of involution it controls the process of the [581] breaking up of group souls; it governs the periods when the permanent triads are transferred from one form to another; it works through the great world cataclysms, and we need to remember that it governs, not only the physical plane catastrophes (as we erroneously term them), but the corresponding cataclysms on the astral plane, and the lower levels of the mental plane. It governs physical plane disruptions, especially those affecting the mineral world; it controls the disintegration, on the astral plane, of thought-forms; it dissolves the astral vehicle when left behind, and the mental likewise. The dissipation of the etheric double is the result of its working. |
Trên con đường giáng hạ tiến hoá, nó chi phối tiến trình [581] bẻ gãy các hồn nhóm; nó quản các thời kỳ khi các tam nguyên trường tồn được chuyển từ hình thể này sang hình thể khác; nó hoạt động qua các đại tai biến thế giới, và chúng ta cần nhớ rằng nó chi phối không chỉ các thảm họa cõi hồng trần (như chúng ta gọi một cách sai lạc), mà cả những tai biến tương ứng trên cõi cảm dục, và các cấp thấp của cõi trí. Nó chi phối các đổ vỡ trên cõi hồng trần, đặc biệt những gì ảnh hưởng đến giới kim thạch; nó kiểm soát sự phân rã các hình tư tưởng trên cõi cảm dục; nó làm tan rã thể cảm dục khi bị bỏ lại, và thể trí cũng vậy. Sự tiêu tán của thể dĩ thái đôi là kết quả hoạt động của nó. |
|
Again we can correlate this law with that of Attraction, for the two interact upon each other. This law breaks up the forms, and the Law of Attraction draws back to primal sources the material of those forms, prior to rebuilding them anew. |
Một lần nữa, chúng ta có thể liên hệ định luật này với định luật Hấp Dẫn, vì hai định luật tương tác lẫn nhau. Định luật này bẻ gãy các hình tướng, và Định luật Hấp Dẫn kéo chất liệu của các hình tướng ấy trở về các nguồn nguyên thủy, trước khi kiến tạo lại chúng. |
|
On the path of evolution the effects of this law are well known, not only in the destruction of the discarded vehicles touched upon above, but in the breaking up of the forms in which great ideals are embodied,—the forms of political control, the forms in which nature itself evolves, apart from those in which individual consciousness manifests, the great religious thought-forms, the philanthropic concepts and all the forms which science, art, and religion take at any one particular time. All eventually break under the working of this law. |
Trên con đường tiến hóa, các tác động của định luật này đã khá quen thuộc, không chỉ trong việc hủy bỏ các hiện thể bị vất bỏ như đã đề cập, mà còn trong việc bẻ gãy các hình tướng trong đó các lý tưởng vĩ đại được thể hiện,—các mô thức kiểm soát chính trị, các hình tướng mà tự nhiên tự biểu hiện (tách biệt với các hình tướng trong đó tâm thức cá nhân biểu hiện), các hình tư tưởng tôn giáo lớn lao, các khái niệm từ thiện và mọi hình tướng mà khoa học, nghệ thuật và tôn giáo khoác lấy vào bất kỳ thời điểm nào. Tất cả sau cùng đều vỡ tan dưới tác động của định luật này. |
|
Its workings are more apparent to the average human mind in its manifestations at this time on the physical plane. We can trace the connection between the atmic and the physical plane (demonstrating on the lower plane as the law of sacrifice and death), but its effect can be seen on all the five planes as well. It is the law that destroys the final sheath that separates the perfected Jiva. It has not yet been fully brought out [582] (for the law of correspondences has been little studied, nor is it readily apparent) that on the third subplane of each plane this law works in a special manner, causing a very definite breaking-up of something that is tending to separation. Like all that works in the system, the process is slow; the work of disintegration begins on the third subplane, and is finished on the second, when the Law of Disintegration comes under the influence of the Law of Cohesion, the disintegration having effected that which makes cohesion possible. We can see an illustration of this on the mental plane. The causal body of the average man is on the third subplane, and as a man becomes fit for the merging into the Triad, that causal body has to be discarded and done away with. Under the Law of Sacrifice and Death, the disintegration is begun on the third level and is consummated on the second, when the man merges with the Triad, preparatory to the final merging with the Monad. |
Hoạt động của nó đương thời hiển lộ rõ ràng với trí trung bình của con người trong các biểu hiện của nó trên cõi hồng trần. Chúng ta có thể truy tầm mối liên hệ giữa cõi atma và cõi hồng trần (biểu lộ trên cõi thấp dưới dạng định luật hy sinh và chết), nhưng tác động của nó cũng thấy được trên cả năm cõi. Đây là định luật hủy diệt lớp vỏ bọc cuối cùng ngăn cách Jiva đã hoàn thiện. Người ta vẫn chưa trình bày trọn vẹn [582] (vì định luật tương ứng ít được nghiên cứu, và nó cũng không dễ thấy) rằng trên cõi phụ thứ ba của mỗi cõi, định luật này hoạt động theo một cách đặc biệt, gây nên sự bẻ gãy rất rõ rệt của một cái gì đó đang xu hướng phân ly. Như mọi hoạt động trong hệ thống, tiến trình này diễn ra chậm rãi; công cuộc phân rã khởi đầu trên cõi phụ thứ ba, và hoàn tất trên cõi phụ thứ hai, khi Định luật Phân rã đi vào dưới ảnh hưởng của Định luật Cố kết, vì sự phân rã đã tạo ra điều kiện khiến cố kết khả hữu. Chúng ta có thể thấy một minh hoạ trên cõi trí. Thể nguyên nhân của người trung bình nằm trên cõi phụ thứ ba, và khi con người trở nên xứng đáng để dung hợp với Tam Nguyên Tinh Thần, thể nguyên nhân ấy phải bị loại bỏ và tiêu huỷ. Dưới Định luật Hy sinh và Cái chết, sự phân rã khởi đầu trên cấp ba và viên mãn trên cấp hai, khi con người dung hợp với Tam nguyên, để chuẩn bị cho sự dung hợp tối hậu với Chân thần. |
|
Another illustration of the same thing can be found on the physical plane. When a man has reached the point where he can sense and see the fourth ether, he is ready for the burning away of the etheric web, which has its location midway between the third and second subplane matter which composes his physical body. When this disintegration is effected, the man merges with his astral vehicle, establishing a consequent continuity of consciousness. This correspondence, and this disintegration, can be traced on each plane, till finally on the atmic level on its third subplane comes the final disintegration, which results in a merging with the monadic consciousness. |
Một minh hoạ khác về cùng điều ấy có thể thấy trên cõi hồng trần. Khi con người đã đến điểm có thể cảm nhận và thấy được dĩ thái bậc bốn, y sẵn sàng cho việc thiêu đốt màng dĩ thái, vốn nằm ở vị trí giữa chất liệu cõi phụ thứ ba và thứ hai cấu thành thể hồng trần của y. Khi sự phân rã này được thực hiện, con người dung hợp với thể cảm dục của mình, thiết lập do đó sự liên tục tâm thức. Sự tương ứng này, và sự phân rã này, có thể được truy tầm trên mỗi cõi, cho đến cuối cùng trên cõi atma ở cõi phụ thứ ba diễn ra sự phân rã tối hậu, đưa đến sự dung hợp với tâm thức chân thần. |
|
The third Ray, that of adaptability or activity, has a close connection with this law. It is through activity (or the adaptation of matter to need), that the form comes into being; through activity it is employed, and through that very adaptation it becomes a perfect form, [583] and at the moment of perfection loses its usefulness; it crystallizes, breaks, and the evolving life escapes to find for itself new forms of greater capacity and adequacy. It is so in the life of the reincarnating Ego; it is so in the rounds and races of humanity; it is so in the solar system; it is so in all cosmic processes. |
Cung thứ ba, tức cung của khả năng thích ứng hay hoạt động, có một liên hệ gần gũi với định luật này. Chính nhờ hoạt động (hay sự thích ứng của chất liệu với nhu cầu) mà hình tướng xuất hiện; nhờ hoạt động mà nó được sử dụng, và nhờ chính sự thích ứng ấy mà nó trở thành một hình tướng hoàn thiện, [583] và vào thời điểm hoàn hảo, nó mất đi sự hữu dụng; nó kết tinh, bể vỡ, và sự sống đang tiến hóa thoát ra để tìm cho mình những hình tướng mới có năng lực và khả năng đầy đủ hơn. Điều này đúng trong đời sống của Chân ngã tái sinh; đúng trong các cuộc tuần hoàn và giống dân của nhân loại; đúng trong hệ mặt trời; và đúng trong mọi tiến trình vũ trụ. |
|
In the third chain, the moon chain, we have an interesting related fact. On the moon chain the point of attainment for the individual was the arhat or fourth Initiation,—the initiation which marks the final breaking with the three worlds, and the disintegration of the egoic body. |
Trong Dãy thứ ba, tức Dãy Mặt Trăng, chúng ta có một sự kiện liên hệ thú vị. Trên Dãy Mặt Trăng, điểm thành tựu đối với cá nhân là arhat hay lần điểm đạo thứ tư,—lần điểm đạo đánh dấu sự đoạn tuyệt tối hậu với ba cõi, và sự phân rã của thể nguyên nhân. |
|
At the end of the third root-race came the first of the great cataclysms that broke the race form, and inaugurated a new one, for it was the first definitely human race as we now know it. The analogy will be found to hold good no matter from what angle the subject may be studied. In the third subrace a correspondence can be traced, though it is not yet apparent to the circumscribed vision which characterizes most of us. Close proximity to an effect often veils a cause. |
Vào cuối giống dân gốc thứ ba đã xảy ra tai biến lớn đầu tiên đánh vỡ hình tướng của giống dân, và khai mở một hình tướng mới, vì đó là giống dân đầu tiên đích thực nhân loại như chúng ta biết ngày nay. Phép loại suy sẽ được thấy là đúng dù khảo sát đề tài từ góc độ nào. Trong giống dân phụ thứ ba có thể truy tầm sự tương ứng, dù hiện giờ nó chưa hiển lộ đối với cái nhìn hạn hẹp vốn đặc trưng cho hầu hết chúng ta. Sự gần cận với một hiệu quả thường che mờ nguyên nhân. |
4. The Law of Magnetic Control 82 —4. Định luật Kiểm soát Từ tính 82
|
82 Note the correspondence that can be traced here. On the second plane we have the Law of Cohesion—love. On the second plane of the manifesting Triad, the Law of Magnetic Control—love. Again lower down on the second plane of the Personality, the Law of Love. The accuracy of the analogy is quite interesting, and provides room for speculation. |
82 Lưu ý sự tương ứng có thể truy tầm tại đây. Trên cõi thứ hai chúng ta có Định luật Cố kết—bác ái. Trên cõi thứ hai của Tam Nguyên biểu hiện, có Định luật Kiểm soát Từ tính—bác ái. Lại nữa, ở thấp hơn, trên cõi thứ hai của phàm ngã, có Định luật Bác ái. Độ chính xác của phép loại suy thật thú vị, và mở ra dư địa cho suy tư. |
|
This law is the basic law controlling the Spiritual Triad. Through this law, the force of evolution drives the Ego to progress through the cycle of reincarnation back to union with his kind. Through separation he finds himself, and then—driven by the indwelling buddhic or Christ principle—transcends himself, and finds himself again in all selves. This law holds the evolving lower self in a coherent form. It controls the Ego in the causal body, in the same way that the Logos controls the Monad on the second plane. It is the law of the buddhic plane; the [584] Master is one Who can function on the buddhic levels, and Who has magnetic control in the three worlds. The lower is always controlled from above, and the effect the buddhic levels have on the three lower is paramount, though that is scarcely yet conceded by our thinkers. It is the Law of Love, in the three worlds, that holds all together, and that draws all upward. It is the demonstration, in the Triad, of the Law of Attraction. |
Định luật này là định luật căn cơ chi phối Tam Nguyên Tinh Thần. Thông qua định luật này, mãnh lực của tiến hóa thúc đẩy Chân ngã tiến bộ, qua chu kỳ luân hồi, trở về hợp nhất với đồng loại. Qua phân ly, y tìm thấy chính mình, rồi—được nguyên khí Bồ đề hay nguyên khí Christ nội tại thôi thúc—y vượt lên khỏi chính mình, và lại tìm thấy mình trong mọi bản ngã. Định luật này giữ phàm ngã đang tiến hóa trong một hình thể kết cấu mạch lạc. Nó kiểm soát Chân ngã trong thể nguyên nhân, theo lối mà Thượng đế kiểm soát Chân thần trên cõi thứ hai. Đây là định luật của cõi Bồ đề; [584] Chân sư là vị có thể hành hoạt trên các cấp độ Bồ đề, và có kiểm soát từ tính trong ba cõi. Cái thấp luôn được kiểm soát từ cái cao, và ảnh hưởng mà các cấp độ Bồ đề có đối với ba cõi thấp là tối thượng, dù điều đó hiện vẫn ít được các nhà tư tưởng của chúng ta thừa nhận. Đó là Định luật Bác ái, trong ba cõi, vốn liên kết tất cả lại với nhau, và hấp dẫn tất cả đi lên. Đó là sự biểu lộ, trong Tam Nguyên, của Định luật Hấp Dẫn. |
|
On the path of involution this law works with the permanent atoms in the causal body. It is the buddhic principle, and its relation with the lower permanent atom of the Triad is the mainspring of the life of the Ego. On the path of descent it has much to do with the placing of the permanent atoms, but this matter is very abstruse, and the time has not yet come for further elucidation. At the third outpouring, (in which the fourth kingdom, the human, was formed), it was this Law of Magnetic Control that effected the juncture of astro-animal man, and the descending Monad, using the spark of mind as the method of at-one-ment. Again we can see how it works. The monadic plane, the buddhic plane, and the astral plane are all three closely allied, and we find there the line of least resistance. Hence the facility with which the mystic contacts the buddhic and even higher planes. The lines of least resistance in the three systems are: |
Trên con đường giáng hạ tiến hoá, định luật này làm việc với các nguyên tử trường tồn trong thể nguyên nhân. Nó là nguyên khí Bồ đề, và mối liên hệ của nó với nguyên tử trường tồn thấp của Tam Nguyên là động lực chính của đời sống Chân ngã. Trên con đường giáng hạ, nó có liên hệ lớn với việc an trí các nguyên tử trường tồn, nhưng vấn đề này rất uyên áo, và thời điểm chưa đến để minh giải thêm. Ở lần tuôn đổ thứ ba (trong đó giới thứ tư, tức nhân loại, được hình thành), chính Định luật Kiểm soát Từ tính đã thực hiện sự tiếp hợp giữa “người thú cảm dục” và Chân thần giáng hạ, dùng tia lửa trí như phương tiện sát nhất. Một lần nữa, chúng ta có thể thấy cách nó vận hành. Cõi chân thần, cõi Bồ đề, và cõi cảm dục đều liên hệ rất mật thiết với nhau, và ở đó chúng ta tìm thấy con đường ít trở ngại nhất. Bởi vậy, các nhà thần bí dễ dàng tiếp xúc với cõi Bồ đề, thậm chí cả những cõi cao hơn. Những con đường ít trở ngại nhất trong ba Hệ là: |
|
– System I. Physical, mental, and atmic. |
Hệ I. Hồng trần, trí, và atma. |
|
The atmic was the highest point of achievement in that system. |
Cõi atma là điểm thành tựu cao nhất trong Hệ ấy. |
|
– System II. Astral, buddhic and monadic. |
Hệ II. Cảm dục, Bồ đề và chân thần. |
|
– System III. Mental, atmic and logoic. |
Hệ III. Trí, atma và Thượng đế. |
|
Note the correspondence therefore to be seen between the fourth kingdom and the working of this, the fourth law. It is of vital moment in this fourth chain. |
Hãy lưu ý sự tương ứng được thấy giữa giới thứ tư và sự vận hành của định luật thứ tư này. Nó có tầm quan trọng sống còn trong Dãy thứ tư này. |
|
As regards human evolution, this fourth law is of prime importance at this time. The aim of human [585] endeavor is both to be controlled by this law, and likewise to wield it in service. It is the law whereby sex expression, as we know it, is transmuted and elevated; sex is only the physical plane demonstration of the Law of Attraction; it is the working out of that law in the human kingdom, and in all the lower kingdoms, too. The love of all that breathes, and the attraction that works out in service, is the same thing as demonstrated in the Triad. Sex expression, the coming together of two, becomes transmuted into the coming together of many for acts of service, which will give birth to new ideals, and to a new race—the spiritual. |
Xét về tiến hóa nhân loại, định luật thứ tư này đang có tầm quan trọng bậc nhất vào thời điểm hiện nay. Mục tiêu [585] phấn đấu của con người là vừa chịu sự kiểm soát của định luật này, vừa vận dụng nó để phụng sự. Đây là định luật nhờ đó sự biểu hiện tính dục, như chúng ta biết, được chuyển hoá và nâng thăng; tính dục chỉ là sự biểu lộ trên cõi hồng trần của Định luật Hấp Dẫn; đó là sự triển khai của định luật ấy trong giới nhân loại, và cả trong mọi giới thấp hơn. Tình thương đối với tất cả những gì thở, và sức hút được biểu hiện trong phụng sự, chính là điều tương tự như đã biểu lộ trong Tam Nguyên. Biểu hiện tính dục—sự chung đôi của hai—được chuyển hoá thành sự hội tụ của nhiều người vì các hành vi phụng sự, qua đó khai sinh những lý tưởng mới, và một giống dân mới—giống dân tinh thần. |
|
Here I might point out a numerical fact that may be of interest in connection with the fourth hierarchy. This human hierarchy is the fourth, as we know, yet if we count the five hierarchies that have passed on, it is in reality the ninth. Nine is the number of initiation, the number of the adept, and of the man who functions in his buddhic vehicle. |
Ở đây tôi có thể chỉ ra một sự kiện số học có lẽ sẽ gây hứng thú liên quan đến Huyền giai thứ tư. Huyền giai nhân loại là thứ tư, như chúng ta biết, nhưng nếu tính cả năm huyền giai đã đi qua, thì thực ra nó là thứ chín. Chín là con số của điểm đạo, con số của chân sư, và của người hành hoạt trong thể Bồ đề của mình. |
|
The fourth Ray also operates in close connection with the fourth Law. It is the Ray of Harmony or Beauty—Harmony through control, that control entailing the knowledge of wisdom. It is the harmony of similarity; it is the equilibrizing of all through the realization of the laws of magnetism that produce the coordination of the many diverse into the one homogeneous; magnetism governs the synthesis of the many aspects into a form of unity. This harmony is reached through the fifth plane, and the fifth Ray of Concrete Knowledge acts as a step to the fourth, for many who work on the fifth Ray pass eventually to the fourth. In this system the fifth Ray is of paramount importance in the development of all egos. Each must pass some time on it before definitely remaining on his monadic Ray. In many incarnations much time is spent on the fifth subplane of each plane, which is governed principally by the fifth Ray. All pass [586] then on the fourth subplane governed by the fourth Ray, and in this particular period of the fourth round in the fourth chain, more time is spent on the fourth subplane by evolving Egos than on any other. Many come into incarnation directly on to this plane, and it is here that they begin to think harmoniously. |
Cung thứ tư cũng vận hành trong mối liên hệ mật thiết với Định luật thứ tư. Đó là Cung của Hài hòa hay Mỹ lệ—Hài hòa qua kiểm soát, và sự kiểm soát ấy bao hàm tri thức minh triết. Đó là sự hài hòa của tương đồng; đó là sự quân bình hóa tất cả qua nhận thức những định luật của từ tính sản sinh sự phối hợp của muôn dị biệt vào thành nhất thể đồng chất; từ tính chi phối sự tổng hợp của muôn phương diện vào một hình thức hợp nhất. Sự hài hòa này đạt được qua cõi thứ năm, và Cung thứ năm của Tri thức Cụ thể đóng vai trò nấc thang dẫn đến Cung thứ tư, vì nhiều người làm việc trên Cung thứ năm cuối cùng chuyển sang Cung thứ tư. Trong hệ này, Cung thứ năm có tầm quan trọng tối thượng trong sự phát triển của mọi Chân ngã. Mỗi người đều phải trải qua một thời kỳ trên đó trước khi quyết định an trụ trên Cung chân thần của mình. Trong nhiều kiếp, nhiều thời gian được dành trên cõi phụ thứ năm của mỗi cõi, vốn chủ yếu do Cung thứ năm chi phối. Tất cả rồi [586] cũng chuyển qua cõi phụ thứ tư do Cung thứ tư chi phối, và trong thời kỳ đặc thù này của cuộc tuần hoàn thứ tư trong Dãy thứ tư, các Chân ngã đang tiến hóa trải nhiều thời giờ trên cõi phụ thứ tư hơn bất kỳ cõi phụ nào khác. Nhiều người đi vào lâm phàm trực tiếp trên cõi này, và chính ở đây họ bắt đầu tư duy một cách hài hòa. |
[Commentary S6S3]
The Laws in the Three Worlds —Các Định luật trong Ba Cõi
|
We will now take up and briefly study the three most important laws affecting the evolving human being, as he lives his life in the three worlds. These laws are: |
Giờ đây chúng ta sẽ đề cập và lược khảo ba định luật quan trọng nhất ảnh hưởng đến con người đang tiến hóa, khi y sống đời sống của mình trong ba cõi. Các định luật ấy là: |
|
1. The Law of Fixation. |
Định luật Cố định. |
|
2. The Law of Love. |
Định luật Bác ái. |
|
3. The Law of Sacrifice and Death. |
Định luật Hy sinh và Cái chết. |
|
These laws are all dominated and controlled eventually by the three higher laws in the system—the Laws of Magnetic Control, of Disintegration, and of Cohesion. There is a direct connection between these seven laws and the seven Rays or Vibrations, and if we study the correspondence we shall recognize the fact that the first law, that of Vibration, is the controlling law of the six, demonstrating through the second law, that of Cohesion, just as the solar Logos is at this time manifesting Himself through His second aspect in this the second solar system. |
Những định luật này rồi sẽ bị chi phối và kiểm soát bởi ba định luật cao hơn trong hệ—Định luật Kiểm soát Từ tính, Định luật Phân rã, và Định luật Cố kết. Có một mối liên hệ trực tiếp giữa bảy định luật này và bảy Cung hay Rung động, và nếu chúng ta khảo sát sự tương ứng, chúng ta sẽ nhận ra rằng định luật thứ nhất, tức Định luật Rung động, là định luật chi phối sáu định luật kia, biểu lộ qua định luật thứ hai, tức Định luật Cố kết, cũng như Thái dương Thượng đế hiện đang tự biểu lộ qua Phương diện thứ hai của Ngài trong Hệ mặt trời thứ hai này. |
|
The first Ray of Will or Power is the first aspect of the All-self, and in the third outpouring, 83 came [587] down to the fifth plane, along with the other monads. A subtle correspondence exists between the monads of Will on the fifth plane, the fifth law, and the fifth Ray. |
Cung thứ nhất của Ý Chí hay Quyền lực là phương diện thứ nhất của Toàn-Ngã, và trong lần tuôn đổ thứ ba, 83 đã [587] giáng xuống cõi thứ năm, cùng với các chân thần khác. Có một sự tương ứng vi tế giữa các chân thần của Quyền lực trên cõi thứ năm, định luật thứ năm, và Cung thứ năm. |
|
83 The Three Outpourings. “In the diagram the symbols of the three Aspects (of the Logos) are placed outside of time and space, and only the streams of influence from them descend into our system of planes… They represent in due order what are commonly called the three Persons of the Trinity… It will be seen that from each of them an outpouring of life or force is projected into the planes below. The first of these in order is the straight line which descends from the third Aspect; the second is that part of the large oval which lies on our left hand—the stream which descends from the second Aspect until it has touched the lowest point in matter, and then rises again up the side on our right hand until it reaches the lower mental level. It will be noted that in both of these outpourings the divine life becomes darker and more veiled as it descends into matter, until at the lowest point we might almost fail to recognize it as divine life at all; but as it rises again when it has passed its nadir it shows itself somewhat more clearly. The third outpouring which descends from the highest aspect of the Logos differs from the others in that it is in no way clouded by the matter through which it passes, but retains its virgin purity and splendor untarnished. It will be noted that this outpouring descends only to the level of the buddhic plane (the fourth plane) and that the link between the two is formed by a triangle in a circle, representing the individual soul of man—the reincarnating ego. Here the triangle is contributed by the third outpouring and the circle by the second…” |
83 Ba lần Tuôn đổ. “Trong đồ hình, các biểu tượng của ba Phương diện (của Thượng đế) được đặt bên ngoài thời gian và không gian, và chỉ những dòng ảnh hưởng từ chúng đổ xuống hệ thống các cõi của chúng ta… Chúng lần lượt biểu thị điều thường được gọi là ba Ngôi Vị của Ba Ngôi… Sẽ thấy rằng từ mỗi Ngôi có một dòng tuôn đổ của sự sống hay lực được phóng vào các cõi bên dưới. Dòng đầu tiên theo thứ tự là đường thẳng đi xuống từ Phương diện thứ ba; dòng thứ hai là phần của hình bầu dục lớn nằm bên tay trái chúng ta—dòng tuôn đổ xuất phát từ Phương diện thứ hai cho đến khi chạm điểm thấp nhất trong vật chất, rồi lại trỗi lên bên phía tay phải của chúng ta cho đến khi đạt đến cấp độ hạ trí. Sẽ lưu ý rằng trong cả hai dòng tuôn đổ này, sự sống thiêng liêng trở nên tối tăm và bị che màn hơn khi nó hạ xuống vật chất, cho đến tại điểm thấp nhất chúng ta gần như khó nhận ra đó là sự sống thiêng liêng nữa; nhưng khi nó lại trỗi lên sau khi vượt qua điểm đáy, nó tự hiển lộ rõ hơn phần nào. Lần tuôn đổ thứ ba, vốn giáng xuống từ phương diện cao nhất của Thượng đế, khác với hai dòng kia ở chỗ nó không hề bị vẩn đục bởi chất liệu mà nó đi qua, mà giữ nguyên sự tinh nguyên trinh bạch và huy hoàng không hoen ố. Sẽ lưu ý rằng lần tuôn đổ này chỉ giáng đến cấp độ của cõi Bồ đề (cõi thứ tư) và rằng mối nối giữa hai dòng được tạo thành bởi một tam giác trong một vòng tròn, biểu trưng cho linh hồn cá nhân của con người—chân ngã tái sinh. Ở đây tam giác do lần tuôn đổ thứ ba mang lại và vòng tròn do lần thứ hai…” |
|
– The Christian Creed, by C. W. Leadbeater, pp. 39, 40. |
– Kinh Tin Kính Kitô giáo, của C. W. Leadbeater, tr. 39, 40. |
|
The second Ray or the Love-Wisdom aspect wields a control on the fourth and sixth planes, and dominates the Laws of Cohesion and Magnetic Control, and the astral Law of Love. There is a direct interlinking between the abstract Rays and the laws of the planes where they specially control. |
Cung thứ hai hay phương diện Bác Ái – Minh Triết nắm quyền chi phối trên các cõi thứ tư và thứ sáu, và thống trị các Định luật Cố kết và Kiểm soát Từ tính, cùng Định luật Bác ái của cõi cảm dục. Có một sự liên hệ trực tiếp giữa các Cung trừu tượng và các định luật của những cõi nơi chúng chi phối đặc biệt. |
|
The third Ray which is the Activity aspect, controls the Laws of Disintegration and of Death, on the third and seventh planes. |
Cung thứ ba, vốn là phương diện Hoạt động, kiểm soát các Định luật Phân rã và Cái chết trên các cõi thứ ba và thứ bảy. |
|
Therefore, it will be apparent to the careful student of the wisdom that: |
Vì vậy, điều này sẽ hiển nhiên với đạo sinh thận trọng của Minh Triết rằng: |
|
1. The Power-Aspect—Ray 1, Planes 1 and 5, and the Laws of Fixation and Vibration, form one interlocking whole. |
Phương diện Quyền lực —Cung 1, các Cõi 1 và 5, và các Định luật Cố định và Rung động, hợp thành một chỉnh thể tương liên. |
|
2. The Love Aspect—Ray 2, Planes 2, 4, 6, and the Laws of Cohesion, Magnetic Control, and of Love, form another unit. |
Phương diện Bác ái —Cung 2, các Cõi 2, 4, 6, và các Định luật Cố kết, Kiểm soát Từ tính, và Bác ái, hợp thành một đơn vị khác. |
|
3. The Activity Aspect—Ray 3, Planes 3 and 7, and the Laws of Disintegration, Sacrifice and Death, make still another group. |
Phương diện Hoạt động —Cung 3, các Cõi 3 và 7, và các Định luật Phân rã, Hy sinh và Cái chết, tạo thành một nhóm nữa. |
|
It is logical for the first Ray only to have control, as yet, on two planes, for the Power Aspect waits for another system in order to demonstrate in full development. Ray two, the synthetic Ray for our system, [588] controls on three planes; it has the preponderance, for paramountly we are the Monads of Love, and Love is our synthesis. Ray three, the dominant Ray of the system which is past, its synthetic Ray, controls on two planes, and on one that is little understood, for, just as the physical body is not considered a principle, so there is a sphere of activity that is not included in our enumeration, it is past and gone. Some explanation of this lies hid in the occult words, “The Eighth Sphere.” |
Hợp lý là Cung thứ nhất, cho đến nay, chỉ chi phối trên hai cõi, vì Phương diện Quyền lực chờ một hệ khác để có thể biểu lộ trong sự phát triển viên mãn. Cung Hai, Cung tổng hợp cho hệ của chúng ta, [588] chi phối trên ba cõi; nó có ưu thế, vì chúng ta chủ yếu là các Chân thần của Bác ái, và Bác ái là tổng hợp của chúng ta. Cung Ba, Cung thống lĩnh của hệ đã qua, Cung tổng hợp của Hệ ấy, chi phối trên hai cõi, và trên một cõi ít được hiểu biết, vì, cũng như thể xác không được xem là một nguyên khí, nên có một lĩnh vực hoạt động không được đưa vào phép liệt kê của chúng ta—nó đã qua và không còn nữa. Một phần giải thích điều này ẩn trong những lời huyền bí: “Hình Cầu Thứ Tám.” |
|
In regard to the four minor Rays of Harmony, Concrete Science, Devotion and Ceremonial Order, their control exists in degrees on all the planes, but they have their particular emphasis in the evolution of the reincarnating ego in the three worlds at this time. These four Rays control, in a subtle and peculiar manner, the four kingdoms of nature—mineral, vegetable, animal and human—and at their merging into the three Rays of Aspect (the Activity Ray of the Mahachohan being the synthesizer of the lower four in our planetary scheme) have a correspondence with the merging of man (the product of the three kingdoms and the fourth) into the superman kingdom, the spiritual. The fourth Ray and the fourth Kingdom form a point of harmony for the lower three, and all four then pass into the major or upper three. This is worthy of our serious thought, and the analogy of the fourth plane will also be apparent. For this system, the buddhic plane, the human kingdom, and the fourth Ray of Harmony or Beauty or Synthesis, have a point of correspondence, just as the fourth root-race is the one in which the synthesis is first observed—the door into the fifth kingdom of Spirit being then opened; the fourth root-race also developed the astral capacity that made contact with the fourth or buddhic level possible. |
Về bốn Cung phụ của Hài hòa, Khoa học Cụ thể, Sùng tín và Lễ nghi Trật tự, quyền chi phối của chúng tồn tại ở mức độ khác nhau trên tất cả các cõi, nhưng chúng có sự nhấn mạnh đặc thù trong tiến hóa của Chân ngã tái sinh trong ba cõi ở thời điểm hiện tại. Bốn Cung này chi phối, theo một cách vi tế và đặc thù, bốn giới tự nhiên—kim thạch, thực vật, động vật và nhân loại—và khi chúng hợp nhất vào ba Cung Phương diện (Cung Hoạt động của Đại Hộ pháp, Mahachohan, là cung tổng hợp của bốn cung thấp trong hệ hành tinh của chúng ta) thì chúng có một sự tương ứng với việc con người (kết quả của ba giới và là giới thứ tư) hợp nhất vào giới siêu nhân, giới tinh thần. Cung thứ tư và Giới thứ tư tạo một điểm hài hòa cho ba giới thấp, và cả bốn rồi sẽ vượt vào ba giới chính hay ba giới thượng. Điều này đáng để chúng ta suy tư nghiêm túc, và phép loại suy của cõi thứ tư cũng sẽ hiển nhiên. Đối với hệ này, cõi Bồ đề, giới nhân loại, và Cung thứ tư của Hài hòa hay Mỹ lệ hay Tổng hợp, có một điểm tương ứng, cũng như giống dân gốc thứ tư là giống dân đầu tiên mà sự tổng hợp được nhận thấy—cánh cửa vào giới thứ năm của Tinh Thần khi ấy được mở ra; giống dân gốc thứ tư cũng đã phát triển năng lực cảm dục khiến việc tiếp xúc với cấp thứ tư hay cấp Bồ đề khả hữu. |
|
In a subtle way too (I use the word subtle for lack of a better, meaning a statement of actuality that seems an [589] illusion), the three minor Rays, Concrete Science, Devotion and Ceremonial Law, have each a connection with the three kingdoms of nature below the human, and with the three laws of the three lower worlds. |
Theo một cách vi tế nữa (tôi dùng chữ “vi tế” vì thiếu từ ngữ tốt hơn, với ý chỉ một sự thực mà dường như là [589] ảo tướng), ba Cung phụ—Khoa học Cụ thể, Sùng tín và Luật Lễ nghi—mỗi cung đều có liên hệ với ba giới tự nhiên bên dưới nhân loại, và với ba định luật của ba cõi thấp. |
|
The Ray of Ceremonial Order has special significance at this time; it controls life in the mineral world, and in the final stages of involutionary life at the point where the upward turn of evolution is made. Through Ceremonial Order comes the control of the lesser builders, the elemental forces, the point of synthesis in the lowest plane of all, the period of transition. In all such periods the seventh Ray comes in (as now) the Ray of Law and Order, of accurate arrangement and formation. It is the reflection on the physical plane of the Power and Activity Aspects working in synthesis. Rays 1, 3, 7, have an interplay, as we know. Ray seven is the appearance in combination of the forces of evolution. It is the manifestation of Power and Activity on the lowest plane of all. It is allied to the laws of the third and seventh planes, Disintegration and Death, for all periods of transition are periods of the destruction and building of forms, and the shattering of the old in order that newer and better chalices of life may be constructed. |
Cung Nghi lễ Trật tự có ý nghĩa đặc biệt trong thời kỳ này; nó cai quản sự sống trong giới kim thạch, và trong các giai đoạn cuối của sự sống giáng hạ tiến hoá tại điểm nơi diễn ra bước ngoặt đi lên của tiến hoá. Thông qua Nghi lễ Trật tự mà có sự kiểm soát các nhà kiến tạo nhỏ, các lực hành khí, điểm hợp nhất trên cõi thấp nhất của tất cả, thời kỳ chuyển tiếp. Trong mọi thời kỳ như thế, Cung bảy đi vào (như hiện nay) như Cung của Định luật và Trật tự, của sự sắp đặt và hình thành chuẩn xác. Nó là sự phản chiếu trên cõi hồng trần của các Phương diện Quyền Lực và Hoạt Động đang làm việc trong thế dung hợp. Các Cung 1, 3, 7 có một sự tương tác, như chúng ta biết. Cung bảy là sự xuất hiện trong phối kết của các mãnh lực của tiến hoá. Đó là sự biểu lộ của Quyền Lực và Hoạt Động trên cõi thấp nhất của tất cả. Nó liên kết với các định luật của cõi thứ ba và thứ bảy, Phân rã và Cái chết, vì mọi thời kỳ chuyển tiếp đều là những thời kỳ phá hủy và xây dựng các hình tướng, và đập vỡ những cái cũ để những chén thánh của sự sống mới hơn và tốt hơn có thể được kiến tạo. |
|
The Ray of Devotion has a definite though little known connection with the vegetable kingdom. We must remember that it is linked to a subsidiary law of the cosmic Law of Attraction. It is in the vegetable kingdom that we find one of the first and temporary approximations between the evolving human Monad, and the evolving deva Monad. The two parallel evolutions touch in that kingdom, and then again follow their own paths, finding their next point of contact on the fourth or buddhic level, and a final merging on the second. |
Cung Sùng tín có một mối liên hệ rõ rệt, dù ít được biết, với giới thực vật. Chúng ta phải nhớ rằng nó được liên kết với một định luật phụ của Định luật Hấp dẫn vũ trụ. Chính trong giới thực vật mà chúng ta tìm thấy một trong những sự tiệm cận đầu tiên và tạm thời giữa Chân thần nhân loại đang tiến hoá và Chân thần thiên thần đang tiến hoá. Hai tiến hoá song song chạm nhau trong giới ấy, rồi lại theo con đường riêng, tìm điểm tiếp xúc kế tiếp của mình trên cõi thứ tư hay cõi Bồ đề, và sự dung hợp sau cùng trên cõi thứ hai. |
|
The concrete Rays have an especial effect on the negative evolution of the devas, who form the feminine aspect of the divine hermaphroditic Man, working along [590] the lines of more positive development. The abstract Rays do a similar work on the positive human hierarchy, tending towards a more receptive attitude. This hierarchy forms the masculine aspect of the divine Hermaphrodite. But at three points on the path of evolution the Monads of Love, working on the abstract qualities, touch the devas of activity working on concrete faculty. The perfection of the two evolutions marks the point of attainment of the divine Heavenly Man; it is the perfecting of the two major centers, creative activity and love, of the Logos. In their lower aspect these centers are known as the centers of generation and the solar plexus, but are transmuted, as evolution proceeds, into the throat and heart centers. Then, in a dual synthesis, they will pass on into the third system, that in which the Power aspect is developed, and the head centers will be complete. This achieved, our Logos has triumphed, and measured up to the sixth cosmic Initiation, just as He should measure up in this system to the fourth. |
Các Cung cụ thể có một tác động đặc biệt lên sự tiến hoá âm của các thiên thần, những vị vốn tạo thành phương diện nữ tính của Con Người lưỡng tính thiêng liêng, đang làm việc theo [590] những đường hướng phát triển dương tính hơn. Các Cung trừu tượng làm một công việc tương tự trên thứ bậc nhân loại dương, hướng về một thái độ tiếp nhận hơn. Thứ bậc này tạo thành phương diện nam tính của Đấng Lưỡng tính thiêng liêng. Nhưng tại ba điểm trên con đường tiến hoá, các Chân thần của Tình thương, làm việc trên các phẩm tính trừu tượng, chạm đến các thiên thần của hoạt động làm việc trên năng lực cụ thể. Sự hoàn thiện của hai tiến hoá đánh dấu điểm thành tựu của Đấng Thiên Nhân thiêng liêng; đó là sự hoàn thiện của hai trung tâm chủ yếu, hoạt động sáng tạo và tình thương, của Thượng đế. Trong phương diện thấp, các trung tâm này được biết như các trung tâm sinh sản và tùng thái dương, nhưng khi tiến hoá diễn tiến, chúng được chuyển hoá thành luân xa cổ họng và luân xa tim. Rồi, trong một dung hợp đôi, chúng sẽ chuyển sang hệ thống thứ ba, nơi Phương diện Quyền Lực được phát triển, và các luân xa đầu sẽ được hoàn tất. Khi đạt được điều này, Thượng đế của chúng ta đã khải thắng, và vươn tới lần Điểm đạo vũ trụ thứ sáu, cũng như Ngài phải vươn tới lần thứ tư trong hệ thống này. |
|
The Ray of Concrete Science has a peculiar relationship to the animal kingdom, in that it is the Ray that governs the merging of that kingdom into the human. The planet, Venus, in her fifth round, gave the impetus which produced the spark of mind in animal man—a fact well known. It is also the fifth Ray, and has an interesting connection with the fifth Law of Fixation. We might study, too, with profit, the analogy that can be seen between these factors and the fifth root-race, the race of peculiarly strong development of the concrete mind. The Law of Analogy always holds good. |
Cung Khoa học Cụ thể có một mối liên hệ kỳ biệt với giới động vật, vì đó là Cung cai quản việc giới ấy nhập vào nhân loại. Hành tinh Sao Kim, trong cuộc tuần hoàn thứ năm của nàng, đã trao xung lực tạo ra tia lửa trí trong người thú—một sự kiện đã quá quen biết. Nó cũng là Cung thứ năm, và có một mối liên hệ thú vị với Định luật Cố định thứ năm. Chúng ta cũng có thể nghiên cứu một cách hữu ích phép tương đồng có thể thấy giữa những yếu tố này và Giống dân gốc thứ năm, giống dân có sự phát triển đặc biệt mạnh của trí cụ thể. Định luật tương đồng luôn đúng. |
|
With this as a basis, the three laws of the personality become replete[5] with life, and can be summed up in the well-known term, “The Law of Rebirth and Death in the three worlds.” The fifth law governs a fixed point in the personality, that of the fifth principle. [591] |
Dựa trên nền tảng này, ba định luật của phàm ngã trở nên đầy sinh khí, và có thể được tóm lược trong thuật ngữ quen biết, “Định luật Tái sinh và Cái chết trong ba cõi.” Định luật thứ năm cai quản một điểm cố định trong phàm ngã, tức nguyên khí thứ năm. [591] |
|
The Law of Love in the astral body also has its points for consideration. There is a direct link between the astral body (love in the personality), the buddhic vehicle (love in the Triad), and the Monads of Love. Later on, this will be understood more fully, but it is the main channel for the basic law of the system, Love. These three points mark periods of completion, and likewise starting-points for fresh endeavor in the life of the evolving Monad—from the personality to the Triad, from the Triad to the Monad, from the Monad back again to its source. |
Định luật Tình thương trong thể cảm dục cũng có những điểm cần xét đến. Có một mối liên kết trực tiếp giữa thể cảm dục (tình thương trong phàm ngã), vận cụ Bồ đề (tình thương trong Tam Nguyên Tinh Thần), và các Chân thần của Tình thương. Về sau, điều này sẽ được thấu hiểu đầy đủ hơn, nhưng nó là kênh chính cho định luật căn bản của hệ thống, Tình thương. Ba điểm này đánh dấu các thời kỳ viên mãn, đồng thời là những điểm khởi đầu cho nỗ lực mới trong đời sống của Chân thần đang tiến hoá—từ phàm ngã đến Tam nguyên tinh thần, từ Tam nguyên tinh thần đến Chân thần, từ Chân thần trở lại nguồn của mình. |
5. The Law of Fixation —5. Định luật Cố định
|
This is the governing law of the mental plane, finding its greater correspondence in the Law of Karma on cosmic mental levels. “As a man thinks, so is he;” according to his thoughts are his desires and acts, and so results the future. He fixes for himself the resultant karma. The word “Fixation” is chosen for two purposes: First, because the word implies the capacity of the thinker to shape his own destiny, and secondly because the word implies a stabilizing idea, for as evolution progresses, the Ego evolves the faculty of forming definite concrete thought-forms, and, through these stable products, of subduing the fluctuations of the astral body. |
Đây là định luật cai quản cõi trí, có sự tương ứng vĩ đại hơn trong Định luật Nghiệp quả trên các cấp độ trí vũ trụ. “Con người nghĩ thế nào, y là như vậy;” tùy theo tư tưởng của y mà có dục vọng và hành động, và như thế, tương lai sẽ kết thành quả. Y tự cố định cho mình nghiệp quả hệ quả. Từ “Cố định” được chọn vì hai mục đích: Thứ nhất, vì từ này hàm ý năng lực của kẻ tư duy để định hình vận mệnh riêng mình, và thứ hai vì từ này hàm ý một ý niệm ổn định, bởi khi tiến hoá tiến triển, Chân ngã triển khai khả năng hình thành những hình tư tưởng cụ thể minh định, và, qua các sản phẩm ổn định ấy, khuất phục các xao động của thể cảm dục. |
|
This law of the fifth, or mental Plane is one of the most important laws with which we have to do at any time, and it will find its most complete demonstration in the next, or fifth round. In relation to this fourth round the following facts may be gathered about its working: |
Định luật của cõi thứ năm, tức cõi trí, là một trong những định luật quan trọng nhất mà chúng ta phải đề cập đến vào bất kỳ thời điểm nào, và nó sẽ tìm thấy sự biểu lộ trọn vẹn nhất trong cuộc tuần hoàn kế tiếp, tức cuộc tuần hoàn thứ năm. Liên hệ với cuộc tuần hoàn thứ tư này có thể thu thập các sự kiện sau về sự tác động của nó: |
|
It is the law under which the evolving personality builds up, during the course of many lives, the causal body; it fixes the matter inhering in that body, placed there by the man as the ages slip away, and crystallizes it. Before the fourth Initiation the crystallization is complete, and the inevitable shattering that is the result of crystallization in all forms, takes place, setting the [592] indwelling life free for further progress. All forms are but hindrances and limitations, and ultimately must go, but they have their needed place in the development of the race. Eventually the causal body of the entire race itself disintegrates. |
Đó là định luật theo đó phàm ngã đang tiến hoá xây dựng, trong suốt nhiều đời, thể nguyên nhân; nó cố định chất liệu lưu trú trong thể ấy, do con người tự đặt vào qua các thời đại trôi đi, và làm nó kết tinh. Trước lần Điểm đạo thứ tư, sự kết tinh hoàn tất, và việc vỡ nát tất yếu—là hệ quả của sự kết tinh trong mọi hình tướng—diễn ra, giải phóng [592] sự sống nội tại để tiến bước xa hơn. Mọi hình tướng chỉ là các chướng ngại và hạn chế, và sau cùng đều phải đi, nhưng chúng có chỗ đứng cần thiết trong sự phát triển của nhân loại. Rốt cuộc, ngay cả thể nguyên nhân của toàn nhân loại cũng sẽ tự phân rã. |
|
This law governs the crystallization of all forms prior to their shattering in the process of evolution. |
Định luật này cai quản sự kết tinh của mọi hình tướng trước khi chúng bị vỡ nát trong tiến trình tiến hoá. |
|
It governs the time of rebirth, being one of the subsidiary branches of the Law of Karma. Each of the seven subsidiary laws is linked to one of the cosmic laws, or with the Sirian Law of Karma. We need always to remember that the consciousness of the cosmic mental plane is the logoic goal of attainment, and that the Sirian Logos is to our solar Logos what the human Ego is to the personality. The Law of Karma, or cosmic Fixation, is the law of the cosmic mental plane, and controls the corresponding law in our system. |
Nó cai quản thời điểm tái sinh, vốn là một trong những nhánh phụ của Định luật Nghiệp quả. Mỗi trong bảy định luật phụ liên kết với một trong các định luật vũ trụ, hoặc với Định luật Nghiệp quả Sirius. Chúng ta cần luôn nhớ rằng tâm thức của cõi trí vũ trụ là mục tiêu thành tựu của Logos, và rằng Thượng đế Sirius đối với Thái dương Thượng đế của chúng ta cũng như Chân ngã con người đối với phàm ngã. Định luật Nghiệp quả, hay Sự Cố định vũ trụ, là định luật của cõi trí vũ trụ, và kiểm soát định luật tương ứng trong hệ thống của chúng ta. |
|
In the fifth round this law will act as the divider, temporarily crystallizing and fixing into two great classes the human Monads, as they evolve. One group then (containing those who will reach the goal), will pass gradually out from under the domination of this law, and will come under the Law of Magnetic Control. The other will remain under the law in a static condition, until in a later period a fresh opportunity will come; old forms will break, and in another mahamanvantara, and in its fifth period, will come the chance for which they will have waited, when they can again swing into the current of evolution and the imprisoned spirits may mount again towards their source. |
Trong cuộc tuần hoàn thứ năm, định luật này sẽ hành xử như kẻ phân ranh, tạm thời làm kết tinh và cố định thành hai đại loại các Chân thần nhân loại khi họ tiến hoá. Một nhóm (bao gồm những ai sẽ đạt mục tiêu) sẽ dần dần thoát khỏi sự chi phối của định luật này, và sẽ đi vào Định luật Kiểm soát Từ tính. Nhóm kia sẽ lưu lại dưới định luật trong một trạng thái tĩnh, cho đến khi một cơ hội mới đến trong kỳ sau; những hình tướng cũ sẽ tan vỡ, và trong một Đại giai kỳ sinh hóa khác, và trong chu kỳ thứ năm của nó, cơ hội mà họ chờ đợi sẽ đến, khi họ có thể một lần nữa nhập dòng tiến hoá và những linh hồn bị giam cầm có thể lại leo lên nguồn của mình. |
|
In an occult sense this law is for us the one with which we are the most intimately concerned. It plays an important part in the hands of the Lords of Flame, and is one of Their main factors in controlling the three worlds. Note here an interesting fact, that Venus is the sixth planet (esoterically the second), and is in her [593] fifth round, and hence is ahead of us along every line. This law demonstrates the static quality of love, static temporarily, but necessarily so when viewed from the standpoint of time, the great deluder. On the path of involution this law again works with the permanent atoms in the three worlds, with the building in of material around those atoms, in connection with the building devas and the reincarnating Egos. The devas are the mother aspect, the builders of the body, and the reincarnating Jivas are the son aspect; yet the two are but one, and the result is the divine hermaphroditic man. (See page 512.) |
Theo nghĩa huyền môn, đối với chúng ta, định luật này là định luật mà chúng ta có liên hệ mật thiết nhất. Nó đóng một vai trò quan trọng trong tay các Chúa Tể của Lửa, và là một trong những yếu tố chính của Các Ngài trong việc kiểm soát ba cõi. Lưu ý ở đây một sự kiện thú vị, rằng Sao Kim là hành tinh thứ sáu (xét theo nội môn là thứ hai), và đang ở [593] cuộc tuần hoàn thứ năm, vì thế vượt trước chúng ta trên mọi đường hướng. Định luật này biểu lộ phẩm tính tĩnh của tình thương, tĩnh tại tạm thời, nhưng tất yếu như thế khi nhìn từ lập trường của thời gian, kẻ đại mê hoặc. Trên con đường giáng hạ tiến hoá, định luật này lại làm việc với các Nguyên tử trường tồn trong ba cõi, với việc xây chất liệu quanh các nguyên tử ấy, trong liên hệ với các thiên thần kiến tạo và các Chân ngã tái sinh. Các thiên thần là phương diện Mẹ, những nhà kiến tạo của thân thể, và các Jivas tái sinh là phương diện Con; tuy thế, hai là một, và kết quả là Con Người lưỡng tính thiêng liêng. (Xem trang 512.) |
6. The Law of Love —6. Định luật Tình thương
|
It is not easy, in this brief digest, to approach the tremendous problem of the place love plays in the evolving scheme of things as understood by three-dimensional man. A treatise could be written on the subject, and yet leave it unexhausted. Much light comes if we can ponder deeply on the three expressions of Love: Love in the Personality, Love in the Ego, and Love in the Monad. Love in the Personality gradually develops through the stages of love of self, pure and simple and entirely selfish, to love of family and friends, to love of men and women, until it arrives at the stage of love of humanity or group love consciousness which is the predominant characteristic of the Ego. A Master of Compassion loves, suffers with, and remains with His kind and with His kin [your family or your relatives]. Love in the Ego gradually develops from love of humanity into love universal—a love that expresses not only love of humanity, but also love of the deva evolutions in their totality, and of all forms of divine manifestation. Love in the Personality is love in the three worlds; love in the Ego is love in the solar system, and all that it contains; whilst love in the Monad demonstrates a measure of cosmic love, and embraces much that is outside the solar system altogether. [594] |
Thật không dễ, trong bản tóm lược ngắn này, mà tiếp cận vấn đề to lớn về vai trò của tình thương trong sơ đồ tiến hoá của vạn hữu như được con người ba chiều hiểu biết. Một bộ luận có thể được viết về đề tài này mà vẫn chưa cạn. Nhiều ánh sáng sẽ đến nếu chúng ta có thể chiêm nghiệm sâu xa về ba biểu lộ của Tình thương: Tình thương trong Phàm ngã, Tình thương trong Chân ngã, và Tình thương trong Chân thần. Tình thương trong Phàm ngã dần dần phát triển qua các giai đoạn yêu bản ngã, thuần tuý và hoàn toàn vị kỷ, đến yêu gia đình và bạn hữu, đến yêu những người nam và nữ, cho đến khi đạt tới giai đoạn yêu nhân loại hay tâm thức tình thương nhóm, vốn là đặc tính trội của Chân ngã. Một Vị Chân sư của Từ bi yêu thương, đồng khổ, và ở lại với đồng loại và với huyết tộc của Ngài [gia đình hay thân quyến của bạn]. Tình thương trong Chân ngã dần dần phát triển từ tình thương nhân loại thành tình thương đại đồng—một tình thương không chỉ biểu lộ tình thương đối với nhân loại, mà còn đối với toàn thể các tiến hoá thiên thần, và với mọi hình thái của biểu lộ thiêng liêng. Tình thương trong Phàm ngã là tình thương trong ba cõi; tình thương trong Chân ngã là tình thương trong hệ mặt trời, và tất cả những gì nó bao hàm; trong khi tình thương trong Chân thần biểu lộ một mức độ tình thương vũ trụ, và bao trùm nhiều điều hoàn toàn ở ngoài hệ mặt trời. [594] |
|
This term “The Law of Love,” is after all too generic a term to apply to one law governing one plane, but will have to suffice for the present, as it conveys the type of idea that is needed, to our minds. The Law of Love is in reality but the law of the system in demonstration on all the planes. Love was the impelling motive for manifestation, and love it is that keeps all in ordered sequence; love bears all on the path of return to the Father’s bosom, and love eventually perfects all that is. It is love that builds the forms that cradle temporarily the inner hidden life, and love is the cause of the disruption of those forms, and their utter shattering, so that the life may further progress. Love manifests on each plane as the urge that drives the evolving Monad onwards to its goal, and love is the key to the deva kingdom, and the reason of the blending of the two kingdoms eventually into the divine Hermaphrodite. Love works through the concrete rays in the building of the system, and in the rearing of the structure that shelters the Spirit, and love works through the abstract rays for the full and potent development of that inherent divinity. Love demonstrates, through the concrete rays, the aspects of divinity, forming the persona that hides the one Self; love demonstrates through the abstract rays in developing the attributes of divinity, in evolving to fullest measure the kingdom of God within. Love in the concrete rays leads to the path of occultism; love in the abstract rays leads to that of the mystic. Love forms the sheath and inspires the life; love causes the logoic vibration to surge forward, carrying all on its way, and bringing all to perfected manifestation. |
Thuật ngữ “Định luật Tình thương” rốt lại là một thuật ngữ quá bao quát để áp cho một định luật cai quản một cõi, nhưng trước mắt đành tạm dùng, vì nó chuyển tải kiểu ý niệm cần thiết cho tâm trí chúng ta. Định luật Tình thương thực ra chỉ là định luật của hệ thống đang được phô bày trên mọi cõi. Tình thương là động lực thúc đẩy cho sự biểu lộ, và cũng chính tình thương giữ vạn hữu theo trật tự; tình thương mang tất cả trên con đường trở về lòng Cha, và cuối cùng tình thương làm cho mọi sự nên trọn. Chính tình thương xây nên những hình tướng ôm ấp tạm thời sự sống nội ẩn, và chính tình thương là nguyên nhân phá vỡ các hình tướng ấy, và đập nát chúng, để sự sống có thể tiến xa hơn. Tình thương biểu lộ trên mỗi cõi như xung lực thúc đẩy Chân thần đang tiến hoá đi tới mục tiêu, và tình thương là chìa khóa của giới thiên thần, và là lý do của sự dung hợp sau cùng của hai giới vào Đấng Lưỡng tính thiêng liêng. Tình thương làm việc qua các cung cụ thể trong việc kiến tạo hệ thống, và trong việc dựng nên cấu trúc che chở Thần Linh, và tình thương làm việc qua các cung trừu tượng cho sự phát triển đầy đủ và hùng mạnh của thiên tính tiềm ẩn ấy. Tình thương biểu hiện, qua các cung cụ thể, các phương diện của thiên tính, hình thành nhân cách che giấu Chân Ngã duy nhất; tình thương biểu hiện qua các cung trừu tượng trong việc phát triển các thuộc tính của thiên tính, trong việc tiến hoá tới mức viên mãn Thiên Giới ở bên trong. Tình thương trong các cung cụ thể dẫn tới con đường huyền bí học; tình thương trong các cung trừu tượng dẫn tới con đường của nhà thần bí. Tình thương tạo thành vỏ bọc và truyền cảm hứng cho sự sống; tình thương khiến rung động của Thượng đế dâng tràn, mang tất cả theo lộ trình của nó, và đưa tất cả đến biểu lộ toàn hảo. |
|
In System I, Activity, Desire for Expression, and the Impulse to Move was the basic note. That activity produced certain results, certain permanent effects, and thus formed the nucleus for the present system. Ordered Activity is the foundation of this system, of ordered [595] Love, and leads to system three, wherein ordered Activity, with ordered Love for its impulse, results in ordered loving Power. |
Trong Hệ thống I, Hoạt động, Dục vọng Biểu lộ, và Xung động Vận động là chủ âm căn bản. Hoạt động ấy tạo ra những kết quả nhất định, những hiệu quả trường tồn nhất định, và như vậy hình thành hạch nhân cho hệ thống hiện tại. Hoạt động có trật tự là nền tảng của hệ thống này, của Tình thương có trật tự [595], và dẫn tới hệ thống ba, nơi Hoạt động có trật tự, với Tình thương có trật tự làm xung lực của nó, kết thành Quyền Lực yêu thương có trật tự. |
|
The sixth Ray of devotion and the sixth law of love have a close alliance, and on the sixth plane comes the powerful working out in the lower Triad, the Personality, of the Law of Love. On the astral plane, the home of the desires, originate those feelings which we call personal love; in the lowest type of human being this shows itself as animal passion; as evolution proceeds it shows itself as a gradual expansion of the love faculty, passing through the stages of love of mate, love of family, love of surrounding associates, to love of one’s entire environment; patriotism gives place later to love of humanity, often humanity as exemplified in one of the Great Ones. The astral plane is, at the present time, the most important for us, for in desire—not corrected or transmuted—lies the difference between the personal consciousness and that of the Ego. 85 |
Cung sáu của sùng tín và định luật thứ sáu của tình thương có một mối tương liên chặt chẽ, và trên cõi thứ sáu diễn ra sự triển khai mạnh mẽ trong Tam phân hạ thể, tức Phàm ngã, của Định luật Tình thương. Trên cõi cảm dục, quê hương của các dục vọng, khởi sinh các cảm xúc mà chúng ta gọi là tình thương cá nhân; ở hạng người thấp nhất điều này biểu lộ như dục tính thú vật; khi tiến hoá tiến triển, nó biểu lộ như một sự mở rộng dần dần của năng lực thương yêu, trải qua các giai đoạn yêu bạn đôi, yêu gia đình, yêu những người xung quanh, đến yêu toàn bộ môi trường; lòng ái quốc về sau nhường chỗ cho tình thương nhân loại, thường là nhân loại như được thể hiện nơi một trong các Đấng Cao Cả. Cõi cảm dục, ở thời điểm hiện tại, là quan trọng nhất đối với chúng ta, vì trong dục vọng—nếu không được uốn sửa hay chuyển hoá—nằm sự sai khác giữa tâm thức cá nhân và tâm thức của Chân ngã. 85 |
|
85 Why do we consider this matter of the devas of the middle system (as we might call those connected with this system and with buddhi and kama-manas) in our consideration of thought forms? For two reasons: One is that all that is in the solar system is but substance energized from the cosmic mental and astral planes, and built into form through the power of electrical law; all that can be known is but forms ensouled by ideas. Secondly, that in the knowledge of the creative processes of the system, man learns for himself how in time to become a creator. We might illustrate this by remarking that one of the main functions of the Theosophical movement in all its many branches is to build a form which can be ensouled, in due time, by the idea of Brotherhood. |
85 Tại sao chúng ta xét đến vấn đề các thiên thần của hệ giữa (như chúng ta có thể gọi những vị liên hệ với hệ này và với Bồ đề và kama-manas) trong khi khảo cứu các hình tư tưởng? Có hai lý do: Một là mọi điều trong hệ mặt trời chỉ là chất liệu được tiếp năng từ các cõi trí và cảm dục vũ trụ, và được kiến tạo thành hình qua quyền lực của định luật điện; tất cả những gì có thể được biết chỉ là những hình tướng được phú linh bởi các ý niệm. Thứ hai, trong tri thức về các tiến trình sáng tạo của hệ thống, con người học được cho chính mình cách để rồi trở thành một đấng sáng tạo. Chúng ta có thể minh hoạ điều này bằng cách nhận xét rằng một trong những chức năng chủ yếu của phong trào Thông Thiên Học trong mọi chi nhánh của nó là xây dựng một hình tướng có thể được phú linh, đúng thời, bởi ý niệm Huynh đệ. |
|
In the sixth Scheme, that of Venus, this can be seen clearly; it is the scheme of love. Viewed from one angle, the Venusian Scheme is the second, and from another it is the sixth. It depends upon whether we reason from the circumference to the center or the reverse. |
Trong Hệ hành tinh thứ sáu, tức Sao Kim, điều này có thể thấy rõ; đó là hệ của tình thương. Nhìn từ một góc, Hệ hành tinh Kim tinh là thứ hai, và từ góc khác nó là thứ sáu. Tùy theo chúng ta lý luận từ chu vi vào trung tâm hay ngược lại. |
|
It is the home of the planetary Logos of the sixth Ray. This may sound like a contradiction, but it is not so really; we must remember the interlocking, the gradual shifting and changing, that takes place in time on all [596] the Rays. In the same way the Earth chain is the third if viewed from one aspect and the fifth viewed from another. |
Đó là quê hương của Hành Tinh Thượng đế của Cung sáu. Điều này có thể nghe như mâu thuẫn, nhưng thật ra không phải vậy; chúng ta phải nhớ sự đan kết, sự chuyển dịch và thay đổi dần dần, vốn xảy ra theo thời gian trên tất cả [596] các Cung. Cùng một cách, Dãy Địa Cầu là dãy thứ ba nếu nhìn từ một khía cạnh và là thứ năm nếu nhìn từ một khía cạnh khác. |
|
In the sixth chain of each scheme, this sixth law and the sixth Ray have a very important significance, whilst the seventh chain of each scheme is always synthetic—Love and Activity in a perfect balance. The same effect can be demonstrated in the sixth Round. In the sixth Round of the present chain of the Earth scheme, the sixth law will demonstrate with great clarity and force, as love shown in brotherhood, love translated or transmuted from the astral to the buddhic. So in the sixth root-race and the sixth subrace a similar analogy will be seen. Out of the shattered form of the fifth subrace of the fifth root race, built up under the fifth Ray of Concrete Knowledge, with the aid of the fifth Law of Fixation, will emerge the sixth subrace of brotherly love—love shown in the realization of the one life latent in each Son of God. |
Trong dãy thứ sáu của mỗi hệ, định luật thứ sáu và Cung thứ sáu có ý nghĩa rất quan trọng, trong khi dãy thứ bảy của mỗi hệ luôn mang tính tổng hợp—Tình thương và Hoạt động trong trạng thái quân bình hoàn hảo. Ảnh hưởng tương tự có thể được biểu lộ trong cuộc tuần hoàn thứ sáu. Trong cuộc tuần hoàn thứ sáu của dãy hiện tại của hệ Địa Cầu, định luật thứ sáu sẽ biểu lộ với sự rõ ràng và mãnh lực lớn, như tình thương được thể hiện trong huynh đệ, tình thương được chuyển dịch hay chuyển hoá từ cảm dục lên Bồ đề. Tương tự, trong Giống dân gốc thứ sáu và giống dân phụ thứ sáu sẽ thấy một phép tương đồng. Từ hình tướng bị đập vỡ của giống dân phụ thứ năm của Giống dân gốc thứ năm, được kiến tạo dưới Cung thứ năm của Tri thức Cụ thể, với sự trợ giúp của Định luật Cố định thứ năm, sẽ xuất lộ giống dân phụ thứ sáu của tình huynh đệ—tình thương được thể hiện trong sự nhận ra Một Sự sống tiềm ẩn trong mỗi Con của Thượng đế. |
7. The Law of Sacrifice and Death —7. Định luật Hy sinh và Cái chết
|
This law links itself to the third law, that of Disintegration following the connection that always exists between the atmic and the physical plane. The Law of Disintegration controls the fivefold destruction of forms in the five lower worlds, and the Law of Death controls similarly in the three worlds. It is subsidiary to the third law. The Law of Sacrifice is the Law of Death in the subtle bodies, whilst what we call death is the analogous thing in the physical body. This law governs the gradual disintegration of concrete forms and their sacrifice to the evolving life, and is closely linked in its manifestation with the seventh Ray. This Ray is the one that largely controls, that manipulates, that geometrizes and that holds sway over the form side, governing the elemental forces of nature. The physical plane is the most concrete exemplification of the form side; it holds the divine life imprisoned or [597] enmeshed at its densest point, and it works at this time in line with the seventh law. In a mysterious way this law is the reverse side of the first, or the Law of Vibration. It is Vulcan and Neptune in opposition, which is as yet an almost incomprehensible thing for us. The densest form of expression on the physical plane is after all but a form of synthesis; just as the rarest form of expression on the highest plane is but unity or synthesis of a finer kind. One is the synthesis of matter, and the other the synthesis of life. |
Định luật này liên đới với định luật thứ ba, tức Phân rã, theo mối liên hệ luôn tồn tại giữa cõi atmic và cõi hồng trần. Định luật Phân rã kiểm soát sự phá huỷ ngũ phân của các hình tướng trong năm cõi giới thấp, và Định luật Cái chết kiểm soát tương tự trong ba cõi. Nó là định luật phụ thuộc định luật thứ ba. Định luật Hy sinh là Định luật Cái chết nơi các thể vi tế, trong khi điều mà chúng ta gọi là chết là điều tương tự nơi thể xác. Định luật này cai quản sự phân rã dần dần của các hình tướng cụ thể và sự hy sinh của chúng cho sự sống đang tiến hoá, và liên kết chặt chẽ trong biểu lộ của mình với Cung thứ bảy. Cung này là cung phần lớn kiểm soát, thao tác, định hình theo hình học và nắm quyền trên phương diện hình tướng, cai quản các lực hành khí của thiên nhiên. Cõi hồng trần là sự minh hoạ cụ thể nhất của phương diện hình tướng; nó cầm giữ sự sống thiêng liêng trong tù ngục hay [597] mắc lưới ở điểm đậm đặc nhất, và hiện thời nó hoạt động hoà điệu với định luật thứ bảy. Một cách huyền diệu, định luật này là mặt đảo nghịch của định luật thứ nhất, hay Định luật Rung động. Đó là Vulcan và Neptune đối nghịch, điều mà với chúng ta vẫn còn hầu như bất khả tư nghị. Hình thái biểu lộ đậm đặc nhất trên cõi hồng trần rốt lại chỉ là một hình thức của tổng hợp; cũng như hình thái biểu lộ tinh tế nhất trên cõi cao nhất cũng chỉ là hợp nhất hay tổng hợp ở một dạng tinh tế hơn. Một là tổng hợp của chất liệu, và cái kia là tổng hợp của sự sống. |
|
This law governs the seventh chain in each scheme; each chain having achieved the fullest expression possible in the scheme, comes under the Law of Death, and obscuration and disintegration supervenes. In a cosmic sense and analogy, it is the law that governs the coming in of pralaya at the end of a system. It is the law that shatters the cross of the cosmic Christ, and places the form of the Christ within the tomb for a period of time. |
Định luật này cai quản dãy thứ bảy trong mỗi hệ; mỗi dãy, sau khi đạt biểu lộ đầy đủ nhất có thể trong hệ, sẽ đi vào dưới Định luật Cái chết, và sự ám tối hoá cùng phân rã kế tiếp. Theo một nghĩa và một phép tương đồng vũ trụ, đó là định luật cai quản sự đến của Giai kỳ qui nguyên vào cuối một hệ thống. Đó là định luật đập vỡ thập giá của Đức Christ vũ trụ, và đặt hình tướng của Đấng Christ vào trong mồ trong một thời kỳ. |
The Principle of Mutation —Nguyên lý Biến đổi
|
In concluding the above information about the laws, it is needful that we all recognize the extreme danger of dogmatizing about these matters, and the risk of laying down hard and fast rules. Much must remain unexplained and untouched, and much also will serve to raise only questions in our minds. Comprehension is as yet impossible. Until fourth-dimensional sight is ours, it will scarcely be possible for us to do more than hint at, and get a passing vision of, the complexity and the interweaving in the system. It is not easy for us to do more than grip as a mental concept the fact that the rays, schemes, planets, chains, rounds, races and laws form a unit; seen from the angle of human vision the confusion seems unimaginable, and the key of its solution to be so hidden as to be useless; yet, seen from the angle of logoic sight, [598] the whole moves in unison, and is geometrically accurate. In order to give some idea of the complexity of the arrangement, I would like here to point out that the Rays themselves circulate, the Law of Karma controlling the interweaving. For instance, Ray I may pass around a scheme (if it is the paramount Ray of the scheme) with its first subray manifesting in a chain, its second in a round, its third in a world period, its fourth in a root race, its fifth in a subrace, and its sixth in a branch race. I give this in illustration, and not as the statement of a fact in present manifestation. This gives us some idea of the vastness of the process, and of its wonderful beauty. It is impossible for us, sweeping through on some one Ray, to visualize or in any way to apprehend this beauty; yet, to those on higher levels and with a wider range of vision, the gorgeousness of the design is apparent. |
Khi kết luận những thông tin trên về các định luật, điều cần thiết là tất cả chúng ta nhận ra sự cực kỳ nguy hiểm của việc giáo điều hoá về các vấn đề này, và rủi ro của việc đặt ra những quy tắc cứng nhắc. Nhiều điều phải còn chưa giải thích và chưa đụng tới, và cũng nhiều điều chỉ làm nảy sinh câu hỏi trong tâm trí chúng ta. Hiểu thấu, hiện còn bất khả. Cho đến khi thị kiến bốn chiều là của chúng ta, chúng ta hầu như chỉ có thể ám chỉ, và thoáng thấy tính phức hợp và sự đan xen trong hệ thống. Không dễ để chúng ta làm gì hơn ngoài việc nắm như một khái niệm trí tuệ sự kiện rằng các cung, các hệ hành tinh, các hành tinh, các dãy, các cuộc tuần hoàn, các giống dân và các định luật hợp thành một nhất thể; nhìn từ góc độ của thị kiến nhân loại, sự rối rắm dường như không thể tưởng tượng, và chìa khoá giải của nó dường như bị ẩn quá kỹ đến mức vô dụng; tuy nhiên, nhìn từ góc độ của thị kiến logoic, [598] toàn thể vận hành đồng nhất, và chính xác về mặt hình học. Để cho một ý niệm nào đó về mức độ phức hợp của sự sắp xếp, tôi muốn chỉ ra ở đây rằng bản thân các Cung cũng luân lưu, Định luật Nghiệp quả kiểm soát sự đan kết. Thí dụ, Cung Một có thể đi vòng quanh một hệ (nếu đó là Cung tối thượng của hệ) với cung phụ thứ nhất của nó biểu lộ trong một dãy, cung phụ thứ hai trong một cuộc tuần hoàn, cung phụ thứ ba trong một thời kỳ thế giới, cung phụ thứ tư trong một Giống dân gốc, cung phụ thứ năm trong một giống dân phụ, và cung phụ thứ sáu trong một giống dân chi. Tôi nêu điều này để minh hoạ, chứ không phải như một tuyên bố về một sự kiện đang biểu lộ hiện thời. Điều này cho chúng ta một ý niệm về tính mênh mông của tiến trình, và vẻ đẹp kỳ diệu của nó. Với chúng ta, đang quét qua trên một Cung nào đó, việc hình dung hay hiểu biết theo bất cứ cách nào về vẻ đẹp này là điều không thể; tuy nhiên, với những ai ở các cấp độ cao hơn và có tầm thị kiến rộng hơn, vẻ rực rỡ của đồ hình là hiển nhiên. |
|
This complexity is for us very much increased because we do not yet understand the principle governing this mutation. Nor is it possible for even the highest human mind in the three worlds to do more than sense and approximate that principle. By mutation I mean the fact that there is a constant changing and shifting, an endless interweaving and interlocking, and a ceaseless ebb and flow, in the dramatic interplay of the forces that stand for the dual synthesis of Spirit and matter. There is constant rotation in the Rays and planes, in their relative importance from the standpoint of time, which is the standpoint most closely associated with us. But we can rest assured that there is some fundamental principle directing all the activities of the Logos in His system, and by wrestling to discover the basic principle on which our microcosmic lives rest, we may discover aspects of this inherent logoic principle. This opens to our consideration a wide range of vision, and [599] though it emphasizes the complexity of the subject, it also demonstrates the divine magnitude of the scheme, with its magnificent intricacies. The reason the fourth is a major round is because in this round two things happened—the spark of mind was implanted and the door was opened from the animal kingdom into the human; and later, another door opened, on to the Path leading from the human kingdom into the spiritual—again a dual reason. The fifth round is a major round because it marks a point in evolution where those who will achieve the goal, and those who will not, are sharply differentiated into two groups; the seventh is a major round because it will mark the merging of the two evolutions, the human and the deva. |
Tính phức hợp này đối với chúng ta lại càng tăng thêm vì chúng ta chưa hiểu nguyên lý cai quản sự biến đổi này. Ngay cả đối với trí tuệ cao nhất của con người trong ba cõi cũng không thể làm gì hơn ngoài việc cảm nhận và ước lượng gần đúng nguyên lý ấy. Bằng “biến đổi” tôi muốn nói đến sự kiện rằng luôn có sự thay đổi và chuyển dịch liên tục, một sự đan xen và lồng khoá vô tận, và một sự triều thoái không ngừng, trong cuộc tương tác kịch tính của các lực tượng trưng cho sự dung hợp nhị nguyên của Thần Linh và chất liệu. Có sự luân phiên liên tục trong các Cung và các cõi, trong tầm quan trọng tương đối của chúng từ góc độ thời gian, là góc độ gần gũi nhất với chúng ta. Nhưng chúng ta có thể yên tâm rằng có một nguyên lý căn để nào đó chỉ đạo mọi hoạt hoạt của Logos trong Hệ của Ngài, và bằng cách gắng công để khám phá nguyên lý cơ bản mà đời sống vi mô của chúng ta đặt nền trên đó, chúng ta có thể khám phá những phương diện của nguyên lý logoic nội tại này. Điều này mở ra cho chúng ta một tầm thị kiến rộng lớn, và [599] dù nó nhấn mạnh tính phức hợp của vấn đề, nó cũng đồng thời phô bày tầm vóc thiêng liêng của sơ đồ, với những tinh xảo lộng lẫy. Lý do khiến cuộc tuần hoàn thứ tư là một cuộc tuần hoàn chính yếu là vì trong cuộc tuần hoàn này hai điều đã xảy ra—tia lửa trí được gieo vào và cánh cửa được mở ra từ giới động vật sang giới nhân loại; và về sau, một cánh cửa khác mở ra, dẫn vào Thánh Đạo từ giới nhân loại vào giới tinh thần—một lần nữa là một lý do nhị nguyên. Cuộc tuần hoàn thứ năm là một cuộc tuần hoàn chính yếu vì nó đánh dấu một điểm trong tiến hoá nơi những ai sẽ đạt mục tiêu, và những ai sẽ không, được phân biệt rạch ròi thành hai nhóm; cuộc tuần hoàn thứ bảy là một cuộc tuần hoàn chính yếu vì nó sẽ đánh dấu sự dung hợp của hai tiến hoá, nhân loại và thiên thần. |
|
The major root races are chosen under the Law of Correspondence. In the third root race came the third Outpouring, the merging and the point of contact between the Spiritual Triad and the Lower Quaternary. The fifth root race marks a point where higher and lower manas approximate, and where the concrete mind, meeting its highest development of this round, gives place to the intuition from above. Here again we have a twofold reason. The seventh root race again demonstrates dual attainment, love in activity, the basis of the third system of Will or Power. |
Các Giống dân gốc chính yếu được chọn theo Định luật tương ứng. Trong Giống dân gốc thứ ba đến Lần Tuôn đổ thứ ba, sự dung hợp và điểm tiếp xúc giữa Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ tứ hạ giới. Giống dân gốc thứ năm đánh dấu một điểm nơi thượng trí và hạ trí tiệm cận, và nơi trí cụ thể, gặp mức phát triển cao nhất của nó trong cuộc tuần hoàn này, nhường chỗ cho trực giác từ cõi trên. Ở đây một lần nữa chúng ta có một lý do nhị trùng. Giống dân gốc thứ bảy lại biểu lộ thành tựu lưỡng phân, tình thương trong hoạt động, nền tảng của hệ thống thứ ba của Ý Chí hay Quyền Lực. |
|
The three major Rays, being dual, are their own sufficient explanation. They are at present the mode of expression of the three aspects, and demonstrate under their appropriate Logoi, Who manipulate world affairs through the three departments, of which the rulers on our planet are the Lord Maitreya, the Manu, and the Mahachohan. The three major planes demonstrate easily their unique position—on plane two we have the home of the Monads of Love, on plane five we find the habitat of their reflections, the reincarnating Egos, and [600] on the physical plane we find the working out at its densest point of the life of the Spirit. |
Ba Cung lớn, vốn là nhị phân, tự thân là giải thích đầy đủ. Hiện tại chúng là phương thức biểu lộ của ba Phương diện, và biểu dương dưới quyền của các Đấng Chưởng Giáo thích hợp, Các Ngài quản trị các công việc thế gian qua ba phân bộ, mà các vị cai quản trên hành tinh của chúng ta là Đức Maitreya, vị Manu, và vị Mahachohan. Ba cõi lớn biểu lộ vị thế độc nhất của chúng một cách dễ thấy—trên cõi thứ hai, chúng ta có quê hương của các Chân thần của Tình thương, trên cõi thứ năm chúng ta thấy nơi cư ngụ của các phản ảnh của họ, tức các Chân ngã tái sinh, và [600] trên cõi hồng trần chúng ta thấy sự triển khai tại điểm đậm đặc nhất của sự sống của Thần Linh. |
|
This principle of mutation governs every department in the Law of Correspondences, and certain things can be stated as regards the system, and its component parts which will be found illuminating if we remember that they are facts for the present. Let me again illustrate: we have been told that the three major Rays at this time are the first, the second, and the seventh. But later, the Rays now major may become subsidiary, and others take their place, though for this solar system the second Ray, being the synthetic Ray, will always be a major Ray. Perhaps we can here get a hint on this great principle, though we must be careful not to draw it out to too fine a conclusion. For this system the major Rays will always be the dual Rays—the negative-positive Rays, the masculine-feminine Rays—this being the dual system. The major Rays for system three will be those in triple manifestation. |
Nguyên lý biến đổi này cai quản mọi bộ phận trong Định luật tương ứng, và vài điều có thể được phát biểu về hệ thống và các phần cấu thành của nó, điều sẽ hữu ích nếu chúng ta ghi nhớ rằng đó là những sự kiện cho hiện tại. Xin cho tôi lại minh hoạ: chúng ta đã được cho biết rằng ba Cung lớn vào thời điểm này là cung thứ nhất, thứ hai, và thứ bảy. Nhưng về sau, các Cung hiện là lớn có thể trở thành phụ, và những Cung khác thay vào, dù rằng đối với hệ mặt trời này, Cung thứ hai, do là Cung tổng hợp, sẽ luôn là một Cung lớn. Có lẽ chúng ta có thể nhận được một gợi ý về nguyên lý trọng đại này, dù chúng ta phải cẩn trọng không suy diễn đến kết luận quá tinh vi. Đối với hệ thống này, các Cung lớn sẽ luôn là những Cung nhị phân—các Cung âm-dương, các Cung nam-nữ—vì đây là hệ thống nhị phân. Các Cung lớn cho hệ thống ba sẽ là những Cung trong biểu lộ tam phân. |
|
The following table may be found of interest, if regarded as relative, and as holding information for the present time, but also as being subject to change and circulation: |
Bảng sau đây có thể hữu ích, nếu được xem như có tính tương đối, và như đang chứa đựng thông tin cho thời điểm hiện tại, nhưng cũng là đối tượng của sự thay đổi và luân lưu: |
|
– 7 Rays—Major 1-2-7—Four subsidiary converging on the fifth. |
7 Cung—Chính —Bốn cung phụ hội tụ trên cung thứ năm. |
|
– 7 Principles—3 Major—Monad, Ego and Personality, synthesizing at various stages the four subsidiary. |
7 Nguyên khí—3 Chính—Chân thần, Chân ngã và Phàm ngã, tổng hợp ở các giai đoạn khác nhau bốn nguyên khí phụ. |
|
– 7 Chains—Major 1-4-7 |
7 Dãy—Chính |
|
– 7 Planes—Major 2-5-7 |
7 Cõi—Chính |
|
– 7 Manvantaras—Major 3-4-7 |
7 Giai kỳ sinh hóa—Chính |
|
– 7 Rounds—Major 4-5-7 |
7 Cuộc tuần hoàn—Chính |
|
– 7 Root races—Major 3-5-7 |
7 Giống dân gốc—Chính |
|
– 7 Sub races—Major 1-5-6 |
7 Giống dân phụ—Chính |
|
– 7 Initiations—Major 1-4-5—if viewed from the angle of human attainment, and 1-5-7 if viewed from a higher. [601] |
7 Điểm đạo—Chính —nếu nhìn từ góc độ thành tựu của con người, và nếu nhìn từ một cấp độ cao hơn. [601] |
[Commentary S6S4]
II. Thought Elementals and Devas —II. Các Hành khí Tư tưởng và Thiên thần
1. The Ruler of Fire—Agni -1. Đấng Cai Quản Lửa—Agnia. Agni and the Solar Logos—a. Agni và Thái dương Thượng đ
|
Thus far in this treatise we have considered the first section of the book which has dealt somewhat with the internal fires of the system, both macrocosmic and microcosmic. In this the second section we are dealing with the fire of mind. This section, together with the nine introductory questions, constitutes the main part of the treatise. In it we have dealt with the nature and function of mind and with the egoic ray. We have dealt also, somewhat, with the form side of thought, with its material manifestation and with its substance. |
Cho đến đây trong bộ luận này, chúng ta đã xét đến phần thứ nhất của sách, phần đã đề cập đôi chút đến các nội hoả của hệ thống, cả đại thiên địa lẫn tiểu thiên địa. Trong phần thứ hai này, chúng ta đang bàn về lửa của trí. Phần này, cùng với chín câu hỏi dẫn nhập, cấu thành phần chính của bộ luận. Trong đó, chúng ta đã bàn về bản chất và chức năng của trí và về cung chân ngã. Chúng ta cũng đã bàn, phần nào, về phương diện hình tướng của tư tưởng, về biểu lộ vật chất của nó và về chất liệu của nó. |
|
We proceed now to take up the consideration of the Ruler of Fire, AGNI, and are brought to the study of the vitality that energizes and the Life that animates; to the contemplation of the Fire that drives, propels, and produces the activity and organization of all forms. The realization of this will reveal the fact that what we are dealing with is the “Life and the lives,” 86 as it is called 87 [602] in the Secret Doctrine; with Agni, the Lord of Fire, the Creator, the Preserver, and the Destroyer; and with the forty-nine fires through which He manifests. We are dealing with solar fire per se, with the essence of thought, with the coherent life of all forms, with the consciousness in its evolving aspect, or with Agni, the sumtotal of the Gods. He is Vishnu and the Sun in His glory; He is the fire of matter and the fire of mind blended and fused; He is the intelligence which throbs in every atom; He is the Mind that actuates the system; He is the fire of substance and the substance of the fire; He is the Flame and that which the Flame destroys. |
Giờ đây, chúng ta tiến đến việc xét đến Đấng Cai quản Lửa, AGNI, và được dẫn đến học về sinh khí đang tiếp năng và Sự Sống đang linh hoạt; chiêm ngưỡng về Lửa đang thúc đẩy, đẩy đưa, và tạo ra hoạt động cùng tổ chức của mọi hình tướng. Sự nhận ra điều này sẽ hiển lộ sự kiện rằng điều chúng ta đang xử lý là “Sự sống và các sự sống,” 86 như nó được gọi 87 [602] trong Giáo Lý Bí Nhiệm; với Agni, Chúa Tể của Lửa, Đấng Sáng Tạo, Đấng Bảo Tồn, và Đấng Hủy Diệt; và với bốn mươi chín lửa qua đó Ngài biểu lộ. Chúng ta đang xét đến Lửa Thái dương tự thân, đến tinh chất của tư tưởng, đến sự sống kết dính của mọi hình tướng, đến tâm thức trong khía cạnh tiến hoá của nó, hay đến Agni, tổng số các Thần. Ngài là Vishnu và Mặt trời trong vinh quang của Ngài; Ngài là lửa của chất liệu và lửa của trí được pha hoà và dung hợp; Ngài là trí tuệ rung động trong mọi nguyên tử; Ngài là Trí dẫn động hệ thống; Ngài là lửa của chất liệu và chất liệu của lửa; Ngài là Ngọn Lửa và là điều mà Ngọn Lửa hủy diệt. |
|
Students of the Secret Doctrine when they read carelessly are apt to consider Him only as the fire of matter and omit to note that He is Himself the sumtotal—and this is especially the case when they find that Agni is the Lord of the mental plane. 88 He is the animating life of the solar system, and that life is the life of [603] God, the energy of the Logos, and the manifestation of the radiance which veils the Central Sun. Only as He is recognized as Fohat, the energy of matter, as Wisdom, the nature of the Ego and its motivation, and as essential unity, can any due conception be arrived at as to His nature or being. He is not the solar Logos on the cosmic mental plane, for the egoic consciousness of the Logos is more than His physical manifestation, but Agni is the sumtotal of that portion of the logoic Ego which is reflected down into His physical vehicle; He is the life of the logoic Personality, with all that is included in that expression. He is to the solar Logos on His own plane what the coherent personality of a human being is to his Ego in the causal body. This is a very important point to be grasped, and if meditated upon will bring to the student much enlightenment. His is the life that fuses and blends the threefold nature of the Logos when in physical incarnation; His is the coherent force that makes a unity of the triple logoic Personality, but man can only arrive at His essential nature by the study of the logoic physical vehicle—hence the difficulty; he can only understand by a consideration of His psychic emanation as it can be sensed and viewed by passing the history of the races in retrospect. Man’s personality reveals his nature as his life progresses; his psychic quality unfolds as the years slip away, and when he passes out of incarnation he is spoken of in terms of quality, good or bad, selfish or unselfish; the effect of his “emanation” during life is that which remains in men’s minds. Thus only can the logoic personality express itself, and our knowledge of His nature is consequently limited by our close perspective, and handicapped by the fact that we are participants in His life, and integral parts of His manifestation. |
Các môn sinh của Giáo Lý Bí Nhiệm, khi đọc một cách cẩu thả, thường có khuynh hướng chỉ xem Ngài như lửa của chất liệu và bỏ qua việc ghi nhận rằng tự thân Ngài là tổng số—điều này đặc biệt xảy ra khi họ thấy Agni là Chúa Tể của cõi trí. 88 Ngài là sự sống linh hoạt của hệ mặt trời, và sự sống ấy là sự sống của [603] Thượng đế, là năng lượng của Logos, và là biểu lộ của quang huy che giấu Mặt trời Trung Tâm. Chỉ khi nào Ngài được nhận ra vừa là Fohat, năng lượng của chất liệu, vừa là Minh triết, bản chất của Chân ngã và động cơ thúc đẩy của nó, và vừa như hợp nhất yếu tính, thì mới có thể đạt được một quan niệm đúng đắn nào đó về bản tánh hay hữu thể của Ngài. Ngài không phải là Thái dương Thượng đế trên cõi trí vũ trụ, vì tâm thức chân ngã của Logos là hơn cả biểu lộ thể xác của Ngài, nhưng Agni là tổng số phần của Chân ngã logoic được phản chiếu xuống vận cụ hồng trần của Ngài; Ngài là sự sống của Phàm ngã logoic, với tất cả những gì được bao hàm trong biểu thức ấy. Ngài đối với Thái dương Thượng đế trên cõi của Ngài cũng như phàm ngã kết dính của con người đối với Chân ngã của y trong thể nguyên nhân. Đây là một điểm rất quan trọng cần nắm bắt, và nếu được tham thiền sẽ mang đến cho môn sinh nhiều soi sáng. Sự sống của Ngài là lực kết dính và dung hợp ba phương diện của Logos khi ở trong lâm phàm; lực của Ngài là mãnh lực kết dính làm nên một nhất thể của Phàm ngã tam phân logoic, nhưng con người chỉ có thể tiếp cận bản tánh yếu tính của Ngài bằng việc nghiên cứu vận cụ hồng trần của Logos—do đó mà có khó khăn; y chỉ có thể hiểu bằng cách xét đến sự phóng nhiễm tâm lý của Ngài như nó có thể được cảm và được thấy qua việc duyệt ngược lịch sử các giống dân. Phàm ngã của con người phơi bày bản tánh của y khi đời sống của y tiến triển; phẩm chất tâm lý của y khai mở theo năm tháng trôi đi, và khi y xả bỏ lâm phàm, con người nói về y theo những thuật ngữ về phẩm chất, tốt hay xấu, vị kỷ hay vô kỷ; hiệu quả của “phóng nhiễm” của y trong đời sống là điều còn lại trong tâm trí người đời. Chỉ như thế, phàm ngã logoic mới có thể biểu đạt tự thân, và tri thức của chúng ta về bản tánh của Ngài vì thế bị hạn cuộc bởi cận cảnh quá gần, và bị trở ngại bởi sự kiện là chúng ta là những kẻ tham dự trong Sự sống của Ngài, và là những phần tử tích hợp trong biểu lộ của Ngài. |
|
It is only as we begin to function upon the buddhic plane that we can in any way “live in the subjective” [604] side of nature, and it is only as our knowledge of the spiritual life increases, and as we pass definitely through the portal of initiation into the fifth kingdom that we can appreciate the distinction between the dense physical, and the vital body. Only as we become polarized in the cosmic etheric body and are no longer held prisoner by a dense material sheath (for the three lower planes are but the dense body of the Logos) do we come to a fuller understanding of the psychic nature of the Logos, for we stand then in the body which bridges the gulf between the dense physical, and the astral body of the Logos. Only when this is the case do we understand the function of the Lord Agni as the vital life of the cosmic etheric, as the vitality of the Heavenly Men and the activity of Their sheaths. |
Chỉ khi chúng ta bắt đầu vận hành trên cõi Bồ đề thì chúng ta mới có thể bằng bất kỳ cách nào “sống trong phương diện chủ quan” [604] của thiên nhiên, và chỉ khi tri thức của chúng ta về đời sống tinh thần gia tăng, và khi chúng ta đi qua một cách minh định cánh cổng điểm đạo vào giới thứ năm, chúng ta mới có thể đánh giá được sự phân biệt giữa thể xác đậm đặc và thể sinh lực. Chỉ khi chúng ta được phân cực trong thể dĩ thái vũ trụ và không còn bị cầm tù bởi một vỏ bọc vật chất đậm đặc (vì ba cõi thấp chỉ là thể xác đậm đặc của Logos) thì chúng ta mới đến với một hiểu biết đầy đủ hơn về bản tánh tâm lý của Logos, vì khi ấy chúng ta đứng trong vận cụ nối cầu giữa thể xác đậm đặc và thể cảm dục của Logos. Chỉ khi đó chúng ta mới hiểu được chức năng của Chúa Tể Agni như sự sống sinh động của thể dĩ thái vũ trụ, như sinh khí của các Đấng Thiên Nhân và hoạt động của các hiện thể của Các Ngài. |
|
86 The Life and the Lives. H. P. B. says in the Secret Doctrine: |
86 Sự sống và các sự sống. Bà H. P. B. nói trong Giáo Lý Bí Nhiệm: |
|
“Occultism does not accept anything inorganic in the Cosmos. The expression employed by Science ‘inorganic substance’ means simply that the latent life, slumbering in the molecules of so-called ‘inert matter’ is incognisable. All is Life, and every atom of even mineral dust is a Life, though beyond our comprehension and perception… Life therefore is everywhere in the Universe… wherever there is an atom of matter, a particle or a molecule, even in its most gaseous condition, there is life in it however latent and unconscious.”—S. D., I, 269, 281, 282. |
“Huyền học không chấp nhận bất cứ điều gì vô cơ trong Vũ trụ. Biểu thức mà Khoa học dùng ‘chất vô cơ’ đơn giản có nghĩa là sự sống tiềm ẩn, đang ngủ yên trong các phân tử của cái gọi là ‘vật chất trơ,’ là bất khả tri. Mọi sự đều là Sự sống, và mỗi nguyên tử của ngay cả bụi khoáng cũng là một Sự sống, dù vượt ngoài thấu tri và tri giác của chúng ta… Vậy nên Sự sống ở khắp nơi trong Vũ trụ… hễ nơi đâu có một nguyên tử của vật chất, một hạt hay một phân tử, dù ở trạng thái khí nhất, thì nơi đó có sự sống trong nó, dù tiềm ẩn và vô thức.”—S. D., I, 269, 281, 282. |
|
87 The Life and the Lives. |
87 Sự sống và các sự sống. |
|
1. Everything lives and is conscious, but all life and consciousness is not similar to the human.—S. D., I, 79. |
1. Mọi sự đều sống và có tâm thức, nhưng mọi sự sống và tâm thức không đồng dạng với con người.—S. D., I, 79. |
|
a. Life is the one form of existence manifesting in matter. |
Sự sống là hình thái duy nhất của hiện hữu biểu lộ trong chất liệu. |
|
b. Matter is the vehicle for the manifesting of soul. |
Chất liệu là vận cụ cho sự biểu lộ của hồn. |
|
c. Soul is the vehicle for the manifesting of Spirit. |
Hồn là vận cụ cho sự biểu lộ của Thần Linh. |
|
Therefore: 1st Logos, 2nd Logos, 3rd Logos cooperate. |
Vậy nên: Đệ Nhất Logos, Đệ Nhị Logos, Đệ Tam Logos hiệp lực. |
|
Illustration: |
Minh hoạ: |
|
Life of the 3rd Logos—animating atoms of matter. |
Sự sống của Đệ Tam Logos—linh hoạt các nguyên tử của vật chất. |
|
Life of the 2nd Logos—animating the forms, or aggregate of atoms. |
Sự sống của Đệ Nhị Logos—linh hoạt các hình tướng, hay tập hợp của các nguyên tử. |
|
Life of the 1st Logos—animating the composite forms. |
Sự sống của Đệ Nhất Logos—linh hoạt các hình tướng tổng hợp. |
|
2. The one Life synthesizes this triplicity. |
2. Một Sự sống duy nhất tổng hợp bộ ba này. |
|
Let us work this out in the Macrocosm and Microcosm. |
Chúng ta hãy triển khai điều này trong Đại thiên địa và Tiểu thiên địa. |
|
Fohat, Prana, Electricity, Magnetic Fluid, are all terms used f or this one vitalizing life. |
Fohat, prana, Điện lực, Lưu chất Từ tính, đều là các thuật ngữ dùng cho sự sống tiếp năng duy nhất này. |
|
The Microcosm is animated and vitalized by prana, and its actions controlled by the indwelling Thinker. |
Tiểu thiên địa được linh hoạt và tiếp sinh lực bởi prana, và các hành vi của nó được kiểm soát bởi Kẻ Tư duy nội tại. |
|
The Macrocosm is animated and vitalized by Fohat; its actions are controlled by the informing Intelligence we call the Logos. |
Đại thiên địa được linh hoạt và tiếp sinh lực bởi Fohat; các hành vi của nó được kiểm soát bởi Trí thông linh mà chúng ta gọi là Logos. |
|
88 “…Agni, who is the source of all that gives light and heat. So that there are different species of Agni (fire); but “whatever other fires there may be, they are but the ramifications of Agni, the immortal” (Rig Veda, L, 59 I). The primary division of Agni is threefold. “Agni,” says the Vishnu Purana, “has three sons, Suchi, Pavamana, and Pavaka” (I, x). Suchi means the Saura, or Solar fire; Pavamana means Nirmathana, fire produced by friction, as the friction of two pieces of wood; and Pavaka means the vaidyuta or fire of the firmament, i.e. the fire of the lightning, or electric fire. |
88 “…Agni, Đấng là nguồn của mọi cái gì ban ánh sáng và nhiệt lực. Vì thế có những chủng loại khác nhau của Agni (lửa); nhưng ‘dù có những lửa nào khác, chúng chỉ là những nhánh của Agni, đấng bất tử’ (Rig Veda, L, 59 I). Sự phân chia sơ cấp của Agni là ba ngôi. ‘Agni,’ sách Vishnu Purana nói, ‘có ba người con, Suchi, Pavamana, và Pavaka’ (I, x). Suchi có nghĩa là Saura, hay lửa Thái dương; Pavamana có nghĩa là Nirmathana, lửa sinh ra do ma sát, như ma sát hai mảnh gỗ; và Pavaka có nghĩa là vaidyuta hay lửa của không trung, tức lửa của tia chớp, hay lửa điện. |
|
The sources of these three fires, I may observe in passing, constitute the three principal deities spoken of in the Veda, namely, Surya, the sun, representing the solar fire; Indra (and sometimes, Vayu) the rain-producing deity, representing the fire of the firmament; and Agni, representing the terrestrial fire, the fire produced by friction (Nirukta, VII, 4); and all these three, be it remembered, are merely the ramifications of one Agni; which in its turn is an emanation from the Supreme One, as the reader will find from the allegorical description given of Agni as being the mouth-born son of Brahma, in the Vishnu purana. |
Các nguồn của ba lửa này, xin được nhân đây ghi nhận, cấu thành ba vị thần chính được nói đến trong Veda, tức là, Surya, mặt trời, biểu trưng lửa Thái dương; Indra (và đôi khi, Vayu) vị thần tạo mưa, biểu trưng lửa của không trung; và Agni, biểu trưng lửa địa cầu, lửa phát sinh do ma sát (Nirukta, VII, 4); và cả ba vị này, xin nhớ, chỉ là những phân nhánh của một Agni; và chính Agni này lại là một xuất lộ từ Đấng Tối Cao, như độc giả sẽ tìm thấy từ mô tả ẩn dụ về Agni là người con sinh ra từ miệng của Brahma, trong Vishnu Purana. |
|
Now, each of the triple forms of Agni has numerous subdivisions. The solar fire is distinguished by several divisions according to the nature of the rays emitted by the great luminary.”—The Theosophist, Vol. VII, p. 196. |
Giờ đây, mỗi trong ba dạng của Agni có nhiều phân chi. Lửa Thái dương được phân biệt bởi nhiều phân chi tùy theo bản chất các tia do đại quang thể phát ra.”—The Theosophist, Tập VII, tr. 196. |
b. Agni and the Mental Plane —b. Agni và Cõi trí
|
I seek to deal with a very important point here, emphasizing the close connection between Agni, the sumtotal of the life force of the logoic threefold personality, as He is seen at work on the mental plane (which closely concerns man), and that manifesting driving force or intelligent will which emanates from the cosmic mental plane. There is a very interesting series of correspondences to be worked out here and we might briefly indicate the lines to be followed in this connection by the ensuing tabulation: |
Tôi muốn xử lý một điểm rất quan trọng ở đây, nhấn mạnh mối liên hệ gần gũi giữa Agni, tổng số sinh lực của phàm ngã tam phân logoic, như Ngài được thấy làm việc trên cõi trí (cõi liên hệ mật thiết với con người), và lực thúc đẩy biểu lộ hay ý chí thông minh phát xuất từ cõi trí vũ trụ. Có một chuỗi tương ứng rất thú vị cần được triển khai ở đây và chúng ta có thể phác thảo ngắn gọn những đường hướng cần theo trong mối liên hệ này bằng bảng liệt kê sau: |
|
– The 5th cosmic plane—The cosmic mental. |
Cõi vũ trụ thứ 5—Cõi trí vũ trụ. |
|
– The 5th systemic plane—The mental plane. |
Cõi hệ thống thứ 5—Cõi trí. |
|
– The 5th subplane of the physical—The gaseous. |
Cõi phụ thứ 5 của cõi hồng trần—Cõi khí. |
|
– The 5th principle—Manas. |
Nguyên khí thứ 5—Manas. |
|
– The 5th Law—Fixation, the Law of Concretion. |
Định luật thứ 5—Cố định, Định luật của sự kết khối. |
|
– The 5th Ray—Concrete knowledge. |
Cung thứ 5—Tri thức cụ thể. |
|
– The 5th round—The round of manasic attainment. [605] |
Cuộc tuần hoàn thứ 5—Cuộc tuần hoàn của thành tựu manasic. [605] |
|
– The 5th root-race—The Aryan. Mental development. |
Giống dân gốc thứ 5—Arya. Phát triển trí tuệ. |
|
– The 5th subrace—The Teutonic and Anglo-Saxon. Concrete mind. |
Giống dân phụ thứ 5—German và Anglo-Saxon. Trí cụ thể. |
|
– The 5th group of Devas—Fire Devas of the mental plane. |
Nhóm thiên thần thứ 5—Thiên thần Lửa của cõi trí. |
|
– The 5th Manvantara—Three-fifths of the manasaputras achieve. |
Giai kỳ sinh hóa thứ 5—Ba phần năm các manasaputra thành tựu. |
|
– The 5th scheme—The Lord of concrete science. |
Hệ hành tinh thứ 5—Vị Chúa Tể của khoa học cụ thể. |
|
– The 5th Mahamanvantara (or solar system)—The solar Logos achieves His fifth major Initiation. |
Đại giai kỳ sinh hóa thứ 5 (hay hệ mặt trời)—Thái dương Thượng đế đạt lần Điểm đạo lớn thứ năm. |
|
– The 5th chain—Principal evolution—fire devas. |
Dãy thứ 5—Tiến hoá chủ yếu—các thiên thần lửa. |
|
– The 5th Hierarchy—The greater Builders. |
Huyền Giai thứ 5—Các Nhà Kiến Tạo Lớn. |
|
– Vibrations of fifth order—Manasic. |
Rung động bậc năm—Manasic. |
|
It will, therefore, be apparent that when the system is viewed in reverse order and the physical plane is counted as the first (as it often is when considering it as the field of strictly human evolution), that the third plane—the mental plane—comes under the same group of correspondences and Agni, as the energizing factor of the dense physical body of the Logos, or as the fire of His most concrete manifestation, vitalizing, warming and holding all together, has to be considered. |
Vì vậy, sẽ hiển nhiên rằng khi hệ thống được nhìn theo thứ tự đảo nghịch và cõi hồng trần được tính là thứ nhất (như vẫn thường khi xem nó như trường của tiến hoá thuần túy nhân loại), thì cõi thứ ba—cõi trí—rơi vào cùng nhóm tương ứng và Agni, như yếu tố tiếp năng của vận cụ hồng trần đậm đặc của Logos, hay như lửa của biểu lộ cụ thể nhất của Ngài, đang tiếp sinh khí, sưởi ấm và giữ tất cả trong kết dính, phải được xét đến. |
|
Three hierarchies are, in this mahamanvantara, of profound significance, the fourth or human Creative Hierarchy, and the two deva hierarchies, the fifth and sixth. |
Ba Huyền Giai có, trong Đại giai kỳ sinh hóa này, tầm ý nghĩa thâm sâu, đó là Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư hay nhân loại, và hai Huyền Giai thiên thần, thứ năm và thứ sáu. |
|
The fourth Hierarchy in the larger scheme is literally the ninth, for five hierarchies have earlier passed on and are considered as pure abstractions. In this system concretion concerns us, and the blending of form and of energy into one coherent whole. In the ninth, tenth and eleventh Hierarchies lie the clue to the nature of Agni, the Lord of fire, the sumtotal of systemic vitality. He who understands the significance of these figures, and their relation to each other as the triple division of a Unity in time and space will have discovered [606] one of the keys which will unlock a door hitherto fast closed. They are the numbers of achievement, of potentiality brought into full activity and of innate capacity demonstrating in perfect fruition. All potentiality lies in the vitalizing, energizing power of Agni, and in His ability to stimulate. He is life itself, and the driving force of evolution, of psychic development and of consciousness. This fact is hidden in these figures, and not the evolution of substance, which is but a result, emanating from psychic causes. These three numbers are the basis of the cyclic calculations which concern the egoic cycles, and the cycles of Vishnu, as distinguished from the cycles dealing with the third aspect. Occult students have not sufficiently grasped the fact that objectivity is an inevitable result of an inner conscious subjective life. When this is better apprehended, bodies on the physical plane, for instance, will be purified, developed and beautified through a scientific attention paid to the development of the psyche, to the unfoldment of the Ego, and to the stimulation of the egoic vibration. The cause will be dealt with and not the effect, and hence the growing appreciation by the human family of the study of psychology, even though as yet they are but studying the kama-manasic body, and have not reached back to the egoic consciousness. The lunar Lords have had their day; now Agni, as the solar Lord of life and energy, will assume due importance in human life. |
Huyền Giai thứ tư trong sơ đồ lớn thực chất là Huyền Giai thứ chín, vì năm Huyền Giai đã đi qua trước đó và được xem như những trừu tượng thuần tuý. Trong hệ này, sự kết khối quan hệ đến chúng ta, và sự pha hoà của hình tướng và năng lượng vào một toàn thể kết dính. Trong các Huyền Giai thứ chín, mười và mười một nằm chìa khoá cho bản tánh của Agni, Chúa Tể của lửa, tổng số của sinh lực hệ thống. Kẻ nào hiểu được ý nghĩa của những con số này, và mối liên hệ của chúng với nhau như là sự phân ba của Một Nhất thể trong thời gian và không gian sẽ phát hiện [606] một trong những chìa khoá mở cánh cửa từ trước đến nay đóng kín. Chúng là những con số của thành tựu, của tiềm năng được đưa vào hoạt động toàn mãn và của năng lực bẩm sinh được biểu lộ trong kết quả hoàn thiện. Mọi tiềm năng đều nằm trong quyền năng tiếp sinh lực, kích thích của Agni, và trong khả năng của Ngài để khích hoạt. Ngài là sự sống tự thân, và là mãnh lực thúc đẩy của tiến hoá, của phát triển tâm linh và của tâm thức. Sự kiện này ẩn tàng trong những con số này, chứ không phải sự tiến hoá của chất liệu, vốn chỉ là hệ quả, phát xuất từ các nguyên nhân tâm lý. Ba con số này là nền tảng của các phép tính chu kỳ liên hệ đến các chu kỳ chân ngã, và các chu kỳ của Vishnu, như được phân biệt với các chu kỳ liên hệ đến phương diện thứ ba. Các môn sinh huyền môn chưa nắm đủ thâm sâu sự kiện rằng tính khách quan là một hệ quả tất yếu của một đời sống chủ quan nội thức. Khi điều này được thấu hiểu hơn, các thể trên cõi hồng trần, chẳng hạn, sẽ được thanh lọc, phát triển và làm đẹp qua sự chú ý có tính khoa học dành cho sự phát triển của tâm linh, cho sự khai mở của Chân ngã, và cho sự kích hoạt rung động chân ngã. Nguyên nhân sẽ được xử lý chứ không phải hệ quả, và vì vậy mà có sự trân trọng ngày càng tăng của gia đình nhân loại đối với việc nghiên cứu tâm lý học, dù hiện thời họ mới chỉ đang học về thể trí-cảm, và chưa đạt tới tâm thức chân ngã. Các nguyệt tinh quân đã có ngày của họ; giờ đây Agni, như vị Nhật Tinh Quân của sự sống và năng lượng, sẽ chiếm địa vị xứng đáng trong đời sống nhân loại. |
c. Agni and the Three Fires —c. Agni và Ba Ngọn Lửa
|
In studying the manifestation of Agni in the solar system it should be remembered that we are considering here His essential nature as actuating fire. We have seen that He is the threefold logoic personality, but He is the threefold Logos in a subjective sense, and the [607] form aspect is only subsidiary. Perhaps a tabulation may make this point clearer. |
Khi khảo cứu sự biểu lộ của Agni trong hệ mặt trời, cần ghi nhớ rằng ở đây chúng ta đang xét đến bản tính cốt yếu của Ngài như là lửa phát động. Chúng ta đã thấy Ngài là phàm ngã tam phân của Thượng đế, nhưng Ngài là Thượng đế tam phân theo nghĩa chủ quan, và phương diện hình tướng [607] chỉ là thuộc tính phụ. Có lẽ một bảng kê sẽ làm điểm này sáng tỏ hơn. |
|
[table 2] |
[bảng 2] |
|
Each of these three aspects of the One Fire, showing as the Creative Fire, Preserving Fire, and Destroying Fire, must be studied as electrical phenomena, and this under the aspects of light, flame, and heat, of electricity, radiance and motion, of will, desire and action. Only thus will the true nature of Agni be apprehended. As the logoic personality He is demonstrating through a triplicity of sheaths forming a unity, and only thus will it become apparent why at this stage in evolution the material aspect is the most considered. |
Mỗi trong ba phương diện này của Một Lửa, tỏ hiện như Lửa Sáng Tạo, Lửa Bảo Tồn, và Lửa Hủy Diệt, đều phải được khảo sát như các hiện tượng điện lực, dưới các phương diện ánh sáng, ngọn lửa và nhiệt; của điện lực, quang huy và chuyển động; của ý chí, dục vọng và hành động. Chỉ như vậy bản tính chân thật của Agni mới được lĩnh hội. Với tư cách phàm ngã của Thượng đế, Ngài đang biểu thị qua một bộ ba các thể hợp thành một nhất thể, và chỉ như thế mới hiển nhiên vì sao ở giai đoạn này của tiến hoá, phương diện vật chất lại được lưu tâm nhất. |
|
The entire system is the physical sheath of the Logos and consequently the most easily cognized, for the Logos is as yet centered in His cosmic sheaths and can only reveal Himself through their medium. |
Toàn bộ hệ thống là thể xác của Thượng đế và do đó là cái dễ nhận thức nhất, vì Thượng đế hiện vẫn còn tập trung trong các thể vũ trụ của Ngài và chỉ có thể tự mặc khải qua trung gian của chúng. |
|
Man’s just apprehension of this mystery of electricity will only come about as he studies himself, and knows himself to be a triple fire, manifesting in many aspects. |
Sự nắm bắt đúng đắn của con người về huyền nhiệm của điện lực chỉ đến khi y khảo sát chính mình, và biết mình là một tam hỏa, biểu lộ trong nhiều phương diện. |
|
I seek to emphasize here the fact that in this threefold manifestation there is a ninefold unfoldment. It should ever be borne in mind that seven is the number which governs the evolution of substance and of form building in the solar system, but that nine is the number governing the development of the consciousness within that form of the psyche. This is seen in the sevenfold display of logoic life through the planetary scheme, and the ninefold nature of egoic unfoldment. |
Tôi muốn nhấn mạnh ở đây thực tế rằng trong biểu lộ tam phân ấy có một sự triển khai cửu phân. Luôn phải ghi nhớ rằng bảy là con số chi phối sự tiến hoá của chất liệu và của công cuộc kiến tạo hình tướng trong hệ mặt trời, còn chín là con số chi phối sự phát triển của tâm thức bên trong hình tướng ấy, tức phương diện tâm linh. Điều này được thấy qua sự hiển lộ thất phân của sự sống logoic xuyên qua các hệ thống hành tinh, và bản tính cửu phân của sự triển khai chân ngã. |
|
If the student here substitutes for the words, Monad, Ego and personality, the three aspects of the Logos, and will bear in mind that as yet all that he can ascertain or cognize is the lowest of the logoic manifestations—the personality—it will be apparent why so much must remain mysterious to even the higher grades of initiates, and why even the perfected Dhyan Chohan cannot penetrate the secrets of the Logos outside His system. 89 They [610] can cognize much concerning Agni, the Lord of Fire, but until They can contact that of which He is an emanation, a reflection or a ray, there is a limit to what may be known. |
Nếu đạo sinh ở đây thay cho các từ Chân thần, Chân ngã và phàm ngã bằng ba phương diện của Thượng đế, và ghi nhớ rằng đến nay tất cả những gì y có thể xác định hay nhận thức được chỉ là biểu lộ thấp nhất của Thượng đế—tức phàm ngã—thì sẽ hiển nhiên vì sao nhiều điều vẫn còn là huyền nhiệm ngay cả đối với các cấp bậc điểm đạo đồ cao hơn, và vì sao ngay cả vị Dhyan Chohan hoàn mãn cũng không thể xuyên thấu các bí mật của Thượng đế bên ngoài Hệ của Ngài. 89 Các Ngài [610] có thể nhận thức nhiều điều liên quan đến Agni, Chúa Tể của Lửa, nhưng cho đến khi Các Ngài có thể tiếp xúc với Cái mà Ngài là xuất lộ, phản ảnh hay quang tuyến của nó, thì vẫn có một giới hạn cho những gì có thể được biết. |
|
89 H.P.B. in the Secret Doctrine refers to “…the solution of the riddle… before which even the highest Dhyan Chohan must bow in silence and ignorance—the Unspeakable Mystery of that which is called by the Vedantins, Parabrahman.”—S. D., I, 352. |
89 Bà H. P. B. trong Giáo Lý Bí Nhiệm có nói đến “…lời giải của câu đố… trước đó ngay cả vị Dhyan Chohan cao cả nhất cũng phải cúi đầu trong im lặng và vô tri—Huyền Nhiệm Bất Khả Ngôn của cái mà phái Vedantin gọi là Parabrahman.”—S. D., I, 352. |
|
Agni is Fohat, the threefold Energy (emanating from the logoic Ego) which produces the solar system, the physical vehicle of the Logos, and animates the atoms of substance. He is the basis of the evolutionary process, or the cause of the psychic unfoldment of the Logos, and He is that vitality which ultimately brings about a divine synthesis in which the form approximates subjective demand, and after being consciously directed, and manipulated, is finally discarded. This is the goal for the Logos as it is for man; this marks the final liberation of a human being, of a Heavenly Man and of a solar Logos. |
Agni là Fohat, Năng lượng tam phân (xuất lộ từ chân ngã của Thượng đế) tạo ra hệ mặt trời, vận cụ hồng trần của Thượng đế, và hoạt hoá các nguyên tử của chất liệu. Ngài là nền tảng của tiến trình tiến hoá, hay nguyên nhân của sự triển khai tâm linh của Thượng đế; Ngài là sinh khí sau cùng mang lại một tổng hợp thiêng liêng, trong đó hình tướng tiệm cận yêu cầu chủ quan, và sau khi được điều khiển và xử dụng một cách có ý thức, cuối cùng bị loại bỏ. Đây là cứu cánh đối với Thượng đế cũng như đối với con người; điều này đánh dấu sự giải thoát cuối cùng của một con người, của một Đấng Thiên Nhân và của một Thái dương Thượng đế. |
|
We could divide the process into three periods: |
Chúng ta có thể phân chia tiến trình thành ba kỳ: |
|
First. The period wherein the fire of matter (the heat of mother) hides, nourishes and brings to birth the infant Ego. This is the period of purely personality life, when the third aspect dominates, and man is in the veil of illusion. |
Thứ nhất. Kỳ mà lửa của vật chất (nhiệt của Mẹ) che chở, dưỡng nuôi và sinh hạ Chân ngã ấu nhi. Đây là thời kỳ đời sống thuần phàm ngã, khi phương diện ba chi phối, và con người còn trong bức màn ảo tưởng. |
|
Second. The period wherein the Ego, or subjective life within the form, passes through certain stages of unfoldment, and comes to an ever fuller consciousness. This is the period of egoic development, and is produced by the gradual merging and blending of the two fires. It is the life of service and of the Path. |
Thứ hai. Kỳ mà Chân ngã, hay sự sống chủ quan bên trong hình tướng, trải qua các giai đoạn triển khai nhất định, và đạt đến một tâm thức ngày càng viên mãn. Đây là thời kỳ phát triển chân ngã, được tạo nên bởi sự hòa nhập và dung hợp dần dần của hai ngọn lửa. Đó là đời sống phụng sự và của Thánh Đạo. |
|
Third. The period wherein the egoic consciousness itself is superseded by spiritual realization, and the fire of Spirit blends with the other two. |
Thứ ba. Kỳ mà chính tâm thức chân ngã được siêu vượt bởi sự chứng ngộ tinh thần, và lửa của Linh hợp nhất với hai lửa kia. |
|
At first the personality acts the part of mother, or of material aspect, to the germ of the inner life. Then [611] the Ego manifests its life within the personal life, and produces a shining forth which “growth ever more and more until the perfect day.” (Bible. Proverbs IV, 18.) At that perfect day of revelation it is seen what man in essence is, and the Spirit within is revealed. This can be studied from the Christian angle, and Paul was but voicing an occult truth when he enunciated the facts concerning the birth of the Christ within the heart, and the growth of the higher life at the expense of the lower. Thus also can it be taught along occult, and not mystic, lines in the recognition (by science) of the vitalization of the permanent atoms (the force centers of the sheaths or substance), of the unfoldment of the egoic lotus, and the awakening of its petals, and in the final revelation of the jewel in the lotus. |
Thoạt đầu phàm ngã đóng vai người mẹ, tức phương diện vật chất, đối với mầm sống bên trong. Kế đó [611] Chân ngã biểu lộ sự sống của mình trong đời sống phàm ngã, và tạo ra một sự chiếu rạng “càng tăng trưởng mãi cho đến ngày hoàn hảo.” (Kinh Thánh. Châm Ngôn IV, 18.) Vào ngày hoàn hảo của sự mặc khải ấy, bản thể chân thật của con người được thấy ra, và Linh bên trong được hiển lộ. Điều này có thể khảo sát theo góc nhìn Ki-tô giáo, và Phao-lô chỉ lặp lại một chân lý huyền bí khi ông công bố các sự kiện liên quan đến sự hạ sinh của Đức Christ trong tim, và sự tăng trưởng của đời sống cao hơn bằng cái giá của đời sống thấp hơn. Cũng vậy, có thể giảng dạy điều này theo đường hướng huyền bí, chứ không thần bí, qua sự nhìn nhận (bởi khoa học) việc tiếp sinh lực cho các nguyên tử trường tồn (các trung tâm lực của các thể hay của chất liệu), việc triển khai Hoa Sen Chân Ngã, và sự tỉnh thức của các cánh hoa của nó, cùng sự mặc khải sau cùng của viên bảo châu trong hoa sen. |
|
All that can be said of man can be predicated of the Logos on an inconceivably greater scale. As man discovers the laws of his own material sheaths—the laws of substance—he is ascertaining the nature of the fires of the outer man or Fohat, as he vitalizes the logoic vehicle; the fires of his own sheaths are aspects of Agni as the fire of matter. As he ascertains the nature of consciousness, and the laws of psychical unfoldment he is studying the nature of the vitality of the subjective man, and the laws of conscious being, thus studying Agni as He manifests as Light and Cool Radiance, shining through the vehicle. Later (for the time is not yet) as he comes to comprehend the nature of his Monad, the spiritual or essential life which is developing consciousness by means of the sheaths, he will discover the nature of Agni as He shews forth as pure electricity. Even though this is not yet possible, nevertheless the statement as to the lines of investigation which can be pursued, and the realization of that which may eventually [612] be achieved, may cause men’s minds to turn to the study of the real and of the true. |
Mọi điều có thể nói về con người cũng có thể tiên quyết về Thượng đế trên một quy mô không thể tưởng tượng nổi. Khi con người khám phá các định luật của các thể vật chất của mình—các định luật của chất liệu—y đang xác định bản chất của các ngọn lửa của con người bên ngoài hay Fohat, khi y tiếp sinh cho vận cụ của Thượng đế; các ngọn lửa của các thể y là các phương diện của Agni với tư cách là lửa của vật chất. Khi y xác định bản chất của tâm thức, và các định luật của sự triển khai tâm linh, y đang khảo sát bản chất sinh khí của con người chủ quan, và các định luật của hiện hữu có ý thức, như thế là khảo sát Agni khi Ngài biểu lộ như Ánh sáng và Quang huy mát dịu, chiếu qua vận cụ. Về sau (vì thời điểm ấy chưa đến) khi y thấu hiểu bản chất của Chân thần của mình, tức sự sống tinh thần hay bản thể đang phát triển tâm thức nhờ các thể, y sẽ khám phá bản chất của Agni khi Ngài biểu lộ như điện lực thuần khiết. Dù điều này chưa thể thực hiện, tuy nhiên sự xác lập các đường hướng khả dĩ nghiên cứu, và sự nhận thức về những gì rốt cuộc [612] có thể đạt thành, có thể khiến tư tưởng của con người hướng đến việc khảo cứu cái chân thực và cái chân thật. |
[Commentary S6S5]
2. The Fire Devas—The Greater Builders —2. Các Thiên Thần Lửa—Những Đấng Kiến Tạo Vĩ Đại
|
I have divided the groups of devas and elementals into evolutionary and involutionary Builders—those who are in themselves positive force, and those which are negative force, the conscious and the blind workers. It is absolutely essential that students bear in mind here that we are studying the mystery of electricity and therefore must remember the following facts: |
Tôi đã phân chia các nhóm thiên thần và hành khí thành các Đấng Kiến Tạo thăng thượng tiến hoá và giáng hạ tiến hoá—những vị tự thân là mãnh lực dương, và những vị là mãnh lực âm, những người thợ có ý thức và những người thợ mù quáng. Điều tuyệt đối thiết yếu là các đạo sinh cần ghi nhớ rằng chúng ta đang học về huyền nhiệm của điện lực và do đó phải nhớ các sự kiện sau: |
[Commentary S6S6]
a. Introductory Remarks—a. Những lời dẫn nhập
|
The Mystery of Electricity. The greater Builders are the positive aspect of substance or of electrical phenomena whilst the lesser Builders are the negative aspect. |
Huyền Nhiệm của Điện lực. Các Đấng Kiến Tạo cao cả là phương diện dương của chất liệu hay của các hiện tượng điện lực, trong khi các Đấng Kiến Tạo thấp là phương diện âm. |
|
Two types of force are represented in the activities of these two groups and it is their interaction and interplay which produces Light, or the manifested solar system. |
Hai loại lực được biểu thị trong các hoạt động của hai nhóm này và chính sự tương tác, hỗ tương cảm ứng của chúng tạo nên Ánh sáng, tức hệ mặt trời được biểu lộ. |
|
Their sumtotal is substance in its totality, the intelligent active form, built for the purpose of providing a habitation for a central subjective life. |
Tổng số của chúng là chất liệu trong toàn bộ tính thể của nó, là hình tướng hoạt động thông tuệ, được kiến tạo nhằm cung ứng một nơi cư trú cho một sự sống chủ quan trung tâm. |
|
They are also the sumtotal of the Pitris, 91 or Fathers of mankind, viewing mankind as the race itself, the fourth kingdom in nature, the Heavenly Men in physical manifestation. This is a most important point to emphasize. These deva activities in relation to Self-Consciousness (which is the distinctive characteristic of humanity) can best be studied in the large, or through [613] the consideration of groups, of races, and of the life of the scheme, the manifestation of one of the Heavenly Men. When the student brings his study of deva work down to the terms of his own individual life he is apt to become confused through too close a juxtaposition. |
Các Ngài cũng là tổng số của các Pitris, 91 hay các Tổ phụ của nhân loại, xét nhân loại như một chủng tộc tự thân, giới thứ tư trong thiên nhiên, các Đấng Thiên Nhân trong sự biểu lộ hồng trần. Đây là một điểm cực kỳ quan trọng cần nhấn mạnh. Các hoạt động của chư thiên thần liên hệ đến Tự-Tâm-thức (vốn là đặc trưng phân biệt của nhân loại) có thể được học tốt nhất ở bình diện rộng, hoặc qua [613] sự khảo sát các nhóm, các giống dân, và đời sống của một hệ hành tinh, tức sự biểu lộ của một trong các Đấng Thiên Nhân. Khi đạo sinh hạ cuộc khảo cứu công tác của thiên thần xuống phạm vi đời sống cá nhân của chính mình, y rất dễ bị rối trí do sự kề cận quá sát. |
|
The greater Builders are the solar Pitris, whilst the lesser Builders are the lunar ancestors. I would here explain the occult meaning of the word “ancestor,” as used in esotericism. It means literally initiatory life impulse. It is that subjective activity which produces objectivity, and concerns those emanatory impulses which come from any positive center of force, and which sweep the negative aspect into the line of that force, and thus produce a form of some kind. The word “ancestor” is used in connection with both aspects. |
Các Đấng Kiến Tạo cao cả là các thái dương tổ phụ, trong khi các Đấng Kiến Tạo thấp là các tổ tiên thái âm. Tại đây, tôi muốn giải thích ý nghĩa huyền bí của từ “tổ tiên” như được dùng trong huyền bí học. Nó có nghĩa đen là xung lực khai mở sự sống. Đó là hoạt động chủ quan sản sinh khách quan, và liên quan đến những xung lực xuất lộ phát xuất từ bất kỳ trung tâm lực dương tính nào, quét cuốn phương diện âm vào tuyến của lực ấy, và như thế tạo ra một hình tướng nào đó. Từ “tổ tiên” được dùng cho cả hai phương diện. |
|
The solar Logos is the initiatory impulse or Father of the Son in His physical incarnation, a solar system. He is the sumtotal of the Pitris, in the process of providing form. The union of Father (positive force) and Mother (negative force) produces that central blaze which we call the form, the body of manifestation of the Son. A Heavenly Man holds an analogous position in relation to a planetary scheme. He is the central germ of positive life or force, which, in due course of time, demonstrates as a planetary scheme, or an incarnation of the planetary Logos. A man similarly is the positive life or energy which, through action on negative force, creates bodies of manifestation through which he can shine or radiate. 92, 93, 94 |
Thái dương Thượng đế là xung lực khai mở hay là Cha của Con trong lần lâm phàm hồng trần của Ngài, tức một hệ mặt trời. Ngài là tổng số các Tổ phụ, trong tiến trình cung ứng hình tướng. Sự phối hợp của Cha (lực dương) và Mẹ (lực âm) tạo ra đốm chói trung tâm mà chúng ta gọi là hình tướng, thân biểu lộ của Con. Một Đấng Thiên Nhân giữ một vị trí tương tự đối với một hệ hành tinh. Ngài là mầm sống trung tâm của sự sống hay lực dương, cái mà đến thời điểm thích hợp, biểu lộ như một hệ hành tinh, hay một lần lâm phàm của Hành Tinh Thượng đế. Một con người cũng vậy, là sự sống hay năng lượng dương tính, nhờ tác động lên lực âm, tạo ra các thân biểu lộ qua đó y có thể chiếu rạng hay toả sáng. 92, 93, 94 |
|
91 The Lunar Pitris. “The great Chohans called the Lords of the Moon, of the airy bodies: Bring forth Men,” they were told, “men of your nature. Give them their forms within. She (Mother Earth) will build coverings without (for external bodies). Males—females will they be. Lords of the Flame also… They went each on his allotted lands: Seven of them each on his lot. The Lords of the Flame remained behind. They would not go. They would not create.”—Stanza III, 12, 13, S. D., II, 79, 81. |
91 Thái âm tổ phụ. “Các Đại Chohan gọi các Chúa của Mặt Trăng, của các thân thể khí: Hãy tạo ra Con Người,” họ được bảo, “những người theo bản tính của các ông. Hãy ban cho họ các hình tướng bên trong. Nàng (Mẹ Đất) sẽ dựng các lớp vỏ bên ngoài (cho thân thể bên ngoài). Họ sẽ là đực—cái. Các Chúa của Ngọn Lửa cũng vậy… Họ đi, mỗi vị đến phần đất được phân bổ: Bảy vị, mỗi vị đến phần của mình. Các Chúa của Ngọn Lửa ở lại phía sau. Họ không chịu đi. Họ không chịu tạo dựng.”—Khổ thư III, 12, 13, S. D., II, 79, 81. |
|
92 The Lunar Pitris created the physical man.—S. D., I, 114, 197. |
92 Thái âm tổ phụ tạo ra con người thể xác.—S. D., I, 114, 197. |
|
They exist in three great classes. |
Họ tồn tại trong ba đẳng cấp lớn. |
|
1. The most developed. |
Những vị phát triển nhất. |
|
– They form, in Round one, the sumtotal of the three kingdoms, and achieve a human form.—S. D., I, 203. |
Trong Cuộc tuần hoàn thứ nhất, họ tạo thành tổng số của ba giới, và đạt được hình tướng nhân loại.—S. D., I, 203. |
|
– In Rounds two and three they are the sumtotal of that which will eventually be human. |
Trong các Cuộc tuần hoàn hai và ba, họ là tổng số của cái sẽ rốt cuộc trở thành nhân loại. |
|
– In Round four at the beginning they form the etheric bodies of our Earth humanity. |
Trong Cuộc tuần hoàn bốn, lúc ban đầu họ kiến tạo các thể dĩ thái của nhân loại Địa Cầu chúng ta. |
|
2. Those whose bodies are taken by the Solar Angels—S. D., I, 203. |
Những vị có các thể được Thái dương Thiên Thần thâu nhận—S. D., I, 203. |
|
3. The sum total of the three kingdoms at present known. |
Tổng số của ba giới hiện đang biết đến. |
|
93 The Earth gives man his body; the Gods give him his five inner principles… Spirit is one.—S. D., I, 248. |
93 Đất ban cho con người thân thể; Chư Thần ban cho y năm nguyên khí nội tại… Linh là một.—S. D., I, 248. |
|
1. The Earth gives the dense physical. |
Đất ban cho thể xác đậm đặc. |
|
2. The Lunar Gods give him three lower principles: |
Các Thần Thái âm ban cho y ba nguyên khí thấp: |
|
a. Etheric body |
Thể dĩ thái |
|
b. Prana |
Prana |
|
c. Kama—manas |
Kama—manas |
|
3. The Solar Gods give him two principles: |
Các Thần Thái dương ban cho y hai nguyên khí: |
|
a. Lower mind |
Hạ trí |
|
b. Higher mind |
Thượng trí |
|
4. The Monad is the unified two highest principles: |
Chân thần là sự hợp nhất của hai nguyên khí cao nhất: |
|
a. Buddhi |
Bồ đề |
|
b. Atma |
Atma |
|
– S. D., I, 248. |
– S. D., I, 248. |
|
94 The totality of form. God is “One, notwithstanding the innumerable forms which are in Him,” so is man, on earth the microcosm of the macrocosm.—S. D., II, 197; II, 303; III, 584. |
94 Tổng số của hình tướng. Thượng đế là “Một, cho dù vô số hình tướng ở trong Ngài,” con người cũng thế, ở trần gian là tiểu thiên địa của đại thiên địa.—S. D., II, 197; II, 303; III, 584. |
|
– Everything is comprised in man. |
Mọi sự đều hàm chứa trong con người. |
|
– He unites in himself all forms. |
Y kết hợp trong chính mình mọi hình tướng. |
|
– The mystery of the earthly man is the mystery of the Heavenly Man. |
Huyền nhiệm của con người trần thế là huyền nhiệm của Đấng Thiên Nhân. |
|
– The potentiality of every organ useful to animal life is locked up in man, the Microcosm of the Macrocosm.—S. D., II, 723. |
Tiềm năng của mọi cơ quan hữu ích cho đời sống thú vật đều ẩn tàng trong con người, Tiểu thiên địa của Đại thiên địa.—S. D., II, 723. |
|
The lesser Builders 95 are the negative aspect and are swept into action in group formation through the play [614] of positive force upon them, or through the action of the conscious Minds of the system. At the present stage of evolution—during the period of Light—it is difficult for the human being (until he has attained the consciousness of the Ego) to differentiate between the types of force, and to work consciously with these dual aspects. An Adept of the Light works with force in substance, viewing substance as that which is negative, and therefore occultly to be moved, and He can do this because He has (in the three worlds of His endeavor) achieved unity, or the point of balance and equilibrium, and can therefore balance forces and deal with positive and negative energies as appears best in the interests of the plan of evolution. The Brother of Darkness, knowing himself to be positive force in essence, works with negative substance, or with the lesser Builders to bring about ends [615] of his own, incited thereto by selfish motive. The Brothers of Light cooperate with the positive aspect in, and of, all forms—the building devas of evolutionary intent—in order to bring about the purposes of the Heavenly Man Who is the sumtotal of planetary physical manifestation. |
Các Đấng Kiến Tạo thấp 95 là phương diện âm và bị cuốn vào hoạt động theo đội ngũ nhờ sự [614] tác động của lực dương lên họ, hay nhờ hoạt động của những Trí tuệ có ý thức trong hệ thống. Ở giai đoạn tiến hoá hiện nay—trong thời kỳ của Ánh sáng—con người (cho đến khi đạt tâm thức của Chân ngã) khó mà phân biệt giữa các loại lực, và khó làm việc một cách có ý thức với hai phương diện kép này. Một Chân sư của Ánh sáng làm việc với lực trong chất liệu, xem chất liệu là cái âm, và vì vậy về mặt huyền bí là để bị chuyển động; và Ngài có thể làm điều này vì Ngài (trong ba cõi công phu của Ngài) đã đạt được hợp nhất, hay điểm thăng bằng và quân bình, và nhờ đó có thể quân bình các lực, xử lý các năng lượng dương và âm theo cách xuất hiện là tốt nhất cho lợi ích của Thiên Cơ tiến hoá. Huynh đệ của Bóng tối, biết mình về bản chất là lực dương, làm việc với chất liệu âm, hay với các Đấng Kiến Tạo thấp để đạt đến các cứu cánh [615] riêng, do động cơ vị kỷ xúi giục. Các Huynh đệ của Ánh sáng hiệp tác với phương diện dương ở trong, và của, mọi hình tướng—các thiên thần kiến tạo có ý hướng thăng thượng tiến hoá—hầu đưa đến các mục đích của Đấng Thiên Nhân, Đấng là tổng số của sự biểu lộ hồng trần hành tinh. |
|
It can be seen, therefore, how necessary it is that the functions of the devas of all grades be comprehended. It is however equally important that man should refrain from the manipulation of these forces of nature until such time as he “knows” himself, and his own powers, and until he has fully unfolded the consciousness of the ego; then, and only then, can he safely, wisely, and intelligently cooperate in the plan. As yet, for the average man or even the advanced man this is dangerous to attempt and impossible to accomplish. |
Vì thế có thể thấy được sự cần thiết đến mức nào của việc thông suốt các chức năng của chư thiên thần ở mọi đẳng cấp. Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là con người nên kiêng việc thao túng các lực của thiên nhiên cho đến khi nào y “biết” chính mình, và quyền năng của mình, và cho đến khi y triển khai trọn vẹn tâm thức của chân ngã; bấy giờ, và chỉ bấy giờ, y mới có thể hiệp tác một cách an toàn, khôn ngoan và thông tuệ trong Thiên Cơ. Còn hiện thời, đối với người thường, thậm chí người tiến bộ, thì điều này vừa nguy hiểm khi toan thử, vừa bất khả thi để hoàn thành. |
|
Now, let us add a few more statements upon which the student can ponder before we pass on to study specifically the three main groups of building devas on the three planes in the three worlds which most intimately concern man. |
Giờ đây, chúng ta hãy thêm vài mệnh đề nữa để đạo sinh có thể ngẫm nghĩ trước khi bước tiếp sang khảo sát một cách chuyên biệt ba nhóm chính của các thiên thần kiến tạo trên ba cõi trong ba thế giới vốn liên hệ gần gũi nhất với con người. |
|
The building devas 96 are the Ahhi, or Universal Mind. They contain within their consciousness the plan logoic, [616] and inherently possess the power to work it out in time and space, being the conscious forces of evolution. |
Các thiên thần kiến tạo 96 là Ahhi, hay Vũ Trụ Trí. Các Ngài bao hàm trong tâm thức mình Thiên Cơ của Thượng đế, [616] và tự thân sở hữu quyền năng triển khai Thiên Cơ ấy trong thời gian và không gian, vì Các Ngài là những mãnh lực có ý thức của tiến hoá. |
|
They not only embody the Divine Thought but are that through which it manifests, and its actuating activity. They are essentially motion. The lesser builders are more particularly the material form which is actuated, and in their cohorts are the substance of matter (considering substance as that which lies back of matter). |
Các Ngài không chỉ bao hàm Tư tưởng Thiêng liêng mà còn là cái qua đó nó được biểu lộ, và là hoạt năng phát động của nó. Về bản chất, Các Ngài là chuyển động. Các Đấng kiến tạo thấp mang tính chất là hình tướng vật chất bị phát động, và trong các đạo quân của họ là chất liệu của vật chất (xem chất liệu như cái nằm sau vật chất). |
|
They are that which produces concretion and which gives form to the abstract. The terms “rupa” and “arupa” devas are relative, 97 for the formless levels and the formless lives are only so from the standpoint of man in the three worlds; the formless lives are those which are functioning in and through the etheric body of the Logos, formed of the matter of the four higher planes of the system. From this point of view the mental plane provides an interesting consideration: its three higher subplanes are positive, and centralize the positive force of the plane. This focusing of the positive affects the negative substance of the four lower planes and brings about likewise: |
Các Ngài là cái tạo nên sự kết tụ và ban cho trừu tượng hình tướng cụ thể. Các thuật ngữ “thiên thần rupa ” và “thiên thần arupa ” là tương đối, 97 vì các cõi không-hình và các sự sống không-hình như thế chỉ là từ lập trường của con người trong ba cõi; các sự sống không-hình là những vị đang hoạt động trong và qua thể dĩ thái của Thượng đế, được cấu thành từ chất liệu của bốn cõi cao của hệ thống. Từ điểm nhìn này, cõi trí cung cấp một vấn đề khảo sát thú vị: ba cõi phụ cao của nó là dương, và tập trung hoá lực dương của cõi. Sự hội tụ lực dương này tác động lên chất liệu âm của bốn cõi thấp và cũng mang lại: |
|
a. The formation of force centers on the causal levels, those force centers being egoic groups in their various divisions. |
Sự hình thành các trung tâm lực trên các cấp độ nhân thể, các trung tâm lực ấy là những nhóm chân ngã trong các phân hệ khác nhau của chúng. |
|
b. The concretion of substance, or the building of the dense physical body of the Logos. |
Sự kết tụ của chất liệu, hay sự kiến tạo thể xác đậm đặc của Thượng đế. |
|
On the physical plane of the solar system an analogous process can be seen taking place as regards the physical [617] body of man, or his concrete manifestation. In his case, the fourth subplane is the focal point of positive force. On that plane are located the etheric centers of man, which have, in the evolutionary process and in the work of force direction, a relationship to his physical body similar to the relationship which groups of Egos on the mental plane have to the dense physical body of the Logos. This is a profound occult hint. |
Trên cõi hồng trần của hệ mặt trời có thể thấy một tiến trình tương tự đang diễn ra đối với [617] thể xác của con người, tức sự biểu lộ cụ thể của y. Trong trường hợp của y, cõi phụ thứ tư là tâm điểm của lực dương. Trên cõi đó định vị dĩ thái các trung tâm của con người, vốn, trong tiến trình tiến hoá và trong công cuộc định hướng lực, có một mối liên hệ với thể xác của y tương tự như mối liên hệ mà các nhóm Chân ngã trên cõi trí có với thể xác đậm đặc của Thượng đế. Đây là một ám chỉ huyền bí thâm sâu. |
|
95 Pitris—The ancestors or creators of mankind. They are of seven classes, three of which are incorporeal and four corporeal. These are usually called the Lunar Pitris or Ancestors and must not be confounded with the Solar Pitris or Angels, who give mind to man, and create the relatively permanent body of the ego, or Higher Self. |
95 Pitris—Các tổ phụ hay các đấng tạo dựng nhân loại. Họ gồm bảy đẳng cấp, trong đó ba là vô hình và bốn là hữu hình. Đây là những vị thường được gọi là Thái âm tổ phụ hay Tổ tiên và không nên lẫn với Thái dương tổ phụ hay Thiên Thần, những vị ban trí cho con người, và kiến tạo thể tương đối trường tồn của chân ngã, hay Bản Ngã Cao. |
|
96 Devas…he would have (1) divided the Devas into two classes—and called them the “Rupa-devas” and the “Arupa-devas” (the “form” or objective, and the “formless” or subjective Dhyan Chohans; and (2) would have done the same for his class of “men” since there are Shells and “Mara-rupas”—i.e. bodies doomed to annihilation. All these are: |
96 Chư thiên thần…ngài ắt (1) đã phân chia chư Thiên thần thành hai lớp—và gọi họ là “Rupa-devas” và “Arupa-devas” (các Dhyan Chohan “có hình” hay khách quan, và “vô hình” hay chủ quan; và (2) đã làm điều tương tự cho lớp “người” của ngài vì có các Vỏ và “Mara-rupas”—tức các thân thể bị định án tiêu vong. Tất cả những nhóm này là: |
|
1. “Rupa-devas”—Dhyan Chohans, having forms (Ex-men). |
“Rupa-devas”—Các Dhyan Chohan có hình (Cựu nhân). |
|
2. “Arupa-devas”—Dhyan Chohans, having no forms (Ex-men). |
“Arupa-devas”—Các Dhyan Chohan không có hình (Cựu nhân). |
|
3. “Pisachas”—(two-principled) ghosts. |
“Pisachas”—Ma (hai nguyên khí). |
|
4. “Mara-rupa”—Doomed to death (three principled). |
“Mara-rupa”—Bị định án chết (ba nguyên khí). |
|
5. Asuras—Elementals—having human form (Future men). |
Asuras—Hành khí—có hình người (Người tương lai). |
|
6. Beasts—Elementals second class—animal elementals (Future men). |
Thú—Hành khí hạng hai—hành khí thú (Người tương lai). |
|
7. Rakshasas—(Demons) Souls or Astral Forms of sorcerers; men who have reached the apex of knowledge in the forbidden art. Dead or alive they have, so to say, cheated nature; but it is only temporary—until our planet goes into obscuration, after which they have nolens volens to be annihilated. |
Rakshasas—(Quỷ) Linh hồn hay Hình tư tưởng cảm dục của phù thủy; những người đã đạt đỉnh cao hiểu biết trong nghệ thuật bị cấm. Chết hay sống họ, như có thể nói, đã lừa dối thiên nhiên; nhưng chỉ là tạm thời—cho đến khi hành tinh chúng ta bước vào thời kỳ ám mờ, sau đó họ, dù muốn hay không, cũng phải bị tiêu diệt. |
|
It is these seven groups that form the principal divisions of the Dwellers of the subjective world around us.”—Mahatma Letters to A. P. Sinnett, 107. |
Chính bảy nhóm này tạo thành các phân bộ chính của những Cư dân của thế giới chủ quan quanh chúng ta.”— Thư của các Mahatma gửi A. P. Sinnett, 107. |
|
97 Rupa, with form or body. Arupa, formless or bodiless. |
97 Rupa, có hình hay thân. Arupa, vô hình hay vô thân. |
|
Generally speaking, the term rupa is applied to all forms in the three worlds whilst the term arupa is applied to all forms through which existences manifest on the four higher levels of the solar system and the abstract levels of the mental plane. |
Nói chung, thuật ngữ rupa được áp dụng cho mọi hình tướng trong ba cõi trong khi thuật ngữ arupa được áp dụng cho mọi hình tướng qua đó các hiện hữu biểu lộ trên bốn cấp độ cao của hệ mặt trời và các cấp độ trừu tượng của cõi trí. |
|
In the words “prana and the etheric body” (or life force and form) we have the key to the mystery of the solar and lunar pitris, and a hint as to the place of the physical body in the scheme of things. |
Trong các từ “prana và thể dĩ thái” (hay sinh lực và hình thể) chúng ta có chiếc chìa khóa cho huyền nhiệm của thái dương và thái âm tổ phụ, và một ám chỉ về vị trí của thể xác trong tổng đồ sự vật. |
|
The solar Pitris and devas find their force expression most adequately through man, with all that is included in that term. They are the source of his self-consciousness, and it is their action upon the negative aspect which produces the human Ego (on a large scale, viewing them in their totality as cosmic force); it is their action upon the negative or mother aspect which, on cosmic levels, produces that Self-conscious Unity, a solar Logos, functioning through His physical vehicle. From the Christian standpoint, the greater Builders are the Holy Spirit, or force over-shadowing and fecundating matter, whilst the negative or lesser Builders correspond to the Virgin Mary. |
Thái dương tổ phụ và chư thiên thần tìm thấy sự biểu lộ lực của mình cách viên mãn nhất qua con người, bao gồm toàn thể những gì được gói trong danh xưng ấy. Họ là nguồn gốc của Tự-tâm-thức nơi con người, và chính tác động của họ lên phương diện âm đã tạo ra Chân ngã nhân loại (trên bình diện vĩ mô, xét tổng thể họ như là vũ trụ lực); chính tác động của họ lên phương diện âm hay Mẹ mà, trên các cấp độ vũ trụ, sinh ra Hợp Nhất Tự-tâm-thức, một Thái dương Thượng đế, hoạt hóa qua vận cụ thể xác của Ngài. Từ lập trường Ki-tô giáo, các Đấng Kiến Tạo cao cả là Chúa Thánh Thần, hay lực phủ bóng và thụ tinh cho vật chất, trong khi các Đấng Kiến Tạo thấp hay âm tương ứng với Đức Trinh Nữ Maria. |
|
The lunar Pitris, and lesser builders from the systemic point of view find their fullest expression in the animal kingdom. When they, as the initiatory impulse, had produced animal man they had performed their prime function, and just as (on a smaller scale and in connection with only one of the Heavenly Men) the moon is a dying and decadent world, so on a systemic scale and therefore covering a vast period of time, the work of the lunar Pitris is slowly coming to a conclusion as the power of the third kingdom, the animal, over the human is being [618] superseded by spiritual power; the systemic correspondence to lunar pitric activity will occultly die out. |
Các thái âm tổ phụ và các Đấng Kiến Tạo thấp xét từ điểm nhìn hệ thống tìm thấy sự biểu lộ viên mãn của mình trong giới động vật. Khi họ, với tư cách xung lực khai mở, đã sinh ra người thú, họ đã hoàn tất chức năng sơ nguyên của mình; và cũng như (ở quy mô nhỏ hơn và chỉ liên hệ đến một Đấng Thiên Nhân) mặt trăng là một thế giới đang hấp hối và suy đồi, thì trên bình diện hệ thống và vì vậy bao trùm một khoảng thời gian khôn lường, công việc của thái âm tổ phụ đang dần đi tới kết cuộc khi quyền lực của giới thứ ba, giới thú, đối với con người đang bị [618] quyền lực tinh thần thay thế; sự tương ứng hệ thống đối với hoạt động của thái âm tổ phụ sẽ về mặt huyền bí tàn lụi. |
|
The lunar Pitris, 98,99 the builders of man’s lunar body and their correspondence in the other kingdoms of nature, are the sumtotal of the dense physical body of the Logos, or the substance of the mental, astral and physical planes (the gaseous, liquid and dense bodies which form a unity, His physical vehicle, viewing it apart from the etheric). They are the product of an earlier solar system; their activities date from there. That system stands to the present one as the lunar chain to ours. That is why the physical body is considered no principle (either for man or the solar Logos); that is why the lower nature is considered evil, and why man must “slay his lunar body.” 1 Evil is that which can be controlled and subdued but which is permitted to govern. The positive can always manipulate the negative. When the negative line is followed and the line of least resistance to that which is no principle, is pursued, then we have evil. |
Thái âm tổ phụ, 98,99 những vị kiến tạo thân thể thái âm của con người và các tương ứng của họ trong những giới khác của thiên nhiên, là tổng số của thể xác đậm đặc của Thượng đế, hay chất liệu của các cõi trí, cảm dục và hồng trần (các thân thể khí, lỏng và đặc hợp thành nhất thể, vận cụ thể xác của Ngài, xét riêng phần không kể dĩ thái). Họ là sản phẩm của một hệ mặt trời trước; các hoạt động của họ bắt nguồn từ đó. Hệ thống ấy tương quan với hệ hiện tại như Dãy Mặt Trăng đối với Dãy Địa Cầu của chúng ta. Đó là lý do tại sao thể xác không được xem là nguyên khí (cho cả con người lẫn Thái dương Thượng đế); đó là tại sao hạ ngã được xem là ác, và tại sao con người phải “giết thân thể thái âm của mình.” 1 Ác là cái có thể bị kiểm soát và chế ngự nhưng lại được cho phép cai trị. Phương diện dương luôn có thể điều khiển phương diện âm. Khi đi theo tuyến âm và đeo đuổi con đường ít trở ngại nhất hướng về cái vốn không phải là nguyên khí, thì chúng ta có ác. |
|
In the first solar system the negative substance aspect, the Mother aspect or matter, was perfected. The lower Pitris dominated. In this system force activity lies in the hands of the solar Pitris or greater devas. At the close of the mahamanvantara they will have built according [619] to the plan a perfect sheath or vehicle of expression for the Divine Thought, and this through the manipulation of negative substance; they utilize the heat of the Mother to nourish the germ of the Divine Thought, and to bring it to fruition. When the germ has developed to maturity the Mother aspect no longer has a place, and the Man occultly is freed or liberated. This idea runs through all manifestations, and the kingdoms of nature or the form (no matter what form it may be) nourish the germ of that which is the next step on in the evolutionary process, and are considered the Mother aspect. This aspect is eventually discarded and superseded. For example, the third kingdom, the animal, in the early stages nourishes and preserves the germ of that which will some day be a man; the personality is the preserver of that which will some day unfold into spiritual man. |
Trong hệ mặt trời thứ nhất, phương diện chất liệu âm, phương diện Mẹ hay vật chất, đã được hoàn thiện. Các Tổ phụ thấp chi phối. Trong hệ này, hoạt động lực nằm trong tay các thái dương tổ phụ hay các thiên thần cao cả. Vào lúc kết thúc Đại giai kỳ sinh hóa, họ sẽ kiến tạo [619] theo Thiên Cơ một vận cụ toàn hảo để biểu đạt Tư tưởng Thiêng liêng, và làm điều này thông qua việc thao tác chất liệu âm; họ sử dụng nhiệt của Mẹ để dưỡng nuôi mầm của Tư tưởng Thiêng liêng, và đưa nó đến thành tựu. Khi mầm đã phát triển đến độ thành thục, phương diện Mẹ không còn chỗ đứng, và Con Người về mặt huyền bí được giải thoát. Ý niệm này xuyên qua mọi biểu lộ, và các giới trong thiên nhiên hay hình tướng (bất kể hình tướng nào) dưỡng nuôi mầm của cái sẽ là bước kế tiếp trong tiến trình tiến hoá, và được xem là phương diện Mẹ. Phương diện này rốt cuộc bị loại bỏ và được siêu vượt. Chẳng hạn, giới thứ ba, giới thú, ở các giai đoạn sơ kỳ dưỡng nuôi và gìn giữ mầm của cái rồi sẽ trở thành con người; phàm ngã là kẻ bảo tồn cái sẽ một ngày kia khai mở thành con người tinh thần. |
|
It will thus become apparent to students how the Heavenly Man, viewing Him as a solar Deity, a self-conscious Entity, works with His negative aspect through positive force, from logoic etheric levels upon the three aspects of the logoic dense physical, thus bringing to maturity the atoms and cells of His Body, fostering the germ of self-consciousness, fanning the flame until each unit becomes fully group conscious and aware of his place within the body corporate. Each human being likewise, functioning in the three worlds, works in a corresponding way upon the conscious cells of his bodies, until each atom eventually achieves its goal. The Heavenly Man works necessarily through egoic groups, pouring positive force upon them until they emerge from passivity and negativity into potency and activity. Man works correspondingly through his centers upon his sheaths, and has a responsibility to the lesser lives which under the karmic law must be worked out. This is the basis of the evolutionary process. [620] |
Do vậy, các đạo sinh sẽ thấy hiển nhiên cách nào Đấng Thiên Nhân, xem Ngài như một Thần tính Thái dương, một Thực thể tự tâm thức, làm việc với phương diện âm của Ngài bằng lực dương, từ các cấp độ dĩ thái của Thượng đế tác động xuống ba phương diện của phần đậm đặc trong thể xác của Thượng đế, nhờ đó đưa các nguyên tử và tế bào trong Thân Ngài đến chỗ thành thục, ấp ủ mầm tự-tâm-thức, quạt bùng ngọn lửa cho đến khi mỗi đơn vị trở nên hoàn toàn tâm thức nhóm và tự tri chỗ đứng của mình trong thân thể chung. Tương tự như vậy, mỗi con người, vận hành trong ba cõi, làm việc theo đường lối tương ứng lên các tế bào có tâm thức trong các thể của mình, cho đến khi mỗi nguyên tử rốt cuộc đạt cứu cánh. Đấng Thiên Nhân tất yếu làm việc thông qua các nhóm chân ngã, rót lực dương lên họ cho đến khi họ thoát khỏi thụ động và âm tính để bước vào hiệu lực và hoạt động. Con người hành động tương ứng qua các trung tâm của mình lên các thể của mình, và có một trách nhiệm đối với các sự sống thấp hơn vốn phải được giải quyết theo định luật nghiệp quả. Đây là nền tảng của tiến trình tiến hoá. [620] |
|
98 The Lunar, or Barhishad Pitris have the following function:—S. D., II, 99. |
98 Thái âm, hay Barhishad Pitris có các chức năng sau:—S. D., II, 99. |
|
1. They are the Ancestors of Man.—S. D., II, 107. |
Họ là Tổ tiên của Con Người.—S. D., II, 107. |
|
2. They are the Fashioners of his form. |
Họ là những Đấng Tạo Dáng cho hình tướng của y. |
|
3. They possessed the physical creative fire. |
Họ sở hữu ngọn lửa sáng tạo hồng trần. |
|
4. They could only clothe the human monads. |
Họ chỉ có thể khoác thân cho các đơn tử nhân loại. |
|
5. They could not make man in their likeness. |
Họ không thể làm con người theo ảnh tượng của họ. |
|
6. They could not give him mind.—S. D., II, 82. |
Họ không thể ban cho y trí.—S. D., II, 82. |
|
7. They build his external form. |
Họ kiến tạo hình tướng bên ngoài của y. |
|
8. They give the lower principle.—S. D., II, 92. |
Họ ban cho nguyên khí thấp.—S. D., II, 92. |
|
99 Temporarily they are the Conquerors of Spirit.—S. D., II, 66. |
99 Tạm thời họ là những Kẻ Chinh Phục Linh.—S. D., II, 66. |
|
a. Spirit becomes immersed in material forms. |
Linh trở nên chìm đắm trong các hình tướng vật chất. |
|
b. Forms are the battle ground. |
Hình tướng là bãi chiến trường. |
|
c. Eventually Spirit will slay the forms.—S. D., II, 67. |
Rốt cuộc Linh sẽ giết các hình tướng.—S. D., II, 67. |
|
d. Note the esoteric order.—S. D., II, 88, 92, 100; II, 116. |
Lưu ý thứ tự huyền bí.—S. D., II, 88, 92, 100; II, 116. |
|
1 In the Voice of the Silence the words occur: |
1 Trong Tiếng Nói của Im Lặng có những lời: |
|
“Before that Path is entered, thou must destroy thy lunar body, cleanse thy mind body, and make clean thy heart.” |
“Trước khi bước vào Thánh Đạo, ngươi phải hủy thân thể thái âm của mình, tẩy sạch thân trí, và làm tinh khiết trái tim mình.” |
b. The Functions of the Devas —b. Các Chức Năng của Chư Thiên Thần
|
Having predicated certain basic facts about the devas, viewing them as the sum total of the energy of substance and of substance itself, we come down to more technical details and to the more detailed consideration of these building forces as they construct the thought-form of the Logos, the solar System. From this consideration of them certain practical knowledge will eventuate: |
Sau khi đã xác lập một số sự kiện căn bản về chư thiên thần, xét họ như tổng số của năng lượng của chất liệu và của chính chất liệu, chúng ta đi xuống các chi tiết kỹ thuật hơn và xét kỹ hơn các lực kiến tạo này khi họ kiến tạo Hình tư tưởng của Thượng đế, tức Hệ mặt trời. Từ việc khảo sát họ, một số tri thức thực hành sẽ phát sinh: |
|
– First. Knowledge of how to build in mental matter in the three worlds, and how to employ the devas of the gaseous plane of the cosmic physical. |
Thứ nhất. Tri thức về cách kiến tạo trong chất liệu trí tuệ ở ba thế giới, và cách sử dụng các thiên thần thuộc cõi khí của cõi hồng trần vũ trụ. |
|
– Second. Realization of how to combine the pairs of opposites, and thus give body and form to concept. |
Thứ hai. Sự nhận thức cách phối hợp hai đối cực, và như thế ban cho ý niệm thân và hình tướng. |
|
– Third. Materialization upon the physical plane of the embodied idea. |
Thứ ba. Sự hiện hình trên cõi hồng trần của ý niệm đã được nhập thể. |
|
1. Manifestation of the Logoic Aspects. This is achieved through the close consideration of the laws of being, and of the method pursued by the Logos in giving His conception form, thus working out His purpose, or will, through that form. In the three planes of man’s endeavor we have reflected the three aspects of the Logos as they produce manifestation: |
1. Sự Biểu Lộ các Phương Diện của Thượng đế. Điều này đạt được qua sự khảo sát cặn kẽ các định luật của hiện hữu, và phương pháp được Thượng đế dùng để ban cho ý niệm của Ngài hình tướng, nhờ vậy triển khai Ý chí hay Thiên Cơ của Ngài qua hình tướng ấy. Trong ba cõi công phu của con người chúng ta có các phản ảnh của ba phương diện của Thượng đế khi chúng sản sinh biểu lộ: |
|
– The Mental Plane—reflection of the first aspect. The plane of concept, of the union of Father-Spirit-Will and Mother-Matter-Energy. This is the work of the Logos, and this union produces the Son, for Divine Thought takes form. The body of the Ego is there found. |
Cõi Trí—phản ảnh của phương diện thứ nhất. Cõi của ý niệm, của sự phối hiệp Cha–Linh–Ý chí và Mẹ–Chất liệu–Năng lượng. Đây là công cuộc của Thượng đế, và sự phối hiệp này sinh ra Con, vì Tư tưởng Thiêng liêng thọ hình. Thân của Chân ngã được tìm thấy ở đó. |
|
– Astral Plane—reflection of the second aspect, the Son. Materialization proceeds through desire, and the form grows and evolves, becoming more adequate. |
Cõi Cảm Dục—phản ảnh của phương diện thứ hai, Con. Sự hiện hình tiến triển qua dục vọng, và hình tướng lớn lên, tiến hóa, trở nên ngày càng thích hợp. |
|
– Physical Plane—Manifestation. The thought-form (of man or the Logos) appears in activity. The Son is born on the physical plane, the thought of the Thinker (divine or human) becomes an entity, separated [621] from its originating source, yet energized by the vitality emanating from him. |
Cõi Hồng Trần—Sự biểu lộ. Hình tư tưởng (của con người hay của Thượng đế) xuất hiện trong hoạt động. Con được sinh ra trên cõi hồng trần, tư tưởng của Đấng Tư tưởng (thiêng liêng hay nhân loại) trở thành một thực thể, tách [621] khỏi nguồn khởi nguyên của nó, nhưng vẫn được sinh khí do năng lực phát xuất từ Ngài. |
|
All this becomes possible—speaking now from the human standpoint—through the action of the devas who are that which embodies thought, and that which give it its separated energy, as distinct from the purpose which will work out to fruition as the form becomes adequate as a medium of expression. |
Tất cả những điều này trở nên khả hữu—nói từ lập trường nhân loại—nhờ hoạt động của chư thiên thần, những vị là cái bao bọc tư tưởng, và là cái ban cho nó năng lực biệt lập, phân biệt với mục đích sẽ được hoàn mãn khi hình tướng trở nên đủ thích đáng như một khí cụ biểu đạt. |
|
2. Deva force substance. As we consider the devas of the seven planes of the solar system, and especially as we consider those who work in the three worlds, we must bear in mind the following statements: |
2. Lực-chất của thiên thần. Khi chúng ta xét chư thiên thần của bảy cõi trong hệ mặt trời, và đặc biệt khi xét những vị làm việc trong ba thế giới, cần ghi nhớ các mệnh đề sau: |
|
The First Statement. They are the devas who are the dual force-substance of the lowest cosmic plane, the cosmic physical. As regards the three worlds, they are the deva force and substance 2 which compose the dense physical body of the Logos, hence man is limited, as he works on these planes, to those devas who are primarily regarded (from the higher levels) as having no part in the seven principles of the Logos; to those devas who form the gaseous, liquid, and concrete form of the Logos, the devas of concrete fire, of water and of earth in its densest aspect; to those devas who are the automatic, subconscious builders, carrying on the work of the dense physical vehicle of the Logos in the same sense as the builders in man’s body work automatically and unconsciously, producing the cells and energizing the bodily functions. This is the basis of the danger to man in tampering with these forces. He is too close to them in many ways; he identifies himself with them and until [622] he has attained the consciousness of the Ego, and has with full knowledge established his identity with the Spirit aspect and not with substance, he is liable to be swept into the line of blind force, and become a lost soul should he trespass ignorantly, and curiously, into their domain. |
Mệnh đề Thứ Nhất. Họ là chư thiên thần vốn là lực-chất kép của cõi vũ trụ thấp nhất, tức cõi hồng trần vũ trụ. Đối với ba thế giới, họ là lực thiên thần và là chất liệu 2 cấu thành thể xác đậm đặc của Thượng đế, do đó con người, khi làm việc trên các cõi này, bị giới hạn vào những vị thiên thần vốn chủ yếu (từ các cấp độ cao hơn) được xem như không thuộc bảy nguyên khí của Thượng đế; vào những vị thiên thần kiến tạo phần khí, phần lỏng và phần đặc cụ thể của Thượng đế, tức các thiên thần của lửa cụ thể (lửa ma sát), của nước và của đất ở trạng thái đậm đặc nhất; vào những vị thiên thần là các thợ xây tự động, vô thức, tiếp tục công việc của vận cụ thể xác của Thượng đế theo cùng ý nghĩa như các người thợ trong thân thể con người làm việc một cách tự động và vô thức, sản sinh các tế bào và tiếp sinh cho các chức năng thân thể. Đây là nền tảng của sự nguy hiểm đối với con người khi can thiệp vào các lực này. Ở nhiều phương diện, y quá gần gũi với chúng; y đồng hoá với chúng và cho đến khi [622] y đạt tâm thức của Chân ngã, và với đầy đủ tri thức xác lập căn cước của mình với phương diện Linh chứ không với chất liệu, y rất dễ bị cuốn vào tuyến của lực mù quáng, và trở thành một linh hồn lạc mất nếu y dám xâm nhập cách ngu muội và tò mò vào lĩnh vực của họ. |
|
He is concerned also with those devas who are as yet animated by the life and purpose which distinguished the evolution of the first solar system. That life is the life of God, and that purpose is the working out of His will, but it is evil from our present standpoint, for it is superseded as far as man is concerned by a different purpose and goal. Therefore, identification with that which is past, retrogression and the methods of the old are for a man a return along the path of self-conscious evolution, and lead eventually to a loss of the egoic principle, or of ego-ism, which distinguishes a man (human or heavenly) from the rest of evolution. |
Y cũng hệ thuộc vào những vị thiên thần còn đang được sinh động bởi sự sống và mục đích đặc trưng cho tiến hoá của hệ mặt trời thứ nhất. Sự sống ấy là sự sống của Thượng đế, và mục đích ấy là việc triển khai Ý muốn của Ngài, nhưng nó là ác từ lập trường hiện thời của chúng ta, vì đối với con người nó đã bị phương hướng và cứu cánh khác thay thế. Do đó, sự đồng hoá với cái đã qua, sự thoái bộ và những phương pháp cũ, đối với con người, là một cuộc hồi quy dọc theo con đường tiến hoá tự-tâm-thức, và rốt cuộc dẫn đến sự mất đi nguyên tắc chân ngã, hay tính ngã chấp, vốn phân biệt con người (nhân loại hay thiên giới) với phần còn lại của tiến hoá. |
|
2 The Solar Angels are dual in Nature. “Manas is dual—Lunar in the lower, Solar in its upper portion.”—S. D., II, 520, 675. |
2 Thái dương Thiên Thần mang bản tính kép. “Manas là kép—Thái âm ở phần thấp, Thái dương ở phần cao.”—S. D., II, 520, 675. |
|
a. The solar aspect is attracted towards Buddhi. |
Phương diện Thái dương được hấp dẫn về Bồ đề. |
|
b. The other descends into, or is attracted by the lower animal. |
Phương diện kia giáng vào, hay bị hấp dẫn bởi phần thú tính thấp. |
|
c. The Solar Angels form the “Soul” or Second Aspect. |
Thái dương Thiên Thần cấu thành “Linh hồn” hay Phương diện Thứ hai. |
|
The chief “Soul” is Manas, or mind.”—S. D., II. 521. |
“Linh hồn” chủ là Manas, hay thể trí.”—S. D., II. 521. |
|
The Second Statement. The hope for the devas and for the form aspect lies in the fact that each of the subplanes of the cosmic physical plane comes under the direct influence of cosmic forces, originating on the six other cosmic planes. Of these forces everything is unknown and inconceivable, except the vague and general indications of these currents and forces as they may be felt as emanating from the cosmic planes. |
Mệnh đề Thứ Hai. Hy vọng cho chư thiên thần và cho phương diện hình tướng nằm ở chỗ mỗi cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ chịu ảnh hưởng trực tiếp của các lực vũ trụ, khởi nguyên trên sáu cõi vũ trụ còn lại. Về các lực này, mọi điều đều chưa được biết và không thể tư duy, ngoại trừ những chỉ dấu mơ hồ và khái quát về các dòng lưu và các lực ấy như chúng có thể được cảm nhận là phát xuất từ các cõi vũ trụ. |
|
The cosmic mental plane. This manifests for us in the three types of force to be seen on the systemic mental plane. These three types have not been sufficiently studied, and are: |
Cõi trí vũ trụ. Điều này biểu hiện với chúng ta trong ba loại lực có thể thấy trên cõi trí của hệ thống. Ba loại lực này chưa được khảo sát đầy đủ, đó là: |
|
a. The force which plays through all the manasic permanent atoms, and which produces basically that manifestation which we call the three worlds. |
Lực vận hành xuyên qua mọi đơn vị hạ trí trường tồn, và cơ bản tạo nên biểu lộ mà chúng ta gọi là ba thế giới. |
|
b. The force which animates those groups of “lotuses” [623] which we call egoic groups or centers—aggregations of causal bodies. |
Lực sinh động hóa những nhóm “hoa sen” [623] mà chúng ta gọi là các nhóm hay trung tâm chân ngã—các tập hợp của các thể nguyên nhân. |
|
c. The force which vitalizes all the mental units and which is distributed thence to all the other permanent atoms. |
Lực tiếp sinh cho mọi đơn vị hạ trí và từ đó được phân phối đến mọi nguyên tử trường tồn khác. |
|
These three types of force deal with the substance aspect—permanent atoms, causal vehicle, and mental units, and are therefore directly impressing themselves upon the devas who build these forms out of their own substance, and thus develop the divine plan. These three types of force affect substance, but with a psychic intent, being themselves swayed and actuated according to divine purpose, and from high levels. They emanate from the concrete levels of the cosmic mental plane (being therefore the force flowing through the mental unit of the Logos), and are concerned with the force center which focalizes the logoic mental body. They are the force of Agni in His first aspect. He is that fire which is distinctive of the cosmic mental plane, reflected in the cosmic gaseous subplane of the cosmic physical plane—our systemic mental plane. |
Ba loại lực này xử lý phương diện chất liệu—các nguyên tử trường tồn, vận cụ nhân thể, và các đơn vị hạ trí—vì vậy trực tiếp in ấn lên các thiên thần kiến tạo những hình tướng này từ chính chất liệu của họ, và như thế phát triển Thiên Cơ thiêng liêng. Ba loại lực này tác động lên chất liệu, nhưng với một ý hướng tâm linh, vì tự thân chúng bị chi phối và được phát động phù hợp với mục đích thiêng liêng, và từ những cấp độ cao. Chúng phát nguyên từ các cấp độ cụ thể của cõi trí vũ trụ (vì vậy là lực tuôn chảy qua đơn vị hạ trí của Thượng đế), và liên quan đến trung tâm lực tập chú thể trí của Thượng đế. Chúng là lực của Agni trong Phương diện thứ nhất của Ngài. Ngài là ngọn lửa đặc thù của cõi trí vũ trụ, được phản ảnh trên cõi khí vũ trụ của cõi hồng trần vũ trụ—tức cõi trí của hệ thống chúng ta. |
|
The Cosmic Astral Plane. The force from this plane plays through our systemic astral plane, the cosmic liquid physical subplane, and it is practically subject only to two differentiations, each of them occultly embodied in two great groups of devas: |
Cõi cảm dục vũ trụ. Lực từ cõi này vận hành xuyên qua cõi cảm dục của hệ thống chúng ta, tức cõi lỏng hồng trần vũ trụ, và hầu như chỉ chịu hai biến phân, mỗi biến phân được kết tinh một cách huyền bí trong hai nhóm thiên thần vĩ đại: |
|
First. The devas who are the substance or force of the astral plane, viewing it as the sumtotal of desire, of feeling and of sensation. They are, therefore, the nerve centers, or nerve plexi, of the logoic physical body, for the systemic astral plane provides the nervous system of the logoic physical body. It is the body of intensest vibration from the physical standpoint, and the vehicle through which all is transmitted to that portion of the logoic physical body which corresponds to the brain [624] in man. I can elucidate this no further, but the few words here imparted open up a tremendous range of thought, and give the key to much which transpires and which is distressing in solar evolution as well as human. |
Thứ nhất. Các thiên thần là chất liệu hay lực của cõi cảm dục, xét cõi ấy như tổng thể của dục vọng, cảm giác và cảm thọ. Do đó, họ là các trung tâm thần kinh, hay các đám rối thần kinh, của thể xác Thượng đế, vì cõi cảm dục của hệ thống cung cấp hệ thần kinh cho thể xác của Thượng đế. Đây là thân thể có rung động mãnh liệt nhất xét từ lập trường hồng trần, và là vận cụ qua đó mọi sự được truyền đến phần của thể xác Thượng đế tương ứng với bộ não [624] nơi con người. Tôi không thể giảng giải thêm, nhưng vài lời ở đây mở ra một chân trời tư tưởng mênh mông, và trao chìa khóa cho nhiều điều đang diễn ra và vốn gây khổ não trong sự tiến hoá thái dương cũng như nhân loại. |
|
Second. Those devas who are the sumtotal of the astral light. They are the agents of the karmic lords, who are in themselves deva entities of an inconceivably advanced evolution and who, in their own substance, |
Thứ hai. Những vị thiên thần là tổng số của quang cảm dục (astral light). Họ là những tác viên của các Chúa tể Nghiệp quả, vốn tự thân là những thực thể thiên thần của một trình độ tiến hoá không thể nghĩ bàn và những vị ấy, trong chất liệu của chính mình, |
|
1. Record. |
Ghi nhận. |
|
2. Produce effects from cause. |
Gây hiệu quả từ nhân. |
|
3. Direct force. |
Điều động lực. |
|
This particular group of devas emanate from a great force center which we generalize by calling it by the name of the sun Sirius. Sirius-kama-manas—the cosmic astral plane and the systemic astral plane—make a close interlocking chain, and form the line of least resistance for a particular type of negative force to pour through. |
Nhóm thiên thần đặc biệt này phát nguyên từ một trung tâm lực vĩ đại mà chúng ta tổng quát gọi bằng tên Sirius. Sirius–kama–manas—cõi cảm dục vũ trụ và cõi cảm dục của hệ thống—kết thành một chuỗi khớp nối mật thiết, và tạo thành con đường ít trở ngại nhất để một loại lực âm đặc thù tuôn tràn. |
|
The Cosmic Physical Plane. This is the force (external and internal) of the solar system itself, and of its environing space. It might be regarded as the pranic forces, pouring through the logoic etheric body (our four higher subplanes) which are positive to the lower three, impregnating these lower three planes (a reflection in substance, or in the Brahma aspect, of the union of Father-Mother) and producing the purely concrete manifestation. This is why the physical vehicle has such control during long stages of man’s evolution, for the force of this type of energy is necessarily felt more strongly than any other. It is deva force, and substance, which is so close to us as powerfully to delude us. Here lies the mystery of maya, and here is to be found the secret of illusion. Here exists for man the first great stage of the battle for full Self-consciousness, and for identification with the God-aspect, and not with the [625] matter-aspect. Here lies the occult reason why man is called by his father’s name and not his mother’s. When man has dominated the deva essences of the physical plane, he controls next those of the astral and dominates the mental essences. Having achieved this in his own nature he can then safely become a magician and contact, control and work with, the devas in connection with the plans of the Heavenly Man. In the realization of the three types of force, will be found for man the key to the mystery of his centers. |
Cõi hồng trần vũ trụ. Đây là lực (ngoại tại và nội tại) của chính hệ mặt trời, và của không gian bao bọc nó. Có thể xem nó như các lực prana, tuôn chảy xuyên qua thể dĩ thái của Thượng đế (bốn cõi phụ cao của chúng ta) vốn dương đối với ba cõi thấp, thụ thai cho ba cõi thấp này (một phản ảnh trong chất liệu, hay trong phương diện Brahma, của sự phối hiệp Cha–Mẹ) và tạo ra biểu lộ thuần túy cụ thể. Đây là lý do vì sao vận cụ hồng trần có quyền chi phối như thế trong các chặng đường dài của tiến hoá con người, vì lực của loại năng lượng này tất nhiên được cảm nhận mạnh mẽ hơn bất cứ loại nào khác. Đó là lực và chất của chư thiên thần vốn gần gũi chúng ta đến độ có thể đánh lừa chúng ta một cách mạnh mẽ. Tại đây nằm huyền nhiệm của ảo lực, và tại đây có bí mật của ảo tưởng. Ở đây, đối với con người, tồn tại giai đoạn lớn thứ nhất của trận chiến để đạt Tự-tâm-thức trọn vẹn, và để đồng nhất với phương diện Thượng đế, chứ không với phương diện [625] chất liệu. Ở đây có lý do huyền bí vì sao con người được gọi bằng tên của cha chứ không của mẹ. Khi con người đã chế ngự các tinh chất thiên thần của cõi hồng trần, y sẽ kiểm soát kế tiếp những tinh chất của cõi cảm dục và chế ngự các tinh chất trí tuệ. Khi đã đạt điều này trong chính bản tính mình, y mới có thể an toàn trở thành một nhà huyền thuật và tiếp xúc, điều khiển, làm việc với chư thiên thần liên hệ đến các kế hoạch của Đấng Thiên Nhân. Trong sự nhận thức ba loại lực, con người sẽ tìm thấy chìa khóa cho huyền nhiệm các trung tâm của mình. |
|
The secret of the note of the head, the heart, and the throat center is found here and their blending with the lower centers so that the note of the higher sounds out, and the lower produces only harmony. Upon the note of nature the Logos has to superimpose a higher note. To the natural note of the center (which is found through the development of the lower center, which is its reflection or correspondence) must be added the dominant note of the higher center, and, in the dual harmony the center vibrates as desired. The note is the result of correct activity. That is why the lower centers of man are (in the early stages of his career) the controlling factor. He has to learn their note, and from it to attain the key of the higher. Then the higher takes the prominent place, and the lower only serves the purpose of providing that which is understood as occult “depth.” Why is this? Because in these notes those groups of devas who are the force and energy of the centers (which are centers in substance) are contacted and controlled. Through their activity, directed through the centers, the material sheaths—physical, astral and mental—are built. |
Bí mật của âm điệu nơi các trung tâm đầu, tim và cổ họng được tìm thấy ở đây và việc phối hiệp của chúng với các trung tâm thấp sao cho âm điệu của cao vang lên, còn âm điệu của thấp chỉ tạo nên hoà âm. Trên âm điệu của thiên nhiên, Thượng đế phải chồng lên một âm điệu cao hơn. Vào âm điệu tự nhiên của trung tâm (được tìm thấy qua sự phát triển của trung tâm thấp, vốn là phản ảnh hay tương ứng của nó) phải gia thêm âm điệu chủ đạo của trung tâm cao, và trong hoà điệu kép ấy, trung tâm rung theo ý muốn. Âm điệu là kết quả của hoạt động đúng đắn. Đó là lý do vì sao các trung tâm thấp của con người (trong giai đoạn sơ kỳ của cuộc hành trình) là yếu tố chi phối. Y phải học âm điệu của chúng, và từ đó đạt tới cung khóa của trung tâm cao. Rồi trung tâm cao chiếm vị trí nổi trội, còn trung tâm thấp chỉ phục vụ mục đích cung ứng cái mà về huyền bí được hiểu là “độ sâu.” Vì sao vậy? Bởi vì trong các âm điệu ấy, các nhóm thiên thần là lực và năng lượng của các trung tâm (vốn là các trung tâm trong chất liệu) được tiếp xúc và điều khiển. Qua hoạt động của họ, được điều hướng qua các trung tâm, các thể vật chất—hồng trần, cảm dục và trí tuệ—được kiến tạo. |
|
These ideas of force and the sheaths are the basis of the astrological teaching that is one of the keys to the Secret Doctrine. 3 We should therefore bear in mind that [626] the Deva Lords, Agni, Varuna, Kshiti, 4 represent in the exoteric teaching the substance aspect of the dense body of the Logos, whilst the force aspect as flowing through the etheric body of the Logos is considered under various names, such as Shiva, Surya, Brahma. Yet the two aspects are but one. |
Những ý niệm về mãnh lực và các bao thể là nền tảng của giáo huấn chiêm tinh học, vốn là một trong những chìa khóa của Giáo Lý Bí Nhiệm. 3 Vì vậy chúng ta nên ghi nhớ rằng [626] các Chúa Tể Deva, Agni, Varuna, Kshiti, 4 biểu trưng trong giáo huấn ngoại môn cho phương diện chất liệu của thể đậm đặc của Thượng đế, trong khi phương diện lực lưu chuyển qua thể dĩ thái của Thượng đế lại được xét đến dưới nhiều danh xưng khác nhau như Shiva, Surya, Brahma. Tuy nhiên, hai phương diện ấy vốn chỉ là một. |
|
The Third Statement. The final point I seek to make here is that in connection with these three lower planes and their many groups of devas it must be remembered that their polar opposites are to be found in the great devas of the highest three planes. |
Mệnh đề Thứ Ba. Điểm cuối cùng tôi muốn nêu ở đây là: liên quan đến ba cõi thấp và nhiều nhóm deva của chúng, cần ghi nhớ rằng các cực đối của chúng phải được tìm trong các đại deva của ba cõi cao nhất. |
|
[table 3] |
[table 3] |
|
The particular type of differentiated force which they embody, when brought into union with each other is that which causes concretion, or the appearance, in space and time, of the dense physical body. This should be carefully considered, along with the very interesting fact that on the fourth plane of our system (the fourth cosmic ether, or buddhic plane) we have the sphere of certain occult happenings which cannot be more than hinted at, because their true significance is one of the secrets of initiation. They are an aspect of the plan of the Logos which can be contacted direct by those who have expanded their consciousness adequately. [627] |
Loại mãnh lực được biến phân đặc thù mà chúng hàm chứa, khi được đưa vào hiệp nhất với nhau, chính là cái gây nên sự kết tụ, hay sự xuất hiện trong không gian và thời gian của thể hồng trần đậm đặc. Điều này cần được suy xét cẩn trọng, cùng với thực tế rất đáng chú ý rằng trên cõi thứ tư của hệ chúng ta (cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư, hay cõi Bồ đề) có khu vực của những sự kiện huyền bí mà chỉ có thể ám chỉ đôi chút, vì ý nghĩa chân thực của chúng là một trong các bí nhiệm của điểm đạo. Chúng là một phương diện của Thiên Cơ của Thượng đế, vốn có thể được tiếp xúc trực tiếp bởi những ai đã mở rộng tâm thức của mình một cách đầy đủ. [627] |
|
The buddhic plane, or fourth cosmic ether, is the plane whereon: |
Cõi Bồ đề, hay dĩ thái vũ trụ thứ tư, là cõi mà: |
|
a. The sacred planets function. |
Các hành tinh thiêng liêng vận hành. |
|
b. Man will eventually function freed from the triple lower man. |
Con người rốt cuộc sẽ vận hành trong trạng thái được giải thoát khỏi phàm ngã tam phân. |
|
c. The true meaning of the words “Divine Hermaphrodite” is there to be comprehended. |
Ý nghĩa chân thực của những lời “Lưỡng tính thiêng liêng” được lĩnh hội tại đó. |
|
d. It is predominantly the plane of life-force, and one of the planes of generation. |
Đây chủ yếu là cõi của sinh lực, và là một trong các cõi của sự phát sinh. |
|
e. Here man will for the first time understand and utilize his relationship with the devas. |
Tại đây con người lần đầu tiên sẽ hiểu và sử dụng mối liên hệ của mình với chư deva. |
|
f. It will see the fruition of the combined evolutionary process of the two solar systems. |
Cõi này sẽ chứng kiến kết quả chín muồi của tiến trình tiến hóa kết hợp của hai hệ mặt trời. |
|
g. It is the plane from whence all planetary avatars emanate. |
Đây là cõi mà từ đó mọi Đấng Hoá Thân hành tinh xuất lộ. |
|
h. The Heavenly Men take the first Initiation on this plane. |
Các Đấng Thiên Nhân thọ lần điểm đạo thứ nhất trên cõi này. |
|
i. On this plane the true inner significance of the “Sun” is apprehended |
Trên cõi này, thâm nghĩa chân thực bên trong của “Mặt trời” được lĩnh hội. |
|
More I cannot say, but careful study of that which is here given may open up much that is of significance in the study of the macrocosm and the microcosm. |
Tôi không thể nói thêm nữa, nhưng sự khảo cứu cẩn trọng về những điều được đưa ra ở đây có thể mở ra nhiều điều có thâm nghĩa trong việc nghiên cứu Đại thiên địa và Tiểu thiên địa. |
|
The Astrological Key is referred to in the S. D., Vol. II, 26. |
Chìa khóa Chiêm tinh được nhắc đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm, Tập II, tr. 26. |
|
4 Agni, the God of Fire in the Veda; the oldest and the most revered of the Gods in India. He is the triple aspect of Fire and therefore the sum total of manifestation. He is regarded also as the Lord of the mental plane (the 5th plane) whose symbol is Fire. |
4 Agni, Thần Lửa trong Veda; cổ xưa nhất và được tôn kính nhất trong các Vị Thần ở Ấn Độ. Ngài là phương diện tam phân của Lửa và do đó là tổng số của mọi biểu lộ. Ngài cũng được coi là Chúa Tể của cõi trí (cõi thứ 5) có biểu tượng là Lửa. |
|
Varuna, the God of Water, in the sense of the waters of space, or the waters of matter. He is regarded also as the Ruler of the astral plane (the 6th plane) whose symbol is water. |
Varuna, Thần Nước, theo nghĩa là thủy hư không của không gian, hay thủy chất của vật chất. Ngài cũng được coi là Đấng cai quản cõi cảm dục (cõi thứ 6) có biểu tượng là nước. |
|
Kshiti, the God of the Earth in the sense of dense substance, and not a planetary body; he is the God of the physical plane, the seventh plane. |
Kshiti, Thần Đất theo nghĩa là chất đậm đặc, chứ không phải một thiên thể hành tinh; Ngài là Thần của cõi hồng trần, cõi thứ bảy. |
c. The Devas and the Planes —c. Chư thiên và các Cõi
|
Preliminary Remarks. We have considered in broad and general terms the various types of force which animate deva substance, and its origin. Now we can study more specifically the deva entities in their various groups, having laid down the fundamentals in connection with them. |
Nhận xét Sơ bộ. Chúng ta đã xét một cách đại lược và tổng quát các loại mãnh lực khác nhau vốn sinh động hóa chất liệu deva, và nguồn gốc của nó. Nay, sau khi đã đặt nền tảng liên quan đến chúng, chúng ta có thể khảo cứu đặc thù hơn các thực thể deva trong những nhóm khác nhau của chúng. |
|
In this particular section students must remember that we are not considering those builders of involutionary development which are spoken of in theosophical and occult literature as the elemental essences. We are discussing those who are on the evolutionary arc, and who are the agents of cosmic force, whilst the lesser builders are the agents specifically of solar and of lunar force. Solar force implies the various differentiations of the threefold cosmic force as it manifests within the solar [628] system. Solar force can also (as far as the creative or building faculty of man is concerned) be termed planetary force, for every human being (be he Adept or ordinary man) builds and creates his thought forms—consciously or unconsciously—within the planetary spheres in the three worlds. |
Trong phần riêng này, các đạo sinh phải nhớ rằng chúng ta không xét đến những người xây dựng của tiến trình giáng hạ tiến hoá vốn được nói đến trong văn liệu Thông Thiên Học và huyền bí học như là các tinh chất hành khí. Chúng ta bàn về những vị đang ở cung tiến hóa, và là những tác nhân của mãnh lực vũ trụ, trong khi các người xây dựng thấp hơn là những tác nhân chuyên biệt của lực thái dương và thái âm. Lực thái dương hàm ý các biến phân khác nhau của mãnh lực vũ trụ tam phân khi nó biểu lộ trong hệ [628] mặt trời. Lực thái dương cũng có thể (xét về năng lực sáng tạo hay khả năng xây dựng của con người) được gọi là lực hành tinh, vì mỗi con người (dù là Chân sư hay người thường) đều xây dựng và sáng tạo các hình tư tưởng của mình—một cách có ý thức hay vô thức—trong các khối cầu hành tinh thuộc ba cõi. |
|
We shall now come to a considerable amount of tabulation, for all that it is wise and possible to give at this time are certain facts, names and outlines which can only be demonstrated through the law of correspondence. The key to comprehension is always this law. The basic differentiation in the solar system is as follows: |
Giờ đây chúng ta sẽ đi đến một lượng lớn các bảng phân loại, vì mọi điều khôn ngoan và có thể đưa ra lúc này chỉ là những dữ kiện, danh xưng và đề cương nào đó có thể chỉ được minh chứng qua định luật tương ứng. Chìa khóa của sự thấu hiểu luôn là định luật này. Biến phân căn bản trong hệ mặt trời như sau: |
|
[Table 4] |
[Table 4] |
|
– As electric fire the Logos manifests as the seven aspects of Will, spiritual impulse or purpose. |
Như lửa điện, Thượng đế biểu lộ như bảy phương diện của Ý Chí, xung lực tinh thần hay mục đích. |
|
– As solar fire He manifests as the seven Rays, or as the Light of Wisdom, the Consciousness, radiating through the form. |
Như Lửa Thái dương, Ngài biểu lộ như bảy Cung, hay như Ánh sáng của Minh triết, Tâm thức, phóng xạ qua hình tướng. |
|
– As fire by friction He manifests as the seven Sons of Fohat, the seven great fires, or the active heat of intelligent substance. |
Như Lửa do ma sát Ngài biểu lộ như bảy Con của Fohat, bảy đại hỏa, hay nhiệt lực hoạt động của chất liệu thông minh. |
|
These three aspects of the God of Fire, and of the fire of God, are the three Entities of the logoic Trinity, and each in turn manifests through seven other Entities Who form their total manifestation. |
Ba phương diện này của Thần Lửa, và của lửa của Thượng đế, là ba Thực thể thuộc Tam Vị của Thượng đế, và mỗi vị lần lượt biểu lộ qua bảy Thực thể khác, những vị cấu thành tổng thể biểu lộ của các Ngài. |
|
Sevenfold electric fire. The seven types of spiritual existences, or the seven Spirits before the Throne in Their essential essence; the dynamic force or will lying back of all manifestation. They form on their own plane in a peculiar sense the logoic “Jewel in the Lotus,” and [629] hence are inconceivable to our intelligence in this solar system, as They are not revealed until the “Son be made perfect,” or the logoic consciousness is fully awakened. They are esoterically the “Spirits of Darkness.” |
Lửa điện thất phân. Bảy loại tồn tại tinh thần, hay Bảy Thánh Linh trước Thánh Ngai trong bản thể tinh túy của Các Ngài; là mãnh lực động hay ý chí nằm sau mọi biểu lộ. Ở cõi riêng của mình, theo một nghĩa đặc biệt, Các Ngài tạo thành “Viên Ngọc trong Hoa Sen” thuộc Thượng đế, và [629] do đó vượt khỏi khả năng tư duy của chúng ta trong hệ mặt trời này, vì Các Ngài chưa được hiển lộ cho đến khi “Ngôi Con được nên trọn vẹn”, hay tâm thức thuộc Thượng đế được đánh thức viên mãn. Về nội môn, Các Ngài là “các Linh Thần của Bóng Tối”. |
|
Sevenfold solar fire. The seven Heavenly Men, the sumtotal of Light, the seven Rays of manifestation of the Spiritual Sun. In time and space these seven Rays of Light become the nine (the major three, with the third demonstrating as seven) and are thus esoterically the nine petals of the logoic Ego as He manifests in His physical vehicle. They are esoterically the “Sons of Light.” |
Lửa Thái dương thất phân. Các Đấng Thiên Nhân, tổng số của Ánh sáng, bảy Cung biểu lộ của Mặt trời Tinh thần. Trong thời gian và không gian, bảy Cung Ánh sáng này trở thành chín (ba chính yếu, trong đó cung thứ ba hiển hiện thành bảy) và như vậy, về nội môn, là chín cánh hoa của Chân ngã thuộc Thượng đế khi Ngài biểu lộ trong hiện thể hồng trần của Ngài. Về nội môn, Các Ngài là “Các Con của Ánh sáng”. |
|
Sevenfold fire by friction. The seven brothers of Fohat. The seven manifestations of electricity, or of electrical phenomena. These are the seven Raja-Lords or Devas of the seven planes; they are the seven Fires, or those seven states of activity through which consciousness is expressing itself. They are the vehicles of consciousness and the seven vibrations. They are esoterically the “Brothers of energy.” |
Lửa ma sát thất phân. Bảy huynh đệ của Fohat. Bảy biểu lộ của điện lực, hay của các hiện tượng điện. Đây là bảy Chúa Tể Raja hay các Deva của bảy cõi; là bảy Hỏa, hay bảy trạng thái hoạt động mà qua đó tâm thức tự biểu lộ. Các Ngài là những vận cụ của tâm thức và là bảy rung động. Về nội môn, Các Ngài là “các Huynh Đệ của năng lượng”. |
|
Therefore it will be apparent that the sumtotal of logoic manifestation as it can be seen in existence in time and space is: |
Vì thế, sẽ thấy rõ rằng tổng số biểu lộ của Thượng đế khi có thể được thấy đang hiện hữu trong thời gian và không gian là: |
|
– Seven Spirits—sevenfold will. |
Bảy Thánh Linh—ý chí thất phân. |
|
– Seven Rays—sevenfold quality or psyche. |
Bảy Cung—phẩm tính hay tâm lý thất phân. |
|
– Seven Deva Lords—sevenfold form. |
Bảy Chúa Tể Deva—hình tướng thất phân. |
|
The latter are literally the seven spirillae, or force vibrations within the logoic physical permanent atom. This needs to be carefully borne in mind and pondered upon. The seven Rays are the sumtotal of the psychic nature of the Logos, as it radiates through His physical form—His seven qualities, the aggregate of the expression of His desire, or love nature. The seven Spirits are the sumtotal of His Will-to-be aspect, the synthetic Life of His total manifestation, that which causes the persistence [630] of the form, and its evolution for as long as the logoic Ego seeks physical existence. |
Loại sau rốt này thật ra là bảy “tiểu tuyến” hay các rung động mãnh lực trong Nguyên tử trường tồn hồng trần của Thượng đế. Điều này cần được ghi nhớ và suy ngẫm cẩn trọng. Bảy Cung là tổng số bản chất tâm lý của Thượng đế, khi nó phóng xạ qua hiện thể hồng trần của Ngài—bảy phẩm tính của Ngài, là tổng hợp của sự biểu lộ dục vọng hay bản chất Tình thương của Ngài. Bảy Thánh Linh là tổng số phương diện Ý Chí-tồn tại của Ngài, là Sự Sống tổng hợp của toàn biểu lộ của Ngài, là cái khiến [630] hình tướng kiên trụ và tiến hóa chừng nào Chân ngã thuộc Thượng đế còn tìm kiếm sự tồn tại hồng trần. |
|
To carry the simile, or analogy, even further back and thus bear in mind the resemblance between microcosmic and macrocosmic development we have: |
Để dẫn dụ, hay so sánh, đi xa hơn nữa và vì thế ghi nhớ sự tương đồng giữa tiến triển tiểu vũ trụ và đại vũ trụ, chúng ta có: |
|
1. The seven Spirits who find Their originating incentive on: |
Bảy Thánh Linh, Các Ngài tìm thấy xung lực phát nguyên của mình trên: |
|
a. The cosmic lower mental levels. |
Các cấp độ hạ trí vũ trụ. |
|
b. The logoic “Jewel in the Lotus.” |
“Viên Ngọc trong Hoa Sen” của Thượng đế. |
|
c. The cosmic atmic plane. |
Cõi atma vũ trụ. |
|
2. The seven Heavenly Men are in the line of force from: |
Các Đấng Thiên Nhân ở trong tuyến mãnh lực phát nguyên từ: |
|
a. The cosmic astral plane. |
Cõi cảm dục vũ trụ. |
|
b. The logoic nine-petalled lotus. |
Hoa sen chín cánh của Thượng đế. |
|
c. The cosmic buddhic plane (the seven Rishis of the Great Bear). |
Cõi Bồ đề vũ trụ (bảy Rishi của Đại Hùng). |
|
3. The seven Sons of Fohat find their vital force emanating from: |
Bảy Con của Fohat tìm thấy sinh lực phát xạ từ: |
|
a. The cosmic physical plane. |
Cõi hồng trần vũ trụ. |
|
b. The logoic permanent atoms (within the causal body). |
Các nguyên tử trường tồn của Thượng đế (bên trong thể nguyên nhân). |
|
c. The cosmic higher mental levels. |
Các cấp độ thượng trí vũ trụ. |
|
Yet these three are but the expressions of One Existence, for behind the Logos in physical incarnation is to be found the logoic Monad, expressing Itself through the logoic Ego, and its reflection, the logoic Personality. |
Tuy nhiên, ba nhóm này chỉ là các biểu lộ của Một Hiện Hữu, vì phía sau Thượng đế trong sự lâm phàm hồng trần có thể tìm thấy Chân thần thuộc Thượng đế, tự biểu hiện qua Chân ngã thuộc Thượng đế, và qua phản ảnh của nó, Phàm ngã thuộc Thượng đế. |
|
All these spiritual Essences are individualized self-conscious Identities, and the “Fiery Lives” are real, and conscious, vital Existences. Thus we see the Logos manifesting as One Unity yet Three in One; we see the threefold Unity differentiating into the seven great Lives, containing within Themselves all lesser lives. |
Tất cả các Bản Thể tinh thần này là những Thực thể tự ý thức đã được cá biệt hóa, và các “Sự Sống Fiery” là những Hiện Hữu sinh động, có tâm thức, đầy sinh khí. Như vậy, chúng ta thấy Thượng đế biểu lộ như Một Nhất Thể nhưng lại Ba trong Một; chúng ta thấy Nhất Thể tam phân phân hóa thành bảy Đại Sự Sống, bao hàm trong Chính Mình Các Ngài mọi sự sống thấp hơn. |
|
Another broad differentiation must next be touched upon: [631] |
Một biến phân rộng khác phải được chạm đến tiếp theo: [631] |
|
a. The seven Fires form the forty-nine Fires. |
Bảy Hỏa cấu thành bốn mươi chín Hỏa. |
|
b. The seven Heavenly Men manifest through forty-nine lesser Rays. |
Các Đấng Thiên Nhân biểu lộ qua bốn mươi chín Cung nhỏ. |
|
c. The seven Spirits shew forth as forty-nine Existences. |
Bảy Thánh Linh biểu lộ như bốn mươi chín Hiện Hữu. |
|
In connection with the Spirit aspect it will prove unprofitable to carry the thought any further. Of Spirit per se we can know nothing, and beyond predicating the forty-nine 5 solar Manus (each of the Heavenly Men is expressing Himself on the physical plane through seven Manus) it is impossible to go. Therefore, in discussing these abstract questions, we will concern ourselves only with the seven Rays of Light, or Heavenly Men, and the seven Fires. |
Liên quan đến phương diện Linh Thần, việc đẩy tư tưởng đi xa hơn sẽ tỏ ra vô ích. Về Linh Thần tự thân chúng ta không thể biết gì, và ngoài việc khẳng định bốn mươi chín 5 vị Manus thái dương (mỗi Đấng Thiên Nhân tự biểu hiện trên cõi hồng trần qua bảy vị Manu) thì không thể tiến xa hơn. Do đó, khi bàn các vấn đề trừu tượng này, chúng ta chỉ tự giới hạn vào bảy Cung Ánh sáng, hay Các Đấng Thiên Nhân, và bảy Hỏa. |
|
Each of the seven Rays of Light differentiates into seven making the forty-nine aspects of the logoic psychic nature, as it shews itself on the cosmic physical plane, and each of the seven Fires manifests as seven lesser Fires, making the forty-nine Fires referred to by H. P. B. in the Secret Doctrine (See S. D., 1, 567.). The seven Heavenly Men manifest each through seven lesser Entities, Who form the psychic centers in Their body in the same manner as They—in Their turn—form the psychic centers in the logoic vahan or vehicle. Each of the seven Fires, or Deva Lords, of a plane manifest through seven lesser devas, who form the central fire, and consciousness of the substance of a subplane. It is with their mutual interplay and work that we are now concerned, or with the study of matter as it is affected and built into form through the medium of Divine Thought or Will. |
Mỗi một trong bảy Cung Ánh sáng lại biến phân thành bảy, tạo nên bốn mươi chín phương diện của bản chất tâm lý thuộc Thượng đế, khi nó biểu lộ trên cõi hồng trần vũ trụ; và mỗi một trong bảy Hỏa biểu lộ như bảy Hỏa nhỏ, tạo nên bốn mươi chín Hỏa mà Bà H. P. B. đã đề cập trong Giáo Lý Bí Nhiệm (xem S. D., I, 567.). Các Đấng Thiên Nhân mỗi vị lại biểu lộ qua bảy Thực thể nhỏ, vốn cấu thành các trung tâm tâm lý trong thân của Các Ngài theo cùng cách thức mà Các Ngài—đến lượt mình—cấu thành các trung tâm tâm lý trong vahan hay vận cụ của Thượng đế. Mỗi một trong bảy Hỏa, hay Chúa Tể Deva của một cõi, biểu lộ qua bảy deva nhỏ, những vị hình thành hỏa trung tâm và tâm thức của chất liệu của một cõi phụ. Điều chúng ta bây giờ quan tâm là tương tác và công việc hỗ tương của các vị ấy, hay sự khảo cứu chất liệu khi nó bị tác động và được kết cấu thành hình tướng qua trung gian của Thiên Tư hay Ý Chí Thiêng Liêng. |
|
Of the higher Fires (the Lords of the four higher planes) I do not seek to deal, for it only profits us to [632] study the construction of thought-forms in the three worlds through the medium of deva essences; these are vitalized and manipulated by the Builders, the Dhyan Chohans, the Heavenly Men through the force of Their Life, through Their knowledge of the logoic Will or purpose, and through the power of Their psychic nature. Thus They are occupied in building the logoic physical body, and in carrying out His plans in that body, in this way fulfiling the purpose for which He incarnated. Their work is infinitely greater than this, for it lies primarily on cosmic levels, but this is what concerns us, and all that we can, in any way grasp. Man in the three worlds of human endeavor works at two things: |
Về những Hỏa cao hơn (các Chúa Tể của bốn cõi cao) tôi không tìm cách bàn đến, vì chỉ có ích [632] khi khảo cứu sự kiến tạo hình tư tưởng trong ba cõi qua trung gian các tinh chất deva; những tinh chất này được tiếp sinh lực và được điều khiển bởi các Nhà Xây Dựng, các Dhyan Chohans, các Đấng Thiên Nhân thông qua mãnh lực Sự Sống của Các Ngài, thông qua sự hiểu biết của Các Ngài về Ý Chí hay mục đích thuộc Thượng đế, và thông qua quyền năng của bản chất tâm lý của Các Ngài. Do vậy, Các Ngài bận lo kiến tạo thể hồng trần của Thượng đế, và thi hành các kế hoạch của Ngài trong hiện thể đó, nhờ thế hoàn thành mục đích mà vì đó Ngài đã lâm phàm. Công việc của Các Ngài còn vô cùng lớn lao hơn thế, vì trước hết nó ở trên các cấp vũ trụ, nhưng đó là điều liên quan đến chúng ta và là tất cả những gì chúng ta có thể lĩnh hội phần nào. Con người trong ba cõi của nỗ lực nhân loại làm việc trên hai điều: |
|
First. The building of his body of manifestation, a threefold body. |
Thứ nhất. Kiến tạo thân biểu lộ của y, một thân tam phân. |
|
Second. The construction of thought-forms, which he builds of mental matter and vitalizes by desire, and which he holds within his aura, thus constructing a tiny system of his own. |
Thứ hai. Cấu tạo các hình tư tưởng, mà y xây dựng bằng chất liệu trí tuệ và tiếp sinh lực bằng dục vọng, và y giữ chúng trong hào quang của mình, như thế kiến tạo một tiểu hệ thống riêng của y. |
|
Both man, and the Heavenly Men, work in deva substance; both cooperate with the devas; both manifest will, psychic quality and intelligent activity as they pursue their work but a difference lies, not only in degree, but in consciousness. Man works usually unconsciously. The Heavenly Men, on cosmic levels, work for the most part consciously. Herein lies a hint as to the stage of evolution of our Logos. |
Cả con người lẫn các Đấng Thiên Nhân đều làm việc trong chất liệu deva; cả hai hợp tác với chư deva; cả hai biểu lộ ý chí, phẩm tính tâm lý và hoạt động thông minh khi Các Ngài/ họ theo đuổi công việc của mình, nhưng khác biệt không chỉ ở mức độ mà còn ở tâm thức. Con người thường làm việc trong vô thức. Các Đấng Thiên Nhân, trên các cấp vũ trụ, phần lớn làm việc một cách có ý thức. Ở đây có một gợi ý về giai đoạn tiến hoá của Thượng đế của chúng ta. |
|
This matter is of real difficulty, for the subject is abstruse and profound. We will now leave these basic ideas, and deal more specifically with the devas with whom we are immediately concerned, or with the three groups I have outlined—the Agnichaitans, the Agnisuryans, and the Agnishvattas. They are concerned primarily with the evolution of the dense body of the Logos, the liquid, gaseous and dense subplanes of the [633] cosmic physical, or the three worlds of human endeavor; with the magnetic radiation of the Logos through His physical vehicle, and with the radiatory emanations of the particular Heavenly Man Who is expressing Himself through our planet. Finally they are concerned with the evolution of consciousness 7 in the three worlds, and particularly with the individualization of the human unit of consciousness, and with the vitalization of the centers in the body of the Heavenly Man with Whom we are peculiarly connected. |
Vấn đề này thật khó khăn, vì đề tài trừu áo và thâm sâu. Giờ đây chúng ta sẽ tạm rời những ý tưởng căn bản này, và bàn cụ thể hơn về chư deva mà chúng ta liên hệ trực tiếp, tức ba nhóm tôi đã phác họa—Agnichaitans, Agnisuryans, và Agnishvattas. Các vị này chủ yếu liên quan đến sự tiến hóa của thể đậm đặc của Thượng đế, tức các cõi phụ lỏng, khí và đậm đặc của [633] cõi hồng trần vũ trụ, hay ba cõi của nỗ lực nhân loại; liên quan đến bức xạ từ tính của Thượng đế qua hiện thể hồng trần của Ngài, và đến các phát xạ bức xạ của Đấng Thiên Nhân đặc thù đang tự biểu hiện qua hành tinh của chúng ta. Sau hết, các vị liên quan đến sự tiến hóa của tâm thức 7 trong ba cõi, và đặc biệt là đến sự biệt ngã hóa của đơn vị nhân loại về tâm thức, cũng như đến việc tiếp sinh lực cho các trung tâm trong thân của Đấng Thiên Nhân mà với Ngài chúng ta có liên hệ đặc biệt. |
|
5 The forty-nine Manus. They are the patrons or guardians of the race cycles in a manvantara, or Day of Brahma. There are seven races in a world period, and there are seven world periods. |
5 Bốn mươi chín vị Manu. Các Ngài là những vị bảo hộ hay hộ pháp của các chu kỳ giống dân trong một manvantara, hay Ngày của Brahma. Có bảy giống dân trong một chu kỳ thế giới, và có bảy chu kỳ thế giới. |
|
7 The Lunar Angels have to reach the plane of the Solar Angels.—S. D., I, 203. |
7 Các Thiên Thần Thái âm phải đạt đến cõi của các Thiên Thần Thái dương.—S. D., I, 203. |
|
They have to win immortality.—S. D., III, 518, 519. |
Các Ngài phải đạt được tính bất tử.—S. D., III, 518, 519. |
|
Self-consciousness is their goal.—S. D., I, 205; II, 622. |
Mục tiêu của các Ngài là tự thức.—S. D., I, 205; II, 622. |
|
The subject of our consideration now is the fire devas of the physical plane, those great building devas who are working out the purposes of the Logos in his dense, physical body. Let us get our ideas as clear as possible on this matter; in the following tabulation, the status of these devas will be apparent at a glance: |
Đối tượng mà chúng ta đang khảo sát hiện nay là chư hỏa deva của cõi hồng trần, những đại deva xây dựng đang triển khai các mục đích của Thượng đế trong thể hồng trần đậm đặc của Ngài. Chúng ta hãy làm sáng tỏ hết mức các ý niệm của mình về vấn đề này; trong bảng sau, địa vị của các deva này sẽ hiển lộ ngay: |
|
[table 5] |
[table 5] |
|
The Agnichaitans. These are the devas who construct, and build in matter of the densest kind in connection with logoic manifestation. They function on the seventh subplane of the cosmic physical plane, and are the producers of the greatest concretion. In the planetary body of our planetary Logos they are the builders of the Earth, His densest form, and throughout the entire solar system they are the sumtotal of that activity and vibration [634] which demonstrates through what we call “solid substance.” |
Các Agnichaitans. Đây là chư deva kiến tạo và xây dựng bằng chất liệu thuộc loại đậm đặc nhất liên quan đến biểu lộ của Thượng đế. Các vị hoạt động trên cõi phụ thứ bảy của cõi hồng trần vũ trụ, và là những đấng sản sinh ra sự kết tụ bậc cao nhất. Trong thân hành tinh của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, các vị là những người xây dựng quả Đất, hình tướng đậm đặc nhất của Ngài, và trên toàn hệ mặt trời, các vị là tổng số của hoạt động và rung động [634] mà chúng ta gọi là “chất đậm đặc”. |
|
Therefore, it will be apparent that under the law they will have a peculiarly powerful effect on the lowest subplane of the systemic physical plane; hence their esoteric appellation of the “Agnichaitans of the inner or central heat.” They are the totality of the lowest vibration in the cosmic physical vehicle. |
Do đó, theo định luật, sẽ dễ thấy rằng các vị có ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ trên cõi phụ thấp nhất của cõi hồng trần hệ thống; vì vậy có danh xưng nội môn là “các Agnichaitans của nội nhiệt hay hỏa trung tâm”. Các vị là tổng thể của rung động thấp nhất trong hiện thể hồng trần vũ trụ. |
|
The Agnisuryans are the builders on the sixth subplane of the cosmic physical plane, our systemic astral plane. They represent, as I have before hinted, the sympathetic nervous system in the logoic physical body, just as their brothers of the seventh vibration represent the sumtotal of the circulatory or blood system. A hint to the student who is interested in the physiological key lies in the relationship between the two great groups of devas who build and construct the most objective portion of logoic manifestation, and the two groups of corpuscles which in their mutual interaction hold the body in health; there is an analogy also in the relationship between the devas of the astral plane, and the motor and sensory nerves of the physical body. I will not enlarge upon this angle of vision. |
Các Agnisuryans là những người xây dựng trên cõi phụ thứ sáu của cõi hồng trần vũ trụ, tức cõi cảm dục hệ thống của chúng ta. Như tôi đã ám chỉ trước đây, các vị tượng trưng cho hệ thần kinh giao cảm trong thể hồng trần của Thượng đế, cũng như các huynh đệ của cường độ rung động thứ bảy tượng trưng cho tổng số của hệ tuần hoàn hay hệ huyết dịch. Một gợi ý cho đạo sinh quan tâm đến chìa khóa sinh lý học nằm trong mối liên hệ giữa hai đại nhóm deva vốn xây dựng và kiến tạo phần khách quan nhất của biểu lộ thuộc Thượng đế, và hai nhóm huyết cầu vốn trong tương tác hỗ tương của chúng giữ thân thể ở tình trạng khỏe mạnh; cũng có một sự tương đồng trong mối liên hệ giữa chư deva của cõi cảm dục và các thần kinh vận động cùng cảm giác của thể hồng trần. Tôi sẽ không khai triển góc nhìn này. |
|
These devas have to do, in a very esoteric sense, with the nerve plexus in the: |
Các deva này, theo một nghĩa rất nội môn, có liên hệ với các đám rối thần kinh trong: |
|
a. Solar system. (Physical Sun) |
Hệ mặt trời. (Mặt trời vật chất) |
|
b. Planetary scheme. (Dense Planet) |
Hệ hành tinh. (Hành tinh đậm đặc) |
|
c. Human physical body. (Dense Body) |
Thân xác con người. (Thân đậm đặc) |
|
and are therefore a powerful factor in the eventual vitalization of the centers in man. The etheric centers, or the focal points of force of a Heavenly Man are on the fourth cosmic ether, the buddhic plane. The astral plane is closely allied to the buddhic, and as the etheric centers of our Heavenly Man, for instance, come into full activity, the force is transmitted through the astral correspondence [635] to the fourth physical ether, in which the centers of man exist. |
và do vậy là một nhân tố mạnh mẽ trong việc rốt cuộc tiếp sinh lực cho các trung tâm của con người. Các trung tâm dĩ thái, hay các điểm hội tụ mãnh lực của một Đấng Thiên Nhân ở trên cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư, tức cõi Bồ đề. Cõi cảm dục liên hệ mật thiết với cõi Bồ đề, và khi các trung tâm dĩ thái của Đấng Thiên Nhân của chúng ta, chẳng hạn, đi vào hoạt động viên mãn, thì mãnh lực được truyền dẫn qua đối phần cảm dục [635] đến cõi dĩ thái hồng trần thứ tư, nơi các trung tâm của con người tồn tại. |
|
The Agnishvattas are the builders on the fifth or gaseous subplane of the cosmic physical, and—from the human standpoint—are the most profoundly important, for they are the builders of the body of consciousness per se. From the psychic standpoint of occult physiology, they have a close connection with the physical brain, the seat or empire of the Thinker, and as at this stage all that we can know must be viewed kama-manasically, it will be apparent that between the sympathetic nervous system and the brain is such a close interaction as to make one organized whole. This microcosmic correspondence is of interest, but in studying these groups of devas at present we will view them principally in their work as systemic and planetary builders, leaving the student to trace out for himself the human analogy. He will learn thereby. Having indicated certain lines of thought, we will now take up these groups one at a time and consider them. |
Các Agnishvattas là những người xây dựng trên cõi phụ thứ năm hay khí của cõi hồng trần vũ trụ, và—xét từ lập trường con người—là những vị quan trọng sâu xa nhất, vì các vị là những người xây dựng thân của tâm thức tự thân. Xét từ lập trường tâm lý của sinh lý học huyền bí, các vị có liên hệ mật thiết với bộ não thể xác, toà ngự hay đế quốc của Đấng Tư duy, và vì ở giai đoạn này, mọi điều chúng ta có thể biết phải được nhìn theo cách trí-cảm, nên sẽ rõ ràng rằng giữa hệ thần kinh giao cảm và bộ não có một tương tác mật thiết đến mức cấu thành một toàn thể tổ chức thống nhất. Sự tương ứng tiểu vũ trụ này là điều đáng quan tâm, nhưng khi nghiên cứu các nhóm deva này lúc này, chúng ta sẽ xem xét các vị chủ yếu trong công việc của các vị như những nhà xây dựng thuộc hệ thống và hành tinh, dành cho đạo sinh tự mình lần theo sự tương tự nơi con người. Nhờ đó y sẽ học hỏi. Sau khi gợi mở một số đường hướng tư duy, giờ đây chúng ta sẽ lần lượt xét các nhóm này. |
[Commentary S6S7]
The Agnichaitans—Physical Plane Devas —Các Agnichaitans—Chư deva của Cõi Hồng trần
|
These devas are the sumtotal of physical plane substance. This plane is, as we know, divided into two parts: |
Các deva này là tổng số chất liệu của cõi hồng trần. Như chúng ta biết, cõi này được phân thành hai phần: |
|
– The four ethers, four subplanes. |
Bốn dĩ thái, bốn cõi phụ. |
|
– The demonstrably concrete or dense three subplanes. |
Ba cõi phụ hiển nhiên đậm đặc, cụ thể. |
|
We have here a subdivision of the seventh subplane of the cosmic physical plane making the lowest manifestation one that is divided into forty-nine subplanes or states of activity. For purposes of active work, the devas of the system are divided into forty-nine groups—the forty-nine fires. The Agnichaitans in turn are also divided into forty-nine groups, thus reflecting the whole. [636] |
Ở đây, chúng ta có một sự phân chia của cõi phụ thứ bảy của cõi hồng trần vũ trụ, khiến biểu lộ thấp nhất được chia thành bốn mươi chín cõi phụ hay trạng thái hoạt động. Vì mục đích công tác chủ động, chư deva của hệ thống được phân thành bốn mươi chín nhóm—bốn mươi chín hỏa. Các Agnichaitans đến lượt mình cũng được phân thành bốn mươi chín nhóm, nhờ đó phản chiếu toàn thể. [636] |
|
1. The Raja-Lord. Kshiti. The life of the physical plane. |
Chúa Tể Raja. Kshiti. Sự sống của cõi hồng trần. |
|
2. Three groups of Agnichaitans concerned with: |
Ba nhóm Agnichaitans liên quan đến: |
|
A. The force or energy of physical substance. That electrical aspect which produces activity. |
Mãnh lực hay năng lượng của chất liệu hồng trần. Khía cạnh điện lực tạo ra hoạt động. |
|
B. The construction of forms. They produce the union of negative and positive substance, and thus bring into being all that can be seen, and touched in the exoteric and ordinary connotation. |
Sự kiến tạo hình tướng. Họ đưa chất âm và dương hợp nhất, nhờ thế mang vào hiện hữu mọi thứ có thể thấy và chạm trong ý nghĩa ngoại môn, thông tục. |
|
C. The internal heat of substance which nourishes and causes reproduction. They form the purely mother aspect. |
Nhiệt nội tại của chất liệu, vốn nuôi dưỡng và gây sinh sản. Họ hình thành phương diện thuần túy mẫu tính. |
|
These three groups are subdivided again into seven groups which form the matter of each subplane, viewing that matter as the body of manifestation of one of the seven devas through whom the Raja-Lord of the plane is manifesting. |
Ba nhóm này lại được phân chia thành bảy nhóm, vốn cấu thành chất liệu của mỗi cõi phụ, xem chất liệu đó như thân biểu lộ của một trong bảy deva mà qua đó Chúa Tể Raja của cõi đang biểu lộ. |
|
These seven groups are again divided into seven, making forty-nine. |
Bảy nhóm này lại chia thành bảy, thành bốn mươi chín. |
|
The three groups function as follows: |
Ba nhóm hoạt động như sau: |
|
– Group A. on the first subplane. They are the sumtotal of the atomic matter of the physical plane. |
Nhóm A. trên cõi phụ thứ nhất. Họ là tổng số của chất nguyên tử của cõi hồng trần. |
|
– Group B. on the second, third and fourth etheric subplanes. They are the substance of those planes, the transmitters of prana, through which prana flows to the most concrete aspects of the logoic dense vahan, or vehicle. |
Nhóm B. trên cõi phụ dĩ thái thứ hai, thứ ba và thứ tư. Họ là chất liệu của các cõi đó, là các kênh chuyển tải prana, qua đó prana lưu chuyển đến những phương diện cụ thể nhất của vahan hay vận cụ đậm đặc thuộc Thượng đế. |
|
– Group C. the lowest three subplanes; they are the devas who are the essences of all that is tangible, visible and objective. |
Nhóm C. ba cõi phụ thấp nhất; họ là các deva, là tinh chất của mọi thứ hữu hình, khả kiến và khách quan. |
|
A very real distinction must be made by students between the centers and the remainder of the body, as they investigate the construction of the body of the solar Logos or of a planetary Logos. [637] |
Một phân biệt rất thực sự phải được đạo sinh thực hiện giữa các trung tâm và phần còn lại của thân thể khi họ khảo sát sự cấu tạo thân thể của Thái dương Thượng đế hay của một Hành Tinh Thượng đế. [637] |
|
The centers are allied or connected with consciousness, and are composed of self-conscious units—the human Monads. The remainder of the body is composed of deva substance, yet the two together form a unity. The deva units therefore far outnumber the human, and deva substance is also feminine and negative, the human Hierarchy being masculine. Through the positive activity of the centers, the negative deva substance is influenced, built and energized. This is true of a solar Logos, a planetary Logos and a human being. |
Các trung tâm liên kết hay được nối với tâm thức, và được cấu thành bởi các đơn vị tự thức—các Chân thần nhân loại. Phần còn lại của thân thể được cấu thành bởi chất liệu deva, tuy vậy cả hai hợp lại thành một nhất thể. Do đó, các đơn vị deva vượt xa về số lượng so với nhân loại, và chất liệu deva cũng mang tính nữ và âm, trong khi Hệ đẳng nhân loại là dương. Thông qua hoạt động dương của các trung tâm, chất liệu deva âm được ảnh hưởng, được kiến tạo và được tiếp sinh lực. Điều này đúng với Thái dương Thượng đế, một Hành Tinh Thượng đế và một con người. |
|
Three types of force, therefore, play upon or through these devas: |
Vì thế, ba loại mãnh lực tác động lên hay xuyên qua các deva này: |
|
a. That energizing the devas of the first subplane, the atomic. This emanates directly from the first aspect of Brahma, or Agni, considering Him as a self-conscious Identity, the third Person of the logoic Trinity, and therefore Spirit, Soul and Body Himself in His separated essential nature. |
Loại đang tiếp sinh lực cho chư deva của cõi phụ thứ nhất, cõi nguyên tử. Điều này phát xuất trực tiếp từ phương diện thứ nhất của Brahma, hay Agni, xét Ngài như một Thực thể tự ý thức, tức Ngôi Thứ Ba của Ba Ngôi thuộc Thượng đế, và do đó là Tinh thần, Linh hồn và Thân xác tự chính Ngài trong bản tính thiết yếu được phân ly. |
|
b. That energizing the devas of construction, or the form building groups; this comes from the second aspect of Brahma, and is prana, issuing from the physical Sun, and working under the Law of Attraction. |
Loại đang tiếp sinh lực cho chư deva xây dựng, hay các nhóm kiến tạo hình tướng; điều này đến từ phương diện thứ hai của Brahma, và là prana, phát xuất từ Mặt trời vật chất, và vận hành theo Định luật Hấp dẫn. |
|
c. That energizing the devas of the lowest three orders, emanating from Brahma in His third aspect. Thus in the dual force, or the aspects of matter itself, interacting the one upon the other, densest forms of all are produced. Yet these three function as one. |
Loại đang tiếp sinh lực cho chư deva của ba đẳng cấp thấp nhất, phát xuất từ Brahma trong phương diện thứ ba của Ngài. Như thế, trong lực nhị nguyên, hay các phương diện của chính chất liệu tương tác với nhau, những hình tướng đậm đặc nhất được sản sinh. Tuy vậy, cả ba vẫn hoạt động như một. |
Group C. Agnichaitans |
Nhóm C. Agnichaitans |
|
In considering these groups of Agnichaitans, we must remember that we are dealing with that manifestation of the Logos with which exoteric science is dealing, and that as regards Group C, science is already making fair progress in the accumulation of knowledge; it remains yet for science to [638] acknowledge the “entified” nature of substance, 8, 9 and thus account for the life that energizes the substance of the three lower subplanes. This recognition by science that all forms are built of intelligent lives will come about when the science of magic begins again to come to the fore, and when the laws of being are better understood. Magic concerns itself with the manipulation of the lesser lives by a greater life; when the scientist begins to work with the consciousness that animates substance (atomic or electronic), and when he brings under his conscious control the forms built of this substance, he will gradually become cognizant of the fact that all entities of all grades and of varying constitutions go to the construction of that which is seen. This will not be until science has definitely admitted the existence of etheric matter as understood by the occultist, and until it has developed the hypothesis that this ether is in differing vibrations. When the etheric counterpart of all that exists is allocated to its rightful place, and known to be of more importance in the scale of being than the dense vehicle, being essentially the body of the [639] life, or vitality, then the rôle of the scientist and the occultist will merge. |
Khi khảo sát các nhóm Agnichaitans này, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đang xử lý biểu lộ của Thượng đế mà với nó khoa học ngoại môn đang xử lý, và rằng liên quan đến Nhóm C, khoa học đã tiến được một bước khá xa trong việc tích lũy tri thức; tuy vậy, khoa học vẫn còn phải [638] thừa nhận bản chất “được thực thể hóa” của chất liệu, 8, 9 và như vậy giải thích được Sự sống đang tiếp sinh lực cho chất liệu của ba cõi phụ thấp. Sự công nhận của khoa học rằng mọi hình tướng đều được xây bằng các sự sống thông minh sẽ xảy đến khi khoa học huyền thuật lại trỗi dậy, và khi các định luật của hiện hữu được hiểu rõ hơn. Huyền thuật quan tâm đến sự điều khiển các sự sống nhỏ bởi một Sự sống lớn hơn; khi nhà khoa học bắt đầu làm việc với tâm thức đang sinh động hóa chất liệu (nguyên tử hay điện tử), và khi y đưa các hình tướng được kiến tạo bằng chất liệu này vào dưới quyền kiểm soát có ý thức của mình, y sẽ dần dần ý thức được rằng mọi thực thể ở mọi cấp độ và có các cấu trúc khác nhau đều góp phần vào việc kết cấu những gì hữu hình. Điều này sẽ không xảy ra cho đến khi khoa học dứt khoát thừa nhận sự hiện hữu của chất liệu dĩ thái như được nhà huyền bí hiểu, và cho đến khi khoa học phát triển giả thuyết rằng dĩ thái này có những cấp độ rung động khác nhau. Khi đối phần dĩ thái của mọi cái hiện hữu được đặt vào vị trí đích đáng và được biết là quan trọng hơn trong thang bậc hiện hữu so với hiện thể đậm đặc—vì vốn là thân của [639] Sự sống, hay sinh khí—thì vai trò của nhà khoa học và nhà huyền bí sẽ hòa nhập. |
|
H. P. B. has said (See S. D., II, 621.) that the dense physical is not a principle, and this point is frequently overlooked in connection with man and the Logos. Its importance cannot be too strongly realized for it has the effect of transferring the point of centralization, or of polarization in the case of man into his etheric body, composed of matter of the four higher subplanes of the systemic physical plane, and in the case of the Logos, of the four higher subplanes of the cosmic physical plane. The point is one of a very real complexity, for it involves the realization that, from the standpoint of the occultist, the lowest vibration with which he may concern himself is that of the systemic etheric in its four lesser allied vibrations; similarly macrocosmically the lowest logoic vibration with which the greater Adepts are concerned is the cosmic etheric. The three lowest systemic and cosmic vibrations are the result of: |
Bà H. P. B. đã nói (xem S. D., II, 621.) rằng thể hồng trần đậm đặc không phải là một nguyên khí, và điểm này thường bị bỏ qua khi xét liên quan đến con người và Thượng đế. Tầm quan trọng của nó không thể nhấn mạnh quá mức, vì nó có hiệu ứng chuyển dời điểm tập trung, hay sự phân cực, trong trường hợp con người là vào thể dĩ thái của y, cấu thành bởi chất liệu của bốn cõi phụ cao của cõi hồng trần hệ thống, và trong trường hợp của Thượng đế, là vào bốn cõi phụ cao của cõi hồng trần vũ trụ. Điểm này thật sự phức tạp, vì nó bao hàm nhận thức rằng, xét từ lập trường của nhà huyền bí, rung động thấp nhất mà y có thể quan tâm là rung động của cõi dĩ thái hệ thống trong bốn rung động liên hệ thấp hơn của nó; tương tự, về mặt đại thiên địa, rung động hồng trần thấp nhất thuộc Thượng đế mà các bậc Đại điểm đạo đồ quan tâm là cõi dĩ thái vũ trụ. Ba rung động hệ thống và vũ trụ thấp nhất là kết quả của: |
|
– Reflex action on the part of negative substance for the lower three are negative to the higher four. |
Hành động phản xạ của chất liệu âm, vì ba cõi thấp là âm đối với bốn cõi cao. |
|
– Synchronous vibration, inherent in negative substance, the residue of an earlier system, and embodying therefore past karma for the Logos and for man. |
Rung động đồng thời, vốn cố hữu trong chất liệu âm, là tàn dư của một hệ trước, và do đó bao hàm nghiệp quá khứ đối với Thượng đế và đối với con người. |
|
– Vibrations that are gradually being superseded by the imposition of a higher note; therefore for both man and the Logos, they occultly form the “body of death.” |
Những rung động đang dần dần bị vượt thắng bởi sự áp đặt của một âm điệu cao hơn; vì vậy, đối với cả con người lẫn Thượng đế, chúng tạo thành “thân của tử vong” trên phương diện huyền bí. |
|
This brings us to the point which we are seeking to make anent this third group of the lowest devas. They are very destructive where man is concerned, for they embody the final and therefore powerful vibration of the past system, the conscious activity of dense matter. Hence there is consequently a profound truth in the [640] statement that man is at the “mercy of the elements.” Man can physically be burned and destroyed by fire; he is helpless before volcanic action, and cannot protect himself from the ravages of fire, unless in the initial stages of such deva endeavor. The occult importance of the war man wages on the fire devas for instance is very real in connection with the fire department in any city. The time lies far ahead as yet, but it will surely come, when the personnel of these departments will be chosen for their ability to control the agnichaitans when manifesting destructively, and their methods will no longer be that of water (or the calling in of the water devas to neutralize the fire devas), but that of incantation, and a knowledge of the sounds that will swing into action forces which will control the fiery destructive elements. |
Điều này dẫn chúng ta đến điểm mà chúng ta muốn nêu liên quan đến nhóm thứ ba của chư deva thấp nhất. Họ rất phá hoại đối với con người, vì họ hàm chứa rung động chung cuộc—và do đó hùng mạnh—của hệ trước, tức hoạt động có ý thức của chất liệu đậm đặc. Do vậy, có một chân lý sâu sắc trong [640] phát biểu rằng con người “phó mặc cho các nguyên tố.” Con người có thể bị lửa đốt cháy và hủy diệt về thể xác; y bất lực trước hoạt động núi lửa, và không thể tự bảo vệ khỏi sự tàn phá của lửa, trừ khi ở những giai đoạn khởi đầu của nỗ lực của deva như vậy. Tầm quan trọng huyền bí của cuộc chiến mà con người tiến hành chống chư hỏa deva, chẳng hạn, là rất thực tế liên quan đến sở cứu hỏa trong bất kỳ đô thị nào. Thời điểm ấy còn ở rất xa phía trước, nhưng chắc chắn sẽ đến, khi nhân sự của các sở này sẽ được chọn vì khả năng kiểm soát các agnichaitan khi chúng biểu lộ tính phá hoại, và phương pháp của họ sẽ không còn là dùng nước (hay triệu thỉnh chư deva nước để trung hòa chư hỏa deva), mà là dùng thần chú, và tri thức về các âm thanh sẽ đưa vào hoạt động những lực sẽ kiểm soát các nguyên tố hỏa phá hoại. |
|
8 The “entified” nature of all substance is technically known as Hylozoism. H. P. B. says: |
8 Bản chất “được thực thể hóa” của mọi chất liệu, về thuật ngữ, được gọi là Hylozoism. Bà H. P. B. nói: |
|
“Hylozoism, when philosophically understood, is the highest aspect of Pantheism. It is the only possible escape from idiotic Atheism based on lethal materiality, and the still more idiotic anthropomorphic conceptions of the Monotheists; between which it stands on its own entirely neutral ground. Hylozoism demands absolute Divine Thought, which would pervade the numberless active creating Forces, or “Creators,” which Entities are moved by, and have their being in, from and through that Divine Thought… Such active “Creators” are known to exist and are believed in because perceived and sensed by the Inner Man in the Occultist.”—S. D., II, 167, 168. |
“Hylozoism, khi được hiểu một cách triết học, là khía cạnh cao nhất của Thuyết Phiếm Thần. Đó là lối thoát khả dĩ duy nhất khỏi chủ nghĩa Vô thần ngu muội dựa trên vật chất sát phạt, và khỏi những quan niệm nhân hình hóa còn ngu muội hơn nữa của những người Nhất thần; giữa hai quan điểm ấy, Hylozoism đứng trên nền tảng hoàn toàn trung dung của riêng nó. Hylozoism đòi hỏi Tư Tưởng Thiêng Liêng tuyệt đối, vốn sẽ thấm nhuần vô số các Lực sáng tạo hoạt động, hay các ‘Đấng Sáng tạo,’ những Thực thể được vận chuyển bởi, và có tồn tại trong, từ và qua Tư Tưởng Thiêng Liêng ấy… Những ‘Đấng Sáng tạo’ hoạt động như vậy được biết là hiện hữu và được tin cậy vì được đặc nhận và cảm thấu bởi Con Người Nội Tại nơi nhà Huyền bí.”—S. D., II, 167, 168. |
|
9 An atom is an entified abstraction.—S. D., I, 559-560. |
9 Một nguyên tử là một trừu tượng được thực thể hóa.—S. D., I, 559-560. |
|
a. The informing entity of the system is the Logos. |
Thực thể thấm nhuần của một hệ là Thượng đế. |
|
b. The informing entity of a plane is its raja-Lord. |
Thực thể thấm nhuần của một cõi là Chúa Tể raja của nó. |
|
c. Such as Indra, Agni, Varuna, Kshiti. |
Như Indra, Agni, Varuna, Kshiti. |
|
d. The informing entity of a planet is its planetary Logos. |
Thực thể thấm nhuần của một hành tinh là Hành Tinh Thượng đế của nó. |
|
e. The informing entity in the Microcosm is a Dhyan Chohan. |
Thực thể thấm nhuần trong Tiểu thiên địa là một Dhyan Chohan. |
|
f. The informing entity in the causal body is the Divine Thinker. |
Thực thể thấm nhuần trong thể nguyên nhân là Đấng Tư Duy Thiêng Liêng. |
|
g. The informing entity in a physical atom is an elemental life. |
Thực thể thấm nhuần trong một nguyên tử hồng trần là một sinh linh hành khí. |
|
Fire is in all things.—S. D., I, 146; II, 258. |
Lửa hiện hữu trong mọi sự.—S. D., I, 146; II, 258. |
|
a. The informing entity is Fire—S. D., I, 145, 146. |
Thực thể thấm nhuần là Lửa—S. D., I, 145, 146. |
|
b. The matter of the form is permeated with fire.—S. D., I, 112. |
Chất liệu của hình tướng được thấm nhuần bởi lửa.—S. D., I, 112. |
|
The developing mind is cosmic fire.—S. D., I, 114. |
Tâm trí đang phát triển là lửa vũ trụ.—S. D., I, 114. |
|
The third group of these devas is very definitely connected with the control of the Manu’s department, and of the great devas associated with that department on this planet. Through their activity during certain cycles the entire surface of the Earth is changed through the medium of volcanic action; continents are raised and submerged; volcanoes are active or quiescent, and thus the world is purified by fire. In their own department these Agnichaitans are kept busy building the mineral forms through the agency of fire; they are the alchemists of the lower regions, and through contact with them, and through the knowledge of “the words” by which they are controlled, the future scientific alchemists (I use this expression in contradistinction to the idealistic alchemists of the past) will work with minerals and with the lives embodied in all mineral forms. |
Nhóm thứ ba của các deva này rất minh nhiên có liên hệ với sự kiểm soát thuộc ban của Đức Manu, và với các đại deva liên kết với ban ấy trên hành tinh này. Qua hoạt động của họ trong những chu kỳ nhất định, toàn bộ bề mặt Địa cầu được thay đổi bằng trung gian của hoạt động núi lửa; lục địa được nâng lên và bị nhấn chìm; núi lửa hoạt động hay yên lặng, và như thế thế giới được thanh tẩy bằng lửa. Trong ban riêng của họ, các Agnichaitans này bận rộn kiến tạo các hình tướng khoáng chất qua tác động của lửa; họ là các nhà giả kim của miền thấp, và nhờ tiếp xúc với họ, và nhờ tri thức về “các từ” dùng để điều khiển họ, các nhà giả kim khoa học tương lai (tôi dùng biểu ngữ này để phân biệt với các nhà giả kim duy tâm của quá khứ) sẽ làm việc với khoáng vật và với các sự sống kết thân trong mọi hình tướng khoáng chất. |
|
The secret of the transmutation of the baser metals into gold will be revealed when world conditions are such that gold is no longer the standard and hence the free manufacture of gold will not lead to disaster, and [641] when scientists work with the life aspect, or with positive electrical life, and not with the substance or form aspect. |
Bí mật về sự chuyển hoá các kim loại hèn thành vàng sẽ được tiết lộ khi các điều kiện thế giới ở vào trạng thái mà vàng không còn là chuẩn mực nữa, và do đó việc chế tạo vàng tự do sẽ không dẫn đến tai họa, và [641] khi các nhà khoa học làm việc với phương diện Sự sống, hay với điện lực dương, chứ không phải với phương diện chất liệu hay hình tướng. |
|
We have seen that the work of the lowest group of Agnichaitans is to build continents by fire, to purify by fire during alternate cycles, and to construct the metals and the minerals. It is also concerned with the tending of the fires of the hearth, or those fires which warm, cheer and produce livable conditions in a planet, and incidentally in a home. This is of very vital import, for it means that they are connected with the central basic fires in the bowels of the Earth, with the central basic fire that nourishes and warms the physical forms of all the kingdoms of nature, and consequently with the kundalini fire at the base of the spine in individual man. |
Chúng ta đã thấy công việc của nhóm thấp nhất của các Agnichaitans là dựng xây lục địa bằng lửa, thanh tẩy bằng lửa trong các chu kỳ luân phiên, và cấu tạo kim loại cùng khoáng chất. Công việc này cũng liên quan đến việc chăm nom các hỏa của lò sưởi, hay những ngọn lửa sưởi ấm, làm vui và tạo điều kiện sống được trên một hành tinh, và tất nhiên là trong một mái nhà. Điều này vô cùng trọng yếu, vì nó có nghĩa rằng họ có liên hệ với các hỏa căn bản trung tâm trong lòng Đất, với hỏa căn bản trung tâm nuôi dưỡng và sưởi ấm các hình tướng hồng trần của mọi giới trong thiên nhiên, và do đó với hỏa kundalini ở đáy cột sống nơi từng con người riêng lẻ. |
|
It is not advisable for us further to enlarge upon their functions. It should be noted that in connection with the matter aspect there is less to be said than on consciousness, and on the hylozoistic aspect of manifestation. The reason lies in the fact that exoteric science is slowly, yet steadily, finding out the nature of phenomena, and discovering for itself the character of electrical manifestation. In their slowness of discovery lies safety. It is not wise nor right yet for the true nature of these different forces and powers to be fully known; therefore, it is not possible for us to do more than indicate certain broad general lines. In due course of time, as the human family becomes centered in the higher, and not in the lower nature, and as the force from the higher planes can more easily impose itself on the lower, the facts concerning these Lives and Builders, their methods of work, and the laws of their being will be known. Knowledge at this time would be productive of two results. It would first of all bring the human family into the power (as yet blind and destructive) of [642] certain elementals, who are of a nature analogous to that of the physical body. Hence destruction of the form would ensue, or paralysis and insanity on a large scale would eventuate. Secondly, it would put power into the hands of certain of the Brothers of the Left Hand Path 11 and of a number of unconscious magicians (of whom there are quite a number) who would use it only for selfish, evil and material ends. Hence no more can be said anent dense physical substance and its embodiers. The Agnichaitans of the third group are as yet a menace to man, and are only handled in group formation, and on a large scale by the head of the Manu’s department through their own rulers—certain devas of a development equal to that of the sixth Initiation. |
Không thích đáng để chúng ta khai triển thêm về các chức năng của họ. Cần lưu ý rằng liên quan đến phương diện chất liệu thì có ít điều để nói hơn so với về tâm thức, và về khía cạnh hylozoistic của biểu lộ. Lý do nằm ở chỗ khoa học ngoại môn đang chậm rãi nhưng vững chắc tìm ra bản tính của hiện tượng, và tự mình khám phá tính chất của biểu lộ điện lực. Trong sự chậm rãi của khám phá có ẩn chứa sự an toàn. Chưa phải là khôn ngoan cũng không đúng lúc để bản chất chân thực của các lực và quyền năng khác nhau này được biết đầy đủ; do đó, chúng ta không thể làm gì hơn là chỉ ra một vài đường nét tổng quát. Đến thời điểm thích hợp, khi gia đình nhân loại trở nên tập trung vào bản tính cao thay vì thấp, và khi mãnh lực từ các cõi cao có thể dễ dàng áp đặt lên các cõi thấp, thì các sự kiện liên quan đến các Sự Sống và các Nhà Xây Dựng này, các phương pháp làm việc của họ, và các định luật của hiện hữu của họ sẽ được biết. Tri thức, vào lúc này, sẽ tạo ra hai kết quả. Trước hết, nó sẽ đặt gia đình nhân loại vào quyền lực (vẫn còn mù quáng và phá hoại) của [642] những hành khí nào đó có bản tính tương tự như thể xác. Do đó sẽ đưa đến hủy hoại hình tướng, hoặc hậu quả là bại liệt và điên loạn trên quy mô lớn. Thứ hai, nó sẽ trao quyền năng vào tay một số các Huynh Đệ của Con Đường Tay Trái 11 và một số khá lớn các nhà huyền thuật vô thức (mà hiện có khá nhiều) vốn chỉ dùng quyền năng ấy cho các mục tiêu ích kỷ, xấu ác và vật chất. Bởi vậy, không thể nói thêm gì nữa về chất liệu hồng trần đậm đặc và các đấng hiện thân của nó. Các Agnichaitans của nhóm thứ ba hiện vẫn là một mối đe doạ đối với con người, và chỉ được xử lý trong đội hình tập thể, và trên quy mô lớn bởi vị đứng đầu ban của Đức Manu thông qua các vị cai trị riêng của họ—những deva nào đó có trình độ phát triển ngang với lần điểm đạo thứ sáu. |
|
The occult Hierarchy of our planet is primarily concerned with the development of self-consciousness in man, and with the intelligent interpretation of the happenings of Nature; it is concerned with a wise cooperation with the building Forces of nature; and the object of its main endeavor is the vitalization and activity of the centers in the Heavenly Man of our planet, and in the individual units of the human family. |
Thánh Đoàn huyền bí của hành tinh chúng ta chủ yếu quan tâm đến sự phát triển tự thức nơi con người, và đến sự giải thích thông minh các biến cố của Tự Nhiên; Thánh Đoàn quan tâm đến sự hợp tác khôn ngoan với các Lực xây dựng của Tự Nhiên; và mục tiêu của nỗ lực chính yếu của Thánh Đoàn là sự tiếp sinh lực và hoạt hóa các trung tâm trong Đấng Thiên Nhân của hành tinh chúng ta, và trong các đơn vị cá nhân của gia đình nhân loại. |
|
The occult Hierarchy is a great force center, the heart, head, and throat of the Heavenly Man as these three centers function in a triple coordination. Paralleling their activities along the line of consciousness (and primarily consciousness or intelligence as it demonstrates through the third and fourth kingdoms) is to be found a great hierarchy of devas who concern themselves with the development of that portion of the body of a Heavenly Man which is not included in the active centers. Perhaps some idea of what I seek to convey [643] may be gathered from an illustration. The occult Hierarchy is concerned with the unfoldment of the nine-petalled Lotus in the Heavenly Man, and in man (the former through reflex action between the cosmic physical and the cosmic mental), while the great deva Hierarchy is concerned with the permanent atoms, with the egoic body, and with the development of the spirillae. Thus the function of the Agnichaitans of the lowest furnaces—macrocosmically and microcosmically—will be seen and comprehended by the wise student. |
Thánh Đoàn huyền bí là một trung tâm mãnh lực vĩ đại, là tâm, đầu và cổ họng của Đấng Thiên Nhân khi ba trung tâm này vận hành trong sự phối hợp tam phân. Song song với các hoạt động của các Ngài theo tuyến tâm thức (và trước hết là tâm thức hay trí tuệ khi nó biểu lộ qua giới ba và bốn) có thể thấy một đại huyền giai các deva, những vị quan tâm đến sự phát triển phần thân thể của một Đấng Thiên Nhân không bao gồm trong các trung tâm đang hoạt động. Có lẽ một ý niệm nào đó về điều tôi muốn chuyển đạt [643] có thể được rút ra từ một minh họa. Thánh Đoàn huyền bí quan tâm đến sự khai mở Hoa sen chín cánh nơi Đấng Thiên Nhân, và nơi con người (nơi Đấng Thiên Nhân là qua tác động phản xạ giữa cõi hồng trần vũ trụ và cõi trí vũ trụ), trong khi đại Huyền giai deva quan tâm đến các nguyên tử trường tồn, đến thể nguyên nhân, và đến sự phát triển các tiểu tuyến. Như thế chức năng của các Agnichaitans thuộc những lò thấp nhất—xét cả đại và tiểu vũ trụ—sẽ được thấy và lĩnh hội bởi đạo sinh khôn ngoan. |
|
11 The Left-hand Path is that followed by the Black Magician, and by the Brothers of the Shadows. It originates in the use of the forces of nature for selfish ends; it is characterized by intense selfishness and separativeness, and ends in Avitchi, the 8th sphere, the home of lost souls, or those shells of the lower man which have become separated from their egoic or individual life principle. |
11 Con Đường Tay Trái là con đường được theo bởi Hắc thuật sư, và bởi các Huynh Đệ của Bóng Tối. Nó khởi nguyên nơi việc sử dụng các lực của Tự Nhiên cho những mục tiêu ích kỷ; nó được đặc trưng bởi tính ích kỷ và tách biệt mãnh liệt, và kết thúc ở Avitchi, cầu giới thứ 8, chốn của các linh hồn lạc mất, hay những vỏ của phàm nhân đã tách rời khỏi nguyên lý sinh mệnh của chân ngã hay cá thể tính của họ. |
Group B. Agnichaitans |
Nhóm B. Agnichaitans |
|
In taking up the matter of the second group of Agnichaitans—Group B—we are dealing with that important group of devas who are designated in some works as the “devas of the shadows.” Their function is primarily a fourfold one, and they are the basis of motion or of activity on all planes, which activity is produced by the interplay of the negative and positive aspects of Brahma, the manifested God. |
Khi bàn đến vấn đề nhóm thứ hai của các Agnichaitans—Nhóm B—chúng ta đang xử lý nhóm deva quan trọng được gọi trong một số tác phẩm là “các deva của bóng hình.” Chức năng của họ chủ yếu là tứ phân, và họ là nền tảng của chuyển động hay hoạt động trên tất cả các cõi; hoạt động này được tạo ra bởi sự tương tác của các phương diện âm và dương của Brahma, Thượng đế đã biểu lộ. |
|
– First, they are the builders of the etheric bodies of all sentient existences, and primarily of all the etheric bodies of men. |
Thứ nhất, họ là những người xây dựng các thể dĩ thái của mọi hiện hữu hữu tình, và trước hết là tất cả các thể dĩ thái của con người. |
|
– Second, they are the transmitters of prana. |
Thứ hai, họ là những kẻ chuyển tải prana. |
|
– Third, they perform a very definite function in the evolutionary process of linking up the four kingdoms of nature, being essentially the transmuters and transmitters of the lower into the higher. They build between each kingdom—mineral, vegetable, animal and human—that which in each case corresponds to the antahkarana, or the bridge linking higher and lower manas, and which therefore is the channel for the transmission of the life from out of the lower human kingdom into the higher spiritual one. It will be found that between each of the different stages of consciousness (from the subconscious through the self-conscious to the superconscious) there is a period of linking, of building, and of bridging, and this is carried out by the agency of [644] certain groups of devas on all the planes. These three groups on the physical plane find their counterparts and their work paralleled on higher levels. The point to be remembered is that this work of bridging from one stage or from one kingdom to another has to be performed under the following conditions: |
Thứ ba, họ đảm nhiệm một chức năng rất xác định trong tiến trình tiến hóa là nối kết bốn giới trong thiên nhiên, vốn là các đấng chuyển hoá và chuyển tải cái thấp thành cái cao. Họ kiến tạo giữa mỗi giới—khoáng, thực, thú và nhân—cái tương ứng trong mỗi trường hợp với antahkarana, hay cây cầu nối kết thượng trí và hạ trí, và vì vậy là kênh chuyển lưu sự sống từ giới nhân loại thấp vượt vào giới tinh thần cao. Sẽ thấy rằng giữa mỗi giai đoạn tâm thức khác nhau (từ tiềm thức qua tự thức đến siêu thức) có một thời kỳ nối kết, xây dựng và bắc cầu, và điều này được thực hiện bởi [644] cơ quan của những nhóm deva nào đó trên tất cả các cõi. Ba nhóm này trên cõi hồng trần có các đối phần của chúng và công việc của chúng được song song ở các cấp cao hơn. Điểm cần nhớ là công việc bắc cầu này, từ một giai đoạn hay từ một giới sang giới khác, phải được thực hiện theo các điều kiện sau: |
|
a. As the result of an impulse emanating from the lower, or originating in the active desire of the lower to embrace or contact the higher. This is of paramount importance, for all progress must be self-induced, self-initiated, and be the result of an inner activity. |
Là kết quả của một xung lực phát xuất từ bên dưới, hay khởi nguyên trong dục vọng đang hoạt động của cái thấp muốn ôm lấy hay tiếp xúc cái cao. Điều này quan trọng tối thượng, vì mọi tiến bộ phải do chính mình gây nên, tự khởi xướng, và là kết quả của một hoạt động nội tại. |
|
b. As the result of reflex action from the higher stage or kingdom; it is brought about by the activity of the lower which calls forth a response from the higher. All vibration, it must be remembered, travels along waves of living substance. |
Là kết quả của hành động phản xạ từ giai đoạn hay giới cao; nó được mang lại bởi hoạt động của cái thấp vốn khơi dậy một đáp ứng từ cái cao. Cần nhớ rằng mọi rung động di chuyển dọc theo các làn sóng của chất sống động. |
|
c. As the result of extraneous stimulation produced by the activity of certain conscious powers, interested in the process of evolutionary development. |
Là kết quả của sự kích thích ngoại lai được tạo ra bởi hoạt động của những quyền năng tự ý thức nào đó quan tâm đến tiến trình thăng thượng tiến hoá. |
|
All these conditions can be seen in the process of the initiation of man, and of his transference from the fourth kingdom into the spiritual. His efforts must be self-induced, or the effect of his own self-conscious endeavor; they will meet with a response from his superconsciousness, the atmic aspect or Spirit and this dual interplay will be further aided by the Guardians of the Rites of Initiation. Yet all three effects are felt in spirit-matter; all proceed under the law of vibration, and this law is literally the response of deva substance to force emanating from some conscious or unconscious source. |
Tất cả những điều kiện này có thể được thấy trong tiến trình điểm đạo của con người, và trong sự chuyển dịch của y từ giới thứ tư vào giới tinh thần. Nỗ lực của y phải do tự thân khởi phát, hay là hiệu quả của cố gắng tự-ý-thức của chính y; chúng sẽ được đáp ứng từ siêu tâm thức của y, tức phương diện atma hay Chân thần, và sự tương tác lưỡng phân này sẽ còn được các Đấng Hộ pháp của các Nghi lễ Điểm đạo trợ giúp thêm nữa. Tuy vậy, cả ba hiệu ứng đều được cảm nhận trong tinh thần-chất liệu; tất cả diễn tiến theo định luật rung động, và định luật này, theo nghĩa đen, là sự đáp ứng của chất liệu deva đối với mãnh lực xuất lộ từ một nguồn có ý thức hay vô thức nào đó. |
|
Fourth, these “devas of the shadows,” perform certain activities of an interesting and varied kind, but [645] of such diversity as to make enumeration well-nigh impossible. We might attempt with brevity to state a few of these functions, remembering ever that what can be predicated of them on the physical plane can also be predicated of their correspondences on all the planes. This we can leave to the student to work out for himself, begging him again to bear in mind that we are dealing with the devas on the evolutionary arc, which may be divided into the following classes, amongst many others. |
Thứ tư, các “deva của bóng tối” này thực hiện những hoạt động nhất định thuộc loại hình thú vị và đa dạng, nhưng [645] đa dạng đến nỗi việc liệt kê hầu như bất khả. Chúng ta có thể thử, thật vắn tắt, nêu một vài chức năng của họ, luôn nhớ rằng những gì có thể được khẳng định về họ trên cõi hồng trần cũng có thể được khẳng định về các đối phần của họ trên tất cả các cõi. Điều này chúng ta có thể để cho đạo sinh tự triển khai, và một lần nữa thỉnh cầu y ghi nhớ rằng chúng ta đang đề cập đến các deva trên vòng cung tiến hoá, vốn có thể được phân chia thành các hạng sau, bên cạnh nhiều hạng khác. |
|
– Class 1. The special agents of magic. They are peculiarly susceptible to the building vibrations of the seven rays. |
Hạng 1. Những đặc sứ của huyền thuật. Họ đặc biệt nhạy cảm với các rung động kiến tạo của bảy cung. |
|
– Class 2. A group of Agnichaitans who manifest as physical plane electricity. They are a group who are coming somewhat under the control of man, and will be more and more dominated by him. |
Hạng 2. Một nhóm Agnichaitans biểu lộ như điện lực cõi hồng trần. Họ là một nhóm đang phần nào chịu sự kiểm soát của con người, và sẽ ngày càng bị con người chế ngự nhiều hơn. |
|
– Class 3. A group who form the health auras of all the three middle kingdoms of nature (vegetable, animal and human) either collectively or individually. Man is coming into contact with them along medical lines and beginning somewhat to recognize them. One of the great errors into which the human family has fallen has been the endeavor to administer mineral drugs to man for medicinal purposes. It has resulted in a combination of deva substances which was never intended. The relation of man to the lower kingdoms, and particularly to the animal and mineral, has brought about a peculiar condition in the deva world and has tended to complicate deva evolution. The use of animal food (and the use of minerals as medicine in a lesser degree) has produced a commingling of deva substance, and of vibrations which are not attuned to each other. The vegetable kingdom is in a totally different situation, and part of its karma has lain in the providing of food for man; this has resulted in a needed transmutation of the life [646] of that kingdom into the higher stage (the animal) which is its goal. The transmutation of vegetable life takes place necessarily on the physical plane. Hence its availability as food. The transmutation of the life of the animal into the human kingdom takes place on kama-manasic levels. Hence the non-availability, esoterically understood, of the animal as food for man. This is an argument for vegetarian living which needs due consideration. |
Hạng 3. Một nhóm kiến tạo các hào quang sức khỏe của cả ba giới ở giữa của thiên nhiên (thực vật, động vật và nhân loại), xét tập thể hay cá biệt. Con người đang tiếp xúc với họ theo các đường hướng y học và phần nào bắt đầu nhận biết họ. Một trong những sai lầm lớn mà gia đình nhân loại đã vấp phải là cố gắng sử dụng dược chất khoáng vật cho mục đích trị liệu. Điều này đã đưa đến một sự phối hợp các chất liệu deva vốn không hề được định liệu. Mối liên hệ của con người với các giới thấp, đặc biệt là với giới động vật và khoáng vật, đã tạo ra một tình trạng đặc biệt trong thế giới deva và có xu hướng làm phức tạp tiến hoá deva. Việc dùng thực phẩm động vật (và ở cấp độ nhẹ hơn là dùng khoáng chất làm thuốc) đã gây nên sự pha trộn chất liệu deva và những rung động vốn không hoà điệu với nhau. Giới thực vật ở trong một tình huống hoàn toàn khác, và một phần nghiệp của nó nằm ở việc cung ứng thực phẩm cho con người; điều này đã đưa đến một sự chuyển hoá cần thiết của sự sống [646] của giới ấy vào giai đoạn cao hơn (giới động vật), vốn là mục tiêu của nó. Sự chuyển hoá sự sống của giới thực vật tất yếu diễn ra trên cõi hồng trần. Do đó, nó khả dụng làm thực phẩm. Sự chuyển hoá sự sống của giới động vật vào giới nhân loại diễn ra trên các cấp độ trí-cảm. Vì vậy, xét theo nội môn, động vật không thể được dùng làm thức ăn cho con người. Đây là một luận điểm ủng hộ lối sống chay tịnh cần được cân nhắc nghiêm túc. |
|
– Class 4. A very important class of etheric devas (as far as man is concerned) who are definitely the constituent substance of his centers. They occupy this position for karmic reasons, and are, from many angles, some of the most highly evolved of the devas of the shadows. They are distinguished by their ability to respond to a particular set of planetary vibrations in a peculiar manner, and in their essential essence, and in their own peculiar sphere enable man to react to Ray stimulation. Each center is under the influence of one or other of the planets. In this fact lies the ability of man eventually—through the agency of his centers—to put himself en rapport with the sevenfold soul of the world. |
Hạng 4. Một hạng deva dĩ thái rất quan trọng (xét về phía con người) vốn đích thực là chất liệu cấu thành các luân xa của y. Họ đảm nhiệm vị trí này vì các lý do nghiệp quả, và, xét từ nhiều góc độ, là vài trong số những deva của bóng tối tiến hoá cao nhất. Họ được phân biệt bởi khả năng đáp ứng một tập hợp rung động hành tinh nhất định theo một phương cách dị thường, và trong yếu tính của họ, trong phạm vi riêng của họ, họ giúp con người phản ứng với sự kích thích của Cung. Mỗi luân xa nằm dưới ảnh hưởng của một hay một hành tinh nào đó. Ở sự kiện này có khả năng của con người rốt cuộc—thông qua các luân xa của mình—đưa mình vào đồng cảm ứng với linh hồn thất phân của thế giới. |
|
– Class 5. We have here a very important group of devas, who are peculiarly active and esoterically dominant during this round; they are the Agnichaitans who form the center which vibrates to the measure of kundalini in its many forms and demonstrations; this is the center at the base of the spine. In this center we have a very effective display of the two polarities, for the petals of the center which is the seat of kundalini, and the fire or vitality which animates them are negative and positive to each other. This center is to be found in some form or other in all sentient beings and upon it largely depends: [647] |
Hạng 5. Ở đây, chúng ta có một nhóm deva rất quan trọng, vốn đặc biệt linh hoạt và nội môn mà nói thì giữ vai trò chủ đạo trong cuộc tuần hoàn này; họ là các Agnichaitans kiến tạo luân xa dao động theo nhịp kundalini trong nhiều hình thái và biểu hiện của nó; đó là luân xa ở đáy cột sống. Ở luân xa này, chúng ta có một sự phô diễn rất hiệu quả của hai cực tính, vì các cánh hoa của luân xa, vốn là toạ vị của kundalini, và ngọn lửa hay sinh khí làm sinh động chúng, là âm và dương đối với nhau. Luân xa này được tìm thấy ở một dạng nào đó trong mọi hữu tình và phần lớn tuỳ thuộc vào nó: [647] |
|
a. Consciousness at one of its seven stages. |
Tâm thức ở một trong bảy giai đoạn của nó. |
|
b. Continuity of existence. |
Sự liên tục của hiện tồn. |
|
c. Perpetuation of species or reproduction on some or other of the planes. |
Sự duy trì chủng loại hay sinh sản trên một hay các cõi nào đó. |
|
It might be of interest here to note that this center is literally a fourfold radiation, and the “Cross of the Holy Spirit,” the equal armed Cross, is its symbol. This four-petalled lotus is the result of evolution. In the first kingdom of nature, the mineral, through which a specific Entity is manifesting, this center is a unity on etheric levels, for only one petal is to be seen. In the vegetable kingdom, viewing it as the expression of a great Existence, two petals are becoming active. In the third kingdom, the animal, the center at the base of the spine will be found to have three petals, whereas in man, the lotus is vibrating in a fourfold manner. At each initiation of the great Being Who is manifesting through our planet, one of these petals becomes unfolded on etheric levels, so that at individualization, the four became active, and His self-conscious activity was brought right down on to the physical plane. The analogy can be seen typified at His great Initiation which took place in the fourth round and the third root-race; the correspondence between the third kingdom and the fourth, and their production of the esoteric seven is one of the lines of study for the occultist. |
Có thể thú vị khi ghi nhận ở đây rằng luân xa này, theo nghĩa đen, là một bức xạ tứ phân, và “Thập Giá của Chúa Thánh Thần”, tức Thập Giá cánh bằng, là biểu tượng của nó. Hoa sen bốn cánh này là kết quả của tiến hoá. Trong giới thứ nhất của thiên nhiên, tức giới kim thạch mà qua đó một Thực Thể đặc thù đang biểu lộ, luân xa này là một đơn nhất trên các cấp độ dĩ thái, vì chỉ có một cánh hoa có thể được thấy. Trong giới thực vật, khi xem nó như biểu hiện của một Đại Hữu, hai cánh hoa đang trở nên linh hoạt. Trong giới thứ ba, tức giới động vật, luân xa ở đáy cột sống sẽ được thấy có ba cánh, trong khi nơi con người, hoa sen dao động theo cách tứ phân. Ở mỗi lần điểm đạo của Vị Đại Hữu đang biểu lộ qua hành tinh chúng ta, một trong những cánh hoa này được khai mở trên các cấp độ dĩ thái, đến nỗi vào lúc biệt ngã hóa, bốn cánh trở nên linh hoạt, và hoạt động tự-ý-thức của Ngài được đưa hẳn xuống cõi hồng trần. Sự tương đồng có thể được thấy được điển hình hoá ở Cuộc Điểm đạo Vĩ đại của Ngài đã diễn ra trong cuộc tuần hoàn thứ tư và giống dân gốc thứ ba; sự tương ứng giữa giới thứ ba và giới thứ tư, và sự sản sinh ra bộ bảy nội môn là một trong những tuyến nghiên cứu dành cho nhà huyền bí học. |
|
As each of the petals of the etheric centers becomes vibrant, or an at-one-ment is brought about in deva substance, a quickening takes place on allied levels in the cosmic etheric body of the planetary Logos, and of the solar Logos. Certain correspondences in the petals of the egoic lotus of the different units of the human family, and (on cosmic levels) in the solar and planetary egoic bodies become apparent. It should also be borne in mind that these basic centers, wherein the [648] kundalini fire lies hidden, are found in the following Existences, as They function in physical bodies: |
Khi mỗi cánh hoa của các luân xa dĩ thái trở nên chấn động, hay khi một sự đồng nhất được đem lại trong chất liệu deva, một sự gia tốc diễn ra trên các cấp độ liên hệ trong thể dĩ thái vũ trụ của Hành Tinh Thượng đế, và của Thái dương Thượng đế. Những tương ứng nhất định trong các cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã của các đơn vị khác nhau của gia đình nhân loại, và (trên các cấp độ vũ trụ) trong các thể chân ngã của Thái dương và Hành Tinh Thượng đế trở nên hiển lộ. Cũng cần ghi nhớ rằng các luân xa căn để này, nơi [648] lửa kundalini ẩn tàng, được tìm thấy nơi các Hiện Hữu sau đây, khi Các Ngài vận hành trong các thể xác: |
|
1. A solar Logos. |
Một Thái dương Thượng đế. |
|
2. A planetary Logos. |
Một Hành Tinh Thượng đế. |
|
3. Those Entities Who are the sumtotal of consciousness as it expresses itself through the different kingdoms of nature—manifesting through them as a man manifests through his body. |
Những Đấng là tổng toàn tâm thức như nó biểu hiện qua các giới khác nhau của thiên nhiên—biểu lộ qua các giới ấy như con người biểu lộ qua thân thể mình. |
|
4. The Lord of a chain. |
Chúa Tể của một dãy. |
|
5. The Lord of a globe. |
Chúa Tể của một bầu hành tinh. |
|
6. Certain Beings Who form the life of specific groups. They are esoteric, and Their function is one of the secrets of initiation. |
Những Đấng nhất định tạo thành sự sống của các nhóm đặc thù. Các Ngài thuộc phương diện nội môn, và chức năng của Các Ngài là một trong những bí mật của điểm đạo. |
|
7. Man. |
Con người. |
|
8. Animals. |
Động vật. |
|
It should be here also remarked that in the logoic manifestation one of the planetary schemes forms the center in the logoic body which harbors kundalini. This scheme, whose name must not as yet be revealed, is largely given over to deva control—the two groups of devas meeting there, and performing their function of animating the dense physical body of the Logos in the same way as the kundalini in man at this stage animates his dense physical vehicle. Later, as the third major scheme assimilates the life-activity of the lower four, this kundalini fire will be withdrawn, and will be transmuted into the activity of the logoic Throat center. |
Cũng nên nhận xét ở đây rằng trong biểu lộ của vị Logos, một trong các hệ hành tinh tạo thành luân xa trong thân thể của vị Logos vốn là nơi cư ngụ của kundalini. Hệ này, tên của nó hiện chưa được phép tiết lộ, phần lớn do các deva cai quản—hai nhóm deva gặp nhau ở đó, và thi hành chức năng làm sinh động thể hồng trần đậm đặc của vị Logos theo cùng cách mà kundalini nơi con người ở giai đoạn này làm sinh động vận cụ hồng trần đậm đặc của y. Về sau, khi hệ lớn thứ ba dung nhiếp hoạt động sự sống của bốn hệ thấp, ngọn lửa kundalini này sẽ được thâu hồi, và sẽ được chuyển hoá thành hoạt động của luân xa Cổ họng của vị Logos. |
|
In planetary manifestation, one of the chains performs a similar work in the evolutionary process of the planetary Logos. Again the same can be predicated of one of the globes in a chain. In this fourth round, therefore, it can be seen why the fire at the base of the spine (viewing it in its esoteric significance, and in connection with the Logos, and the Logoi, and not only in connection with man) plays so dominant a part in the stimulation of [649] the logoic Quaternary, or of His Lower Self. Herein is found the mystery of present evil, the source of present distress, and the basis of planetary experience. The kundalini fire in the logoic body is at the height of its activity in stimulating His physical body—our lower three systemic planes—and the four petals of that particular center are coming into full activity in this fourth round. It must be remembered that He is the sumtotal of all the centers in manifestation, and the aggregate of all the fires of kundalini in every department of nature. The trouble in our planet, and likewise the hope for our planet, lies in this very fact. The etheric center of our planetary Logos being in matter of the fourth cosmic ether (the buddhic plane) stimulates at present His lower quaternary, our three worlds of human endeavor. The direction of the force lies here, and not until the next round (when three-fifths of the human kingdom will be developing the buddhic vehicle), will the point of equilibrium for Him be reached, and the direction of the serpent fire be directed higher. |
Trong biểu hiện hành tinh, một trong các dãy thực hiện một công việc tương tự trong tiến trình tiến hoá của Hành Tinh Thượng đế. Lại nữa, điều tương tự có thể được khẳng định về một trong các bầu hành tinh của một dãy. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này, do đó, có thể thấy vì sao ngọn lửa ở đáy cột sống (xem xét nó trong ý nghĩa nội môn, và liên hệ đến vị Logos, và các vị Logos, chứ không chỉ liên hệ đến con người) đóng vai trò trội vượt trong việc kích thích [649] Bộ tứ của vị Logos, tức Phàm ngã của Ngài. Ở đây có bí ẩn của cái ác hiện tại, nguồn cơn của thống khổ hiện tại, và nền tảng của kinh nghiệm hành tinh. Lửa kundalini trong thân thể của vị Logos đang ở đỉnh cao hoạt động trong việc kích thích thể xác của Ngài—ba cõi hệ thống thấp của chúng ta—và bốn cánh hoa của luân xa đặc thù ấy đang đi vào toàn hoạt. Cần nhớ rằng Ngài là tổng toàn của mọi luân xa đang biểu lộ, và là tổng hoà của mọi ngọn lửa kundalini trong mọi lĩnh vực của thiên nhiên. Vấn nạn nơi hành tinh chúng ta, và đồng thời cũng là hy vọng của nó, nằm chính trong sự kiện này. Luân xa dĩ thái của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, vì ở trong chất của dĩ thái vũ trụ thứ tư (cõi Bồ đề), nên hiện tại kích thích bộ tứ hạ của Ngài, tức ba thế giới của nỗ lực nhân loại của chúng ta. Hướng của mãnh lực nằm tại đây, và mãi đến vòng tới (khi ba phần năm của giới nhân loại sẽ đang phát triển vận cụ Bồ đề), thời điểm quân bình cho Ngài mới đạt được, và hướng của lửa xà mới được hướng lên cao. |
|
This holds the clue to much. A further clue to the sad condition to be seen in the world (especially along sex lines) lies in the fact that those units of the human family who contribute to the constitution of this particular center out of the seven, are frequently at this stage over-vitalized, the physical vehicle vitality indicating to them the line of least resistance. To word it otherwise: The deva forces who form the center, and are likewise the activity of the center, are as yet over-dominant, and the power they acquired in the earlier solar system has not yet been transmuted into spiritual power. |
Điều này nắm chìa khoá cho nhiều điều. Một manh mối nữa về tình trạng đáng buồn thấy được trên thế gian (nhất là về phương diện tính dục) nằm ở chỗ những đơn vị của gia đình nhân loại góp phần vào cấu tạo của luân xa đặc thù này trong số bảy luân xa thường, ở giai đoạn này, bị quá thừa sinh lực, sinh khí của thể xác chỉ cho họ thấy con đường ít trở ngại nhất. Nói cách khác: Các mãnh lực deva kiến tạo luân xa, và đồng thời là hoạt động của luân xa, hãy còn quá thống trị, và quyền lực mà họ đạt được trong hệ mặt trời trước vẫn chưa được chuyển hoá thành quyền lực tinh thần. |
|
We have above considered a few of the devas of the ethers but have of necessity left many untouched. The vastness of our subject will be apparent when it is remembered that in dealing with the devas we are dealing [650] with that which is the basic substance of manifestation, or Spirit-matter; with the negative or the mother aspect, in the divine duality, and with the sum total of all that is. We are concerned with the tangible form, using the word “tangible” as that which can be apprehended by consciousness in one or other of its many states. The utter impossibility of cataloguing the forms and aspects of deva substance, or of tabulating the myriad groups and classes will be borne in on our comprehension. On all the planes these three groups will be found, and all are recipients of force. An analogy likewise exists between these three groups of devas on the systemic physical plane, and their correspondences on the cosmic physical plane. Briefly it might be pointed out that we have: |
Ở trên chúng ta đã xét một vài deva của dĩ thái nhưng tất yếu đã bỏ sót nhiều. Tính mênh mông của đề tài sẽ trở nên hiển nhiên khi nhớ rằng khi đề cập đến các deva là chúng ta đang đề cập [650] đến cái vốn là chất liệu nền tảng của biểu lộ, tức tinh thần-chất liệu; đến phương diện âm hay phương diện Mẹ, trong nhị nguyên thiêng liêng; và đến tổng toàn của mọi cái hiện tồn. Chúng ta đang quan tâm đến hình tướng hữu hình, dùng chữ “hữu hình” theo nghĩa cái có thể được tâm thức nắm bắt trong một hay những trạng thái khác nhau của nó. Sự bất khả tuyệt đối trong việc phân loại các hình thái và phương diện của chất liệu deva, hay lập bảng vô số nhóm và hạng sẽ được tri nhận rõ ràng. Trên mọi cõi, ba nhóm này sẽ được thấy, và tất cả đều là thụ thể của mãnh lực. Một tương tự cũng hiện hữu giữa ba nhóm deva trên cõi hồng trần của hệ thống, và các đối phần của họ trên cõi hồng trần vũ trụ. Tóm lược, có thể chỉ ra rằng chúng ta có: |
|
– Group A—The plane Adi—Divine evolution. |
Nhóm A—Cõi Adi—tiến hoá thiêng liêng. |
|
Systemic atomic. |
Nguyên tử hệ thống. |
|
– Group B—The three worlds of the Triad—Spiritual evolution. |
Nhóm B—Ba thế giới của Tam nguyên tinh thần—tiến hoá tinh thần. |
|
Logoic etheric. |
Dĩ thái của vị Logos. |
|
– Group C—The three worlds—Human evolution. |
Nhóm C—Ba thế giới—tiến hoá nhân loại. |
|
Logoic dense physical. |
Hồng trần đậm đặc của vị Logos. |
|
In this lies much of interest for the student as it makes clear the correspondence between the evolution of substance and the evolution of spirit. |
Ở đây có nhiều điều thú vị cho đạo sinh vì nó làm rõ tương ứng giữa tiến hoá của chất liệu và tiến hoá của tinh thần. |
|
As regards the devas of Group B, little more can be said. Only a few more generalities are advisable. |
Về các deva của Nhóm B, khó có thể nói thêm nhiều. Chỉ nên thêm một vài điều khái quát. |
|
These devas, especially those of the fourth ether, are so closely connected with man that one of the immediate developments ahead will be his awakening to a realization of their existence, and his consequent gradual domination of them. This domination will be the result of several things but will only be complete when he can function on the fourth cosmic ether, the buddhic plane. One of the things the Hierarchy at this stage is seeking to do, is to retard this awakening of the mass of mankind to this realization, for that event will necessitate [651] many adjustments, and, at the beginning, may produce many apparently evil effects. The development of the physical eye is a thing which is proceeding under the Law, and inevitably the whole race of men will at length attain that dual focus which will enable man to see both the dense and the etheric forms. At this stage his inability to do so is largely due to a lack of pranic vitality. This is mainly the result of wrong conditions of living, and the misuse of food. The present general trend towards juster and purer conditions of life, the return of man to simpler and saner ways, the widespread feeling for bathing, fresh air, and sunlight, and the greater desire for vegetable, and nut foods, will result inevitably in a more ready assimilation of the pranic fluids. This will produce certain changes, and improvements, in the physical organs, and in the vitality of the etheric body. |
Các deva này, nhất là những vị thuộc dĩ thái thứ tư, gắn kết với con người chặt chẽ đến nỗi một trong những phát triển trước mắt sẽ là sự thức tỉnh của y để nhận ra sự hiện hữu của họ, và hệ quả là sự chế ngự dần dần của y đối với họ. Sự chế ngự này sẽ là kết quả của một số yếu tố nhưng chỉ hoàn tất khi y có thể vận hành trên dĩ thái vũ trụ thứ tư, tức cõi Bồ đề. Một trong những điều mà Thánh Đoàn ở giai đoạn này đang nỗ lực làm là làm chậm sự thức tỉnh của đại chúng nhân loại trước nhận thức này, vì biến cố ấy sẽ đòi hỏi [651] nhiều điều chỉnh, và vào lúc ban đầu có thể tạo ra nhiều hiệu ứng có vẻ như xấu. Sự phát triển của nhãn thể xác là điều đang tiến hành theo Định luật, và tất yếu toàn thể nhân loại rốt lại sẽ đạt được tiêu điểm lưỡng phân cho phép con người nhìn thấy cả hình tướng đậm đặc lẫn hình tướng dĩ thái. Ở giai đoạn này, sự bất lực của y trong việc làm như vậy phần lớn là do thiếu sinh lực prana. Điều này chủ yếu do những điều kiện sống sai lạc và việc lạm dụng thực phẩm. Xu hướng chung hiện nay hướng đến những điều kiện sống phải chăng và trong sạch hơn, sự quay về của con người với lối sống giản dị và lành mạnh hơn, cảm thức rộng khắp về việc tắm, không khí trong lành và ánh nắng, và khát vọng lớn hơn đối với thực phẩm thực vật và hạt, tất yếu sẽ đưa đến sự đồng hoá dễ dàng hơn các dịch thể prana. Điều này sẽ sản sinh những biến đổi và cải thiện nhất định nơi các cơ quan thể xác, và nơi sinh lực của thể dĩ thái. |
|
Therefore, those of us who see somewhat of the Plan are urged to spread the knowledge of the Wisdom Religion, and above all to break loose from the preconceived dogmas of pre-war days. It should be pointed out here that the war was a great occult event, and caused a vital change in many of the plans and arrangements of the Hierarchy. Modifications have been necessitated, and some events will have to be delayed whilst others will be hastened. One of the profoundest effects of the war was felt among the devas of the shadows, and primarily among those of the fourth order. The etheric web which protected certain groups in the human and animal kingdoms was rent in various places, and the results of that disaster have to be offset. Another effect upon the devas resulting from the war, as it worked, can be seen among the devas of Group A, or those devas who are (in an occult sense) the physical permanent atoms of all self-conscious beings. The fourth spirilla was tremendously stimulated, and its evolution hastened [652] to an extraordinary degree, so that some of the lesser evolved men, through the stress of danger and experience, had this fourth spirilla brought up to, and beyond, that of normal humanity. Through this stimulation of the fourth spirilla of the units of the fourth Creative Hierarchy in this fourth round on the fourth globe in this fourth scheme, a tremendous push onward along the evolutionary path has been effected, and hence one of the great objects of the war has been achieved. A still more terrific stimulation was given in the fourth root-race during the war of that period, and the result was the passing on to the Path of Initiation of many who normally would not even now be treading it. A similar effect can be looked for at this time, and the Hierarchy is preparing itself for the taking over of much of an extra-planetary nature owing to the almost immediate availability of comparatively large numbers of the sons of man. We must not forget that this stimulation of the spirillae affects the matter aspect, or deva substance. Man is literally deva substance, and a God, thus being a true reflection of the solar Logos.12, 13 |
Vì vậy, những ai trong chúng ta thấy được phần nào Thiên Cơ được thôi thúc phổ biến tri thức của Tôn giáo Minh Triết, và nhất là thoát ly khỏi những giáo điều định kiến của thời kỳ tiền chiến. Cần chỉ ra ở đây rằng chiến tranh là một biến cố huyền bí vĩ đại, và đã gây ra một thay đổi sinh động trong nhiều kế hoạch và sắp đặt của Thánh Đoàn. Những điều chỉnh đã trở nên cần thiết, và một số biến cố sẽ phải trì hoãn trong khi những biến cố khác sẽ được thúc đẩy. Một trong những ảnh hưởng sâu xa nhất của cuộc chiến được cảm nhận giữa các deva của bóng tối, và chủ yếu là giữa những vị thuộc đẳng cấp thứ tư. Mạng lưới dĩ thái vốn bảo vệ những nhóm nhất định trong các giới nhân loại và động vật đã bị rách ở nhiều nơi, và các hệ quả của tai hoạ đó phải được hóa giải. Một hiệu ứng khác đối với các deva phát sinh từ chiến tranh, theo cách nó vận hành, có thể thấy giữa các deva của Nhóm A, hay những deva vốn là (theo nghĩa nội môn) các Nguyên tử trường tồn thể xác của mọi hữu thể tự-ý-thức. Spirilla thứ tư đã được kích hoạt dữ dội, và sự tiến hoá của nó được thúc nhanh [652] đến một mức độ phi thường, đến nỗi một số người kém tiến hoá hơn, qua sức ép của hiểm nguy và kinh nghiệm, đã có spirilla thứ tư này được đưa lên ngang bằng, và vượt quá, mức của nhân loại bình thường. Thông qua sự kích thích spirilla thứ tư của các đơn vị thuộc Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư trong cuộc tuần hoàn thứ tư này, trên bầu hành tinh thứ tư, trong hệ hành tinh thứ tư này, một cú hích khổng lồ trên con đường tiến hoá đã được tạo ra, và do đó một trong những mục tiêu lớn của cuộc chiến đã được thành tựu. Một sự kích hoạt còn kinh khủng hơn nữa đã được ban ra trong giống dân gốc thứ tư vào thời kỳ chiến tranh của giai đoạn ấy, và kết quả là sự bước vào Con Đường Điểm Đạo của nhiều người mà bình thường ngay cả đến nay cũng chưa đi trên đó. Một hiệu ứng tương tự có thể được trông đợi vào thời này, và Thánh Đoàn đang chuẩn bị để đảm nhận nhiều công việc mang tính ngoại hành tinh do sự sẵn sàng hầu như tức thì của những số lượng tương đối lớn những người con của nhân loại. Chúng ta đừng quên rằng sự kích hoạt các spirilla ảnh hưởng đến phương diện chất liệu, tức chất liệu deva. Con người, theo nghĩa đen, là chất liệu deva, và là một Thần, do đó là phản ảnh chân thật của Thái dương Thượng đế. 12, 13 |
|
12 “Thus God dwells in all, |
12 “Như thế Thượng đế ngự trong mọi sự, |
|
From life’s minute beginnings, up at last |
Từ khởi thuỷ nhỏ nhoi của sự sống, cho đến rốt cùng |
|
To man—the consummation of this scheme |
Là con người—sự viên thành của đồ hình này |
|
Of being, the completion of this sphere |
Của hiện hữu, sự hoàn tất của vòng tròn |
|
Of life: whose attributes had here and there |
Của sinh mệnh: những thuộc tính của vòng tròn này chốn này chốn kia |
|
Been scattered o’er the visible world before, |
Đã rải trên thế giới hữu hình tự trước, |
|
Asking to be combined, dim fragments meant |
Đòi hỏi được kết hợp lại, những mảnh mờ nhạt |
|
To be united in some wondrous whole, |
Nghĩa là sẽ hiệp nhất trong một toàn thể kỳ diệu nào đó, |
|
Imperfect qualities throughout creation, |
Những phẩm tính bất toàn rải khắp tạo sinh, |
|
Suggesting some one creature yet to make, |
Gợi ý về một sinh linh còn phải dựng nên, |
|
Some point where all those scattered rays should meet |
Một điểm nơi hết thảy những tia rải rác ấy tụ hội |
|
Convergent in the faculties of man… |
Hội tụ trong các năng lực của con người… |
|
When all the race is perfected alike |
Khi cả chủng loại đều được hoàn thiện như nhau |
|
As man, that is; all tended to mankind, |
Tức là như con người; tất cả hướng về nhân loại, |
|
And, man produced, all has its end thus far: |
Và, con người được sản sinh, mọi sự cho đến đây đều đạt cùng đích: |
|
But in completed man begins anew |
Nhưng trong con người hoàn thành lại khởi đầu |
|
A tendency to God. Prognostics told |
Một xu hướng tiến về Thượng đế. Những điềm triệu đã báo |
|
Man’s near approach; so in man’s self arise |
Sự cận kề của con người; và trong chính con người nay trỗi dậy |
|
August anticipations, symbols, types |
Những chờ mong oai nghi, những biểu trưng, những hình mẫu |
|
Of a dim splendor ever on before |
Của một huy hoàng mờ xa luôn ở phía trước |
|
In that eternal circle life pursues. |
Trong vòng tròn vĩnh cửu mà sự sống miên du. |
|
For men begin to pass their nature’s bound |
Vì con người khởi sự vượt qua giới hạn của bản tánh mình |
|
And find new hopes and cares which fast supplant [653] |
Và tìm ra những hy vọng, bận lo mới mau chóng thay thế |
|
Their proper joys and griefs; they grow too great |
Những vui buồn vốn có; họ trở nên quá lớn |
|
For narrow creeds of right and wrong, which fade |
Cho những tín điều chật hẹp về phải và trái, vốn phai mờ |
|
Before the unmeasured thirst for good; while peace |
Trước cơn khát vô lường hướng thiện; trong khi bình an |
|
Rises within them ever more and more. |
Trỗi dậy trong họ ngày càng nhiều hơn nữa. |
|
Such men are even now upon the earth, |
Những người như vậy ngay bây giờ đã có trên mặt đất, |
|
Serene amid the half formed creatures round. |
Điềm tĩnh giữa những sinh linh nửa-hình-thành quanh họ. |
|
– Paracelsus by Robert Browning. |
– Paracelsus của Robert Browning. |
|
13 |
13 |
|
1. Man is an animal, plus a living God, within his physical Shell. S. D., II, 85. S. D., II, 284. |
Con người là một động vật, cộng một Thượng đế sống, ở trong Vỏ thể xác của mình. GLBN., II, 85. GLBN., II, 284. |
|
a. Man is the Macrocosm for the animal, therefore he contains all that is meant by the term animal.—S. D., II, 179, 187. |
Con người là Đại thiên địa đối với loài vật, do đó y bao hàm mọi điều được gọi là thú vật.—GLBN., II, 179, 187. |
|
b. Divine consciousness is received from the living God.—S. D., II, 103. |
Tâm thức thiêng liêng được tiếp nhận từ Thượng đế sống.—GLBN., II, 103. |
|
c. The animal forms the basis and the contrast for the divine.—S. D., II, 100. |
Hình thể thú vật làm nền tảng và làm đối chiếu cho cái thiêng liêng.—GLBN., II, 100. |
|
d. The light of the Logos is awakened in animal man.—S. D., II, 45. |
Quang minh của vị Logos được đánh thức nơi người thú.—GLBN., II, 45. |
|
2. Man is the Tabernacle, the vehicle only, of his God.—S. D., I, 233, 281; II, 316; III, 66. |
Con người là Đền Tạm, chỉ là vận cụ, của Thần y.—GLBN., I, 233, 281; II, 316; III, 66. |
|
3. Compare S. D., II, 174. Read Proverbs VIII |
So sánh GLBN., II, 174. Hãy đọc Châm Ngôn VIII |
|
4. Study Biblical description of Tabernacle: |
Học bài mô tả Kinh Thánh về Đền Tạm: |
|
a. Outer court, the place of animal sacrifice and purification. |
Tiền đình, nơi hiến sinh thú vật và thanh lọc. |
|
b. The Holy place, the place of consecration and service. |
Nơi Thánh, nơi thánh hiến và phụng sự. |
|
c. The Holy of Holies. |
Nơi Cực Thánh. |
|
The first corresponds to the life of the personality. |
Cái thứ nhất tương ứng với đời sống của phàm ngã. |
|
The second to that of the Ego, or Higher Self. |
Cái thứ hai tương ứng với đời sống của Chân ngã, hay Bản Ngã Cao. |
|
The last to that of the Monad, or Divine Self. |
Cái cuối tương ứng với đời sống của Chân thần, hay Tự Ngã Thiêng Liêng. |
|
5. Man contains in himself every element found in the universe. S. D., I, 619; III, 584. |
Con người tự thân bao hàm mọi nguyên tố tìm thấy trong vũ trụ. GLBN., I, 619; III, 584. |
|
a. All in nature tends to become Man.—S. D., II, 179. |
Mọi thứ trong thiên nhiên đều có khuynh hướng trở thành Con Người.—GLBN., II, 179. |
|
b. All the impulses of the dual, centripetal and centrifugal force are directed towards one point—Man.—S. D., II, 179. |
Mọi xung lực của đôi mãnh lực, hướng tâm và ly tâm, đều hướng về một điểm—Con Người.—GLBN., II, 179. |
|
c. Man is the storehouse… he unites in himself all forms.—S. D., II, 303. |
Con người là kho tàng… y hiệp nhất trong tự thân mọi hình thể.—GLBN., II, 303. |
|
d. The potentiality of every organ useful to animal life is locked up in Man.—S. D., II, 723. |
Tiềm năng của mọi cơ quan hữu ích cho sự sống thú vật đều được khoá kín trong Con Người.—GLBN., II, 723. |
|
6. Man tends to become a God and then God, like every other atom in the universe.—S. D., I, 183. |
Con người có khuynh hướng trở thành một Thần, rồi là Thượng đế, như mọi nguyên tử khác trong vũ trụ.—GLBN., I, 183. |
|
7. Compare the atom and the Microcosm, man. Illustration:—S. D., I, 174. |
So sánh nguyên tử và Tiểu thiên địa, tức con người. Minh hoạ:—GLBN., I, 174. |
|
8. Every atom has seven planes of being.—S. D., I, 205. Read S. D., I, 201. |
Mỗi nguyên tử có bảy cõi của hiện hữu.—GLBN., I, 205. Đọc GLBN., I, 201. |
|
a. Every atom contains the germ from which he may raise the tree of knowledge. (Of good and evil, therefore conscious discrimination).—S. D., II, 622. |
Mỗi nguyên tử chứa mầm giống từ đó y có thể nuôi lớn Cây tri thức. (Về thiện và ác, do đó là phân biện có ý thức).—GLBN., II, 622. |
|
b. It is the spiritual evolution of the inner immortal man that forms the fundamental tenet of the occult sciences—S. D., I, 694. |
Chính là sự tiến hoá tinh thần của con người bất tử nội tại tạo thành giáo điều nền tảng của các khoa học huyền bí—GLBN., I, 694. |
|
c. Atoms and souls are synonymous terms in the language of the initiates.—S. D., I, 620-621. |
Nguyên tử và linh hồn là những thuật ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ của các điểm đạo đồ.—GLBN., I, 620-621. |
|
9. Human beings… those Intelligences who have reached the appropriate equilibrium between Spirit and Matter—S. D., I, 132. |
Nhân loại… những Trí năng đã đạt quân bình thích hợp giữa Tinh thần và Chất liệu—GLBN., I, 132. |
|
10. Read also carefully:—S. D., I, 267, 449; S. D., II, 190. |
Cũng đọc kỹ:—GLBN., I, 267, 449; GLBN., II, 190. |
|
a. On the descending arc Spirit becomes material.—S. D., I, 693. |
Trên cung giáng hạ, Tinh thần trở nên vật chất.—GLBN., I, 693. |
|
b. On the middle turn of the base both meet in man—S. D., I, 214, 271. |
Ở khúc quanh giữa của đáy vòng, cả hai gặp nhau nơi con người—GLBN., I, 214, 271. |
|
c. On the ascending arc Spirit asserts itself at the expense of the material. |
Trên cung thăng thượng, Tinh thần khẳng định chính mình bằng cái giá của vật chất. |
|
d. This is true of Gods and of men. See S. D., II, 88. |
Điều này đúng với chư Thần và với con người. Xem GLBN., II, 88. |
|
e. Man is therefore a compound of Spirit and matter.—S. D., II, 45. |
Do đó, con người là một hợp chất của Tinh thần và chất liệu.—GLBN., II, 45. |
|
f. In man the intelligence links the two.—S. D., II, 102, 103. |
Nơi con người, trí năng nối kết đôi bên.—GLBN., II, 102, 103. |
|
g. See note to S. D., II, 130. Compare S. D., II, 394. |
Xem chú cho GLBN., II, 130. So sánh GLBN., II, 394. |
Group A. Agnichaitans |
Nhóm A. Agnichaitans |
|
We have seen that on all planes the groups of devas can be divided into three [654] main groups, even though usually studied in their dual capacity of involutionary and evolutionary force units. Broadly speaking, these groups can be viewed as: |
Chúng ta đã thấy rằng trên mọi cõi, các nhóm deva có thể được phân thành ba [654] nhóm chính, dù thường được nghiên cứu trong tính lưỡng phân của họ như các đơn vị mãnh lực giáng hạ và thăng thượng. Nói rộng ra, các nhóm này có thể được nhìn như: |
|
a. Those which embody the positive aspect, or positive electrical phenomena. |
Những nhóm bao hàm phương diện dương, hay các hiện tượng điện dương. |
|
b. Those which embody the negative aspect. |
Những nhóm bao hàm phương diện âm. |
|
c. That group which—in time and space—is the union of the two aspects and which—during evolution—demonstrates the third type of electrical phenomena. |
Nhóm vốn—trong thời-không—là sự kết hợp của hai phương diện và—trong quá trình tiến hoá—biểu lộ kiểu hiện tượng điện thứ ba. |
|
Another grouping of this triplicity can be made which brings them into line with the order of manifestation as laid down in the ancient cosmogony, and this we followed when we enumerated the groups of Agnichaitans. |
Một sự nhóm lại khác của bộ ba này có thể được thực hiện, đưa họ vào tương ứng với trật tự biểu lộ như được nêu trong vũ trụ luận cổ, và chúng ta đã theo đó khi liệt kê các nhóm Agnichaitans. |
|
– Group A—Corresponds to the manifestations of existence as seen on the highest plane, or that aspect which is understood by the term Agni. |
Nhóm A—Tương ứng với các biểu lộ của hiện hữu như thấy trên cõi cao nhất, hay phương diện được hiểu bằng thuật ngữ Agni. |
|
– Group B—Corresponds to the Vishnu-Surya aspect. |
Nhóm B—Tương ứng với phương diện Vishnu-Surya. |
|
– Group C—Corresponds to the Brahma or the creative Logos aspect. |
Nhóm C—Tương ứng với phương diện Brahma hay phương diện Logos sáng tạo. |
|
We have recapitulated thus, as it is desirable to have the thought clearly defined. |
Chúng ta tóm lược như vậy, vì cần phải định hình tư tưởng cho rõ ràng. |
|
We have touched upon the two lower groups of devas. Now, we might take up the consideration of Group A, the most important group on the physical plane from the standpoint of creation, and of objectivity, for they are the life of matter itself and the intelligence animating the forms of all that exists on the systemic physical [656] plane; they are not self-conscious intelligence, but consciousness as understood by the occultist. |
Chúng ta đã chạm đến hai nhóm deva thấp. Giờ đây, chúng ta có thể đề cập Nhóm A, nhóm quan trọng nhất trên cõi hồng trần xét từ quan điểm sáng tạo và khách quan tính, vì họ là sự sống của chất liệu tự thân và là trí năng làm sinh động các hình tướng của mọi cái hiện tồn trên cõi hồng trần của hệ thống [656]; họ không phải là trí năng tự-ý-thức, mà là tâm thức như nhà huyền bí học hiểu. |
|
Each of the atomic subplanes in the solar system is closely interrelated with the others, and the seven atomic subplanes of all the planes form a unity, and are essentially the cosmic physical plane as the term is occultly understood. The subplanes of which they are the originating source bear the same relationship to them as the six principles do to the seventh. Therefore, the devas of Group A are the concentrated creative force of the subplanes, the origin of the objective side of physical manifestation, and the source of the seven Breaths of the creative Logos on the physical plane. But it must be remembered that in each scheme the creative impulse or will is the planetary Logos of the scheme, Who as truly creates His body of Manifestation under the Law (His dense physical planet) as man—under the same Law—creates his physical body, or as the solar Logos (at the other end of the scale) creates His body, a solar system. |
Mỗi cõi phụ nguyên tử trong hệ mặt trời có liên hệ mật thiết với các cõi phụ nguyên tử khác, và bảy cõi phụ nguyên tử của mọi cõi hợp thành một nhất thể, và, về yếu nghĩa, là cõi hồng trần vũ trụ như thuật ngữ được hiểu một cách nội môn. Các cõi phụ mà từ đó chúng phát nguyên giữ cùng mối liên hệ với chúng như sáu nguyên khí đối với nguyên khí thứ bảy. Do đó, các deva của Nhóm A là lực sáng tạo tập trung của các cõi phụ, là khởi nguyên của diện khách quan của biểu lộ hồng trần, và là nguồn của bảy Làn Thở của vị Logos sáng tạo trên cõi hồng trần. Nhưng cần nhớ rằng trong mỗi hệ hành tinh, xung lực hay Ý chí sáng tạo là Hành Tinh Thượng đế của hệ ấy, Đấng cũng thật sự tạo nên Thể Biểu lộ của Ngài dưới Định luật (hành tinh hồng trần đậm đặc của Ngài) như con người—dưới cùng một Định luật—tạo nên thể xác của y, hay như Thái dương Thượng đế (ở đầu bên kia của thang tỉ lệ) tạo nên Thể của Ngài, một hệ mặt trời. |
|
This has a definite and esoteric bearing upon the subject under discussion, and the essential differences between the Heavenly Men seeking manifestation will be seen in Their schemes, and therefore in the types of devas through whom They function, and out of whose essence Their form is made. |
Điều này có liên hệ minh xác và nội môn đến đề tài đang bàn, và những sai khác căn để giữa các Đấng Thiên Nhân tìm cầu biểu lộ sẽ được thấy trong các hệ của Các Ngài, và do đó trong các kiểu deva mà qua đó Các Ngài vận hành, và từ yếu tính của họ mà hình tướng của Các Ngài được kiến tạo. |
|
It might be expressed thus: Just as each man has a body which, in its main characteristics and form, resembles other bodies, yet in its quality and personal distinctive features is unique, so each of the Heavenly Men builds for Himself a body out of deva substance or spirit-matter which is of the same nature as that of His brothers, and yet which is distinctive, colored by His own peculiar coloring, vibrant to His own particular key, and able to demonstrate His own unique quality. This is produced through the peculiar type of deva [656] essence He chooses, or (to word it perhaps more occultly) it has involved the response of certain peculiar groups of devas to His note. They embody in themselves just those constituents which He requires to build His body or scheme. It will, therefore, be recognized that the devas of Group A, being what we might call the key-devas, are of prime importance, and, from our present standpoint, must remain abstract and esoteric. If we consider this under the Law of Analogy, and study the essentially esoteric nature of the plane of the Logos (the first plane, called Adi) the reason for this will be apparent. If the devas of Group A could be recognized, or even contacted by advanced men, the study of their nature, coloring and tone would reveal to unprepared humanity the coloring and tone of our particular planetary Logos. For this knowledge the race is not ready. It would reveal also, through the study of the Law of Action and Reaction, which of the incarnating Egos were on the ray of this Logos; the deductions from this would lead men into dangerous realms, and put power into hands as yet unprepared to wield it wisely. |
Có thể diễn tả như sau: Cũng như mỗi con người có một thân thể mà về đặc trưng chính và hình thể thì giống những thân thể khác, song về phẩm chất và các nét dị biệt cá nhân thì là độc nhất, thì mỗi Đấng Thiên Nhân cũng tự xây cho Mình một thân thể bằng chất liệu deva hay tinh thần-chất liệu, vốn có cùng bản tánh như của các Huynh Đệ Ngài, nhưng lại mang nét riêng, được nhuộm bởi sắc riêng của Ngài, rung hưởng theo khoá âm riêng của Ngài, và có khả năng hiển lộ phẩm tính độc đáo của Ngài. Điều này được tạo ra thông qua kiểu chất liệu deva [656] dị biệt mà Ngài chọn, hay (nói theo cách có phần nội môn hơn) điều đó đã lôi kéo sự đáp ứng của những nhóm deva dị biệt nào đó trước âm điệu của Ngài. Họ bao hàm tự thân chính những thành phần mà Ngài cần để kiến tạo thân thể hay hệ của Ngài. Do đó sẽ nhận ra rằng các deva của Nhóm A, là những gì chúng ta có thể gọi là các key-devas, giữ vai trò tối trọng, và, xét từ lập trường hiện tại của chúng ta, phải vẫn là trừu xuất và nội môn. Nếu chúng ta xét điều này dưới Định luật tương đồng, và nghiên cứu bản chất nội môn cốt yếu của cõi của vị Logos (cõi thứ nhất, gọi là Adi) lý do của điều này sẽ hiển nhiên. Nếu các deva của Nhóm A có thể được nhận biết, hay thậm chí được tiếp xúc bởi những người tiến bộ, thì việc nghiên cứu bản tánh, sắc màu và âm điệu của họ sẽ tiết lộ cho nhân loại chưa được chuẩn bị sắc màu và âm điệu của Hành Tinh Thượng đế đặc thù của chúng ta. Cho sự tri thức này, nhân loại chưa sẵn sàng. Nó cũng sẽ tiết lộ, qua việc nghiên cứu Định luật Hành động và Phản ứng, những Chân ngã nào trong các Chân ngã đang lâm phàm ở trên cung của vị Logos này; những suy luận từ đó sẽ dẫn con người vào các lĩnh vực nguy hiểm, và đặt quyền lực vào những bàn tay chưa biết vận dụng một cách khôn ngoan. |
|
Therefore, Group A of Agnichaitans must remain profoundly esoteric, and their true nature can only be revealed to the Adept of the great Law. |
Do đó, Nhóm A của các Agnichaitans phải vẫn sâu xa nội môn, và bản tính chân thực của họ chỉ có thể được tiết lộ cho vị Chân sư của đại Định luật. |
|
Thus only a few hints are permissible, and these deal simply with the relationship of man to these entities. He is related to them primarily because his physical permanent atom is directly energized by them, being a part of their essential nature, and having a place in their form. It will be apparent to any student that if the permanent atoms of the lower man are within the causal periphery the devas of the three worlds on the atomic subplanes must work in the closest cooperation; there must be unity of purpose and of plan. |
Bởi vậy chỉ một vài ám chỉ được phép, và những ám chỉ này chỉ bàn đến mối liên hệ của con người với các thực thể này. Y liên hệ với họ trước hết vì Nguyên tử trường tồn thể xác của y được họ trực tiếp tiếp sinh lực, vì nó là một phần của yếu tính của họ, và có một chỗ trong hình thể của họ. Điều này sẽ hiển nhiên đối với bất cứ đạo sinh nào rằng nếu các nguyên tử trường tồn của con người thấp nằm trong chu vi nhân thể thì các deva của ba cõi ở trên các cõi phụ nguyên tử hẳn phải làm việc trong sự hiệp tác chặt chẽ nhất; hẳn phải có sự hợp nhất mục đích và kế hoạch. |
|
The devas of the atomic levels of all the planes in our scheme work in close affiliation: [657] |
Các deva của các cấp nguyên tử của tất cả các cõi trong hệ của chúng ta làm việc trong sự liên hợp mật thiết: [657] |
|
a. With each other, thus making seven groups who are the sumtotal of the Brahma aspect of our planetary Logos. |
Với nhau, nhờ vậy tạo thành bảy nhóm là tổng toàn của phương diện Brahma của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. |
|
b. With the seven groups who constitute the atomic matter of that scheme which is the polar opposite of ours. |
Với bảy nhóm cấu thành chất liệu nguyên tử của hệ hành tinh vốn là đối cực của hệ chúng ta. |
|
c. With that particular group in that scheme which is one of the points in a systemic triangle of which our scheme and our opposite scheme are the other two. |
Với nhóm đặc thù trong hệ ấy, hệ là một trong những điểm của tam giác hệ thống mà hệ chúng ta và hệ đối cực của chúng ta là hai điểm còn lại. |
|
d. With corresponding groups in lesser degree in all the systemic schemes. |
Với các nhóm tương ứng, ở mức độ thấp hơn, trong tất cả các hệ hành tinh của hệ thống. |
|
e. With the scheme which corresponds to the first aspect, or the plane of Adi. |
Với hệ tương ứng với phương diện thứ nhất, hay cõi Adi. |
|
f. With those devas who form the spirit-substance of the manifestation of that particular Rishi of the Great Bear Who is the prototype of our particular planetary Logos. |
Với những deva kiến tạo tinh thần-chất liệu của sự biểu lộ của vị Rishi đặc thù nào đó thuộc chòm Đại Hùng, Đấng là nguyên mẫu của Hành Tinh Thượng đế đặc thù của chúng ta. |
|
g. With those devas who form the substance of that one of those esoteric existences who are spoken of in the Secret Doctrine (See S. D, II, 579-582) as “The wives of the seven Rishis,” or the seven sisters, the Pleiades. One of these seven sisters has a close connection with our Heavenly Man, and therefore we have an interesting cosmic interplay as follows: |
Với những deva kiến tạo chất liệu của một trong những Hiện hữu nội môn được nhắc đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm (Xem GLBN., II, 579-582) như là “những người vợ của bảy vị Rishi,” hay bảy chị em, tức Pleiades. Một trong bảy chị em này có mối liên hệ gần gũi với Thiên Nhân của chúng ta, và do đó chúng ta có một giao tác vũ trụ thú vị như sau: |
|
– One of the seven Rishis of the Great Bear. |
Một trong bảy vị Rishi của chòm Đại Hùng. |
|
– One of the seven Sisters, or a Pleiad. |
Một trong bảy Chị Em, tức một Pleiad. |
|
– The Heavenly Man of our scheme. |
Thiên Nhân của hệ chúng ta. |
|
This interplay will be threefold and as far as we are concerned just now will involve a transmission of life force through the atomic matter of our planes, circulating in deva substance. This will materially affect certain types of humanity more than others, according to their ray and nature, and this effect will demonstrate in [658] a vivification of the spirillae of the permanent atoms and of the centers. |
Giao tác này sẽ là tam phân và, xét như hiện tại chúng ta quan tâm, sẽ bao hàm một sự truyền dẫn sinh lực qua chất liệu nguyên tử của các cõi của chúng ta, lưu chuyển trong chất liệu deva. Điều này sẽ ảnh hưởng một cách trọng yếu đến những kiểu nhân loại nhất định hơn các kiểu khác, tuỳ theo cung và bản tánh của họ, và hiệu ứng này sẽ biểu lộ trong [658] sự sinh động hoá các spirilla của các nguyên tử trường tồn và của các luân xa. |
[Commentary S6S8]
Agnisuryans—Astral Plane Devas —Agnisuryans—Các deva Cõi Cảm Dục
|
We start here upon a consideration of those groups of devas who are the substance of the astral plane, the Agnisuryans. They may be considered in the following manner, and by the employment of synonymous terms, some general idea of their function may be arrived at before we begin to differentiate them into groups and study their relation to: |
Ở đây chúng ta khởi sự xét đến những nhóm deva vốn là chất liệu của cõi cảm dục, các Agnisuryans. Họ có thể được xem xét theo cách sau, và bằng việc sử dụng các thuật ngữ đồng nghĩa, một ý niệm tổng quát về chức năng của họ có thể đạt được trước khi chúng ta bắt đầu biệt phân họ thành các nhóm và nghiên cứu mối liên hệ của họ đối với: |
|
1. The various entities who are the soul of the differing kingdoms, or groups, such as the animal kingdom, the human kingdom, and higher in the scale of consciousness than men—the planetary Logos. |
Các thực thể khác nhau là linh hồn của các giới, hay các nhóm khác nhau, như giới động vật, giới nhân loại, và cao hơn trên thang tâm thức so với con người—Hành Tinh Thượng đế. |
|
2. Man himself. |
Chính con người. |
|
3. The plane as a totality. |
Bản thân cõi ấy như một toàn thể. |
|
We might consider these devas: |
Chúng ta có thể xét các deva này: |
|
– First, as the substance of the astral plane in its seven grades. |
Thứ nhất, như chất liệu của cõi cảm dục trong bảy cấp độ của nó. |
|
– Second, as that aspect of logoic manifestation which corresponds to the liquid subplane in the systemic physical plane. |
Thứ hai, như phương diện của biểu lộ thuộc về vị Logos tương ứng với cõi phụ lỏng trên cõi hồng trần của hệ thống. |
|
– Third, as the vehicle of the deva lord Varuna. |
Thứ ba, như vận cụ của vị chúa deva Varuna. |
|
– Fourth, as the animating lives of that involutionary matter of the astral plane which we call the elemental essence, and as the vitality energizing the desire elementals of all that is sentient. Viewed in this aspect in connection especially with man, they are the correspondence on the astral plane to the “devas of the shadows,” for the desire bodies of all human beings are composed of matter of the second, third and fourth subplanes of the astral plane. This is a point which should be closely considered, and the analogy between the etheric body, the vehicle of prana vitalizing the dense physical, and [659] man’s astral body, and the method of its vitalization will be found illuminating. |
Thứ tư, như các sinh linh làm sinh động chất liệu giáng hạ của cõi cảm dục mà chúng ta gọi là Tinh chất hành khí, và như sinh lực làm sinh động các hành khí dục vọng của mọi cái có cảm thức. Khi nhìn trong phương diện này, nhất là liên hệ đến con người, họ là sự tương ứng trên cõi cảm dục với “các deva của bóng tối”, vì các thể dục vọng của mọi hữu thể nhân loại được cấu thành từ chất liệu của các cõi phụ thứ hai, thứ ba và thứ tư của cõi cảm dục. Đây là một điểm cần được khảo sát kỹ, và sự tương tự giữa thể dĩ thái, vận cụ của prana làm sinh động thể hồng trần đậm đặc, và [659] thể cảm dục của con người, cùng phương pháp tiếp sinh lực của nó, sẽ được thấy là soi sáng. |
|
– Fifth, from the standpoint of the physical plane, as the sumtotal of material activity (even though subjective) which produces that which is tangible and objective. Just as the solar system is a “Son of Necessity,” or of desire, so the physical bodies of all that exist are the product of the desire of some greater or lesser entity within the system. |
Thứ năm, xét từ lập trường cõi hồng trần, như tổng toàn của hoạt động vật chất (dù là chủ quan) vốn sản sinh cái khả kiến và khách quan. Cũng như hệ mặt trời là một “Con của Nhu Cầu”, hay của dục vọng, thể xác của mọi cái hiện tồn đều là sản phẩm của dục vọng của một thực thể lớn hay nhỏ trong hệ thống. |
|
It might be apposite here to point out the lines along which energy—whether manasic, pranic, or astral—enters the system and reaches a particular plane, thus finding its way to all units of consciousness, from an atom to a solar Logos. |
Có thể thích đáng nếu chỉ ra ở đây những tuyến mà dọc theo đó năng lượng—dù là manasic, pranic, hay cảm dục—đi vào hệ thống và đến một cõi nào đó, nhờ vậy tìm đường đến mọi đơn vị tâm thức, từ một nguyên tử cho đến một Thái dương Thượng đế. |
|
The dense physical plane itself is energized via: |
Bản thân cõi hồng trần đậm đặc được tiếp sinh lực qua: |
|
a. The planetary etheric body. |
Thể dĩ thái hành tinh. |
|
b. The mental plane, or the cosmic gaseous subplane. |
Cõi trí, hay cõi phụ khí vũ trụ. |
|
c. The atmic plane, or the third cosmic ether. |
Cõi atma, hay dĩ thái vũ trụ thứ ba. |
|
d. The plane of adi, or the first cosmic ether. |
Cõi Adi, hay dĩ thái vũ trụ thứ nhất. |
|
and inferentially (by means of the logoic permanent atom) a similar flow of force enters from cosmic levels. |
và suy diễn (thông qua Nguyên tử trường tồn của vị Logos) một dòng mãnh lực tương tự đi vào từ các cấp vũ trụ. |
|
The astral plane is energized via: |
Cõi cảm dục được tiếp sinh lực qua: |
|
a. The buddhic plane, the fourth cosmic ether. |
Cõi Bồ đề, dĩ thái vũ trụ thứ tư. |
|
b. The monadic plane, the second cosmic ether. |
Cõi Chân thần, dĩ thái vũ trụ thứ hai. |
|
c. The cosmic astral plane, and thus to the Heart of all Being. |
Cõi cảm dục vũ trụ, và như vậy đến Trái Tim của mọi Hữu thể. |
|
The mental plane is energized via: |
Cõi trí được tiếp sinh lực qua: |
|
a. The atmic plane, the third cosmic ether. |
Cõi atma, dĩ thái vũ trụ thứ ba. |
|
b. The plane adi, the first cosmic ether. |
Cõi Adi, dĩ thái vũ trụ thứ nhất. |
|
c. The cosmic mental plane, beyond which it is unnecessary for us to go. |
Cõi trí vũ trụ, vượt quá đó chúng ta không cần đi xa hơn. |
|
It will be noted by the careful student that these planes might be looked at in connection with the three worlds [660] as demonstrating two types of force—first, a force which tends to differentiation such as on the mental plane (the plane of inherent separation) and on the physical plane (the plane of actual separation); secondly, a force which tends to unity, such as on the astral plane, and on the plane of essential harmony, the buddhic plane. It must be remembered that we are considering force as it flows through, or permeates, deva substance. A hint as to the truth lies in the fact that at present the astral body of man is positive to the physical plane, negative to the mental, and positive to the buddhic plane. As evolution proceeds, the astral body should become positive to the mental, and thus prove incapable of being swayed by thought currents, and the separative processes of that plane, and negative to the buddhic plane, or receptive to the forces from that plane. When it has attained equilibrium, and the forces are evenly balanced, the astral body should become the transmitter from the buddhic plane, the fourth cosmic ether, via the gaseous, to the dense physical plane. This thought should be studied in connection with the burning of the etheric web of the planet, thus illumination may come. Literally, there is no such division on the astral plane as we find on the mental or on the physical planes. On both those planes, we have a division into two: the mental plane being divided into higher and lower, rupa and arupa, concrete and abstract, and the physical plane into the etheric levels and the dense subplanes. |
Đạo sinh cẩn trọng sẽ ghi nhận rằng các cõi này có thể được xét trong mối liên hệ với ba thế giới [660] như đang biểu lộ hai kiểu mãnh lực—thứ nhất, một mãnh lực có xu hướng phân hoá như trên cõi trí (cõi của phân ly vốn hữu) và trên cõi hồng trần (cõi của phân ly hiện thực); thứ nhì, một mãnh lực có xu hướng hợp nhất như trên cõi cảm dục, và trên cõi của hoà điệu cốt yếu, tức cõi Bồ đề. Cần nhớ rằng chúng ta đang xem xét mãnh lực khi nó lưu thông qua, hay thấm nhuần, chất liệu deva. Một gợi ý về chân lý nằm ở sự kiện là hiện nay thể cảm dục của con người là dương đối với cõi hồng trần, âm đối với cõi trí, và dương đối với cõi Bồ đề. Khi tiến hoá tiếp diễn, thể cảm dục sẽ trở nên dương đối với cõi trí, nhờ vậy tỏ ra không còn bị chao động bởi các dòng tư tưởng, và bởi các tiến trình phân ly của cõi ấy, và âm đối với cõi Bồ đề, tức lĩnh nạp các mãnh lực từ cõi ấy. Khi nó đạt được quân bình, và các mãnh lực được cân xứng, thể cảm dục nên trở thành kênh truyền từ cõi Bồ đề, dĩ thái vũ trụ thứ tư, qua cõi khí, đến cõi hồng trần đậm đặc. Tư tưởng này nên được khảo sát trong mối liên hệ với sự thiêu đốt mạng lưới dĩ thái của hành tinh, nhờ đó ánh sáng có thể đến. Theo nghĩa đen, không có sự phân chia như thế trên cõi cảm dục như chúng ta thấy trên cõi trí hay trên cõi hồng trần. Trên cả hai cõi ấy, chúng ta có một sự phân chia thành hai: cõi trí được phân thành thượng và hạ, rupa và arupa, cụ thể và trừu tượng, và cõi hồng trần thành các cấp dĩ thái và các cõi phụ đậm đặc. |
|
There is, therefore, a correspondence between these two. The reason for this apparent division (considering the question apart from the states of consciousness of a human being) is due to the stage of development of the great devas who embody the plane, who ensoul it, and who manifest through it as a man manifests through his body, Varuna, the Lord of the astral plane, has achieved a more unified conscious control than His brothers of [661] the mental and physical planes. He comes into manifestation in connection with one of the Heavenly Men, Who is the Lord of a major Ray. The other two are linked up with the Lords of a minor Ray. There is a suggestive hint for students in this information. We may justly ask why, if this is so, it should apparently manifest so disastrously in connection with man? There are several reasons for this, one being that the force flowing through the vehicle of the great deva, the plane, is consequently stronger than in the other two cases, and this is owing to His more advanced stage of development and also to the fact that the Logos Himself is polarized in His astral body. Another reason is that he has a peculiar link with the Ruler of the animal kingdom, and as the human being has not yet dissociated himself from, nor learnt to control, his animal nature, he too comes under the influence of this tremendous force. There are other reasons hidden in the karma of our Heavenly Man, but the above reasons suffice. |
Do đó có một tương ứng giữa hai cõi này. Lý do cho sự phân chia bề ngoài này (xét vấn đề tách khỏi các trạng thái tâm thức của một con người) là do trình độ phát triển của các đại deva vốn thể hiện cõi, vốn phú linh cho cõi ấy, và vốn biểu lộ qua cõi ấy như con người biểu lộ qua thân thể mình; Varuna, Chúa tể của cõi cảm dục, đã đạt được sự kiểm soát hợp nhất hơn so với Các Huynh Đệ của Ngài [661] trên cõi trí và cõi hồng trần. Ngài đi vào biểu lộ liên kết với một trong các Thiên Nhân, Đấng là Chúa Tể của một Cung chính. Hai vị kia liên kết với các Chúa Tể của một Cung phụ. Có một ám chỉ gợi mở cho đạo sinh trong thông tin này. Chúng ta có thể chính đáng mà hỏi, nếu vậy, tại sao nó lại biểu lộ dường như tai hại trong mối liên hệ với con người? Có vài nguyên nhân cho điều này, một là lực lưu thông qua vận cụ của đại deva, tức cõi, do đó mạnh hơn so với hai trường hợp kia, và điều này là do giai đoạn phát triển cao hơn của Ngài và cũng do thực tế rằng bản thân vị Logos tự phân cực trong thể cảm dục của Ngài. Một nguyên nhân khác là Ngài có mối liên kết đặc thù với Vị Cai quản giới động vật, và vì hữu thể nhân loại vẫn chưa tách lìa khỏi, cũng chưa học được cách kiểm soát, bản tánh thú vật của mình, nên y cũng nằm dưới ảnh hưởng của mãnh lực khủng khiếp này. Có những nguyên nhân khác ẩn tàng trong nghiệp của Thiên Nhân của chúng ta, nhưng các nguyên nhân trên là đủ. |
1. The Function of the Agnisuryans |
1. Chức năng của các Agnisuryans |
|
The devas of the astral plane are those with whom man is very specially connected at this time owing to his astral polarization, and to the place desire and feeling play in his development. Consciousness expands through contact, through intelligent appreciation of that which is contacted, and through realization of that which is to be gained through a specific contact. That which is contacted depends upon reciprocal vibration, and the place therefore of desire (which is the going out after sensation) and of feeling (which is the reflex of that desire) is of real importance; they put man constantly in touch—even though he realizes it not—with deva substance of some kind or another. Even when man has reached a relatively high stage of evolution, the demonstration of that point of attainment is seen in the type of not-self which he contacts; it is only when he is an initiate that [662] he begins to approximate, and to know the meaning of the essential unity which lies at the heart of Being, and to comprehend the oneness of the Universal Soul, and the Unity of that subjective Life which secretes itself behind form of every kind. It should never be forgotten that the matter aspect is found on all planes; also that forms are ever to be found, until the solar ring-pass-not is transcended and the Logos escapes from His present limitation. Owing to this the devas of the astral plane assume a very important place in the three worlds. |
Các thiên thần của cõi cảm dục là những vị mà con người đặc biệt liên kết vào thời điểm này, do sự phân cực cảm xúc của y, và do vị trí mà dục vọng và cảm xúc nắm giữ trong sự phát triển của y. Tâm thức mở rộng qua tiếp xúc, qua sự thấu triệt thông tuệ về điều được tiếp xúc, và qua sự nhận biết về điều sẽ được thu hoạch nhờ một tiếp xúc chuyên biệt. Điều được tiếp xúc tùy thuộc vào rung động tương ứng, do đó vị trí của dục vọng (vốn là sự vươn ra tìm cảm giác) và của cảm xúc (vốn là phản xạ của dục vọng ấy) có tầm quan trọng thực sự; chúng khiến con người liên lạc không ngừng—dẫu y không nhận ra—với chất liệu thiên thần ở này hay khác dạng. Dẫu con người đã đạt tới một giai đoạn tiến hoá tương đối cao, sự biểu lộ của điểm đạt được ấy vẫn được thấy nơi loại “phi-ngã” mà y tiếp xúc; chỉ khi y là một điểm đạo đồ thì [662] y mới bắt đầu tiệm cận, và biết được ý nghĩa của tính đồng nhất cốt yếu vốn nằm ở tâm điểm của Sự Sống, và thấu hiểu tính nhất thể của Đại Hồn Vũ Trụ, và Sự Hợp Nhất của Sự Sống chủ quan vốn ẩn mình sau mọi hình tướng. Đừng bao giờ quên rằng phương diện chất liệu hiện diện trên mọi cõi; cũng vậy, hình tướng luôn luôn hiện hữu, cho đến khi vòng-giới-hạn thái dương được vượt qua và Thượng đế thoát khỏi giới hạn hiện tại của Ngài. Bởi vậy, các thiên thần ở cõi cảm dục đảm nhiệm một vị trí rất quan trọng trong ba cõi. |
|
Previously, we considered them in a fivefold aspect, dividing them into five groups. At this point we will limit our consideration to the relationship of self-conscious units such as Man and the planetary Logos to this deva substance. A great distinction exists between man and his prototype, a Heavenly Man. |
Trước đây, chúng ta đã xem xét các vị ấy trong một phương diện ngũ phân, chia thành năm nhóm. Tại điểm này, chúng ta sẽ giới hạn việc khảo sát vào mối liên hệ của các đơn vị tự ý thức như Nhân loại và Hành Tinh Thượng đế đối với chất liệu thiên thần này. Có một phân biệt rất lớn giữa con người và nguyên mẫu của y, một Đấng Thiên Nhân. |
|
The astral plane plays a very real part in the evolution of man, having a close connection with one of his principles. Astral matter and vibration is one of the controlling factors in the lives of the great majority of people. To the Heavenly Man, astral matter corresponds to the liquid portion in the physical body of man, and is for Him therefore no principle. |
Cõi cảm dục đóng một vai trò rất thực trong tiến hoá của con người, có liên hệ mật thiết với một trong các nguyên khí của y. Chất liệu và rung động cảm dục là một trong những yếu tố chi phối đời sống của đại đa số nhân loại. Đối với Đấng Thiên Nhân, chất liệu cảm dục tương ứng với phần “lỏng” trong thể xác của con người, và vì thế đối với Ngài, nó không phải là một nguyên khí. |
|
The astral plane is man’s principal battleground and the area of his most intense field of sensation,—mental sensation (esoterically understood) is for him as yet only a possibility. The astral body is the seat of man’s most violent vibration, and these vibrations are a potent cause of his physical plane activities. If man only realized it, the devas of the astral plane at present very largely control what he does and says, and his goal of evolution (his immediate goal) is to liberate himself from their control in order that he, the real Ego or thinker, may be the dominating influence. To be explicit, and thus to illustrate this point: the little elemental lives which form the body of the emotions, and the positive [663] life of any evolutionary deva who (through similarity of vibration) is linked to any particular man and who gives to him an astral body of a coherent and positive power, are as yet practically in control of the majority. Man usually does as his desires and instincts prompt him. If this evolutionary deva is of a high order (as will be the case in a highly developed man) the vibration will be high, and the desires and instincts will be good and exoterically right. Nevertheless, if the man is controlled by them, he is as yet under deva influence, and must free himself. If the deva life is of a low order, the man will demonstrate low and vicious instincts, and desires of a vile caliber. |
Cõi cảm dục là chiến địa chủ yếu của con người và là miền của trường cảm giác mãnh liệt nhất của y,—cảm giác trí tuệ (hiểu theo nội môn) đối với y vẫn mới chỉ là một khả thể. Thể cảm dục là nơi ngự trị của những rung động dữ dội nhất nơi con người, và những rung động ấy là nguyên nhân mạnh mẽ của các hoạt động ở cõi hồng trần của y. Nếu con người chỉ nhận ra, thì hiện nay các thiên thần của cõi cảm dục phần lớn kiểm soát điều y làm và nói, và mục tiêu tiến hoá của y (mục tiêu tức thời) là giải phóng mình khỏi sự kiểm soát của họ để cho chính y, tức Chân ngã thực sự hay kẻ tư duy, trở thành ảnh hưởng chủ đạo. Nói minh bạch, và nhờ đó minh hoạ điểm này: các sự sống hành khí nhỏ bé cấu thành thân thể của cảm xúc, và [663] sự sống dương tính của bất kỳ một thiên thần tiến hoá nào (vì tương đồng rung động) được liên kết với một con người nào đó và ban cho y một thể cảm dục có công năng kết tụ và dương tính, hiện nay hầu như đang kiểm soát đa số nhân loại. Con người thường làm theo những gì các dục vọng và bản năng xúi giục y. Nếu thiên thần tiến hoá này thuộc một đẳng cấp cao (như trường hợp ở một người phát triển cao) thì rung động sẽ cao, và các dục vọng, bản năng sẽ tốt và đúng theo ngoại hiện. Tuy nhiên, nếu con người bị họ kiểm soát, y vẫn còn dưới ảnh hưởng thiên thần, và phải tự giải phóng. Nếu sự sống thiên thần thuộc đẳng cấp thấp, con người sẽ biểu lộ bản năng thấp hèn và độc ác, cùng những dục vọng đê tiện. |
|
If these remarks are rightly apprehended, some understanding will come of what is meant when the deva evolution is spoken of as being a “parallel evolution “ to that of man. In the three worlds the two lines of evolution parallel each other, and must not be consciously one. In the planes of the Triad they are known as a unity, producing the Divine Hermaphrodite, or the Heavenly Man—the self-conscious human units embodying the three aspects of divinity, while the conscious deva units embody the divine attributes. The two, blended together, form the body of manifestation, the centers and substance of the Heavenly Man. Great is the mystery, and until man knows his place within the conscious whole, he should reserve his opinion as to the meaning thereof. It will be apparent, therefore, in view of the connection between the astral plane with its unified work, and the buddhic plane with the conscious harmony there experienced, that the astral body of man calls for the closest study and understanding. A link will be found through its medium with the buddhic plane and harmonious activity on the physical plane will be produced. The student of occultism should study carefully in this connection: [664] |
Nếu những nhận xét này được nắm bắt đúng, sẽ có phần nào thấu hiểu về ý nghĩa khi nói rằng tiến hoá thiên thần là một “tiến hoá song hành” với nhân loại. Trong ba cõi, hai đường tiến hoá ấy song hành với nhau, và không được ý thức hợp nhất. Trên các cõi của Tam nguyên tinh thần, chúng được biết như một nhất thể, tạo nên Đấng Lưỡng tính Thiêng liêng, hay Đấng Thiên Nhân—các đơn vị nhân loại tự ý thức hàm chứa ba Phương diện của thiên tính, trong khi các đơn vị thiên thần tự thức hàm chứa các thuộc tính thiêng liêng. Hai bên, hòa quyện cùng nhau, tạo nên thể của sự biểu lộ, tức các trung tâm và chất liệu của Đấng Thiên Nhân. Mầu nhiệm thật vĩ đại, và cho đến khi con người biết vị trí của y trong toàn thể có ý thức, y nên dè dặt ý kiến về ý nghĩa của điều đó. Do vậy, xét đến mối liên hệ giữa cõi cảm dục với công tác hợp nhất của nó, và cõi Bồ đề với sự hòa điệu có ý thức được trải nghiệm ở đó, thể cảm dục của con người đòi hỏi sự khảo cứu và thấu hiểu tận tường. Một mối nối sẽ được tìm thấy qua trung gian của chính nó với cõi Bồ đề và sẽ sản sinh hoạt động hài hoà ở cõi hồng trần. Đạo sinh huyền bí học nên cẩn thận khảo sát trong mối liên hệ này: [664] |
|
a. The physical sun, and its relation to prana and the etheric body. |
Mặt trời vật chất, và mối liên hệ của nó với prana và thể dĩ thái. |
|
b. The subjective sun, and its connection with the astral plane, with the kama-manasic principle, and the astral body. |
Mặt trời chủ quan, và mối liên hệ của nó với cõi cảm dục, với nguyên khí trí-cảm, và với thể cảm dục. |
|
c. The central spiritual sun, and its relation to the Spirit or atma in man. (S. D., II, 250, 251.) |
Mặt trời Tinh thần Trung Ương, và mối liên hệ của nó với Thần linh hay atma trong con người. (S. D., II, 250, 251.) |
|
d. The heart of the sun, and its relation to the lower and higher mental bodies, producing that peculiar manifestation we call the causal body. In this connection it must be remembered that the force which flows from the heart of the sun, works through a triangle formed by the Venusian scheme, the Earth and the sun. |
Trái tim của Mặt Trời, và mối liên hệ của nó với các thể hạ trí và thượng trí, tạo ra biểu lộ đặc dị mà chúng ta gọi là thể nguyên nhân. Trong mối liên hệ này cần nhớ rằng mãnh lực tuôn chảy từ Trái tim Mặt Trời tác động qua một tam giác được hình thành bởi hệ Sao Kim, Trái Đất và Mặt Trời. |
|
e. That another triangle was also formed involving two planets was to be expected under the law, and the triangles vary according to the scheme involved. |
Theo định luật, một tam giác khác cũng đã được hình thành liên hệ đến hai hành tinh, và các tam giác thay đổi tuỳ theo hệ hành tinh liên quan. |
|
Cosmically there is a very interesting series of triangles which will be found by the student of esoteric astronomy and of occult cycles. They originate in the central sun of our particular group of solar systems. This series involves the Pleiades. The fact that this is so will not be known until the last decade of the present century, and will not be recognized by science till that time when certain lines of knowledge and discovery will bring scientists to a realization that there is a third type of electricity, which ever balances and forms the apex of the triangle. But the time is not yet. |
Ở cấp vũ trụ có một loạt tam giác rất thú vị mà đạo sinh thiên văn học nội môn và các chu kỳ huyền bí sẽ tìm thấy. Chúng khởi xuất từ mặt trời trung tâm của nhóm hệ mặt trời riêng của chúng ta. Loạt này bao hàm chòm Pleiades. Sự kiện này sẽ không được biết cho đến thập niên cuối của thế kỷ hiện tại, và sẽ không được khoa học thừa nhận cho đến khi những tuyến tri thức và khám phá nhất định đưa các nhà khoa học đến chỗ nhận ra rằng có một loại điện thứ ba, loại này luôn cân bằng và tạo thành đỉnh của tam giác. Nhưng thời điểm ấy chưa đến. |
|
All that is here said is expressed in terms of deva groups and deva forces, which form (in their aggregate) substance responsive to analogous vibration. This is occultly expressed under certain definite names. It is possible, therefore, to transmit safely information of a character incomprehensible to the profane in such a phrase, for instance, as: “The triangle of… of… and of Group… of the Agnisuryans formed itself, and in the turning of the Wheel produced the third.” This conveys to the mind of the occultist the knowledge [665] that in the flow of force from a particular constellation, outside our system altogether, through a particular planetary scheme, and thus through the astral body of a planetary Logos, a condition was brought about which produced the appearance of the third kingdom in nature, the sentient conscious animal kingdom. Some such similar phrase embodies also the deva connection with man’s individualization, but it profits not to pass it on; the above is only quoted in order to do three things: |
Mọi điều được nói ở đây đều được diễn đạt bằng thuật ngữ các nhóm thiên thần và các lực thiên thần, vốn (trong tổng thể của mình) tạo thành chất liệu đáp ứng với rung động tương ứng. Điều này được diễn tả một cách huyền bí bằng những danh xưng nhất định. Do đó có thể truyền đạt một cách an toàn những thông tin có tính chất không thể lĩnh hội đối với phàm phu trong một cụm từ như: “Tam giác của… của… và của Nhóm… của các Agnisuryans đã tự hình thành, và trong sự quay của Bánh Xe đã sản sinh ra cái thứ ba.” Điều này chuyển tải vào tâm trí của nhà huyền bí học tri thức [665] rằng trong dòng chảy của mãnh lực từ một chòm sao đặc thù, hoàn toàn ở bên ngoài hệ của chúng ta, xuyên qua một hệ hành tinh nào đó, và như thế xuyên qua thể cảm dục của một Hành Tinh Thượng đế, một điều kiện đã được tạo ra, điều kiện ấy đã đưa đến sự xuất hiện của giới thứ ba trong thiên nhiên, tức giới động vật có cảm thức tự thức. Một cụm từ tương tự nào đó cũng bao hàm mối liên hệ thiên thần với sự biệt ngã hóa của con người, nhưng không có lợi gì khi truyền nó đi; điều trên chỉ được dẫn ra để làm ba việc: |
|
1. Demonstrate somewhat the nature and extent of the forces flowing through our system. |
Phần nào cho thấy bản chất và tầm mức của các lực đang tuôn chảy qua hệ của chúng ta. |
|
2. Show the close connection we have with the deva evolution. |
Chỉ ra mối liên hệ mật thiết mà chúng ta có với tiến hoá thiên thần. |
|
3. Emphasize the triangular nature and interrelation of all that eventuates. |
Nhấn mạnh bản chất tam giác và sự tương liên của mọi điều xảy nghiệm. |
|
It might be advisable here to bring out a point in connection with the devas of the lower planes (those with whom man is peculiarly connected). They can be divided into certain groups, indicating their place in the scale of consciousness. Perhaps the question may here be asked why we are dealing only with those deva groups which are to be found in the three worlds. Occultly understood, these devas (of the type we are considering) are only found in the dense physical body of the Logos—being the substance of the lower three subplanes of the cosmic physical. The old Commentary says as follows: |
Có lẽ nên nêu ra ở đây một điểm liên hệ đến các thiên thần của các cõi thấp (những vị mà con người có liên hệ đặc thù). Họ có thể được chia thành những nhóm nhất định, cho biết vị trí của họ trên thang bậc tâm thức. Ở đây có thể có người hỏi tại sao chúng ta chỉ đề cập đến những nhóm thiên thần được tìm thấy trong ba cõi. Hiểu theo huyền bí, các thiên thần này (thuộc loại chúng ta đang xét) chỉ được tìm thấy trong thể xác đậm đặc của Thượng đế—vì họ là chất liệu của ba cõi phụ thấp của cõi hồng trần vũ trụ. Cổ Luận nói như sau: |
|
“The spheres of fire seek location upon the lower three. They originate by medium of the fifth, yet merge upon the planes of yoga. When the fiery essences permeate all, then there is no more the fifth nor sixth, nor seventh, but only the three shining by medium of the fourth.” |
“Các quả cầu lửa tìm nơi an vị trên ba cõi thấp. Chúng phát sinh nhờ trung giới của cõi thứ năm, song hoà vào trên các cõi của yoga. Khi các tinh chất lửa thấm nhuần mọi nơi, bấy giờ không còn năm, sáu, hay bảy nữa, mà chỉ có ba, chiếu sáng nhờ trung giới của cõi thứ tư.” |
|
Therefore, for the purposes of our present study, the devas are only to be found in the three worlds. Beyond those three planes we have the three aspects of [666] the major three manifesting through the fourth; we have consequently the spheres of the planetary Logoi upon the plane of buddhi. They synthesize all that has been developing through the denser manifestation. From the standpoint of the esoteric philosophy, the cosmic physical plane on which our entire solar system has its place must be studied in a dual manner: |
Vậy nên, cho mục đích khảo cứu hiện tại của chúng ta, các thiên thần chỉ được tìm thấy trong ba cõi. Bên ngoài ba cõi ấy, chúng ta có ba Phương diện [666] lớn biểu lộ qua cõi thứ tư; do đó chúng ta có các quả cầu của các Hành Tinh Thượng đế trên cõi Bồ đề. Các Ngài tổng hợp mọi điều đã và đang được phát triển qua biểu lộ đậm đặc. Từ quan điểm của Minh Triết, cõi hồng trần vũ trụ, nơi toàn bộ hệ mặt trời của chúng ta an vị, phải được khảo cứu theo hai cách: |
|
1. From the point of view of the Heavenly Men, covering the evolutions of the four higher planes, or the etheric levels. Of these we can know practically nothing until after initiation, at which time the consciousness of the human being is transferred gradually on to the cosmic etheric planes. |
Từ điểm nhìn của các Đấng Thiên Nhân, bao quát các tiến hoá của bốn cõi cao hơn, hay các tầng dĩ thái. Về những điều này, chúng ta hầu như không thể biết gì cho đến sau khi được điểm đạo, khi đó tâm thức của con người được chuyển dần sang các cõi dĩ thái vũ trụ. |
|
2. From the standpoint of the human being in the three worlds. Man is the consummating evolution in the three worlds, just as the Heavenly Men are in the higher four. |
Từ quan điểm của con người trong ba cõi. Con người là tiến hoá viên mãn trong ba cõi, cũng như các Đấng Thiên Nhân là trong bốn cõi cao hơn. |
|
In the three worlds, we have the parallel evolutions—deva and human in their many varying grades—the human naturally concerning us the most intimately, though the two evolve through interaction with each other. In the higher four worlds, we have this duality viewed as a unity, and the aspect of the synthetic evolution of the Heavenly Men is the one considered. It would interest us much could we but understand a little of the point of view of those great devas Who cooperate intelligently in the plan of evolution. They have Their own method of expressing these ideas, the medium being color which can be heard, and sound which can be seen. Man reverses the process and sees colors and hears sounds. A hint lies here as to the necessity for symbols, for they are signs which convey cosmic truths, and instruction, and can be comprehended alike by the evolved of both evolutions. It should be borne in mind, as earlier pointed out, that: [667] |
Trong ba cõi, chúng ta có các tiến hoá song hành—thiên thần và nhân loại trong các cấp bậc hết sức đa dạng—trong đó nhân loại tự nhiên là điều hệ trọng đối với chúng ta hơn cả, mặc dù cả hai cùng tiến hoá qua sự tương tác với nhau. Trong bốn cõi cao hơn, nhị nguyên này được nhìn như một nhất thể, và phương diện tiến hoá tổng hợp của các Đấng Thiên Nhân là phương diện được khảo cứu. Sẽ rất thú vị nếu chúng ta có thể hiểu đôi chút quan điểm của các đại thiên thần Vĩ đại, Những Đấng hợp tác một cách thông tuệ trong thiên cơ tiến hoá. Các Ngài có phương pháp riêng để biểu đạt những ý tưởng này, với phương tiện là màu sắc có thể được nghe, và âm thanh có thể được thấy. Con người thì đảo ngược quá trình, và nhìn thấy màu sắc, nghe âm thanh. Ẩn ý nằm ở đây về sự cần thiết của các biểu tượng, vì chúng là những dấu hiệu chuyển tải các chân lý vũ trụ, và lời chỉ giáo, và có thể được thấu lĩnh như nhau bởi những bậc tiến hoá của cả hai tiến hoá. Cần ghi nhớ, như đã chỉ ra trước đó, rằng: [667] |
|
a. Man is demonstrating the aspects of divinity. The devas are demonstrating the attributes of divinity. |
Con người đang biểu lộ các Phương diện của thiên tính. Các thiên thần đang biểu lộ các thuộc tính của thiên tính. |
|
b. Man is evolving the inner vision and must learn to see. |
Con người đang tiến hoá thị kiến nội tâm và phải học thấy. |
|
c. The devas are evolving the inner hearing and must learn to hear. |
Các thiên thần đang tiến hoá thính giác nội tâm và phải học nghe. |
|
d. Both are as yet imperfect, and an imperfect world is the result. |
Cả hai đều còn bất toàn, và một thế giới bất toàn là kết quả. |
|
e. Man is evolving by means of contact and experience. He expands. |
Con người tiến hoá bằng phương tiện tiếp xúc và kinh nghiệm. Y mở rộng. |
|
f. The devas evolve by means of the lessening of contact. Limitation is the law for them. |
Các thiên thần tiến hoá bằng phương tiện giảm dần tiếp xúc. Giới hạn là định luật đối với họ. |
|
g. Man aims at self-control. |
Con người nhắm đến tự chủ. |
|
h. Devas must develop by being controlled. |
Thiên thần phải phát triển bằng cách được kiểm soát. |
|
i. Man is innately Love—the Force which produces coherency. |
Con người bẩm sinh là Tình thương—Mãnh lực tạo nên sự kết tụ. |
|
j. The devas are innately intelligence,—the force which produces activity. |
Các thiên thần bẩm sinh là thông tuệ,—mãnh lực tạo nên hoạt động. |
|
k. The third type of force, that of Will, the balancing equilibrium of electrical phenomena, has to play equally upon and through both evolutions, but in the one it demonstrates as self-consciousness, and in the other as constructive vibration. |
Loại mãnh lực thứ ba, tức Ý chí, sự quân bình cân xứng của các hiện tượng điện, phải tác động đồng đều lên và xuyên qua cả hai tiến hoá, nhưng ở bên này nó biểu lộ như tự ý thức, còn ở bên kia như rung động kiến tạo. |
|
In the Heavenly Man these two great aspects of divinity are equally blended, and in the course of the mahamanvantara the imperfect Gods become perfect. These broad and general distinctions are pointed out as they throw light upon the relationship of Man to the devas. |
Trong Đấng Thiên Nhân, hai Phương diện vĩ đại của thiên tính này được hòa quyện đồng đều, và trong suốt Đại giai kỳ sinh hóa, các Vị Thần bất toàn trở nên toàn hảo. Những phân biệt tổng quát rộng lớn này được chỉ ra vì chúng soi sáng mối liên hệ của Con người với các thiên thần. |
[Commentary S6S8-2] |
|
|
The devas of the physical plane, though divided into the three groups A, B, C, are under another grouping spoken of as “the Devas of the Seventh Order.” The seventh order is peculiarly linked to the devas of the first order on the first plane. They are the reflectors of the mind of God of which the first order is the expression, and manifest it as it has worked through from the [668] archetypal plane. This seventh order of devas is directly under the influence of the seventh Ray, and the planetary Logos of that Ray works in close cooperation with the Raja-Lord of the seventh plane. As the goal of evolution for the devas is the inner hearing, it will be apparent why mantric sounds and balanced modulations are the method of contacting them, and of producing varying phenomena. This seventh order of devas is the one with which the workers on the left hand path are concerned, working through vampirism and the devitalization of their victims. They deal with the etheric bodies of their enemies, and by means of sounds affect deva substance, thus producing the desired results. The white Magician does not work on the physical plane with physical substance. He transfers His activities to a higher level, and hence deals with desires and motives. He works through the devas of the sixth order. |
Các thiên thần ở cõi hồng trần, tuy được chia thành ba nhóm A, B, C, nhưng thuộc một phân nhóm khác được gọi là “các Thiên thần của Thứ tự Thứ bảy.” Thứ tự thứ bảy có liên kết đặc biệt với các thiên thần của thứ tự thứ nhất trên cõi thứ nhất. Họ là những tấm gương phản chiếu Tâm trí của Thượng đế mà thứ tự thứ nhất là sự biểu đạt, và biểu lộ nó như nó đã tác động xuyên suốt từ [668] cõi nguyên mẫu. Thứ tự thứ bảy này của thiên thần trực tiếp dưới ảnh hưởng của cung bảy, và Hành Tinh Thượng đế của Cung ấy làm việc trong sự hợp tác mật thiết với Đấng Raja-Chúa Tể của cõi thứ bảy. Vì mục tiêu tiến hoá của thiên thần là thính giác nội tâm, sẽ rõ vì sao các âm mantram và các điều biến quân bình là phương pháp để tiếp xúc với họ, và để tạo ra các hiện tượng khác nhau. Thứ tự thứ bảy này là nhóm mà những người trên đường tà đạo quan tâm, làm việc qua thuật hút sinh lực và làm suy kiệt sinh lực nạn nhân của họ. Họ xử lý các thể dĩ thái của kẻ thù, và bằng các âm thanh tác động đến chất liệu thiên thần, nhờ đó tạo ra kết quả mong muốn. Nhà Chánh Thuật không làm việc ở cõi hồng trần với chất liệu hồng trần. Ngài chuyển các hoạt động của Ngài lên một cấp cao hơn, và do đó xử lý các dục vọng và động cơ. Ngài làm việc qua các thiên thần của thứ tự thứ sáu. |
|
The devas of the sixth order are those of the astral plane, and are the devas who have the most to do with the forces which produce the phenomena we call love, sex impulse, instinct, or the driving urge and motive which demonstrates later on the physical plane in activity of some kind. The positive vibration set up on the astral plane produces results on the physical and that is why the White Brother, if He works with the devas at all, works only on the astral plane and with the positive aspect. |
Các thiên thần của thứ tự thứ sáu là những vị thuộc cõi cảm dục, và là các thiên thần liên hệ nhiều nhất đến những lực sản sinh các hiện tượng mà chúng ta gọi là tình thương, xung lực tính giao, bản năng, hay động lực thúc đẩy và động cơ vốn về sau biểu lộ ở cõi hồng trần như một hoạt động nào đó. Rung động dương tính được thiết lập trên cõi cảm dục tạo ra kết quả ở cõi hồng trần, và đó là lý do tại sao vị Huynh Đệ Trắng, nếu Ngài có làm việc với các thiên thần, thì chỉ làm việc trên cõi cảm dục và với khía cạnh dương tính. |
|
These devas of the sixth order, as might be expected, are closely linked with those of the second order on the monadic plane, and with the heart center of the particular Heavenly Man on Whose Ray they may be found. They are allied too to the deva forces on the buddhic plane and in these three great orders of devas we have a powerful triangle of electrical force,—the three types of electricity which are met with in occult books. It should be borne in mind that the equilibrizing [669] type of force (at present an unknown type) flows in from the buddhic plane at this time, and the apex of the triangle is there. |
Những thiên thần của thứ tự thứ sáu này, như có thể dự liệu, liên kết chặt chẽ với các vị thuộc thứ tự thứ hai trên cõi chân thần, và với trung tâm tim của Đấng Thiên Nhân đặc thù trên Cung của Ngài họ có thể được tìm thấy. Họ cũng liên đới với các lực thiên thần trên cõi Bồ đề và trong ba thứ tự vĩ đại này của thiên thần, chúng ta có một tam giác mãnh lực điện hùng mạnh,—ba loại điện được gặp trong các sách huyền bí. Cần ghi nhớ rằng loại mãnh lực [669] quân bình (hiện nay là một loại chưa được biết) đang chảy vào từ cõi Bồ đề vào thời kỳ này, và đỉnh của tam giác ở đó. |
|
These three orders are (in this solar system) the most potent, especially in this fourth round. They influence particularly the fourth kingdom of nature, and are the basis of that search for balance, of that aspiration towards harmony, union and yoga which distinguishes man in all grades; it shows in its lower manifestation as the sex instinct as we know it, and in its higher as longing for union with God. |
Ba thứ tự này (trong hệ mặt trời này) là hùng mạnh nhất, đặc biệt trong cuộc tuần hoàn thứ tư. Chúng ảnh hưởng đặc biệt đến giới thứ tư trong thiên nhiên, và là nền tảng của cuộc tìm kiếm quân bình, của khát vọng hướng tới hòa điệu, hợp nhất và yoga vốn đặc trưng con người ở mọi tầng cấp; điều này biểu lộ trong biểu hiện thấp của nó như bản năng tính giao như chúng ta biết, và trong biểu hiện cao như khát vọng hợp nhất với Thượng đế. |
|
These devas of the sixth order come under the special influence of the Lord of the sixth Ray of Abstract Idealism, and it is their connection with Him which facilitates the working through of the archetypal idea on to the physical plane. The sixth Creative Hierarchy likewise is specially connected with this particular order of devas, and through this dual influence is produced that physical manifestation which is definitely objective,—one type of force working through the etheric manifestation, and the other through the dense physical. |
Các thiên thần của thứ tự thứ sáu này chịu sự ảnh hưởng đặc biệt của Đấng Chúa Tể Cung sáu của Lý tưởng Trừu tượng, và chính mối liên hệ của họ với Ngài khiến cho ý niệm nguyên mẫu có thể hoạt động xuyên xuống cõi hồng trần. Huyền Giai Sáng Tạo thứ sáu cũng được kết nối đặc biệt với thứ tự thiên thần này, và nhờ ảnh hưởng kép này mà sinh ra biểu hiện hồng trần vốn đích thị là khách quan,—một loại mãnh lực hoạt động qua biểu lộ dĩ thái, và loại kia qua phần đậm đặc hồng trần. |
|
This will as yet prove an insoluble mystery to the student, but in the significance of numbers much can be discovered. This angle of the matter should be studied in order to bring out the true meaning of this sixth order of devas, whose symbol is the six-pointed Star set at a particular angle and in full manifestation. The six-pointed star is the sign that a “Son of Necessity” [670] (no matter whether God or man) has sought physical incarnation. The devas of the sixth order, the Agnisuryans, are a prime factor in bringing this about. In the sixth round these devas will begin to make their presence felt more and more potently, but the strength of their vibration will be very gradually turned upwards, and not downwards into the physical plane. This will involve the transmutation of desire into aspiration, and will produce eventually the liberation of the planetary Logos, and bring a manvantara (or His cycle of physical incarnation) to a close. Withdrawal of the force of desire results likewise in the cessation of man’s physical existence. The old Commentary expresses this truth in the following words: |
Điều này hiện giờ vẫn sẽ là một mầu nhiệm không giải được đối với đạo sinh, nhưng trong ý nghĩa của các con số có thể khám phá được nhiều điều. Góc độ này của vấn đề nên được khảo sát để làm sáng tỏ ý nghĩa chân thật của thứ tự thiên thần thứ sáu, có biểu tượng là Ngôi sao sáu cánh được đặt ở một góc độ đặc thù và trong sự biểu hiện viên mãn. Ngôi sao sáu cánh là dấu hiệu rằng một “Đứa Con của Tất yếu” [670] (bất kể là Thượng đế hay con người) đã tìm kiếm sự nhập thể hồng trần. Các thiên thần của thứ tự thứ sáu, tức các Agnisuryans, là yếu tố chủ đạo mang điều này đến. Trong cuộc tuần hoàn thứ sáu, những thiên thần này sẽ bắt đầu làm cho sự hiện diện của mình được cảm nhận mạnh mẽ hơn nữa, nhưng sức mạnh rung động của họ sẽ được chuyển rất từ tốn lên trên, chứ không dồn xuống cõi hồng trần. Điều này sẽ kéo theo sự chuyển hoá dục vọng thành khát vọng, và rốt cuộc sẽ dẫn đến sự giải thoát của Hành Tinh Thượng đế, và khép lại một giai kỳ sinh hóa (hay chu kỳ nhập thể hồng trần của Ngài). Sự rút lui của mãnh lực dục vọng cũng dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại hồng trần của con người. Cổ Luận diễn đạt chân lý này bằng những lời sau: |
|
“The Sixth retire within themselves; they turn towards the Fifth, leaving the Seventh alone.” |
“Thứ Sáu thu lui vào tự thân; họ hướng về Thứ Năm, bỏ mặc Thứ Bảy đơn độc.” |
|
In continuing our consideration of these deva orders, it should be pointed out that these three lower deva orders—the lower fifth, the sixth and the seventh—have a close connection with the moon. They are the building agents which (working on the involutionary matter of the three worlds) construct the lower three bodies of incarnating man. They are a branch of the lunar Pitris, but the fact should be remembered that this particular branch of pitris are those functioning in our particular scheme, and are closely allied to our planetary Logos. Groups of these Pitris are found wherever man is in incarnation in all the schemes, but in other schemes they differ somewhat from ours, as the “Mystery of the Moon” is connected with a peculiar esoteric condition which concerns our own planetary Logos. |
Khi tiếp tục khảo xét các thứ tự thiên thần này, cần chỉ ra rằng ba thứ tự thiên thần thấp—thứ tự hạ ngũ, thứ sáu và thứ bảy—có mối liên hệ mật thiết với Mặt Trăng. Họ là các tác nhân kiến tạo, vốn (làm việc trên chất liệu giáng hạ tiến hoá của ba cõi) kiến tạo ba thể thấp của con người đang lâm phàm. Họ là một chi nhánh của các thái âm tổ phụ, nhưng cần ghi nhớ rằng chi nhánh pitri đặc thù này là những vị hoạt động trong hệ của chúng ta, và liên đới mật thiết với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. Các nhóm Pitri như vậy được tìm thấy ở bất cứ nơi đâu con người đang lâm phàm trong mọi hệ, nhưng ở các hệ khác, họ có phần nào khác với chúng ta, vì “Huyền Nhiệm của Mặt Trăng” gắn liền với một tình trạng nội môn đặc thù liên hệ đến chính Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. |
|
Wherever man is in incarnation, the Builders of his bodies are to be found but they will differ in: |
Ở bất cứ nơi đâu con người đang lâm phàm, các Đấng Kiến Tạo thể của y đều có mặt, nhưng họ sẽ khác nhau về: |
|
a. Their rate of vibration. |
Tần số rung động của họ. |
|
b. Their stage of development. [671] |
Trình độ phát triển của họ. [671] |
|
c. Consciousness. |
Tâm thức. |
|
d. Fohatic, magnetic and dynamic force. |
Mãnh lực Fohatic, từ tính và động lực. |
|
It should be remembered also that each round sees the deva substance or the deva evolution changing; they also evolve and, therefore, the subject of the devas in their dual aspect as the negative and positive substance which produces objectivity must be studied in a threefold manner if a true idea is to be approximated. Therefore, the devas—who are the sumtotal of substance—must be considered from: |
Cũng cần nhớ rằng mỗi cuộc tuần hoàn đều thấy chất liệu thiên thần hay tiến hoá thiên thần thay đổi; họ cũng tiến hoá, và vì thế, đề tài về các thiên thần trong nhị phương diện của họ như chất liệu âm và dương tạo ra khách quan tính phải được khảo cứu theo cách thức tam phân nếu muốn tiệm cận một quan niệm đúng. Vậy nên, các thiên thần—vốn là tổng số của chất liệu—phải được xét từ: |
|
– The standpoint of round development. |
Quan điểm của sự phát triển theo cuộc tuần hoàn. |
|
– The standpoint of any particular planetary Logos as they form His body of manifestation, a scheme. |
Quan điểm của bất kỳ một Hành Tinh Thượng đế đặc thù nào vì họ cấu thành thể biểu lộ của Ngài, tức một hệ hành tinh. |
|
– The standpoint of the human kingdom. |
Quan điểm của giới nhân loại. |
|
When this is not done, a wrong and narrow idea is the result. In future time, as may be seen from a study of the Secret Doctrine, (See S. D., I, 288; II, 179, 187.) the Logos in His septenary Nature will be seen as the Macrocosm for Man, whilst the Microcosm, Man himself, will be seen also as the Macrocosm for the three lower kingdoms. This is simply one way of studying the evolution of the conscious Entity—God, Man, or lesser life—by means of deva substance; it involves the study of the positive and negative interaction. As says the old Commentary again: |
Khi điều này không được thực hiện, kết quả sẽ là một ý niệm sai và hẹp hòi. Về thời tương lai, như có thể thấy từ việc khảo cứu Giáo Lý Bí Nhiệm, (Xem S. D., I, 288; II, 179, 187.) Thượng đế trong Bản Tính Thất phân của Ngài sẽ được nhìn như Đại thiên địa đối với Con người, trong khi Tiểu thiên địa, chính Con người, cũng sẽ được nhìn như Đại thiên địa đối với ba giới thấp. Đây đơn giản là một phương cách để khảo cứu tiến hoá của Hữu Thể có ý thức—Thượng đế, Con người, hay sự sống nhỏ hơn—thông qua chất liệu thiên thần; nó bao hàm việc khảo cứu sự tương tác giữa dương và âm. Như Cổ Luận lại nói: |
|
“When Father approaches Mother, that which will be taketh form. The union of the two concealeth the true mystery of Being. |
“Khi Cha đến gần Mẹ, điều sẽ là bèn kết thành hình. Sự hợp nhất của hai vị che khuất mầu nhiệm chân thật của Hiện Hữu. |
|
When the two great devas seek each other, when they meet and merge, the promise of life is fulfiled. |
Khi hai đại thiên thần tìm nhau, khi họ gặp và hoà nhập, lời hứa của sự sống được viên mãn. |
|
When the one who sees and knows stands midway between his parents, then can be seen the fruition of knowledge, and all is known upon the planes of consciousness. |
Khi kẻ thấy và biết đứng ở nơi giữa cha mẹ mình, bấy giờ có thể thấy được hoa trái của tri thức, và mọi sự đều được biết trên các cõi của tâm thức. |
|
When Anu, the infinitesimal, is seen to contain Ishvara in His potency, when the lesser spheres and cycles expand into the [672] circle of the Heavens, then shall the essential Unity be cognized and manifested fully. |
Khi Anu, cái tiểu vi trần, được thấy là chứa Ishvara trong tiềm năng của Ngài, khi các quả cầu và chu kỳ nhỏ hơn mở rộng vào [672] vòng tròn của các Thiên Cầu, bấy giờ Tính Đồng Nhất cốt yếu sẽ được nhận thức và biểu lộ trọn vẹn. |
|
When the One that holds the life becomes the three behind which that life is hidden; when the three by revolution become the seven and the ten; when the thirty million crores of deva lives repeat the revolution; when the central point is reached and reveals the three, the nine, and the inner blazing JEWEL, then is the circle of manifestation consummated, and the One again becomes the ten, the seven, the three and the point.” |
Khi Đấng ôm giữ sự sống trở thành bộ ba mà sau nó sự sống ẩn giấu; khi bộ ba do vòng chuyển biến thành bảy và mười; khi ba mươi triệu krores sự sống thiên thần lặp vòng chuyển biến; khi điểm trung tâm được chạm đến và hiển lộ bộ ba, bộ chín, và VIÊN NGỌC rực cháy bên trong, bấy giờ vòng tròn của sự biểu lộ được hoàn tất, và Đấng Duy Nhất lại trở thành mười, bảy, ba và điểm.” |
|
Herein lies the key to the mystic marriage, and to the student of occultism much may be revealed through the study of these pairs of opposites; it will cause the revelation of the process (in time and space) whereby this union and its fruit is consummated, and the resultant creation of the divine Hermaphrodite is seen upon His Own high plane. |
Ở đây nằm chìa khoá của “mystic marriage” (hôn phối huyền diệu), và đối với đạo sinh huyền bí học, nhiều điều có thể được khai mở qua việc khảo cứu các cặp đối đãi này; điều đó sẽ đưa đến sự hiển lộ tiến trình (trong thời gian và không gian) mà qua đó sự hợp nhất này và hoa trái của nó được viên mãn, và sự tạo tác kết quả là Đấng Lưỡng tính Thiêng liêng được thấy trên Chính cõi cao của Ngài. |
|
We must ever keep clearly in mind that we are dealing in this section with the evolutionary devas who are the positive Life animating involutionary matter or deva substance. Consequently, the correspondence of the mystic marriage of Spirit and matter can be seen working out also in deva substance itself, through the interaction of negative and positive deva lives. Substance itself represents essential duality; forms repeat the same duality, and when we arrive at man himself again, we have duality plus a third factor. These three orders of deva substance—the lower fifth, the sixth and seventh—are a very mysterious group as far as man is concerned. 17 [673] |
Chúng ta phải luôn minh bạch rằng trong phần này, chúng ta đang đề cập đến các thiên thần tiến hoá, là Sự Sống dương tính hoạt hoá chất liệu giáng hạ tiến hoá hay chất liệu thiên thần. Do đó, sự tương ứng của “mystic marriage” giữa Thần linh và vật chất cũng có thể thấy đang tác động ngay trong chất liệu thiên thần, qua sự tương tác giữa các sự sống thiên thần âm và dương. Bản thân chất liệu vốn biểu tượng cho nhị nguyên tính cốt yếu; các hình tướng lặp lại cùng nhị nguyên tính ấy, và khi đi đến chính con người một lần nữa, chúng ta có nhị nguyên tính cộng thêm một yếu tố thứ ba. Ba thứ tự chất liệu thiên thần này—hạ ngũ, thứ sáu và thứ bảy—là một nhóm rất huyền bí đối với con người. 17 [673] |
|
17 Sankaracharya and Buddha. The great sage Sankaracharya who is known to us all as the leading head of the adwaitic movement that was set on foot subsequent to the time of the equally great Sage known as Gautama Buddha, the head of the doctrine of Buddhi or Buddhism. Both are great Masters of compassion and may be conceived as the two hemispheres of the burning globe of light that is placed on the central mental mount to impart light to the East and the West. The two great Masters are mystically connected, if you will listen to H. P. B., and to understand the natures of these two beings is to understand the nature of the entire cosmos divisible as two hemispheres, the one being the land of the sunrise of thought eternal and the other being “the Pillar to the West upon whose face the rising sun of thought eternal poureth forth its most glorious waves.” They are representatives for us (the poor children of the dust of the ground) of the two great powers known in the Puranas as Shiva and Vishnu, the universal sower and reaper, who by their interaction are said to support the universe of progress.—Some Thoughts on the Gita, pp. 92-3. |
17 Sankaracharya và Đức Phật. Đại hiền giả Sankaracharya, người mà tất cả chúng ta đều biết là lãnh đạo phong trào bất nhị được khởi xướng sau thời của một Vị Đại Hiền Giả ngang hàng, tức Gautama Buddha, vị đứng đầu giáo pháp của Bồ đề hay Phật giáo. Cả hai đều là các Đại Sư của từ bi và có thể được quan niệm như hai bán cầu của quả cầu lửa đang bốc cháy được đặt trên đỉnh núi trí để chiếu sáng phương Đông và phương Tây. Hai Đại Sư này được nối kết một cách huyền nhiệm, nếu bạn chịu lắng nghe H. P. B., và hiểu bản tánh của hai vị này là hiểu bản tánh của toàn vũ trụ, có thể phân đôi như hai bán cầu, cái này là miền bình minh của tư tưởng vĩnh cửu, cái kia là “Trụ Cột phương Tây, trên gương mặt của nó mặt trời mọc của tư tưởng vĩnh cửu tuôn đổ những làn sóng huy hoàng nhất.” Đối với chúng ta (những đứa con tội nghiệp của bụi đất) họ là đại diện của hai đại quyền năng được biết trong Puranas như Shiva và Vishnu, Đấng gieo và gặt phổ quát, mà bởi sự tương tác của các Ngài được nói là nâng đỡ vũ trụ của tiến bộ.—Một vài suy tư về Gita, tr. 92-3. |
|
They have scarcely been hinted at as yet in occult literature, but they contain within themselves the secret of our planetary individualization. They were the group which had much to do with the “sin of the mindless,” and are very closely associated with animal man. To the power and control which these pitris assumed must be ascribed much of the disastrous early happenings referred to in the Secret Doctrine, such as the above mentioned “sin,” and also the early “failures” in building suitable vehicles for Spirits seeking incarnation. Here also may be found the beginnings of that mysterious divergence which we call the “left and right hand paths,” which conditions (existing within the body logoic and consequently being part of the divine consciousness) originated in the remote “space of time,” when the sons of God were seeking form. It has to do with a special condition in the astral body of our planetary Logos, and with His history as it lies hidden in the astral light. |
Họ hầu như chưa được gợi nhắc trong văn học nội môn, nhưng trong họ chứa đựng bí mật về sự biệt ngã hóa hành tinh của chúng ta. Họ là nhóm có can dự nhiều đến “tội lỗi của kẻ vô trí,” và liên hệ rất mật thiết với người thú. Phải qui cho quyền lực và sự kiểm soát mà các pitri này đảm nhận phần lớn những biến cố tai hại thời sơ kỳ được nói đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm, như “tội lỗi” vừa nêu, và cả những “thất bại” buổi đầu trong việc kiến tạo các vận cụ thích đáng cho các Thần Linh tìm kiếm nhập thể. Ở đây nữa có thể tìm thấy khởi nguyên của sự phân ly huyền bí mà chúng ta gọi là “tả đạo và hữu đạo”, những tình trạng (tồn tại trong thân thể của Thượng đế và do đó là một phần của tâm thức thiêng liêng) khởi nguyên trong “quãng không gian của thời gian” xa xôi, khi các Con của Thượng đế đang tìm kiếm hình tướng. Điều này liên quan đến một tình trạng đặc thù trong thể cảm dục của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, và đến lịch sử của Ngài như nó được ẩn giấu trong quang ảnh cảm dục. |
|
It concerns that which He has to surmount and many of the problems which face the occultist, including the “sin of the mindless,” the failure in Atlantean days, and even that mysterious “failure” of the Buddha (which has a planetary significance only hinted at in the Secret Doctrine) 18 can be traced back to the condition of the deva substance of which the astral body of our planet, and the astral bodies of all forms are formed. Our planetary Logos is one of the Lords spoken of as being a lesser lord, and more “full of passion” than the higher three. Not even yet is His work completed, and deva [674] substance in its various living orders is not yet brought fully under His control. The deva evolution has far to travel. |
Nó liên quan đến điều mà Ngài phải vượt thắng, và nhiều vấn đề đối diện nhà huyền bí học, bao gồm “tội lỗi của kẻ vô trí,” thất bại trong thời Atlantis, và thậm chí cái “thất bại” huyền bí của Đức Phật (vốn chỉ có ý nghĩa hành tinh, chỉ được gợi ý thoáng qua trong Giáo Lý Bí Nhiệm ) 18 đều có thể lần ngược về tình trạng của chất liệu thiên thần cấu thành thể cảm dục của hành tinh chúng ta, và của các thể cảm dục của mọi hình tướng. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta là một trong các Vị Chúa được nói đến như một vị Chúa thấp hơn, và “đầy dục vọng” hơn ba Vị cao hơn. Công trình của Ngài vẫn chưa hoàn tất, và chất liệu thiên thần [674] trong các trật tự sống đa dạng của nó vẫn chưa được đưa hoàn toàn dưới sự kiểm soát của Ngài. Tiến hoá thiên thần còn một chặng đường dài. |
|
If this idea be extended to the solar system, it will be apparent that the astral vehicles of the different planetary Logoi differ. This difference is necessarily dependent upon Their cosmic astral life which directly affects the systemic astral, or the physical liquid subplane of the cosmic physical. This is a point but little realized. The dense physical body of the planetary Logos exists, as we know, in a threefold condition—dense, liquid, and gaseous—and each is acted upon directly from the corresponding cosmic plane. The condition of the various physical planets will some day be found to be dependent upon this fact. |
Nếu mở rộng ý niệm này ra toàn hệ mặt trời, sẽ thấy rõ rằng các thể vía của các Hành Tinh Thượng đế khác nhau cũng khác nhau. Sự khác biệt này tất yếu lệ thuộc vào đời sống cảm dục vũ trụ của Các Ngài, vốn trực tiếp ảnh hưởng đến cảm dục hệ thống, hay cõi phụ lỏng của cõi hồng trần vũ trụ. Đây là một điểm rất ít được nhận ra. Thể xác đậm đặc của Hành Tinh Thượng đế, như chúng ta biết, tồn tại trong trạng thái tam phân—đậm đặc, lỏng và khí—và mỗi trạng thái chịu tác động trực tiếp từ cõi vũ trụ tương ứng. Tình trạng của các hành tinh hồng trần khác nhau một ngày kia sẽ được thấy là lệ thuộc vào sự kiện này. |
|
When the psychic nature of the planetary Logos is understood (which knowledge is entered upon after initiation, being a part of the Wisdom) the nature of the different schemes, as regards their watery aspect, for instance, will be found to be connected with a particular astral state. As the initiate progresses in wisdom, he intuitively comprehends the essential nature of the seven groups, or of the logoic Septenate, which is that concerning their color or quality. This color or quality is dependent upon the psychic nature of any particular planetary Logos, and His emotional or desire nature can thereby be somewhat studied by the initiate. This will lead eventually to a scientific consideration of the effect of this nature upon His dense physical body, and particularly that portion of it which we call the astral plane, the liquid subplane of the cosmic physical plane. A reflection of this (or a further working out, if that term is preferred) is found in the liquid portions of the physical planet. |
Khi bản chất tâm linh (tâm thức cảm dục) của Hành Tinh Thượng đế được hiểu (kiến thức này chỉ được bước vào sau điểm đạo, vì là một phần của Minh triết) thì bản tính của các hệ khác nhau, chẳng hạn về phương diện thủy tính, sẽ được thấy là liên kết với một trạng thái cảm dục đặc thù. Khi điểm đạo đồ tiến bộ trong minh triết, y trực giác lĩnh hội bản tính cốt yếu của bảy nhóm, hay của Bộ Thất của Thượng đế, là điều liên quan đến màu sắc hay phẩm tính của họ. Màu sắc hay phẩm tính này lệ thuộc vào bản chất tâm linh của bất kỳ một Hành Tinh Thượng đế đặc thù nào, và tình cảm hay dục vọng của Ngài có thể nhờ đó được vị điểm đạo đồ khảo sát phần nào. Điều này rốt cuộc sẽ dẫn đến một khảo cứu khoa học về ảnh hưởng của bản tính ấy lên thể xác đậm đặc của Ngài, và đặc biệt là bộ phận mà chúng ta gọi là cõi cảm dục, tức cõi phụ lỏng của cõi hồng trần vũ trụ. Một phản ảnh của điều này (hay một diễn tiến xa hơn, nếu thích dùng thuật ngữ đó) được tìm thấy trong phần chất lỏng của hành tinh hồng trần. |
|
The seventh subplane of the cosmic physical plane can be subdivided into seven, which are our seven physical [675] subplanes. It is this knowledge which enables a magician to work. Given a certain physical phenomenon—such as the weight of water, for instance, upon a planet—and an initiate of the higher orders can form deductions from it as to the quality of the exalted Life manifesting through a plane. He arrives at this knowledge through a process of reasoning from the liquid (sixth) subplane of the systemic physical plane to: |
Cõi phụ thứ bảy của cõi hồng trần vũ trụ có thể được phân bảy, chính là bảy cõi phụ hồng trần của chúng ta. Chính tri thức này cho phép một nhà huyền thuật làm việc. Dựa vào một hiện tượng hồng trần nhất định—chẳng hạn như trọng lượng của nước trên một hành tinh—một điểm đạo đồ của các cấp bậc cao có thể rút ra các suy luận từ đó về phẩm tính của Sự Sống tôn cao biểu lộ qua một cõi. Y đạt đến tri thức này qua một tiến trình lý luận từ cõi phụ lỏng (thứ sáu) của cõi hồng trần hệ thống đến: |
|
a. The liquid subplane of the cosmic physical, our systemic astral plane. |
Cõi phụ lỏng của cõi hồng trần vũ trụ, tức cõi cảm dục hệ thống của chúng ta. |
|
b. The fourth cosmic ether, the buddhic plane. |
Cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư, tức cõi Bồ đề. |
|
c. The second cosmic ether, the monadic plane, or the plane of the seven Heavenly Men. |
Cõi dĩ thái vũ trụ thứ hai, tức cõi chân thần, hay cõi của bảy Đấng Thiên Nhân. |
|
d. The cosmic astral plane, thus getting in touch with the desire nature of the God. |
Cõi cảm dục vũ trụ, nhờ đó tiếp xúc với bản chất dục vọng của Thượng đế. |
|
This method naturally involves a vast knowledge of the deva substance and predicates an intuitive realization of their orders and groups, the keynotes of those orders and of the planes, and also of the triple nature of substance and a knowledge of how to work with the third type of electrical force, which is the type of energy which puts a man in touch with extra-systemic phenomena. Hence that force still remains unknown, and is only contacted as yet by high initiates. |
Phương pháp này tất nhiên bao hàm một tri thức mênh mông về chất liệu thiên thần và đặt nền trên một trực giác nhận thức các trật tự và nhóm của họ, các chủ âm của những trật tự ấy và của các cõi, đồng thời cả tri thức về bản chất tam phân của chất liệu và cách làm việc với loại mãnh lực điện thứ ba, là loại năng lượng đưa con người tiếp xúc với các hiện tượng ngoại-hệ. Bởi thế, mãnh lực ấy vẫn còn chưa được biết, và hiện mới chỉ được tiếp xúc bởi các vị đại điểm đạo. |
|
It will again be apparent why the Agnisuryans are of such supreme importance; they embody force which is a direct emanation from the cosmic astral plane and which reveals—when triply blended—the desire nature of our Heavenly Man, and of any particular planetary Logos. In the two opposites, which are called by the theologians “Heaven and Hell,” we have two of these types of force hinted at, and in this thought we have indicated one of the keys to the astral plane. |
Một lần nữa sẽ rõ vì sao các Agnisuryans lại tối hệ trọng đến thế; họ hàm chứa mãnh lực là một xuất lộ trực tiếp từ cõi cảm dục vũ trụ và—khi được hòa tam phân—tiết lộ bản chất dục vọng của Đấng Thiên Nhân của chúng ta, và của bất kỳ một Hành Tinh Thượng đế đặc thù nào. Trong hai đối cực, vốn được các nhà thần học gọi là “Thiên Đàng và Địa Ngục,” chúng ta có gợi ý về hai trong các loại mãnh lực này, và trong ý niệm đó chúng ta được chỉ cho một trong những chìa khoá của cõi cảm dục. |
|
18 The Stanzas at the beginning of Volume II of the Secret Doctrine make these failures apparent.—S. D., II, 195, 201, 721, 728. |
18 Các Khải thị ở đầu Tập II của Giáo Lý Bí Nhiệm khiến những thất bại này hiển nhiên.—S. D., II, 195, 201, 721, 728. |
|
The Failure of the Buddha. See S. D., III, 376-588. |
Sự Thất bại của Đức Phật. Xem S. D., III, 376-588. |
|
The Imperfect Gods are referred to in S. D., I, 214, 449; II, 223; III, 209. |
Các Vị Thần Bất Toàn được nói đến ở S. D., I, 214, 449; II, 223; III, 209. |
2. Summary |
2. Tóm lược |
|
Before passing to the consideration of [676] those devas who are concerned with the construction of man’s causal body, and who are the linking group between the Triad and the Quaternary, both in man and the Logos, we will briefly enumerate the principal groups of Agnisuryans on the systemic astral plane, as they, in their totality, form the body of manifestation of the great deva or Raja-Lord of the plane. |
Trước khi chuyển sang khảo cứu [676] những thiên thần liên hệ đến sự kiến tạo thể nguyên nhân của con người, và là nhóm nối kết giữa Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ Tứ, cả nơi con người lẫn nơi Thượng đế, chúng ta sẽ lược kê các nhóm chính của các Agnisuryans trên cõi cảm dục hệ thống, vì họ, trong tổng thể của mình, tạo thành thể biểu lộ của đại thiên thần hay Đấng Raja-Chúa Tể của cõi này. |
|
First. The Raja-Lord of the Plane, the great deva Varuna, Who is the central Life of the substance of the astral plane of our planetary scheme. He is Himself an outpost of the consciousness of that greater Deva Who embodies the substance of the solar astral plane, or the sixth subplane of the cosmic physical plane. He again in His turn reflects His prototype, that great cosmic Entity Who ensouls the cosmic astral plane. |
Thứ nhất. Đấng Raja-Chúa Tể của Cõi, đại thiên thần Varuna, Đấng là Sự Sống trung tâm của chất liệu của cõi cảm dục thuộc hệ hành tinh của chúng ta. Tự thân Ngài là một tiền đồn của tâm thức của vị Đại Thiên Thần tổng nhiếp chất liệu của cõi cảm dục thái dương, hay cõi phụ thứ sáu của cõi hồng trần vũ trụ. Lại nữa, Ngài phản chiếu nguyên mẫu của Ngài, tức Đại Hữu thể vũ trụ bao linh cõi cảm dục vũ trụ. |
|
Second. Seven great Devas, who are the positive force of each of the seven subplanes of the systemic astral plane. |
Thứ hai. Bảy Đại Thiên Thần, là lực dương tính của mỗi cõi phụ trong bảy cõi phụ của cõi cảm dục hệ thống. |
|
Third. Various groups of devas, performing different functions carrying out varying activities, and producing constructive results. They might be enumerated as follows, bearing in mind the fact that we are but touching upon a few of the many groups, and that there are numbers whose name is utterly unknown to man and would be unintelligible if mentioned: |
Thứ ba. Nhiều nhóm thiên thần, đảm nhiệm các chức năng khác nhau, tiến hành các hoạt động khác nhau, và tạo ra các kết quả kiến tạo. Họ có thể được lược kê như sau, nhớ rằng chúng ta chỉ chạm đến một ít trong vô số các nhóm, và có nhiều nhóm mà tên gọi hoàn toàn không được biết bởi con người và sẽ vô nghĩa nếu được nêu ra: |
|
1. Those devas who form the permanent atomic substance of all the Monads, both in and out of physical incarnation. They are divided into seven groups according to the Ray of the Monad. |
Những thiên thần tạo nên chất liệu nguyên tử trường tồn của tất cả các Chân thần, cả đang và không đang nhập thể hồng trần. Họ được chia làm bảy nhóm theo Cung của Chân thần. |
|
2. Those devas who form the “liquid” aspect in the physical body of the planetary Logos and of the solar Logos. They are myriads in number, and include deva existences ranging all the way from those who ensoul the astral plane, and the astral currents of the highest religious and aspirational nature, to the little water [677] spirits which are reflections of such astral entities precipitated in watery physical matter. |
Những thiên thần tạo nên phương diện “lỏng” trong thể xác của Hành Tinh Thượng đế và của Thái dương Thượng đế. Họ nhiều vô số kể, và bao gồm các hiện thể thiên thần trải từ những vị hàm linh cõi cảm dục, và các luồng cảm dục của bản chất tôn giáo và chí nguyện cao nhất, đến các tiểu [677] thuỷ linh là các phản ảnh của những thực thể cảm dục như thế được ngưng kết trong vật chất nước hồng trần. |
|
3. A group of devas, who form the desire body of that great entity who ensouls the animal kingdom. They are the total kamic manifestation (divorced from mentality) of animal desire in its incentive impulsive aspect. |
Một nhóm thiên thần tạo nên thể dục vọng của đại thực thể bao linh giới động vật. Họ là toàn bộ biểu lộ kamic (tách khỏi trí tuệ) của dục vọng thú tính trong phương diện xung năng thúc đẩy. |
|
4. Certain devas who—being of the third order—form the Heaven of the average orthodox Christian or believer of any faith. Another group—being the seventh order—form the Hell for the same class of thinker. |
Những thiên thần nhất định—thuộc thứ tự thứ ba—kiến tạo Thiên đường của tín đồ chính thống bình thường hay của bất cứ tín đồ nào. Một nhóm khác—thuộc thứ tự thứ bảy—kiến tạo Địa ngục cho cùng hạng tư tưởng ấy. |
|
5. Those devas who form the astral life of any thought-form. These we will deal with later when studying thought-form construction. |
Những thiên thần tạo nên sự sống cảm dục của bất cứ hình tư tưởng nào. Chúng ta sẽ bàn đến nhóm này sau khi khảo sát sự kiến tạo hình tư tưởng. |
|
6. A mysterious group of devas intimately connected at this time with the sex expression in the human family on the physical plane. They are a group who are, at this juncture, swept into being, and they embody the fire of sex expression as we understand it. They are the impulse, or instinct, back of physical sex desire. They were peculiarly dominant in the fourth root-race, at which time sex conditions reached a stage of unbelievable horror from our point of view. They are gradually being controlled, and when the last of the Lemurian Egos has passed into the fifth root-race they will be slowly passed out of the solar system altogether. They are connected with the passional “fire” of the solar Logos and with one of His centers in particular; this center is being gradually obscured and its fire transferred into a higher center. |
Một nhóm thiên thần huyền bí liên hệ mật thiết vào thời điểm này với biểu lộ tính giao trong gia đình nhân loại trên cõi hồng trần. Họ là một nhóm đang, vào thời khắc này, được cuốn vào hiện thể, và họ bao hàm “lửa” của biểu lộ tính giao như chúng ta hiểu. Họ là xung lực, hay bản năng, nằm sau dục vọng tính giao hồng trần. Họ đã từng đặc biệt lấn át trong giống dân gốc Atlantis, khi đó tình trạng tính giao đạt đến một mức độ khủng khiếp không thể tin nổi theo quan điểm của chúng ta. Hiện họ đang dần bị kiểm soát, và khi Vị chân ngã Lemuria cuối cùng đã chuyển sang giống dân gốc thứ năm, họ sẽ được tiễn dần ra khỏi toàn hệ mặt trời. Họ liên hệ với “lửa” dục tính của Thái dương Thượng đế và với một trong những trung tâm của Ngài; trung tâm này đang dần dần bị lu mờ và lửa của nó được chuyển vào một trung tâm cao hơn. |
|
7. There is also a group of devas connected with the Lodge of Masters, whose work it is to build the aspirational forms towards which average man may aspire. They are divided into certain groups—three in number—connected with science, religion and philosophy, and through these groups of deva substance the Heads of the three departments reach men. It is one of Their [678] channels for work. The Master Jesus is particularly active at this time along this line, working in collaboration with certain adepts on the scientific line, who—through the desired union of science and religion—seek to shatter the materialism of the west on the one hand and on the other the sentimental devotion of the many devotees of all faiths. This is made possible now through the passing out of the sixth Ray and the coming in of the seventh. It should be borne in mind by all students when considering the planes, plane substance and energy that they are in a condition of flux and change all the time. The matter of all planes circulates, and cyclically certain portions become more energized than others; the matter of the planes is thus under a threefold influence, or—to word it otherwise—deva substance is subjected to a threefold cyclic stimulation: |
Cũng có một nhóm thiên thần liên hệ với Thánh đoàn các Chân sư, với công việc là kiến tạo các hình thể chí nguyện mà người thường có thể hướng vọng về. Họ được phân thành những nhóm nhất định—ba nhóm—liên hệ đến khoa học, tôn giáo và triết học, và qua những nhóm chất liệu thiên thần này mà Các Vị Lãnh Đạo của ba ngành tiếp cận nhân loại. Đây là một trong những [678] kênh làm việc của Các Ngài. Đức Jesus hiện hoạt động đặc biệt mạnh theo hướng này, hợp tác với một số chân sư trên ngành khoa học, Những vị—thông qua sự hợp nhất như mong muốn giữa khoa học và tôn giáo—tìm cách đập tan một mặt là chủ nghĩa duy vật của phương Tây, mặt khác là lòng sùng tín cảm tính của số đông tín đồ thuộc mọi đức tin. Điều này nay có thể thực hiện nhờ cung sáu đang thoái và cung bảy đang nhập. Tất cả đạo sinh nên ghi nhớ khi khảo sát các cõi, chất liệu cõi và năng lượng rằng chúng ở trong một tình trạng lưu chuyển và biến dịch liên tục. Chất liệu của mọi cõi đều luân lưu, và theo chu kỳ, những phần nhất định trở nên được gia lực hơn những phần khác; do đó, chất liệu của các cõi ở dưới một ảnh hưởng tam phân, hay—nói cách khác—chất liệu thiên thần chịu một kích thích chu kỳ tam phân: |
|
– Ray stimulation, dependent upon any Ray being in or out of power. It is intersystemic and planetary. |
Kích thích theo Cung, tùy thuộc vào bất cứ Cung nào đang trỗi dậy hay suy tàn. Ảnh hưởng này là liên-hệ-thống và hành tinh. |
|
– Zodiacal stimulation, which is an extra-systemic stimulation, and is also cosmic and cyclic. |
Kích thích theo Hoàng đạo, tức một kích thích ngoại-hệ, và cũng là vũ trụ và chu kỳ. |
|
– Solar stimulation, or the impact of direct solar force or energy upon the substance of a plane; this emanates from the “Heart of the Sun” and is peculiarly potent. |
Kích thích theo Thái dương, hay sự va chạm của mãnh lực hay năng lượng thái dương trực tiếp trên chất liệu của một cõi; điều này phát xuất từ “Trái Tim của Mặt Trời” và đặc biệt mãnh liệt. |
|
All the planes are subjected to this threefold influence but in the case of the buddhic and the astral planes, the force of this third stimulation is very great. The adepts—working in conjunction with the great devas—utilize cyclic opportunity to effect definitely constructive results. |
Tất cả các cõi đều chịu ảnh hưởng tam phân này nhưng trong trường hợp cõi Bồ đề và cõi cảm dục, sức mạnh của kích thích thứ ba này rất lớn. Các vị chân sư—làm việc phối hợp với các đại thiên thần—tận dụng cơ hội chu kỳ để tạo ra những kết quả kiến tạo xác định. |
|
8. A group of devas closely connected with the mysteries of initiation. They form what is esoterically called the “path of the Heart,” and are the bridge between the astral and the buddhic planes. They are in no way [679] connected with the permanent atoms in the causal body, but are very definitely associated with the central tier of petals in the egoic lotus, or with the “petals of love.” Force interacts between these three petals on the one hand, and the devas who form the “Path of the Heart” upon the other, those who are the bridge of astral-buddhic matter whereby initiates of a certain mystic type make the “great approach.” |
Một nhóm thiên thần liên hệ mật thiết với các huyền nhiệm của điểm đạo. Họ kiến tạo cái được nội môn gọi là “con đường của Tim,” và là chiếc cầu nối giữa cõi cảm dục và cõi Bồ đề. Họ tuyệt nhiên không [679] liên hệ đến các nguyên tử trường tồn trong thể nguyên nhân, nhưng lại liên hệ rất rõ ràng với vòng cánh hoa ở giữa trong Hoa Sen Chân Ngã, hay với “các cánh hoa bác ái.” Mãnh lực tương tác giữa ba cánh hoa này một bên, và các thiên thần cấu thành “Con Đường của Tim” bên kia, những vị vốn là chiếc cầu của chất liệu cảm dục-Bồ đề nhờ đó các điểm đạo đồ thuộc một loại thần bí nhất định thực hiện “đại tiếp cận.” |
|
9. Devas of all degrees and vibratory capacity who make up the bulk of the desire forms of every kind. |
Các thiên thần ở mọi cấp độ và mọi dung năng rung động tạo nên phần lớn của các hình thức dục vọng mọi loại. |
|
10. The devas of transinutative force. They are a peculiar group of devas who embody the “fires of transmutation” and are called by various names, such as: |
Những thiên thần của lực chuyển hoá. Họ là một nhóm thiên thần đặc dị hàm chứa “các lửa chuyển hoá” và được gọi bằng nhiều danh xưng, như: |
|
– The furnaces of purifications. |
Các lò luyện thanh tẩy. |
|
– The melting elements. |
Các yếu tố nung chảy. |
|
– The gods of incense. |
Các thần hương. |
|
It is impossible to enumerate more now, and likewise profitless and it has only been deemed advisable to bring these many types of deva substance to the notice of students on account of the pre-eminent importance of the astral body in the three worlds. It is by the domination of these deva lives, and the “transmutation of desire” into aspiration, and by the purificatory fires of the astral plane that man eventually succeeds in attaining buddhic consciousness. |
Bây giờ không thể liệt kê thêm nữa, và cũng vô ích, và chỉ thấy thích đáng khi đưa những loại chất liệu thiên thần này ra trước sự lưu tâm của các đạo sinh vì tầm quan trọng tối thượng của thể cảm dục trong ba cõi. Chính nhờ chế ngự những sự sống thiên thần này, và “chuyển hoá dục vọng” thành khát vọng, và nhờ các lửa thanh lọc của cõi cảm dục mà rốt cục con người đạt được tâm thức Bồ đề. |
|
It has been the recognition of the cleansing power of the occult fluids—water and blood—that has led to the emphasis laid by Christians (even though erroneously interpreted) upon these two. |
Chính sự nhận biết quyền năng tẩy rửa của các lưu chất huyền môn—nước và huyết—đã dẫn đến việc người Ki-tô giáo nhấn mạnh (dẫu giải thích sai) đến hai yếu tố này. |
[Commentary S6S9]
3. The Solar Angels—The Agnishvattas [679]—3. Các Thái dương Thiên Thần—Các Agnishvattas [679]
|
Introductory Remarks |
Lời dẫn nhập |
|
We start here upon the consideration of the Agnishvattas, or the Fire devas of the mental plane, and are [680] thus launched upon the most stupendous subject in connection with our planetary evolution; it is the one having the most occult significance for man, for these solar Angels 19 concern his own essential nature, and are also the creative power by which he works. For all practical purposes, and for the elucidation of the spiritual evolution of man, this immediate section is of the greatest interest and importance; it should be one of the most widely studied sections of this treatise. Man is ever profoundly interested in himself, and before he can duly develop must comprehend scientifically the laws of his own nature, and the constitution of his own “mode of expression.” He must realize likewise somewhat of the interrelation of the three fires in order that he may himself at some future date “blaze forth.” |
Chúng ta bắt đầu ở đây việc khảo cứu các Agnishvattas, hay các Thiên thần Lửa của cõi trí, và như thế [680] đi vào đề tài vĩ đại nhất liên hệ đến tiến hoá hành tinh của chúng ta; đó là đề tài có ý nghĩa nội môn sâu xa nhất đối với con người, vì các Thái dương Thiên Thần 19 liên quan đến bản tính cốt yếu của chính y, và cũng là quyền năng sáng tạo mà nhờ đó y hoạt động. Xét về mục đích thực tiễn, và để làm sáng tỏ tiến hoá tinh thần của con người, phần này ngay trước mắt là phần hấp dẫn và trọng yếu nhất; đây nên là một trong những phần được khảo cứu rộng rãi nhất của luận khảo này. Con người luôn quan tâm sâu xa đến chính mình, và trước khi có thể phát triển đúng mức, y phải thấu hiểu một cách khoa học các định luật của chính bản tánh mình, và cấu trúc của “phương thức biểu lộ” của chính y. Y cũng phải phần nào nhận ra mối tương liên của ba loại lửa hầu để đến một ngày sau này chính y có thể “bừng cháy.” |
|
The question of these Fire Dhyanis and their relation to man is a most profound mystery, and the entire matter is so clothed in intricate legends that students are apt to despair of ever arriving at the desired, and necessary clarity of thought. Not yet will it be possible entirely to dispel the clouds which veil the central mystery, but perhaps, by due tabulation and synthesis, and by a cautious amplification of the data already imparted, the thoughts of the wise student may become somewhat less confused. |
Vấn đề liên quan đến các Dhyani Lửa này và mối liên hệ của họ với con người là một mầu nhiệm thâm áo nhất, và toàn bộ đề tài được bao bọc bởi những truyền thuyết rối rắm đến nỗi các đạo sinh thường tuyệt vọng vì khó lòng đạt được sự minh bạch tư tưởng mong muốn, và cần thiết. Chưa thể hoàn toàn xua tan mây mù che phủ mầu nhiệm trung tâm, nhưng có lẽ, nhờ sự bảng biểu và tổng hợp đúng đắn, và nhờ khai triển thận trọng những dữ liệu đã được ban ra, tư tưởng của đạo sinh khôn ngoan có thể bớt phần rối loạn. |
|
There are two statements in the Secret Doctrine which are often overlooked by the casual reader but which, if [681] duly pondered upon, convey much information. Let us make note of these two statements: |
Có hai mệnh đề trong Giáo Lý Bí Nhiệm thường bị độc giả lướt qua bỏ sót nhưng nếu [681] được nghiền ngẫm kỹ, sẽ chuyển tải nhiều thông tin. Chúng ta hãy ghi nhận hai mệnh đề này: |
|
1. Two connecting principles are needed. This requires a living spiritual Fire of the middle principle from the Fifth and third states of Pleroma. This fire is the possession of the Triangles. |
Hai nguyên khí nối kết là cần thiết. Điều này đòi hỏi một Lửa tinh thần sống của nguyên khí ở giữa đến từ trạng thái thứ Năm và thứ ba của Pleroma. Ngọn lửa này là sở hữu của các Tam giác. |
|
2. These Beings are Nirvanis from a preceding Mahamanvantara. |
Những Hữu thể này là các nirvani đến từ một Đại giai kỳ sinh hóa trước. |
|
We have been considering somewhat the devas of evolutionary tendency who are grouped roughly together as the lunar Pitris. 20 These lunar Pitris are divided into four groups and are concerned with the building of man’s dual physical body, with his astral body and with his lower mental body; these sheaths are energized by their force through the medium of the permanent atoms. But for the purposes of the subjective nature of man, they are to be considered in their three groups—etheric, astral and lower mental. The work of the Agnishvattas (the self-conscious principles, the Builders or constructors of the egoic body on the higher mental levels) is to unite the higher three principles—atma, buddhi, manas—and the lower three, and thus become in very truth the middle principle in man. They themselves originate from the logoic middle principle. (S. D., II, 83.) Thus the esoteric seven is completed. The physical body in its denser manifestation is, as we know, not esoterically considered a principle. |
Chúng ta đã xem xét ít nhiều các thiên thần có chiều hướng thăng thượng tiến hoá, vốn được nhóm lại một cách đại khái thành các thái âm tổ phụ. 20 Các thái âm tổ phụ này được chia thành bốn nhóm và có liên quan đến việc kiến tạo thể xác kép của con người, thể cảm dục của y và thể hạ trí của y; các vỏ bọc này được tiếp sinh lực bởi mãnh lực của họ thông qua môi giới là các Nguyên tử trường tồn. Nhưng cho mục đích liên quan đến bản tính chủ quan của con người, chúng phải được xét trong ba nhóm—dĩ thái, cảm dục và hạ trí. Công việc của các Agnishvattas (các nguyên khí tự ý thức, các Nhà Kiến Tạo hay những người kiến thiết thể chân ngã trên các cấp độ thượng trí) là hợp nhất ba nguyên khí cao—atma, buddhi, manas—và ba nguyên khí thấp, và như thế trở thành nguyên khí ở giữa nơi con người đúng theo chân nghĩa. Bản thân họ xuất phát từ nguyên khí ở giữa của Logos. (S. D., II, 83.) Như vậy bộ thất nội môn được hoàn tất. Thể xác trong biểu hiện đậm đặc hơn của nó, như chúng ta biết, theo nội môn không được xét là một nguyên khí. |
|
The devas of the lower mental levels in relation to [682] man work through the mental unit, and are, roughly speaking, divided into four groups, being in fact the first condensation of the threefold lower body of man. They form part of his lunar body. They are directly linked with the highest spiritual essences, and represent the lowest manifestation of force emanating from the cosmic mental plane, and finding its link with the human Hierarchy through the mental units. They are the gaseous devas of the logoic physical body. We will not deal with them in greater detail at this moment for as we study the subject of the fifth principle certain points will become clearer; their work in connection with man can be enlarged upon as we proceed. More detail at this moment would but serve to complicate. |
Các thiên thần của những cấp độ hạ trí liên quan đến [682] con người làm việc thông qua đơn vị hạ trí, và—nói đại khái—được chia thành bốn nhóm, thực ra là sự ngưng tụ thứ nhất của thân tam phân thấp của con người. Họ tạo thành một phần của thể âm nguyệt của y. Họ được liên kết trực tiếp với những tinh chất tinh thần cao nhất, và biểu lộ thấp nhất của mãnh lực xuất lộ từ cõi trí vũ trụ, tìm thấy mối nối với Thánh Đoàn nhân loại qua các đơn vị hạ trí. Họ là các thiên thần thuộc cõi khí của thể hồng trần của Logos. Chúng ta sẽ không đề cập đến họ chi tiết hơn vào lúc này vì khi chúng ta khảo cứu đề tài nguyên khí thứ năm, vài điểm sẽ trở nên sáng tỏ; khi tiến trình đi tới, có thể triển khai thêm công việc của họ liên hệ với con người. Lúc này thêm chi tiết chỉ làm rối rắm thêm. |
|
Let us be quite clear in our minds just what we are in process of considering. We are dealing with: |
Chúng ta hãy minh định trong thể trí mình chính xác điều chúng ta đang khảo cứu. Chúng ta đang đề cập đến: |
|
1. That fifth state of consciousness called the mental plane, |
Trạng thái tâm thức thứ năm gọi là cõi trí, |
|
2. The substance of that plane as it exists in its dual aspect, rupa and arupa, 22 |
Chất liệu của cõi đó như nó tồn tại trong phương diện nhị phân, rupa và arupa, 22 |
|
3. The lives who ensoul that matter, especially in their relation to man, |
Các sự sống phú linh cho chất liệu ấy, đặc biệt trong liên hệ của họ với con người, |
|
4. The Egos or the self-conscious units who form the middle point in manifestation, |
Các Chân ngã hay các đơn vị tự ý thức, vốn tạo thành điểm giữa trong sự hiện lộ, |
|
5. The building of the causal body, the opening of the egoic Lotus, and the construction of those groups we call egoic groups, |
Sự kiến tạo thể nguyên nhân, sự khai mở Hoa Sen Chân Ngã, và việc cấu dựng những nhóm mà chúng ta gọi là các nhóm chân ngã, |
|
6. The individuality of those Existences whom we call |
Tính cá biệt của những Đấng mà chúng ta gọi là |
|
a. Agnishvattas. |
các Agnishvattas. |
|
b. Manasa devas. |
các thiên thần manas. |
|
c. Fire dhyanis. |
các dhyani Lửa. |
|
d. Solar angels, or solar Pitris. |
Các Thái dương Thiên Thần, hay thái dương tổ phụ. |
|
e. The Asuras. |
Các Asuras. |
|
and many other names mentioned in the occult books. [683] |
và nhiều tên khác được nhắc đến trong các sách huyền môn. [683] |
|
19 Solar angels are therefore entities of a high spiritual order—with a refined consciousness that corresponds to the material substance in which they are clothed. In order to connect this with what I have said already, you may consider the solar angels as collectively forming the Lord Brahma of the lotus isle. The angels are called by various names as planetary spirits, Asuras, etc., but in order to get a proper idea of their nature, you may consider them as standing in the same relation to the spiritually regenerated and released world Brahmins or the Nirmanakayas as these stand to the ordinary humanity. The angels were such Brahmins in previous Mahamanvantaras, who spent those enormous periods in suffering and toil for the sake of rearing wisdom in the world and hence they emerged as angels from the infinite womb of Aditi under their karmic impulse after a period of Mahapralaya. |
19 Do đó, các Thái dương Thiên Thần là những thực thể thuộc một đẳng trật tinh thần cao—với một tâm thức tinh luyện tương ứng với chất liệu vật chất trong đó họ được khoác bọc. Để liên kết điều này với những gì tôi đã nói, bạn có thể xem các Thái dương Thiên Thần như tập thể hình thành Đức Brahma của đảo sen. Các thiên thần được gọi bằng nhiều danh xưng như các linh thần hành tinh, các Asura, v.v., nhưng để có một ý niệm đúng đắn về bản tính của họ, bạn có thể xem họ đứng trong cùng mối liên hệ với những vị Bà-la-môn thế giới đã được tái sinh tinh thần và giải thoát, hay các Nirmanakayas, như mối liên hệ của những vị này với nhân loại thông thường. Trong các Đại giai kỳ sinh hóa trước, các thiên thần đã là những Bà-la-môn như thế, những vị đã trải qua những thời kỳ vô cùng dài trong thống khổ và lao nhọc vì sự gây dựng minh triết trong thế gian, và do đó họ đã xuất hiện như các thiên thần từ tử cung vô biên của Aditi theo xung lực nghiệp quả của họ sau một thời kỳ Đại giai kỳ qui nguyên. |
|
– Some Thoughts on the Gita, page 137. |
– Vài suy tư về Gita, trang 137. |
|
20 The Lunar Pitris are all Nature Spirits.—S. D., II, 107. |
20 Các thái âm tổ phụ đều là các Tinh linh Tự nhiên.—S. D., II, 107. |
|
1. They possess, or are the containers of the fire of the third aspect.—S. D., II, 81. |
Họ sở hữu, hoặc là những bình chứa lửa của Phương diện thứ ba.—S. D., II, 81. |
|
2. Their work precedes that of the Solar Angels.—S. D., I, 268. |
Công việc của họ có trước công việc của các Thái dương Thiên Thần.—S. D., I, 268. |
|
3. They exist in seven classes as do the Solar Angels.—S. D., II, 96. |
Họ tồn tại trong bảy lớp như các Thái dương Thiên Thần.—S. D., II, 96. |
|
a. Three incorporeal, which are the three elemental kingdoms of nature, providing man with his etheric, astral and mental bodies. |
Ba vô hình, vốn là ba giới hành khí của Tự nhiên, cung ứng cho con người thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí. |
|
b. Four corporeal which are the forms of the four kingdoms of nature.—S. D., II, 93. |
Bốn hữu hình vốn là các hình thức của bốn giới trong Tự nhiên.—S. D., II, 93. |
|
c. See S. D., II, 233. |
Xem S. D., II, 233. |
|
22 For rupa and arupa definitions see pages 615, 616. |
22 Định nghĩa về rupa và arupa, xem các trang 615, 616. |
|
Much confusion exists in the minds of students as to the distinction between the Agnishvattas who incarnated in man, and those who simply were responsible for the implanting of the manasic or mental spark in animal man. This opens up for us the entire question of individualization itself, and the incarnation of certain spiritual existences who—when in bodily form—are spoken of as Avatars, as Buddhas of Activity, or as direct manifestations of the Logos. The entire mystery is hidden in the relationship of the individual Monads who form the various centers in the body of a planetary Logos and the self-conscious Identity of that planetary Logos Himself. The student must here bear in mind the fact that the mental plane is the first aspect of the dense physical body of the planetary Logos, the buddhic plane being a cosmic etheric plane, and the one whereon are to be found the etheric centers of a Heavenly Man. |
Có nhiều rối rắm trong tâm trí của các môn sinh về sự phân biệt giữa các Agnishvattas đã lâm phàm trong con người, và những vị chỉ chịu trách nhiệm gieo mồi lửa manas hay trí tuệ vào con người thú vật. Điều này mở ra cho chúng ta toàn bộ vấn đề của chính sự biệt ngã hóa, và sự lâm phàm của những Đấng tinh thần nhất định mà—khi ở trong hình tướng—được nói đến như các Đấng Hoá Thân, như các Đức Phật Hành động, hoặc như những hiện lộ trực tiếp của Logos. Toàn bộ huyền bí ẩn giấu trong mối liên hệ giữa các Chân thần cá biệt, vốn cấu thành các trung tâm khác nhau trong thân thể của một Hành Tinh Thượng đế, và Bản Ngã tự ý thức của chính Hành Tinh Thượng đế ấy. Ở đây, môn sinh phải ghi nhớ sự kiện rằng cõi trí là phương diện thứ nhất của thân xác đậm đặc của Hành Tinh Thượng đế, còn cõi Bồ đề là một cõi dĩ thái vũ trụ, và là nơi có các trung tâm dĩ thái của một Đấng Thiên Nhân. |
|
From the buddhic plane (in a planetary or solar sense) comes the vitality and impulse which galvanizes the dense physical vehicle into purposeful and coherent action; it is on the mental plane, therefore, that this impulse is first felt and the contact between the two realized. Herein lies a hint which will serve a purpose if pondered upon. The student should study the place and purpose of the mental plane, and its relation to the planetary Logos and a solar Logos. As he investigates more closely the nature of his own etheric body, he must extend that knowledge to higher levels, and must endeavor to comprehend the constitution of the greater sphere of which he is but a part. As the nature of his own centers, and their effective action upon his own dense physical body, is better understood, he will pass to a fuller comprehension of the corresponding effect in the body of the Logos. |
Từ cõi Bồ đề (xét theo nghĩa hành tinh hay thái dương) phát xuất sinh khí và xung lực, vốn làm bừng sống thể hồng trần đậm đặc thành hành động có mục đích và kết cấu; do đó chính trên cõi trí mà xung lực này được cảm thọ trước tiên và mối tiếp xúc giữa đôi bên được nhận ra. Ở đây có một gợi ý sẽ hữu ích nếu được chiêm ngưỡng. Môn sinh nên khảo cứu vị trí và mục đích của cõi trí, và mối liên hệ của nó với Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế. Khi y khảo sát kỹ hơn bản chất thể dĩ thái của chính mình, y phải mở rộng tri thức ấy lên các cấp cao hơn, và phải nỗ lực thấu hiểu cấu trúc của hình cầu vĩ đại mà y chỉ là một phần. Khi bản chất các trung tâm của chính y, và tác dụng hiệu lực của chúng trên thể hồng trần đậm đặc của y, được thấu hiểu hơn, y sẽ tiến đến một thấu hiểu đầy đủ hơn về hiệu ứng tương ứng trong thân thể của Logos. |
|
It is on the mental plane (the reflection in the three worlds of the third and fifth states of Pleroma), that the full force of etheric vitality is felt. A hint as to the [684] significance of this may be found in the fact that the etheric body of man receives, and transmits prana directly to the physical body, and that the vitality of the physical frame is to be gauged largely by the condition and action of the heart. The heart circulates vitality to the myriads of cells that constitute the dense physical sheath; something analogous is seen in the fact that these fire devas are “the Heart of the Dhyan chohanic body,” 23 for their energy comes from the spiritual sun, in the same sense that the energy of the pranic devas of the etheric body comes from the physical sun. This energy of the Agnishvattas manifests on the mental plane, the gaseous subplane of the cosmic physical just as the energy of the etheric centers on the fourth etheric subplane manifests first and potently on the gaseous matter of the physical body. This is why the Sons of Wisdom, embodying the buddhic principle, the life force, or love aspect, are nevertheless known on the fifth plane as the self-conscious principles; buddhi uses manas as a vehicle, and occult writers often speak in terms of the vehicle. The Ego, or the self-conscious Identity is in essence and in truth Love-Wisdom, but manifests primarily as intelligent consciousness. |
Chính trên cõi trí (sự phản chiếu trong ba cõi của trạng thái thứ ba và thứ năm của Pleroma) mà toàn bộ mãnh lực của sinh khí dĩ thái được cảm thọ. Một gợi ý về [684] thâm nghĩa của điều này có thể tìm thấy nơi sự kiện rằng thể dĩ thái của con người tiếp nhận và truyền prana trực tiếp cho thể xác, và rằng sinh lực của khung thể hồng trần phần lớn được đo bằng tình trạng và hoạt động của trái tim. Trái tim tuần hoàn sinh khí đến muôn triệu tế bào cấu thành vỏ bọc hồng trần đậm đặc; một điều tương tự được thấy trong sự kiện rằng các thiên thần lửa này là “Trái Tim của thân thể dhyan-chohanic,” 23 vì năng lượng của họ đến từ mặt trời tinh thần, theo cùng nghĩa mà năng lượng của các thiên thần prana của thể dĩ thái đến từ mặt trời vật chất. Năng lượng của các Agnishvattas này biểu lộ trên cõi trí, cõi phụ khí của cõi hồng trần vũ trụ, cũng như năng lượng của các trung tâm dĩ thái trên cõi phụ dĩ thái thứ tư biểu lộ trước hết và mãnh liệt trên chất khí của thể hồng trần. Đây là lý do vì sao các Con của Minh triết, vốn hàm chứa nguyên khí Bồ đề, sinh lực, hay Phương diện Tình thương, tuy nhiên lại được biết đến trên cõi thứ năm như các nguyên khí tự ý thức; buddhi dùng manas làm vận cụ, và các nhà huyền môn thường nói theo ngôn từ của vận cụ. Chân ngã, hay Bản Ngã tự ý thức, về bản chất và trong chân lý là Bác Ái – Minh Triết, nhưng biểu lộ chủ yếu như tâm thức thông tuệ. |
|
We should endeavor to study carefully the following statement which is concerned with kama-manas, and which deals with the conditions which produce individualization, or which call forth into self-conscious Being the Monads seeking full self-expression. It is as follows: |
Chúng ta nên nỗ lực khảo cứu cẩn thận mệnh đề sau đây, mệnh đề này liên quan đến kama-manas, và đề cập đến những điều kiện sản sinh biệt ngã hóa, hay kêu gọi các Chân thần đang tìm kiếm sự tự biểu lộ trọn vẹn đi vào Hiện Hữu tự ý thức. Mệnh đề như sau: |
|
Only as the heart center of a Heavenly Man (each in His cycle and each differing cyclically) becomes vitalized and attains a certain vibratory capacity does the individualization of the Monads become possible under the Law. |
Chỉ khi trung tâm tim của một Đấng Thiên Nhân (mỗi Vị trong chu kỳ của Ngài và mỗi Vị khác nhau theo chu kỳ) được sinh động và đạt đến một dung năng rung động nhất định thì sự biệt ngã hóa của các Chân thần mới có thể khả hữu theo Định luật. |
|
Again, it is only as the threefold dense physical body of a planetary Logos (as expressed by our three worlds, the mental, astral and dense physical planes) has reached [685] a corresponding vibration and retraced the cyclic development of the previous mahamanvantara, that there is produced that vibratory contact which causes the shining out upon the mental plane of the egoic groups. It brings forth a manifestation of the heart impulses of the Heavenly Man, and thus swings into objectivity those Monads (energized by the life of the Heart) who form various centers. The old Commentary says: |
Lại nữa, chỉ khi thân thể hồng trần tam phân của một Hành Tinh Thượng đế (như được biểu hiện bởi ba cõi của chúng ta, cõi trí, cõi cảm dục và cõi hồng trần đậm đặc) đã đạt đến [685] một rung động tương ứng và đã tái diễn sự phát triển chu kỳ của Đại giai kỳ sinh hóa trước, thì mới xảy ra tiếp xúc rung động gây nên sự bừng sáng trên cõi trí của các nhóm chân ngã. Điều đó đưa đến một hiện lộ của các xung lực nơi tim của Đấng Thiên Nhân, và như thế đưa vào khách quan những Chân thần (được tiếp sinh lực bởi sự sống của Tim) vốn cấu thành các trung tâm khác nhau. Cổ Luận nói: |
|
“When the Heart of the Body throbs with spiritual energy, when its sevenfold content thrills under the spiritual impulse, then the currents spread and circulate and divine manifestation becomes a Reality; the divine Man incarnates.” |
“Khi Trái Tim của Thân Thể rung lên bằng năng lượng tinh thần, khi nội dung thất phân của nó rộn ràng dưới xung lực tinh thần, bấy giờ các dòng lưu chuyển và luân lưu, và sự hiện lộ thiêng liêng trở thành Hiện Thực; Con Người thiêng liêng lâm phàm.” |
|
The physical plane analogy is seen at the life stimulation which is felt between the third and fourth month during the prenatal period, when the heart of the child thrills with life and individual existence becomes a possibility. |
Tương đồng trên cõi hồng trần được thấy nơi sự kích hoạt sự sống được cảm thọ giữa tháng thứ ba và thứ tư trong thời kỳ tiền sản, khi trái tim của đứa trẻ rộn ràng bởi sự sống và sự hiện hữu cá biệt trở nên khả hữu. |
|
This life vibration emanates from the soul of the mother (the correspondence to the Pleroma or universal soul) and is coincident with the awakening of the third spirilla in the permanent physical atom of the infant. It must be borne in mind that just as in each round all the preceding stages are rapidly recapitulated, and just as in the prenatal period the fetus recapitulates during the formative process the history of the preceding kingdoms, so in the solar system a similar procedure can be seen. When a certain point is reached and the lower three planes are vibrating, or energized, then cosmic incarnation becomes a possibility; the “Heart” occultly awakens, and the “Son of God,” the expression of the desire and love of the Logos, is born. 24, 25 The cosmic incarnation of certain exalted Beings is consummated, and one of the indications of this is the appearance of the egoic groups [686] on mental levels, and the resultant individualization. Method and time may vary according to the nature of any particular planetary Logos, but for each and all the “Heart of the Body” has to thrill with awakening life before the response comes from the lower. The lunar Pitris have to carry on their work in our scheme and system before the solar angels, thrilling with expectancy, take possession of the forms prepared through their endeavor, and stimulate them into self-conscious life and separated existence. Thus the four great schemes in the solar system, which are the vehicles for four of the planetary Logoi (Who constitute the logoic Quaternary), have to reach a certain stage of vibratory capacity, and of consciousness before a similar happening occurs in its fullness in the solar system, and the lower four and higher three are synthesized. The logoic heart is thrilling, and response comes already from all the schemes, as three spirillae are vibrating in all of them, but the Son of God is not yet fully and cosmically self-conscious. As response comes the centers awaken. One logoic center is responding fully to the heart stimulation, and that is Venus, who is passing through the final round. |
Rung động sự sống này phát ra từ linh hồn của người mẹ (đối ứng với Pleroma hay đại hồn) và trùng hợp với sự thức dậy của tiểu xoắn thứ ba trong nguyên tử trường tồn thể xác của hài nhi. Phải ghi nhớ rằng cũng như trong mỗi cuộc tuần hoàn, tất cả các giai đoạn trước được tóm tắt nhanh chóng, và cũng như trong thời kỳ tiền sản, bào thai tóm lược trong tiến trình hình thành lịch sử của các giới trước, thì trong hệ mặt trời cũng có thể thấy một tiến trình tương tự. Khi đạt tới một điểm nhất định và ba cõi thấp rung động, hay được tiếp sinh lực, thì sự lâm phàm vũ trụ trở nên khả hữu; “Tim” bí truyền thức tỉnh, và “Con của Thượng đế,” biểu lộ của dục vọng và tình thương của Logos, được sinh ra. 24, 25 Sự lâm phàm vũ trụ của những Đấng Tôn Nghiêm nào đó được viên mãn, và một trong những dấu hiệu chỉ báo điều này là sự xuất hiện của các nhóm chân ngã [686] trên các cấp độ cõi trí, và hệ quả là sự biệt ngã hóa. Phương pháp và thời gian có thể khác nhau tùy theo bản tính của bất kỳ Hành Tinh Thượng đế nào, nhưng với mỗi vị và tất cả, “Trái Tim của Thân Thể” phải rạo rực bởi sự sống thức dậy trước khi có đáp ứng từ phần thấp. Các thái âm tổ phụ phải tiếp tục công việc của họ trong hệ và trong thái dương hệ của chúng ta trước khi các Thái dương Thiên Thần, rộn ràng chờ đợi, tiếp quản những hình hài đã được chuẩn bị nhờ nỗ lực của họ, và kích thích chúng vào đời sống tự ý thức và hiện hữu biệt lập. Như thế bốn đại hệ thống trong thái dương hệ, vốn là các vận cụ cho bốn Hành Tinh Thượng đế (Những vị cấu thành Bộ tứ logoic), phải đạt đến một giai đoạn nhất định của dung năng rung động và của tâm thức trước khi một biến cố tương tự xảy ra trong trọn vẹn của nó trong thái dương hệ, và bốn thấp cùng ba cao được tổng hợp. Tim của Logos đang rạo rực, và sự đáp ứng đã đến từ tất cả các hệ thống, khi ba tiểu xoắn đang rung động trong tất cả chúng, nhưng Con của Thượng đế vẫn chưa hoàn toàn và vũ trụ tính tự ý thức. Khi có đáp ứng thì các trung tâm thức tỉnh. Một trung tâm logoic đang đáp ứng trọn vẹn với kích thích của tim, đó là Kim Tinh, đang đi qua cuộc tuần hoàn sau chót. |
|
If the student endeavors to dissociate our solar system from that which preceded it, and if he considers the pralaya at the close of this mahamanvantara to be a final one, and the utter consummation of all things, he errs. In the preceding system the cosmic physical plane attained a certain vibratory capacity, and the devas of the internal furnaces became (relatively speaking) highly evolved, the “fires of matter” then blazing forth. Certain Existences attained self-consciousness in that earlier system, and are the “Nirvanis” spoken of by H. P. B. (See S. D., II, 83, 84, 243.) As might be expected, they are characterized by active intelligence, achieved and developed by means of material evolution during a previous mahamanvantara. They [687] are the Manasa devas and in their totality are the vehicles of the Divine mind, the dhyan-chohanic forces, the aggregate of the Ahhi. In this solar system the vibration of the cosmic astral plane is becoming dominant, and through that vibration, travelling via the fourth cosmic ether (whereon as earlier stated are the etheric centers of the planetary Logoi) and our systemic astral plane, certain eventualities become possible. The “Sons of desire,” logoic or human, can learn certain lessons, undergo certain experiences, and add the faculty of love-wisdom to the intelligence earlier gained. |
Nếu môn sinh cố gắng tách rời thái dương hệ của chúng ta khỏi hệ đã có trước nó, và nếu y xem sự qui nguyên vào cuối Đại giai kỳ sinh hóa này là một sự qui nguyên sau cùng, là sự viên mãn tận độ của muôn vật, thì y lầm. Trong hệ trước, cõi hồng trần vũ trụ đã đạt đến một dung năng rung động nhất định, và các thiên thần của những lò lửa nội tại đã trở nên (nói tương đối) tiến hóa cao, “các lửa của vật chất” lúc ấy bừng cháy. Những Đấng nhất định đã đạt đến tự ý thức trong hệ trước đó, và là những “nirvani” mà Bà H. P. B. nhắc đến. (Xem S. D., II, 83, 84, 243.) Như có thể dự liệu, họ được đặc trưng bởi trí tuệ linh hoạt, đạt được và phát triển bằng con đường tiến hóa vật chất trong một Đại giai kỳ sinh hóa trước. Họ [687] là các thiên thần manas và trong tổng thể của họ là các vận cụ của Trí Tuệ Thiêng Liêng, các lực dhyan-chohanic, tổng hợp của các Ahhi. Trong thái dương hệ này, rung động của cõi cảm dục vũ trụ đang trở nên chi phối, và qua rung động đó, đi theo đường cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư (mà như đã nói trước, là nơi các trung tâm dĩ thái của các Hành Tinh Thượng đế cư ngụ) và cõi cảm dục hệ thống của chúng ta, một vài biến cố trở nên khả hữu. “Các Con của dục vọng,” logoic hay nhân loại, có thể học những bài học nhất định, trải nghiệm những kinh nghiệm nhất định, và thêm vào năng lực Bác Ái – Minh Triết cho trí tuệ đã đạt được trước đó. |
|
Our solar Logos, and the Heavenly Men, are polarized on the cosmic astral plane, and the effect of Their life energy as it flows through the systemic “Heart” can be seen in the activity of the astral plane, and in the part sex and passion play in the development of man. At the close of this mahamanvantara there will be ready for manifestation in the coming third system nirvanis who will be, in very essence, “active intelligent love”; they will have to wait until the five lower planes of the system have reached a stage of vibratory development which will permit them to enter, as the nirvanis in this system waited until the three lower planes became adequate in vibratory response. We are here speaking in terms of the Heavenly Men. In the Earth scheme, the analogy is hidden in the advent of the Egos in the third round, in the third root race and in the third chain. Individualization, as we understand it, was not possible until the “third state of pleroma” was reached, either universally where a Heavenly Man is concerned, or relatively in connection with a human unit. |
Thái dương Thượng đế của chúng ta, và các Đấng Thiên Nhân, phân cực trên cõi cảm dục vũ trụ, và ảnh hưởng của sinh lực Các Ngài khi lưu thông qua “Tim” hệ thống có thể thấy trong hoạt động của cõi cảm dục, và trong vai trò mà phái tính và đam mê đóng trong sự phát triển của con người. Vào cuối Đại giai kỳ sinh hóa này, sẽ có sẵn để hiện lộ trong hệ thứ ba sắp đến các nirvani, những vị sẽ là, về bản thể, “tình thương thông minh linh hoạt”; họ sẽ phải đợi cho đến khi năm cõi thấp của hệ đạt đến một giai đoạn phát triển rung động cho phép họ đi vào, như các nirvani trong hệ này đã đợi cho đến khi ba cõi thấp trở nên thích đáng về đáp ứng rung động. Ở đây, chúng ta đang nói theo thuật ngữ của các Đấng Thiên Nhân. Trong Hệ Trái Đất, sự tương ứng được ẩn trong sự đến của các Chân ngã vào cuộc tuần hoàn thứ ba, trong Giống dân gốc thứ ba và trong Dãy thứ ba. Biệt ngã hóa, như chúng ta hiểu, không thể khả hữu cho đến khi “trạng thái thứ ba của pleroma” được đạt tới, hoặc ở bình diện phổ quát khi nói về một Đấng Thiên Nhân, hoặc ở bình diện tương đối liên hệ với một đơn vị nhân loại. |
|
Considering the same subject from below upwards it is the animal in the third kingdom which individualizes. Viewing it from above downwards it is the fifth kingdom, the spiritual, which ensouls the third and produces the fourth, or self-conscious human kingdom. These figures [688] should be studied for they hold the mystery hid, and though the true occult meaning will not be revealed until the third major Initiation, nor fully comprehended until the fifth, yet light may stream in on a difficult point. Equally so in the next solar system, individualization (if such an inadequate term may be applied to a state of consciousness inconceivable even to an initiate of the third Initiation) will not be possible until the second or sixth stage of Pleroma. Consciousness will blaze forth then on the Monadic plane, and it will be the plane of individualization. All states of consciousness below that high level will be to the Logos what the consciousness of the three worlds is to Him now. Just as the physical body of man is not a principle, so all planes at this time below the fourth cosmic ether are not considered by the Logos to be a principle. |
Xét cùng đề tài này từ dưới lên, chính là sinh thể thuộc giới thứ ba biệt ngã hóa. Xem từ trên xuống, đó là giới thứ năm, giới tinh thần, vốn phú linh cho giới thứ ba và sản sinh giới thứ tư, tức giới nhân loại tự ý thức. Những con số này [688] nên được khảo cứu vì chúng cất giấu huyền bí, và tuy ý nghĩa huyền môn chân thực sẽ không được tiết lộ cho đến lần Điểm đạo thứ ba, cũng không được lĩnh hội trọn vẹn cho đến lần thứ năm, thì ánh sáng vẫn có thể chiếu vào một điểm khó. Tương tự như vậy trong thái dương hệ kế tiếp, sự biệt ngã hóa (nếu một từ ngữ bất cập như vậy có thể áp dụng cho một trạng thái tâm thức còn không thể nghĩ bàn ngay cả đối với một điểm đạo đồ của lần Điểm đạo thứ ba) sẽ không thể khả hữu cho đến giai đoạn thứ hai hay thứ sáu của Pleroma. Khi ấy tâm thức sẽ bừng sáng trên cõi Chân Thần, và đó sẽ là cõi của biệt ngã hóa. Mọi trạng thái tâm thức bên dưới mức cao ấy sẽ đối với Logos như tâm thức của ba cõi đối với Ngài hiện nay. Cũng như thể xác của con người không phải là một nguyên khí, thì hiện thời tất cả các cõi bên dưới cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư cũng không được Logos xem là một nguyên khí. |
|
Our present solar Angels or fire devas will then have a position analogous to that of the lunar Pitris now, for all will form a part of the divine consciousness, and yet, will be esoterically considered as “below the threshold” of consciousness. Man has to learn to control, guide and use the deva substances of which his lower sheaths are made; this goal involves the development of full self-consciousness, which is brought about through the agency of the solar Angels or builders and vitalizers of the egoic body; they are those through whom self-consciousness becomes a fact. In the next solar system they too will no longer embody the type of consciousness towards which man aspires; he will have to rise to still greater realizations, and again by occultly “putting his foot upon” them these higher realizations will become possible. In this solar system he has to mount by the putting his foot upon the serpent of matter. He rises by domination of matter and becomes himself a serpent of wisdom. In the next solar system he will mount upward by means of the serpent of wisdom, and by the domination [689] and control of the Agnishvattas, achieve something of which even the illuminated mind of the highest Dhyan-chohan can not yet conceive. |
Các Thái dương Thiên Thần hay các thiên thần lửa hiện nay của chúng ta rồi sẽ có một vị trí tương tự với các thái âm tổ phụ hiện nay, vì tất cả sẽ tạo thành một phần của tâm thức thiêng liêng, và tuy thế, theo nội môn vẫn được xem là “bên dưới ngưỡng” của tâm thức. Con người phải học cách kiểm soát, hướng dẫn và sử dụng các chất liệu deva mà các vỏ bọc thấp của y được tạo nên; mục tiêu này bao hàm sự phát triển tự ý thức trọn vẹn, điều được mang lại qua cơ quan các Thái dương Thiên Thần—các Nhà Kiến Tạo và các đấng tiếp sinh lực cho thể chân ngã; chính qua các vị ấy mà tự ý thức trở thành một thực tại. Trong thái dương hệ tới, các vị ấy cũng sẽ không còn bao hàm loại tâm thức mà con người hướng tới; y sẽ phải vươn lên những nhận thức còn cao hơn nữa, và một lần nữa bằng cách bí truyền “đặt chân lên” các vị, những nhận thức cao hơn ấy sẽ trở thành khả hữu. Trong thái dương hệ này, y phải trèo lên bằng cách đặt chân mình lên con rắn của vật chất. Y thăng lên bằng sự chế ngự vật chất và tự mình trở thành con rắn của minh triết. Trong thái dương hệ tới, y sẽ thăng lên bằng phương tiện của con rắn của minh triết, và bằng sự chế ngự [689] và kiểm soát các Agnishvattas, đạt được điều mà ngay cả trí tuệ soi sáng của vị Dhyan-chohan cao nhất cũng chưa thể nghĩ bàn. |
|
24 Compare S. D., I, 203; II, 108, 122, 279. |
24 Đối chiếu S. D., I, 203; II, 108, 122, 279. |
|
25 These three planes are the correspondences to the three lower spirillae in the physical permanent atom of the solar Logos and the planetary Logos. |
25 Ba cõi này là các đối ứng với ba tiểu xoắn thấp trong nguyên tử trường tồn thể xác của Thái dương Thượng đế và của Hành Tinh Thượng đế. |
[Commentary S6S10-1]
a. The Fifth Principle —a. Nguyên khí thứ năm
|
The solar Angels are the Pitris, the builders of the body of the Ego, and the producers of individualization or the realized consciousness, the Agnishvattas, the great devas of Mind. |
Các Thái dương Thiên Thần là các Tổ phụ, là những đấng kiến tạo thể của Chân ngã, và là những đấng sản sinh ra sự biệt ngã hóa hay tâm thức được nhận biết, tức các Agnishvattas, các đại thiên thần của Trí tuệ. |
|
Certain broad and general affirmations have been laid down with the purpose in view of opening up this stupendous and practical subject, and in an endeavor to link up this solar system in its fundamental manasic aspect with the past and the future. |
Một vài khẳng định rộng và tổng quát đã được nêu ra với mục đích khai mở đề tài đồ sộ và thực tiễn này, và trong nỗ lực liên kết thái dương hệ này trong phương diện căn để manasic của nó với quá khứ và tương lai. |
|
The section we are now approaching concerns the development of the divine Manasaputras, viewing them as a collective whole, containing the Divine Mind, and considering the individual Monad, who responds to Their life as a part of the body of these Dhyani Buddhas. |
Phần mà chúng ta sắp tiếp cận liên quan đến sự phát triển của các Manasaputras thiêng liêng, nhìn họ như một toàn thể tập thể, bao hàm Trí Tuệ Thiêng Liêng, và xét đến Chân thần cá nhân, vốn đáp ứng với sự sống của Các Ngài như một phần của thân thể các Dhyani Phật. |
(a.) Cosmically considered |
(a.) Xét theo vũ trụ |
|
An occult sentence has its place here. It holds the key to the mystery of the fivefold Dhyanis: |
Một câu huyền môn có chỗ đứng ở đây. Nó nắm giữ chìa khóa của huyền bí về các Dhyanis ngũ phân: |
|
“The higher Three in cyclic unison sought to know and to be known. The lower Three (for we count not here the eighth) knew not nor saw; they only heard and touched. The fourth had not a place. The Fifth (which also is the fourth) formed at the middle point a cosmic TAU, which was reflected on the cosmic Seventh.” |
“Ba vị cao hơn trong sự hiệp nhất chu kỳ đã tìm cách biết và được biết. Ba vị thấp hơn (vì ở đây chúng ta không kể vị thứ tám) không hay cũng không thấy; các vị ấy chỉ nghe và chạm. Vị thứ tư không có chỗ. Vị thứ năm (cũng là vị thứ tư) hình thành tại điểm giữa một TAU vũ trụ, vốn được phản chiếu trên vị thứ bảy vũ trụ.” |
|
H. P. B. states 27, 28 that the individualized Monad has more spiritual consciousness than the monad itself on its own plane, the second. It must be remembered here that the planetary Logoi are only in physical incarnation in our system, their bodies of individualization being on the cosmic mental plane, therefore full expression for them [690] is impossible during manifestation. Relatively therefore, during manifestation, man is able to express himself fully when he attains the “consciousness of the high places.” It should, therefore, be pointed out at the very beginning of our study of this fifth principle that the divine Manasaputras on their own plane must be considered from the standpoint of physical incarnation, whereas man can be considered from what is, for him, a spiritual aspect. 29 |
Bà H. P. B. tuyên bố 27, 28 rằng Chân thần đã biệt ngã hóa có tâm thức tinh thần nhiều hơn chính chân thần trên cõi riêng của nó, cõi thứ hai. Cần phải nhớ ở đây rằng các Hành Tinh Thượng đế chỉ đang ở trong sự lâm phàm hồng trần trong hệ của chúng ta, các thể cá thể hóa của Các Ngài ở trên cõi trí vũ trụ, do đó biểu lộ trọn vẹn đối với Các Ngài [690] là bất khả trong kỳ hiện lộ. Vì thế, tương đối mà nói, trong thời kỳ hiển lộ, con người có thể biểu lộ chính mình trọn vẹn khi y đạt đến “tâm thức của những nơi cao.” Do đó, cần chỉ ra ngay ở đầu sự khảo cứu của chúng ta về nguyên khí thứ năm này rằng các Manasaputras thiêng liêng trên cõi riêng của Các Ngài phải được xét từ quan điểm lâm phàm hồng trần, trong khi con người có thể được xét từ phương diện, đối với y, là tinh thần. 29 |
|
Human individualization, or the emergence of the self-conscious units on the mental plane, is involved in a larger development, for it synchronizes with the appropriation of a dense physical body by the Planetary Logos; this body is composed of matter of our three lower planes. As the etheric centers of the Manasaputras on the fourth cosmic etheric plane become vitalized, they produce increased activity on the systemic mental plane, the cosmic gaseous, and the consciousness of the Heavenly Man and His life energy begins to make itself felt. Simultaneously, under the Law, mind force or manasic energy pours in from the fifth cosmic plane, the cosmic mental. This dual energy, contacting that which is inherent in the dense physical body of the Logos itself, produces correspondences to the centers upon that plane and the egoic groups appear. They blend in latency the three types of electricity, and are themselves electrical phenomena. They are composed of those atoms, or types of lives, which are a part of the fourth [691] Creative Hierarchy, the aggregate of purely human Monads. Similarly, this triple force, produced by this conscious appropriation by the Heavenly Man, animates deva substance and the dense physical body of the planetary Logos is manifested objectively. This is what is meant by the statements that devas are found only in the three worlds. It is a statement analogous to the one that humanity is only found in the three worlds; nevertheless, the human Monads in their seven types are found on the plane of spirit—as it is the plane of duality—the deva monads are likewise found there. |
Biệt ngã hóa nhân loại, hay sự xuất hiện của các đơn vị tự ý thức trên cõi trí, nằm trong một phát triển lớn hơn, vì nó đồng thời với sự thâu nhận một thân xác đậm đặc bởi Hành Tinh Thượng đế; thân xác này được cấu thành bởi chất liệu của ba cõi thấp của chúng ta. Khi các trung tâm dĩ thái của các Manasaputras trên cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư được sinh động, chúng sản sinh hoạt động gia tăng trên cõi trí hệ thống, tức cõi khí vũ trụ, và tâm thức của Đấng Thiên Nhân cùng sinh lực của Ngài bắt đầu tự làm cho mình cảm nhận được. Đồng thời, theo Định luật, lực trí hay năng lượng manasic tuôn tràn từ cõi trí vũ trụ, cõi thứ năm vũ trụ. Năng lượng kép này, khi tiếp xúc với điều vốn tiềm tàng trong thân thể hồng trần đậm đặc của chính Logos, tạo ra những tương ứng với các trung tâm trên cõi ấy và các nhóm chân ngã xuất hiện. Chúng kết hợp trong tiềm tàng ba loại điện, và tự thân chúng là những hiện tượng điện. Chúng được cấu thành bởi những nguyên tử, hay những loại sự sống, vốn là một phần của Huyền Giai Sáng Tạo [691] thứ tư, tổng thể của các Chân thần thuần túy nhân loại. Tương tự, lực tam phân này, được sản sinh bởi sự thâu nhận có ý thức này của Đấng Thiên Nhân, làm sinh động chất liệu deva và thân thể hồng trần đậm đặc của Hành Tinh Thượng đế được biểu lộ khách quan. Đây là điều được hàm ý bởi các tuyên ngôn rằng các thiên thần chỉ được tìm thấy trong ba cõi. Đây là một tuyên ngôn tương tự với điều rằng nhân loại chỉ được tìm thấy trong ba cõi; tuy nhiên, các Chân thần nhân loại trong bảy loại của họ được tìm thấy trên cõi tinh thần—vì đó là cõi của nhị nguyên tính—các chân thần deva cũng được tìm thấy ở đó. |
|
27 S. D., I, 200, 201. |
27 S. D., I, 200, 201. |
|
28 See S. D., I, 201; II, 251, 252. |
28 Xem S. D., I, 201; II, 251, 252. |
|
29 |
29 |
|
1. |
1. |
|
2. |
2. |
|
3. |
3. |
|
4. |
4. |
|
Kingdom ——————- Principle. |
Giới ——————- Nguyên khí. |
|
5. |
5. |
|
6. |
6. |
|
7. |
7. |
|
8. |
8. |
|
This has a cosmic and systemic significance and to throw light upon that occurrence which concerns our own scheme, the Stanzas on the coming of the Lords of Flame should here be studied. |
Điều này có ý nghĩa vũ trụ và hệ thống, và để soi sáng biến cố liên quan đến hệ của riêng chúng ta, cần khảo cứu các Kệ về sự đến của các Chúa Tể của Lửa. |
|
Students should ever bear in mind that these occult subjects can be expressed in a twofold manner: |
Môn sinh phải luôn ghi nhớ rằng các đề tài huyền môn này có thể được diễn đạt theo hai cách: |
|
– In terms of the three worlds, or from the standpoint of the logoic dense physical body. |
Theo thuật ngữ của ba cõi, hay xét từ quan điểm thân hồng trần đậm đặc của Logos. |
|
– In terms of force or energy, or from the standpoint of the logoic body of prana or vitality, the four cosmic ethers. |
Theo thuật ngữ của lực hay năng lượng, hay xét từ quan điểm thân prana hay sinh lực của Logos, tức bốn cõi dĩ thái vũ trụ. |
|
What we understand by the fifth principle is but the expression on the causal plane of that force or energy which emanates from the logoic causal body on the fifth cosmic plane, via the logoic correspondence to the mental unit. (These correspondences involve a concept far in advance of what is possible even to an initiate at this time). In the fifth round, the inner significance may become more apparent to the disciple. As the logoic will is gradually transmuted into desire and thus the physical incarnation is produced, a tremendous downflow of vitalizing force from the fifth cosmic plane takes place, until it arrives at our fifth plane, the mental. This force it is which—at the correct cyclic moment—causes certain eventualities in time and space and in the three worlds, His dense physical body. The first of these events is the appropriation by the Logos of that dense physical vehicle, and the flashing into manifestation [692] of the physical Sun and the physical planets. Though this, from our standpoint, covers an inconceivably vast period of time, to the Logos it is but the brief period of gestation which all bodies undergo. A second momentous occurrence is the appropriation by the various Prajapatis, 30 or Heavenly Men of their physical bodies—again at varying times and according to their evolutionary stage. This is of later date for the seven than for the three. An idea of the meaning of this distinction can be gleaned by the student, as he studies the process of the incarnating ego. |
Điều chúng ta hiểu bởi nguyên khí thứ năm chỉ là sự biểu đạt trên cõi nguyên nhân của mãnh lực hay năng lượng vốn xuất lộ từ thể nguyên nhân logoic trên cõi thứ năm vũ trụ, qua tương ứng logoic với đơn vị hạ trí. (Những tương ứng này hàm chứa một khái niệm vượt xa điều khả hữu ngay cả đối với một điểm đạo đồ vào lúc này). Trong cuộc tuần hoàn thứ năm, nội ý có thể trở nên hiển minh hơn đối với đệ tử. Khi Ý chí logoic dần chuyển hoá thành dục vọng và như vậy sự lâm phàm hồng trần được sản sinh, một dòng tuôn đổ to lớn của sinh lực từ cõi thứ năm vũ trụ diễn ra, cho đến khi nó đến cõi thứ năm của chúng ta, cõi trí. Chính năng lượng này—vào đúng thời điểm chu kỳ—gây nên những biến cố nhất định trong thời gian và không gian và trong ba cõi, tức thân hồng trần đậm đặc của Ngài. Biến cố thứ nhất là sự thâu nhận bởi Logos thân hồng trần đậm đặc ấy, và sự loé sáng vào hiện lộ [692] của Mặt Trời vật chất và các hành tinh vật chất. Dù điều này, xét theo quan điểm của chúng ta, bao trùm một thời kỳ không thể nghĩ bàn, đối với Logos nó chỉ là thời kỳ thai nghén ngắn ngủi mà tất cả các thân đều trải qua. Một biến cố trọng đại thứ hai là sự thâu nhận bởi các Prajapatis, 30 hay các Đấng Thiên Nhân, các thân hồng trần của Các Ngài—một lần nữa vào những thời điểm khác nhau và tùy theo giai đoạn tiến hóa của Các Ngài. Điều này đối với bảy vị thì muộn hơn so với ba vị. Môn sinh có thể lĩnh hội ý nghĩa của sự phân biệt này khi khảo cứu tiến trình của chân ngã đang nhập thể. |
|
What do we consequently find? First of all, impulse, or the will-to-be, emanating from the mental plane; then desire, emanating from the astral plane, producing manifestation on the dense physical. |
Vậy chúng ta nhận thấy điều gì? Trước hết, xung lực, hay ý chí-hướng hiện hữu, xuất lộ từ cõi trí; kế đó là dục vọng, phát ra từ cõi cảm dục, sản sinh hiện lộ trên cõi hồng trần đậm đặc. |
|
This idea must be extended to the three Logoi or logoic Aspects and we then have the key to the mystery of the nine Sephiroth, the triple Trimurti. |
Ý niệm này phải được mở rộng đến Ba Logos hay các Phương diện logoic và khi ấy chúng ta có chìa khóa của huyền bí chín Sephiroth, bộ ba Trimurti. |
|
The other event might be noted,—the appropriation at a still later period in time and space by the individual Monads of their bodies of manifestation. |
Một biến cố khác có thể ghi nhận,—đó là sự thâu nhận vào một thời kỳ còn muộn hơn nữa trong thời gian và không gian, bởi các Chân thần cá nhân, những thân thể hiện lộ của họ. |
|
The pouring in of this force of energy, emanating from the fifth logoic Principle, brings about two things: |
Sự tuôn đổ của năng lượng này, vốn xuất lộ từ Nguyên khí logoic thứ năm, mang lại hai điều: |
|
– The appropriation by the sevenfold Logos of His dense physical body. |
Sự thâu nhận thân hồng trần đậm đặc của Ngài bởi Logos thất phân. |
|
– The appearance on the fifth systemic plane of the causal bodies of the human Monads. |
Sự xuất hiện trên cõi thứ năm hệ thống của các thể nguyên nhân của các Chân thần nhân loại. |
|
or |
hoặc |
|
– For the greater Life it was incarnation. |
Đối với Sự sống Vĩ Đại thì đó là sự lâm phàm. |
|
– For the lesser lives it was individualization. |
Đối với các sự sống nhỏ hơn thì đó là biệt ngã hóa. |
|
This needs pondering upon. [693] |
Điều này cần được suy ngẫm. [693] |
|
It will, therefore, be apparent to all thinkers why this fifth principle stirred the third aspect into self-conscious activity. |
Do đó, sẽ hiển nhiên cho mọi nhà tư tưởng vì sao nguyên khí thứ năm này đã kích động phương diện thứ ba vào hoạt động tự ý thức. |
|
30 Prajapatis. The Progenitors; the givers of life to all on this earth. They are seven and then ten corresponding to the seven and ten Sephiroth. Cosmically, they are the seven Rishis of the Great Bear; systemically they are the seven planetary Logoi, and from the standpoint of our planet they are the seven Kumaras. |
30 Prajapatis. Các Đấng Tiền Phụ; những đấng ban sự sống cho muôn loài trên trái đất này. Các Ngài là bảy rồi mười, tương ứng với bảy và mười Sephiroth. Xét theo vũ trụ, Các Ngài là bảy Rishi của Đại Hùng Tinh; xét theo hệ thống, Các Ngài là bảy Hành Tinh Thượng đế, và xét theo quan điểm của địa cầu chúng ta, Các Ngài là bảy Kumara. |
|
See S. D., I, 109, 122, 459, 661; II, 33, 36; footnote 80. |
Xem S. D., I, 109, 122, 459, 661; II, 33, 36; chú thích 80. |
(b.) Hylozoistically considered 31 |
(b.) Xét theo thuyết hylozoism 31 |
|
In continuing our consideration of the fifth logoic Principle, we will now view it in its hylozoistic aspect. We have seen that it can be regarded as the force, the energy or the quality which emanates from the logoic mental unit on the cosmic mental plane; this necessarily has a definite effect on the fifth systemic plane, and on the fifth subplane of the physical plane, the gaseous. Before taking up the subject of the Agnishvattas in detail, there are three points which should be borne in mind. |
Tiếp tục sự khảo cứu Nguyên khí logoic thứ năm, giờ đây chúng ta sẽ xem nó trong phương diện hylozoism. Chúng ta đã thấy rằng nó có thể được coi như mãnh lực, năng lượng hay phẩm tính xuất lộ từ đơn vị hạ trí logoic trên cõi trí vũ trụ; điều này tất yếu có một hiệu ứng rõ rệt trên cõi thứ năm hệ thống, và trên cõi phụ thứ năm của cõi hồng trần, tức cõi khí. Trước khi bàn chi tiết về các Agnishvattas, có ba điểm cần ghi nhớ. |
|
First, it should be remembered that all the planes of our system, viewing them as deva substance, form the spirillae in the physical permanent atom of the solar Logos. This has earlier been pointed out, but needs re-emphasizing here. All consciousness, all memory, all faculty is stored up in the permanent atoms, and we are consequently dealing here with that consciousness; the student should nevertheless bear in mind that it is on the atomic subplanes that the logoic consciousness (remote as even that may be from the Reality) centers itself. This permanent atom of the solar system, which holds the same relation to the logoic physical body as the human permanent atom does to that of a man, is a recipient of force, and is, therefore, receptive to force emanations from another extra-systemic source. Some idea of the illusory character of manifestation, both human and logoic, may be gathered from the relation of the permanent atoms to the rest of the structure. Apart [694] from the permanent atom, the human physical body does not exist. |
Thứ nhất, cần nhớ rằng tất cả các cõi của hệ chúng ta, khi xem chúng như chất liệu deva, tạo thành các tiểu xoắn trong nguyên tử trường tồn thể xác của Thái dương Thượng đế. Điều này đã được chỉ ra trước đây, nhưng cần nhấn mạnh lại ở đây. Mọi tâm thức, mọi ký ức, mọi năng lực đều được tàng trữ trong các nguyên tử trường tồn, do đó ở đây chúng ta đang xử lý chính tâm thức ấy; tuy nhiên môn sinh vẫn phải nhớ rằng tâm thức logoic (dẫu xa vời đến đâu so với Thực Tại) vẫn quy tâm trên các cõi phụ nguyên tử. Nguyên tử trường tồn của thái dương hệ này, vốn giữ cùng một mối liên hệ với thân hồng trần logoic như nguyên tử trường tồn của con người đối với thân thể của y, là một kẻ thụ cảm năng lượng, và vì thế tiếp nhận các xạ lực phát ra từ một nguồn ngoại-hệ khác. Có thể rút ra một ý niệm về tính chất ảo của hiện lộ, cả nhân loại lẫn logoic, từ mối liên hệ giữa các nguyên tử trường tồn và phần còn lại của cấu trúc. Ngoài [694] nguyên tử trường tồn, thân hồng trần của con người không hiện hữu. |
|
Again, forms differ as do kingdoms according to the nature of the force flowing through them. In the animal kingdom that which corresponds to the permanent atom responds to force of an involutionary character, emanating from a particular group. The human permanent atom responds to force emanating from a group on the evolutionary arc and the Ray of a particular planetary Logos in Whose body a human Monad has a definite place. |
Lại nữa, hình tướng khác nhau, các giới cũng vậy, tùy theo bản chất của lực lưu thông qua chúng. Trong giới động vật, cái tương ứng với nguyên tử trường tồn đáp ứng với lực mang tính giáng hạ tiến hoá, xuất lộ từ một nhóm đặc thù. Nguyên tử trường tồn của con người đáp ứng với lực phát ra từ một nhóm trên cung tiến hoá và từ cung của một Hành Tinh Thượng đế đặc thù mà trong Thân Thể của Ngài một Chân thần nhân loại có một vị trí xác định. |
|
Secondly, it must be noted that in view of the above it will be apparent that we are, at this period of manasic inflow and development, concerned with the coming into full vitality and activity of the fifth logoic spirilla; this vitalization shows itself in the intense activity of the mental plane, and the threefold nature of the electrical phenomena to be witnessed upon it. |
Thứ nhì, cần ghi nhận rằng xét theo điều trên sẽ hiển nhiên rằng chúng ta, trong giai đoạn hiện tại của dòng tuôn vào và phát triển manasic, đang liên quan đến sự sinh khí và hoạt hóa trọn vẹn của tiểu xoắn logoic thứ năm; sự sinh động này biểu lộ trong hoạt động mãnh liệt của cõi trí, và bản chất tam phân của các hiện tượng điện có thể chứng kiến trên cõi ấy. |
|
a. The atomic subplane—manasic permanent atoms—Positive. |
Cõi phụ nguyên tử—các nguyên tử trường tồn manas—Dương. |
|
b. The fourth subplane—mental units—Negative. |
Cõi phụ thứ tư—các đơn vị hạ trí—Âm. |
|
c. The egoic groups—causal bodies—Equilibrium or neutral. |
Các nhóm chân ngã—các thể nguyên nhân—Cân bằng hay trung tính. |
|
This is in process of demonstration during the course of evolution. We are dealing here with the substance aspect and considering energy in its various manifestations. The response of deva substance to the inflow of force on the mental plane has a threefold effect in connection with the Logos or the Septenate: |
Điều này đang trong quá trình được chứng minh trong tiến trình tiến hóa. Ở đây chúng ta đang xử lý phương diện chất liệu và xét năng lượng trong những biểu lộ khác nhau của nó. Sự đáp ứng của chất liệu deva đối với dòng tuôn đổ của năng lượng trên cõi trí có một hiệu ứng tam phân liên hệ với Logos hay Thất Bộ: |
|
1. It produces a greatly increased vitality in the logoic centers on the fourth cosmic ether, due to reflex action, which is felt both above and below the plane of activity. |
Nó sản sinh một sinh lực gia tăng lớn lao trong các trung tâm logoic trên cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư, do phản ứng đối xứng, điều này được cảm thọ cả ở trên và dưới cõi hoạt động. |
|
2. It stimulates the efforts of the highest specimens of the third kingdom, and a dual effect is produced [695] through this, for the fourth kingdom in nature makes its appearance on the physical plane and the Triads are reflected on the mental plane in the causal bodies to be found thereon. |
Nó kích thích nỗ lực của những mẫu mực cao nhất của giới thứ ba, và một hiệu ứng nhị phân được sản sinh [695] qua đó, vì giới thứ tư trong Tự nhiên xuất hiện trên cõi hồng trần và các Tam Nguyên được phản chiếu trên cõi trí trong các thể nguyên nhân có thể tìm thấy nơi đó. |
|
3. As earlier said, the dense physical is linked and coordinated with the etheric bodies of the solar logos and of the planetary Logos. Therefore, the lower three planes are synthesized with the higher four, and the devas of an earlier mahamanvantara or solar cycle are brought into conjunction with those of a newer order who were awaiting just conditions. The physical incarnation of the Logos is completed. The lower three kingdoms, being negative to the higher force, the mutual attraction of these two and their interaction bring into being the fourth or human kingdom. The three fires of mind, Spirit and matter are brought together and the work of full self-consciousness begun. |
Như đã nói trước, cõi hồng trần đậm đặc được nối kết và phối hợp với các thể dĩ thái của Thái dương Thượng đế và của Hành Tinh Thượng đế. Do đó, ba cõi thấp được tổng hợp với bốn cõi cao, và các thiên thần của một Đại giai kỳ sinh hóa hay chu kỳ thái dương trước được đưa vào liên hệ với những vị thuộc một trật tự mới đang chờ những điều kiện thích hợp. Sự lâm phàm hồng trần của Logos được hoàn tất. Ba giới thấp, do âm tính trước lực cao hơn, nên sự hấp dẫn lẫn nhau của đôi bên và sự tương tác của chúng đưa giới thứ tư hay giới nhân loại vào hiện hữu. Ba lửa của trí tuệ, Linh hồn và vật chất được quy tụ và công trình tự ý thức trọn vẹn được khởi đầu. |
|
31 Hylozoism: From Greek “ule,” matter; “zoon,” animal; and “ism.” Ism is a suffix embodying the doctrine or abstract idea of the noun to which it is attached. Hylozoism is the doctrine that all matter is endowed with life. |
31 Hylozoism: Từ Hy Lạp “ule,” vật chất; “zoon,” sinh vật; và “ism.” Ism là hậu tố bao gồm học thuyết hay ý niệm trừu tượng của danh từ mà nó gắn vào. Hylozoism là học thuyết cho rằng mọi vật chất đều được phú sinh. |
|
“When we have attained to this conception of hylozoism of a living material universe, the mystery of nature will be solved.”—Standard Dictionary. |
“Khi chúng ta đạt đến quan niệm hylozoism về một vũ trụ vật chất sống động, huyền bí của thiên nhiên sẽ được giải.” —Standard Dictionary. |
|
Finally, the student should very carefully study here the significance of the numbers three, four and five in the evolution of consciousness. Numerology has hitherto been studied primarily, and rightly, from the substance aspect, but not so much from the standpoint of conscious energy. The Triad, for instance, is usually looked upon by our students as the triangle formed by the manasic-buddhic and atmic permanent atoms; the cube stands for the lower material man, and the five-pointed star has frequently a very material interpretation. All these angles of vision are necessary, and must precede the study of the subjective aspect, but they lay the emphasis upon the material rather than upon the subjective; the subject nevertheless should be studied psychologically. In this solar system, the above numbers are the most important from the angle of the evolution of consciousness. [696] In the earlier system, the numbers six and seven held the mystery hid. In the next system, it will be two and one. This refers only to the psychical development. Let me illustrate: The five-pointed star on the mental plane signifies (among other things) the evolution, by means of the five senses in the three worlds (which are also capable of a fivefold differentiation) of the fifth principle, the attainment of self-consciousness, and the development of the fifth spirilla. |
Sau cùng, môn sinh ở đây nên khảo cứu thật cẩn trọng ý nghĩa của các con số ba, bốn và năm trong sự tiến hóa của tâm thức. Số học huyền bí từ trước đến nay chủ yếu—và đúng vậy—được khảo cứu từ phương diện chất liệu, nhưng không nhiều từ quan điểm năng lượng có ý thức. Chẳng hạn, Tam nguyên thường được học viên của chúng ta nhìn như tam giác hình thành bởi các nguyên tử trường tồn manasic–Bồ đề–atma; hình lập phương tượng trưng cho con người vật chất thấp, và ngôi sao năm cánh thường có một diễn giải rất vật chất. Tất cả các góc nhìn này đều cần thiết, và phải đi trước sự khảo cứu phương diện chủ quan, nhưng chúng đặt nhấn mạnh trên vật chất hơn là trên chủ quan; tuy nhiên đối tượng vẫn phải được khảo cứu một cách tâm lý. Trong thái dương hệ này, các con số vừa nêu là quan trọng nhất xét từ góc độ tiến hóa của tâm thức. [696] Trong hệ trước, các con số sáu và bảy cất giấu huyền bí. Trong hệ tới, sẽ là hai và một. Điều này chỉ liên hệ với phát triển tâm linh. Xin minh họa: Ngôi sao năm cánh trên cõi trí, giữa những điều khác, biểu thị sự tiến hóa—bằng phương tiện của năm giác quan trong ba cõi (cũng có thể phân biệt năm phương diện)—của nguyên khí thứ năm, sự đạt đến tự ý thức, và sự phát triển tiểu xoắn thứ năm. |
|
On the buddhic plane, when flashing forth at initiation, this number signifies the full development of the fifth principle or quality, the completed cycle of the Ego upon the five Rays under the Mahachohan, and the assimilation of all that is to be learned upon them, and the attainment—not only of full self-consciousness, but also of the consciousness of the group wherein a man is found. It infers the full unfoldment of five of the egoic petals, leaving four to open before the final initiation. |
Trên cõi Bồ đề, khi loé sáng trong lúc điểm đạo, con số này biểu thị sự phát triển trọn vẹn của nguyên khí hay phẩm tính thứ năm, chu kỳ hoàn tất của Chân ngã trên năm Cung dưới quyền vị Mahachohan, và sự đồng hóa tất cả những gì phải học trên các Cung ấy, cùng sự đạt đến—không chỉ tự ý thức trọn vẹn, mà còn tâm thức của nhóm trong đó một người được tìm thấy. Nó hàm ngụ sự khai mở trọn vẹn của năm cánh hoa chân ngã, còn lại bốn cánh để mở ra trước lần điểm đạo chung cuộc. |
|
The five-pointed star at the initiations on the mental plane flashes out above the head of the initiate. This concerns the first three initiations which are undergone in the causal vehicle. It has been said that the first two initiations take place upon the astral plane and this is correct, but has given rise to a misunderstanding. They are felt profoundly in connection with the astral and physical bodies and with the lower mental, and effect their control. The chief effect being felt in those bodies, the initiate may interpret them as having taken place on the planes concerned, for the vividness of the effect, and the stimulation works out largely in the astral body. But it must ever be remembered that the major initiations are taken in the causal body or—dissociated from that body—on the buddhic plane. At the final two initiations, which set a man free from the three worlds and enable him to function in the logoic body of vitality and to wield the force which animates that logoic [697] vehicle, the initiate becomes the five-pointed star, and it descends upon him, merges in him, and he is seen at its very center. This descent is brought about through the action of the Initiator, wielding the Rod of Power, and puts a man in touch with the center in the Body of the planetary Logos of which he is a part; this is consciously effected. The two initiations, called the sixth and seventh, take place on the atmic plane; the five-pointed star “blazes forth from within itself” as the esoteric phrase has it, and becomes the seven-pointed star; it descends upon the man and he enters into the Flame. |
Ngôi sao năm cánh tại các cuộc điểm đạo trên cõi trí loé sáng phía trên đỉnh đầu của điểm đạo đồ. Điều này liên quan đến ba lần điểm đạo đầu tiên được trải qua trong vận cụ nguyên nhân. Người ta đã nói rằng hai lần điểm đạo đầu diễn ra trên cõi cảm dục và điều đó đúng, nhưng đã khiến nảy sinh một sự hiểu lầm. Chúng được cảm thọ sâu xa liên quan đến thể cảm dục và thể xác và với hạ trí, và chi phối chúng. Vì hiệu ứng mạnh mẽ được cảm thọ trong các thể ấy, vị điểm đạo đồ có thể diễn giải như thể chúng đã diễn ra trên các cõi liên quan, do tính sinh động sống động của hiệu ứng, và sự kích thích chủ yếu biểu lộ trong thể cảm dục. Nhưng phải luôn nhớ rằng các lần điểm đạo chính yếu được nhận trong thể nguyên nhân hoặc—khi đã tách rời khỏi thể ấy—trên cõi Bồ đề. Tại hai lần điểm đạo sau cùng, những lần giải phóng con người khỏi ba cõi và cho phép y hoạt động trong thân prana logoic và vận dụng mãnh lực hoạt hóa [697] vận cụ logoic ấy, vị điểm đạo đồ trở thành ngôi sao năm cánh, và nó giáng xuống trên y, nhập vào y, và y được thấy tại chính trung tâm của nó. Sự giáng lâm này được mang lại qua tác động của Đấng Điểm đạo, vị nắm Thần Trượng Quyền năng, và đặt con người vào tiếp xúc với trung tâm trong Thân Thể của Hành Tinh Thượng đế mà y là một phần; điều này được thực hiện một cách có ý thức. Hai lần điểm đạo, được gọi là lần thứ sáu và thứ bảy, diễn ra trên cõi atma; ngôi sao năm cánh “bừng cháy từ chính nội thể nó” như thành ngữ nội môn diễn đạt, và trở thành ngôi sao bảy cánh; nó giáng xuống trên con người và y bước vào trong Ngọn Lửa. |
|
Initiation and the mystery of numbers primarily concern consciousness, and not fundamentally “ability to function on a plane,” nor the energy of matter, as might be gathered from so many occult books. They deal with the subjective life, life as part of the consciousness and self-realization of a planetary Logos, or Lord of a Ray, and not life in matter as we understand it. A Heavenly Man functions in His pranic vehicle, and there His consciousness is to be found as far as we are concerned in this system; He works consciously through His centers. |
Điểm đạo và huyền bí của các con số trước hết liên quan đến tâm thức, và không căn bản là “khả năng hoạt động trên một cõi,” cũng không là năng lượng của vật chất, như có thể suy ra từ quá nhiều sách huyền môn. Chúng xử lý đời sống chủ quan, đời sống như một phần của tâm thức và tự tri của một Hành Tinh Thượng đế, hay một Chúa Tể của một Cung, chứ không phải là đời sống trong vật chất như chúng ta hiểu. Một Đấng Thiên Nhân hoạt động trong vận cụ prana của Ngài, và ở đó tâm thức của Ngài được tìm thấy xét theo chúng ta trong hệ này; Ngài làm việc một cách có ý thức thông qua các trung tâm của Ngài. |
|
To sum up: There is a stage in the evolution of consciousness where the three, the four and the five blend and merge perfectly. Confusion on this point arises from two causes which are the point of individual achievement of the student. We interpret and color statements according to the state of our own inner consciousness. H. P. B. hints at this (See S. D., III, 456.) when dealing with the principles; also the interpretation of these figures varies according to the key employed. The fifth or spiritual kingdom is entered when the units of the fourth kingdom have succeeded in vitalizing the fifth spirilla in all the atoms of the threefold lower man; when they [698] have unfolded three of the egoic petals and are in process of unfolding the fourth and fifth and when they are becoming conscious of the pranic force of the Heavenly Man. |
Tổng kết: Có một giai đoạn trong sự tiến hóa của tâm thức nơi ba, bốn và năm hòa trộn và dung hợp hoàn toàn. Sự rối rắm về điểm này phát sinh từ hai nguyên nhân là điểm thành tựu cá nhân của môn sinh. Chúng ta diễn giải và tô sắc các mệnh đề tùy theo tình trạng tâm thức nội tại của chính mình. Bà H. P. B. ám chỉ điều này (Xem S. D., III, 456.) khi bàn về các nguyên khí; hơn nữa, diễn giải các con số này thay đổi tùy theo chìa khóa được sử dụng. Giới thứ năm hay giới tinh thần được đi vào khi các đơn vị của giới thứ tư đã thành công trong việc tiếp sinh lực cho tiểu xoắn thứ năm trong mọi nguyên tử của phàm ngã tam phân; khi họ [698] đã khai mở ba cánh hoa chân ngã và đang trong tiến trình khai mở cánh thứ tư và thứ năm, và khi họ đang trở nên ý thức về sinh lực prana của Đấng Thiên Nhân. |
[Commentary S6S10-2]
(c.) The Solar Angels and the Fifth Principle —(c.) Các Thái dương Thiên Thần và Nguyên khí thứ năm
|
We can now study the Entities concerned with this fifth principle and their effect upon the evolution of consciousness. |
Giờ đây chúng ta có thể khảo cứu các Thực Thể liên quan đến nguyên khí thứ năm này và ảnh hưởng của họ lên sự tiến hóa của tâm thức. |
|
Where man is concerned these solar Angels, the Agnishvattas, produce the union of the spiritual Triad, or divine Self, and the Quaternary, or lower self. Where the Logos is concerned, whether solar or planetary, they produce conditions whereby the etheric, and the dense physical become a unit. |
Xét về con người, các Thái dương Thiên Thần, các Agnishvattas, tạo ra sự hiệp nhất của Tam Nguyên tinh thần, hay Chân Ngã thiêng liêng, và Bộ bốn, hay tự ngã thấp. Xét về Logos, dù là Thái dương hay Hành tinh, họ tạo ra những điều kiện nhờ đó dĩ thái và hồng trần đậm đặc trở thành một đơn vị. |
|
They represent a peculiar type of electrical force; their work is to blend and fuse, and above all else they are the “transmuting fires” of the system, and are those agents who pass the life of God through their bodies of flame as it descends from the higher into the lower, and again as it ascends from the lower into the higher. They are connected in their highest groups with that portion of the logoic head center which corresponds to the heart, and here is the clue to the mystery of kama-manas. The kamic angels are vitalized from the “heart” center and the manasic angels from the logoic head center, via the point within that center connected with the heart. These two dominating groups are the sumtotal of kama-manas in all its manifestations. The solar angels exist in three groups, all of which are concerned with the self-consciousness aspect, all of which are energized and connected with the fifth spirilla of the logoic permanent atom, and all of which work as a unit. |
Họ biểu thị một loại lực điện đặc thù; công việc của họ là hòa trộn và dung hợp, và trên hết, họ là “những ngọn lửa chuyển hoá” của hệ thống, và là những tác nhân dẫn sự sống của Thượng đế đi xuyên qua các thân lửa của họ khi nó giáng từ cao xuống thấp, và lại khi nó thăng từ thấp lên cao. Họ, trong những nhóm cao nhất của mình, gắn với phần của trung tâm đầu logoic tương ứng với tim, và ở đây có manh mối về huyền bí của kama-manas. Các thiên thần kamic được sinh động từ trung tâm “tim” và các thiên thần manasic từ trung tâm đầu logoic, thông qua điểm bên trong trung tâm ấy vốn liên kết với tim. Hai nhóm chi phối này là tổng thể của kama-manas trong mọi biểu hiện của nó. Các Thái dương Thiên Thần tồn tại trong ba nhóm, tất cả đều liên quan đến phương diện tự ý thức, tất cả đều được sinh động và liên hệ với tiểu xoắn thứ năm của nguyên tử trường tồn logoic, và tất cả đều hoạt động như một đơn vị. |
|
One group, the highest, is connected with the logoic head center, whether solar or planetary. They work with the manasic permanent atoms and embody the will-to-be in dense physical incarnation. Their power is felt on the atomic subplane and on the second; they are the [699] substance and the life of those planes. Another group is connected definitely with the causal bodies of all Egos and are of prime importance in this solar system. They come from the heart center, and express that force. The third group, corresponding to the throat center, show forth their power on the fourth subplane through the mental units. They are the sumtotal of the power of the Ego to see, to hear and to speak (or sound) in the strictly occult sense. |
Một nhóm, nhóm cao nhất, liên hệ với trung tâm đầu logoic, dù là Thái dương hay Hành tinh. Họ làm việc với các nguyên tử trường tồn manasic và hàm chứa ý chí-hướng hiện hữu trong lâm phàm hồng trần. Quyền năng của họ được cảm thọ trên cõi phụ nguyên tử và trên cõi phụ thứ hai; họ là [699] chất liệu và là sự sống của các cõi ấy. Một nhóm khác liên hệ dứt khoát với các thể nguyên nhân của mọi Chân ngã và có tầm quan trọng tối cao trong thái dương hệ này. Họ xuất phát từ trung tâm tim, và biểu lộ năng lực ấy. Nhóm thứ ba, tương ứng với trung tâm cổ họng, phô diễn quyền năng của họ trên cõi phụ thứ tư thông qua các đơn vị hạ trí. Họ là tổng thể quyền năng của Chân ngã để thấy, nghe và nói (hay xướng) theo nghĩa nghiêm ngặt huyền môn. |
|
A hint may here be given to those who have power to see. Three constellations are connected with the fifth logoic principle in its threefold manifestation: Sirius, two of the Pleiades, and a small constellation whose name must be ascertained by the intuition of the student. These three govern the appropriation by the Logos of His dense body. When the last pralaya ended, and the etheric body had been coordinated, a triangle in the Heavens was formed under law which permitted a flow of force, producing vibration on the fifth systemic plane. That triangle still persists, and is the cause of the continued inflow of manasic force; it is connected with the spirillae in the logoic mental unit and as long as His will-to-be persists, the energy will continue to flow through. In the fifth round, it will be felt at its height. |
Một gợi ý có thể được đưa ra ở đây cho những ai có năng lực thấy biết. Ba chòm sao liên hệ với nguyên lý thứ năm thuộc Thượng đế trong sự biểu lộ tam phân của nó: Sirius, hai trong số các Pleiades, và một chòm sao nhỏ mà tên gọi phải được trực giác của môn sinh xác quyết. Ba chòm sao này cai quản sự tiếp nhận của Thượng đế đối với thể đậm đặc của Ngài. Khi Giai kỳ qui nguyên cuối cùng chấm dứt, và thể dĩ thái đã được phối hợp, một tam giác trên Thiên không đã được hình thành dưới Định luật cho phép một dòng chảy của mãnh lực, tạo ra rung động trên cõi hệ thống thứ năm. Tam giác đó vẫn còn tồn tại, và là nguyên nhân của dòng tuôn chảy liên tục của mãnh lực manas; nó liên hệ với các đường xoắn ốc trong đơn vị hạ trí của Thượng đế và chừng nào Ý chí-tồn-tại của Ngài còn bền bỉ, năng lượng sẽ tiếp tục tuôn chảy qua đó. Trong cuộc tuần hoàn thứ năm, nó sẽ được cảm nhận đến tột đỉnh. |
|
In considering the Entities 33 who gave the manasic principle to man, we must remember that they are the beings who, in earlier manvantaras have achieved, and who—in this round—waited for a specific moment at [700] which to enter, and so continue their work. A parallel case can be seen at the entry—in Atlantean days—of Egos from the moon-chain. The parallel is not exact, as a peculiar condition prevailed on the moon, and a peculiar karmic purpose brought them all in at that time. |
Khi xét đến các Thực thể 33 đã ban nguyên lý manas cho con người, chúng ta phải nhớ rằng đó là những sự sống, vốn trong các giai kỳ sinh hóa trước kia đã thành tựu, và trong cuộc tuần hoàn này—đã chờ đợi một thời điểm nhất định tại [700] đó để đi vào, và do đó tiếp tục công việc của Các Ngài. Một trường hợp tương tự có thể thấy nơi sự nhập trần—vào thời Atlantis—của các Chân ngã từ Dãy Mặt Trăng. Sự tương tự không hoàn toàn chính xác, vì một điều kiện đặc dị đã chi phối trên mặt trăng, và một mục đích nghiệp quả đặc biệt đã đưa tất cả các vị vào cùng thời điểm ấy. |
|
It should here be remembered that in the moon the fifth principle of manas incubated normally, and instinct gradually developed until it imperceptibly merged into manas, being of a similar nature; in this round a peculiar condition necessitated extra-planetary stimulation, and this special group of Pitris effected a transition of the lower into the higher through a downflow of energy via the Earth’s Primary from an extra-systemic center. |
Cũng cần nhớ rằng trên mặt trăng, nguyên lý thứ năm của manas được ấp ủ một cách bình thường, và bản năng dần dần phát triển cho đến khi không nhận ra được ranh giới mà hòa nhập vào manas, vì có bản chất tương đồng; trong cuộc tuần hoàn này, một điều kiện đặc thù đã đòi hỏi sự kích thích ngoài hành tinh, và nhóm Pitri đặc biệt này đã thực hiện một cuộc chuyển tiếp từ thấp lên cao bằng một dòng năng lượng giáng hạ qua Chủ tinh của Trái Đất từ một trung tâm ngoài hệ thống. |
|
The central three rounds, as in the planes and principles, are the most important for the evolution of the self-conscious units in this system, and this working towards perfection of the three, the four, and the five, mark, for the planetary Logos, as for man, the cycle of maturity. The earlier and later cycles mark that of growth towards maturity, and the garnering of the fruits of earlier experience. The three Halls again can be here considered from this aspect, and the central period allocated to the Hall of Learning. |
Ba cuộc tuần hoàn trung tâm, như trong các cõi và các nguyên khí, là quan trọng nhất đối với tiến trình tiến hóa của các đơn vị tự ý thức trong hệ thống này, và sự vận hành hướng đến sự toàn hảo nơi bộ ba, bộ bốn, và bộ năm đánh dấu—đối với Hành Tinh Thượng đế, cũng như đối với con người—chu kỳ thành thục. Các chu kỳ trước và sau đánh dấu sự tăng trưởng hướng về thành thục, và sự gặt hái hoa trái của kinh nghiệm trước đó. Ba Phòng một lần nữa có thể được xét từ phương diện này, và thời kỳ trung tâm được phân định cho Phòng Hiểu Biết. |
|
On all the planets these manasadevas are found working, ever in their three groups but varying the methods employed according to the stage of the evolution of the planet concerned, and the karma of its planetary Lord. Their method of work on the Earth can be studied in the Secret Doctrine and has a most significant interest for men at this time. 34 The three groups should be carefully considered from the standpoint of their occult work, which is hinted at under the terms of: |
Trên tất cả các hành tinh, các Manasadeva này được thấy đang làm việc, luôn trong ba nhóm của Các Ngài, nhưng biến đổi phương pháp được sử dụng tùy theo giai đoạn tiến hóa của hành tinh liên hệ, và nghiệp quả của Hành Tinh Thượng đế của nó. Phương pháp làm việc của Các Ngài trên Địa cầu có thể được nghiên cứu trong Secret Doctrine và hiện có một ý nghĩa rất đáng lưu tâm đối với nhân loại thời điểm này. 34 Ba nhóm này nên được khảo sát cẩn trọng từ quan điểm công cuộc huyền thuật của họ, điều được ám chỉ bằng các thuật ngữ: |
|
a. Those who refused to incarnate. |
Những vị đã từ chối lâm phàm. |
|
b. Those who implanted the spark of manas. |
Những vị đã gieo tia lửa của manas. |
|
c. Those who took bodies and molded the type. [701] |
Những vị đã thọ nhận thân xác và nhào nặn khuôn mẫu. [701] |
|
33 A very natural question might here be asked:—Why do we consider this matter of the devas of the middle system (as we might call those connected with this system and with buddhi and kama-manas) in our consideration of thought forms? For two reasons: One is that all that is in the solar system is but substance energized from the cosmic mental and astral planes, and built into form through the power of electrical Law; all that can be known is but forms ensouled by ideas. Secondly, that in the knowledge of the creative processes of the system, man learns for himself how in time to become a creator. We might illustrate this by remarking that one of the main functions of the Theosophical movement in all its many branches is to build a form which can be ensouled, in due time, by the idea of Brotherhood. |
33 Một câu hỏi rất tự nhiên có thể được nêu ra ở đây:—Tại sao chúng ta xét vấn đề chư thiên của hệ ở giữa (nếu có thể gọi như thế những vị liên hệ với hệ này và với Bồ đề và kama-manas) trong khi đang khảo cứu các hình tư tưởng? Có hai lý do: Một là mọi sự trong hệ mặt trời chỉ là chất liệu được tác năng hóa từ các cõi trí vũ trụ và cảm dục vũ trụ, và được kiến tạo thành hình tướng qua quyền năng của Định luật điện lực; mọi điều có thể được biết chỉ là những hình tướng được phú linh bởi các ý niệm. Thứ đến, trong sự hiểu biết các tiến trình sáng tạo của hệ thống, con người tự mình học được cách để rồi một ngày kia trở thành đấng sáng tạo. Chúng ta có thể minh họa điều này bằng cách nhận xét rằng một trong các chức năng chính của phong trào Thông Thiên Học trong tất cả các chi nhánh của nó là kiến tạo một hình tướng có thể—đúng thời—được phú linh bởi ý niệm về Huynh đệ. |
|
34 See all the earlier part of the Secret Doctrine, Volume II. |
34 Xem toàn bộ phần đầu của Secret Doctrine, Quyển II. |
|
The second group, the intermediate, can be subdivided into two lesser groups: |
Nhóm thứ hai, nhóm trung gian, có thể được phân chia thành hai nhóm nhỏ: |
|
a. Those who implant the spark of manas, |
Những vị gieo tia lửa của manas, |
|
b. Those who fan and feed the latent flame in the best types of animal man, |
Những vị quạt bùng và nuôi dưỡng ngọn lửa tiềm tàng nơi các hạng người thú ưu tú, |
|
thus again making five. These statements have been accepted at their face value, but little attention is paid to the real meaning. Much profit would come if the student would study the subject from the standpoint of energy, and of magnetic interaction. Those who refused to incarnate or to energize with their life the prepared forms, were acting under Law, and their opposition to incarnation in these forms was based on magnetic repulsion. They could not energize the forms provided, for it involved the opposition of that which is occultly the same. The lesser was not negative to the greater Life. Where the Spark was implanted we have the receptivity of the negative aspect to the positive force and therefore the progress of the work. In every case we have deva substance of one polarity energized by another polarity with the goal in view of producing—through their mutual interaction—a balancing of forces, and the attainment of a third type of electrical phenomena. |
như vậy lại tạo thành năm. Những mệnh đề này thường được chấp nhận theo bề mặt, nhưng rất ít chú ý đến ý nghĩa thực sự. Sẽ được nhiều lợi ích nếu môn sinh nghiên cứu chủ đề từ quan điểm năng lượng và tương tác từ tính. Những vị đã từ chối lâm phàm hoặc từ chối tác năng hóa bằng sinh lực của Các Ngài các hình tướng đã chuẩn bị, hành động của họ là theo Định luật, và sự phản đối nhập thể vào những hình tướng ấy dựa trên sự đẩy từ về mặt từ tính. Các Ngài không thể tác năng hóa những hình tướng đã được cung ứng, vì điều đó hàm ý sự đối kháng của cái vốn huyền bí là đồng nhất. Cái tiểu không phải là âm đối với Sự Sống vĩ đại hơn. Nơi nào Tia Lửa được gieo vào, ở đó chúng ta có sự cảm thụ của phương diện âm đối với lực dương và do đó công việc tiến triển. Trong mọi trường hợp, chúng ta có chất liệu deva mang một cực tính được tác năng hóa bởi một cực tính khác, với mục tiêu là—thông qua tương tác hỗ tương—tạo nên sự quân bình của các lực, và đạt tới một loại hiện tượng điện lực thứ ba. |
|
The question of the coming of the Lords of Flame is discussed hereafter under the heading “Individualization.” At this point we are only dealing with the work of these chohanic forces in a systemic and cosmic sense. These solar entities, being liberated intelligent Essences were in pralaya of a secondary nature when the time came for their reappearance in manifestation. When the WORD sounded forth which produced desire in the Triad for self-expression, and when the sound of the lower manifestation had blended with it, and had risen up into the Heavens, as the occult books express it, [702] an effect was produced which caused a response in certain allied constellations; this set loose energy which swept into the solar system, carrying with it those solar angels who “rested in the Heart of God until the hour was come.” Their appearance upon the mental plane brought about the union of Spirit and matter, and from this union was born a self-conscious Identity, the Ego. On cosmic levels, an analogous process occurs in connection with such stupendous Identities as a solar Logos, and the septenary Lives. |
Vấn đề sự đến của các Chúa Tể của Lửa sẽ được bàn ở phần sau dưới nhan đề “Biệt ngã hóa.” Tại điểm này chúng ta chỉ đang đề cập đến công việc của những mãnh lực chohanic này theo nghĩa hệ thống và vũ trụ. Những thực thể Thái dương này, vốn là các Bản thể Thông tuệ giải thoát, đang ở trong một dạng pralaya thứ cấp khi thời khắc đến cho sự tái xuất hiện của Các Ngài trong biểu lộ. Khi Linh từ cất vang khiến Tam Nguyên khao khát tự biểu lộ, và khi âm vang của biểu lộ thấp hòa nhập vào nó, và dâng lên tận Trời, như các sách huyền linh diễn đạt, [702] một hiệu ứng được tạo ra khiến có sự đáp ứng nơi một số chòm sao liên kết; điều đó giải phóng năng lượng tràn vào hệ mặt trời, mang theo các thiên thần thái dương, những vị “đã nghỉ yên trong Trái Tim của Thượng đế cho đến khi giờ điểm tới.” Sự xuất hiện của Các Ngài trên cõi trí đã đưa đến sự hợp nhất của Tinh thần và vật chất, và từ sự phối hợp này sinh ra một Đồng Nhất Tự Ý thức, tức Chân ngã. Trên các cấp vũ trụ, một tiến trình tương tự diễn ra liên hệ với những Đồng Nhất khổng vĩ như Thái dương Thượng đế, và các Sự sống thất phân. |
|
As the energy of a human being, seeking incarnation, passes down from the plane of intensive purpose, the mental plane, into the physical vehicle on the gaseous or fifth subplane, so a somewhat analogous stimulation takes place in the body logoic. A somewhat similar process can also be seen in connection with this energy in a human body as it stimulates the life of the individual cell, and brings about relatively its intelligent cooperation in group work, and its ability to take its place in the body corporate. It is so with the human Monads, the cells in the body logoic. When science recognizes this fact (which will scarcely be yet awhile) attention will be turned to the volatile essences of the body, to the heart center particularly, and its relation to these gaseous elements. The heart will be found to be not only the engine which circulates the life fluids, but also the generator of a certain type of intelligent essence which is the positive factor in the life of the cell. |
Khi năng lượng của một con người đang tìm lâm phàm, giáng từ cõi của mục đích tập trung mãnh liệt, là cõi trí, vào vận cụ hồng trần trên cõi phụ hơi khí hay cõi phụ thứ năm, thì một sự kích thích phần nào tương tự cũng diễn ra trong thân thể thuộc Thượng đế. Một tiến trình khá tương tự cũng có thể thấy liên quan đến năng lượng này trong thân thể con người khi nó kích thích sự sống của từng tế bào riêng lẻ, và tương đối đưa đến sự cộng tác thông minh của nó trong công việc tập thể, và khả năng của nó đảm nhận vị trí trong cơ thể đoàn thể. Cũng thế với các Chân Nguyên Nhân Loại (Monads), là các tế bào trong thân thể thuộc Thượng đế. Khi khoa học công nhận sự kiện này (điều còn khá lâu nữa) sự chú ý sẽ hướng về các tinh chất bay hơi của thân thể, đặc biệt là trung tâm tim, và mối liên hệ của nó với các yếu tố hơi khí này. Trái tim sẽ được nhận ra không chỉ là động cơ tuần hoàn các lưu chất sinh lực, mà còn là máy phát một loại tinh chất thông minh nhất định, vốn là yếu tố dương trong sự sống của tế bào. |
|
Some idea can be gathered from this as to the microcosmic process, for the individualization of the units is brought about through a macrocosmic happening which produces effects in the microcosm. |
Từ đây có thể lĩnh hội đôi nét về tiến trình vi mô, vì sự biệt ngã hóa của các đơn vị được mang lại bởi một biến cố vĩ mô tạo ra các hiệu ứng trong tiểu vũ trụ. |
|
A final point here needs emphasizing. Occultly understood, the five Kumaras or the five Mind-born Sons of Brahma are the embodiers of this manasic force on [703] our planet; but They only reflect (in the Hierarchy of our planet) the function of the five Kumaras or Rishis who are the Lords of the five Rays manifesting through the four lesser planets and the synthesizing planet. |
Một điểm cuối cần được nhấn mạnh. Hiểu theo huyền nghĩa, năm Kumara hay năm Người Con Sinh bởi Trí của Brahma là những vị hiện thân mãnh lực manas này trên [703] hành tinh chúng ta; nhưng Các Ngài chỉ phản chiếu (trong Thánh Đoàn của hành tinh chúng ta) chức năng của năm Kumara hay Rishi là các Chúa Tể của năm Cung biểu lộ qua bốn hành tinh thứ yếu và hành tinh tổng hợp. |
|
These five Kumaras are the channels for this force and one of Them, the Lord of the planet Venus, embodies in Himself the function of the fifth Hierarchy. This accounts for the activity of Venus at the moment of individualization in this round. In the next round, this fifth Hierarchy will be utilizing our Earth scheme in this way, and we shall then see manas in full fruition working out in the human family. This fifth Hierarchy of Agnishvattas in their many grades embody the “I principle” and are the producers of self-consciousness, and the builders of man’s body of realization. In time and space, and on the mental plane, they are Man himself in essential essence; they enable him to build his own body of causes, to unfold his own egoic lotus, and gradually to free himself from the limitations of the form which he has constructed, and thus to put himself—in due course of time—into the line of another type of energy, that of buddhi. To word it otherwise, through Their work man can become conscious without the manasic vehicle, for manas is but the form through which a higher principle is making itself known. The life of God comes cyclically under the influence of the different Hierarchies or forces, all of which temporarily build for it a vehicle, pass it through their substance, give to it in this way a certain quality or coloring, and increase thereby its vibratory capacity until eventually the life is set free from hierarchical limitation. It then returns to its eternal Source plus the gain of its experiences and with the increased energy which is the result of its various transitions. |
Năm Kumara này là những kênh dẫn cho mãnh lực ấy và một trong Các Ngài, Chúa Tể của hành tinh Venus, tự thân hiện thân chức năng của Huyền Giai thứ năm. Điều này giải thích cho hoạt động của Venus vào thời điểm biệt ngã hóa trong cuộc tuần hoàn này. Trong cuộc tuần hoàn kế tiếp, Huyền Giai thứ năm sẽ sử dụng hệ hành tinh Địa cầu của chúng ta theo cách này, và rồi chúng ta sẽ thấy manas kết trái trọn vẹn được triển khai trong gia đình nhân loại. Huyền Giai thứ năm của các Agnishvatta, trong vô số cấp độ của mình, hiện thân “nguyên lý Ta” và là những đấng tạo ra tự ý thức, là các nhà kiến tạo thân thể chứng ngộ của con người. Trong thời gian và không gian, và trên cõi trí, Các Ngài chính là Con Người trong tinh yếu bản thể; Các Ngài cho phép y tự kiến tạo thể nhân của mình, khai nở đóa hoa sen chân ngã, và dần tự giải thoát khỏi giới hạn của hình tướng do chính y kiến tạo, và như thế—đúng thời—đặt mình vào dòng của một loại năng lượng khác, đó là Bồ đề. Nói cách khác, thông qua công việc của Các Ngài con người có thể trở nên hữu thức mà không cần hiện thể manas, vì manas chỉ là hình tướng qua đó một nguyên lý cao hơn đang tự biểu lộ. Sự sống của Thượng đế theo chu kỳ đi vào ảnh hưởng của các Huyền Giai hay các mãnh lực khác nhau, tất cả đều tạm thời kiến tạo cho Nó một vận cụ, chuyển Nó qua chất liệu của họ, trao cho Nó theo cách này một phẩm chất hay sắc thái nhất định, và nhờ đó làm gia tăng năng lực rung động của Nó cho đến khi rốt cuộc sự sống được giải phóng khỏi giới hạn của Huyền Giai. Bấy giờ Nó trở về Nguồn vĩnh cửu của mình, cộng thêm lợi lạc của kinh nghiệm, và với năng lượng gia tăng là kết quả của các cuộc chuyển tiếp khác nhau của Nó. |
|
Let us bear carefully in mind, that the Rays are the positive aspect in manifestation and pass down into [704] negative matter, deva or hierarchical substance, thus causing certain evidences of activity. The Hierarchies are the negative aspect as far as the Rays are concerned and are responsive to Ray impulse. But within each Ray and each Hierarchy in this system a dual force again will be found. The Sons of God are bisexual. The deva substance is also dual, for the evolutionary devas are the positive energy of the atom, cell or subhuman form, for instance, while the electrons or lesser lives within the form are negative. |
Chúng ta cần ghi nhớ cẩn thận rằng các Cung là phương diện dương trong biểu lộ và giáng xuống [704] chất âm, tức chất liệu deva hay chất liệu thuộc Huyền Giai, qua đó gây nên những biểu hiện hoạt động nhất định. Các Huyền Giai là phương diện âm xét theo các Cung, và đáp ứng với xung lực của Cung. Nhưng trong mỗi Cung và mỗi Huyền Giai của hệ này lại thấy có một lực song đôi nữa. Các Con của Thượng đế là lưỡng tính. Chất liệu deva cũng là nhị nguyên, vì các deva tiến hóa là năng lượng dương của nguyên tử, tế bào hay hình tướng bán nhân loại, thí dụ vậy, trong khi các điện tử hay các sự sống nhỏ bé hơn ở trong hình tướng là âm. |
|
The mystery of the Manasaputras is hidden in this, and in the function of the fifth Hierarchy, and it is not possible to reveal more of it. The secret of Buddhi, the sixth or Christ principle, which concerns these Sons of God, and the secret of the fifth Hierarchy which is the vehicle or recipient of buddhi, cannot be mentioned outside initiated circles. It holds hid the possibility of egoic unfoldment, and keeps secret the karma of the Heavenly Men, the five Kumaras. |
Bí ẩn của các Manasaputra ẩn tàng trong điều này, và trong chức năng của Huyền Giai thứ năm, và không thể tiết lộ thêm nữa. Bí mật của Bồ đề, nguyên lý thứ sáu hay nguyên lý Christ, vốn liên hệ với các Con của Thượng đế này, và bí mật của Huyền Giai thứ năm, là vận cụ hay kẻ thâu nhận của Bồ đề, không thể được đề cập bên ngoài các vòng tròn đã được điểm đạo. Nó giữ kín khả tính của khai mở chân ngã, và giữ kín nghiệp quả của các Đấng Thiên Nhân, năm Kumara. |
|
The fifth principle of manas is embodied in the five Kumaras, and if the student studies the significance of the first five petals which are unfolded in the egoic lotus, he may touch upon the fringe of the mystery. The fifth Ray, which is the Ray of the fifth Kumara, is potently responsive to the energy flowing through the fifth Hierarchy. As the student of occultism knows, the Lord of the fifth Ray holds that place in the Septenary enumeration, but under the fivefold classification, he holds the third or middle place. |
Nguyên lý thứ năm của manas được hiện thân trong năm Kumara, và nếu môn sinh khảo sát ý nghĩa của năm cánh đầu tiên được khai mở trong Hoa Sen Chân Ngã, y có thể chạm đến bờ mé của huyền nhiệm. Cung thứ năm, là Cung của vị Kumara thứ năm, đặc ứng mạnh mẽ với năng lượng lưu chuyển qua Huyền Giai thứ năm. Như môn sinh huyền học biết, Chúa Tể của Cung thứ năm giữ vị trí đó trong sự liệt kê thất phân, nhưng dưới phân loại ngũ phân, Ngài giữ vị trí thứ ba hay trung tâm. |
|
[table 6] |
[table 6] |
|
This should be pondered on, and His close connection therefore, as a transmitter of force within the Moon chain, the third chain, in connection with the third kingdom, the animal, and with the third round, must be borne in mind. One symbol that may be found in the archaic records in lieu of His Name or description is an inverted five-pointed star, with the luminous Triangle at the center. It will be noted that the points involved in this symbol number eight—a picture of that peculiar state of consciousness brought about when the mind is seen to be the slayer of the Real. The secret of planetary avitchi 35 is hidden here, just as the third major scheme can be viewed as systemic avitchi, and the moon at one time held an analogous position in connection with our scheme. This must be interpreted in terms of consciousness, and not of locality. |
Điều này cần được suy tư, và do đó nên ghi nhớ mối liên hệ mật thiết của Ngài như một kẻ truyền dẫn mãnh lực trong Dãy Mặt Trăng, dãy thứ ba, liên hệ với giới thứ ba, giới thú vật, và với cuộc tuần hoàn thứ ba. Một biểu tượng có thể thấy trong các hồ sơ cổ xưa thay cho Danh hiệu hay mô tả của Ngài là một ngôi sao năm cánh đảo ngược, với Tam giác sáng ở trung tâm. Cần lưu ý rằng các điểm được bao gồm trong biểu tượng này là tám—một bức họa trạng thái tâm thức đặc dị được tạo nên khi thể trí được thấy là kẻ giết Cái Thực. Bí mật của avitchi hành tinh 35 ẩn trong đây, cũng như dãy chủ yếu thứ ba có thể được xem như avitchi hệ thống, và mặt trăng một thời đã giữ vị trí tương tự liên quan đến hệ của chúng ta. Điều này cần được diễn giải theo thuật ngữ của tâm thức, chứ không theo địa phương. |
|
In the fifth round, at its middle point, certain things will eventuate. |
Trong cuộc tuần hoàn thứ năm, tại trung điểm của nó, những điều nhất định sẽ xảy đến. |
|
The fifth Hierarchy will rise to its full power. This will precede the Judgment Day, and will mark a point of tremendous struggle, for the manasic vehicle “manas” (which they embody) will rebel against the translation of the life within (the buddhi). There will, therefore, be seen on a racial scale and involving millions simultaneously, a repetition of the selfsame struggle which embroils the man who seeks to transcend mind and to live the life of Spirit. This will be the final Armageddon, the planetary kurukshetra, and will be succeeded by the Judgment Day when the Sons of Manas will be cast out and the Dragons of Wisdom rule. This only means that those in whom the manasic principle is over-potent or underdeveloped will be considered as failures and will [706] have to wait for a more suitable period for development, while those who are living the buddhic life, and in whom it is waxing stronger—spiritual men, aspirants, disciples of various degrees, initiates and adepts—will be left to pursue the natural course of evolution on this scheme. |
Huyền Giai thứ năm sẽ vươn lên quyền năng trọn vẹn. Điều này sẽ đi trước Ngày Phán Xét, và sẽ đánh dấu một thời điểm của cuộc tranh đấu khủng khiếp, vì hiện thể manasic “manas” (mà họ hiện thân) sẽ nổi loạn chống lại sự “thăng dịch” sự sống bên trong (là Bồ đề). Do đó, sẽ thấy trên quy mô của giống dân, và liên quan đồng thời đến hàng triệu người, một cuộc lặp lại cuộc tranh đấu y hệt vẫn làm rối bời con người đang tìm vượt khỏi trí và sống đời Tinh thần. Đây sẽ là trận “Armageddon” sau cùng, là “kurukshetra” của hành tinh, và sẽ được tiếp nối bởi Ngày Phán Xét khi các Con của Manas bị loại ra và các Rồng của Minh Trí trị vì. Điều này chỉ có nghĩa là những ai ở nơi họ nguyên lý manas hoặc quá lấn át hoặc kém phát triển sẽ bị xem là thất bại và sẽ [706] phải đợi một thời kỳ thích hợp hơn để phát triển, trong khi những ai đang sống đời Bồ đề, và nơi họ nguyên lý ấy đang tăng thịnh—những người tinh thần, những người chí nguyện, các đệ tử ở các bậc khác nhau, các điểm đạo đồ và các chân sư—sẽ được để cho theo đuổi tiến trình tiến hóa tự nhiên trên hệ này. |
|
The mystery of Capricorn is hidden in these five and in the Biblical words “the sheep and the goats.” 36 The Christian hints at this when he speaks of the Christ reigning on earth a thousand years during which the serpent is imprisoned. The Christ principle will triumph for the remainder of the manvantara, and the lower material nature and mind will be held in abeyance until the next round, when fresh opportunity will arise for certain groups of the discarded, though the majority will be held over until another system. Something similar again will take place on the fifth chain but as it concerns a center in the planetary Logos of which we know but little, we need not here enlarge upon it. |
Bí ẩn của Capricorn ẩn trong bộ năm này và trong lời Kinh Thánh “chiên và dê.” 36 Người Kitô giáo có ám chỉ điều này khi nói về Đức Christ trị vì trên đất một ngàn năm trong thời gian đó con rắn bị giam cầm. Nguyên lý Christ sẽ thắng thế trong phần còn lại của giai kỳ sinh hóa, và bản chất vật chất thấp cùng thể trí sẽ bị trì hoãn cho đến vòng tuần hoàn kế, khi cơ hội mới sẽ đến cho một số nhóm bị loại bỏ, dù đa số sẽ được dành lại đến một hệ khác. Điều gì đó tương tự lại sẽ diễn ra trên dãy thứ năm nhưng vì nó liên quan đến một trung tâm trong Hành Tinh Thượng đế mà chúng ta biết rất ít, nên không cần nói rộng thêm ở đây. |
|
The planetary chains embody centers, and as they are awakened and come under stimulation, they swing into physical incarnation certain types of manasaputras. The type dominated by the fifth chain energy is little known as it is yet in process of evolution within another scheme, the fifth, so it is waste of our time to consider it. It is connected with the unfoldment of the fifth egoic petal of a planetary Logos on His Own plane and consequently with the activity of the fifth spirilla. When the hour strikes, these units of energy will “come in” from another scheme on a stream of cosmic energy which will swing through a particular systemic triangle, just as when the egos came in this round. |
Các dãy hành tinh hiện thân các trung tâm, và khi chúng được thức tỉnh và chịu sự kích thích, chúng đưa vào hiện hình hồng trần những loại manasaputra nhất định. Loại bị chi phối bởi năng lượng của dãy thứ năm ít được biết đến vì nó vẫn đang trong tiến trình tiến hóa bên trong một hệ khác, hệ thứ năm, nên nói đến là phí thời. Nó liên hệ với sự khai mở cánh hoa chân ngã thứ năm của một Hành Tinh Thượng đế trên Chính cõi của Ngài và hệ quả là hoạt động của đường xoắn ốc thứ năm. Khi giờ điểm điểm, các đơn vị năng lượng này sẽ “đi vào” từ một hệ khác trên một dòng năng lượng vũ trụ sẽ lướt qua một tam giác hệ thống đặc định, y như khi các chân ngã đi vào trong cuộc tuần hoàn này. |
|
It might here be pointed out that the solar Angels concerned with the fifth Hierarchy are naturally a potent factor in the evolution of the fifth or spiritual kingdom; they are that which make it possible, for they not only [707] bridge the gap between the fourth and third kingdoms, but bridge that found between the fourth and fifth. |
Cũng có thể chỉ ra ở đây rằng các thiên thần thái dương liên hệ với Huyền Giai thứ năm tự nhiên là một yếu tố hùng mạnh trong tiến hóa của giới thứ năm hay giới tinh thần; chính Các Ngài là những vị làm cho điều ấy trở thành khả hữu, vì Các Ngài không chỉ [707] bắc cầu hố ngăn giữa giới thứ tư và giới thứ ba, mà còn bắc cầu hố ngăn giữa giới thứ tư và giới thứ năm. |
|
We need not consider any further this question of the fifth principle, for two reasons: |
Chúng ta không cần xét thêm nữa về vấn đề nguyên lý thứ năm, vì hai lý do: |
|
First, that the subject has been sufficiently covered for our purpose in an earlier section, and secondly, that the full revelation in connection with cosmic manas and the entities who come in on that influence may not further be revealed at this moment. That which is given in the Secret Doctrine, and supplemented here by further details, will suffice for the investigations of students for another generation. Each generation should produce those able to ascertain subjective fact for themselves; they will utilize that which is exoteric and known as stepping stones on the path to perfect knowledge. They will know, and they will give out, and only the next cycle of fifty years after their work is accomplished will see the recognition by the many of the truth revealed by the few. In the case of H. P. B. this is apparent. On the tide of the present endeavor, the Secret Doctrine will be vindicated and her work justified. |
Thứ nhất, chủ đề đã được đề cập đầy đủ cho mục đích của chúng ta ở phần trước, và thứ hai, toàn bộ mặc khải liên quan đến manas vũ trụ và các thực thể đi vào theo ảnh hưởng ấy chưa thể được tiết lộ thêm ở thời điểm này. Điều đã được nêu trong Secret Doctrine, và được bổ sung ở đây bằng các chi tiết thêm, sẽ đủ cho sự khảo cứu của môn sinh trong một thế hệ nữa. Mỗi thế hệ nên sản sinh những người có khả năng tự mình xác quyết các sự kiện chủ quan; họ sẽ sử dụng những gì ngoại hiện và đã biết như những viên đá bước trên con đường đến tri thức hoàn hảo. Họ sẽ biết, và họ sẽ truyền đạt, và chỉ chu kỳ kế tiếp năm mươi năm sau khi công việc của họ hoàn tất mới chứng kiến sự thừa nhận bởi số đông đối với chân lý do số ít bày tỏ. Trong trường hợp của Bà H. P. B. điều này đã rõ. Trên làn sóng của nỗ lực hiện tại, Secret Doctrine sẽ được minh oan và công trình của Bà được biện minh. |
|
35 Avitchi. A state of consciousness, not necessarily after death or between births for it can take place on earth as well. Literally it means “uninterrupted hell.” The last of the eight hells we are told where “the culprits die and are reborn without interruption—yet not without hope of final redemption.” |
35 Avitchi. Một trạng thái tâm thức, không nhất thiết sau chết hay giữa các lần sinh vì nó cũng có thể xảy ra ngay trên trần thế. Theo nghĩa đen, nó có nghĩa là “địa ngục không gián đoạn.” Địa ngục cuối cùng trong tám địa ngục, nơi “các tội nhân chết đi và tái sinh không gián đoạn—nhưng không phải không có hy vọng cứu chuộc sau cùng.” |
|
See S. D., III, 510, 521, 528, 529. |
Xem S. D., III, 510, 521, 528, 529. |
|
36 Bible. Rev., 20:6-7. Matt., 25:32 |
36 Kinh Thánh. Khải Huyền, 20:6-7. Ma-thi-ơ, 25:32 |
[Commentary S6S11]
b. On Individualization —b. Về Biệt ngã hóa
(a.) The Work of the Solar Angels |
(a.) Công việc của các Thái dương Thiên Thần |
|
Let us briefly consider the general construction of the body of the Ego enumerating its component parts and bearing in mind that the form is ever prepared prior to occupancy. From the study of this body, we can get some idea of, and some light upon macrocosmic Individualization. |
Chúng ta hãy lược xét cấu trúc tổng quát của thể của Chân ngã, liệt kê các bộ phận cấu thành của nó và ghi nhớ rằng hình tướng luôn được chuẩn bị trước khi có sự cư ngụ. Từ việc khảo cứu thể này, chúng ta có thể có đôi điều về, và chút ánh sáng soi vào Biệt ngã hóa vũ trụ. |
|
The causal body, called sometimes (though inaccurately) the “karana sarira,” has its place on the third subplane of the mental plane, the lowest abstract plane, and the one whereon the Ray of the third Logos provides the necessary “light for construction.” (This is because each subplane comes specially under the influence of its Number, Name, or Lord.) When the hour [708] strikes and the vehicles for buddhi are to be coordinated certain great Beings, Lords of the Flame, or Manasadevas, through driving external force, come in conjunction with the material of that subplane, and vitalize it with Their Own energy. They form a new and positive impulse which coordinates the material of the plane and produces a temporary balancing of forces. Hence the meaning of the “white,” or transparent condition of the new causal body. It remains with the newborn ego first to upset the equilibrium, and then to regain it, at the close of the process, producing a radiant form, full of primal colors. |
Thể nguyên nhân, đôi khi được gọi (dù không chuẩn xác) là “karana sarira,” có vị trí trên cõi phụ thứ ba của cõi trí, là cõi trừu tượng thấp nhất, và là cõi mà trên đó Cung của Đấng Thượng đế thứ ba cung ứng “ánh sáng dành cho kiến tạo.” (Điều này là vì mỗi cõi phụ đặc biệt chịu ảnh hưởng của Con số, Danh xưng, hay Vị Chủ của nó.) Khi giờ [708] điểm đến và các vận cụ cho Bồ đề cần được phối hợp, một số Vị Vĩ Đại, các Chúa Tể của Lửa, hay các Manasadeva, bằng xung lực cưỡng hành từ bên ngoài, đến phối hiệp với chất liệu của cõi phụ đó, và tiếp sinh lực cho nó bằng chính năng lượng của Các Ngài. Các Ngài tạo thành một xung lực mới và dương, phối hợp chất liệu của cõi và tạo ra một thế quân bình tạm thời của các lực. Do đó ý nghĩa của trạng thái “trắng,” hay trong suốt của thể nguyên nhân mới. Việc còn lại là của chân ngã sơ sinh—trước hết phá vỡ quân bình ấy, rồi giành lại nó vào cuối tiến trình, tạo ra một hình tướng rạng ngời, đầy những sắc màu nguyên thủy. |
|
At the coming in of the Manasadevas to produce self-consciousness and to bring about the incarnation of the divine Egos, four things occur on that plane. If the student adds to these four those which have been already imparted in various occult books anent the effect of individualization on animal man and his appearance as a self-conscious identity on the physical plane, a working hypothesis is provided whereby man can scientifically undertake his own unfoldment. These four are given in the order of their appearance in time and space: |
Khi các Manasadeva đi vào để hình thành tự ý thức và đưa đến sự nhập thể của các Chân ngã thiêng liêng, bốn điều xảy đến trên cõi đó. Nếu môn sinh thêm vào bốn điều này những điều đã được truyền trong các sách huyền linh khác nhau liên quan đến hiệu ứng của biệt ngã hóa trên người thú và sự xuất hiện của y như một Đồng Nhất tự ý thức trên cõi hồng trần, một giả thuyết công cụ được cung cấp nhờ đó con người có thể tiến hành một cách khoa học sự khai mở của chính mình. Bốn điều này được nêu theo thứ tự xuất hiện của chúng trong thời gian và không gian: |
|
First. There appear upon the third subplane of the mental plane certain vibratory impulses—nine in number—corresponding to the fivefold vibration of these Manasadevas in conjunction with the fourfold vibration set up from below and inherent in the matter of this subplane, the fifth from the lower standpoint. This produces “the ninefold egoic lotus,” which is at this stage tightly closed, the nine petals folded one upon the other. They are vibrant, and scintillating “light” but not of excessive brightness. These “lotus buds” are in groups, according to the influence of the particular ones of the fivefold Dhyanis Who are acting upon it and Who form it out of Their own substance, coloring it faintly with the “fire of manas.” [709] |
Thứ nhất. Trên cõi phụ thứ ba của cõi trí xuất hiện những xung lực rung động nhất định—chín về số lượng—tương ứng với rung động ngũ phân của các Manasadeva này liên hiệp với rung động tứ phân được dấy lên từ bên dưới và vốn tiềm tàng trong chất liệu của cõi phụ này, là cõi thứ năm xét theo quan điểm từ dưới lên. Điều này tạo ra “hoa sen chân ngã chín cánh,” ở giai đoạn này khép chặt, chín cánh gấp vào nhau. Chúng rung hoạt, và chói lấp “ánh sáng” nhưng chưa phải quá chói chang. Những “nụ sen” này kết thành nhóm, tùy theo ảnh hưởng của từng vị trong số các Dhyani ngũ phân đang tác động lên nó và hình thành nó từ chính chất liệu của Các Ngài, điểm sắc nhẹ bằng “lửa của manas.” [709] |
|
Second. There appears a triangle on the mental plane, produced by manasic activity, and this triangle of fire begins slowly to circulate between the manasic permanent atom, and a point at the center of the egoic lotus, and thence to the mental unit, which has appeared upon the fourth subplane through innate instinct approximating mentality. This triangle of fire, which is formed of pure electrical manasic force, waxes ever brighter until it produces an answering vibration from both the lower and the higher. This triangle is the nucleus of the antahkarana. The work of the highly evolved man is to reduce this triangle to a unity, and by means of high aspiration (which is simply transmuted desire affecting mental matter) turn it into the Path and thus reproduce in a higher synthetic form the earlier “path” along which the descending Spirit came to take possession of its vehicle, the causal body, and from thence again work through the lower personal self. |
Thứ nhì. Trên cõi trí xuất hiện một tam giác, được tạo ra bởi hoạt động manasic, và tam giác lửa này bắt đầu chậm rãi lưu chuyển giữa nguyên tử trường tồn manas và một điểm ở trung tâm của hoa sen chân ngã, rồi từ đó đến đơn vị hạ trí, vốn đã xuất hiện trên cõi phụ thứ tư nhờ bản năng bẩm sinh xấp xỉ tính trí. Tam giác lửa này, được cấu thành từ thuần lực điện manasic, ngày càng rực sáng cho đến khi tạo ra một rung đáp ứng từ cả thấp lẫn cao. Tam giác này là hạch của antahkarana. Công việc của người tiến hóa cao là quy tam giác này về nhất thể, và bằng nguyện vọng cao (đơn giản là dục vọng đã chuyển hóa, tác động trên chất trí) biến nó thành Thánh Đạo và như thế tái diễn—trên một hình thức tổng hợp cao hơn—“con đường” ban sơ mà dọc theo đó Linh hồn giáng trần đi xuống để chiếm lĩnh vận cụ của mình, là thể nguyên nhân, và từ đó lại làm việc xuyên qua bản ngã thấp. |
|
Third. At a certain stage of vibratory activity, the work of the Lords of the Flame having produced a body or form and a vibration calling for response, there occurs a practically simultaneous happening. |
Thứ ba. Ở một giai đoạn nhất định của hoạt động rung động, sau khi công việc của các Chúa Tể của Lửa đã tạo ra một thể hay hình tướng và một rung động kêu gọi sự đáp ứng, một biến cố hầu như đồng thời xảy ra. |
|
A downflow of buddhi takes place along the line of the manasic triangle until it reaches a point at the very center of the lotus. There, by the power of its own vibration, it causes a change in the appearance of the lotus. At the very heart of the lotus, three more petals appear which close in on the central flame, covering it closely, and remaining closed until the time comes for the revelation of the “jewel in the Lotus.” The egoic lotus is now composed of twelve petals, nine of these appear at this stage in bud form and three are completely hidden and mysterious. |
Một dòng giáng hạ của Bồ đề tuôn xuống dọc theo đường của tam giác manas cho đến khi nó chạm đến một điểm ngay tại trung tâm của hoa sen. Tại đó, bằng quyền năng rung động của chính nó, nó gây ra một biến chuyển trong diện mạo của hoa sen. Ngay giữa trái tim của hoa sen, xuất hiện thêm ba cánh khép vào ngọn lửa trung tâm, che phủ nó sát kẽ, và vẫn khép lại cho đến thời điểm đến để mặc khải “viên ngọc trong Hoa Sen.” Hoa sen chân ngã bấy giờ gồm mười hai cánh, chín cánh trong số này ở giai đoạn này vẫn là nụ và ba cánh hoàn toàn ẩn kín và bí nhiệm. |
|
At the same time, the three permanent atoms are enclosed within the lotus, and are seen by the clairvoyant as three points of light in the lower part of the bud, [710] beneath the central portion. They form at this stage a dimly burning triangle. The causal body, though only in an embryonic condition, is now ready for full activity as the aeons slip away, and is complete in all its threefold nature. The matter aspect, which concerns the material form of the man in the three worlds, or his active intelligent personal self can be developed and controlled through the medium of the mental unit, the astral permanent atom and the physical permanent atom. The Spirit aspect lies concealed at the heart of the lotus, in due course of time to stand revealed when the manasadevas have done their work. The will that persists forever is there. The consciousness aspect embodying the love-wisdom of the divine Ego as it reveals itself by the means of mind is predominantly there, and in the nine petals and their vibratory capacity lies hid all opportunity, all innate capacity to progress, and all the ability to function as a self-conscious unit, that entity we call Man. 37 Mahadeva sits at the heart, Surya or Vishnu reveals Him in His essence as the Wisdom of Love and the Love of Wisdom, and Brahma, the Creative Logos makes that revelation possible. The Father in [711] Heaven is to be revealed through the Christ, the Son, by the method of incarnation made possible through the work of the Holy Spirit. All this has been brought about by the sacrifice and instrumentality of certain cosmic entities who “offer Themselves” up in order that Man may be. From their very essence, they give out that which is needed to produce the individualizing principle, and that which we call “self-consciousness,” and thus enable the divine Spirit to enter into fuller life by means of limitation by form, by means of the lessons garnered through a long pilgrimage, and through the “assimilation of manifold existences.” |
Đồng thời, ba nguyên tử trường tồn được bao trong hoa sen, và được nhà thông nhãn nhìn thấy như ba điểm sáng nơi phần dưới của nụ, [710] bên dưới phần trung tâm. Ở giai đoạn này, chúng tạo thành một tam giác lửa le lói. Thể nguyên nhân, dù chỉ ở trạng thái bào thai, giờ đã sẵn sàng cho hoạt động trọn vẹn khi các đại kiếp trôi qua, và hoàn chỉnh trong toàn bộ bản chất tam phân của nó. Phương diện chất liệu, liên hệ với hình tướng vật chất của con người trong ba cõi, hay bản ngã thấp hoạt động thông minh của y, có thể được phát triển và chế ngự thông qua trung gian của đơn vị hạ trí, nguyên tử trường tồn cảm dục và nguyên tử trường tồn hồng trần. Phương diện Tinh thần ẩn tàng ở tâm của hoa sen, đúng thời sẽ hiển lộ khi các Manasadeva hoàn tất công việc của Các Ngài. Ý chí hằng hữu vẫn bền bỉ ở đó. Phương diện tâm thức hiện thân bác ái–minh triết của Chân ngã thiêng liêng khi nó tự bày tỏ bằng phương tiện của trí ở đó là chính yếu, và nơi chín cánh cùng năng lực rung động của chúng ẩn tàng mọi cơ hội, mọi năng lực bẩm sinh để tiến bước, và mọi khả năng vận hành như một đơn vị tự ý thức, là thực thể mà chúng ta gọi là Con Người. 37 Mahadeva ngự ở trái tim, Surya hay Vishnu hiển lộ Ngài trong bản thể như Minh Triết của Tình Thương và Tình Thương của Minh Triết, và Brahma, Đấng Thượng đế Sáng Tạo làm cho sự mặc khải ấy khả hữu. “Đức Cha” trên [711] Trời được hiển lộ qua “Đức Con,” là Đức Christ, bằng phương pháp “nhập thể” được làm khả hữu nhờ công việc của “Đức Thánh Linh.” Tất cả điều này đã được mang lại bằng sự hy sinh và qua khí cụ của một số Thực thể vũ trụ, những vị “tự hiến dâng,” để Con Người có thể hiện hữu. Từ chính bản thể của mình, họ đã ban xuất cái cần thiết để tạo ra nguyên lý cá thể hóa, điều chúng ta gọi là “tự ý thức,” và như thế cho phép Tinh thần thiêng liêng đi vào đời sống viên mãn hơn bằng sự hạn định bởi hình tướng, bằng các bài học thu lượm được qua cuộc lữ hành dài, và qua “sự đồng hóa vô số tồn tại.” |
|
37 The Solar Lord, the Divine Ego. Of the two courses of soul development referred to by H. P. B. in her “Voice of the Silence” as the path of “Dhyana” and “Dharma” or the “Paramitas,” Ramayana is based upon the latter. The “Seven Portals,” referred to in the book of the same name, correspond very probably to the seven cantos of this sacred poem. But I have read only the first canto, and I shall give you the analysis of it, so far as I know. Excluding the preface to the poem, the first thing, in the first canto, is a description of the peculiar circumstances that attended Rama’s birth in Dasaratha’s family. Dasaratha is, as you all know, a descendant of solar kings, who began to rule over this earth from the time of Manu the Vyvaswatha. As his name implies, he is a king whose car can travel in ten directions, or taking the occult microcosmic sense, he is king of the human body, which has ten senses of action and perception that connect it with the ten directions. You are thoroughly familiar with the idea that our ancient philosophers used to describe the body as a town with nine gates. The nine gates are, as you know, the nine orifices of the human body. If you add to the nine one more for the orifice known as the Brahma-rundra or the door of Brahma, you get ten gates corresponding to the ten directions. The word “Dasaratha” indicates the consciousness connected with our senses, which consciousness is inferior to the consciousness which we call mind. |
37 Vị Chủ tể Thái dương, Chân ngã Thiêng Liêng. Trong hai nẻo phát triển của linh hồn mà Bà H. P. B. đề cập trong “Tiếng Nói của Im Lặng” là con đường “Dhyana” và “Dharma” hay “Paramita,” bộ sử thi Ramayana đặt nền trên con đường thứ hai. “Bảy Cửa,” được nhắc đến trong tác phẩm cùng tên, rất có thể tương ứng với bảy khúc của thiên trường ca linh thánh này. Nhưng tôi chỉ đọc khúc đầu, và tôi sẽ cho các bạn bản phân tích của nó, trong phạm vi hiểu biết của tôi. Bỏ qua lời tựa của thiên thơ, điều đầu tiên trong khúc đầu là mô tả những hoàn cảnh đặc dị đi kèm với sự giáng sinh của Rama trong gia tộc của Dasaratha. Dasaratha, như các bạn đều biết, là hậu duệ của các vương triều Thái dương, bắt đầu trị vì trái đất này từ thời Manu Vyvaswatha. Như tên ông gợi ý, ông là vị vương có cỗ xa có thể đi trong mười phương, hay nếu lấy nghĩa huyền linh nơi tiểu vũ trụ, ông là vua của thân người, vốn có mười căn của hành và tri, nối nó với mười phương. Các bạn đã quen thuộc với ý tưởng rằng các triết gia cổ của chúng ta thường mô tả thân thể như một thành có chín cửa. Chín cửa là, như các bạn biết, chín khiếu của thân thể con người. Nếu thêm vào chín cái ấy một cái nữa là khiếu gọi là Brahma-rundra hay cửa của Brahma, bạn có mười cửa tương ứng với mười phương. Từ “Dasaratha” chỉ ý thức liên kết với các giác quan của chúng ta, là thứ ý thức thấp hơn ý thức mà chúng ta gọi là thể trí. |
|
– The Theosophist, Vol. XIII, p. 340. |
– The Theosophist, Tập XIII, tr. 340. |
|
The fourth point to be noted is that when these three events have occurred, the light or fire that circulates along the manasic triangle is withdrawn to the center of the lotus, and this “prototype” of the future antahkarana, if so it may be expressed, disappears. The threefold energy of the petals, the atoms and the “jewel” is now centralized, because impulse must now be generated which will produce a downflow of energy from the newly made causal vehicle into the three worlds of human endeavor. |
Điểm thứ tư cần ghi nhận là khi ba biến cố này đã xảy ra, ánh sáng hay lửa lưu chuyển dọc theo tam giác manas được rút về trung tâm của hoa sen, và “mẫu hình” của antahkarana tương lai, nếu có thể diễn đạt như vậy, biến mất. Năng lượng tam phân của các cánh, các nguyên tử và “viên ngọc” giờ đây được tập trung, vì cần tạo xung lực sẽ dẫn đến một dòng giáng hạ của năng lượng từ vận cụ nguyên nhân mới tạo xuống ba cõi giới của nỗ lực nhân loại. |
|
We have dealt with the method of individualization through the coming in of the Lords of the Flame because it is the prime method in this solar system; whatever methods may be pursued in the varying schemes and chains, this—at the middle stage—is the universal rule. Karmic conditions having to do with a planetary Logos may effect modifications, and bring into action manasadevas whose activity may not be the same in working detail, but the results are ever similar, and the divine Egos in their causal bodies have analogous instruments to work through. […] |
Chúng ta đã đề cập phương pháp biệt ngã hóa qua sự đến của các Chúa Tể của Lửa vì đó là phương pháp chủ đạo trong hệ mặt trời này; bất kể các phương pháp có thể được theo đuổi trong các hệ hành tinh và dãy khác nhau ra sao, thì—ở giai đoạn giữa—đây vẫn là quy luật phổ quát. Các điều kiện nghiệp quả liên quan đến một Hành Tinh Thượng đế có thể tạo ra các điều chỉnh, và đưa vào hoạt động các Manasadeva có hoạt động không đồng nhất trong chi tiết công việc, nhưng kết quả vẫn luôn tương tự, và các Chân ngã thiêng liêng trong những thể nguyên nhân của họ có những khí cụ tương tự để vận dụng. […] |
|
A final point which is of profound significance is that the Agnishvattas construct the petals out of Their Own substance, which is substance energized by the principle [712] of “I-ness,” or ahamkara. They proceed to energize the permanent atoms with Their own positive force, so as to bring the fifth spirilla in due course of time into full activity and usefulness. All possibility, all hopefulness and optimism, and all future success lies hid in these two points. |
Một điểm cuối, có ý nghĩa thâm sâu, là các Agnishvatta kiến tạo các cánh hoa từ chính chất liệu của Các Ngài, vốn là chất liệu được tác năng hóa bởi nguyên lý [712] “Ta-tính,” hay ahamkara. Các Ngài kế đó tác năng hóa các nguyên tử trường tồn bằng lực dương của chính mình, hầu đưa đường xoắn ốc thứ năm, đúng thời, vào hoạt động và hữu dụng trọn vẹn. Mọi khả tính, mọi hy vọng và lạc quan, và mọi thành công tương lai đều ẩn nơi hai điểm này. |
|
As we have seen, the work of the Agnishvattas on the mental plane resulted in a downflow of force or energy from the Monad (or Spirit) and this, in conjunction with the energy of the lower quaternary produced the appearance of the body of the Ego on the mental plane. In ordinary electric light, we have a faint illustration of the thought I seek to convey. By the approximation of the two polarities, light is created. By an analogous type of electrical phenomena, the light of the Monad shines forth, but we have to extend the idea to the subtler planes, and deal with seven types of force or energy in connection with the one polarity and with four in connection with the other. A scientific formula for the process of individualization conveys this dual approximation with its differing types of energy in one symbol and a number, but it cannot here be revealed. |
Như ta đã thấy, công việc của các Agnishvatta trên cõi trí kết quả là một dòng giáng hạ của lực hay năng lượng từ Chân thần (hay Tinh thần) và điều này, phối hiệp với năng lượng của tứ phân thấp, đã đưa đến sự xuất hiện của thể của Chân ngã trên cõi trí. Trong ánh sáng điện thông thường, chúng ta có một minh họa mờ nhạt cho ý tưởng tôi muốn truyền đạt. Do sự xấp xỉ của hai cực tính, ánh sáng được tạo ra. Bằng một loại hiện tượng điện lực tương tự, ánh sáng của Chân thần bừng chiếu, nhưng chúng ta phải mở rộng ý niệm này lên các cõi vi tế hơn, và xét đến bảy loại mãnh lực hay năng lượng liên hệ với một cực tính, và bốn loại liên hệ với cực tính kia. Một công thức khoa học cho tiến trình biệt ngã hóa nêu biểu sự xấp xỉ song đôi này với các loại năng lượng khác nhau bằng một ký hiệu và một con số, nhưng nó không thể được tiết lộ tại đây. |
|
The Manasadevas are themselves energized by force from the cosmic mental plane—a force which has been in operation ever since the individualization of the solar Logos in kalpas far distant. They, in Their corporate nature, embody the will or purpose of the Logos, and are the cosmic “prototypes” of our solar Angels. The solar Angels on the mental plane of the system embody as much of that will and purpose as the Logos can work through in one single incarnation and as They, in Their groups, can develop. They work, therefore, through egoic groups and primarily, after individualization, upon the mental units of the separated identities who go to the constituency of the groups. This is Their secondary work. Their work in part might be described as follows: [713] |
Các Manasadeva tự mình được tác năng hóa bởi lực đến từ cõi trí vũ trụ—một lực đã vận hành kể từ thời biệt ngã hóa của Thái dương Thượng đế trong những kalpa xa xưa. Các Ngài, trong bản thể đoàn thể, hiện thân ý chí hay mục đích của Thượng đế, và là “mẫu hình” vũ trụ của các thiên thần thái dương của hệ chúng ta. Các thiên thần thái dương trên cõi trí của hệ hiện thân chừng mực ý chí và mục đích đó mà Thượng đế có thể tác động qua trong một lần nhập thể duy nhất và chừng mực mà Các Ngài, trong các nhóm của mình, có thể phát huy. Do đó, Các Ngài làm việc xuyên qua các nhóm chân ngã và chủ yếu, sau biệt ngã hóa, tác động lên các đơn vị hạ trí của các Đồng Nhất biệt lập đi vào thành phần của các nhóm. Đây là công việc thứ yếu của Các Ngài. Công việc của Các Ngài, một phần, có thể được mô tả như sau: [713] |
|
Primarily, they bring about the union of the divine Ego and the lower personal self. This has been dealt with. |
Trước hết, Các Ngài đưa đến sự hợp nhất giữa Chân ngã thiêng liêng và bản ngã thấp. |
|
Secondly, they work through the mental units, impressing upon the atom that portion, microscopic as it may be, of the logoic purpose which the individual can work out on the physical plane. At first their influence is unconsciously assimilated, and the man responds to the plan blindly and ignorantly. Later, as evolution proceeds, their work is recognized by the man in a conscious cooperation with the plan of evolution. 38 After the third initiation, the will or purpose aspect predominates. |
Thứ đến, Các Ngài làm việc xuyên qua các đơn vị hạ trí, ghi ấn lên nguyên tử phần vi, dù nhỏ nhiệm đến đâu, của mục đích thuộc Thượng đế mà cá nhân có thể triển khai trên cõi hồng trần. Ban đầu ảnh hưởng của Các Ngài được tiếp nhận một cách vô thức, và con người đáp ứng với Thiên Cơ một cách mù quáng và ngu muội. Về sau, khi tiến hóa tiếp diễn, công việc của Các Ngài được con người nhận ra qua sự cộng tác có ý thức với Thiên Cơ tiến hóa. 38 Sau lần điểm đạo thứ ba, phương diện ý chí hay mục đích thắng thế. |
|
It might here be noted that it is the positive force of the Manasadevas that produces initiation. Their function is embodied by the Hierophant. He, seeing before Him the vehicle for buddhi, passes the voltage from the higher planes through His body, and by means of the Rod (charged with positive manasic force) transmits this higher manasic energy to the initiate so that he is enabled to know consciously and to recognize the plan for his group-center through the immensely increased stimulation. This force descends from the manasic permanent atom via the antahkarana and is directed to whichever center the Hierophant—under the Law—sees should be stimulated. He stabilizes the force, and regulates its flow as it circulates throughout the egoic Lotus, so that when the work of unfoldment is accomplished the sixth principle at the Heart of the Lotus can stand revealed. After each initiation the Lotus is more [714] unfolded and light from the center begins to blaze forth—a light or fire which ultimately burns through the three enshrining petals, and permits the full inner glory to be seen, and the electric fire of spirit to be manifested. As this is brought about on the second subplane of the mental plane (whereon the egoic lotus is now situated) a corresponding stimulation takes place in the dense substance which forms the petals or wheels of the centers on the astral and etheric levels. |
Cũng có thể lưu ý ở đây rằng chính lực dương của các Manasadeva tạo ra sự điểm đạo. Chức năng của họ được hiện thân bởi Đấng Điểm đạo. Ngài, thấy trước Mình vận cụ dành cho Bồ đề, truyền thế điện thế từ các cõi cao qua thân thể Ngài, và bằng Thần Trượng (được nạp lực dương manasic) chuyển lực manasic cao này cho điểm đạo đồ để y có thể biết một cách hữu thức và nhận ra Thiên Cơ dành cho trung tâm-nhóm của y nhờ sự kích thích tăng tiến mạnh mẽ. Mãnh lực này tuôn xuống từ nguyên tử trường tồn manas qua antahkarana và được hướng đến bất cứ trung tâm nào mà Đấng Điểm đạo—theo Định luật—thấy cần được kích thích. Ngài làm vững bền mãnh lực, và điều hòa dòng chảy của nó khi nó lưu chuyển suốt Hoa Sen Chân Ngã, để đến khi công việc khai nở hoàn tất, nguyên lý thứ sáu nơi Tâm của Hoa Sen có thể hiển lộ. Sau mỗi lần điểm đạo, Hoa Sen càng [714] khai mở và ánh sáng từ trung tâm bắt đầu bừng phát—một ánh sáng hay lửa cuối cùng thiêu xuyên ba cánh che chở, cho phép toàn bộ quang huy nội tại được thấy, và lửa điện của Tinh thần hiển lộ. Vì điều này được thực hiện trên cõi phụ thứ hai của cõi trí (nơi Hoa Sen Chân Ngã hiện đang an vị) nên một kích thích tương ứng diễn ra nơi chất đậm đặc cấu thành các cánh hay bánh xe của các trung tâm trên các tầng cảm dục và dĩ thái. |
|
38 The Sacrificer or Yajamana. The yajamana is the person who has sacrificed himself for the good of the world and who has undertaken to mould the affairs of it, in obedience to the law. If the human body be taken as the sacrificial ground, the manas in him is the yajamana. All the doings of man in all his life from birth to death, form one grand yagnic process that is conducted by the true human entity called the Manas. He, who is willing to sacrifice his body, speech, and thought to the good of all the world, is a real yagnika and all the higher lokas are reserved for him. The central keynote of yagnika’s life is to do good unto all, irrespective of caste and creed even as the sun shines for all. |
38 Vị Tế Chủ Lễ Hiến Tế hay Yajamana. Yajamana là người đã hy sinh chính mình vì thiện ích của thế gian và đã đảm nhận việc nắn đúc công việc của nó, vâng thuận theo Định luật. Nếu xem thân người như là đàn tế, thì manas trong y là vị yajamana. Mọi tác động của con người trong suốt cuộc đời từ sinh đến tử, kết thành một đại tiến trình yagnic được điều khiển bởi chân nhân thực sự gọi là Manas. Ai sẵn lòng hy sinh thân, khẩu, ý của mình cho lợi ích của toàn thế giới, người ấy là bậc yagnika đích thực và tất cả các cõi lokas cao dành cho y. Chủ âm trung tâm của đời sống yagnika là làm điều thiện cho tất cả, bất kể giai cấp và tín ngưỡng, như mặt trời tỏa sáng cho hết thảy. |
|
– Some Thoughts on the Gita, page 90. |
– Some Thoughts on the Gita, trang 90. |
b.) Individualization and the Races |
b.) Biệt ngã hóa và các Giống dân |
|
If this treatise serves no other purpose than to direct the attention of the scientific and philosophic students to the study of force or energy in man and in groups, and to interpret man and the human family in terms of electrical phenomena, much good will have been accomplished. The polarity of a man, of a group, and of a congery of groups, the polarity of the planets and their relationship to each other and to the Sun, the polarity of the solar system and its relationship to other systems, the polarity of one plane to another, and of one principle to another, the polarity of the subtler vehicles, and the scientific application of the laws of electricity to the totality of existence on the physical plane will bring about a revolution upon the planet second only to that effected at the time of individualization. I would point out here a certain significant fact which students will do well carefully to consider. |
Nếu chuyên luận này không phục vụ mục đích nào khác ngoài việc hướng sự chú ý của các môn sinh khoa học và triết học đến việc khảo cứu mãnh lực hay năng lượng nơi con người và trong các nhóm, và diễn giải con người và gia đình nhân loại theo thuật ngữ của hiện tượng điện lực, thì cũng đã đạt được nhiều điều. Cực tính của một con người, của một nhóm, và của một tập hợp nhóm, cực tính của các hành tinh và mối liên hệ của chúng với nhau và với Mặt Trời, cực tính của hệ mặt trời và mối liên hệ của nó với các hệ khác, cực tính của cõi này với cõi khác, và của nguyên khí này với nguyên khí khác, cực tính của các vận cụ vi tế, và sự áp dụng có tính khoa học các định luật điện lực vào toàn thể hiện hữu trên cõi hồng trần sẽ mang lại một cuộc cách mạng trên hành tinh, chỉ thua kém cuộc cách mạng đã diễn ra vào thời biệt ngã hóa. Ở đây tôi muốn chỉ ra một sự kiện có ý nghĩa mà môn sinh nên cẩn thận suy xét. |
|
In the third root-race 39 individualization took place. It was an event which became possible through certain conditions and polar relationships, and because the scientific laws were understood and the Knowers took [715] advantage of a peculiar electrical condition to hasten the evolution of the race. It was electrical phenomena of a stupendous kind, and produced the “lights which ever burn.” It was the result of the knowledge of natural law and its adaptation to opportunity. |
Trong Giống dân gốc thứ ba 39 đã xảy ra biệt ngã hóa. Đó là một biến cố trở nên khả hữu nhờ những điều kiện và các liên hệ cực tính nhất định, và vì các định luật khoa học đã được hiểu biết và các bậc Thức giả đã [715] lợi dụng một điều kiện điện lực đặc dị để xúc tiến tiến hóa của giống dân. Đó là các hiện tượng điện lực thuộc loại khổng lồ, và tạo ra “những ánh đèn mãi mãi sáng.” Nó là kết quả của tri thức về định luật tự nhiên và sự thích ứng của định luật ấy với cơ hội. |
|
In the fourth root-race another adaptation of force occurred. Again time and opportunity were taken advantage of to open the door into the fifth kingdom by the method of forced initiation. A third type of electricity played its part in bringing about this event, and it is the effect of this electrical phenomen upon the units (who are themselves centers of energy) which—scientifically viewed—indicates a man’s suitability for the ceremony of initiation, and his availability as a transmitter of spiritual energy to the world. Every initiate is technically a transmitter of force and his work is consequently threefold: |
Trong Giống dân gốc thứ tư đã xảy ra một thích dụng lực khác nữa. Lại nữa, thời điểm và cơ hội được tận dụng để mở cánh cửa vào giới thứ năm bằng phương pháp điểm đạo cưỡng ứng. Một loại điện lực thứ ba đã đóng vai trò trong việc mang lại biến cố này, và chính hiệu ứng của hiện tượng điện lực này trên các đơn vị (vốn tự thân là các trung tâm năng lượng)—xét theo khoa học—chỉ ra sự thích hợp của một người cho nghi lễ điểm đạo, và khả năng của y làm kẻ truyền dẫn năng lượng tinh thần cho thế gian. Mỗi điểm đạo đồ, xét về kỹ thuật, là một kẻ truyền dẫn mãnh lực và công việc của y do đó là tam phân: |
|
1. To provide a threefold vehicle capable of the necessary resistance to the force and able to receive and hold it. |
Cung cấp một vận cụ tam phân có khả năng đề kháng cần thiết đối với mãnh lực và có thể tiếp nhận và gìn giữ nó. |
|
2. To transmit it as energy to the world which he serves. |
Truyền dẫn nó như năng lượng cho thế gian mà y phụng sự. |
|
3. To store up a certain amount of it for a twofold purpose: |
Tích trữ một lượng nhất định vì hai mục đích: |
|
a. To provide a reservoir of force for emergencies and for special work as required by the Great Ones. |
Cung cấp một hồ chứa mãnh lực cho các trường hợp khẩn trương và cho công việc đặc biệt theo yêu cầu của Các Đấng Cao Cả. |
|
b. To act as a dynamo for the immediate group which all advanced souls, disciples and initiates gather around them on some one or other of the planes in the three worlds. |
Làm “máy phát điện” cho nhóm trực cận mà mọi linh hồn tiến bộ, đệ tử và điểm đạo đồ đều kết tụ quanh họ trên một trong các cõi thuộc ba cõi giới. |
|
In the fifth root-race, another tremendous happening may be looked for, and the time lies immediately ahead. It had its beginning in the energy which eventually culminated in the world war. The first effect of the appearance of fresh electrical stimulation from extra-systemic [716] centers, is ever to bring about a primary destruction leading on to revelation. That which is imprisoned must be loosed. So it will be in this root-race, the fifth. Certain cosmic forces are at work and the full effect of their energy is not yet apparent. This incoming force, the Hierarchy will avail itself of in order to push forward the planetary plans. In every case the effect of the phenomenon is felt in some one or other of the kingdoms beside the human. In the individualization period, it is apparent that a tremendous stimulation took place in the animal kingdom—a stimulation which has persisted, and which has led to the phenomenon of “domestic animals” as we call them, and their relatively high stage of intelligence as compared to the wild animals. In Atlantean days the opening of the door into the fifth kingdom, or into the stage of buddhic consciousness, had a profound effect upon the vegetable kingdom. This effect can be seen working out in such results as are achieved by Burbank, and which are of a nature corresponding to the initiatory process in man, involving a rapid achievement of relative perfection. |
Trong Giống dân gốc thứ năm, có thể mong đợi một biến cố khổng lồ khác, và thời điểm ở ngay trước mắt. Nó đã có khởi đầu trong nguồn năng lượng rốt cuộc đã lên đến đỉnh trong đại chiến thế giới. Hiệu ứng đầu tiên của sự xuất hiện kích thích điện lực mới từ các trung tâm ngoài-hệ thống luôn là tạo ra một sự hủy diệt sơ cấp dẫn đến mặc khải. Cái bị giam phải được phóng thích. Sẽ như vậy trong giống dân gốc này, giống thứ năm. Những mãnh lực vũ trụ nhất định đang hoạt động và hiệu ứng trọn vẹn của năng lượng của chúng chưa hề hiển lộ hết. Huyền Giai sẽ tận dụng năng lượng đang đến này để thúc đẩy các kế hoạch hành tinh. Trong mọi trường hợp, hiệu ứng của hiện tượng ấy được cảm nhận ở một trong các giới ngoài giới nhân loại. Trong thời kỳ biệt ngã hóa, rõ ràng đã có một sự kích thích khổng lồ diễn ra trong giới động vật —một kích thích vẫn còn kéo dài, và dẫn đến hiện tượng “động vật nhà” như chúng ta gọi chúng, và trình độ trí tuệ tương đối cao của chúng so với thú hoang. Vào thời Atlantis, việc mở cánh cửa vào giới thứ năm, hay vào giai đoạn tâm thức Bồ đề, đã tạo một ảnh hưởng sâu xa trên giới thực vật. Ảnh hưởng này có thể thấy đang được thể hiện trong những kết quả như đã đạt bởi Burbank, và có bản chất tương ứng với tiến trình điểm đạo nơi con người, bao hàm một sự đạt đến nhanh chóng tình trạng hoàn hảo tương đối. |
|
In the tremendous event which is impending, in the great revelation which is near at hand, the Hierarchy will again take advantage of the time and the energy to bring about certain events which will work out primarily in the human kingdom but which will also be seen as force regeneration in the mineral kingdom. The energy, when first felt in the human kingdom, brought about the conditions which caused the tremendous activity which resulted in war, and which is causing the present world stress; in the mineral kingdom it affected certain of the minerals and elements, and the radioactive substances made their appearance. This characteristic (or radioactivity) of pitchblende and the other involved units is comparatively a new development under the evolutionary law, and one which, though latent, only [717] needed the drawing forth of the type of energy now beginning to pour in on the earth. This force began to flow in at the end of the eighteenth century, and its full effect is by no means yet felt, for it will be several hundred years before it passes away. By means of it, certain discoveries are possible, and the new order comes in upon it. The Great Ones, Who know the time and the hour, will bring about, in our root-race, that which corresponds to the occurrences in the earlier third and fourth races. |
Trong biến cố khổng lồ đang gần kề, trong đại mặc khải sắp đến, Huyền Giai sẽ lại tận dụng thời điểm và năng lượng để đưa đến những diễn tiến sẽ vận hành chủ yếu trong giới nhân loại nhưng cũng sẽ được thấy như sự tái sinh lực trong giới khoáng vật. Năng lượng, khi lần đầu được cảm trong giới nhân loại, đã mang lại những điều kiện gây nên hoạt động ghê gớm đưa đến chiến tranh, và đang gây ra căng thẳng thế giới hiện tại; trong giới khoáng vật nó ảnh hưởng đến một số khoáng chất và nguyên tố, và các chất phóng xạ đã xuất hiện. Đặc tính này (hay tính phóng xạ) của pitchblende và các đơn vị liên hệ là một phát triển tương đối mới dưới định luật tiến hóa, và một đặc tính vốn tiềm ẩn, chỉ [717] cần được khơi dậy bởi loại năng lượng hiện đang bắt đầu tuôn xuống địa cầu. Năng lượng này bắt đầu lưu nhập vào cuối thế kỷ XVIII, và ảnh hưởng trọn vẹn của nó chưa hề được cảm nhận, vì phải vài trăm năm nữa nó mới qua đi. Nhờ nó, một số khám phá trở nên khả hữu, và trật tự mới đang xuất hiện trên nền tảng của nó. Các Đấng Cao Cả, Đấng biết thời và giờ, sẽ đưa đến, trong giống dân gốc của chúng ta, những điều tương ứng với các biến cố trong giống thứ ba và thứ tư trước kia. |
|
39 Root races. The Secret Doctrine teaches that these seven groups of human units inhabit seven continents during evolution.—S. D., II, 6, 7, 8. |
39 Các giống dân gốc. Secret Doctrine dạy rằng bảy nhóm đơn vị nhân loại này cư trú trên bảy lục địa trong tiến trình tiến hóa.—S. D., II, 6, 7, 8. |
|
a. First race—The Imperishable Sacred Land. |
Giống thứ nhất—Miền Linh Thánh Bất Hoại. |
|
b. The 2nd race—The Hyperborean Land. |
Giống thứ hai—Miền Hyperborea. |
|
c. The 3rd race—Lemurian. |
Giống thứ ba—Lemuria. |
|
d. The 4th race—Atlantean. |
Giống thứ tư—Atlantean. |
|
e. The 5th race—Aryan. |
Giống thứ năm—Arya. |
|
Two more races win succeed the present one. |
Hai giống nữa sẽ nối tiếp giống hiện tại. |
(c.) Methods of Individualization |
(c.) Các phương thức Biệt ngã hóa |
|
We have seen how the characteristic method of individualization in this solar system is the result of force emanating from the cosmic mental plane, which sweeps into activity those entities whose function it is to form the body of the ego out of their own living substance on the mental plane and thus, through their own quality and nature, endow human units on the physical plane with the faculty of self-consciousness, thus producing Man. It is their work also to energize the mental units of all men, and to coordinate, by means of the force which they embody, and to energize the sheaths of the threefold lower man, so that they may in due course of time intelligently express the will and purpose of the indwelling Thinker. Through the carrying out of this function in the case of the human family, certain planetary and systemic conditions are brought about. |
Chúng ta đã thấy phương pháp đặc trưng của biệt ngã hóa trong hệ mặt trời này là kết quả của mãnh lực phát ra từ cõi trí vũ trụ, vốn khơi hoạt những thực thể có chức năng kiến tạo thể của chân ngã từ chính sinh chất sống của Các Ngài trên cõi trí và như thế, qua phẩm tính và bản chất riêng của Các Ngài, ban cho các đơn vị nhân loại trên cõi hồng trần năng lực tự ý thức, qua đó tạo thành Con Người. Công việc của Các Ngài còn là tác năng hóa các đơn vị hạ trí của mọi người, và phối hợp, bằng lực mà Các Ngài hiện thân, và tác năng hóa các thể của con người tam phân thấp, hầu để đúng thời các thể này có thể biểu lộ một cách thông minh ý chí và mục đích của Đấng Tư duy nội tại. Qua việc thực thi chức năng này trong trường hợp gia đình nhân loại, những điều kiện hành tinh và hệ thống nhất định được mang lại. |
|
The dense and etheric bodies of the Logos and of the planetary Logoi are merged, and one coherent vehicle of expression is provided for these cosmic Entities. |
Các thể đậm đặc và dĩ thái của Thượng đế và của các Hành Tinh Thượng đế được dung hợp, và một vận cụ biểu đạt nhất quán được cung cấp cho các Thực thể vũ trụ này. |
|
In the producing of self-consciousness in the human family, the full conscious occupation by the Logos involved is consummated. It is the moment of fruition, and (from a certain esoteric standpoint) marks the attainment of one perfected Septenary. The three involutionary or elemental kingdoms and the three subhuman [718] kingdoms find their seventh principle in the fourth kingdom in nature, 3 + 4 = 7. When the life of God has circled through these seven kingdoms, then full self-consciousness is achieved from a certain relative standpoint, and the Son is on the way to attainment. This relative perfection has then to be carried on to other stages, but they are stages in which the separated self-consciousness of the Identities concerned (whether human or planetary) must eventually merge itself in universal consciousness. |
Trong tiến trình hình thành tự ý thức nơi gia đình nhân loại, sự cư ngụ trọn vẹn bằng tâm thức của Vị Thượng đế hữu quan được hoàn tất. Đó là khoảnh khắc kết trái, và (từ một lập trường huyền bí nhất định) đánh dấu sự đạt thành của một Thất phân viên mãn. Ba giới giáng hạ hay hành khí và ba giới tiền nhân loại [718] tìm thấy nguyên lý thứ bảy của chúng trong giới thứ tư của thiên nhiên, 3 + 4 = 7. Khi Sự Sống của Thượng đế đã tuần hoàn qua bảy giới này, thì tự ý thức viên mãn được thành tựu từ một quan điểm tương đối nào đó, và Người Con đang trên đường đạt mục đích. Sự hoàn thiện tương đối này rồi phải được tiếp tục qua những giai đoạn khác, nhưng đó là các giai đoạn trong đó tự ý thức tách biệt của các Bản Ngã hữu quan (dù là nhân loại hay hành tinh) rốt cuộc phải hòa nhập vào tâm thức phổ quát. |
|
Certain centers in the bodies logoic and planetary are also stimulated and the Rays (if it might be so expressed) become radioactive. It is this radiation which will eventually bring about conscious group activity, which will lead to interaction between the planets, and which, under the Law of Attraction and Repulsion, will bring about eventual synthesis. |
Một số trung tâm trong các hiện thể thuộc Thượng đế và thuộc hành tinh cũng được kích hoạt và các Cung (nếu có thể nói như vậy) trở nên phóng xạ. Chính sự bức xạ này rốt cuộc sẽ đưa đến hoạt động nhóm có ý thức, dẫn tới sự tương tác giữa các hành tinh, và, dưới Định luật Hút và Đẩy, sẽ đưa đến sự tổng hợp sau cùng. |
|
On extra-systemic or cosmic levels, the individualization process produces a corresponding activity in the egoic body of the Logos, and hence increased vibration in that center in the body of the ONE ABOUT WHOM NOUGHT MAY BE SAID, which our Logos represents. It also produces a reaction or “occult recognition” in the prototype of the Septenate, or in the seven Rishis of the Great Bear, and this reaction in cosmic circles will persist until the end of the mahamanvantara, when the Logos is set free (even though temporarily), from physical plane existence. |
Trên các cấp độ ngoại hệ hay vũ trụ, tiến trình biệt ngã hóa tạo ra một hoạt động tương ứng trong thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế, và do đó làm gia tăng rung động tại trung tâm trong hiện thể của Đấng Bất Khả Tư Nghị, vốn do Thái dương Thượng đế của chúng ta đại diện. Nó cũng tạo ra một phản ứng hay “nhận biết huyền bí” nơi khuôn mẫu của Bộ Thất, tức nơi bảy Rishi của chòm Đại Hùng, và phản ứng này trong các vòng tròn vũ trụ sẽ kéo dài cho đến cuối của Đại giai kỳ sinh hóa, khi Thái dương Thượng đế được giải phóng (dù chỉ tạm thời) khỏi tồn tại trên cõi hồng trần. |
|
It also brings about a setting loose of force from the cosmic mental plane which is cyclic in character. In this round, the fourth, the maximum force of this cycle was felt in the third root race. In the next round, during the fourth root race, and for a very brief period, a fresh cycle will reach its zenith, and will again open the door of individualization in order to permit the entry of certain very advanced Egos who are seeking [719] incarnation in order to carry out a special piece of work. This round will provide no bodies adequate to their need. The next round may do so if the plans proceed as anticipated. In this case the Manasadevas concerned will not individualize animal men as in the previous round, but will stimulate the mental germ in those members of the present human family who—as H. P. B. says—though apparently men, are without the spark of mind. 40 During the next seven hundred years, these low aboriginal races will practically die out and will not—in this round—reincarnate. They will be rejected. In the next round opportunity will again occur, and the Manasadevas will again renew their work of forming individualistic nuclei for the development of self-consciousness. The Egos awaiting opportunity will not, of course, enter in until the human type of that era is sufficiently refined for their purpose. They are concerned with the unfoldment of the sixth petal of the logoic egoic Lotus, and are of such a nature that we can scarcely conceive of them. They are on the line of the Buddhas of Activity, but the above named are free for this mahamanvantara, whereas these particular Egos have yet somewhat to work out. They could only “come in” in the middle of the fifth round, and were a group of initiates who arrested their own evolution (technically speaking) in order to take up a special piece of work on the planet Vulcan; therefore, they must return to continue and complete that which has been left undone. Owing to the results of their experience on Vulcan, the physical vehicle necessitated is of such an order that they could not at this time, and in this round, incarnate without disaster. |
Nó cũng đưa đến sự phóng thích một mãnh lực từ cõi trí vũ trụ, vốn mang tính chu kỳ. Trong cuộc tuần hoàn này, cuộc thứ tư, lực tối đại của chu kỳ này đã được cảm nhận trong giống dân gốc thứ ba. Trong cuộc tuần hoàn kế tiếp, trong giống dân gốc thứ tư, và chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, một chu kỳ mới sẽ đạt đến đỉnh cực, và sẽ lại mở cánh cửa của sự biệt ngã hóa để cho phép một số Chân ngã rất tiến bộ đang tìm [719] sự lâm phàm nhằm thực hiện một công việc đặc thù đi vào. Cuộc tuần hoàn này sẽ không cung cấp các thể thích hợp cho nhu cầu của họ. Cuộc tuần hoàn kế tiếp có thể làm được điều đó nếu các kế hoạch diễn tiến như dự liệu. Trong trường hợp này các Manasadeva hữu quan sẽ không biệt ngã hóa những người thú như trong cuộc tuần hoàn trước, mà sẽ kích thích mầm trí nơi những thành viên của gia đình nhân loại hiện tại—như Bà H. P. B. nói—dẫu bề ngoài là người nhưng không có tia lửa của trí tuệ. 40 Trong bảy trăm năm tới, những giống dân bản địa ở bậc thấp này hầu như sẽ tuyệt diệt và sẽ không—trong cuộc tuần hoàn này—tái sinh. Họ sẽ bị loại bỏ. Trong cuộc tuần hoàn kế tiếp cơ hội sẽ lại xuất hiện, và các Manasadeva sẽ lại nối tiếp công việc hình thành những hạch nhân cá thể để phát triển tự ý thức. Các Chân ngã đang chờ cơ hội dĩ nhiên sẽ chưa đi vào cho đến khi kiểu người của thời đó được tinh luyện đầy đủ cho mục đích của họ. Họ liên quan đến sự khai mở cánh hoa thứ sáu của Hoa Sen Chân Ngã của Thượng đế, và có bản chất đến mức chúng ta hầu như không thể hình dung. Họ đi trên tuyến của các Đức Phật của Hoạt động, nhưng những vị được nêu trên thì tự do trong Đại giai kỳ sinh hóa này, còn các Chân ngã đặc thù này thì vẫn còn điều phải làm. Họ chỉ có thể “đi vào” vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm, và là một nhóm điểm đạo đồ đã đình chỉ sự tiến hoá của chính mình (nói theo thuật ngữ kỹ thuật) để đảm nhận một công việc đặc thù trên hành tinh Vulcan; vì vậy, họ phải quay lại để tiếp tục và hoàn tất điều còn dang dở. Do kết quả kinh nghiệm của họ trên Vulcan, vận cụ hồng trần được đòi hỏi thuộc một trật tự như vậy đến nỗi vào thời điểm này, và trong cuộc tuần hoàn này, họ không thể lâm phàm mà không gây tai họa. |
|
40 Such are the Veddhas of Ceylon, the Bushman of Australia, and certain of the lowest of the African races. |
40 Chẳng hạn như người Veddha của Tích Lan, người Bushman của Úc, và một số chủng tộc thấp nhất của châu Phi. |
|
See S. D., II, 206, 300, 439. |
Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, II, 206, 300, 439. |
|
Individualization in the next round will begin to show indications of the third method,—that of the next system. [720] This method has been described as that of “occult abstraction.” It will concern itself with the withdrawal from out of the lowest type of the then existing men (through knowledge of the etheric constitution of the body) of the vitality latent in it, and a temporary turning of that latent fire to the increase of the activity of the germ or spark of mind; this will be effected by a dynamic action of the will. This seems impossible, and well nigh senseless phraseology when considered in terms of consciousness and of spirituality, but let the student study the phenomenon in terms of the cosmic physical plane, and from the standpoint of the gaseous and etheric subplanes, and he will see that in all these septenary fires it is ever the fire of matter in reality, and these sevenfold diversifications of electrical phenomena can ever affect each other. |
Sự biệt ngã hóa trong cuộc tuần hoàn kế sẽ bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của phương pháp thứ ba,—phương pháp của hệ thống kế tiếp. [720] Phương pháp này đã được mô tả là “sự trừu xuất huyền bí.” Nó sẽ liên quan đến việc rút khỏi kiểu thấp nhất của nhân loại lúc bấy giờ (thông qua hiểu biết về cấu trúc dĩ thái của thể) sinh lực tiềm ẩn trong đó, và tạm thời chuyển hướng ngọn lửa tiềm ẩn ấy để gia tăng hoạt động của mầm hay tia lửa trí tuệ; điều này sẽ được thực hiện bằng một hành động năng động của ý chí. Điều này có vẻ bất khả và gần như là ngữ ngôn vô nghĩa khi xét theo các phạm trù tâm thức và tinh thần, nhưng hãy để đạo sinh khảo sát hiện tượng này theo các phạm trù của cõi hồng trần vũ trụ, và từ quan điểm của các cõi phụ khí và dĩ thái, thì y sẽ thấy rằng trong tất cả các ngọn lửa thất phân này, xét cho cùng đó vẫn là lửa của vật chất, và những biến phân thất phân của các hiện tượng điện này luôn có thể ảnh hưởng lẫn nhau. |
|
Thus, in the mahamanvantara, the three methods of individualization in connection with our planetary scheme are to be seen |
Vì thế, trong Đại giai kỳ sinh hóa, có thể thấy ba phương pháp biệt ngã hóa liên hệ với hệ hành tinh của chúng ta |
|
a. In the Moon chain, the gradual evolution of self-consciousness under natural law. |
Trên Dãy Mặt Trăng, là sự tiến triển tiệm tiến của tự ý thức dưới định luật tự nhiên. |
|
b. In the Earth chain that of achieved self-consciousness through the aid of extraneous agencies. It is the distinctive method of this system. |
Trên Dãy Địa Cầu là sự tự ý thức đạt được nhờ sự trợ giúp của các cơ quan ngoại tại. Đó là phương pháp đặc trưng của hệ thống này. |
|
c. In the next round and chain the method will be abstraction through will power, but this in an embryonic manner. |
Trong cuộc tuần hoàn và dãy kế tiếp, phương pháp sẽ là trừu xuất thông qua ý chí, nhưng ở dạng phôi thai. |
|
I have dealt with these three from the standpoint of our own scheme. In all the schemes whereon man is found at some period or another, these three methods will be contacted. They mark the gradual control by the Logos on cosmic levels of His threefold lower nature. In the first, the correspondence lies in the latent consciousness of matter, and works under the Law of Economy. It concerns primarily the Self-consciousness of the Logos [721] in His dense physical body, and His polarization therein. It is likewise the same for a Heavenly Man, and a part of the mystery of evil is to be found in the readiness of certain of these cosmic entities (particularly our planetary Logos in the moon chain) to remain polarized in the physical etheric body after having supposedly dominated the material aspect, or gained the control of the third Fire in an earlier system. A hint lies here for the wise student anent present evil on this planet. |
Tôi đã đề cập đến ba điều này từ quan điểm của chính hệ hành tinh chúng ta. Trong tất cả các hệ hành tinh nơi con người được tìm thấy vào một thời kỳ nào đó, ba phương pháp này sẽ được tiếp xúc. Chúng đánh dấu sự khống chế dần dần của Thái dương Thượng đế trên các cấp vũ trụ đối với bản tính thấp tam phân của Ngài. Ở phương pháp thứ nhất, sự tương ứng nằm ở tâm thức tiềm ẩn của vật chất, và hoạt động dưới Định luật Tiết Kiệm. Nó chủ yếu liên quan đến tự ý thức của Thái dương Thượng đế [721] trong thể hồng trần đậm đặc của Ngài, và sự phân cực của Ngài ở đó. Điều này cũng tương tự đối với một Đấng Thiên Nhân, và một phần bí ẩn của cái ác nằm ở sự sẵn lòng của một số thực thể vũ trụ này (đặc biệt là Hành Tinh Thượng đế của chúng ta trong Dãy Mặt Trăng) tiếp tục duy trì sự phân cực trong thể dĩ thái hồng trần sau khi đã được cho là đã chế ngự được phương diện vật chất, hay giành quyền kiểm soát Lửa do ma sát trong một hệ thống trước. Có một gợi ý ở đây cho đạo sinh khôn ngoan về cái ác hiện nay trên hành tinh này. |
|
The second correspondence concerns the latent “consciousness of desire,” and works under the Law of Attraction; it is the law for this system, and deals with the ability of the Logos to “love wisely,” in the occult sense of the term. It has relation to the polarization of the Logos in His astral body, and produces the phenomenon called “sex activity” on all planes in the system. In the earlier system, emancipation was effected through the faculty of discrimination, though that word as used today is but a faint indication of the systemic process in those days. Through the force engendered during the process that vibration was set up which persists today in matter. It is evidenced by the active intelligence and the discriminative selective capacity of the atom of substance. In this system emancipation will be brought about through the line of occult dispassion; this likewise will leave its mark upon matter, tinging it in such a way that in the third system, primordial substance will demonstrate a second quality. In the next system “non-attachment through abstraction” is as near as we can get to the method of the liberating process but it is useless for man to speculate upon this as his mind cannot conceive of the condition. |
Sự tương ứng thứ hai liên quan đến “tâm thức ham muốn” tiềm ẩn, và hoạt động dưới Định luật Hấp Dẫn; đó là định luật cho hệ thống này, và liên hệ đến năng lực của Thái dương Thượng đế để “yêu một cách minh triết,” theo nghĩa huyền bí của thuật ngữ. Nó liên quan đến sự phân cực của Thái dương Thượng đế trong thể cảm dục của Ngài, và sản sinh hiện tượng gọi là “hoạt động tính dục” trên mọi cõi trong hệ thống. Trong hệ thống trước, sự giải thoát được thực hiện qua năng lực phân biện, dẫu từ ngữ ấy như được dùng ngày nay chỉ phảng phất biểu thị tiến trình mang tính hệ thống thuở ấy. Thông qua lực được tạo sinh trong tiến trình đó, dao động đã được thiết lập và còn tồn tại đến ngày nay trong vật chất. Nó được chứng thực bằng trí tuệ tích cực và năng lực chọn lọc có phân biện của nguyên tử chất liệu. Trong hệ thống này, sự giải thoát sẽ được mang lại qua con đường của ly tham; điều này cũng sẽ để lại dấu ấn trên vật chất, nhuộm nó theo một cách mà trong hệ thống thứ ba, chất liệu nguyên sơ sẽ biểu lộ một phẩm tính thứ hai. Trong hệ thống kế tiếp, “vô trước qua trừu xuất” là gần nhất mà chúng ta có thể tiếp cận phương pháp của tiến trình giải phóng; nhưng thật vô ích cho con người suy tưởng về điều này, vì thể trí của con người không thể hình dung được tình trạng ấy. |
[Commentary S6S12]
(d.) Avatars, Their Nature and Their Work—Các Đấng Hoá Thân, Bản Chất và Công Việc của các Ngài
|
We have, in our discussion above, connected the phenomenon of individualization with the appropriation by the Logos, or by a planetary Logos, of Their dense physical [722] vehicles, and Their self-conscious existence through the medium of the physical body. A very difficult and mysterious subject might be touched upon here,—that of AVATARS, and though it will not be possible for us to expound it fully, as it is one of the most occult and secret of the mysteries, perhaps a little light may be thrown upon this profound subject. |
Trong cuộc thảo luận ở trên, chúng ta đã liên kết hiện tượng biệt ngã hóa với sự chiếm hữu của Thượng đế, hoặc của một Hành Tinh Thượng Đế, đối với các thể xác hồng trần của các Ngài [722], và sự hiện hữu có ngã thức của các Ngài thông qua trung gian của thể xác. Một chủ đề vô cùng khó hiểu và huyền bí có thể được đề cập đến tại đây—đó là vấn đề các HOÁ THÂN (AVATARS), và tuy rằng chúng ta không thể trình bày đầy đủ vì đây là một trong những điều huyền linh và bí mật nhất, có lẽ một chút ánh sáng có thể được soi rọi lên đề tài thâm sâu này. |
|
For purposes of clarity and in order to elucidate a matter of extreme difficulty to the occidental mind above all (on account of the fact that it has not yet grasped the rationale of the process of reincarnation), it would be wise to divide the differing types of avatars into five groups, bearing in mind that every avatar is a Ray, emanated from a pure spiritual source, and that a self-conscious entity only earns the right to this peculiar form of work through a previous series of lives of achievement. |
Vì mục đích làm rõ và nhằm giải thích một vấn đề vô cùng khó đối với tư duy phương Tây trên hết (do thực tế rằng họ vẫn chưa nắm bắt được sự hợp lý của tiến trình luân hồi), sẽ là điều khôn ngoan nếu chúng ta chia các loại hoá thân khác nhau thành năm nhóm, với lưu ý rằng mọi hoá thân đều là một Tia, phát xuất từ một nguồn tinh thần thuần khiết, và rằng một thực thể có tự ngã chỉ đạt được quyền thực hiện hình thức công việc đặc biệt này thông qua một chuỗi các kiếp sống trước đó đầy thành tựu. |
|
1. Cosmic Avatars. |
1. Các Hoá Thân Vũ Trụ (Cosmic Avatars) |
|
2. Solar Avatars. |
2. Các Hoá Thân Thái Dương (Solar Avatars) |
|
3. Interplanetary Avatars. |
3. Các Hoá Thân Liên Hành Tinh (Interplanetary Avatars) |
|
4. Planetary Avatars. |
4. Các Hoá Thân Hành Tinh (Planetary Avatars) |
|
5. Human Avatars. |
5. Các Hoá Thân Nhân Loại (Human Avatars) |
|
As just said, an avatar is a Ray of effulgent and perfected glory, clothing itself in matter for the purpose of service. All avatars in the strict sense of the word are liberated souls, but the cosmic and solar avatars are liberated from the two lower planes of the cosmic planes. While the planetary and the interplanetary avatars are liberated from the cosmic physical plane, our systemic planes, the human avatar has achieved freedom from the five planes of human endeavor. In a strictly technical and lower sense, a Master in physical plane incarnation is a type of avatar, for He is a “freed soul” and therefore only chooses to incarnate for specific purpose, but we [723] will not deal with Them. Let us again subdivide these groups so as still further to clarify our ideas: |
Như đã nói, một hoá thân là một Tia rực rỡ và vinh quang hoàn hảo, khoác lên mình vật chất với mục đích phụng sự. Tất cả các hoá thân theo nghĩa chặt chẽ của từ này đều là các linh hồn đã được giải thoát, nhưng các hoá thân vũ trụ và thái dương là những linh hồn được giải thoát khỏi hai cõi thấp của các cõi vũ trụ. Trong khi đó, các hoá thân hành tinh và liên hành tinh là những linh hồn đã được giải thoát khỏi cõi hồng trần vũ trụ, tức là các cõi trong thái dương hệ của chúng ta, còn hoá thân nhân loại là những linh hồn đã đạt được tự do khỏi năm cõi hoạt động của nhân loại. Theo nghĩa kỹ thuật chặt chẽ và thấp hơn, một Chân sư trong lâm phàm ở cõi hồng trần cũng là một loại hoá thân, vì Ngài là một “linh hồn đã được giải thoát” và do đó chỉ chọn hoá thân vì một mục đích đặc thù, nhưng chúng ta [723] sẽ không bàn đến các Ngài ở đây. Chúng ta hãy một lần nữa chia nhỏ các nhóm này nhằm làm rõ hơn nữa các ý tưởng của mình: |
1. Cosmic Avatars: |
1. Các Hoá Thân Vũ Trụ (Cosmic Avatars): |
|
They represent embodied force from the following cosmic centers among others: |
Các Ngài đại diện cho mãnh lực nhập thể từ các trung tâm vũ trụ sau đây, trong số những trung tâm khác: |
|
a. Sirius. |
a. Sirius. |
|
b. That one of the seven stars of the Great Bear which is ensouled by the prototype of the Lord of our third major Ray. |
b. Một trong bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh (Great Bear) mà ngôi sao đó được linh hồn hoá bởi nguyên mẫu của Đấng Chúa Tể của Cung chính thứ ba của chúng ta. |
|
c. Our cosmic center. |
c. Trung tâm vũ trụ của chúng ta. |
|
They represent entities as far removed from the consciousness of Man, as man is from the consciousness of the atom of substance. Thousands of those great cycles which we call “a hundred years of Brahma” have passed since They approximated the human stage, and They embody force and consciousness which is concerned with the intelligent coordination of the starry Heavens. |
Các Ngài đại diện cho những thực thể xa cách tâm thức con người như con người cách xa tâm thức của nguyên tử vật chất. Hàng ngàn chu kỳ vĩ đại mà chúng ta gọi là “một trăm năm của Brahma” đã trôi qua kể từ khi các Ngài tiệm cận giai đoạn nhân loại, và các Ngài hiện thân cho mãnh lực và tâm thức có liên quan đến sự phối hợp thông tuệ của các Tinh tú trên Trời. |
|
They have achieved all that man can conceive of as the transcendence of will, of love and of intelligence, and in the synthesis of those three have added qualities and vibrations for which we have no terms, and which cannot be visioned by even our highest adepts. Their appearance in a solar system is very unusual, and is only recognized on the highest two planes. Yet, owing to the material nature of our solar system, Their advent is literally the appearance in a physical form of a spiritual Being Who is fully conscious. |
Các Ngài đã đạt được tất cả những gì con người có thể hình dung như là sự siêu việt của ý chí, tình thương và trí tuệ, và trong sự tổng hợp ba yếu tố đó, các Ngài đã bổ sung những phẩm tính và rung động mà chúng ta không có thuật ngữ để diễn tả, và điều mà ngay cả các điểm đạo đồ cao nhất của chúng ta cũng không thể hình dung ra. Sự xuất hiện của các Ngài trong một thái dương hệ là điều rất hiếm hoi, và chỉ được nhận biết trên hai cõi cao nhất. Tuy vậy, do bản chất vật chất của thái dương hệ chúng ta, sự xuất hiện của các Ngài thực sự là sự xuất hiện trong hình tướng vật chất của một Đấng Tinh Thần có tâm thức trọn vẹn. |
|
Such entities from Sirius appear at the occasion of the initiation of the solar Logos, and They have a peculiar connection with the five Kumaras and through Them (using Them as focal points for force) with the Mahachohan’s department in all the occult Hierarchies of the system. Only once has such a Being visited our system, in connection with the appearance in time and space of the five mind-born Sons of Brahma. The effect of such a visit as that of the Avatar from Sirius is seen [724] as the sumtotal of civilization and culture, viewing these from the standpoint of the entire system and in one flash of time. |
Những thực thể đến từ Sirius xuất hiện vào dịp điểm đạo của Thái Dương Thượng Đế, và các Ngài có một mối liên kết đặc biệt với năm vị Kumara, và thông qua các Ngài (sử dụng các Ngài như những điểm hội tụ của mãnh lực) với bộ phận của Đức Mahachohan trong tất cả các Thánh đoàn huyền linh của hệ thống. Chỉ một lần duy nhất một Đấng như thế đã viếng thăm thái dương hệ của chúng ta, liên quan đến sự xuất hiện trong thời gian và không gian của năm Người Con được sinh ra từ Tâm Trí của Brahma. Tác động của một cuộc viếng thăm như vậy, như của một Hoá Thân từ Sirius, được nhìn thấy [724] như là tổng thể của nền văn minh và văn hoá, nếu xem xét những điều này từ quan điểm của toàn thể hệ thống và trong một cái chớp mắt của thời gian. |
|
An avatar from the cosmic center will appear as pralaya is nearing and will produce in the body of the Logos that which we call “Death.” He is the cosmic Reaper, and (to reduce the above to words of an understandable nature) He belongs to a group which represents the abstracting energy of the cosmos, of which we find faint correspondences in the work of the “destroyer” aspect of the Logos, and in the forces which produce physical death, and the disintegration of the physical body of man. It is not possible to say more oil these fundamentally esoteric matters, and the value of what is said lies largely in the bringing to the mind of the student the reality of our cosmic interrelation. |
Một hoá thân từ trung tâm vũ trụ sẽ xuất hiện khi thời kỳ pralaya đến gần và sẽ tạo ra trong thân thể của Thái Dương Thượng Đế điều mà chúng ta gọi là “Cái chết.” Ngài là Đấng Gặt Hái Vũ Trụ, và (để diễn đạt điều trên bằng những từ ngữ dễ hiểu hơn) Ngài thuộc về một nhóm đại diện cho năng lượng trừu xuất của vũ trụ, mà chúng ta tìm thấy những tương đồng mờ nhạt trong công việc của khía cạnh “hủy diệt” của Thượng Đế, và trong các mãnh lực tạo ra cái chết thể xác và sự tan rã của thể xác con người. Không thể nói thêm điều gì về những vấn đề huyền linh cơ bản này, và giá trị của những gì đã được nói chủ yếu nằm ở việc gợi lên trong tâm trí người học viên thực tại của mối liên hệ tương quan vũ trụ của chúng ta. |
2. Solar Avatars: |
2. Các Hoá Thân Thái Dương (Solar Avatars): |
|
These avatars are of three types though there are really many more. They are also extra-systemic visitors, and are mainly concerned with certain processes in the system, among others the administration of the law of cause and effect, or of karma. They embody the karma of the past kalpas as far as our Logos is concerned, and give the initiatory impulse to the processes of adjustment, of expiation and of recognition as it concerns the present system as a whole. One such Entity, the “Karmic Avatar” appeared upon the second logoic vibration, being swept in on the second Breath; He has stayed until now: He will remain with us until all the schemes have entered upon their fifth round, and are nearing their “Judgment Day.” At that time, He can withdraw, leaving the planetary Logoi concerned to fulfil the karmic purpose unwatched. The vibratory impulse will then be so strong and the realization of the buddhic principle so consciously vivid that nothing can then arrest the onward march of affairs. Under Him work a number of cosmic entities who, as stated in the Secret [725] Doctrine, 41 have the privilege of “passing the ring-pass-not”; these are, nevertheless, not avatars for They are Themselves evolving through the administration of karma. It is Their work, and opportunity to progress. |
Các hoá thân này có ba loại, dù thật ra còn có nhiều hơn nữa. Các Ngài cũng là những vị khách đến từ ngoài hệ thống, và chủ yếu liên quan đến một số tiến trình trong hệ thống, trong đó có việc thi hành định luật nhân quả hay định luật nghiệp quả. Các Ngài hiện thân cho nghiệp quả của các kalpa quá khứ liên quan đến Thái Dương Thượng Đế của chúng ta, và ban xung lực khai mở cho các tiến trình điều chỉnh, chuộc lỗi và nhận thức trong mối liên hệ với toàn thể hệ thống hiện tại. Một Thực Thể như vậy, gọi là “Hoá Thân Nghiệp Quả” (Karmic Avatar), đã xuất hiện trên rung động thứ hai của Thái Dương Thượng Đế, được cuốn vào theo Hơi Thở thứ hai; Ngài đã ở lại cho đến nay: Ngài sẽ tiếp tục ở lại với chúng ta cho đến khi tất cả các hệ hành tinh bước vào vòng tuần hoàn thứ năm của mình, và đang tiến gần đến “Ngày Phán Xét” của họ. Vào thời điểm đó, Ngài có thể rút lui, để mặc cho các Hành Tinh Thượng Đế liên quan tự mình hoàn thành mục đích nghiệp quả mà không còn bị giám sát. Xung lực dao động khi ấy sẽ mạnh đến mức và sự nhận thức nguyên lý bồ đề sẽ trở nên sống động đến mức không gì có thể ngăn cản tiến trình đi tới của các sự việc. Dưới quyền của Ngài là nhiều thực thể vũ trụ mà, như đã nói trong Giáo Lý Bí Nhiệm [725], có đặc quyền “vượt qua vòng-giới-hạn”; tuy nhiên, các Ngài không phải là hoá thân vì chính các Ngài cũng đang tiến hoá thông qua việc thi hành nghiệp quả. Đó là công việc của các Ngài, và cũng là cơ hội để tiến hoá. |
|
An avatar can learn nothing from the place of His appearance. His work is to apply the force of some type of electrical energy to substance in one of its many grades, and thus bring about anticipated results. |
Một hoá thân không thể học hỏi điều gì từ nơi mà Ngài xuất hiện. Công việc của Ngài là áp dụng mãnh lực của một dạng năng lượng điện nào đó lên chất liệu ở một trong nhiều cấp độ khác nhau của nó, và nhờ đó tạo ra các kết quả đã được tiên liệu. |
|
Another type of solar avatar, Who can be seen appearing in the schemes, has relation to the heart center of a planetary Logos, and appears on the higher planes (never on the lower) when the heart activity is making itself felt, and when the energizing process is seen to bring about three things: |
Một loại hoá thân thái dương khác, có thể được thấy xuất hiện trong các hệ hành tinh, có liên quan đến luân xa tim của một Hành Tinh Thượng Đế, và xuất hiện trên các cõi cao (không bao giờ ở các cõi thấp) khi hoạt động của tim đang bắt đầu biểu lộ, và khi tiến trình tiếp năng lượng được thấy là mang lại ba điều sau đây: |
|
a. An expansion of consciousness. |
a. Sự mở rộng tâm thức. |
|
b. An increase of spiritual light and brilliancy. |
b. Sự gia tăng ánh sáng và độ rực rỡ tinh thần. |
|
c. Planetary radioactivity. |
c. Sự phóng xạ hành tinh. |
|
It is this planetary phenomenon which produces (in connection with the fourth kingdom in nature) the throwing open of the door of initiation to man. Such avatars do not come in connection with any particular Hierarchy but only in relation to the total system. They produce the blending of the colors, and the synthesis of the units in their groups. |
Chính hiện tượng hành tinh này là điều tạo nên (trong mối liên hệ với giới thứ tư trong thiên nhiên) việc mở rộng cánh cửa điểm đạo cho nhân loại. Những hoá thân như vậy không đến trong mối liên hệ với bất kỳ Thánh đoàn nào cụ thể mà chỉ trong mối liên hệ với toàn thể hệ thống. Họ tạo ra sự pha trộn các màu sắc và sự tổng hợp các đơn vị trong các nhóm của chúng. |
|
At the initiation of a planetary Logos, an avatar may appear in His scheme on the seventh globe from that cosmic center or star which is ensouled by the particular Rishi Who (in the constellation of the Great Bear) is His cosmic prototype. This is, for the Entity concerned, the taking of a physical form, for our higher planes are but matter from Their standpoint. This has been emphasized frequently, as its significance is not yet sufficiently grasped. By means of the appearance of this Avatar on the seventh globe, the planetary Logos is [726] enabled to preserve continuity of cosmic consciousness even when in physical incarnation; this solar avatar performs the same function for the planetary Logos as the Guru does for His disciple. He makes certain events possible by means of the stimulation and protection of His aura, and He acts as a transmitter of electrical energy from the cosmic center. We must be careful to hold this analogy very lightly, for the real work accomplished cannot be grasped by man. This avatar has naturally a direct effect upon the centers of the Heavenly Man and therefore upon the units or human Monads, but only indirectly and upon the Monad on its own plane. This influence meets with little response from the Monad until after the third Initiation when its conscious life becomes so strong that it grips afresh its egoic expression in one direction, and awakens to planetary realization in another. This type of avatar appears only at the time of the initiation of a planetary Logos. The number of initiations taken by a planetary Logos in this system vary from two to four. |
Tại thời điểm điểm đạo của một Hành Tinh Thượng Đế, một hoá thân có thể xuất hiện trên bầu thứ bảy trong hệ hành tinh của Ngài, từ trung tâm hay ngôi sao vũ trụ được linh hồn hoá bởi một vị Rishi đặc biệt (trong chòm Đại Hùng Tinh), vị Rishi ấy là nguyên mẫu vũ trụ của Ngài. Điều này, đối với Thực Thể liên quan, chính là việc khoác lấy một hình hài vật chất, vì các cõi cao của chúng ta chỉ là chất liệu từ quan điểm của các Ngài. Điều này đã được nhấn mạnh nhiều lần, bởi vì ý nghĩa của nó vẫn chưa được lĩnh hội đầy đủ. Thông qua sự xuất hiện của Hoá Thân này trên bầu thứ bảy, Hành Tinh Thượng Đế [726] có thể duy trì sự liên tục của tâm thức vũ trụ ngay cả khi đang nhập thế nơi cõi hồng trần; hoá thân thái dương này thực hiện chức năng giống như vị Guru đối với đệ tử của Ngài. Ngài làm cho một số sự kiện trở nên khả thi bằng cách kích thích và bảo vệ hào quang của Ngài, và Ngài hành động như một kênh truyền năng lượng điện từ trung tâm vũ trụ. Chúng ta cần cẩn trọng khi giữ ví dụ minh hoạ này, vì công việc thực sự được thực hiện thì con người không thể nắm bắt được. Hoá thân này tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến các luân xa của Đấng Thiên Nhân và do đó đến các đơn vị hoặc các Chân Thần nhân loại, nhưng chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến Chân Thần trên chính cõi giới của nó. Ảnh hưởng này chỉ nhận được sự đáp ứng rất ít từ Chân Thần cho đến sau lần điểm đạo thứ ba, khi đời sống có ý thức của nó trở nên mạnh mẽ đến mức nó kiểm soát biểu hiện chân ngã của nó theo một hướng, và thức tỉnh với nhận thức hành tinh theo một hướng khác. Loại hoá thân này chỉ xuất hiện vào thời điểm điểm đạo của một Hành Tinh Thượng Đế. Số lần điểm đạo mà một Hành Tinh Thượng Đế trải qua trong hệ thống này dao động từ hai đến bốn lần. |
|
41 These are the Lipika Lords. See S. D., I, 157. |
(Ghi chú 41: Đó là các Đấng Lipika. Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, quyển I, trang 157.) |
3. Interplanetary Avatars. |
3. Các Hóa Thân Liên Hành Tinh |
|
A very interesting group of avatars is here to be found. They are mainly concerned with three things: first with the superintendence of the transfer of force units or egoic groups from one scheme to another (not with individual units from chain to chain). They appear usually twice in the history of a scheme, and though unable to take physical bodies of grosser material than those formed of atmic and the buddhic substance, they work with impulse in mental matter and thus effect these group transfers. They Themselves are subdivided into three groups: |
Một nhóm hóa thân rất thú vị được tìm thấy ở đây. Các Ngài chủ yếu liên quan đến ba điều: đầu tiên là việc giám sát sự chuyển giao các đơn vị mãnh lực hoặc các nhóm linh hồn từ hệ hành tinh này sang hệ hành tinh khác (không phải là các đơn vị cá nhân từ dãy này sang dãy khác). Các Ngài thường xuất hiện hai lần trong lịch sử của một hệ hành tinh, và dù không thể đảm nhận những thể xác có chất liệu thô trược hơn chất liệu atma và bồ đề, Các Ngài hoạt động bằng xung lực trong vật chất trí tuệ và nhờ đó thực hiện các cuộc chuyển giao tập thể này. Chính Các Ngài được phân chia thành ba nhóm: |
|
a. Those effecting the transfer from the minor schemes or Ray manifestations on to the third Ray; They concern Themselves with the result of the merging of the polar opposites in the four [727] lesser schemes until but one is left; and then with the transference of the life and quality of this remaining one on to the third Ray. |
a. Những vị thực hiện sự chuyển giao từ các hệ hành tinh phụ hoặc các biểu lộ của cung sang cung ba; Các Ngài quan tâm đến kết quả của việc hợp nhất các cặp đối cực trong bốn [727] hệ hành tinh nhỏ hơn cho đến khi chỉ còn lại một; và sau đó là việc chuyển giao sự sống và phẩm tính của hệ hành tinh còn lại này sang cung ba. |
|
b. Those dealing with the transference and interaction of the life forces between the three major Rays. |
b. Những vị xử lý việc chuyển giao và tương tác của các mãnh lực sự sống giữa ba cung chính. |
|
c. Those producing the final systemic transfer at the end of the age. |
c. Những vị tạo ra sự chuyển giao hệ thống cuối cùng vào cuối của một chu kỳ. |
|
Secondly, certain avatars from the fourth Creative Hierarchy, for esoteric and for us inexplicable reasons, leave Their Own Hierarchy, and appear in one or other of the deva Hierarchies. This happens only once in the history of each scheme and occurs at the time of its densest physical appearance, and has relation to the transference of deva impulse from one scheme to another. They are connected in this way with the appearance of the self-conscious units, being the primal embodiment of the latent self-consciousness of the atom of deva substance. They set the type for the devas of any particular scheme. |
Thứ hai, một số đấng hóa thân từ Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, vì những lý do nội môn và không thể giải thích được đối với chúng ta, rời khỏi Huyền Giai của chính Các Ngài, và xuất hiện trong một hoặc một số Huyền Giai thiên thần. Điều này chỉ xảy ra một lần trong lịch sử của mỗi hệ hành tinh và diễn ra vào thời điểm biểu hiện vật chất đậm đặc nhất, và có liên hệ đến việc chuyển giao xung lực của thiên thần từ hệ hành tinh này sang hệ hành tinh khác. Các Ngài có liên hệ theo cách này với sự xuất hiện của các đơn vị có tự ngã, vì là hiện thân nguyên thủy của tính tự ngã tiềm tàng nơi nguyên tử của chất liệu thiên thần. Các Ngài đặt định mô thức cho các thiên thần của bất kỳ hệ hành tinh cụ thể nào. |
|
Once in the history of each scheme, an avatar from the constellation Capricorn appears on mental levels. This level is the lowest one on which these interplanetary deities appear. No more can be communicated on this matter. “The mystery of the goat” lies hidden here. This avatar makes His appearance in the third round of the third chain, and disappears in the fifth round of the fourth chain. |
Một lần trong lịch sử của mỗi hệ hành tinh, một hóa thân từ chòm sao Ma Kết xuất hiện trên các cấp độ trí tuệ. Cấp độ này là cấp độ thấp nhất mà các vị thần liên hành tinh này xuất hiện. Không thể tiết lộ gì thêm về vấn đề này. “Bí ẩn của con dê” ẩn tàng tại đây. Hóa thân này xuất hiện trong cuộc tuần hoàn thứ ba của dãy thứ ba, và biến mất trong cuộc tuần hoàn thứ năm của dãy thứ tư. |
|
These interplanetary avatars come in, as the products of much earlier kalpas when systemic conditions are refined enough to permit of Their appearance. They are the nirmanakayas of an earlier solar cycle Who now again take the opportunity to effect (in an active sense and through physical manifestation) certain uncompleted work. |
Những hóa thân liên hành tinh này đi vào, như là kết quả của những kalpa xa xưa, khi các điều kiện hệ thống đã được tinh luyện đủ để cho phép sự xuất hiện của Các Ngài. Các Ngài là những vị nirmanakaya của một chu kỳ thái dương trước kia, những vị hiện đang nắm lấy cơ hội để thực hiện (theo một nghĩa chủ động và thông qua sự hiện hình) một số công việc chưa hoàn tất. |
4. Planetary Avatars. |
4. Các Hóa Thân Hành Tinh |
|
These emanate from the central [728] planetary Logos of a scheme and embody His will and purpose. They are of two different kinds. The first type is a manifestation on etheric physical levels of the planetary Logos Himself for a specific length of time. It involves the definite taking of a physical body by one of the Kumaras. Such an avatar is to be seen in Sanat Kumara, Who, with the three other Kumaras, embodies the four planetary quaternic principles. In a very real sense, Sanat Kumara is the incarnation of the Lord of the Ray Himself; He is the Silent Watcher, the great Sacrifice for humanity. 42 |
Những hóa thân này phát xuất từ Hành Tinh Thượng Đế trung tâm của một hệ hành tinh và hiện thân Ý Chí và Thiên Ý của Ngài. Các hóa thân này gồm hai loại khác nhau. Loại thứ nhất là sự hiện thân trên các cấp độ thể dĩ thái vật lý của chính Hành Tinh Thượng Đế trong một khoảng thời gian xác định. Điều đó bao gồm việc một trong các Kumara thực sự đảm nhận một thể xác. Một hóa thân như thế có thể được thấy nơi Sanat Kumara, Đấng, cùng với ba vị Kumara khác, hiện thân bốn nguyên khí hành tinh. Theo một nghĩa rất thực, Sanat Kumara là hiện thân của chính Đấng Chúa Tể của Cung; Ngài là Đấng Quan Sát Im Lặng, Đấng Đại Hy Sinh cho nhân loại. |
|
As noted in the above paragraph, there are secondly three Entities Who embody planetary principles. They are (speaking from the present standpoint) the dynamic energy which holds together the three lower kingdoms, viewing these kingdoms as units and not as differentiations. They are closely connected with the energy aspect of the three earlier chains, and it only needed the work of an interplanetary avatar (at the formation of the triangle which resulted in the individualization period in Lemurian days) to enable Them to take etheric bodies and incarnate among men. They act as focal points for the energy of the planetary Logos on His own plane. The first Kumara is in a mysterious sense the energy which produces self-consciousness in the human family. The three other kumaras, or the three Buddhas of Activity, act as similar focal points for the energy which animates the three lower kingdoms, and which produces their differing grades of consciousness. It is not possible to express this great mystery more clearly but if the student couples these few hints with those earlier given in the Secret Doctrine, the mystery of the “Holy Four” may be somewhat clarified from the standpoint of energy and evolution. |
Như đã nêu trong đoạn trên, có thêm ba Thực Thể hiện thân các nguyên khí hành tinh. Các Ngài (nói từ quan điểm hiện tại) là mãnh lực động lực giữ cho ba giới thấp gắn kết với nhau, khi xem các giới này như các đơn vị, chứ không như các sự phân biệt. Các Ngài liên kết mật thiết với khía cạnh năng lượng của ba dãy trước đó, và chỉ cần công việc của một hóa thân liên hành tinh (vào thời điểm hình thành tam giác dẫn đến thời kỳ biệt ngã hóa trong thời Lemuria) là đủ để cho phép Các Ngài đảm nhận các thể dĩ thái và nhập thể giữa loài người. Các Ngài hành động như những điểm tiêu biểu cho năng lượng của Hành Tinh Thượng Đế trên chính cõi giới của Ngài. Vị Kumara thứ nhất, theo một nghĩa huyền bí, là năng lượng tạo ra tính tự ngã trong nhân loại. Ba vị kumara còn lại, hay ba vị Phật của Hành Động, hoạt động như những điểm tiêu biểu tương tự cho năng lượng làm sinh động ba giới thấp và tạo ra các cấp độ tâm thức khác nhau của chúng. Không thể trình bày một cách rõ ràng hơn về đại huyền nhiệm này, nhưng nếu người học phối hợp những gợi ý ít ỏi này với những điều đã được đưa ra trước đó trong Giáo Lý Bí Nhiệm, thì bí ẩn về “Bộ Tứ Thiêng Liêng” có thể phần nào được làm sáng tỏ từ quan điểm của năng lượng và tiến hóa. |
|
The times and seasons of their appearing vary [729] according to the particular karma of the Lord of the Ray, and nothing in connection with these great cycles, and incarnation periods, can be revealed to the unpledged and the profane. |
Thời điểm và chu kỳ xuất hiện của Các Ngài thay đổi [729] tùy theo nghiệp quả đặc thù của Đấng Chúa Tể của Cung, và không điều gì liên quan đến những chu kỳ vĩ đại này hay các kỳ nhập thể có thể được tiết lộ cho người chưa cam kết và người ngoại môn. |
5. Human Avatars. |
5. Các Hóa Thân Nhân Loại |
|
These are fully dealt with by H. P. B. and there is nothing further to add to her information, for the time is not ripe. 43 All the above has its place here, as it concerns the mystery of force and consciousness, and the fullest manifestation of a planetary Logos and of a solar Logos in a dense physical body is hidden in the appearance of these various avatars and in their effect. |
Những hóa thân này đã được H. P. B. trình bày đầy đủ, và hiện chưa có gì cần bổ sung thêm cho các thông tin của bà, vì thời điểm vẫn chưa chín muồi. 43 Tất cả những điều đã trình bày trên đây có vị trí thích đáng ở đây, vì chúng liên quan đến huyền nhiệm của mãnh lực và tâm thức, và sự hiện thân đầy đủ nhất của một Hành Tinh Thượng Đế và một Thái Dương Thượng Đế trong một thể xác đậm đặc bị ẩn giấu trong sự xuất hiện của các hóa thân này và ảnh hưởng của các Ngài. |
|
42 S. D., I, 494; II, 112, 149, 333. |
42 Giáo Lý Bí Nhiệm, Quyển I, tr. 494; Quyển II, tr. 112, 149, 333. |
|
43 S. D., III, Section 41; III, 345. |
43 Giáo Lý Bí Nhiệm, Quyển III, Phần 41; tr. 345. |
(e.) Individualization, a form of Initiation
|
There is but little more that can be said at this time anent individualization. What has been said here and in the Secret Doctrine is but a manner of endeavoring to express profound and significant facts, concerning existence and manifestation, in terms of human thought, and through the limiting medium of language. From the most esoteric standpoint “Man is a deva;” he is Spirit and deva substance, united through the work of conscious deva energy. He unites within himself the three aspects of the Deity. He is, while in objectivity: |
Hiện tại không còn nhiều điều có thể nói thêm về sự biệt ngã hoá. Những gì đã được trình bày ở đây và trong Giáo Lý Bí Nhiệm chỉ là một cách cố gắng diễn đạt những sự thật sâu xa và đầy ý nghĩa liên quan đến hiện tồn và biểu lộ, bằng các thuật ngữ của tư tưởng con người và thông qua công cụ giới hạn của ngôn ngữ. Từ quan điểm nội môn sâu xa nhất, “Con người là một thiên thần;” y là Tinh thần và chất liệu thiên thần, hợp nhất thông qua công trình của năng lượng thiên thần có ý thức. Y hợp nhất trong chính mình ba phương diện của Thượng Đế. Trong khi đang biểu hiện một cách khách quan, con người là: |
|
1. The Self, the Not-Self, and the intelligent link in a very vital sense. |
1. Ngã, phi-Ngã, và sợi dây liên kết thông tuệ trong một ý nghĩa vô cùng sống động. |
|
2. He is Shiva, Vishnu, and Brahma, in synthetic manifestation. |
2. Y là Shiva, Vishnu, và Brahma, trong sự biểu lộ tổng hợp. |
|
3. He is the medium whereby the Will of God, the Love of God, and the Mind of God become intelligible and apparent. |
3. Y là phương tiện nhờ đó Ý Chí của Thượng Đế, Tình Thương của Thượng Đế, và Trí Tuệ của Thượng Đế trở nên có thể hiểu được và hiển lộ. |
|
4. He is positive electrical force, plus negative electrical force, plus the equilibrising medium. |
4. Y là mãnh lực điện dương, cộng với mãnh lực điện âm, cộng với môi giới quân bình. |
|
5. He is the Flame, the Fire, and the Spark in essential manifestation. |
5. Y là Ngọn Lửa, Lửa, và Tia Lửa trong sự biểu lộ cốt yếu. |
|
6. He is electric fire, solar fire and fire by friction. [730] |
6. Y là lửa điện, lửa thái dương và lửa do ma sát. [730] |
|
But the point which it is necessary here to emphasize, is that man does not, in space and time and in the three worlds, demonstrate all these aspects simultaneously, but only simultaneously towards the close of the process of evolution. As in the Macrocosm, Brahma manifests activity first, then the second or middle aspect and finally the first or purposeful will makes itself seen, so with the microcosm. |
Tuy nhiên, điểm cần được nhấn mạnh ở đây là: con người không biểu hiện tất cả các phương diện này một cách đồng thời trong không gian, thời gian và trong ba cõi, mà chỉ biểu hiện đồng thời vào cuối tiến trình tiến hóa. Giống như trong Đại Thiên Địa, Brahma biểu hiện hoạt động trước tiên, sau đó là phương diện thứ hai hay trung gian, và cuối cùng là Ý Chí mục tiêu biểu lộ ra, thì trong Tiểu Thiên Địa cũng vậy. |
|
The Brahma aspect, that in which the Not-Self or material aspect is apparent and predominant. This covers the subhuman stages, and the first three cycles of the Personality Life: |
Phương diện Brahma, tức là phương diện phi-Ngã hay phương diện vật chất biểu hiện và chiếm ưu thế. Điều này bao trùm các giai đoạn tiền nhân loại và ba chu kỳ đầu tiên của đời sống phàm ngã: |
|
a. First cycle—savage state. |
a. Chu kỳ thứ nhất — trạng thái sơ khai. |
|
b. Second cycle—average man. |
b. Chu kỳ thứ hai — con người trung bình. |
|
c. Third cycle—intellectual successful man. |
c. Chu kỳ thứ ba — con người thành công về trí tuệ. |
|
The Vishnu aspect, that in which the love-wisdom aspect gradually predominates and emerges through the medium of the Brahma aspect. It covers the final two stages of the human personality life, and that period of egoic growth which embraces the final two Initiations: |
Phương diện Vishnu, tức là phương diện bác ái–minh triết dần chiếm ưu thế và biểu hiện qua môi giới của phương diện Brahma. Nó bao trùm hai giai đoạn cuối cùng của đời sống phàm ngã nhân loại, và giai đoạn tăng trưởng của linh hồn bao gồm hai lần điểm đạo sau cùng: |
|
a. First cycle—The Path of Probation. |
a. Chu kỳ thứ nhất — Con Đường Dự Bị. |
|
b. Second cycle—The Path of Initiation (till the third Initiation). |
b. Chu kỳ thứ hai — Con Đường Điểm Đạo (cho đến lần điểm đạo thứ ba). |
|
c. Third cycle—That covering the fourth and fifth Initiations. |
c. Chu kỳ thứ ba — Bao trùm lần điểm đạo thứ tư và thứ năm. |
|
This is the temporary consummation, but just as in the animal kingdom, the human mind was latent and instinctive, and just as in the human kingdom the buddhic aspect is latent and instinctive, so during the final cycle of human endeavor, the Atma, or highest aspect of the Monad, is also latent and instinctive. This must produce later stages of development. There are no gaps in evolution, and no periods wherein there is total absence of any one aspect; all are ever present but they [731] “show forth” in alternation. Only when the fires of matter are blazing brightly, and become radiatory, does it become possible for the fire of mind to show forth, even though ever inherently present. Only when these two fires of matter and of mind have reached a stage of energetic heat and light, can the electric fire of Spirit show forth in its glory. Only again when these three are unitedly burning does the fire of matter die down for lack of that which it may consume, and only when that occurs is it possible for the fires of mind (on mental levels) to burn up that which it has hitherto animated. When this is accomplished, the fire of pure Spirit (increased and intensified by the gaseous essence of the fire of matter, or “fire by friction,” and colored, and rendered radiatory by the fire of mind) blazes forth in perfected glory, so that naught is seen save one vibrant flame. This idea can be extended away from Man to a Heavenly Man, and again to the Logos in His cosmic relationship. |
Đây là sự viên mãn tạm thời, nhưng cũng như trong giới động vật, tâm trí của con người còn tiềm tàng và theo bản năng, và cũng như trong giới nhân loại, phương diện bồ đề còn tiềm tàng và theo bản năng, thì trong chu kỳ cuối cùng của nỗ lực nhân loại, Atma – hay phương diện cao nhất của Chân Thần – cũng sẽ còn tiềm tàng và mang tính bản năng. Điều này phải tạo ra các giai đoạn phát triển tiếp theo. Không có sự gián đoạn nào trong tiến hoá, và không có thời kỳ nào hoàn toàn thiếu vắng bất kỳ phương diện nào; tất cả luôn luôn hiện diện nhưng chúng [731] “biểu lộ” luân phiên. Chỉ khi các ngọn lửa của vật chất đang cháy sáng rực và trở nên phát xạ, thì khi đó lửa của trí tuệ mới có thể biểu lộ, dù vốn dĩ luôn luôn hiện diện. Chỉ khi hai ngọn lửa này – của vật chất và trí tuệ – đạt đến mức nhiệt và ánh sáng mãnh liệt, thì lửa điện của Tinh thần mới có thể biểu lộ trong vinh quang của nó. Một lần nữa, chỉ khi cả ba ngọn lửa này cùng cháy một cách hợp nhất, thì lửa của vật chất mới lụi tàn vì thiếu chất liệu để thiêu đốt, và chỉ khi điều đó xảy ra, thì lửa của trí tuệ (trên các cấp độ trí tuệ) mới có thể thiêu rụi những gì trước đó nó từng làm sinh động. Khi điều này được hoàn tất, thì lửa của Tinh thần thuần khiết (được tăng cường và làm mãnh liệt bởi tinh chất khí của lửa vật chất, hay “lửa do ma sát”, và được nhuộm sắc, làm phát xạ bởi lửa của trí tuệ) bừng sáng trong vinh quang hoàn hảo, đến mức không còn thấy gì khác ngoài một ngọn lửa rung động. Ý tưởng này có thể được mở rộng từ Con Người đến một Thiên Nhân, và một lần nữa đến Logos trong mối quan hệ vũ trụ của Ngài. |
|
– Individualization marks one stage of the process in the intensification of “fire by friction.” It has relation to the achievement of Brahma, and marks a point in the energizing of substance. Certain forms are ready for self-consciousness. Two cosmic Rays of differing polarities are mutually attracted. |
– Sự biệt ngã hoá đánh dấu một giai đoạn trong sự tăng cường của “lửa do ma sát”. Nó liên quan đến sự thành tựu của Brahma, và đánh dấu một điểm trong việc tiếp sinh lực cho chất liệu. Một số hình tướng đã sẵn sàng cho ý thức tự ngã. Hai Cung vũ trụ mang phân cực khác nhau bị hấp dẫn lẫn nhau. |
|
– Initiation marks a stage in the intensification of “solar Fire.” It has relation to the achievement of Vishnu, and marks a point in the evolution of consciousness, through self-consciousness to group consciousness, or universal consciousness. |
– Điểm đạo đánh dấu một giai đoạn trong sự tăng cường của “lửa thái dương”. Nó liên quan đến sự thành tựu của Vishnu, và đánh dấu một điểm trong sự tiến hóa của tâm thức, từ ý thức tự ngã đến ý thức tập thể, hay tâm thức phổ quát. |
|
– Identification with the aggregate of all groups might be the term used to express the final stages of the evolutionary process; it marks a period towards the close of the mahamanvantara when all groups begin consciously to work out the eternal Will. It involves a type of realization, incredible to man now but which is conceivable [732] (though not yet practicable) to the Chohans of the Hierarchy now on Earth. They work consciously carrying out the Will of the planetary Logos in the planet, but even They are as yet far from appreciating fully the Will and purpose of the Logos as He works through the system. Glimpses They may get, and an idea of the general plan, but the details are as yet unrecognizable. |
– Đồng nhất với tổng thể các nhóm có thể là thuật ngữ dùng để diễn tả các giai đoạn cuối cùng của tiến trình tiến hoá; nó đánh dấu một thời kỳ vào cuối của một đại chu kỳ sinh hoá khi tất cả các nhóm bắt đầu hoạt động một cách có ý thức để thực hiện Thiên Ý vĩnh cửu. Nó hàm ý một loại nhận thức vượt ngoài khả năng của con người hiện nay, nhưng điều đó có thể được hình dung [732] (dù chưa thể thực hiện được) bởi các Chohan của Thánh đoàn đang hiện diện trên Trái Đất. Các Ngài hoạt động có ý thức để thực hiện Thiên Ý của Hành Tinh Thượng Đế trên hành tinh, nhưng ngay cả Các Ngài cũng còn cách xa việc thấu hiểu trọn vẹn Ý Chí và Thiên Ý của Logos khi Ngài hành động xuyên qua Thái Dương Hệ. Các Ngài có thể có những thoáng nhìn, và có một ý niệm về kế hoạch tổng quát, nhưng các chi tiết vẫn chưa thể nhận diện được. |