Luận Về Lửa Vũ Trụ Semester 7 (732-925)

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
DOCDOCX📄PDF

Ghi Chú: Đây là bản dịch chỉ dùng trong tham khảo học tập, do đó có các từ in đậm, nghiêng, gạch chân, tô màu, hoàn toàn của bản dịch.

Cosmic Fire – Semester S7

[Commentary S7S1]

c. On Incarnation

(a.) Cosmic, Planetary and Human

We leave now the consideration of self-consciousness, as it is produced through the medium of the particular type of deva substance which the Agnishvattas provided for the body of the Ego, and pass on to the study of incarnation, cosmic, planetary and human. A hint as to the constitution of these solar Pitris and Manasadevas may come to the student who ponders upon the place of the egoic unit in the body of the planetary Logos, and in the particular center of which it forms a component part. These Manasadevas and Dhyan Chohans who produce self-consciousness in man are indeed the energy and substance of the cosmic Heavenly Man.

Chúng ta sẽ rời khỏi phần khảo sát về ngã thức, vốn được hình thành thông qua môi giới của loại chất liệu thiên thần đặc biệt mà các Agnishvatta cung cấp cho thể của Chân Ngã, và chuyển sang khảo cứu về sự nhập thể—ở cấp vũ trụ, hành tinh và nhân loại. Một gợi ý liên quan đến cấu trúc của các Thái Dương Tổ Phụ và các Manasadeva có thể đến với người học nếu người ấy chiêm nghiệm về vị trí của đơn vị chân ngã trong thân thể của Hành Tinh Thượng Đế, và trong trung tâm đặc biệt mà nó là một thành phần. Các Manasadeva và các Dhyan Chohan tạo ra tâm thức tự ngã nơi con người thực ra chính là năng lượng và chất liệu của Đấng Thiên Nhân Vũ Trụ.

The word “incarnation” in its root meaning conveys the fundamental truth involved in the taking of a dense physical body, and should technically be applied only to that period of manifestation which concerns the three lower subplanes of the:

Từ “nhập thể” trong nghĩa gốc của nó hàm chứa chân lý căn bản về việc đảm nhận một thể xác đậm đặc, và một cách chính xác, chỉ nên được áp dụng cho thời kỳ biểu lộ liên quan đến ba cõi phụ thấp của:

a. Cosmic physical plane, in relation to a solar Logos and to a planetary Logos.

a. Cõi hồng trần vũ trụ, trong tương quan với Thái Dương Thượng Đế và Hành Tinh Thượng Đế.

b. Systemic physical plane, in relation to man.

b. Cõi hồng trần hệ thống, trong tương quan với con người.

This connotation has been preserved where the cosmic entities are concerned, but when man is under consideration the term has been applied to the unification of the etheric double with the dense physical body, or to the appropriation by man of the vehicle composed of the [733] substance of the lowest subplane of the cosmic physical plane in its lowest aspects. This distinction has a certain significance and should be remembered. This appropriation is governed by the same laws which governed the appropriation by the Logos of His physical vehicle. In order to get an idea of what the procedure is, it might be of value if we considered the different kinds of pralaya, and pondered upon those periods which ensue between incarnations. From the point of view of any unit involved, a pralaya is a period of quiescence, of cessation from a particular type of activity, involving objectivity, yet from the point of view of the great whole with which the unit may be involved, a pralaya may be considered merely as a transference of force from one direction into another. Though the unit may be temporarily devitalized as regards its form, yet the greater Entity persists, and is still active.

Sự hàm nghĩa này vẫn được giữ nguyên khi liên quan đến các thực thể vũ trụ, nhưng khi xét đến con người, thì thuật ngữ này đã được áp dụng cho sự hợp nhất của thể dĩ thái với thể xác đậm đặc, hoặc cho sự tiếp nhận phương tiện bởi con người, được cấu thành từ [733] chất liệu của cõi phụ thấp nhất của cõi hồng trần vũ trụ, trong các khía cạnh thấp nhất của nó. Sự phân biệt này có một ý nghĩa nhất định và cần được ghi nhớ. Việc tiếp nhận này chịu sự chi phối bởi cùng một định luật đã điều hành sự tiếp nhận thể vật lý của Logos. Để có thể hiểu phần nào tiến trình này, sẽ hữu ích nếu chúng ta khảo xét các loại pralaya khác nhau và suy ngẫm về những thời kỳ xen giữa các lần nhập thể. Từ quan điểm của bất kỳ đơn vị nào có liên quan, một pralaya là một thời kỳ tĩnh lặng, là sự chấm dứt một loại hoạt động đặc thù nào đó, có liên quan đến tính khách quan; tuy nhiên, từ quan điểm của Đại Thể mà đơn vị có thể là một phần trong đó, một pralaya có thể được xem như sự chuyển giao mãnh lực từ một hướng sang hướng khác. Dù đơn vị có thể tạm thời mất sinh lực trong phương diện hình tướng của nó, nhưng Thực Thể lớn hơn vẫn tồn tại, và vẫn đang hoạt động.

Let us take up the matter first from the human standpoint, and study pralaya as it affects the Monad in incarnation. 44 There are five types of pralaya with which we may legitimately concern ourselves. We should notice first the fact that this condition is primarily one that concerns the relationship between Spirit and matter, in which a condition in substance is brought about through the action of the energizing factor, the Spirit. It has, therefore, to do with the relation of the greater devas as They carry out Their work of form-building [734] under the Law of Will of God to the lesser devas who represent living substance. It will be apparent to the student that it concerns the relation of the Holy Spirit to the Mother in the production of the Son, and then the relation of the Son to the Mother. If the ideas formulated in this treatise have been carefully followed, it will be obvious that in studying the question of pralaya, we are studying the relation (in time and space) of the positive energy of the solar Logos, the planetary Logos, and of Man to the substance through which alone manifestation is possible. Through this relation, existence on the objective planes can be brought about.

Chúng ta hãy bắt đầu khảo sát vấn đề từ quan điểm nhân loại, và nghiên cứu pralaya như nó ảnh hưởng đến Chân Thần trong trạng thái nhập thể. 44 Có năm loại pralaya mà chúng ta có thể hợp lý quan tâm. Trước tiên, ta nên lưu ý rằng trạng thái này chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa Tinh thần và vật chất, trong đó một trạng thái của chất liệu được tạo ra thông qua tác động của yếu tố sinh động—Tinh thần. Nó liên quan đến mối quan hệ giữa các thiên thần cao cả khi Các Ngài thực hiện công trình xây dựng hình tướng [734] dưới Định Luật của Ý Chí Thiêng Liêng, đối với các thiên thần thấp hơn là những vị đại diện cho chất liệu sống. Điều đó sẽ trở nên rõ ràng đối với người học rằng nó liên quan đến mối quan hệ của Đức Thánh Linh với Mẹ trong sự tạo thành Con, và sau đó là mối quan hệ giữa Con và Mẹ. Nếu các ý tưởng được hình thành trong luận thuyết này đã được theo dõi một cách cẩn trọng, sẽ rõ ràng rằng khi nghiên cứu vấn đề pralaya, chúng ta đang khảo sát mối quan hệ (trong thời gian và không gian) giữa năng lượng dương của Thái Dương Thượng Đế, Hành Tinh Thượng Đế, và con người đối với chất liệu mà qua đó biểu lộ mới có thể xảy ra. Thông qua mối quan hệ này, sự hiện tồn trên các cõi khách quan mới có thể xuất hiện.

44 There are fundamentally three kinds of Pralaya. See S. D, I, 397-398.

44 Có ba loại Pralaya cơ bản. Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, I, tr. 397–398:

1. Solar pralaya. This comes at the end of one hundred years of Brahma. It marks reabsorption into unity. It marks end of manifestation of solar system. Concerns the solar Logos.

1. Đại pralaya thái dương: xảy ra vào cuối của một trăm năm Brahma. Nó đánh dấu sự tái hấp thụ vào Hợp Nhất. Đây là sự chấm dứt sự biểu lộ của Thái Dương Hệ. Liên quan đến Thái Dương Thượng Đế.

2. Incidental pralaya. This succeeds the days of Brahma. It marks periods between manvantaras. Temporary form ceases but duality remains. Concerns a planetary Logos.

2. Pralaya gián đoạn: theo sau các ngày của Brahma. Nó đánh dấu các thời kỳ giữa các manvantara. Hình tướng tạm thời chấm dứt nhưng nhị nguyên vẫn còn. Liên quan đến Hành Tinh Thượng Đế.

3. Individual pralaya. Achieved by a man at the fifth initiation. Marks attainment of perfection. Concerns the monad.

3. Pralaya cá nhân: đạt được bởi con người tại lần điểm đạo thứ năm. Đánh dấu sự thành tựu viên mãn. Liên quan đến Chân Thần.

There is also the pralaya in connection with human evolution which we call devachanic. It concerns the personality.

Cũng có một loại pralaya liên quan đến tiến hóa nhân loại mà chúng ta gọi là devachan. Nó liên quan đến phàm ngã.

(b.) The Nature of Pralaya —Bản chất của Pralaya

We can view pralaya as the work of “abstraction,” and as the method which brings the form under the Destroyer aspect of Spirit, working ever under the Law of Attraction, of which the Law of Synthesis is but a branch. The basic law of the system is that which governs the relation of all atoms to the aggregate of atoms, and of the Self to the Not-self. It is (from the occult standpoint) the most powerful force-demonstration in the system, and should the law inconceivably cease to work, instantaneously the system and all forms therein, planetary, human and other would cease to be. By an act of will the planetary schemes persist, by an act of will the system is; by an act of the egoic will man appears. When the Will of the Logos, of the Heavenly Man, and of the human divine Ego is turned to other ends, the substance of Their vehicles is affected, and disintegration sets in. The five types of pralaya which concern the human unit are as follows:

Chúng ta có thể xem pralaya như là công việc của “sự trừu xuất” và như là phương pháp đưa hình tướng trở về dưới phương diện Hủy Diệt của Tinh thần, luôn vận hành dưới Định Luật Hấp Dẫn, mà Định Luật Hợp Nhất chỉ là một nhánh của nó. Định luật cơ bản của hệ thống là định luật điều hành mối quan hệ của tất cả các nguyên tử đối với tổng thể các nguyên tử, và của Chính Ngã đối với phi-Ngã. Từ quan điểm huyền linh, đây là biểu lộ mãnh lực mạnh mẽ nhất trong toàn hệ thống, và nếu định luật này ngưng vận hành (một điều không thể tưởng tượng nổi), thì ngay lập tức hệ thống và mọi hình tướng bên trong nó—hành tinh, nhân loại, và các loại khác—sẽ ngừng tồn tại. Do một hành động của Ý Chí mà các hệ hành tinh còn tồn tại, do một hành động của Ý Chí mà hệ thống hiện hữu; do một hành động của ý chí chân ngã mà con người xuất hiện. Khi Ý Chí của Logos, của Đấng Thiên Nhân, và của Chân Ngã thiêng liêng của con người hướng đến những mục tiêu khác, thì chất liệu của các thể của Các Ngài bị ảnh hưởng, và sự phân rã bắt đầu.

(1) The Period of Pralaya between two Incarnations—Thời kỳ Pralaya giữa hai lần Nhập Thể

This is of a triple nature and affects the substance of the three vehicles, physical, astral and mental, reducing the form to its primitive substance, and dissipating its atomic structure. The energy of the second aspect (that of the form-builder) is withdrawn by the will of the Ego, [735] and the atoms composing the form become dissociated from each other, and are resolved into the reservoir of essence to be recollected again when the hour strikes. This condition is brought about gradually by stages of which we are aware.

Đây là một tiến trình ba bậc, và ảnh hưởng đến chất liệu của ba thể: thể xác, thể cảm dục và thể trí, làm tan rã hình tướng trở về chất liệu nguyên sơ và phân tán cấu trúc nguyên tử của nó. Năng lượng của phương diện thứ hai (tức là của Đấng Kiến Tạo hình tướng) được thu hồi lại bởi ý chí của Chân Ngã, [735] và các nguyên tử cấu thành hình tướng bị tách rời khỏi nhau, được hòa tan trở lại vào kho tàng tinh chất, để rồi sẽ được tập hợp lại một lần nữa khi đến thời điểm. Tình trạng này xảy ra từ từ qua các giai đoạn mà chúng ta biết đến.

The first stage is the withdrawal of the life force in the etheric vehicle from the threefold (dense, liquid and gaseous) dense physical body and the consequent “falling into corruption,” and becoming “scattered to the elements.” Objective man fades out, and is no more seen by the physical eye, though still in his etheric body. When etheric vision is developed, the thought of death will assume very different proportions. When a man can be seen functioning in his etheric physical body by the majority of the race, the dropping of the dense body will be considered just a “release.”

Giai đoạn đầu tiên là sự thu hồi sinh lực trong thể dĩ thái khỏi thể xác đậm đặc ba phần (rắn, lỏng và khí) và kết quả là “rơi vào sự hư hoại” và “tan biến về với các nguyên tố.” Con người khách quan phai nhạt đi, và không còn được thấy bởi mắt trần, mặc dù y vẫn còn tồn tại trong thể dĩ thái. Khi thị giác dĩ thái được phát triển, quan niệm về cái chết sẽ có một tỷ lệ rất khác. Khi một người có thể được nhìn thấy đang hoạt động trong thể dĩ thái của mình bởi phần lớn nhân loại, thì việc rời bỏ thể xác đậm đặc sẽ được xem đơn thuần là một “sự giải thoát.”

The next stage is the withdrawal of the life force from the etheric body or coil, and its devitalization. The etheric coil is but an extension of one aspect of the sutratma or thread, and this thread is spun by the Ego from within the causal body much as a spider spins a thread. It can be shortened or extended at will, and when the period of pralaya has been decided upon, this thread of light, or of solar fire (note the word “solar”) is withdrawn, and gathered back to the atomic subplane where it will still vitalize the permanent atom and hold it connected within the causal body. The life impulses are then—as far as the physical plane is concerned—centralized within the atomic sphere.

Giai đoạn tiếp theo là sự rút sinh lực khỏi thể dĩ thái hay cuộn năng lượng, và việc làm mất sinh khí của nó. Cuộn năng lượng dĩ thái chỉ là một sự mở rộng của một phương diện của sutratma hay sợi dây, và sợi dây này được Chân Ngã quay từ trong thể nguyên nhân, giống như con nhện quay tơ. Nó có thể được kéo dài hay rút ngắn theo ý muốn, và khi thời kỳ pralaya đã được quyết định, thì sợi dây ánh sáng, hay lửa thái dương (chú ý từ “thái dương”) này được thu hồi lại, và gom về cõi phụ nguyên tử nơi mà nó vẫn còn tiếp sinh lực cho nguyên tử thường tồn và giữ nó liên kết bên trong thể nguyên nhân. Các xung lực sinh mệnh khi đó—xét trên bình diện cõi hồng trần—được tập trung trong quả cầu nguyên tử.

The third stage is the withdrawal of the life force from so that it disintegrates in a similar manner and the life is centralized within the astral permanent atom. It has gained an increase of vitality through physical plane existence, and added color through astral experience.

Giai đoạn thứ ba là sự rút sinh lực khỏi thể cảm dục sao cho nó phân rã theo cách tương tự và sinh lực được tập trung trong nguyên tử thường tồn cảm dục. Nó đã tích lũy được thêm sinh lực qua kinh nghiệm trên cõi hồng trần, và thêm màu sắc thông qua kinh nghiệm cảm xúc.

The final stage for the human atom is its withdrawal [736] from the mental vehicle. The life forces after this fourfold abstraction are centralized entirely within the egoic sphere; contact with the three lower planes is still inherently possible by means of the permanent atoms, the force centers of the three personality aspects.

Giai đoạn cuối cùng đối với nguyên tử nhân loại là sự rút [736] khỏi thể trí. Các mãnh lực sinh mệnh sau khi đã được trừu xuất bốn lần như vậy sẽ hoàn toàn tập trung trong phạm vi của linh hồn; sự tiếp xúc với ba cõi thấp vẫn còn tiềm tàng thông qua các nguyên tử thường tồn—các trung tâm năng lượng của ba phương diện phàm ngã.

In each incarnation the life forces have gained through the utilization of the vehicles,

Trong mỗi lần nhập thể, các mãnh lực sinh mệnh đã tích lũy được thông qua việc sử dụng các thể:

a. An increased activity, which is stored in the physical permanent atom.

a. Một mức độ gia tăng hoạt động, được lưu trữ trong nguyên tử thường tồn hồng trần.

b. An added coloring, which is stored in the astral permanent atom.

b. Một màu sắc được bổ sung, được lưu trữ trong nguyên tử thường tồn cảm dục.

c. A developed quality of strength, or purpose in action, which is stored in the mental unit.

c. Một phẩm tính phát triển của sức mạnh hay mục đích trong hành động, được lưu trữ trong đơn vị trí tuệ.

These are wrought into faculty in devachan.

Các điều này được chuyển hoá thành năng lực trong devachan.

Devachan 45, 46 is a state of consciousness, reflecting, in [737] the life of the Personality, that higher state which we call nirvanic consciousness, and which is brought about by egoic action. It is but a dim reflection in the separated units (and therefore tinged with selfishness and separative pleasure) of the group condition called nirvanic. In this high state of consciousness each separate identity, though self-realizing, shares in the group realization, and therein lies bliss for the unit. Separation is no longer felt, only unity and essential oneness is known. Therefore, as might be naturally deduced, there is no devachan for the savage or little evolved man, as they merit it not, and have not the mentality to realize it; hence, therefore, the rapidity of their incarnations, and the brevity of the pralayic period. There is little in their case for the Ego, on its own plane, to assimilate in the residue of incarnations, and hence the life principle withdraws rapidly from out of the mental form, with the resulting impulse of the Ego to reincarnate almost immediately.

Devachan 45, 46 là một trạng thái tâm thức, phản ánh trong [737] đời sống của phàm ngã, trạng thái cao hơn mà chúng ta gọi là tâm thức niết bàn, và được tạo ra bởi hành động của linh hồn. Đó chỉ là một phản ánh mờ nhạt trong các đơn vị biệt lập (và do đó nhuốm màu tính ích kỷ và khoái lạc phân ly) của tình trạng nhóm được gọi là niết bàn. Trong trạng thái tâm thức cao này, mỗi thực thể riêng biệt, dù nhận biết được chính mình, cũng chia sẻ trong sự nhận thức của nhóm, và chính trong đó mà hạnh phúc của đơn vị tồn tại. Sự phân ly không còn được cảm nhận, chỉ còn sự hợp nhất và Nhất Thể cốt yếu được biết đến. Vì vậy, như có thể suy ra một cách tự nhiên, không có devachan cho người man rợ hay kém tiến hóa, vì họ không xứng đáng và không có trí năng để nhận thức được nó; do đó, sự tái sinh của họ xảy ra nhanh chóng, và thời kỳ pralaya là rất ngắn. Trong trường hợp của họ, linh hồn không có nhiều điều để đồng hoá lại từ tàn dư của các kiếp sống, nên sinh lực nhanh chóng được rút ra khỏi thể trí, với xung lực kết quả là linh hồn tái nhập thể gần như ngay lập tức.

When the life of the personality has been full and rich, yet has not reached the stage wherein the personal self can consciously cooperate with the ego, periods of personality nirvana are undergone, their length depending upon the interest of the life, and the ability of the man to meditate upon experience. Later, when the Ego dominates the personality life, the interest of the man is raised to higher levels, and the nirvana of the soul [738] becomes his goal. He has no interest in devachan. Therefore, those upon the Path (either the probationary Path, or the Path of Initiation) do not, as a rule, go to devachan, but immediate incarnation becomes the rule in the turning of the wheel of life; this time it is brought about by the conscious cooperation of the personal Self with the divine Self or Ego.

Khi đời sống của phàm ngã đã đầy đủ và phong phú, nhưng vẫn chưa đạt đến giai đoạn mà cái tôi cá nhân có thể hợp tác một cách có ý thức với chân ngã, các thời kỳ nirvana cá nhân được trải qua, thời lượng của chúng tùy thuộc vào mức độ phong phú của cuộc sống, và khả năng của con người trong việc chiêm nghiệm kinh nghiệm. Về sau, khi linh hồn chi phối đời sống của phàm ngã, mối quan tâm của con người được nâng lên các cấp độ cao hơn, và niết bàn của linh hồn [738] trở thành mục tiêu của y. Y không còn quan tâm đến devachan. Do đó, những ai đang trên Đường Đạo (dù là Đường Dự Bị hay Đường Điểm Đạo) nói chung không vào devachan, mà việc nhập thể trở nên ngay lập tức trong vòng quay của bánh xe luân hồi; lần này, điều đó được tạo ra bởi sự hợp tác có ý thức giữa cái tôi cá nhân và Chân Ngã thiêng liêng.

45 Devachan. “(3) ‘Who goes to Devachan?’ The personal Ego, of course, but beatified, purified, holy. Every Ego—the combination of the sixth and seventh principles—which, after the period of unconscious gestation is reborn into the Devachan, is of necessity as innocent and pure as a newborn babe. The fact of his being reborn at all shows the preponderance of good over evil in his old personality. And while the Karma (of evil) steps aside for the time being to follow him in his future earth-reincarnation, he brings along with him but the Karma of his good deeds, words, and thoughts into this Devachan. ‘Bad’ is a relative term for us—as you were told more than once before,—and the Law of Retribution is the only law that never errs. Hence all those who have not slipped down Into the mire of unredeemable sin and bestiality—go to the Devachan. They will have to pay for their sins, voluntary and involuntary, later on. Meanwhile they are rewarded; receive the effects of the causes produced by them.”

45 Devachan. “(3) ‘Ai đi vào Devachan?’ Tất nhiên là phàm ngã, nhưng được tôn thánh, thanh lọc, và thánh thiện. Mỗi chân ngã—sự kết hợp của nguyên lý thứ sáu và thứ bảy—mà sau thời kỳ thai nghén vô thức được tái sinh vào Devachan, thì tất yếu là ngây thơ và thuần khiết như một đứa trẻ sơ sinh. Việc y được tái sinh cho thấy thiện nghiệp đã thắng thế so với ác nghiệp trong nhân cách cũ của y. Và trong khi Nghiệp (ác) tạm thời bước qua một bên để theo sau y trong kiếp tái sinh tương lai trên trần gian, thì y chỉ mang theo vào Devachan nghiệp quả của các hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp của mình. ‘Ác’ là một thuật ngữ mang tính tương đối đối với chúng ta—như bạn đã được nhắc đi nhắc lại—và Định Luật Báo Ứng là định luật duy nhất không bao giờ sai lệch. Do đó, tất cả những ai chưa sa đọa hoàn toàn vào bùn lầy của tội lỗi không thể cứu chuộc và thú tính—đều vào Devachan. Họ sẽ phải trả nghiệp cho tội lỗi của mình, dù là cố ý hay vô ý, về sau. Trong khi đó, họ được ban thưởng; được nhận lãnh kết quả từ các nhân đã gieo.”

“Of course it is a state, one, so to say, of intense selfishness during which an Ego reaps the reward of his unselfishness on earth. He is completely engrossed in the bliss of all his personal earthly affections, preferences, thoughts, and gathers in the fruit of his meritorious actions. No pain, no grief nor even the shadow of a sorrow comes to darken the bright horizon of his unalloyed happiness; for, it its a state of perpetual ‘Maya’….Since the conscious perception of one’s personality on earth is but an evanescent dream that sense will be equally that of a dream in the Devachan—only a hundredfold intensified.”

“Tất nhiên đó là một trạng thái, có thể nói, của sự vị kỷ mãnh liệt trong đó một chân ngã gặt hái phần thưởng từ sự vị tha của mình trên trần thế. Y hoàn toàn chìm đắm trong niềm hạnh phúc từ mọi tình cảm, sự yêu thích, tư tưởng cá nhân trên thế gian, và thu hoạch trái ngọt của các hành vi đáng khen của mình. Không nỗi đau, không sầu muộn, thậm chí không có bóng dáng của buồn thương nào đến làm tối bầu trời rạng rỡ của hạnh phúc không pha lẫn; bởi vì đó là một trạng thái của ‘Maya’ vĩnh viễn… Vì ý thức về nhân cách của một người trên thế gian chỉ là một giấc mộng thoáng qua, nên cảm thức đó cũng sẽ chỉ là một giấc mộng trong Devachan—chỉ có điều mãnh liệt hơn gấp trăm lần.”

“ ‘Bardo’ is the period between death and rebirth—and may last from a few years to a kalpa. It is divided into three subperiods

“‘Bardo’ là thời kỳ giữa cái chết và sự tái sinh—và có thể kéo dài từ vài năm đến một kalpa. Nó được chia thành ba giai đoạn phụ:

– (1) when the Ego delivered of its mortal coil enters into Kama-Loka (the abode of Elementaries);

– (1) khi Chân Ngã, đã giải thoát khỏi lớp vỏ phàm ngã, đi vào Kama-Loka (nơi cư ngụ của các thực thể trung giới);

– (2) when it enters into ‘Gestation State’;

– (2) khi nó bước vào ‘trạng thái thai nghén’;

– (3) when it is reborn in the Rupa-Loka of Devachan.

– (3) khi nó được tái sinh trong Rupa-Loka của Devachan.

Subperiod (1) may last from a few minutes to a number of years—the phrase ‘a few years’ becoming puzzling and utterly worthless without a more complete explanation; Subperiod 2nd is ‘very long’; as you say, longer sometimes than you may even imagine, yet proportionate to the Ego’s spiritual stamina; Subperiod 3rd lasts in proportion to the good Karma, after which the monad is again reincarnated.”

Giai đoạn phụ (1) có thể kéo dài từ vài phút đến nhiều năm—cụm từ ‘vài năm’ trở nên khó hiểu và hoàn toàn vô nghĩa nếu không có sự giải thích đầy đủ hơn; Giai đoạn phụ thứ hai là ‘rất dài’; như bạn nói, đôi khi còn dài hơn cả sự tưởng tượng của bạn, nhưng tỷ lệ thuận với sức chịu đựng tâm linh của Chân Ngã; Giai đoạn phụ thứ ba kéo dài theo tỷ lệ với thiện nghiệp, sau đó Chân Thần lại tái sinh.”

“…Every effect must be proportionate to the cause. And, as man’s terms of incarnate existence bear but a small proportion to his periods of inter-natal existence in the manvantaric cycle, so the good thoughts, words, and deeds of any one of these ‘lives’ on a globe are causative of effects, the working out of which requires far more time than the evolution of the causes occupied.”

“…Mọi kết quả đều phải tương xứng với nguyên nhân. Và, vì thời gian hiện tồn trong xác phàm của con người chỉ chiếm một phần nhỏ so với các thời kỳ hiện tồn giữa hai lần tái sinh trong chu kỳ manvantaric, nên các tư tưởng, lời nói và hành vi tốt đẹp trong bất kỳ một ‘kiếp sống’ nào trên một hành tinh sẽ tạo ra những kết quả mà việc biểu hiện của chúng cần nhiều thời gian hơn so với thời gian đã dùng để tạo ra nguyên nhân.”

– From Mahatma Letters to A. P. Sinnett, pp. 100-105-106.

– Trích Thư của Chư Chân Sư gửi A. P. Sinnett, tr. 100–105–106.

46 Devachan. A state intermediate between two earth lives into which the Ego enters after its separation from its lower aspects or sheaths

46 Devachan. Một trạng thái trung gian giữa hai kiếp sống trên trần gian, trong đó Chân Ngã đi vào sau khi tách khỏi các phương diện thấp hơn hay các lớp vỏ của nó.

(2) The Period between Egoic Cycles

Herein is hid the mystery of the 777 incarnations and concerns the relation of the unit to his group on the egoic plane, prior to the unfoldment of the fifth petal. It concerns man in the period between the savage stage and that of the disciple, when he is an average man but still in the two Halls. The mystery of all root races lies here, and the egoic cycles coincide with the building of racial forms, and civilizations. A man will reincarnate again and again in the various subraces of a root race until a certain cycle has been covered; then he may undergo a pralayic condition until in a later (and sometimes much later) root race he will respond to its vibratory call, and the egoic impulse to incarnate will again be felt. In illustration of this, we should bear in mind that the more advanced humanity of today did not incarnate until the fourth root race. These cycles are one of the mysteries of initiation, though one of the earlier mysteries, and are revealed at the second initiation as they enable the initiate to comprehend his position, to see somewhat the nature of the karmic impulse, and to read his own record in the astral light.

Ẩn giấu trong đây là huyền nhiệm về 777 lần nhập thể, và liên quan đến mối quan hệ của đơn vị với nhóm của mình trên cõi chân ngã, trước khi cánh hoa thứ năm khai mở. Nó liên quan đến con người trong thời kỳ giữa giai đoạn man rợ và giai đoạn đệ tử, khi y là một người trung bình nhưng vẫn còn ở trong hai Đại Sảnh. Huyền nhiệm của tất cả các giống dân gốc nằm ở đây, và các chu kỳ linh hồn trùng khớp với tiến trình xây dựng các hình tướng giống dân và các nền văn minh. Một người sẽ tái sinh hết lần này đến lần khác trong các giống dân phụ khác nhau của một giống dân gốc cho đến khi một chu kỳ nhất định được hoàn tất; sau đó, y có thể trải qua một tình trạng pralaya cho đến khi, trong một giống dân gốc sau này (và đôi khi rất lâu sau), y sẽ đáp ứng lại rung động kêu gọi của giống dân đó, và xung lực nhập thể của linh hồn lại được cảm nhận. Để minh hoạ cho điều này, chúng ta nên ghi nhớ rằng phần nhân loại tiến bộ hơn hiện nay đã không nhập thể cho đến giống dân gốc thứ tư. Những chu kỳ này là một trong các huyền nhiệm của điểm đạo, dù là các huyền nhiệm thuộc loại sớm, và được tiết lộ tại lần điểm đạo thứ hai vì chúng cho phép điểm đạo đồ hiểu được vị trí của mình, phần nào nhận ra bản chất của xung lực nghiệp quả, và đọc được hồ sơ của chính mình trong ánh sáng cảm dục.

These might be considered the two lesser pralayic periods and concern primarily life in the three worlds.

Chúng ta có thể xem đó là hai thời kỳ pralaya thứ yếu và chủ yếu liên quan đến đời sống trong ba cõi.

(3) Next comes the period wherein the man has attained freedom. —Tiếp đến là thời kỳ khi con người đã đạt đến tự do.

A man has at this stage succeeded, under law, in “abstracting” himself, the freed soul, from out of the matter of the three worlds. He has used and worked with deva substance and has gained all the vibratory [739] contact possible, and has secured all the intended “realizations” and “revelations”; he can no longer be held imprisoned by the devas. He is free until, consciously and willingly, and in another round, he can return as a member of a Hierarchy to continue His work of service for the little evolved humanity of that distant time. As this concerns the seven paths of opportunity for a Master we will not deal with it here. 47 This is the great human pralaya.

Ở giai đoạn này, một người đã thành công, theo định luật, trong việc “trừu xuất” chính mình—linh hồn được giải phóng—khỏi chất liệu của ba cõi. Y đã sử dụng và làm việc với chất liệu thiên thần và đã đạt được tất cả những tiếp xúc rung động [739] có thể có, và đã đạt được tất cả những “nhận thức” và “mặc khải” đã định; y không còn bị các thiên thần giam giữ nữa. Y được tự do cho đến khi, một cách có ý thức và tự nguyện, và trong một cuộc tuần hoàn khác, y có thể trở lại như một thành viên của Thánh đoàn để tiếp tục công việc phụng sự đối với phần nhân loại còn kém tiến hóa của thời kỳ xa xôi ấy. Vì điều này liên quan đến bảy Con Đường cơ hội dành cho một Chân sư, nên chúng ta sẽ không đề cập tại đây. Đây là đại pralaya của nhân loại.

(4) Planetary Pralaya—Pralaya hành tinh

Man, after these cyclic happenings, is now a conscious part of his group, and a vibrant point in a center in the body of a Heavenly Man, consciously alive and consciously aware of his place in the great whole. This involves a realization as to the center of which he is a point of energy, a knowledge of the type of force he is to transmit, and to manipulate from cosmic levels, and a conscious relation with the six other centers in the planetary Life with which he is associated.

Sau các diễn biến chu kỳ này, con người giờ đây là một phần có ý thức trong nhóm của mình, là một điểm rung động trong một trung tâm thuộc thân thể của một Đấng Thiên Nhân, sống động một cách có ý thức và nhận biết được vị trí của mình trong Đại Thể. Điều này bao hàm một sự nhận thức về trung tâm mà y là một điểm năng lượng, một tri thức về loại mãnh lực mà y sẽ truyền tải và thao tác từ các cấp độ vũ trụ, và một mối liên hệ có ý thức với sáu trung tâm khác trong Sinh Mệnh hành tinh mà y liên kết.

This period of conscious activity in etheric substance (of which the planetary body is formed) persists according to the karma of the planetary Lord, for the unit is now consciously associated with planetary karma, and is a participant in the working out of the will and purpose of the Lord of His Ray. On the higher planes of the system, this stage persists for the length of the life of a scheme; to which a period of pralaya succeeds that has its beginning towards the end of the seventh round in any scheme or of the fifth if the Law of Persistence of a scheme is working out through cycles of five. I am [740] here generalizing and speaking in broad terms; the karma of the units differ and a man—according to the path he chooses after the fifth initiation—stays and works within his own scheme, but changes may occur through the following factors:

Thời kỳ hoạt động có ý thức này trong chất liệu dĩ thái (từ đó thân thể hành tinh được hình thành) kéo dài tùy theo nghiệp quả của Hành Tinh Thượng Đế, vì đơn vị lúc này đã liên kết một cách có ý thức với nghiệp quả hành tinh, và là một người tham gia vào việc thực hiện Ý Chí và Thiên Ý của Đấng Chúa Tể Cung của y. Trên các cõi giới cao của hệ thống, giai đoạn này kéo dài suốt tuổi thọ của một hệ hành tinh; sau đó là một thời kỳ pralaya bắt đầu vào cuối cuộc tuần hoàn thứ bảy của bất kỳ hệ hành tinh nào, hoặc cuộc tuần hoàn thứ năm nếu Định Luật Bền Vững của một hệ hành tinh vận hành qua các chu kỳ năm. Tôi [740] đang tổng quát hoá và nói một cách bao quát; nghiệp quả của các đơn vị là khác nhau và một người—tùy theo con đường y chọn sau lần điểm đạo thứ năm—sẽ lưu lại và làm việc trong hệ hành tinh của mình, nhưng những thay đổi có thể xảy ra do các yếu tố sau:

a. Planetary karma.

a. Nghiệp quả hành tinh.

b. The will of the Lord of his Ray.

b. Ý Chí của Đấng Chúa Tể Cung của y.

c. Orders emanating from the solar Logos which are conveyed to him after liberation via the planetary Logos and through the medium of the chohan of his Ray.

c. Mệnh lệnh phát ra từ Thái Dương Thượng Đế, được truyền đạt đến y sau khi giải thoát, qua Hành Tinh Thượng Đế và qua trung gian của Chohan Cung của y.

He is then “abstracted” under a mysterious planetary law which only works on cosmic etheric levels, and is transferred to his destination. If we interpret all the above in terms of energy and of radioactivity and thus avoid the dangers of materialistic interpretation, the meaning will become clearer.

Y sau đó được “trừu xuất” theo một định luật huyền bí của hành tinh chỉ hoạt động trên các cấp độ dĩ thái vũ trụ, và được chuyển đến nơi định mệnh của mình. Nếu chúng ta diễn giải tất cả những điều trên theo thuật ngữ của năng lượng và phóng xạ, và tránh các nguy cơ của sự giải thích duy vật, thì ý nghĩa sẽ trở nên sáng tỏ hơn.

47 The seven Paths upon one of which all must pass:

47 Bảy Con Đường mà tất cả đều phải bước qua:

– Path 1. The Path of Earth Service.

– Con Đường 1: Con Đường Phụng Sự Địa Cầu.

– Path 2. The Path of Magnetic Work.

– Con Đường 2: Con Đường của Công Tác Từ Tính.

– Path 3. The Path of the Planetary Logoi.

– Con Đường 3: Con Đường của các Hành Tinh Thượng Đế.

– Path 4. The Path to Sirius.

– Con Đường 4: Con Đường đến Sao Thiên Lang (Sirius).

– Path 5. The Ray Path.

– Con Đường 5: Con Đường của Cung.

– Path 6. The Path of the Solar Logos.

– Con Đường 6: Con Đường của Thái Dương Thượng Đế.

Path 7. The Path of Absolute Sonship.

– Con Đường 7: Con Đường của Tuyệt Đối Tử Tôn.

(5) The Great Pralaya —Đại Pralaya

This interval comes at the close of every one hundred years of Brahma, and sweeps into dissolution forms of every kind—subtle and dense—throughout the entire system. It is a period analogous to that dealt with when we considered the abstraction of man from his etheric vehicle, and his ability then to function on the astral plane, dissociated from his dual physical form. Within the system a process similar to that undergone when man withdraws the etheric body out of the dense physical vehicle, will be seen towards the close of the mahamanvantara. It will cover the period wherein the lesser four Rays merge and blend, seeking duality, and their polar opposites. Eventually the four become two, the two become one, and all are then synthesized into the third major Ray. The time is not yet, but lies countless aeons ahead. It is the first appearance of the destroyer aspect in connection with the planetary schemes, and marks the beginning of the [741] time when the “Heavens will melt with fervent heat,” and the Sun becomes seven suns. (See S. D., II, 746, 747.)

Giai đoạn này xảy ra vào cuối của một trăm năm của Brahma, và cuốn vào trong sự tan rã tất cả các hình tướng—tinh vi và thô trược—trong toàn bộ hệ thống. Đây là một thời kỳ tương đồng với điều được đề cập khi chúng ta khảo sát sự trừu xuất của con người khỏi thể dĩ thái của y, và khả năng của y để hoạt động trên cõi cảm dục, tách biệt khỏi thể xác kép. Trong toàn hệ thống, một tiến trình tương tự với tiến trình con người rút thể dĩ thái khỏi thể xác sẽ được thấy vào cuối của một đại giai kỳ sinh hóa. Nó sẽ bao trùm thời kỳ trong đó bốn cung nhỏ hợp nhất và dung hợp, tìm kiếm sự nhị nguyên và đối cực của chúng. Cuối cùng, bốn trở thành hai, hai trở thành một, và tất cả được hợp nhất vào cung chính thứ ba. Thời điểm đó chưa đến, nhưng nằm ở phía trước qua vô số thời đại. Đây là sự xuất hiện đầu tiên của phương diện Hủy Diệt liên quan đến các hệ hành tinh, và đánh dấu sự bắt đầu của [741] thời kỳ khi “các tầng trời tan chảy trong lửa cháy nồng,” và Mặt Trời trở thành bảy mặt trời. (Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, II, tr. 746, 747.)

The microcosmic correspondence can be seen in the following process. The physical permanent atom absorbs the entire life force of the physical body, and its inherent heat and light is thereby increased until at the fourth initiation the seven spirillae are fully vitalized, and vibrant. The internal heat of the atom, plus the external heat of the egoic body wherein it has its place, produces then that which destroys the permanent atom. Temporarily, and just prior to destruction, it becomes a tiny sevenfold sun owing to the radiation and activity of the spirillae. So with the physical sun of the system; it will in a similar manner become seven suns, when it has absorbed the life essence of the fully evolved planes, and of the planetary schemes thereon. The ensuing conflagration is the final work of the Destroyer aspect. It marks the moment of the highest development of deva substance in the system, the consummation of the work of Agni and his fire angels, and the initiation of Brahma. Atomic substance will then individualize (which, as we know, is the goal for the atom) and after the great pralaya the next solar system will start with the threefold Spirit manifesting through substance which is essentially distinguished by active intelligent love. This is necessarily incomprehensible to our fourth round minds.

Tương ứng vi mô có thể thấy trong tiến trình sau: nguyên tử thường tồn hồng trần hấp thu toàn bộ sinh lực của thể xác, và nhiệt cùng ánh sáng nội tại của nó theo đó được gia tăng cho đến khi tại lần điểm đạo thứ tư, bảy vòng xoắn (spirillae) được sinh động hoàn toàn và rung động mạnh mẽ. Nhiệt nội tại của nguyên tử, cộng với nhiệt ngoại tại của thể linh hồn mà trong đó nó cư ngụ, tạo ra điều sẽ huỷ diệt nguyên tử thường tồn. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, ngay trước sự huỷ diệt, nguyên tử đó trở thành một mặt trời bảy phần tí hon do phóng xạ và hoạt động của các vòng xoắn. Tương tự, Mặt Trời vật lý của hệ thống cũng sẽ trở thành bảy mặt trời, khi nó đã hấp thụ tinh chất sự sống của các cõi giới được tiến hoá đầy đủ và của các hệ hành tinh trên đó. Cuộc đại hỏa hoạn tiếp theo là công trình cuối cùng của phương diện Hủy Diệt. Nó đánh dấu thời khắc phát triển cao nhất của chất liệu thiên thần trong hệ thống, sự viên mãn của công trình của Agni và các thiên thần lửa của Ngài, và sự điểm đạo của Brahma. Chất nguyên tử khi đó sẽ biệt ngã hoá (đó là mục tiêu của nguyên tử như chúng ta đã biết), và sau đại pralaya, Thái Dương Hệ tiếp theo sẽ bắt đầu với Tinh thần tam phân biểu hiện qua chất liệu vốn được đặc trưng chủ yếu bởi tình thương thông tuệ năng động. Điều này tất nhiên là vượt ngoài khả năng hiểu biết của trí tuệ vòng thứ tư của chúng ta.

We have thus considered the various types of pralaya, in so far as they affect the human unit; each unit finds its ways eventually into one of the cosmic astral centers of the particular cosmic Entity Who is the Lord of his Ray, and therefore at the great pralaya those human units who have achieved, and who have not passed to other distant cosmic centers, will find their place there.

Chúng ta đã khảo sát các loại pralaya khác nhau, trong chừng mực mà chúng ảnh hưởng đến đơn vị nhân loại; mỗi đơn vị cuối cùng sẽ tìm thấy con đường của mình đến một trong các trung tâm cảm dục vũ trụ của Thực Thể vũ trụ đặc thù là Đấng Chúa Tể Cung của y, và do đó vào thời điểm của đại pralaya, những đơn vị nhân loại đã đạt được, nhưng chưa chuyển sang các trung tâm vũ trụ xa xôi khác, sẽ tìm thấy vị trí của mình tại đó.

Before we take up planetary and cosmic pralaya, we might here consider the relationship of the Agnishvattas [742] (who caused the individualization of animal man on this planet), to other and previous cycles of evolution, and why we have only dealt with them from the point of view of a mahamanvantara, and of a kalpa. The reason we have not considered specifically the group of Agnishvattas, Kumaras and Rudras connected with the Earth has been because we have handled the entire subject from the planetary standpoint, and not from that of the human family. The student who seeks detailed information as to the Agnishvattas of the Earth chain has but to study the Secret Doctrine. We have attempted to carry the thought of the student beyond his own tiny sphere to the consideration of the work of the Manasadevas in the solar system. In every scheme They have Their place, but in some—as in the Jupiter scheme—They are just beginning Their work, and in others—as in the Vulcan and Venus schemes—Their work is nearly completed. Venus is in her last round, and has nearly developed her fourth kingdom to perfection, or as much as it is possible in the system. In the Earth scheme, They are in full tide of work, and only in the next round will They demonstrate the height of Their activity. They pass cyclically through the schemes and under Law—the Law of Karma for the planetary Logos, for They are essentially concerned with His Life as it actuates His centers. They come into a scheme on a wave of manasic energy from the head center of the Logos, and in the process of passing through his Heart center three things occur:

Trước khi chúng ta đi vào pralaya hành tinh và vũ trụ, có thể xét đến mối liên hệ của các Agnishvatta [742] (những vị gây ra sự biệt ngã hoá của con người thú trên hành tinh này) với các chu kỳ tiến hóa khác và trước đó, và lý do tại sao chúng ta chỉ đề cập đến các Ngài từ quan điểm của một đại chu kỳ sinh hóa (mahamanvantara) và một kalpa. Lý do chúng ta chưa khảo sát cụ thể nhóm Agnishvatta, Kumara và Rudra liên quan đến Trái Đất là vì chúng ta đã xử lý toàn bộ chủ đề từ quan điểm hành tinh, chứ không phải từ quan điểm của gia đình nhân loại. Người học nào muốn có thông tin chi tiết về các Agnishvatta thuộc Dãy Địa Cầu chỉ cần nghiên cứu Giáo Lý Bí Nhiệm. Chúng ta đã cố gắng đưa tư tưởng của người học vượt khỏi phạm vi nhỏ hẹp của bản ngã, để suy ngẫm đến công trình của các Manasadeva trong toàn Thái Dương Hệ. Trong mỗi hệ hành tinh Các Ngài đều có vị trí của mình, nhưng trong một số—như hệ hành tinh Mộc Tinh—Các Ngài chỉ mới bắt đầu công việc của mình, và trong số khác—như hệ hành tinh Hỏa Tinh và Kim Tinh—công việc của Các Ngài gần như đã hoàn tất. Kim Tinh đang ở trong vòng cuối cùng của nó, và đã gần như phát triển giới thứ tư đến mức hoàn hảo, hay đến mức tối đa có thể trong hệ thống. Trong hệ Địa Cầu, Các Ngài đang trong cao trào công việc, và chỉ trong vòng tuần hoàn tới, Các Ngài mới thể hiện đỉnh cao của hoạt động. Các Ngài di chuyển theo chu kỳ qua các hệ hành tinh và dưới Định Luật—Định Luật Nghiệp Quả dành cho Hành Tinh Thượng Đế, vì Các Ngài chủ yếu liên quan đến Sự Sống của Ngài khi nó hoạt hoá các trung tâm của Ngài. Các Ngài đi vào một hệ hành tinh trên một làn sóng năng lượng manasic từ trung tâm đầu của Logos, và trong tiến trình đi qua trung tâm Tim của Ngài, ba điều xảy ra:

1. They become differentiated into seven groups.

1. Các Ngài được phân hóa thành bảy nhóm.

2. They direct Themselves as streams of energy to some particular scheme.

2. Các Ngài tự định hướng như các dòng năng lượng đến một hệ hành tinh cụ thể.

3. Their contact with a scheme is that which produces the manifestation of the fourth Creative Hierarchy, and leads to the Monads taking form in the three worlds. [743]

3. Sự tiếp xúc của Các Ngài với một hệ hành tinh là điều tạo ra sự biểu lộ của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, và dẫn đến việc các Chân Thần nhập thế vào ba cõi. [743]

These entities who sacrifice Themselves for the human Hierarchy (and we must note here the accuracy of the fact that They emanate from the logoic head center, or from the will aspect), are the true Saviors who give Their lives for the good of the race. They stand in relation to the totality of the schemes as the Occult Hierarchy of any particular planet stands to men upon that planet. During pralaya They are withdrawn (as all else), from manifestation, and return to a cosmic center of which the logoic head center is but a dim reflection; they return the richer for experience.

Những Thực Thể hy sinh chính mình cho Huyền Giai Nhân Loại (và ở đây chúng ta cần lưu ý tính chính xác của sự kiện rằng Các Ngài phát xuất từ trung tâm đầu của Thái Dương Thượng Đế, hay từ phương diện ý chí), chính là các Đấng Cứu Thế chân thật, những vị hiến dâng sự sống của mình cho lợi ích của giống dân. Các Ngài đứng trong mối liên hệ với tổng thể các hệ hành tinh cũng giống như Thánh đoàn Huyền linh của một hành tinh cụ thể đứng đối với nhân loại trên hành tinh đó. Trong thời kỳ pralaya, Các Ngài được rút khỏi biểu lộ (cũng như mọi thứ khác), và quay trở về một trung tâm vũ trụ mà trung tâm đầu của Thái Dương Thượng Đế chỉ là một phản chiếu mờ nhạt; Các Ngài quay về mang theo sự phong phú từ kinh nghiệm.

The old Commentary says:

Cổ Luận viết:

“The deva shineth with added light when the virtue of the will hath entered. He garnereth color as the reaper garners wheat, and storeth it up for the feeding of the multitude. Over all this deva host the mystic Goat presideth. Makara is, and is not, yet the link persisteth.”

“Vị thiên thần toả sáng rực rỡ hơn khi đức hạnh của ý chí đã đi vào. Ngài thu hoạch màu sắc như người gặt lúa, và tích trữ nó để nuôi sống muôn dân. Trên toàn thể đạo binh thiên thần này, Dê Huyền Bí ngự trị. Makara là, và không là, nhưng mối liên kết vẫn tồn tại.”

Rounds come and go but (except from the standpoint of a particular planet), the Manasadevas are forever present, but their influence is not forever felt.

Các cuộc tuần hoàn đến rồi đi, nhưng (trừ khi nhìn từ quan điểm của một hành tinh cụ thể), các Manasadeva luôn hiện diện, tuy ảnh hưởng của họ không phải lúc nào cũng được cảm nhận.

In considering planetary pralaya, we might briefly enumerate the following periods of quiescence:

Khi khảo sát về pralaya hành tinh, ta có thể sơ lược liệt kê các thời kỳ tĩnh lặng sau:

– Between Two Globes in a Chain. This covers the period of abstraction of the seeds of all life, and its transference from one sphere to another. The seed manu of a globe gathers all the life forces into Himself, as does the Logos at the close of a system, and as also transpires at the close of a chain, and holds them quiescent in His aura. This covers a period of a manvantara, or of one day of Brahma.

– Giữa hai bầu hành tinh trong một dãy. Đây là thời kỳ trừu xuất các hạt giống của mọi sự sống, và chuyển chúng từ một quả cầu sang quả cầu khác. Hạt giống Manu của một quả cầu gom tất cả các mãnh lực sự sống vào trong Ngài, như Logos làm vào cuối một hệ thống, và như điều cũng xảy ra vào cuối một dãy, và giữ chúng tĩnh lặng trong hào quang của Ngài. Thời kỳ này tương ứng với một manvantara, hay một ngày của Brahma.

– Between Two Chains. This covers the period of a mahamanvantara, or of one year of Brahma. There are many ways of arriving at the greater cycles, but there is no need to confuse with the intricacies of figures. The ten Prajapatis or Rishis, or [744] the ten planetary Logoi, manifest through Their ten schemes in time and space, the hour of Their appearing differing. Each likewise manifests as does the Logos through a septenate and a triad, making again a ten of perfection.

– Giữa hai dãy hành tinh. Đây là thời kỳ của một đại giai kỳ sinh hóa (mahamanvantara), hay một năm của Brahma. Có nhiều cách để tính đến các chu kỳ lớn hơn, nhưng không cần thiết phải làm rối thêm bằng các con số phức tạp. Mười Prajapati hay Rishi, hoặc [744] mười Hành Tinh Thượng Đế, biểu hiện thông qua mười hệ hành tinh của Các Ngài trong thời gian và không gian, và thời điểm xuất hiện của Các Ngài khác nhau. Mỗi vị cũng biểu hiện như Logos qua một bộ bảy và một bộ ba, lại tạo thành một bộ mười viên mãn.

– Between Two Solar Systems. This covers the period of one hundred years of Brahma, and through the study of the planetary cycles comprehension of these greater cycles may come. Complication comes to the student nevertheless in the fact that two of the schemes cover their cyclic periods in five rounds, while others have seven; one scheme has but three rounds, but a mystery is hidden here: on the inner round one planet has nine cycles to run before the purpose of its Lord is completed.

– Giữa hai Thái Dương Hệ. Đây là thời kỳ của một trăm năm Brahma, và thông qua việc nghiên cứu các chu kỳ hành tinh, có thể đạt được sự hiểu biết về các chu kỳ lớn hơn này. Tuy nhiên, điều làm phức tạp vấn đề cho người học là thực tế rằng hai hệ hành tinh hoàn tất các chu kỳ của chúng trong năm cuộc tuần hoàn, trong khi các hệ khác cần bảy; một hệ chỉ có ba tuần hoàn, nhưng một huyền nhiệm ẩn giấu ở đây: trên vòng nội tâm, một hành tinh còn phải trải qua chín chu kỳ nữa trước khi Thiên Ý của Đấng Chủ Tể của nó được hoàn tất.

Certain lesser periods of pralaya do not concern man at all, but concern the atom of matter as it is released from form of any kind in the subhuman kingdoms. Pralaya is the result of radioactivity carried to a conclusion.

Một số thời kỳ pralaya nhỏ hơn không liên quan đến con người, mà liên quan đến nguyên tử của chất liệu khi nó được giải thoát khỏi hình tướng ở bất kỳ giới tiền nhân loại nào. Pralaya là kết quả của phóng xạ được đẩy đến tận cùng.

(c.) Types of Human Rebirth —Các loại tái sinh của nhân loại

In our study of the building of thought-forms and the agencies for their construction, we have considered:

Trong khảo cứu của chúng ta về việc kiến tạo các hình tư tưởng và các cơ quan tham gia vào tiến trình kiến tạo này, chúng ta đã xét đến:

1. The deva substance out of which they are constructed.

1. Chất liệu thiên thần từ đó các hình tư tưởng được kiến tạo.

2. The energy which animates them and its source.

2. Năng lượng làm sinh động chúng và nguồn gốc của năng lượng ấy.

3. Their appearance in time and space, or their incarnation.

3. Sự xuất hiện của chúng trong thời gian và không gian, hay nói cách khác, sự nhập thể của chúng.

4. Their disappearance or pralaya.

4. Sự biến mất của chúng hay trạng thái pralaya.

5. The constructing entities who in a threefold manner produce these forms, utilizing the process of:

5. Các thực thể kiến tạo, những vị tạo ra các hình tư tưởng này theo ba cách, bằng cách sử dụng tiến trình:

a. Meditation, which is ever the preliminary to construction.

a. Tham thiền, vốn luôn là bước chuẩn bị trước tiên cho việc kiến tạo.

b. Dynamic force, or the positive energy which seizes upon its polar opposite (negative substance), and utilizes it. [745]

b. Mãnh lực động, hay năng lượng dương nắm bắt đối cực của nó (chất liệu âm) và sử dụng nó. [745]

c. The impartation of color or quality, which moulds that which has been prepared.

c. Truyền tải màu sắc hay phẩm tính, vốn định hình cái đã được chuẩn bị.

d. A secondary vitalization, which sets in separate motion the thought-form thus created.

d. Một sự tiếp sinh lực thứ cấp, thiết lập một chuyển động riêng biệt cho hình tư tưởng được tạo ra như vậy.

We will now consider the mystery of rebirth, or the incarnation of those lives which exist in subtler matter, and yet which seek form according to law, and touch upon their specific intent on dense physical levels. We can consider this in connection with the cosmic entities who seek existence on the physical plane of the cosmos, our solar systemic planes, or the reincarnating jivas who are driven by the Law towards earthly manifestation in order to become fully conscious, and acquire (by means of sentient existence), added faculty and power.

Giờ đây, chúng ta sẽ khảo xét huyền nhiệm của sự tái sinh, hay sự nhập thể của những sinh linh tồn tại trong chất liệu tinh vi hơn, nhưng vẫn tìm kiếm hình tướng theo định luật, và bàn đến ý định đặc biệt của chúng trên các cấp độ vật chất đậm đặc. Chúng ta có thể khảo sát điều này trong mối liên hệ với các thực thể vũ trụ tìm kiếm hiện tồn trên cõi vật lý của vũ trụ—tức là các cõi giới hệ mặt trời của chúng ta—hoặc các jiva tái sinh bị thúc đẩy bởi Định Luật hướng về sự biểu hiện trần gian để trở nên hoàn toàn có ý thức và đạt được (thông qua sự hiện tồn cảm giác) thêm năng lực và quyền năng.

H. P. B. has said that rebirths may be divided into three classes: (See S. D., III, 364, 365, 367.)

H. P. B. đã nói rằng sự tái sinh có thể được chia thành ba loại: (Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, III, tr. 364, 365, 367.)

a. Those of Avatars.

a. Sự tái sinh của các Hóa Thân (Avatar).

b. Those of Adepts.

b. Sự tái sinh của các Chân Sư (Adept).

c. Those of jivas seeking development.

c. Sự tái sinh của các jiva đang tìm kiếm sự phát triển.

To those who are endeavoring to grasp somewhat the mystery of rebirth and its laws and purpose, and who are confused when considering the mystery of the Buddha, and the secret purpose of that mysterious Entity, the Silent Watcher; to those who find the problem of understanding the position of the Kumaras and Their relation to the planetary Logos almost an insuperable one, it might be wise to say: Study and meditate upon the difference existing between the lower principles and the higher three; study and meditate upon the place and position of these lower principles in the body of the planetary Logos and ponder upon the correspondence between:

Đối với những ai đang cố gắng nắm bắt phần nào huyền nhiệm của sự tái sinh và các định luật cũng như mục đích của nó, và cảm thấy bối rối khi suy xét huyền nhiệm của Đức Phật, và mục đích bí mật của Thực Thể huyền nhiệm ấy—Đấng Trông Nom Thầm Lặng; đối với những ai cảm thấy khó có thể hiểu được vị trí của các Kumara và mối liên hệ của Các Ngài với Hành Tinh Thượng Đế, thì có lẽ khôn ngoan khi nói: hãy nghiên cứu và tham thiền về sự khác biệt giữa các nguyên lý thấp và ba nguyên lý cao hơn; hãy nghiên cứu và tham thiền về vị trí và vai trò của các nguyên lý thấp này trong cơ thể của Hành Tinh Thượng Đế, và suy ngẫm về sự tương ứng giữa:

a. The devachan of the reincarnating jiva.

a. Devachan của jiva tái sinh.

b. The nirvana of the Adept. [746]

b. Niết bàn của Chân Sư. [746]

c. The pralaya of a cosmic Entity, such as the Lord of a chain, the Lord of a scheme, and the Lord of a Ray.

c. Pralaya của một Thực Thể vũ trụ, chẳng hạn như Đấng Chủ Tể của một dãy, một hệ hành tinh, và một Cung.

I say correspondence in its esoteric significance, and do not seek to infer analogy in detail, but only in purpose and in experience. It may be said of all three states that they are periods of development, long cycles of meditation, and interludes between stages of activity. Hence the emphasis laid in the East and in all occult schools of development upon meditation, for it is the means of bringing to the unit under development the capacity which will produce:

Tôi nói đến sự tương ứng trong ý nghĩa nội môn, chứ không có ý gợi ra sự tương tự trong chi tiết, mà chỉ trong mục đích và trải nghiệm. Có thể nói rằng cả ba trạng thái trên đều là các thời kỳ phát triển, các chu kỳ dài của tham thiền, và là những khoảng ngưng giữa các giai đoạn hoạt động. Do đó, trong truyền thống phương Đông và tất cả các trường phái huyền môn, việc nhấn mạnh vào tham thiền là điều thiết yếu, bởi vì đó là phương tiện mang lại cho đơn vị đang được phát triển năng lực sẽ tạo ra:

a. Abstraction, or liberation from form.

a. Sự trừu xuất, hay sự giải thoát khỏi hình tướng.

b. Creative power.

b. Quyền năng sáng tạo.

c. Direction of energy, through an act of the will.

c. Sự điều hướng năng lượng thông qua một hành động của ý chí.

d. Future constructive activity.

d. Hoạt động kiến tạo trong tương lai.

By means of meditation, a man finds freedom from the delusion of the senses, and their vibratory lure; he finds his own positive center of energy and becomes consciously able to use it; he becomes, therefore, aware of his real Self, functioning freely and consciously beyond the planes of sense; he enters into the plans of the greater Entity within Whose radiatory capacity he has a place; he can then consciously proceed to carry out those plans as he can grasp them at varying stages of realization; and he becomes aware of essential unity. But when a man has thus freed himself from the objects of sense in the three worlds he again becomes aware of the need of further meditation, and it is this (to man in the three worlds), inconceivable form of meditation that engrosses the attention of the Adept, and which is undertaken by Him in two great stages, each preceding the two final Initiations, the sixth and the seventh. I refer not here only to Adepts who “make the sacrifice,” and choose rebirth for service on the planet, but to all adepts. Freedom to work on any Path must be gained by occult [747] meditation; freedom to escape beyond the ring-pass-not is also thus attained, and likewise the curious state of quiescence which is achieved by Those Who have offered for service as the occult Hierarchy in the next round. In Them have to be stored the psychic seeds of knowledge which will be available in the fifth round; this necessitates for Them an attitude of receptivity to occurrences at the close of each root-race, when there is, on subtler levels, a gathering in of psychic force, and its storing with Those prepared for its reception. Their work is analogous to that of the Seed-Manu, Who Himself works through a septenate as do these storers of the psychic life-forces.

Thông qua tham thiền, một người tìm được tự do khỏi ảo tưởng của giác quan và sự lôi kéo rung động của chúng; y tìm được trung tâm năng lượng dương của chính mình và trở nên có khả năng sử dụng nó một cách có ý thức; vì vậy, y nhận biết được Chân Ngã thật sự của mình, hoạt động một cách tự do và có ý thức vượt khỏi các cõi giác quan; y bước vào kế hoạch của Thực Thể Vĩ Đại mà y có vị trí trong vòng phát xạ của Ngài; khi đó y có thể hành động một cách có ý thức để thực hiện các kế hoạch ấy tùy theo mức độ lĩnh hội trong mỗi giai đoạn nhận thức của y; y nhận biết được sự Thống Nhất cốt yếu. Nhưng khi một người đã tự giải thoát khỏi các đối tượng giác quan trong ba cõi, thì y lại nhận ra sự cần thiết phải tiếp tục tham thiền, và chính hình thức tham thiền không thể hình dung này (đối với người trong ba cõi) là điều lôi cuốn sự chú tâm của Chân Sư, và được Ngài thực hiện qua hai giai đoạn trọng đại, mỗi giai đoạn đi trước hai lần điểm đạo cuối cùng—lần thứ sáu và lần thứ bảy. Tôi không chỉ nói về những Chân Sư “thực hiện sự hy sinh” và chọn tái sinh để phụng sự hành tinh, mà là tất cả các Chân Sư. Tự do để hành động trên bất kỳ Con Đường nào phải được đạt qua [747] tham thiền huyền môn; tự do để vượt khỏi vòng giới hạn cũng đạt được như vậy, và tương tự, trạng thái tĩnh lặng kỳ lạ đạt được bởi Những Vị đã tình nguyện phụng sự như Thánh đoàn huyền linh trong vòng tuần hoàn tiếp theo. Trong Các Ngài phải được lưu trữ những mầm mống tâm linh của tri thức sẽ được sử dụng trong vòng thứ năm; điều này đòi hỏi nơi Các Ngài một thái độ tiếp nhận đối với các diễn biến xảy ra vào cuối mỗi giống dân gốc, khi có một sự thu gom lực tâm linh trên các cấp độ tinh vi, và sự tích trữ nó trong Những Vị đã được chuẩn bị để tiếp nhận. Công việc của Các Ngài tương tự với công việc của Seed-Manu, Đấng cũng hoạt động qua một bộ bảy như những vị tích trữ các mãnh lực sự sống tâm linh này.

Again for such cosmic Entities as the planetary Logoi periods of meditation transpire, but these concern Them on the cosmic planes, and only the effects are felt on this. They meditate in Their physical brains, and therefore in substance as does man, but the process is carried on in the etheric brain. This should be pondered on, for it holds the mystery hid. Also, the fact that some of these Lords of the Rays are more proficient in meditation than others, and thus achieve differing results which work out in Their schemes, should be carefully borne in mind.

Một lần nữa, đối với các Thực Thể vũ trụ như các Hành Tinh Thượng Đế, các thời kỳ tham thiền cũng diễn ra, nhưng điều này liên quan đến Các Ngài trên các cõi vũ trụ, và chỉ những ảnh hưởng được cảm nhận trên cõi trần. Các Ngài tham thiền bằng não bộ vật lý của Các Ngài, và do đó, trong chất liệu giống như con người, nhưng tiến trình đó diễn ra trong não bộ dĩ thái. Điều này cần được suy ngẫm kỹ lưỡng, vì nó ẩn tàng huyền nhiệm. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng một số Đấng Chúa Tể của các Cung thành thạo trong tham thiền hơn những Đấng khác, và vì vậy đạt được những kết quả khác nhau, các kết quả ấy được thể hiện trong các hệ hành tinh của Các Ngài.

[Commentary S7S2]

(d.) The Future Coming of the Avatar

THE COMING AVATAR

ĐẤNG AVATAR SẮP ĐẾN

“From the zenith to the nadir, from dawn to fall of night, from the emergence into being of all that is or may be to the passing into peace of all that hath achieved, gleameth the orb of blue and the inner radiant fire.

“Từ thiên đỉnh đến thiên đế, từ bình minh đến đêm khuya, từ sự xuất hiện vào hiện tồn của mọi điều đang là hay có thể là cho đến sự tan vào an bình của mọi điều đã viên thành, ánh lên quả cầu màu xanh dương và ngọn lửa rực rỡ bên trong.

From the gates of gold down to the pit of earth, out from the flaming fire down to the circle of gloom, rideth the secret Avatar, bearing the sword that pierceth.

Từ cổng vàng xuống hố sâu của địa cầu, từ ngọn lửa rực cháy xuống vòng tròn tăm tối, cỡi xuống là vị Avatar bí mật, mang theo thanh gươm đâm xuyên.

Naught can arrest His approach, and none may say Him nay. To the darkness of our sphere He rideth alone, and on His approach is seen the uttermost disaster, and the chaos of that which seeketh to withstand. [748]

Không gì có thể ngăn cản sự Tiến Đến của Ngài, và chẳng ai có thể cản lời Ngài. Ngài một mình cưỡi vào cõi tăm tối của chúng ta, và khi Ngài đến gần, thảm hoạ tối hậu được thấy, và sự hỗn loạn bủa vây tất cả những gì cố gắng kháng cự lại. [748]

The Asuras veil their faces, and the pit of maya reeleth to the foundation. The stars of the eternal Lhas vibrate to that sound,—the WORD uttered with sevenfold intensity.

Các Asura che mặt, và hố sâu của maya đảo lộn tận gốc. Những vì sao của các Lha vĩnh cửu rung động với âm thanh đó—LINH TỪ được xướng lên với cường độ thất bội.

Greater the chaos becometh; the major center with all the seven circulating spheres rock with the echoes of disintegration. The fumes of utter blackness mount upwards in dissipation. The noise discordant of the warring elements greets the oncoming One, and deters Him not. The strife and cries of the fourth great Hierarchy, blending with the softer note of the Builders of the fifth and sixth, meet His approach. Yet He passeth on His way, sweeping the circle of the spheres, and sounding forth the WORD.

Sự hỗn loạn trở nên lớn hơn; trung tâm chính và tất cả bảy vòng quay xung quanh rung lên vì những âm vọng của sự tan rã. Khói đen tối tuyệt đối bốc lên tan vào hư không. Âm thanh chát chúa của các yếu tố xung đột vang lên chào đón Đấng Đang Đến, nhưng chẳng thể nào ngăn Ngài lại. Cuộc giao tranh và tiếng kêu la của Huyền Giai vĩ đại thứ tư, hòa quyện với nốt nhẹ nhàng hơn của các Đấng Kiến Tạo của huyền giai thứ năm và thứ sáu, gặp Ngài khi Ngài đến gần. Tuy nhiên, Ngài vẫn tiến bước theo lộ trình của mình, quét qua vòng tròn các cõi giới, và xướng vang LINH TỪ.

* * *

From the nadir to the zenith, from eve unto the Day be with us, from the circle of manifestation to the center of pralayic peace, is seen the enveloping blue, lost in the flame of achievement.

Từ thiên đế đến thiên đỉnh, từ chiều đến Ngày Cùng Chúng Ta, từ vòng tròn biểu lộ đến trung tâm an bình pralaya, được thấy màu xanh bao bọc, tan vào ngọn lửa thành tựu.

Up from the pit of maya back to the portals of gold, forth from the gloom and darkness back to the splendor of day, rideth the Manifested One, the Avatar, bearing the shattered Cross.

Từ hố sâu của maya bước lên lại cổng vàng, từ bóng tối và tăm mờ trở về rực rỡ của ban ngày, cưỡi lên là Đấng Đã Biểu Lộ, vị Avatar, mang theo Thánh Giá tan vỡ.

Naught can arrest His return, none can impede His Path, for He passeth along the upper way, bearing His people with Him. Cometh the dissolution of pain, cometh the end of strife, cometh the merging of the spheres and the blending of the hierarchies. All then is reabsorbed within the orb, the circle of manifestation. The forms that exist in maya, and the flame that devoureth all, are garnered by the One Who rideth the Heavens and entereth into the timeless Aeon.”

Không gì có thể ngăn cản sự trở lại của Ngài, không ai có thể cản bước Lộ Trình của Ngài, vì Ngài đi trên con đường thượng giới, mang dân tộc của Ngài theo. Sự tan biến của đau khổ sẽ đến, sự kết thúc của xung đột sẽ đến, sự hợp nhất của các cõi và sự dung hợp của các huyền giai sẽ đến. Mọi sự rồi sẽ được tái hấp thu vào trong quả cầu, vòng tròn biểu lộ. Các hình tướng hiện hữu trong maya, và ngọn lửa thiêu huỷ mọi sự, được thu góp bởi Đấng cỡi lên Thiên Không và bước vào Kỷ Nguyên vượt thời gian.”

(From the Archives of the Lodge.)

(Trích từ Lưu trữ của Thánh đoàn)

We have touched upon the subject of Avatars and the various classes into which they might be divided. We might now enlarge somewhat more upon the methods. The methods whereby certain cosmic Existences and certain highly evolved Entities appear among men to do a specific work might be very inadequately, and cursorily summarized, as follows:

Chúng ta đã đề cập đến chủ đề về các Avatar và các phân loại khác nhau của Các Ngài. Giờ đây, ta có thể mở rộng hơn một chút về các phương pháp. Các phương pháp nhờ đó một số Thực Thể Vũ Trụ và một số Thực Thể tiến hóa cao xuất hiện giữa loài người để thực hiện một công việc đặc thù có thể được tóm lược, dù rất sơ lược và không đầy đủ, như sau:

– The method of over-shadowing.

– Phương pháp phủ bóng (over-shadowing).

– The method of embodying some principle. [749]

– Phương pháp hiện thân một nguyên lý.

– The method seen in the mystery of the Bodhisattva, or the Christ.

– Phương pháp được thấy trong huyền nhiệm của vị Bồ Tát, hay của Đức Christ.

– The method of direct incarnation.

– Phương pháp nhập thể trực tiếp. [749]

The handicap of words is great, and the above phrases but convey a hint as to the true meaning. Therein lies safety for the student, for the real significance would be incomprehensible to him, and would but mislead him and guide him along the path of misunderstanding. Until a man is a pledged initiate, he cannot comprehend the matter. Of these, the most ordinary method is the first. All these methods of manifestation will perhaps be better understood by the student if he interprets them always in terms of force and energy, and if he notes that dim reflections of the same processes, and faint analogies can be traced among the reincarnating jivas. When a man has reached a certain development and can be of service to the world, cases occur when he is over-shadowed by a great adept, or—as in the case of H. P. B. — by One greater than an adept. A chela can be a center through which his master can pour His energy and force for the helping of the world, and in certain important crises men have been over-shadowed by more than one of the Great Ones. 50 [750]

Hạn chế của ngôn ngữ là rất lớn, và những cụm từ trên chỉ gợi ra phần nào ý nghĩa chân thực. Trong điều đó lại nằm sự an toàn cho người học, bởi vì ý nghĩa thực sự sẽ không thể hiểu được với y và sẽ chỉ khiến y lạc hướng và rơi vào con đường hiểu lầm. Cho đến khi một người là một điểm đạo đồ đã lập nguyện, y không thể lĩnh hội vấn đề này. Trong số các phương pháp trên, phương pháp phổ biến nhất là phương pháp đầu tiên. Tất cả các phương thức biểu lộ này có lẽ sẽ dễ hiểu hơn với người học nếu y luôn giải thích chúng dưới khía cạnh của năng lượng và mãnh lực, và nếu y lưu ý rằng những phản ánh mờ nhạt của cùng những tiến trình này, cùng các sự tương tự yếu ớt, có thể được nhận ra nơi các jiva tái sinh. Khi một người đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định và có thể phụng sự thế gian, có những trường hợp xảy ra khi y được phủ bóng bởi một vị Chân sư vĩ đại, hoặc—như trong trường hợp của H. P. B.—bởi Một Đấng còn cao cả hơn cả một Chân sư. Một đệ tử có thể là một trung tâm qua đó Chân sư của mình có thể tuôn đổ năng lượng và mãnh lực của Ngài để giúp đỡ thế giới, và trong một số thời điểm quan trọng, có những người đã được phủ bóng bởi nhiều hơn một Đấng Cao Cả. [750]

50 Discipleship or Chelaship…The ancient mysteries were but a school of spiritual training and perfection in true wisdom; that the preliminary qualification was the purification of the heart from all sensual passions and false preconceptions; that, while the hand of the Master might lead the neophyte through the dangers of the stage where, like the infant, he could not walk alone, he was obliged, in the higher paths, to learn to guide and guard himself, as the adult man has to do in ordinary life; that the ultimate goal was the expansion of the self into infinite existence and potentialities; and, lastly, that, however the initial forms and ceremonies may have differed in appearance, an identical aim was in view.

50 Đệ tử hay Trạng thái đệ tử… Các huyền nhiệm cổ xưa chỉ là một trường đào luyện tâm linh và hoàn thiện trong minh triết đích thực; rằng điều kiện tiên quyết là phải thanh lọc trái tim khỏi mọi dục vọng cảm giác và các định kiến sai lầm; rằng, trong khi bàn tay của vị Thầy có thể dẫn dắt người nhập môn vượt qua các nguy hiểm của giai đoạn mà y còn như trẻ nhỏ chưa thể tự bước đi, thì y bắt buộc, trên những nẻo đường cao hơn, phải học cách tự hướng dẫn và tự gìn giữ bản thân, giống như người trưởng thành phải làm trong đời sống thường nhật; rằng mục tiêu tối hậu là sự mở rộng của chính ngã vào tồn tại và tiềm năng vô biên; và sau cùng, dù các hình thức và nghi lễ ban đầu có thể khác nhau, thì vẫn có một mục tiêu đồng nhất được hướng đến.

The Theosophist, Vol. IX, p. 246.

– The Theosophist, Tập IX, tr. 246

The pure heart and clean mind alone permit one to attain salvation. This was his doctrine. So, likewise, is it taught in the Aryan Mahabharata (Sec. CXCIX. Vana Parva) which says:

Trái tim trong sạch và trí tuệ minh triết là điều duy nhất cho phép một người đạt được cứu rỗi. Đó là giáo lý của Ngài. Tương tự, điều này cũng được dạy trong Mahabharata của Aryan (phần CXCIX, Vana Parva), rằng:

“Those high souled persons that do not commit sins in word, deed, heart and soul, are said to undergo ascetic austerities, and not that they suffer their bodies to be wasted by fasts and penances. He that hath no feeling of kindness for relatives cannot be free from sin, even if his body be pure. That hard-heartedness of his is the enemy of his asceticism. Asceticism, again, is not mere abstinence from the pleasures of the world. He that is always pure and decked with virtues, he that practices kindness all his life, is a Muni, even though he lead a domestic life.”

“Những người có tâm hồn cao quý không phạm tội trong lời nói, hành động, trái tim và linh hồn, được cho là đang thực hành khổ hạnh, chứ không phải là những kẻ khiến thân thể mình héo mòn bởi ăn chay và tu khổ hạnh. Ai không có lòng thương xót đối với thân quyến của mình thì không thể thoát khỏi tội lỗi, ngay cả khi thân thể của y được tinh khiết. Tính cứng rắn của trái tim y chính là kẻ thù của khổ hạnh. Khổ hạnh, một lần nữa, không chỉ đơn giản là sự kiêng kỵ khỏi các lạc thú trần gian. Ai luôn tinh khiết và trang nghiêm với các đức hạnh, ai suốt đời thực hành lòng nhân ái, thì người đó là một Muni, ngay cả khi y sống đời tại gia.”

– The Theosophist, Vol. XIII, p. 259.

– The Theosophist, Tập XIII, tr. 259

What occurs on lower planes is but a reflection of higher processes, and in this thought may lie illumination. A man is a force center, either for his Ego, when sufficiently evolved, or, via his Ego, of his group force; when very highly developed he can consciously be over-shadowed by an exponent of a different type of force, which blends with his group, or Ray, force, and produces significant results in his life on earth.

Những gì xảy ra trên các cõi thấp chỉ là một phản ánh của các tiến trình cao hơn, và trong tư tưởng này có thể chứa đựng sự soi sáng. Một con người là một trung tâm mãnh lực, hoặc cho linh hồn của y, khi đã tiến hóa đủ, hoặc—thông qua linh hồn của y—cho mãnh lực nhóm của y; khi rất phát triển, y có thể một cách có ý thức được phủ bóng bởi một biểu hiện của một loại mãnh lực khác, mãnh lực này phối hợp với mãnh lực nhóm hoặc cung của y và tạo ra các kết quả quan trọng trong đời sống trần gian của y.

An embodied principle

Again when an Ego is highly evolved he may choose during any particular incarnation to work paramountly through any one principle among the lower four; when this is the case the man’s life on earth is significantly that of an embodied principle. He seems to strike one note and to sound out one tone. His work is clearly to be seen along one line. He is a fanatic of high degree, but accomplishes big things for his subrace, even though the physical brain may not be consciously aware of the egoic impulse. This process has a curious relation to the obscuration, or fading out, of the personality, for the particular principle embodied works through a corresponding permanent atom, and its spirillae become over-rapidly developed, and hence their term of service wears to a close. This is a fact which is nevertheless taken advantage of when a superman, or great adept, becomes the embodiment (during a root-race) of a principle; the vestures or sheaths of which the permanent atom is the nucleus (through the innate strength of the developed spirillae) are preserved by the aid of mantric formulas. The vibration is perpetuated for a specific length of time, and for as long as the vesture or sheath may be required. A hint is here conveyed which may be of service.

Một lần nữa, khi một Chân ngã đã tiến hoá cao, y có thể chọn trong một kiếp sống nhất định để hoạt động chủ yếu thông qua một nguyên lý nào đó trong bốn nguyên lý thấp; khi điều này xảy ra, thì đời sống của người ấy trên cõi trần mang tính đặc trưng rõ rệt là hiện thân của một nguyên lý. Y dường như ngân vang một nốt duy nhất và phát ra một âm điệu duy nhất. Công việc của y rõ ràng theo một hướng nhất định. Y là một người cuồng tín ở cấp độ cao, nhưng hoàn thành được những điều vĩ đại cho giống dân phụ của mình, mặc dù bộ não vật lý có thể không ý thức được xung lực đến từ Chân ngã. Tiến trình này có mối liên hệ kỳ lạ với hiện tượng bị lu mờ hay phai nhạt của phàm ngã, vì nguyên lý đặc thù được hiện thân ấy hoạt động thông qua nguyên tử thường tồn tương ứng, và các vòng xoắn (spirillae) của nó được phát triển quá nhanh, do đó thời kỳ phục vụ của chúng đi đến kết thúc. Đây là một thực tế tuy vậy vẫn được tận dụng khi một siêu nhân hay một vị Chân sư vĩ đại trở thành hiện thân (trong một giống dân gốc) của một nguyên lý; các y phục hay lớp vỏ mà nguyên tử thường tồn là hạch tâm (do sức mạnh bẩm sinh của các vòng xoắn đã phát triển) được gìn giữ nhờ vào các công thức linh chú (mantric formulas). Rung động đó được duy trì trong một thời gian nhất định, và được giữ cho đến khi lớp vỏ hoặc y phục còn cần thiết. Một gợi ý được hàm chứa ở đây có thể mang lại ích lợi.

The mystery of the Bodhisattva
Huyền nhiệm của vị Bồ Tát

Again, when a man has become a disciple he may, if he so wish, remain upon the astral plane and work there, and—at his pleasure, and under the adjustment of karma by [751] his Guru—he may take immediate physical birth. A hint as to the mystery of the Bodhisattva may be found in these two thoughts, provided the student transfers the whole concept to the etheric levels of the cosmic physical plane, and remembers that on these levels the adept works altogether as a part of a group, and not as a separated Identity, as does the ego in the three worlds.

Một lần nữa, khi một người đã trở thành đệ tử, y có thể, nếu muốn, ở lại trên cõi cảm dục và hoạt động tại đó, và—tùy theo ý nguyện của y và theo sự điều chỉnh nghiệp quả bởi [751] vị Guru của y—y có thể tái sinh vào thể xác ngay lập tức. Một gợi ý về huyền nhiệm của vị Bồ Tát có thể được tìm thấy trong hai ý tưởng này, với điều kiện người học chuyển toàn bộ khái niệm này sang các cấp độ dĩ thái của cõi hồng trần vũ trụ, và ghi nhớ rằng trên các cấp độ này, vị Chân sư hoạt động hoàn toàn như là một phần của một nhóm, chứ không như một Bản ngã biệt lập, như linh hồn làm trong ba cõi.

Therefore, the energy pouring through Him may be:

Vì vậy, năng lượng tuôn chảy qua Ngài có thể là:

a. That of a particular center in the body of the planetary Logos in its total force.

a. Năng lượng của một trung tâm cụ thể trong thân thể của Hành Tinh Thượng Đế, với toàn bộ mãnh lực của nó.

b. That of a particular set of vibrations within that center, or a part of its vibratory force.

b. Năng lượng của một tập hợp rung động cụ thể trong trung tâm đó, hay một phần năng lượng rung động của nó.

c. That of the energy of a particular principle, either one of His own higher principles which He is seeking to bring to bear upon the earth, by taking incarnation for that specific purpose, or the energy of one of the planetary logoic principles, as it pours through Him via a particular spirilla or life current in the permanent atom of the planetary Logos.

c. Năng lượng của một nguyên lý đặc thù, hoặc là một trong các nguyên lý cao của chính Ngài mà Ngài đang cố mang vào Trái đất bằng cách nhập thể với mục đích đặc biệt đó, hoặc là năng lượng của một trong các nguyên lý của Hành Tinh Thượng Đế, tuôn qua Ngài thông qua một vòng xoắn hay dòng sinh lực cụ thể trong nguyên tử thường tồn của Hành Tinh Thượng Đế.

When these types of force are centralized in any particular adept, and He is expressing simply that extraneous force and nothing else, the effect is shown on the physical plane in the appearance of an avatar. An avatar is, but an adept is made, but frequently the force, energy, purpose or will of a cosmic Entity, will utilize the vehicles of an adept in order to contact the physical planes. This method whereby cosmic Existences make Their power felt can be seen working out on all the planes of the cosmic physical plane. A striking instance of this can be seen in the case of the Kumaras, Who, under certain planetary forces, and through the formation of a systemic triangle, gave the impulse to the third kingdom which produced the fourth by bringing it into conjunction with the fifth. These Kumaras, Sanat Kumara and [752] His three pupils, having achieved the highest initiation possible in the last great cycle, but having as yet (from Their standpoint) another step to take, offered Themselves to the planetary Logos of Their Ray as “focal points” for His force, so that thereby He might hasten and perfect His plans on Earth within the cycle of manifestation. They have demonstrated three out of the four methods.

Khi những loại mãnh lực này được tập trung trong bất kỳ vị Chân sư nào, và Ngài chỉ biểu hiện thuần túy mãnh lực bên ngoài ấy, thì hiệu quả sẽ được thấy trên cõi trần qua sự xuất hiện của một vị Avatar. Một vị Avatar là, còn một vị Chân sư trở thành, tuy nhiên thường thì mãnh lực, năng lượng, mục đích hay ý chí của một Thực Thể Vũ Trụ sẽ sử dụng các thể của một Chân sư để tiếp xúc với các cõi trần. Phương pháp mà nhờ đó các Thực Thể Vũ Trụ làm cho quyền năng của Các Ngài được cảm nhận có thể được thấy trong mọi cõi của cõi hồng trần vũ trụ. Một trường hợp nổi bật của điều này có thể được thấy nơi các vị Kumara, những vị đã, dưới các mãnh lực hành tinh nhất định và thông qua sự hình thành của một tam giác hệ thống, truyền xung lực cho giới thứ ba, dẫn đến sự xuất hiện của giới thứ tư bằng cách đem nó vào sự kết hợp với giới thứ năm. Các vị Kumara này, Sanat Kumara và [752] ba vị đệ tử của Ngài, sau khi đã đạt được lần điểm đạo cao nhất có thể trong chu kỳ vĩ đại trước đó, nhưng vẫn còn (từ quan điểm của Các Ngài) một bước tiến nữa, đã tự nguyện dâng hiến mình cho Hành Tinh Thượng Đế của Cung của Các Ngài như là các “trung điểm” cho mãnh lực của Ngài, để nhờ đó Ngài có thể thúc đẩy và hoàn thiện các kế hoạch của Ngài trên Địa cầu trong chu kỳ biểu lộ. Các Ngài đã thể hiện ba trong bốn phương pháp:

[1] They are over-shadowed by the planetary Logos, and He works directly as the Initiator (in relation to man) through Sanat Kumara, and with the three kingdoms in nature through the three Buddhas of Activity,—Sanat Kumara, being thus concerned directly with the ego on the mental plane, and His three Pupils being concerned with the other three types of consciousness, of which man is the summation. At the moment of initiation (after the second Initiation) Sanat Kumara becomes the direct mouthpiece and agent of the Planetary Logos. That great Entity speaks through Him and for one brief second (if one can use such a term in connection with a plane whereon time, as we understand it, is not) the planetary Logos of a man’s Ray consciously—via His etheric brain—turns His thought upon the Initiate, and “calls him by His Name.”

[1] Các Ngài được phủ bóng (over-shadowed) bởi Hành Tinh Thượng Đế, và Ngài làm việc một cách trực tiếp như là Đấng Điểm Đạo (liên quan đến nhân loại) thông qua Sanat Kumara, và với ba giới trong thiên nhiên thông qua ba vị Phật của Hành Động—Sanat Kumara do đó có liên hệ trực tiếp với chân ngã trên cõi trí, và ba vị đệ tử của Ngài có liên hệ đến ba loại tâm thức khác, trong đó nhân loại là sự tổng hợp. Tại thời điểm điểm đạo (sau lần điểm đạo thứ hai), Sanat Kumara trở thành tiếng nói và khí cụ trực tiếp của Hành Tinh Thượng Đế. Thực Thể vĩ đại đó phán ra thông qua Ngài và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi (nếu có thể dùng từ như vậy đối với một cõi nơi thời gian như chúng ta hiểu không tồn tại), Hành Tinh Thượng Đế của Cung của một người—thông qua não dĩ thái của Ngài—chuyển tâm tưởng đến vị điểm đạo đồ và “gọi Ngài bằng Tên của Ngài.”

[2] Again the Kumaras are embodied principles, but in this connection we must remember that this means that the force and energy of one of the principles of the Logos are pouring through Them via that which—to Them—corresponds to the Monad. Through Them, during Their period of incarnation and voluntary sacrifice, the great Prototype of the planetary Logos begins to make His Presence felt, and force from the constellation of the Great Bear faintly vibrates on earth. At initiation, man, becomes aware consciously of the Presence of the planetary Logos through self-induced contact with his own divine Spirit. At the fifth Initiation he becomes aware of the full extent of this planetary group influence, and [753] of his part in the great whole. At the sixth and seventh Initiations the influence of the planetary Prototype is sensed, reaching him via the planetary Logos working through the Initiator.

[2] Một lần nữa, các vị Kumara là hiện thân của các nguyên lý, nhưng trong mối liên hệ này, chúng ta phải nhớ rằng điều đó có nghĩa là mãnh lực và năng lượng của một trong các nguyên lý của Logos đang tuôn qua Các Ngài thông qua cái tương ứng với Chân Thần đối với Các Ngài. Thông qua Các Ngài, trong thời kỳ nhập thể và hy sinh tự nguyện, Mẫu Nguyên Thủy vĩ đại của Hành Tinh Thượng Đế bắt đầu làm cho Sự Hiện Diện của Ngài được cảm nhận, và mãnh lực từ chòm sao Đại Hùng Tinh (Great Bear) khẽ rung động trên Địa cầu. Khi điểm đạo, con người trở nên nhận biết một cách có ý thức về Sự Hiện Diện của Hành Tinh Thượng Đế thông qua tiếp xúc tự tạo với Thần Linh thiêng liêng của chính mình. Tại lần điểm đạo thứ năm, y nhận biết đầy đủ tầm ảnh hưởng của nhóm hành tinh này và [753] vai trò của y trong Đại Thể. Tại lần điểm đạo thứ sáu và thứ bảy, ảnh hưởng của Mẫu Nguyên Thủy hành tinh được cảm nhận, truyền đến y thông qua Hành Tinh Thượng Đế hoạt động qua Đấng Điểm Đạo.

[3] The method of direct incarnation was earlier seen when the Kumaras were in physical form. This only applied to some of Them; Sanat Kumara and His Pupils are in physical form, but have not taken dense physical bodies. They work on the vital etheric levels, and dwell in etheric bodies. Shamballa, where They dwell, exists in physical matter as do the Kumaras, but it is matter of the higher ethers of the physical plane, and only when man has developed etheric vision will the mystery lying beyond the Himalayas be revealed. Therefore, Sanat Kumara is the planetary Logos yet He is not. A reflection of this method of direct incarnation can be seen when a disciple steps out of his body and permits his Guru, or a more advanced chela, to use it.

[3] Phương pháp nhập thể trực tiếp đã được thấy trước đó khi các vị Kumara còn trong hình tướng vật lý. Điều này chỉ áp dụng với một số trong số Các Ngài; Sanat Kumara và các đệ tử của Ngài có mặt trong hình thể vật lý, nhưng không nhận lấy các thể xác đậm đặc. Các Ngài hoạt động trên các cấp độ dĩ thái sinh lực, và cư ngụ trong các thể dĩ thái. Shamballa, nơi Các Ngài cư ngụ, tồn tại trong chất liệu vật lý cũng như các vị Kumara, nhưng đó là chất liệu của các dĩ thái cao của cõi vật lý, và chỉ khi con người phát triển được thị giác dĩ thái thì huyền nhiệm nằm phía sau dãy Himalaya mới được hé lộ. Do đó, Sanat Kumara là Hành Tinh Thượng Đế nhưng cũng không phải là Ngài. Một phản ánh của phương pháp nhập thể trực tiếp này có thể được thấy khi một đệ tử bước ra khỏi thể xác của mình và cho phép vị Guru của y, hoặc một đệ tử cao cấp hơn, sử dụng nó.

The mystery of the Bodhisattvas

The mystery of the Bodhisattvas (S. D., I. 82, 83.) has been touched upon by H. P. B. and until students have assimilated and studied what she has said, there is no more to add. Apprehension of truth is ever the factor that calls for fresh revelation.

Sự huyền nhiệm của các Bồ Tát (S. D., I. 82, 83.) đã được H. P. B. đề cập đến, và cho đến khi các học viên tiếp thu và nghiên cứu những điều bà đã nói, thì không có gì thêm cần được bổ sung. Việc lĩnh hội chân lý luôn là yếu tố kêu gọi một sự mặc khải mới.

A very interesting period will come about the year 1966 and persist to the end of the century. It is one for which the Great Ones are already making due preparation. It concerns a centennial effort of the Lodge and of the Personages taking part therein. Each century sees a centennial effort of the Lodge along a particular line of force made to forward the ends of evolution, and the effort for the twentieth century will be upon a larger scale than has been the case for a very long time, and will involve a number of Great Ones. In a similar effort during the nineteenth century, H. P. B. was concerned, and a fairly large number of chelas. In the effort immediately ahead, [754] several of the Great Ones are concerned and the Master of the Masters Himself; in Their “forthcoming” for work three out of the various methods of appearing mentioned earlier will be seen in full activity, and it is on these three that we might now touch.

Một thời kỳ hết sức thú vị sẽ đến vào khoảng năm 1966 và kéo dài đến cuối thế kỷ. Đây là một thời kỳ mà các Đấng Vĩ Đại đã chuẩn bị một cách thỏa đáng. Thời kỳ này liên quan đến một nỗ lực trăm năm của Thánh đoàn và các Nhân vật tham gia vào đó. Mỗi thế kỷ đều chứng kiến một nỗ lực trăm năm của Thánh đoàn dọc theo một dòng mãnh lực đặc thù nhằm thúc đẩy các mục đích của sự tiến hóa, và nỗ lực cho thế kỷ hai mươi sẽ diễn ra ở quy mô lớn hơn nhiều so với rất lâu nay, và sẽ liên quan đến một số Đấng Vĩ Đại. Trong một nỗ lực tương tự vào thế kỷ mười chín, H. P. B. đã có liên hệ, cùng với một số khá lớn các đệ tử. Trong nỗ lực sắp tới, [754] nhiều Đấng Vĩ Đại sẽ tham gia, kể cả Chân sư của các Chân sư; trong sự “xuất hiện” của Các Ngài để hành động, ba trong số nhiều phương pháp xuất hiện đã được đề cập trước đó sẽ được thấy hoạt động đầy đủ, và chúng ta có thể đề cập đến ba phương pháp này.

In the appearing of the Bodhisattva Himself, the mystery of the Bodhisattva will be seen in its fullest sense, and it is not for us here to enlarge upon it. Suffice it to say that the vestures of the GREAT ONE will be used, but time will show whether the coming Lord will clothe upon those vestures a physical vehicle at this particular juncture, or whether the astral plane may not be the field of His activity. If the student ponders upon the consequences entailed in the appropriation of this vesture, much light upon probable happenings will be thrown. The vestures act in a dual capacity:

Trong sự xuất hiện của chính vị Bồ Tát, bí ẩn của Đức Bồ Tát sẽ được thấy một cách trọn vẹn nhất, và chúng ta không cần nói thêm về điều đó tại đây. Chỉ cần nói rằng các y phục (“các Thân”) của ĐẤNG VĨ ĐẠI sẽ được sử dụng, nhưng thời gian sẽ cho thấy liệu vị Chúa sắp đến sẽ khoác lên những y phục ấy một thể xác vật lý vào thời điểm đặc biệt này hay không, hoặc liệu cõi cảm dục có thể là lĩnh vực hoạt động của Ngài. Nếu người học suy ngẫm về những hệ quả phát sinh từ việc tiếp nhận y phục này, nhiều ánh sáng sẽ được soi rọi lên các khả năng sẽ xảy đến. Các y phục ấy hoạt động với hai chức năng:

a. They are very highly magnetized, and therefore have a profound and far-reaching effect when utilized.

a. Chúng được từ hoá ở mức rất cao và do đó có tác động sâu xa và rộng lớn khi được sử dụng.

b. They act as a focal point for the force of the Lord Buddha and link up the coming Lord with Him, enabling Him to increase His Own stupendous resources by drawing upon still higher force centers, via the Lord Buddha.

b. Chúng hoạt động như một điểm hội tụ cho mãnh lực của Đức Phật và nối kết Đấng Chúa sắp đến với Đức Phật, giúp Ngài tăng cường các nguồn lực vĩ đại của chính mình bằng cách tiếp nhận các trung tâm mãnh lực cao hơn nữa thông qua Đức Phật.

This force will find its expression upon the astral plane, producing vast results of a quieting nature and bringing, by reflex action, peace on earth. The transmutation of desire into aspiration, and the transformation of low desire into high desire, will be some of the effects, while the result of the force flowing through will produce profound reactions of the deva denizens of that plane. Through the vibration thus set up will come the possibility of many (who would otherwise not do so) taking the first initiation. Later, towards the end of the greater cycle, the coming Avatar will again employ the vestures [755] with all that is entailed thereby, and will take a physical body, thus demonstrating on the physical plane the force of the Logos in the administration of the Law. When He comes at the close of this century and makes His power felt, He will come as the Teacher of Love and Unity, and the keynote He will strike will be regeneration through love poured forth on all. As He will work primarily on the astral plane, this will demonstrate on the physical plane in the formation of active groups in every city of any size, and in every country, which will work aggressively for unity, cooperation and brotherhood in every department of life—economic, religious, social and scientific.

Mãnh lực này sẽ tìm thấy sự biểu hiện trên cõi cảm dục, tạo ra những kết quả to lớn có tính làm dịu và, thông qua phản ứng tương hỗ, mang lại hoà bình cho trái đất. Sự chuyển hoá của dục vọng thành khát vọng, và sự biến đổi của dục vọng thấp thành dục vọng cao, sẽ là một số tác động; trong khi kết quả của mãnh lực chảy qua sẽ tạo ra những phản ứng sâu sắc nơi các vị thiên thần cư ngụ trên cõi ấy. Thông qua rung động như vậy, sẽ xuất hiện khả năng cho nhiều người (mà nếu không có rung động ấy thì sẽ không thể) đạt được lần điểm đạo thứ nhất. Sau này, về cuối chu kỳ lớn, vị Avatar sắp đến sẽ lại sử dụng các pháp y ấy [755] với tất cả những hệ quả đi kèm, và sẽ khoác lấy một thân xác vật lý, nhờ đó biểu lộ trên cõi hồng trần mãnh lực của Thượng Đế trong việc thi hành Định Luật. Khi Ngài đến vào cuối thế kỷ này và làm cho quyền năng của Ngài được cảm nhận, Ngài sẽ đến như một vị Giáo huấn về Tình thương và Hợp nhất, và âm điệu chính Ngài sẽ đánh lên là sự tái sinh thông qua tình thương được tuôn đổ lên tất cả. Vì Ngài sẽ chủ yếu hoạt động trên cõi cảm dục, điều này sẽ biểu hiện trên cõi hồng trần qua sự hình thành các nhóm hoạt động trong mọi thành phố lớn và ở mỗi quốc gia, các nhóm ấy sẽ hoạt động tích cực vì hợp nhất, hợp tác và huynh đệ trong mọi lĩnh vực của đời sống—kinh tế, tôn giáo, xã hội và khoa học.

These groups will achieve results now impossible, owing to the retention of buddhic force, but later this force will be set loose on earth via the medium of the Great Lord, operating as an aspect of the Logos, and as a focal point for the consciousness and energy of the Buddha.

Những nhóm này sẽ đạt được những kết quả mà hiện tại là bất khả thi, do bởi mãnh lực bồ đề vẫn còn bị giữ lại, nhưng sau này mãnh lực này sẽ được phóng thích xuống trần thông qua trung gian của Đấng Vĩ Đại, hoạt động như một khía cạnh của Thượng Đế, và như một điểm hội tụ cho tâm thức và năng lượng của Đức Phật.

It is this impending probability which is held in mind during the century at the annual recurrence of the Wesak festival. Students would do well to further the ends of the occult Hierarchy by a similar concentration at the time of the festival, thus setting up currents of thought which will have a great appeal in the occult sense of that term.

Chính xác suất sắp xảy ra này là điều được ghi nhớ trong suốt thế kỷ vào mỗi lần diễn ra lễ hội Wesak hàng năm. Các học viên nên góp phần thúc đẩy các mục tiêu của Thánh đoàn huyền môn bằng sự tập trung tương tự vào thời điểm diễn ra lễ hội, nhờ đó thiết lập các dòng tư tưởng sẽ có một sức thu hút to lớn theo nghĩa huyền bí của từ ngữ đó.

Indication of the nearing of this event will be seen in the reaction which will be set up during the next twenty-five years against crime, sovietism, and the extreme radicalism which is now being made use of by certain powers to achieve ends contrary to the plans of the Lord. The era of peace will be ushered in by a gathering together on earth of the forces which stand for construction, and development, and by a conscious deliberate banding together of groups in every land who embody the principle (as far as they can vision it) of Brotherhood. Watch [756] the signs of the times, and be not discouraged over the immediate future. The appearance of the Great Lord on the astral plane (whether followed by His physical incarnation or not) will date from a certain Wesak festival at which a mantram (known only to those attaining the seventh Initiation) will be pronounced by the Buddha, thus setting loose force, and enabling His great Brother to fulfil his mission. Hence the gradual recognition of the Wesak festival, and its true significance in the occident is desirable, and opportunity will be offered to all who are willing to place themselves in the line of this force, and thus become vitalized by it, and consequently available for service. The reaction mentioned above, will also become possible through the pressure brought to bear by the present children, many of whom are chelas and some initiates. They have come in to prepare the way for the coming of His Feet.

Dấu hiệu của việc sự kiện này đang đến gần sẽ được thấy qua phản ứng sẽ hình thành trong hai mươi lăm năm tới chống lại tội ác, chủ nghĩa Xô Viết và chủ nghĩa cực đoan hiện đang được một số thế lực sử dụng để đạt các mục tiêu trái với kế hoạch của Chúa. Kỷ nguyên hoà bình sẽ được khai mở bởi sự hội tụ trên địa cầu của các mãnh lực đại diện cho kiến thiết và phát triển, cùng với một sự liên kết có ý thức và chủ ý của các nhóm ở mọi nơi, những người hiện thân cho nguyên lý (trong chừng mực họ có thể hình dung được) của Huynh đệ. Hãy quan sát [756] các dấu hiệu của thời đại, và đừng nản lòng trước tương lai trước mắt. Sự xuất hiện của Đấng Vĩ Đại trên cõi cảm dục (dù có được theo sau bởi sự nhập thể vật lý của Ngài hay không) sẽ bắt đầu từ một lễ hội Wesak đặc biệt mà tại đó một linh chú (chỉ được biết đến bởi những ai đạt đến lần điểm đạo thứ bảy) sẽ được Đức Phật xướng lên, từ đó phóng thích mãnh lực, và giúp Vị Huynh Trưởng vĩ đại của Ngài hoàn thành sứ mệnh. Do đó, việc dần dần công nhận lễ hội Wesak và ý nghĩa chân chính của nó tại phương Tây là điều đáng mong muốn, và cơ hội sẽ được trao cho tất cả những ai sẵn sàng đặt bản thân mình trong dòng chảy của mãnh lực này, từ đó được tiếp sinh lực bởi nó, và trở nên khả dụng cho sự phụng sự. Phản ứng được đề cập ở trên cũng sẽ trở nên khả thi thông qua áp lực đến từ các trẻ em hiện nay, trong số đó có nhiều em là các đệ tử và một số là điểm đạo đồ. Các bạn đến để chuẩn bị con đường cho sự đến của Bàn Chân Ngài.

When the hour strikes (five years prior to the date of His descent) they will be in the full flower of their service and will have recognized their work, even though they may not be conscious of that which the future holds hid.

Khi giờ khắc điểm (năm năm trước ngày Ngài giáng trần) thì các bạn sẽ ở trong giai đoạn rực rỡ nhất của sự phụng sự của mình và sẽ nhận ra công việc của các bạn, cho dù có thể các bạn chưa ý thức được điều mà tương lai còn che giấu.

When the hour has come (and already a few cases are to be found), many cases of over-shadowing will be seen and will demonstrate in a threefold manner. In all countries, in the orient and the occident, prepared disciples and highly evolved men and women, will be found who will be doing the work along the lines intended, and who will be occupying places of prominence which will make them available for the reaching of the many; their bodies also will be sufficiently pure to permit of the over-shadowing. It will only be possible in the case of those who have been consecrated since childhood, who have been servers of the race all their lives, or who, in previous lives, have acquired the right by karma. This threefold over-shadowing will manifest as:

Khi giờ khắc đã đến (và hiện đã có vài trường hợp được ghi nhận), sẽ có nhiều trường hợp phủ bóng được thấy và sẽ biểu hiện theo ba cách. Ở mọi quốc gia, cả phương Đông và phương Tây, sẽ có các đệ tử đã được chuẩn bị và những người nam và nữ tiến hóa cao, đang thực hiện công việc theo đúng đường hướng dự kiến, và đang nắm giữ những vị trí nổi bật giúp họ có thể tiếp cận được với nhiều người; thân thể của họ cũng sẽ đủ thanh khiết để cho phép việc phủ bóng. Điều này chỉ có thể xảy ra với những ai đã được thánh hiến từ thuở nhỏ, những người đã phụng sự nhân loại suốt cả cuộc đời, hoặc những ai, trong các kiếp sống trước, đã đạt được quyền đó nhờ nghiệp quả. Sự phủ bóng ba phương diện này sẽ biểu hiện như sau:

– First. An impression upon the physical brain of the [757] man or woman, of thoughts, plans for work, ideals and intentions which (emanating from the Avatar) will yet be unrecognized by him as being other than his own; he will proceed to put them into action, unconsciously helped by the force flowing in. This is literally a form of higher mental telepathy working out on physical levels.

– Thứ nhất. Một ấn tượng được ghi vào não bộ vật lý của người nam hay người nữ [757] về các tư tưởng, kế hoạch cho công việc, các lý tưởng và ý định mà (xuất phát từ vị Avatar) vẫn chưa được họ nhận biết là khác với của riêng mình; họ sẽ tiến hành thực hiện những điều đó, một cách vô thức được trợ giúp bởi mãnh lực đang chảy vào. Đây thực chất là một hình thức viễn cảm trí tuệ cao đang biểu hiện trên các bình diện vật lý.

– Second. The over-shadowing of the chela during his work (such as lecturing, writing, or teaching), and his illumination for service. He will be conscious of this, though perhaps unable to explain it, and will seek more and more to be available for use, rendering himself up in utter selflessness to the inspiration of His Lord. This is effected via the chela’s Ego, the force flowing through his astral permanent atom; and it is only possible when the fifth petal is unfolded.

– Thứ hai. Sự phủ bóng người đệ tử trong khi y làm việc (như diễn giảng, viết hoặc giảng dạy), và sự soi sáng của y cho mục đích phụng sự. Y sẽ ý thức được điều này, mặc dù có thể không giải thích được, và sẽ ngày càng tìm cách sẵn sàng để được sử dụng, hiến mình một cách hoàn toàn vô ngã cho nguồn cảm hứng đến từ vị Chúa của y. Điều này được thực hiện thông qua chân ngã của người đệ tử, mãnh lực chảy qua nguyên tử trường tồn cảm dục của y; và điều này chỉ có thể xảy ra khi cánh hoa thứ năm đã được khai mở.

– Third. The conscious cooperation of the chela is necessitated in the third method of over-shadowing. In this case he will (with full knowledge of the laws of his being and nature) surrender himself and step out of his physical body, handing it over for the use of the Great Lord or one of His Masters. This is only possible in the case of a chela who has brought all the three lower bodies into alignment, and necessitates the unfolding of the sixth petal. By an act of conscious will he renders up his body, and stands aside for a specific length of time.

– Thứ ba. Sự hợp tác có ý thức của người đệ tử là điều kiện tiên quyết cho phương pháp phủ bóng thứ ba. Trong trường hợp này, y sẽ (với sự hiểu biết đầy đủ về các định luật của bản chất và hữu thể của mình) tự hiến và tạm thời rời khỏi thể xác, trao nó cho sự sử dụng của Đấng Vĩ Đại hoặc một trong các Chân sư của Ngài. Điều này chỉ có thể xảy ra đối với một người đệ tử đã chỉnh hợp được cả ba thể thấp, và đòi hỏi sự khai mở của cánh hoa thứ sáu. Bằng một hành động có ý chí có ý thức, y hiến dâng thể xác mình và đứng sang một bên trong một thời gian nhất định.

These methods of over-shadowing will be largely the ones used by the Great Lord and His Masters at the end of the century, and for this reason They are sending into incarnation, in every country, disciples who have the opportunity offered them to respond to the need of humanity. Hence the need of training men and women to recognize the higher psychism, and the true inspiration and mediumship, and to do this scientifically. In fifty years time, the need for true psychics and conscious mediums (such as H. P. B., for instance) will be very great [758] if the Master’s plans are to be carried to fruition, and the movement must be set on foot in preparation for the coming of Him for Whom all nations wait. In this work many have their share, provided they demonstrate the necessary endurance.

Những phương pháp phủ bóng này sẽ là những phương pháp chính yếu được Đấng Vĩ Đại và các Chân sư của Ngài sử dụng vào cuối thế kỷ, và chính vì lý do đó mà Các Ngài đang gửi vào kiếp sống hiện tại, ở mọi quốc gia, các đệ tử—những người được trao cơ hội để đáp ứng nhu cầu của nhân loại. Do đó, cần phải huấn luyện nam nữ để họ nhận biết được năng lực thông linh cao cấp, và nguồn cảm hứng và khả năng đồng tử chân chính, và làm điều này một cách khoa học. Trong vòng năm mươi năm nữa, nhu cầu về những nhà thông linh chân chính và những đồng tử có ý thức (chẳng hạn như H. P. B.) sẽ rất lớn [758] nếu kế hoạch của Chân sư được thực hiện trọn vẹn, và phong trào này cần được khởi động nhằm chuẩn bị cho sự đến của Đấng mà muôn dân mong đợi. Trong công việc này, nhiều người sẽ có phần, miễn là họ thể hiện được sự bền chí cần thiết.

Naturally, the first group will be the largest, for it does not necessitate so much knowledge, but more risk is entailed with them than with the others—the risk of a perversion of the plans, and of disaster to the unit involved. The second group will be less numerous, and the last group will involve only a handful, or two or three in certain countries. In this case, it will be verily true that, through sacrifice, the Son of Man will again tread the highways of men, and His physical incarnation be a fact. Very few will be thus available for His use, as the force He carries requires a peculiarly resilient instrument, but due preparation is being made.

Tất nhiên, nhóm đầu tiên sẽ là nhóm đông nhất, vì họ không cần nhiều tri thức, nhưng họ lại tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với hai nhóm còn lại—rủi ro làm sai lệch kế hoạch, và gây tai họa cho đơn vị được liên quan. Nhóm thứ hai sẽ ít người hơn, và nhóm cuối cùng chỉ bao gồm một số ít cá nhân, chỉ hai hoặc ba người ở một vài quốc gia. Trong trường hợp này, điều đó sẽ thực sự đúng rằng, thông qua sự hy sinh, Con Người sẽ một lần nữa bước đi trên những nẻo đường của nhân loại, và sự nhập thể vật lý của Ngài sẽ là một sự thật. Chỉ có rất ít người có thể được sử dụng theo cách này, vì mãnh lực mà Ngài mang theo đòi hỏi một khí cụ có độ đàn hồi đặc biệt, nhưng việc chuẩn bị thích đáng đang được tiến hành.

Again the method of direct incarnation will be employed by certain of the Masters and initiates through the process of:

Một lần nữa, phương pháp nhập thể trực tiếp sẽ được một số Chân sư và điểm đạo đồ sử dụng thông qua quy trình:

a. Physical birth.

a. Sinh ra.

b. Appropriation of a suitable vehicle, or body.

b. Tiếp nhận một khí cụ hay thể xác thích hợp.

c. Direct creation by an act of will. This will be rare.

c. Tạo ra trực tiếp bằng một hành động của ý chí. Điều này sẽ rất hiếm.

The second, or middle, method will be the one most frequently employed. Six of the Masters, as yet quite unknown to the average occult student by name, have already sought physical incarnation—one in India, another in England, two in northern America, and one in central Europe, whilst another has made a great sacrifice, and taken a Russian body in the desire to act as a peace center in that distracted land. Certain initiates of the third Initiation have taken feminine bodies,—one in India will in due time do much toward the emancipation of the women of India, whilst another has a peculiar work to do in connection with the animal kingdom which likewise is awaiting the day of His appearing. [759]

Phương pháp thứ hai, tức là phương pháp ở giữa, sẽ là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Sáu vị Chân sư, hiện vẫn chưa được các học viên huyền môn bình thường biết đến tên, đã tìm cách nhập thể vật lý—một vị ở Ấn Độ, một ở Anh quốc, hai ở Bắc Mỹ, và một ở Trung Âu, trong khi một vị khác đã thực hiện một hy sinh to lớn bằng cách nhận lấy một thân xác người Nga với khát vọng trở thành một trung tâm hòa bình tại vùng đất đầy hỗn loạn đó. Một số điểm đạo đồ đạt đến lần điểm đạo thứ ba đã khoác lấy thân xác nữ—một người ở Ấn Độ sẽ vào thời điểm thích hợp đóng vai trò to lớn trong việc giải phóng phụ nữ Ấn Độ, trong khi một người khác có một công việc đặc biệt liên quan đến giới động vật, công việc đó cũng đang chờ đến ngày Ngài xuất hiện. [759]

The Master Jesus will take a physical vehicle, and with certain of His chelas effect a respiritualization of the Catholic churches, breaking down the barrier separating the Episcopal and Greek churches from the Roman. This may be looked for, should plans progress as hoped, about the year 1980. The Master Hilarion will also come forth, and become a focal point of buddhic energy in the vast spiritualistic movement, whilst another Master is working with the Christian Science endeavor in an effort to swing it on to sounder lines. It is interesting to note that those movements which have laid the emphasis so strongly on the heart or love aspect, may respond more rapidly to the inflow of force at the Coming than other movements which consider themselves very advanced. The “mind may slay” the recognition of the Real, and hatred between brothers swing the tide of love-force away. The three Masters so closely allied with the theosophical movement are already making Their preparations, and will also move among men, recognized by Their Own and by those who have eyes to see. To those of Their chelas on earth who undergo the necessary discipline, opportunity will be offered to work on the astral plane and, should they so choose, an immediate incarnation, provided they have achieved continuity of consciousness. He Who is known as D. K. is planning to restore—via His students—some of the old and occult methods of healing and to demonstrate:

Chân sư Jesus sẽ khoác lấy một thể xác vật lý, và cùng với một số đệ tử của Ngài, thực hiện việc tái tinh thần hoá các giáo hội Công giáo, phá vỡ rào cản chia cách giữa giáo hội Episcopal và giáo hội Chính thống Hy Lạp với giáo hội La Mã. Điều này có thể được trông đợi, nếu kế hoạch tiến triển như mong muốn, vào khoảng năm 1980. Chân sư Hilarion cũng sẽ xuất hiện, và trở thành một điểm hội tụ của năng lượng bồ đề trong phong trào thông linh rộng lớn, trong khi một Chân sư khác đang làm việc với phong trào Khoa học Cơ đốc nhằm hướng phong trào này sang những nền tảng vững chắc hơn. Thật đáng chú ý rằng những phong trào nhấn mạnh mạnh mẽ vào khía cạnh trái tim hay tình thương, có thể sẽ đáp ứng nhanh chóng hơn với dòng chảy mãnh lực trong lần Đến này, hơn là các phong trào tự xem mình là rất tiến bộ. “Trí tuệ có thể giết chết” sự nhận ra cái Thực Tại, và sự thù ghét giữa các huynh đệ có thể đẩy lui dòng mãnh lực tình thương. Ba vị Chân sư gắn bó mật thiết với phong trào Thông Thiên Học đang thực hiện những chuẩn bị của Các Ngài, và cũng sẽ đi lại giữa loài người, được nhận biết bởi các đệ tử của Các Ngài và bởi những ai có “con mắt để thấy.” Với các đệ tử của Các Ngài trên địa cầu, những người trải qua kỷ luật cần thiết, sẽ được trao cơ hội làm việc trên cõi cảm dục và, nếu họ chọn lựa, được nhập thể ngay tức thì, miễn là họ đã đạt được sự liên tục của tâm thức. Ngài được biết đến với tên gọi D. K. đang lên kế hoạch—thông qua các học viên của Ngài—khôi phục một số phương pháp chữa bệnh huyền môn cổ xưa và chứng minh:

a. The place of the etheric body.

a. Vị trí của thể dĩ thái.

b. The effect of pranic force.

b. Tác động của mãnh lực prana.

c. The opening up of etheric vision.

c. Việc mở rộng nhãn thông dĩ thái.

It is not permissible to say more in connection with the plans of the Great Ones. Their appearing will not be simultaneous in time, for the people could not stand the tremendously increased inflow of force, and recognition of Them and of Their methods will depend upon the intuition, [760] and the training of the inner senses. They come with no herald, and only Their works will proclaim Them.

Không được phép nói thêm về các kế hoạch của các Đấng Vĩ Đại. Sự xuất hiện của Các Ngài sẽ không xảy ra đồng thời, vì nhân loại không thể chịu đựng nổi sự gia tăng đột ngột quá lớn của mãnh lực, và việc nhận ra Các Ngài cũng như các phương pháp của Các Ngài sẽ tuỳ thuộc vào trực giác [760] và sự huấn luyện các giác quan nội tại. Các Ngài đến mà không cần người báo trước, và chỉ các công việc của Các Ngài mới công bố Các Ngài là ai.

(e.) Impulse and Incarnation

Perhaps light upon this very difficult question of the incarnating jivas, of adepts and of avatars may come if the student remembers that:

Có thể ánh sáng sẽ được soi rọi lên câu hỏi rất khó này về các jiva đang tái sinh, các Chân sư và các vị avatar, nếu người học ghi nhớ rằng:

1. An ordinary man demonstrates the third aspect of intelligent activity in his personality life, and is evolving consciously the second aspect, or the egoic manifestation on the physical plane.

1. Một người bình thường biểu lộ phương diện thứ ba—hoạt động thông minh—trong đời sống phàm ngã của y, và đang có ý thức tiến hóa phương diện thứ hai, tức là sự biểu lộ của chân ngã trên cõi hồng trần.

2. An adept in incarnation is demonstrating fully the second aspect as well as the third, and in his own internal life is in process of evolving the first aspect, or is endeavoring to bring through the monadic life into conscious activity on the buddhic plane.

2. Một vị Chân sư đang lâm phàm thì biểu lộ đầy đủ cả phương diện thứ hai lẫn thứ ba, và trong đời sống nội tại của chính mình, Ngài đang tiến hóa phương diện thứ nhất, hay đang cố gắng đưa sự sống Chân Thần đi xuyên qua để hoạt động có ý thức trên cõi bồ đề.

3. An avatar demonstrates one of two things, according to his peculiar karma:

3. Một vị avatar biểu lộ một trong hai điều, tuỳ theo nghiệp quả đặc thù của Ngài:

a. The pure light of the Monad, brought through by means of the perfected Ego and personality on to the physical plane. The line of force extends straight through from monadic levels to the physical.

a. Ánh sáng tinh khiết của Chân Thần, được dẫn truyền thông qua một Chân ngã và phàm ngã đã hoàn thiện xuống tới cõi hồng trần. Dòng mãnh lực này trải thẳng từ các cấp độ Chân Thần đến cõi hồng trần.

b. The light of the Logos Himself in one or other aspect, this being transmitted consciously via the Monad straight through to the physical plane from the planetary Logos, or even from the solar Logos Himself.

b. Ánh sáng của chính Logos trong một trong các phương diện của Ngài, được truyền dẫn một cách có ý thức qua Chân Thần, thẳng xuống cõi hồng trần từ Hành Tinh Thượng Đế, hoặc thậm chí từ chính Thái Dương Thượng Đế.

In the first two cases, desire for sentient existence, or desire for service to humanity, are the factors which produce physical manifestation (one through the force of evolution itself, the other through a conscious act of the will). Desire for sentient existence is but the latent second aspect seeking expression by means of the Not-Self, and in the other case the manifested second aspect consciously utilizes form as a means to an end. In the case [761] of all avatars it is the will aspect which is brought into play, and which produces appearance—either the will of the perfected adept, such as the Buddha Himself, or (as in the case of the true Avatar, Who is, and Who has not achieved) the will of the planetary Logos or of the solar Logos, taking form for a specific purpose. It involves a higher display of the creative faculty than that displayed by the Adept in the creation of His body of manifestation, the Mayavirupa. 52 The terms “appropriation of a physical body” and “creation of a physical body” must be extended to include all the planes of the solar system, and not just our physical plane, the seventh subplane of the cosmic physical.

Trong hai trường hợp đầu, dục vọng về sự tồn tại có tri giác, hoặc dục vọng phụng sự nhân loại, là những yếu tố sản sinh ra biểu lộ vật chất (một là qua mãnh lực của tiến hóa tự thân, một là qua hành động có ý chí có ý thức). Dục vọng về sự tồn tại có tri giác chỉ là phương diện thứ hai tiềm ẩn đang tìm cách biểu hiện thông qua phi-ngã, và trong trường hợp kia, phương diện thứ hai đã biểu lộ một cách có ý thức sử dụng hình tướng như một phương tiện để đạt mục tiêu. Trong trường hợp [761] của tất cả các vị avatar, chính phương diện ý chí là phương diện được kích hoạt và tạo ra sự xuất hiện—hoặc là ý chí của vị Chân sư đã hoàn thiện, chẳng hạn như chính Đức Phật, hoặc (như trong trường hợp của một vị Avatar chân chính, Đấng vốn là như thế và chưa từng đạt tới) là ý chí của Hành Tinh Thượng Đế hoặc của Thái Dương Thượng Đế, nhập thể vì một mục tiêu đặc thù. Điều này bao hàm một sự biểu hiện cao hơn của năng lực sáng tạo so với năng lực được thể hiện bởi một vị Chân sư khi tạo ra thể hiện thân của Ngài, tức là Mayavirupa. Các thuật ngữ “tiếp nhận một thân xác vật lý” và “tạo ra một thân xác vật lý” cần được mở rộng để bao hàm tất cả các cõi giới trong Thái Dương Hệ, chứ không chỉ riêng cõi hồng trần của chúng ta, tức là phân cõi thứ bảy của cõi vật chất vũ trụ.

The causes which combine to produce incarnation, are seen to be three:

Các nguyên nhân kết hợp để tạo ra sự tái sinh được thấy là ba:

1. Egoic impulse.

1. Xung lực của chân ngã.

2. The activity of the solar and lunar Angels.

2. Hoạt động của các Thái dương Thiên Thần và Thái âm.

3. Karma, or the place which antecedent action plays in producing manifestation.

3. Nghiệp quả, hay vai trò của hành động quá khứ trong việc tạo ra biểu hiện.

We can hardly dissociate them in the consideration of our subject owing to the innate constitution of the egoic body itself and the factor the indwelling consciousness plays in producing appearance through an act of will. Let us briefly, therefore, reconsider what we have learned anent the egoic body and its constitution, and then take up the steps followed by the Ego in producing results in the three worlds.

Chúng ta khó có thể tách rời ba nguyên nhân này khi khảo cứu đề tài của mình, do bởi cấu trúc bẩm sinh của thể chân ngã và yếu tố mà tâm thức nội tại đóng vai trò trong việc tạo ra hình tướng thông qua một hành động của ý chí. Vậy chúng ta hãy xét lại một cách vắn tắt những điều đã học liên quan đến thể chân ngã và cấu trúc của nó, rồi tiếp đó xem xét các bước mà Chân ngã thực hiện nhằm tạo ra kết quả trong ba cõi giới.

We have seen that on the third level of the mental plane, the egoic lotus is found and the student should picture it to himself as follows:

Chúng ta đã thấy rằng ở phân cõi thứ ba của cõi trí, hoa sen chân ngã được tìm thấy và người học nên hình dung nó như sau:

Concealed at the very center or heart of the lotus is a brilliant point of electric fire of a blue-white hue (the [762] jewel in the lotus) surrounded, and completely hidden, by three closely folded petals. Around this central nucleus, or inner flame, are arranged the nine petals in circles of three petals each, making three circles in all. These petals are formed out of the substance of the solar angels, as are the central three,—substance which is not only sentient as is the substance of the forms in the three worlds and the lunar bodies, but which has an added quality of “I-ness” or of self-consciousness, enabling the spiritual unity at the center (by means of it) to acquire knowledge, awareness, and self-realization. These nine petals are of a predominant orange hue, though the six other colors are found as secondary colors in a varying degree. The inner three petals are of a lovely lemon-yellow hue. At the base of the lotus petals are the three points of light which mark the position of the permanent atoms, and which are the medium of communication between the solar Angels and the lunar Pitris. By means of these permanent atoms the Ego, according to its state of evolution can construct his lunar bodies, acquire knowledge on the lower three planes, and thus buy his experience, and becomes aware. On a higher turn of the spiral, the Monad through the egoic petals, and thus with the aid of the solar Angels, acquires knowledge and equally on more exalted levels becomes aware.

Ẩn giấu ngay tại trung tâm hay trái tim của hoa sen là một điểm lửa điện sáng chói có sắc lam-trắng (đó là [762] “ngọc quý trong hoa sen”) được bao quanh và hoàn toàn che phủ bởi ba cánh hoa khép chặt. Bao quanh hạt nhân trung tâm này, hay ngọn lửa nội tại, là chín cánh hoa được sắp xếp thành ba vòng, mỗi vòng ba cánh, tạo thành tổng cộng ba vòng tròn. Các cánh hoa này được hình thành từ chất liệu của các Thái dương Thiên Thần, cũng như ba cánh hoa trung tâm—chất liệu này không những có cảm thức như chất liệu của các hình tướng trong ba cõi giới và của các thể Thái âm, mà còn mang thêm phẩm tính của “tự ngã” hay của tâm thức tự biết, giúp cho thực thể tinh thần ở trung tâm (thông qua chất liệu đó) có thể đạt được tri thức, nhận thức và tự ý thức. Chín cánh hoa này có sắc cam làm chủ đạo, mặc dù sáu màu khác cũng hiện diện như màu phụ với các mức độ khác nhau. Ba cánh hoa nội tại có sắc vàng chanh tuyệt đẹp. Ở đáy của các cánh hoa sen là ba điểm sáng đánh dấu vị trí của các nguyên tử trường tồn, và đó là phương tiện thông giao giữa các Thái dương Thiên Thần và các Thái âm Tổ phụ. Thông qua các nguyên tử trường tồn này, Chân ngã, tùy theo mức độ tiến hóa của mình, có thể kiến tạo các thể Thái âm, thu nhận kiến thức ở ba cõi thấp, và từ đó mua lấy kinh nghiệm, và đạt được nhận thức. Trên một vòng xoắn cao hơn của đường xoắn ốc, Chân Thần—thông qua các cánh hoa chân ngã và với sự trợ giúp của các Thái dương Thiên Thần—thu nhận kiến thức và cũng đạt được nhận thức ở các cấp độ cao hơn.

The light within these permanent atoms has a dull red glow and we have, therefore, all the three fires demonstrating in the causal body—electric fire at the center, solar fire enclosing it as the flame encloses the central nucleus or essence in a candle flame, and fire by friction, this latter fire resembling the glowing red wick which lies at the base of the higher flame.

Ánh sáng bên trong các nguyên tử trường tồn này có sắc đỏ mờ nhạt, do đó, trong thể nhân quả, cả ba loại lửa đều hiện diện—lửa điện ở trung tâm, lửa Thái dương bao quanh như ngọn lửa bao lấy hạt nhân hoặc tinh túy bên trong của ngọn lửa cây nến, và lửa do ma sát, loại lửa sau này giống như bấc nến đang cháy đỏ nằm dưới ngọn lửa cao hơn.

These three types of fire on the mental plane—meeting and unified in the egoic body—produce in time a radiation or warmth which streams out from all sides of the lotus, and forms that spheroidal shape noted by investigators. [763] The more fully developed the Ego may be, and the more the petals are unfolded, the greater the beauty of the surrounding sphere, and the more refined its coloring.

Ba loại lửa này trên cõi trí—gặp nhau và hợp nhất trong thể chân ngã—sẽ dần tạo ra một bức xạ hay hơi ấm toả ra từ mọi phía của hoa sen, và tạo thành hình dạng cầu mà các nhà quan sát đã ghi nhận. [763] Càng tiến hóa, Chân ngã càng phát triển đầy đủ, và các cánh hoa càng được khai mở, thì hình cầu xung quanh càng đẹp đẽ, và màu sắc càng tinh tế hơn.

52 The Mayavirupa is literally the illusory form; it is the body of temporary manifestation which the Adept creates on occasion through the power of the will and in which He functions in order to make certain contacts on the physical plane and to engage in certain work for the race.

Mayavirupa—nghĩa đen là hình tướng ảo ảnh—là thể hiện thân tạm thời mà vị Chân sư tạo ra khi cần, thông qua quyền năng của ý chí, và trong đó Ngài hoạt động để thiết lập những tiếp xúc nhất định trên cõi hồng trần và thực hiện một số công việc dành cho nhân loại.

At the early stages after individualization, the egoic body has the appearance of a bud. The electric fire at the center is not apparent, and all the nine petals are closed down upon the inner three; the orange color has a dead aspect and the three points of light at the base are just points and nothing more; the triangle which is later seen connecting the points is not demonstrated. The surrounding sphere is colorless and is only to be appreciated as undulatory vibrations (like waves in the air or ether) reaching barely beyond the petal outline.

Ở các giai đoạn đầu sau sự biệt ngã hoá, thể chân ngã có dáng vẻ như một nụ hoa. Lửa điện ở trung tâm chưa hiện lộ, và cả chín cánh hoa đều khép lại bao bọc lấy ba cánh hoa bên trong; màu cam trông mờ đục, và ba điểm sáng ở đáy chỉ là những điểm sáng đơn thuần, chưa có gì hơn; tam giác mà sau này sẽ nối liền các điểm ấy chưa được biểu lộ. Hình cầu bao quanh thì không có màu sắc và chỉ có thể nhận biết được như những dao động lượn sóng (giống như các làn sóng trong không khí hay dĩ thái) chỉ hơi vượt ra ngoài đường viền của các cánh hoa.

By the time the third Initiation is reached, a wondrous transformation has transpired. The outer sphere is palpitating with every color in the rainbow, and is of wide radius; the streams of electrical energy circulating in it are so powerful that they are escaping beyond the periphery of the circle, resembling the rays of the sun. The nine petals are fully unfolded, forming a gracious setting for the central jewel, and their orange hue is now of a gorgeous translucence, shot with many colors, that of the egoic ray predominating. The triangle at the base is now quickened and scintillating, and the three points are small blazing fires, showing to the eye of the clairvoyant as sevenfold whorls of light, circulating their light from point to point of a rapidly moving triangle.

Khi lần điểm đạo thứ ba đạt được, một sự chuyển hoá kỳ diệu đã diễn ra. Hình cầu bên ngoài rung động với mọi màu sắc của cầu vồng và có bán kính rộng lớn; các dòng năng lượng điện lưu chuyển bên trong nó mạnh mẽ đến nỗi vượt ra khỏi chu vi của hình cầu, trông giống như các tia sáng mặt trời. Chín cánh hoa được khai mở hoàn toàn, tạo nên một nền rực rỡ cho viên ngọc trung tâm, và sắc cam của chúng giờ đây trở nên lấp lánh lộng lẫy, pha trộn với nhiều màu sắc khác, trong đó màu sắc của cung chân ngã chiếm ưu thế. Tam giác ở đáy đã được sinh động hoá và sáng chói, ba điểm sáng trở thành những ngọn lửa nhỏ rực cháy, hiện ra với con mắt của người có thần nhãn như những vòng xoáy bảy tầng ánh sáng, xoay chuyển luân lưu từ điểm này sang điểm khác trong một tam giác chuyển động rất nhanh.

By the time the fourth Initiation is reached, the activity of this triangle is so great that it looks more like a wheel in rapid revolution. It has a fourth dimensional aspect. The three petals at the center are opening up, revealing the “blazing jewel.” At this initiation, through the action of the Hierophant wielding the electric Rod of Power, the three fires are suddenly stimulated by a downflow of electric, or positive force, from the [764] Monad, and their blazing out in response produces that merging which destroys the entire sphere, dissipates all appearance of form, and produces a moment of equilibrium, or of suspension, in which the “elements are consumed with fervent heat.” The moment of highest radiation is known. Then—through the pronouncement of a certain Word of Power—the great solar Angels gather back into themselves the solar fire, thus producing the final dissipation of the form, and hence the separation of the life from the form; the fire of matter returns to the general reservoir, and the permanent atoms and the causal body are no more. The central electric fire becomes centralized in atma-buddhi. The Thinker or spiritual entity stands free of the three worlds, and functions consciously on the buddhic plane. Between these two stages of quiescent (though self-conscious) inertia and of that radiant activity which produces a balancing of forces, is a long series of lives.

Đến khi lần điểm đạo thứ tư được thành tựu, hoạt động của tam giác này trở nên mãnh liệt đến mức trông giống như một bánh xe quay nhanh. Nó mang một khía cạnh của chiều thứ tư. Ba cánh hoa ở trung tâm đang mở ra, để lộ ra “viên ngọc sáng chói.” Trong lần điểm đạo này, nhờ hành động của Đấng Điểm đạo đang sử dụng Quyền Trượng Điểm đạo bằng lửa điện, ba loại lửa được kích thích đột ngột bởi một dòng mãnh lực điện hay dương từ [764] Chân Thần tuôn xuống, và sự bừng cháy của chúng để đáp ứng lại dòng mãnh lực này tạo ra sự hợp nhất khiến toàn thể hình cầu bị tiêu huỷ, mọi biểu hiện của hình tướng tan biến, và tạo nên một khoảnh khắc quân bình, hay đình chỉ, trong đó “các nguyên tố bị tiêu huỷ bởi một ngọn lửa nóng rực.” Đó là thời điểm của sự bức xạ cao nhất được biết đến. Sau đó—thông qua sự xướng lên một Linh Từ Quyền Năng nhất định—các Thái dương Thiên Thần vĩ đại quy tụ lửa Thái dương trở lại vào chính mình, qua đó tạo nên sự tiêu tán cuối cùng của hình tướng, và do đó là sự tách biệt của sự sống khỏi hình tướng; lửa của vật chất trở về kho dự trữ chung, và các nguyên tử trường tồn cùng với thể nhân quả không còn nữa. Lửa điện trung tâm trở thành tập trung vào atma-buddhi. Người Tư duy, hay thực thể tinh thần, trở nên tự do khỏi ba cõi giới, và hoạt động một cách có ý thức trên cõi bồ đề. Giữa hai giai đoạn: trạng thái bất động (dù vẫn có tự ý thức) và trạng thái hoạt động rực rỡ tạo ra sự quân bình của các mãnh lực, là một chuỗi dài các kiếp sống.

In our consideration of the subject of the reincarnating jivas, we have touched upon three subjects:

Trong khảo cứu của chúng ta về đề tài các jiva tái sinh, chúng ta đã đề cập đến ba đề mục:

a. Avatars, with the intent of disposing of the confusion in the minds of students as to certain types of appearances. In our present study we shall deal only with the process followed by ordinary men.

a. Các vị Avatar, với mục đích làm sáng tỏ sự nhầm lẫn trong tâm trí của các học viên liên quan đến một số kiểu xuất hiện nhất định. Trong nghiên cứu hiện tại, chúng ta chỉ đề cập đến tiến trình mà người thường theo đuổi.

b. Pralayas, with the intent of arousing in the mind of the student the idea of interludes of quiescence dependent upon the intervening periods of activity.

b. Các kỳ pralaya, với mục đích khơi dậy trong tâm trí người học khái niệm về những khoảng nghỉ ngơi tĩnh lặng, vốn tùy thuộc vào các thời kỳ hoạt động xen kẽ.

c. The appearance of the body egoic and its general conformation, with the intent of awakening the realization of the student to the fact that evolution affects that body also, and not only man’s forms in the three worlds. The effects of the process are interdependent, and as the lower self develops, or the personality becomes more active and intelligent, results are produced in the higher body. As these effects are cumulative, and not ephemeral [765] as are the lower results, the egoic body becomes equally more active and its manifestation of energy is increased. Towards the close of the evolutionary period in the three worlds a constant interchange of energy is seen to be taking place; the lower forms become irradiated with light, and reflect the higher radiance; the egoic body is the Sun of the lower system, and its bodies reflect its rays, as the moon reflects the light of the solar sun. Similarly the egoic Sun,—through the interaction—shines with ever greater intensity and glory. On the higher levels a similar interaction takes place for a brief period between the Monad and its reflection the Ego, but only in the coming solar system will this interaction be carried to its logical conclusion.

c. Sự xuất hiện của thể chân ngã và cấu trúc tổng quát của nó, với mục đích làm cho người học nhận thức được rằng tiến hóa cũng ảnh hưởng đến thể này, chứ không chỉ ảnh hưởng đến các hình tướng của con người trong ba cõi giới. Các kết quả của tiến trình này tương hỗ lẫn nhau, và khi cái ngã thấp phát triển, hay phàm ngã trở nên năng động và thông minh hơn, thì những kết quả cũng xuất hiện trong thể cao. Vì những ảnh hưởng này mang tính tích lũy, chứ không phù du [765] như các kết quả của phàm ngã, thể chân ngã cũng trở nên năng động hơn và biểu hiện năng lượng của nó được gia tăng. Vào cuối thời kỳ tiến hóa trong ba cõi giới, ta thấy có một sự luân chuyển năng lượng không ngừng đang diễn ra; các hình tướng thấp trở nên được chiếu sáng bởi ánh sáng, và phản chiếu lại sự huy hoàng từ cấp cao hơn; thể chân ngã là Mặt trời của hệ thống thấp hơn, và các thể của phàm ngã phản chiếu lại các tia sáng của nó, giống như mặt trăng phản chiếu ánh sáng của Thái dương. Tương tự, Thái dương chân ngã—thông qua sự tương tác—chiếu sáng ngày càng mãnh liệt và vinh quang hơn. Trên các cấp độ cao hơn, cũng diễn ra một tương tác tương tự trong một khoảng thời gian ngắn giữa Chân Thần và ảnh phản của nó là Chân ngã, nhưng chỉ trong Thái Dương Hệ sắp đến, sự tương tác này mới được đưa đến sự hoàn tất hợp lý.

Having, therefore, very briefly dealt with these three topics, we can now proceed to consider the process followed by the Ego when seeking manifestation in the three worlds. Let us endeavor in our thoughts to interpret all these processes in terms of energy and of force.

Do đó, sau khi đã đề cập vắn tắt ba chủ đề này, chúng ta có thể tiếp tục xem xét tiến trình mà Chân ngã thực hiện khi tìm cách biểu hiện trong ba cõi giới. Chúng ta hãy cố gắng, trong tư tưởng của mình, diễn giải tất cả các tiến trình này bằng các thuật ngữ năng lượng và mãnh lực.

[Commentary S7S3]

The old Commentary says:

Cổ Luận viết:

“When the Spark is touched to the four wicks, and when spiritual Fire in its threefold essence meets with that which is combustible, the Flame bursts forth. Faint the flicker at the first appearing, and near to death it seems, but the wicks smolder and glow, and the heat is retained. This is cycle the first, and is called that of the glowing wheel.

“Khi Tia Lửa chạm đến bốn bấc, và khi Lửa tinh thần với bản chất ba phương diện gặp chất liệu dễ cháy, thì Ngọn Lửa bùng lên. Ánh sáng lờ mờ vào lần đầu xuất hiện, và dường như gần như tắt, nhưng các bấc bắt đầu cháy âm ỉ và sáng lên, và nhiệt được giữ lại. Đây là chu kỳ thứ nhất, được gọi là chu kỳ của bánh xe rực sáng.

The flicker grows into a tiny flame and the four wicks burn, but are not consumed, for the heat does not suffice. The light of these three fires is yet so small that the cave is not illumined. Nevertheless, the flame and the essential heat can be felt by the One Who approaches and watches. This is the second cycle, and is called that of the warming wheel.

Ánh sáng lờ mờ trở thành một ngọn lửa nhỏ và bốn bấc cháy, nhưng không bị thiêu rụi, vì nhiệt vẫn chưa đủ. Ánh sáng của ba loại lửa vẫn còn quá yếu khiến cho hang động chưa được chiếu sáng. Tuy nhiên, ngọn lửa và nhiệt tinh yếu có thể được cảm nhận bởi Đấng đang đến gần và theo dõi. Đây là chu kỳ thứ hai, và được gọi là bánh xe đang sưởi ấm.

The tiny flame becomes a lighted lamp. The fire flares up, but much smoke is there, for the wicks are burning fast, and the heat suffices for their quick destruction. The lamp, set in the midst of darkness, makes the thick blackness manifest itself; the light and warmth are felt. This, the third cycle, is called that of the lighted wheel. [766]

Ngọn lửa nhỏ trở thành một đèn đang cháy. Ngọn lửa bùng lên, nhưng có rất nhiều khói, vì các bấc đang cháy nhanh, và nhiệt đủ để chúng bị tiêu huỷ nhanh chóng. Ngọn đèn, được đặt giữa bóng tối, làm cho bóng đen dày đặc hiện rõ ra; ánh sáng và hơi ấm được cảm nhận. Đây, chu kỳ thứ ba, được gọi là bánh xe chiếu sáng. [766]

The four wicks and the flame appear as one, and nearly all the smoke is gone, for flame is mostly seen. The cave itself is lighted up, though the lamp is yet apparent. Cycle the fourth is called the hour of the flaming wheel.

Bốn bấc và ngọn lửa hiển lộ như một, và gần như toàn bộ khói đã tan biến, vì chỉ còn thấy ngọn lửa là chính. Chính hang động được chiếu sáng, mặc dù ngọn đèn vẫn còn hiện diện. Chu kỳ thứ tư được gọi là giờ của bánh xe đang cháy rực.

The final cycle comes when even the lamp itself is burned, destroyed through the intensity of heat. The One Who watches, seeing the work accomplished, fans the central point of fire and produces a sudden flaming. The wicks are naught—the flame is all. This, so the Sacred Science says, is called the cycle of the wheel consumed.”

Chu kỳ cuối cùng đến khi ngay cả ngọn đèn cũng bị đốt cháy, bị phá huỷ bởi cường độ mãnh liệt của nhiệt. Đấng Quan Sát, khi thấy công việc đã hoàn thành, thổi mạnh điểm trung tâm của lửa và tạo nên một ngọn cháy bùng lên bất ngờ. Các bấc không còn—chỉ còn lửa. Theo lời của Khoa học Thiêng Liêng, chu kỳ này được gọi là bánh xe bị thiêu rụi.”

Here in the arcane symbology is hid (in terms of energy and of radiant activity) the whole secret of egoic energy, and of impulse making its presence felt in the substance of the lower planes; the student should interpret the above sentences both macrocosmically and microcosmically. In all manifestation, the originating impulse comes from the first aspect which is hidden at the heart of the egoic lotus, but this hidden Identity works under law, and in the earlier stages (the first three cycles) the process goes on under the Law of Economy, which is the law of substance itself; in the final two cycles this law becomes merged (though not superseded, being still potent) with the Law of Attraction, which is the fundamental law of the divine Self. It is the failure to realize this which has resulted in the confusion existing in the minds of many metaphysicians as to which demonstrated first, desire or will, and as to the distinction between them, between impulse and purpose, and between instinct and intention. In the earlier stages man reincarnates under the Law of Economy, and though the will aspect lies back of the process, yet for a long time it is the pull of sensation and its reflex in consciousness, desire, which produces rebirth. Sensation, being a quality in matter or substance, the Self in the beginning identifies Itself with sensation. Later, when the Self is beginning to, identify Itself with Itself, and to recognize the nature of the Not-Self, the Law of Attraction and Repulsion [767] becomes more active, and conscious will and purpose are displayed. Here it should be remembered that a profound difference in time and space exists between the Logos, or Macrocosm, and Man, the Microcosm. Average man comes into incarnation through egoic impulse, based on desire and on the relation of the second aspect to the third aspect or of the Self to the Not-Self. He will eventually bring about (through evolution) the revelation of the first aspect, and then egoic impulse (based on conscious mental apprehension of the purpose in view) will be the dominant factor, and will demonstrate through a definite will to act. In connection with the Logos, the first stage has been left far behind, and logoic manifestation is based on will and purpose and on conscious intelligent activity. The reason for this is that the Logos, and the planetary Logoi likewise, are on the path of cosmic initiation.

Ẩn giấu trong ngôn ngữ biểu tượng huyền linh này là toàn bộ bí mật của năng lượng chân ngã, và của xung lực khiến cho sự hiện diện của nó được cảm nhận trong vật chất của các cõi thấp hơn; người học nên diễn giải các câu trên theo cả khía cạnh vũ trụ (macrocosm) và tiểu vũ trụ (microcosm). Trong mọi sự biểu lộ, xung lực khởi đầu đến từ phương diện thứ nhất, vốn được ẩn giấu tại trung tâm của hoa sen chân ngã, nhưng Bản thể ẩn giấu này hành động dưới luật lệ, và trong các giai đoạn đầu tiên (ba chu kỳ đầu), tiến trình này diễn ra dưới Luật Tiết Kiệm, tức là định luật của vật chất tự thân; trong hai chu kỳ cuối, luật này hòa nhập (dù không bị thay thế, vì nó vẫn còn hiệu lực) với Định luật Hấp dẫn, vốn là định luật nền tảng của Chân ngã Thiêng Liêng. Chính sự không nhận thức được điều này đã dẫn đến sự nhầm lẫn đang tồn tại trong tâm trí của nhiều nhà siêu hình học về việc điều gì được biểu lộ trước tiên—dục vọng hay ý chí—và về sự phân biệt giữa chúng, giữa xung lực và mục tiêu, giữa bản năng và ý định. Ở các giai đoạn đầu, con người tái sinh theo Định luật Tiết Kiệm, và dù phương diện ý chí đứng đằng sau tiến trình này, thì trong một thời gian dài chính sự lôi kéo của cảm giác và sự phản ánh của nó trong tâm thức—tức dục vọng—là yếu tố tạo ra sự tái sinh. Cảm giác, vốn là một phẩm tính của vật chất, khiến Bản thể ở giai đoạn đầu tự đồng nhất mình với cảm giác. Sau này, khi Bản thể bắt đầu tự đồng nhất mình với chính mình, và nhận ra bản chất của Phi-ngã, thì Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi [767] bắt đầu hoạt động mạnh hơn, và ý chí có ý thức cùng với mục tiêu được biểu lộ. Tại đây, cần phải nhớ rằng có một sự khác biệt sâu sắc về thời gian và không gian giữa Logos (Đại vũ trụ) và con người (Tiểu vũ trụ). Người trung bình đi vào sự nhập thể thông qua xung lực chân ngã, dựa trên dục vọng và mối liên hệ giữa phương diện thứ hai với phương diện thứ ba, hay giữa Chân ngã với Phi-ngã. Sau cùng, y sẽ (thông qua tiến hóa) đưa đến sự biểu lộ của phương diện thứ nhất, và khi đó xung lực chân ngã (dựa trên sự hiểu biết trí tuệ có ý thức về mục tiêu nhắm đến) sẽ trở thành yếu tố chi phối, và sẽ được thể hiện qua một ý chí hành động xác định. Trong mối liên hệ với Logos, giai đoạn đầu tiên này đã bị bỏ lại rất xa phía sau, và sự biểu lộ của Ngài dựa trên ý chí, mục đích và hoạt động trí tuệ có ý thức. Lý do cho điều này là vì Logos, và cả các Hành Tinh Thượng Đế, đều đang ở trên Con Đường điểm đạo vũ trụ.

Therefore, though the originating impulse comes from the central point, it is not at first apparent. At the moment of individualization, the dim outline of a form such as earlier described has made its appearance on mental levels, and (which is a point not as yet recognized by students) it becomes apparent that a period on mental levels has transpired given over to a preparation for the imminent event. Through the activity of the solar Angels the twelve petals have gradually taken form, as the point of electric fire at the heart has begun to make itself felt even though not as yet localized. Then the first three petals take shape, and close down upon the vibrant point, or “jewel” under the potency of the Law of Attraction. One by one the nine other petals take shape as the vibrations begin to affect solar substance, the three types of petals being each under the influence of one or other of the major Rays; these, in their turn, come under the influence of force from cosmic centers. [768]

Do đó, dù xung lực khởi đầu đến từ điểm trung tâm, nhưng ban đầu nó chưa hiện lộ. Tại thời điểm của sự biệt ngã hoá, dáng dấp mờ nhạt của một hình tướng như đã mô tả trước đó bắt đầu xuất hiện trên các cấp độ trí tuệ, và (điều này là một điểm mà các học viên chưa nhận ra) rõ ràng rằng một thời kỳ tồn tại trên các cấp độ trí tuệ đã trôi qua dành cho sự chuẩn bị cho biến cố sắp đến. Thông qua hoạt động của các Thái dương Thiên Thần, mười hai cánh hoa đã dần hình thành, khi điểm lửa điện tại trung tâm bắt đầu tự biểu hiện, dù chưa được định vị cụ thể. Sau đó, ba cánh hoa đầu tiên được hình thành và khép lại bao quanh điểm chấn động—tức “viên ngọc quý”—dưới năng lực của Định luật Hấp dẫn. Từng cánh hoa trong chín cánh còn lại lần lượt hình thành khi các rung động bắt đầu ảnh hưởng đến chất liệu Thái dương, ba loại cánh hoa này mỗi loại chịu ảnh hưởng của một trong ba Cung chính; các Cung này, đến lượt mình, lại chịu ảnh hưởng của các mãnh lực đến từ các trung tâm vũ trụ. [768]

As earlier said, these petals form a bud, each being closely folded. Only faint vibrations are to be seen pulsating in the bud, just enough to testify to its being a living organism. Shadowy and dim can the ring-pass-not be seen, the encircling limit of the activity of the coming Consciousness. It is an ovoid or sphere, and very small as yet. This process of forming the egoic lotus has gone on silently from the moment that the lower animal man, or the lower four principles, had reached a point where the energy (generated by him) could begin to make itself felt on mental levels. When the fire of the lower prepared sheaths (the threefold fire of substance itself) becomes radioactive, this nebulous appearance on the third subplane of the mental plane begins to be organized, as the result of the downward pull of the higher by the lower, and as the response of the Spirit aspect to the radiations, or attraction, of matter. But individualization as we understand it is not yet effected. This process of radioactivity on the part of the lower, and of a downflow of energy from the higher, covers a long period wherein the solar Angels are working on Their Own plane and the lower Pitris are also working on theirs; one group is producing the nucleus of the egoic body, and the other the receptacle for the life of God, or the Monad in the three worlds.

Như đã nói trước đó, các cánh hoa này tạo thành một nụ hoa, mỗi cánh đều khép chặt lại. Chỉ có những rung động yếu ớt được thấy đang đập nhẹ bên trong nụ, chỉ đủ để chứng tỏ nó là một thực thể sống. Ranh giới không vượt qua được—vòng-giới-hạn—chỉ có thể được thấy một cách mờ ảo và lờ mờ, đó là giới hạn bao quanh của hoạt động của tâm thức sắp đến. Nó là một hình bầu dục hoặc hình cầu, và hiện tại vẫn còn rất nhỏ. Quá trình hình thành hoa sen chân ngã này đã âm thầm diễn ra kể từ thời điểm con người động vật thấp kém, hay bốn nguyên lý thấp, đã đạt đến một điểm mà năng lượng (do y tạo ra) có thể bắt đầu tự biểu lộ trên các cấp độ trí tuệ. Khi ngọn lửa của các thể thấp đã chuẩn bị (ba loại lửa cấu thành vật chất tự thân) trở nên có tính phóng xạ, thì hình thái mờ đục này trên phân cõi thứ ba của cõi trí bắt đầu được tổ chức, như là kết quả của lực kéo đi xuống của phần cao bởi phần thấp, và như là sự đáp ứng của phương diện Tinh thần đối với các bức xạ, hay sức hút, của vật chất. Nhưng sự biệt ngã hoá như chúng ta hiểu thì vẫn chưa xảy ra. Quá trình phóng xạ này từ phần thấp và sự tuôn đổ năng lượng từ phần cao kéo dài một thời kỳ lâu dài, trong đó các Thái dương Thiên Thần đang làm việc trên cõi riêng của Các Ngài và các Thái âm Tổ phụ cũng đang làm việc trên cõi của họ; một nhóm đang tạo ra hạt nhân của thể chân ngã, và nhóm còn lại tạo ra cái bình tiếp nhận sự sống của Thượng Đế, hay Chân Thần trong ba cõi giới.

Then comes a set time in the life of the planetary Logos wherein His centers become active in a particular manner; this is coincident with the incarnation of the Monads, and their descent into the three worlds. A systemic triangle is formed (for ever the three produce the seven), and through this setting loose of threefold energy, the work of the solar and lunar Pitris is coordinated, and the three permanent atoms are appropriated by the jiva concerned, and appear at the base of the egoic lotus. Individualization has taken place and the work of at-one-ment is completed; the fourth kingdom [769] in nature is a “fait accompli;” the Monad has clothed itself in material sheaths, and the self conscious unit appears on the physical plane. If all that H. P. B. has to say anent the first three rounds of our Earth scheme is read as dealing with the period of condensation of the causal body upon the mental level, and as covering the time leading up to the appearance in the fourth round of man as we now have him, some light may be thrown upon this difficult matter.

Sau đó đến một thời điểm được ấn định trong đời sống của Hành Tinh Thượng Đế, trong đó các trung tâm của Ngài trở nên hoạt động theo một cách đặc biệt; điều này trùng hợp với sự nhập thể của các Chân Thần, và sự giáng trần của họ vào ba cõi giới. Một tam giác hệ thống được hình thành (vì lúc nào ba cũng sinh ra bảy), và thông qua việc giải phóng năng lượng tam phân này, công việc của các Thái dương Thiên Thần và Thái âm được phối hợp, và ba nguyên tử trường tồn được Chân ngã liên hệ chiếm lấy, và xuất hiện tại đáy của hoa sen chân ngã. Sự biệt ngã hoá đã xảy ra và công trình hợp nhất đã hoàn thành; giới thứ tư [769] trong thiên nhiên là một “thành tựu đã hoàn tất”; Chân Thần đã khoác lấy các thể vật chất, và đơn vị có tự thức xuất hiện trên cõi hồng trần. Nếu tất cả những gì H. P. B. đã nói về ba cuộc tuần hoàn đầu tiên trong Hệ Thống Địa Cầu của chúng ta được đọc như là đang đề cập đến thời kỳ ngưng tụ của thể nhân quả trên bình diện trí tuệ, và bao quát giai đoạn dẫn đến sự xuất hiện vào vòng thứ tư của con người như chúng ta hiện có, thì có thể sẽ có ánh sáng được soi rọi lên vấn đề khó khăn này.

The egoic lotuses can be seen grouped together, and each of them forms part of a group. These groups in their turn form part of a vaster lotus which embodies the consciousness of a still greater Entity whose “jewel” may be found on the second subplane. All these in their turn may be divided into seven fundamental groups. These seven groups or aggregates of egoic lotuses form the seven types of consciousness of those Entities Who are the seven centers of force for our own planetary Logos. These seven in their turn will be synthesized on higher levels into the three higher centers, till the entire energy and force which they represent is gathered up, and absorbed by the center corresponding to the highest head center of the planetary Logos. Each Logos embodies one type of cosmic energy. Each of His centers embodies this type of energy in one of its seven differentiations. Each of these seven in turn manifests through egoic groups, and these again are composed of those points of energy we call Egos.

Các hoa sen chân ngã có thể được nhìn thấy như được nhóm lại với nhau, và mỗi hoa sen đó là một phần của một nhóm. Những nhóm này đến lượt chúng là một phần của một hoa sen bao quát lớn hơn, trong đó hàm chứa tâm thức của một Thực Thể còn vĩ đại hơn nữa, với “viên ngọc” của Ngài có thể được tìm thấy trên phân cõi thứ hai. Tất cả những hoa sen này đến lượt mình lại có thể được chia thành bảy nhóm căn bản. Bảy nhóm này, hay những tập hợp hoa sen chân ngã này, tạo thành bảy loại tâm thức của những Thực Thể là bảy trung tâm lực của chính Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta. Bảy trung tâm này đến lượt mình sẽ được tổng hợp ở các cấp độ cao hơn thành ba trung tâm cao hơn nữa, cho đến khi toàn bộ năng lượng và mãnh lực mà chúng đại diện được thu gom và hấp thụ bởi trung tâm tương ứng với trung tâm đầu cao nhất của Hành Tinh Thượng Đế. Mỗi Thượng Đế là hiện thân của một loại năng lượng vũ trụ. Mỗi trung tâm của Ngài là hiện thân của loại năng lượng này trong một trong bảy sự phân hoá của nó. Mỗi trong số bảy trung tâm này lần lượt biểu hiện thông qua các nhóm chân ngã, và các nhóm này lại được cấu thành từ những điểm năng lượng mà chúng ta gọi là các Chân ngã.

These multitudes of egoic groups form a radiant interlocking whole, though all are diverse and differing, both as to their point of development, and their secondary coloring. Just as the petals in the egoic lotus of the incarnating jivas unfold in differing order and at different periods, so the egoic groups also unfold diversely as to time and sequence. This produces a wonderful appearance. Again just as the Master can (by [770] studying the group or larger lotus of which He is a part), ascertain the condition of the human units who go to its constitution, so the planetary Logos can ascertain through conscious identification (note the term) the condition of the various groups through whom His work must be accomplished.

Vô số các nhóm chân ngã này tạo thành một toàn thể rực rỡ có sự lồng ghép, mặc dù tất cả đều đa dạng và khác biệt, cả về điểm tiến hóa của chúng, lẫn về màu phụ của chúng. Cũng giống như các cánh hoa trong hoa sen chân ngã của các jiva tái sinh khai mở theo các trình tự khác nhau và vào những thời điểm khác nhau, thì các nhóm chân ngã cũng khai mở một cách khác biệt về thời điểm và trật tự. Điều này tạo ra một hình ảnh vô cùng tuyệt vời. Lại nữa, cũng giống như một vị Chân sư có thể (bằng cách [770] khảo sát nhóm hoặc hoa sen lớn hơn mà Ngài là một phần) nhận biết được tình trạng của các đơn vị nhân loại cấu thành nên nó, thì Hành Tinh Thượng Đế cũng có thể nhận biết được—thông qua sự đồng nhất có ý thức (hãy lưu ý từ này)—tình trạng của các nhóm khác nhau mà qua đó công việc của Ngài phải được thực hiện.

It will now be apparent to the student that the appearance of the incarnating jivas on the physical plane will be governed by three things:

Giờ đây, điều này sẽ trở nên hiển nhiên đối với người học rằng sự xuất hiện của các jiva đang tái sinh trên cõi hồng trần sẽ bị chi phối bởi ba điều:

– First of all, on impulse based on the will-purpose of the Life animating the aggregate of groups on any subray, or one of the seven larger groups.

– Trước hết, bởi một xung lực dựa trên ý chí-mục đích của Sự sống đang hoạt hoá tập hợp các nhóm thuộc bất kỳ tiểu cung nào, hoặc một trong bảy nhóm lớn hơn.

– Second, on impulse based on the will, tinged by desire, of the Life animating a man’s egoic group.

– Thứ hai, bởi một xung lực dựa trên ý chí, được nhuộm sắc bởi dục vọng, của Sự sống đang hoạt hoá nhóm chân ngã của một con người.

– Third, on impulse, based on the desire of the Ego for physical plane manifestation.

– Thứ ba, bởi một xung lực dựa trên dục vọng của Chân ngã muốn biểu hiện trên cõi hồng trần.

As identification of a man with his group becomes matured the desire impulse becomes modified until it is eventually superseded by group will. If these facts are pondered upon it will be apparent that Egos come into incarnation therefore not singly but according to group urge, and thus collectively. This is the basis of collective karma, and of family karma. The individual urge, which is, of course, a reaction to group urge, is the result of personal karma. Hence, though we may by these reflections, have thrown some light upon this question of reincarnation, we have nevertheless said much to increase the magnitude of the question, and its complexity. Average man is confined to the use of the physical brain, and is, therefore, unable to think in group terms.

Khi sự đồng nhất của một con người với nhóm của y trở nên trưởng thành, thì xung lực dục vọng sẽ được điều chỉnh cho đến khi nó cuối cùng được thay thế bởi ý chí nhóm. Nếu người học suy ngẫm những sự kiện này, điều đó sẽ trở nên rõ ràng rằng các Chân ngã đi vào nhập thể không đơn độc mà theo sự thúc đẩy của nhóm, và vì thế là tập thể. Đây chính là nền tảng của nghiệp quả tập thể và nghiệp quả gia đình. Sự thúc đẩy cá nhân, vốn dĩ là một phản ứng trước sự thúc đẩy của nhóm, là kết quả của nghiệp quả cá nhân. Do đó, mặc dù qua những suy tư này, chúng ta có thể đã soi rọi phần nào vấn đề tái sinh, nhưng thực ra chúng ta cũng đã làm gia tăng quy mô của vấn đề này, và cả độ phức tạp của nó. Người bình thường bị giới hạn trong việc sử dụng bộ não vật lý, do đó không thể tư duy bằng các thuật ngữ nhóm.

This egoic impulse in any group or any group unit makes itself felt as a pulsation, or access of energy, emanating from the central point. This central activity is produced by the action of the planetary Logos working through the groups in His centers, and according to the [771] center under stimulation so will the groups concerned be affected. Beyond mentioning this fact, we cannot enlarge, for the subject is stupendous, and beyond a man’s comprehension; it is only necessary for him to appreciate his dependence in this matter upon the planetary Logos.

Xung lực chân ngã này trong bất kỳ nhóm nào hay trong bất kỳ đơn vị nhóm nào đều tự biểu hiện như một sự rung động hay một luồng năng lượng phát ra từ điểm trung tâm. Hoạt động trung tâm này được tạo ra bởi hành động của Hành Tinh Thượng Đế vận hành thông qua các nhóm trong các trung tâm của Ngài, và tuỳ theo [771] trung tâm nào đang được kích hoạt thì các nhóm liên quan sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài việc nêu lên thực tế này, chúng ta không thể mở rộng thêm, vì chủ đề này hết sức vĩ đại và vượt khỏi sự lĩnh hội của con người; con người chỉ cần nhận thức được sự phụ thuộc của mình trong vấn đề này vào Hành Tinh Thượng Đế.

From the group center, therefore, emanates an urge to renewed activity, and this spreads throughout the group lotus until the units who respond to that particular ray vibration occultly “awaken.” All this time (as far as the jivas are concerned) this aspect of force has been that of the first aspect, and has passed from the central points to other central points. The positive nuclei in each case are affected by this flashing forth of electric fire, or energy. Each point concerned responds by a primary contraction followed by an outgoing or expansive display of energy. Each Identity concerned proceeds to sound a WORD. This sound expands into a mantram and the solar angels vibrate in response. There is a point of interest to be noted here.

Do đó, từ trung tâm nhóm phát sinh một xung lực hướng tới hoạt động được đổi mới, và xung lực này lan toả khắp hoa sen nhóm cho đến khi các đơn vị nào phản ứng với rung động cung đặc thù đó được thức tỉnh một cách huyền linh. Trong suốt thời gian này (xét về phía các jiva) phương diện mãnh lực được nói đến là phương diện thứ nhất, và nó đã truyền từ các điểm trung tâm này sang các điểm trung tâm khác. Các hạt nhân dương trong mỗi trường hợp đều bị ảnh hưởng bởi sự bừng sáng của lửa điện hay năng lượng này. Mỗi điểm liên quan phản ứng bằng một sự co rút ban đầu, theo sau là một sự lan toả hay biểu hiện năng lượng hướng ra ngoài. Mỗi Bản thể liên quan phát ra một ÂM THANH. Âm thanh này mở rộng thành một bài mantram và các Thái dương Thiên Thần dao động để ứng đáp. Có một điểm đáng chú ý cần được lưu ý ở đây:

a. The first aspect works through a Word of Power.

a. Phương diện thứ nhất vận hành thông qua một Linh Từ Quyền Năng.

b. The second aspect works through mantric combinations.

b. Phương diện thứ hai vận hành thông qua các tổ hợp mantram.

c. The third aspect works through mathematical formulas.

c. Phương diện thứ ba vận hành thông qua các công thức toán học.

Having sounded the Word the first aspect, represented by the electric fire at the center of the lotus, sinks back into quiescence, and becomes an abstraction as far as the self-conscious unit is concerned. The work has been begun, the necessary vibration has been set up, and the whole process then proceeds under law. The solar angels have begun their activity, and until their work has reached a very high stage, the Spirit aspect must become, in the causal body, an analogy to the Silent Watcher. As the solar Angels continue sounding out the mantram, which is the basis of their work, the lunar Pitris respond [772] to certain sounds in that mantram (not to all by any means at first) and gather out of those sounds the formula under which their work must proceed. So the Word is the basis of the mantram, and the mantram is the basis of the formula.

Khi đã xướng Linh Từ, phương diện thứ nhất—được đại diện bởi lửa điện ở trung tâm hoa sen—lắng xuống trạng thái tĩnh tại, và trở thành một sự trừu tượng, xét từ góc nhìn của đơn vị có tự thức. Công việc đã được khởi đầu, rung động cần thiết đã được thiết lập, và toàn bộ tiến trình sau đó tiến triển theo định luật. Các Thái dương Thiên Thần đã bắt đầu hoạt động của Các Ngài, và cho đến khi công việc của Các Ngài đạt đến một giai đoạn rất cao, thì phương diện Tinh thần trong thể nhân quả phải trở thành tương tự như Đấng Quan Sát Tĩnh Lặng. Khi các Thái dương Thiên Thần tiếp tục xướng bài mantram, vốn là nền tảng cho công việc của Các Ngài, thì các Thái âm Tổ phụ đáp ứng [772] với một số âm thanh trong bài mantram đó (không phải tất cả ngay từ đầu), và từ các âm thanh đó rút ra công thức mà theo đó công việc của họ phải tiến hành. Vậy nên Linh Từ là nền tảng của bài mantram, và bài mantram là nền tảng của công thức.

At each incarnation, finer forms are required, and the formulas therefore grow more complicated, and the sounds on which they are based become more numerous. In time, the formulas are completed, and the lunar Pitris respond no more to the sounds or mantrams chanted on the mental plane. This is indicative of the stage of perfection, and shows that the three worlds have no more a downward pull for the jiva concerned. Desire for lower manifestation and experience has no more sway, and only conscious purpose is left. Then, and only then, can the true Mayavirupa be constructed; the Master then sounds the mantram for Himself, and builds without formulas in the three worlds. At the time too that man begins to tread the Probationary Path, the mantrams of the solar Angels begin to die down, and slowly (as the petals of the inner circle open up) the true Word emerges until the three enshrining petals burst open, and the central spark is revealed. Then the Word is fully known, and mantrams and formulas have no further use. Thus is the beauty of the scheme revealed. When the planetary Logos is concerned, the Word sounded on cosmic levels is being resolved into mantrams on the cosmic etheric planes, for He is in a position to create consciously on those levels; He works nevertheless through formulas on the dense physical planes of His scheme, our three worlds of endeavor.

Ở mỗi lần nhập thể, những hình tướng tinh tế hơn được yêu cầu, và do đó các công thức trở nên phức tạp hơn, và số lượng âm thanh làm nền tảng cho chúng cũng trở nên nhiều hơn. Theo thời gian, các công thức được hoàn tất, và các Thái âm Tổ phụ không còn đáp ứng với các âm thanh hay mantram được xướng lên trên cõi trí. Điều này biểu thị một giai đoạn thành tựu, và cho thấy rằng ba cõi giới không còn hấp lực kéo xuống đối với jiva liên hệ. Dục vọng về sự biểu hiện và kinh nghiệm ở các cấp thấp hơn không còn ngự trị nữa, và chỉ còn lại mục đích có ý thức. Khi ấy, và chỉ khi ấy, Mayavirupa chân chính mới có thể được kiến tạo; vị Chân sư khi đó tự mình xướng bài mantram cho chính Ngài, và xây dựng mà không cần công thức nào trong ba cõi giới. Cũng vào thời điểm người bắt đầu bước trên Con Đường Dự Bị, các bài mantram của các Thái dương Thiên Thần bắt đầu dịu đi, và từ từ (khi các cánh hoa của vòng tròn bên trong được khai mở) Linh Từ chân chính lộ ra cho đến khi ba cánh hoa bao bọc bên ngoài bật mở, và tia lửa trung tâm được hiển lộ. Khi ấy Linh Từ được biết một cách trọn vẹn, và các mantram cùng công thức không còn cần thiết nữa. Như vậy vẻ đẹp của toàn bộ kế hoạch được hiển lộ. Khi nói về Hành Tinh Thượng Đế, Linh Từ được xướng lên trên các cấp độ vũ trụ đang được chuyển hoá thành các bài mantram trên các cõi dĩ thái vũ trụ, vì Ngài đang ở trong một vị trí có thể tạo tác một cách có ý thức trên những cấp độ ấy; tuy thế, Ngài vẫn vận hành thông qua các công thức trên các phân cõi vật chất đậm đặc của sơ đồ của Ngài, tức là ba cõi giới hoạt động của chúng ta.

To return to the reincarnating jivas: When the initiatory impulse has been given, the vibration thrills through the petals, and activity starts in those of them which respond to the note of that Word. The solar Angels direct the vibration, and the mantram for that particular [773] type of Ego is begun. Finally the vibration reaches the mental unit at the base of the lotus bud, and the lunar Pitris are called into activity. They begin to work out their formulas for the particular type of vehicle which is required.

Trở lại với các jiva tái sinh: Khi xung lực khai mở được ban ra, rung động vang vọng qua các cánh hoa, và sự hoạt động bắt đầu nơi những cánh hoa nào phản ứng với nốt của Linh Từ ấy. Các Thái dương Thiên Thần điều hướng rung động, và bài mantram dành riêng cho [773] loại Chân ngã đó được bắt đầu. Sau cùng, rung động truyền đến đơn vị trí tuệ ở đáy nụ hoa sen, và các Thái âm Tổ phụ được triệu hồi vào hoạt động. Họ bắt đầu thực hiện các công thức của mình cho loại thể cụ thể nào đó đang được yêu cầu.

(f.) Activity of the Pitris —(f.) Hoạt động của các Pitris

The joint activity of the solar and the lunar Pitris 53 in the process pursued by the reincarnating Ego is our next subject of consideration. The Ego, driven by desire for physical experience, has made the initial move and a vibration, emanating from the center of the lotus bud, has reached the lotus petals, and has consequently vibrated in deva substance, or in [774] matter vitalized by the Agnishvattas. As they are galvanized into activity (according to the group affected) the vibration is increased, and a dual sound is emitted. This dual sound is the basis of the mantram upon which the Ego’s cycle of incarnation is founded. The vibration, pulsating through the outer circle of petals (for the two inner circles and the three central petals are not as yet responsive) arrives at the triangle formed by the three permanent atoms, and vivifies the three lower spirillae, causing a slight response in the fourth, and leaving the higher three yet dormant. In each round one of the spirillae has been ‘created,’ and in this fourth round (through the creation of the fourth spirilla) the fourth or human kingdom can come into being. The word ‘creation’ must be occultly understood, and means the appearance in active manifestation of some form of energy. Only in the next round will the fifth spirilla be an active functioning unit in a sense incomprehensible now.

Hoạt động chung của các thái dương tổ phụ và các thái âm tổ phụ 53 trong tiến trình do Chân ngã tái sinh theo đuổi là đề tài kế tiếp để chúng ta khảo xét. Chân ngã, bị thúc đẩy bởi ham muốn kinh nghiệm hồng trần, đã tạo động tác khởi đầu và một rung động, xuất lộ từ trung tâm nụ sen, đã chạm tới các cánh hoa sen, và do đó đã làm rung động trong chất liệu thiên thần, hay trong [774] vật chất được các Agnishvatta tiếp sinh lực. Khi chúng bị kích hoạt (tùy nhóm bị ảnh hưởng) rung động tăng lên, và một âm kép được phát ra. Âm kép này là nền tảng của mantram mà trên đó chu kỳ lâm phàm của Chân ngã được đặt định. Rung động, đập nhịp qua vòng cánh hoa bên ngoài (vì hai vòng trong và ba cánh hoa trung tâm chưa hồi ứng) đi đến tam giác được thành lập bởi ba Nguyên tử trường tồn, và sinh động ba tiểu xoắn luân thấp, gây nên một đáp ứng nhẹ nơi tiểu xoắn luân thứ tư, và để ba tiểu xoắn luân cao vẫn còn tiềm phục. Trong mỗi cuộc tuần hoàn, một tiểu xoắn luân đã được “tạo”, và trong cuộc tuần hoàn thứ tư này (qua sự tạo ra tiểu xoắn luân thứ tư) giới thứ tư hay giới nhân loại có thể xuất hiện. Chữ “tạo” phải được hiểu theo nghĩa huyền bí, và có nghĩa là sự xuất hiện trong biểu lộ tích cực của một dạng năng lượng nào đó. Chỉ trong cuộc tuần hoàn kế tiếp, tiểu xoắn luân thứ năm mới trở thành một đơn vị hoạt động theo nghĩa hiện giờ chưa thể hiểu thấu.

Students should bear in mind that this applies primarily to the humanity individualized on this globe, and was also equally true in the earlier chain; units, however, which come into this fourth or Earth Chain from the earlier one, are much ahead of earth’s humanity, and their fifth spirilla is awakening into organized activity in this round. All in Nature overlaps.

Các môn sinh cần ghi nhớ rằng điều này áp dụng chủ yếu cho nhân loại đã được biệt ngã hóa trên bầu hành tinh này, và cũng đúng như vậy trong dãy trước kia; tuy nhiên, các đơn vị đến với Dãy thứ tư hay Dãy Trái Đất này từ dãy trước thì vượt xa nhân loại địa cầu, và tiểu xoắn luân thứ năm của họ đang thức dậy đi vào hoạt động có tổ chức trong cuộc tuần hoàn này. Mọi thứ trong Thiên nhiên đều chồng lấn nhau.

When therefore this vibration from the central Will has arrived at the atomic triangle it is an indication that the entire lotus is turning its force downwards, and for the period of manifestation the flow of egoic energy is towards the lower, and consequently away from the higher. There is at this stage very little turning of egoic energy in the direction of the Monad, for it has not yet generated enough force, and is not as yet radioactive towards the Spirit aspect. Its activities are primarily internal and self-centered for the greater part of the time, or are directed towards arousing the permanent atoms, [775] and not towards the unfolding of the petals. This should be carefully borne in mind.

Vì vậy, khi rung động này từ Ý Chí trung tâm đã đi tới tam giác nguyên tử thì điều đó cho thấy toàn bộ Hoa Sen đang hướng lực của nó hướng xuống,  và trong suốt kỳ biểu lộ, dòng năng lượng chân ngã đi về phía thấp, và do đó lìa xa phía cao. Ở giai đoạn này, hầu như không có sự hướng năng lượng chân ngã theo hướng Chân Thần, vì nó chưa sản sinh đủ lực, và chưa phóng xạ về phương diện Tinh thần. Hoạt động của nó phần lớn là nội tại và tự quy ngã trong phần lớn thời gian, hoặc được hướng tới việc khơi dậy các Nguyên tử trường tồn, [775] chứ chưa hướng đến sự khai mở các cánh hoa. Điều này cần được ghi nhớ cẩn trọng.

53 The joint activity of solar and lunar Pitris.—S. D., II, 258.

53 Hoạt động chung của các thái dương và thái âm tổ phụ.—S. D., II, 258.

1. “The spark hangs from the flame by the finest thread of Fohat.

“Tia lửa treo từ ngọn lửa bằng sợi chỉ mảnh nhất của Fohat.

a. The three-tongued flame that never dies—Triad.

Ngọn lửa ba lưỡi không bao giờ tắt—Tam nguyên.

b. The four wicks—Quaternary.

Bốn tim đèn—Bộ tứ.

c. The thread of Fohat—Thread of Life.

Sợi dây của Fohat—Sợi dây Sự Sống.

2. It journeys through the seven worlds of maya.

Nó du hành qua bảy thế giới của maya.

a. Macrocosmically—the seven planetary schemes.

Trên bình diện Đại thiên địa—bảy hệ hành tinh.

b. Planetary—the seven chains of a scheme.

Trên bình diện Hành tinh—bảy dãy của một hệ.

c. Microcosmically—the seven globes of a chain.

Trên bình diện Tiểu thiên địa—bảy bầu hành tinh của một dãy.

Note and meditate upon:

Hãy ghi nhận và tham thiền về:

“…the divine Septenary hanging from the triad, thus forming the Decad and its permutations. Seven, five and three.”

“…bộ thất thiêng liêng treo từ Tam nguyên, như vậy tạo thành bộ thập và các hoán vị của nó. Bảy, năm và ba.”

3. It stops in the first, and is a metal and a stone; it passes into the second and behold—a plant; the plant whirls through seven forms and becomes a sacred animal.”—Compare S. D., I, 266.

Nó dừng ở thứ nhất, và là kim loại và đá; nó đi vào thứ hai và kìa—một cây; cây quay cuồng qua bảy hình tướng và trở thành một linh vật.”—So sánh S. D., I, 266.

Note the kabalistic aphorism: “A stone becomes a plant; a plant, a beast; a beast, a man; a man, a spirit; and the spirit, God.”—S. D., I, 267.

Lưu ý châm ngôn Kabbalah: “Một hòn đá trở thành cây; một cây, thú vật; một thú vật, người; một người, thần linh; và thần linh, Thượng đế.”—S. D., I, 267.

4. From the combined attributes of these, Manu, the Thinker, is formed.

Từ các thuộc tính kết hợp của những điều này, Manu, Đấng Tư Duy, được kiến tạo.

– See S. D., II, 179, 187.

– Xem S. D., II, 179, 187.

5. Who forms him? The seven lives and the One Life.—See S. D., II, 268.

Ai kiến tạo Ngài? Bảy sự sống và Sự Sống Duy Nhất.—Xem S. D., II, 268.

The seven groups of lives who form the three lower bodies. The lunar Pitris or fathers of the material forms.

Bảy nhóm sự sống kiến tạo ba thể thấp. Các thái âm tổ phụ hay các phụ thân của các hình tướng vật chất.

6. Who completes him? The fivefold Lha.

Ai hoàn tất Ngài? Lha ngũ phân.

Who unites the higher Spiritual Triad and the lower self?

Ai hợp nhất Tam nguyên Tinh thần cao và phàm ngã thấp?

a. The fivefold Gods of the intelligence.

Các Thần trí tuệ ngũ phân.

b. The fifth principle of mind.

Nguyên khí thứ năm—thể trí.

7. Who perfects the last body? Fish, sin, and soma.

Ai hoàn thiện thể sau cùng? Cá, tội lỗi, và soma.

a. Fish, sin and soma collectively compose the three symbols of the immortal being.

Cá, tội lỗi và soma kết hợp tạo thành ba biểu tượng của hữu thể bất tử.

b. Fish—symbol of the buddhic principle, the manifested life on earth. Note the avatara of Vishnu. The sign of Pisces, the fish. Jesus the fisher of men.

Cá—biểu tượng của nguyên khí Bồ đề, sự sống hiển lộ trên trần. Lưu ý các đấng hoá thân của Vishnu. Dấu Song Ngư, con cá. Đức Jesus, người đánh lưới người.

c. Sin—The fall of man, involution of Spirit.

Tội lỗi—Sự sa ngã của con người, giáng hạ tiến hoá của Tinh thần.

d. Soma—Moon. The work of lunar Pitris, providing bodies.

Soma—Mặt Trăng. Công việc của các thái âm tổ phụ, cung ứng các thể.

Read stanza VII, 6, S. D., I, 285.

Đọc bài kệ VII, 6, S. D., I, 285.

[Commentary S7S4]

The work of the solar Angels is of a triple nature:

Công tác của các Thái dương Thiên Thần có tính chất tam phân:

(1.) Directing the vibration towards the atomic triangle. Here a very interesting fact must be borne in mind. The three permanent atoms, or the three points of the triangle, do not always hold the same relative position as regards the center of the lotus, but according to the stage of development so will be the position of the atoms, and so will be the apprehension of the inflowing force. In the earlier stages, the physical permanent atom is the first to receive the inflow, passing it through its system to the astral permanent atom and the mental unit. This force is circulated four times around the triangle (this being the fourth round) until the mental unit is again contacted and the energy becomes centralized in the fourth spirilla of the mental unit. Then and only then do the lunar Pitris begin their work, and commence the coordination of the substance which will form the mental sheath, next working with the astral body and finally with the etheric body.

(1.)  Hướng rung động về phía tam giác nguyên tử.  Ở đây cần ghi nhớ một sự kiện rất đáng chú ý. Ba Nguyên tử trường tồn, hay ba điểm của tam giác, không phải lúc nào cũng giữ cùng một vị trí tương đối đối với trung tâm Hoa Sen, mà tùy theo giai đoạn phát triển vị trí của các nguyên tử sẽ như thế, và như thế sẽ là sự tiếp thọ lực đang tuôn vào. Ở các giai đoạn sơ khai, Nguyên tử trường tồn thể xác là nguyên tử đầu tiên thọ nhận lưu nhập, truyền nó qua hệ thống của mình tới Nguyên tử trường tồn cảm dục và đơn vị hạ trí. Lực này lưu chuyển bốn vòng quanh tam giác (vì đây là cuộc tuần hoàn thứ tư) cho đến khi đơn vị hạ trí lại được tiếp xúc và năng lượng được tập trung trong tiểu xoắn luân thứ tư của đơn vị hạ trí. Khi ấy và chỉ khi ấy, các thái âm tổ phụ mới bắt đầu công việc của họ, và khởi sự phối kết chất liệu sẽ tạo thành thể trí, sau đó làm việc với thể cảm dục và sau cùng với thể dĩ thái.

At a later stage in the evolution of man (the stage wherein the average man is now) the astral permanent atom is the first contacted, and the energy circulates through it to the other two. At the stage of advanced intellectual man, the mental unit takes the primary place. In this case there is now the possibility of the alignment of the three bodies which will later be an accomplished fact. The fifth spirilla in the lower two atoms increases its vibration. As we know, there are only four spirillae in the mental unit and the moment that that is in full activity, the coordination of the antahkarana becomes a possibility. Changes are now taking place in the egoic lotus, and the petals are unfolding, that unfoldment being partially dependent upon the vibration in the spirillae and their awakening. [776]

Ở một giai đoạn muộn hơn trong tiến hóa của con người (giai đoạn mà người trung bình hiện nay đang ở) thì Nguyên tử trường tồn cảm dục là nguyên tử đầu tiên được tiếp xúc, và năng lượng lưu chuyển qua nó đến hai nguyên tử kia. Ở giai đoạn của người trí thức tiến bộ, đơn vị hạ trí chiếm vị trí chủ đạo. Trong trường hợp này, nay có khả năng chỉnh hợp ba thể, điều mà về sau sẽ trở thành một sự kiện thành tựu. Tiểu xoắn luân thứ năm trong hai nguyên tử thấp tăng rung động của nó. Như chúng ta biết, trong đơn vị hạ trí chỉ có bốn tiểu xoắn luân và ngay khi đơn vị ấy hoạt động toàn mãn, sự phối kết của antahkarana trở nên khả hữu. Các biến chuyển hiện đang xảy ra trong Hoa Sen Chân Ngã, và các cánh hoa đang khai mở, việc khai mở ấy phần nào tùy thuộc vào rung động trong các tiểu xoắn luân và sự thức tỉnh của chúng. [776]

The student should bear in mind the fact that as soon as the mental unit has become the apex of the atomic triangle a condition is brought about wherein force in the future will enter the three atoms simultaneously through the three unfolded petals of the outer circle, and the man has therefore reached a very definite stage in evolution. The direction of force, and its application to the atoms is the work of the solar Pitris. As evolution proceeds, their work in this connection becomes more complex, for the petals are unfolding, and the triangle is revolving more rapidly.

Môn sinh cần ghi nhớ rằng ngay khi đơn vị hạ trí trở thành đỉnh của tam giác nguyên tử thì một tình huống được tạo ra trong đó về sau lực sẽ đi vào cả ba nguyên tử đồng thời qua ba cánh hoa đã khai mở của vòng ngoài, và do đó con người đã đạt tới một giai đoạn rất xác định trong tiến hóa. Sự hướng lực và áp dụng lực vào các nguyên tử là công việc của các thái dương tổ phụ. Khi tiến hóa tiếp diễn, công việc của Các Ngài trong mối liên hệ này trở nên phức tạp hơn, vì các cánh hoa đang khai mở, và tam giác đang xoay nhanh hơn.

(2.) Pronouncing the mantram which will make possible the 777 incarnations.

(2.) Xướng lên mantram sẽ làm cho 777 lần lâm phàm trở nên khả hữu.

Each of the figures in this triplicity stands for:

Mỗi chữ số trong bộ ba này biểu trưng cho:

a. A cycle of egoic, manifestation.

Một chu kỳ biểu lộ của chân ngã.

b. A particular sound which will enable the Ego to express some subray of this egoic ray.

Một âm thanh đặc thù giúp Chân ngã biểu đạt một cung phụ nào đó của cung chân ngã này.

c. The three circles of petals which will unfold as the result of incarnation.

Ba vòng cánh hoa sẽ khai mở như kết quả của các lần lâm phàm.

d. The particular group of manasadevas who form the causal body of the Ego concerned.

Nhóm manasadeva đặc thù kiến tạo thể nguyên nhân của Chân ngã có liên hệ.

The mantric sounds are therefore based on these figures, and through the mantram (which grows in volume, depth and number of sounds involved as time elapses) the force is directed, the petals concerned are stimulated into activity, and the lunar Pitris become aware of the work to be done in preparation for any incarnation.

Vậy các âm mantram được đặt nền trên những con số này, và qua mantram (vốn tăng trưởng về âm lượng, chiều sâu và số lượng âm tham dự theo thời gian) lực được hướng dẫn, các cánh hoa liên hệ được kích hoạt, và các thái âm tổ phụ ý thức công việc phải làm để chuẩn bị cho bất kỳ lần lâm phàm nào.

(3.) Building into the causal body that which is required for its completion.

(3.) Kiến tạo vào thể nguyên nhân những gì cần thiết để hoàn thiện nó.

In the early stages this work is comparatively small but as the third stage of development is reached, and the man is demonstrating character and ability, their work is rapidly increased, and they are kept fully occupied in the work of perfecting the egoic body, in expanding the egoic consciousness, if metaphysical terms are preferred. All [777] this is accomplished by means of the material furnished by the lower self. When that lower Personality becomes gradually radioactive, these radiations are attracted to the positive ego, and are absorbed into its nature through the activity of the solar Angels.

Ở các giai đoạn đầu công việc này tương đối nhỏ, nhưng khi giai đoạn thứ ba của phát triển được đạt đến, và con người biểu lộ Tính cách và năng lực, công việc của Các Ngài gia tăng nhanh, và Các Ngài được hoàn toàn bận bịu trong việc hoàn thiện thể nguyên nhân, trong việc mở rộng tâm thức chân ngã, nếu ưa dùng thuật ngữ siêu hình. Tất cả [777] điều này được hoàn thành nhờ chất liệu do phàm ngã cung ứng. Khi Phàm ngã thấp ấy dần dần trở nên phóng xạ, những bức xạ này bị hút về chân ngã dương, và được hấp thụ vào bản tính của nó thông qua hoạt động của các Thái dương Thiên Thần.

These three activities are the main work of the solar Pitris where man is concerned. Where the group, and not the individual, is concerned, their work lies along the line of adjusting the egoic units in their groups, and of making them group conscious, but this is only possible towards the final stages of evolution when the work of the highest group of Agnishvattas is in order. The middle group who form the nine petals are always the most active. They work in connection with the lower group who are the direct transmitters of energy to the atomic triangle, receiving it from the middle group. More of their work it is not possible to detail, for the work of the Agnishvattas is vast and intricate, and differs also in the various schemes in certain particulars. Those who are working in the Uranus, the Neptune, and the Saturn scheme work somewhat differently to those functioning in the Venus, the Vulcan, the Mars, the Mercury, the Jupiter, the Earth and the exoteric Saturn scheme, and so do the Manasadevas of the inner round. We should note here that we again have a triplicity of groups, representing a triplicity of force, and herein lies a hint. In the central list of schemes the middle and lower group of Agnishvattas are active. In the others the higher group and middle group hold sway as these planets are the most occult and sacred in manifestation, and are concerned only with egos who are on the Path, and who are therefore group-active. In connection with Uranus, Neptune and Saturn, this might be expected as they are the synthesizing planetary schemes, and provide conditions suitable only for the very advanced stages. They are the “reaping” planets. [778]

Ba hoạt động này là công tác chủ yếu của các thái dương tổ phụ trong mối liên hệ với con người. Còn khi xét đến nhóm, chứ không phải cá nhân, công việc của Các Ngài nằm trên tuyến điều chỉnh các đơn vị chân ngã trong nhóm của họ, và khiến họ có ý thức nhóm, song điều này chỉ khả hữu về các giai đoạn cuối của tiến hóa, khi công việc của nhóm cao nhất trong các Agnishvatta được xếp đặt. Nhóm trung gian kiến tạo chín cánh hoa luôn là nhóm hoạt động nhất. Họ làm việc liên quan với nhóm thấp hơn, là những kẻ truyền đạt trực tiếp năng lượng tới tam giác nguyên tử, tiếp nhận nó từ nhóm trung gian. Không thể trình bày chi tiết hơn công việc của họ, vì công việc của các Agnishvatta thì bao la và tinh vi, và cũng khác nhau trong các hệ hành tinh ở vài điểm đặc thù. Những vị làm việc trong hệ Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương, và Sao Thổ hoạt động có phần khác với những vị đang hoạt động trong các hệ Sao Kim, Vulcan, Sao Hỏa, Sao Thủy, Sao Mộc, Trái Đất và hệ Sao Thổ ngoại hiển, và các manasadeva của vòng nội cũng vậy. Chúng ta nên lưu ý rằng ở đây lại có một bộ ba nhóm, biểu trưng cho bộ ba lực, và ở đây hàm chứa một ám chỉ. Trong danh sách trung tâm các hệ, nhóm trung và nhóm thấp của các Agnishvatta hoạt động. Ở các hệ kia, nhóm cao và nhóm trung nắm quyền, vì các hành tinh ấy là những hành tinh huyền bí và thiêng liêng nhất trong biểu lộ, và chỉ liên hệ đến những chân ngã đang ở trên Thánh Đạo, và do đó hoạt động theo nhóm. Liên quan tới Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương và Sao Thổ, điều này có thể được trông đợi vì chúng là các hệ hành tinh tổng hợp, và cung ứng các điều kiện chỉ thích hợp cho những giai đoạn rất cao. Chúng là các hành tinh “gặt hái”. [778]

Much confusion in connection with Egos exists in the minds of our students on account of their failure to realize that (as H. P. B. has pointed out—S. D., I, 41, 83.) the Secret Doctrine is primarily concerned with the planetary scheme of our Earth, and has little to impart anent the other schemes, and their methods of evolving self-consciousness. The general procedure on the mental levels is the same, but as each scheme embodies one particular type of force, the peculiarity of that force will color all its evolution, and the work of the Agnishvattas will correspond. It is not possible to state what is the peculiar coloring of the Ray which is embodied in our scheme, as it is one of the most secret of the mysteries revealed at initiation, but students must bear in mind that in the fundamentals laid down here we are not dealing specifically with our scheme.

Nhiều lầm lẫn liên quan tới các Chân ngã tồn tại trong tâm trí các môn sinh của chúng ta là bởi họ không nhận ra rằng (như Bà H. P. B. đã chỉ rõ—S. D., I, 41, 83.) Giáo Lý Bí Nhiệm chủ yếu liên quan đến hệ hành tinh của Trái Đất chúng ta, và ít điều để truyền đạt về các hệ khác, cùng những phương pháp tiến hóa tự thức của chúng. Thủ tục tổng quát trên các tầng trí là như nhau, nhưng vì mỗi hệ hiện thân một loại lực đặc thù, sắc thái riêng của lực ấy sẽ nhuộm màu tất cả tiến trình tiến hóa của hệ, và công việc của các Agnishvatta sẽ tương ứng. Không thể nói ra sắc thái đặc thù của Cung được hiện thân trong hệ của chúng ta, vì đó là một trong những huyền bí bí mật nhất được mặc khải trong lễ điểm đạo, nhưng các môn sinh phải ghi nhớ rằng trong các điểm căn bản được nêu ra ở đây, chúng ta không bàn riêng về hệ của chúng ta.

A great deal has been said in modern occult literature anent the process followed in the perfecting of those Egos who choose to remain with the Hierarchy of our planet, and their methods of development (through chelaship to adeptship). But nothing practically has been imparted anent the many egos who reach a certain high stage of evolution in our scheme and who are then transferred to one of the three synthesizing schemes, passing first to the scheme which is the polar opposite to ours, and from thence to the synthesizing scheme. They are numerically more than those who remain within the Earth scheme. Whichever may be the synthesizing scheme to which they are attracted, it marks and indicates their start upon one of the three cosmic paths. The work of the Manasadevas is carried on throughout the entire system, and a constant circulation transpires, and a constant transmission of energy, and of force units embodying that energy, goes on throughout the entire system. This transmission becomes possible in any scheme when the [779] fourth or human kingdom becomes radioactive; it really marks the setting in of the period of obscuration. Venus is a case in point. Metaphysically stated, it marks the point when the Logoi begin to dissociate Themselves from Their dense physical bodies, or from the three worlds of human endeavor.

Rất nhiều điều đã được nói trong văn học huyền môn hiện đại về tiến trình được theo trong việc hoàn thiện những Chân ngã chọn ở lại với Thánh Đoàn của hành tinh chúng ta, và các phương pháp phát triển của họ (từ địa vị đệ tử đến chân sư). Nhưng hầu như chẳng có gì được truyền đạt về nhiều chân ngã đạt đến một giai đoạn tiến hóa cao trong hệ của chúng ta rồi sau đó được chuyển dịch đến một trong ba hệ tổng hợp, đi trước hết đến hệ đối cực với hệ của chúng ta, rồi từ đó đến hệ tổng hợp. Họ đông hơn về số lượng so với những vị lưu lại trong hệ Trái Đất.  Dù hệ tổng hợp nào lôi cuốn họ, điều ấy đánh dấu và chỉ định sự khởi hành của họ vào một trong ba con đường vũ trụ. Công việc của các Manasadeva được tiến hành khắp toàn hệ mặt trời, và một sự lưu thông thường xuyên diễn ra, cùng một sự truyền dẫn liên tục các năng lượng, và các đơn vị lực hiện thân năng lượng ấy, đi khắp toàn hệ. Sự truyền dẫn này trở nên khả hữu trong bất kỳ hệ nào khi [779] giới thứ tư hay giới nhân loại trở nên phóng xạ; điều đó thật sự đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ ám mờ. Sao Kim là một trường hợp minh họa. Nói theo siêu hình, điều đó đánh dấu điểm khi các Thượng đế bắt đầu tách Các Ngài khỏi các thể xác đậm đặc của Các Ngài, hay khỏi ba cõi của nỗ lực nhân loại.

The three groups of Agnishvattas concerned with the evolution of man on the mental level have each a specific function, as we have already seen, and the lowest of the three deal primarily with the transmission of force or energy to the three permanent atoms. In the dual sounding of the egoic mantram by the lowest of the three groups changes are brought about and the lunar Pitris (who concern themselves with the lower three vehicles) enter upon their work, the key being given to them by the solar Angels.

Ba nhóm Agnishvatta liên quan đến tiến hóa của con người trên bình diện trí đều có mỗi nhóm một chức năng đặc thù, như chúng ta đã thấy, và nhóm thấp nhất trong ba nhóm chủ yếu xử lý việc truyền dẫn lực hay năng lượng tới ba Nguyên tử trường tồn. Trong tiếng xướng kép của mantram chân ngã do nhóm thấp nhất trong ba nhóm xướng lên, những biến chuyển được tạo ra và các thái âm tổ phụ (những vị lo liệu ba vận cụ thấp) khởi sự công việc của họ, chìa khóa được các Thái dương Thiên Thần trao cho họ.

The Lunar Pitris—Các Thái âm tổ phụ

These lunar Pitris embody the substance of man’s lower bodies, just as the solar Pitris sacrifice themselves to give him his egoic body, and his consciousness. 55, 56, 57 They are substance in its dual aspect, and the Lunar Pitris in their higher grades are the positive energy of atomic substance, and in their lower are the negative [780] aspect of the same substance. They might be considered, in connection with man, as triple in their ranks:

Các thái âm tổ phụ này thể hiện chất liệu của các thể thấp của con người, cũng như các thái dương tổ phụ hy sinh chính mình để ban cho y thể nguyên nhân và tâm thức của y. 55, 56, 57 Họ là chất liệu trong phương diện lưỡng nguyên của nó, và các thái âm tổ phụ trong các cấp cao là năng lượng dương của chất nguyên tử,trong các cấp thấp là phương diện âm [780] của cùng chất liệu ấy. Xét trong mối liên hệ với con người,  họ có thể được xem là tam phân trong đẳng cấp của mình:

a. The highest group of all receives the energy from the higher levels, and ensouls the spirillae of the three permanent atoms.

Nhóm cao nhất tiếp nhận năng lượng từ các cảnh giới cao hơn, và phú linh các tiểu xoắn luân của ba Nguyên tử trường tồn.

b. The second group, being the positive energy that attracts, builds and forms the body of man on the three planes.

Nhóm thứ hai, là năng lượng dương có tính thu hút, kiến tạo và hình thành thân thể con người trên ba cõi.

c. The lowest group are the negative aspect of energized substance and the matter of the three sheaths.

Nhóm thấp nhất là phương diện âm của chất liệu được tiếp sinh lực và là vật chất của ba cái vỏ.

55 The Ego is described thus in the Secret Doctrine: Each is a pillar of Light. Having chosen its vehicle, it expanded, surrounding with an akashic aura the human animal, with the Divine Principle settled within the human form.—S. D., III, 494.

55  Chân ngã được mô tả như sau trong Giáo Lý Bí Nhiệm:  Mỗi vị là một cột Ánh sáng. Sau khi đã chọn vận cụ của mình, Ngài mở rộng, bao bọc con người thú tính bằng một hào quang akashic, với Thiêng Nguyên ngự trong hình tướng con người.—S. D., III, 494.

They are the Fire Dhyanis, and emanate from the Heart of the Sun.”—S. D., II, 96.

Họ là các Dhyani của Lửa, và xuất lộ từ Trái Tim của Thái Dương.”—S. D., II, 96.

Read the words of the Commentary on S. D., II, 96.

Đọc lời Bình giảng về S. D., II, 96.

They are the Sons of Fire and fashion inner man.—S. D., II, 114

Họ là Các Con của Lửa và nắn đúc con người nội tại.—S. D., II, 114

56 The solar Angels (Sons of Wisdom) are entities seeking fuller consciousness.

56  Các Thái dương Thiên Thần (Các Con của Minh Triết) là các thực thể tìm kiếm sự viên mãn của tâm thức.

– S. D., II, 176, 177; II, 643.

– S. D., II, 176, 177; II, 643.

a. They had intellect through previous contact with matter.

Họ có trí tuệ nhờ tiếp xúc với chất liệu trước kia.

b. They were incarnated under the law of Karma.—S. D., III, 517.

Họ đã lâm phàm theo luật Nghiệp quả.—S. D., III, 517.

c. They had to become all wise.

Họ phải trở nên toàn-trí.

d. Read carefully S. D., II, 243 note.

Hãy đọc cẩn thận S. D., II, 243 ghi chú.

e. These solar Angels are high intelligences.—S. D., II, 259.

Các Thái dương Thiên Thần này là những trí tuệ cao.—S. D., II, 259.

f. They are Nirmanakayas. 57—S. D., II, 266.

Họ là các Nirmanakaya. 57— S. D., II, 266.

g. They are the celestial yogis.—S. D., II, 257.

Họ là các du-già thiên thượng.—S. D., II, 257.

57 “Nirmanakaya” is a name made up of two words which signify “having no body,” and has no reference whatever to moral qualities. It is a state of consciousness. The great Teachers of Nirvanic spheres are called by this name.

57  “Nirmanakaya” là danh xưng gồm hai từ có nghĩa là “không có thân”, và hoàn toàn không liên quan đến các phẩm chất đạo đức. Nó là một trạng thái tâm thức. Các Bậc Đại Giáo Sư của các cảnh giới Niết Bàn được gọi bằng tên này.

In connection with the solar system they embody the Brahma aspect, being the product of earlier cycles wherein conscious activity was achieved, but self-consciousness was only arrived at by certain cosmic entities who passed through conscious substance, and gave to it that potentiality which will enable atomic substance—after many kalpas—to develop self-consciousness. In connection with a planet, they are called by a mysterious name which may not be revealed, as it conceals the mystery of the scheme which preceded ours, and of which ours is a reproduction. There are Pitris who work in connection with a planet, and with a solar system as well as those working in connection with the human kingdom. They embody the energy of substance as demonstrated in a system, a scheme and a human cycle.

Liên hệ trong mối liên hệ với hệ mặt trời, họ hiện thân phương diện Brahma t, là sản phẩm của những chu kỳ trước trong đó hoạt động có ý thức đã được đạt, nhưng tự thức chỉ được một vài Thực thể vũ trụ đạt tới, những vị đã đi qua chất liệu có ý thức, và ban cho nó tiềm năng sẽ cho phép chất nguyên tử—sau nhiều kalpa—phát triển tự thức. Liên hệ với một hành tinh, họ được gọi bằng một danh xưng mầu nhiệm không thể tiết lộ, vì nó che giấu huyền bí của hệ đã có trước hệ của chúng ta, và hệ của chúng ta là một bản tái hiện của nó. Có những Pitris hoạt động liên hệ với một hành tinh, và với một hệ mặt trời cũng như những vị làm việc liên hệ với giới nhân loại. Họ hiện thân năng lượng của chất liệu như được biểu thị trong một hệ, một hệ hành tinh và một chu kỳ nhân loại.

There are also in connection with our peculiar Earth scheme, those lunar Pitris. who reached their present stage of activity in the moon chain. They are deva groups but (unlike the Agnishvattas) they have not passed through the human stage; for them it has yet to be achieved, and their present experience in connection with the human Hierarchy has that end in view. It should be remembered that it is a fundamental law in occult development that any life can only give out that [781] which it has possessed, and possession of the varying attributes of consciousness from that of the atom up to the consciousness of a solar Logos, is the result of long cycles of acquirement. The solar Pitris, therefore, could give to man his consciousness; the lunar Pitris could give to him the instinctual consciousness of his vehicles. In their aggregate in all the kingdoms of nature, on this planet and elsewhere, they give to the planetary Logos and to the solar Logos the sumtotal of the form consciousness of Their respective bodies. This is the case in every scheme in the system, but in the Earth chain a peculiar condition of affairs was brought about through the planetary failure coincident with the moon chain; this is the cause of the present balancing of forces on this chain. The fourth chain in every scheme sees the work of the solar Pitris in connection with man begun. It sees also the Pitris of his sheaths in activity through the impulse given by the solar Angels. The matter of those sheaths has passed through three chains and three rounds and is vibrant to a note which is tuned to the… To word it otherwise, the third can be clearly sounded, and is followed naturally by the fifth, or the dominant. The simultaneous sounding of the third and the fifth, basing it upon the planetary keynote, produces the effect of a threefold chord, or a fourth tone, a complex sound. I am here dealing with the chord of the human hierarchy as a whole. Within the hierarchy there is again diversity, based upon the hierarchical chord, and this produces the many egoic chords and notes; these produce in their turn objective manifestation.

Cũng có, liên quan đến hệ Trái Đất đặc thù của chúng ta, những thái âm tổ phụ đã đạt đến giai đoạn hoạt động hiện nay trong Dãy Mặt Trăng. Họ là các nhóm deva nhưng (khác với các Agnishvatta) họ chưa đi qua giai đoạn nhân loại; đối với họ điều đó còn phải đạt tới, và kinh nghiệm hiện nay của họ trong mối liên hệ với Thánh Đoàn nhân loại có mục tiêu ấy trước mắt. Nên nhớ rằng có một định luật căn bản trong phát triển huyền môn rằng bất kỳ sự sống nào cũng chỉ có thể cho ra [781] cái mà nó đã sở hữu, và sự sở hữu các phẩm tính đa dạng của tâm thức từ tâm thức của nguyên tử cho đến tâm thức của một Thái dương Thượng đế là kết quả của những chu kỳ tích lũy lâu dài. Do đó, các thái dương tổ phụ có thể ban cho con người tâm thức của y; các thái âm tổ phụ có thể ban cho y tâm thức bản năng của các vận cụ của y. Tổng hợp lại trong mọi giới của thiên nhiên, trên hành tinh này và ở nơi khác, họ ban cho Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế tổng số của tâm thức hình tướng nơi Các Ngài. Điều này đúng trong mọi hệ của toàn thể hệ thống, nhưng trong Dãy Địa Cầu, một tình trạng đặc thù đã được tạo ra do sự thất bại hành tinh đồng thời với Dãy Mặt Trăng; đây là nguyên nhân của sự quân bình lực hiện nay trên dãy này. Dãy thứ tư trong mỗi hệ chứng kiến công việc của các thái dương tổ phụ liên quan đến con người được bắt đầu. Nó cũng chứng kiến các tổ phụ của các vỏ của y hoạt động nhờ xung lực do các Thái dương Thiên Thần ban ra. Chất liệu của các vỏ ấy đã đi qua ba dãy và ba cuộc tuần hoàn và đang rung theo một âm điệu được điều chỉnh theo… Nói cách khác, âm ba có thể được xướng một cách rõ ràng, và tự nhiên được tiếp theo bởi âm năm, hay âm chủ. Việc đồng thời xướng âm ba và âm năm, đặt nền trên chủ âm hành tinh, tạo ra hiệu năng của một hợp âm ba phần, hay một âm thứ tư, một âm phức. Ở đây tôi đang bàn về hợp âm của toàn thể Thánh Đoàn nhân loại. Bên trong Thánh Đoàn lại có dị biệt nữa, đặt nền trên hợp âm thứ bậc, và điều này sinh ra nhiều hợp âm và âm giai chân ngã; chúng, đến lượt mình, sản sinh biểu lộ khách quan.

The descending down of the Egoic Energy —Sự hạ giáng của Năng lượng Chân ngã

We can now trace the progress of egoic energy as it passes down from the abstract levels to the permanent atoms. On each plane the work is threefold, and might be tabulated as follows:

Giờ đây chúng ta có thể lần theo tiến trình của năng lượng chân ngã khi nó đi xuống từ các cảnh trừu tượng tới các Nguyên tử trường tồn. Trên mỗi cõi công việc là tam phân, và có thể được lập bảng như sau:

1. The response within the permanent atom to the vibration set up by the solar Pitris; to word it [782] otherwise: the response of the highest group of lunar Pitris to the chord of the Ego. This definitely affects the spirillae of the atom, according to the stage of evolution of the Ego concerned.

1. Sự ứng đáp bên trong nguyên tử trường tồn đối với rung độ ng do các thái dương tổ phụ thiết lập; nói [782] cách khác: sự ứng đáp của nhóm thái âm tổ phụ cao nhất đối với hợp âm của Chân ngã. Điều này tác động xác định lên các tiểu xoắn luân của nguyên tử, tùy theo giai đoạn tiến hóa của Chân ngã liên hệ.

2. The response of the substance to the atomic vibration upon the particular plane involved. This concerns the second group of Pitris, whose function it is to gather together the substance attuned to any particular key, and to aggregate it around the permanent atom. They work under the Law of Magnetic Attraction, and are the attractive energy of the permanent atom. On a tiny scale each permanent atom has (to the substance of a man’s sheaths) a position relative to that which the physical sun holds to the substance of the system. It is the nucleus of attractive force.

2. Sự ứng đáp của chất liệu đối với rung động nguyên tử trên cõi đặc thù đang xét. Điều này liên quan đến nhóm Pitris thứ hai, vốn có chức năng là tập hợp chất liệu được điều âm theo bất kỳ chủ âm đặc thù nào, và kết tập nó quanh Nguyên tử trường tồn. Họ hoạt động theo Định luật Xung Động Từ Tính, và là năng lượng thu hút của Nguyên tử trường tồn. Trên một quy mô rất nhỏ mỗi Nguyên tử trường tồn (đối với chất liệu các vỏ của một con người) giữ một vị trí tương đối với vị trí mà mặt trời hồng trần nắm giữ đối với chất liệu của toàn hệ. Nó là hạch tâm của lực thu hút.

3. The response of the negative substance concerned and its molding into the desired form through the dual energy of the two higher groups of Pitris. Some thought of the unity of this threefold work has been given in the differentiation of the substance of any plane into:

3. Sự ứng đáp của chất liệu âm liên hệ và sự nắn khuôn nó thành hình tướng mong muốn bằng năng lượng kép của hai nhóm Pitris cao hơn. Một ít ý niệm về tính nhất thể của công việc tam phân này đã được gợi ra trong sự biến phân chất liệu của bất kỳ cõi nào thành:

a. Atomic substance.

Chất nguyên tử.

b. Molecular substance.

Chất phân tử.

c. Elemental essence.

Tinh chất hành khí.

This differentiation is not entirely accurate, and a truer idea of the underlying concept might be conveyed if the word “energy” took the place of “substance and essence.” This third group of Pitris is really not correctly termed Pitris at all. The true lunar Pitris are those of the first and highest group, for they embody one aspect of the intelligent will of Brahma, or of God-in-substance. The third group are literally the lesser Builders, and are blind incoherent forces, subject to the energy emanating from the two higher groups. Occultly these three groups are divided into the following: [783]

Sự biến phân này không hoàn toàn chính xác, và một ý niệm chân xác hơn về khái niệm nền tảng có thể được chuyển đạt nếu thay chữ “chất” và “tinh chất” bằng chữ “năng lượng”. Nhóm Pitris thứ ba này thật ra không được gọi là Pitris cho đúng. Các thái âm tổ phụ chân chính là những vị thuộc nhóm thứ nhất và cao nhất, vì họ hiện thân một phương diện của ý chí thông tuệ của Brahma, hay của Thượng đế-trong-chất. Nhóm thứ ba theo đúng nghĩa là các Nhà Kiến Tạo thứ yếu, và là những lực mù quáng, rời rạc, lệ thuộc vào năng lượng phát ra từ hai nhóm cao hơn. Xét theo huyền bí học, ba nhóm này được phân như sau: [783]

a. The Pitris who see, but touch nor handle not.

Các Pitris biết thấy, nhưng không chạm cũng không nắn.

b. The Pitris who touch but see not.

Các Pitris biết chạm nhưng không thấy.

c. The Pitris who hear but neither see nor touch.

Các Pitris biết nghe nhưng không thấy cũng không chạm.

As they all have the gift of occult hearing, they are characterized as the “Pitris with the open ear”; they work entirely under the influence of the egoic mantram. If these differentiations are studied a great deal may become apparent anent a very important group of deva workers. They are a group who only come into manifestation as a coordinated triplicity in the fourth round in order to provide vehicles for man; the reason for this lies hid in the karma of the seven Logoi, as They energize the fourth, fifth and sixth Hierarchies. In the earlier round in each scheme these three groups attain a certain stage of necessitated growth, and embody the highest evolution of the substance aspect. Only the highest and most perfected of the atoms of substance find their way into the vehicles of man,—those which have been the integral parts of the higher evolutionary forms.

Vì tất cả họ đều có ân tứ thính giác huyền bí, họ được gọi là “các Pitris có tai mở”; họ làm việc hoàn toàn dưới ảnh hưởng của mantram chân ngã. Nếu khảo sát các biệt loại này, nhiều điều có thể hiển lộ liên quan đến một nhóm rất quan trọng các thiên thần công tác. Họ là một nhóm chỉ đến trong biểu lộ như một bộ ba phối kết  ở cuộc tuần hoàn thứ tư để cung ứng các vận cụ cho con người; lý do của điều này ẩn giấu trong nghiệp của bảy Thượng đế, khi Các Ngài tiếp sinh lực cho các Huyền Giai thứ tư, thứ năm và thứ sáu. Trong những cuộc tuần hoàn sớm hơn của mỗi hệ, ba nhóm này đạt tới một giai đoạn tăng trưởng cần thiết, và hiện thân sự tiến hóa cao nhất của phương diện chất liệu. Chỉ những nguyên tử cao nhất và hoàn thiện nhất của chất liệu mới tìm được đường vào các vận cụ của con người,—những nguyên tử đã từng là những bộ phận tích hợp của các hình thức tiến hóa cao hơn.

(g.) The Work of Form-building. This work of form-building proceeds under definite laws, which are the laws of substance itself; the effect is the same for human, planetary and solar vehicles. The different stages might be enumerated as follows:

(g.) Công việc xây dựng hình tướng. Công việc xây dựng hình tướng này diễn ra theo các định luật rõ ràng, vốn là các định luật của chính chất liệu; tác dụng là như nhau đối với các vận cụ của con người, hành tinh và thái dương. Các giai đoạn khác nhau có thể được liệt kê như sau:

1. The Nebulous. The stage wherein the matter of the coming sheath begins to separate itself gradually from the aggregate of plane substance, and to assume a nebulous or milky aspect. This corresponds to the “fire-mist” stage in the formation of a solar system and of a planet. The Pitris of the Mist are then active as one of the many subsidiary groups of the three major groups.

1. Tinh vân. Giai đoạn trong đó chất liệu của vỏ bọc sắp tới bắt đầu tách rời dần khỏi tập hợp chất liệu cõi, và mang một khía cạnh tinh vân hoặc màu sữa. Điều này tương ứng với giai đoạn “sương mù lửa” trong sự hình thành của một hệ mặt trời và của một hành tinh. Các Tổ phụ của Sương mù sau đó hoạt động như một trong nhiều nhóm phụ của ba nhóm chính.

2. The Inchoate. Condensation has set in but all is as yet inchoate, and the condition is chaotic; there is no definite form. “The Pitris of the Chaos” hold sway, and are characterised by excessive energy, and violent activity, for the greater the condensation prior to co-ordination [784] the more terrific are the effects of activity. This is true of Gods, of men, and of atoms.

2. Sơ khai. Sự ngưng tụ đã bắt đầu nhưng tất cả vẫn còn sơ khai, và tình trạng là hỗn loạn; không có hình tướng rõ ràng. “Các Tổ phụ của Hỗn loạn” ngự trị, và được đặc trưng bởi năng lượng dư thừa, và hoạt động dữ dội, vì sự ngưng tụ càng lớn trước khi phối hợp  thì tác dụng của hoạt động càng khủng khiếp. Điều này đúng với Các Thượng đế, với con người, và với các nguyên tử.

3. The Fiery. The internal energy of the rapidly congregating atoms and their effect upon each other produces an increase of heat, and a consequent demonstration of the spheroidal form, so that the vehicle of all entities is seen to be fundamentally a sphere, rolling upon itself and attracting and repulsing other spheres. “Pitris of the Fiery Spheres” add their labours to those of the earlier two and a very definite stage is reached. The lunar Pitris on every scheme, and throughout the system, are literally the active agents in the building of the dense physical body of the Logos; they energise the substance of the three planes in the three worlds, the mental, the astral and the dense physical planes of the system. This needs much pondering upon.

3. Rực lửa. Năng lượng bên trong của các nguyên tử đang tập hợp nhanh chóng và tác dụng của chúng lên nhau tạo ra sự gia tăng nhiệt, và một sự biểu lộ do đó của hình cầu, để vận cụ của tất cả các thực thể được thấy về cơ bản là một hình cầu, lăn trên chính nó và thu hút và đẩy lùi các hình cầu khác. “Các Tổ phụ của các Hình cầu Rực lửa” thêm công sức của họ vào công sức của hai nhóm trước đó và một giai đoạn rất rõ ràng đã đạt được. Các thái âm tổ phụ trên mọi hệ hành tinh, và trong toàn bộ hệ thống, thực sự là các tác nhân tích cực trong việc xây dựng thể xác đậm đặc của Thượng đế; họ tiếp năng lượng cho chất liệu của ba cõi trong ba cõi giới, các cõi trí, cảm dục và hồng trần đậm đặc của hệ thống. Điều này cần được suy ngẫm nhiều.

4. The Watery. The ball or sphere of gaseous fiery essence becomes still more condensed and liquefied; it begins to solidify on its outer surface and the ring-pass-not of each sheath is more clearly defined. The heat of the sphere becomes increased and is centralised at the core or heart of the sphere where it produces that pulsation at the centre which characterises the sun, the planet, and the various vehicles of all incarnating entities. It is an analogous stage to that of the awakening of life in the foetus during the prenatal stage, and this analogy can be seen working out in the form-building which proceeds on every plane. This stage marks the co-ordination of the work of the two higher groups of lunar Pitris, and the “Pitris of the Dual Heat” are now intelligently co-operating. The heart and brain of the substance of the slowly evolving form are linked. The student will find it interesting to trace the analogy of this, the watery stage, to the place the astral plane holds in the planetary and systemic body, and the alliance between mind and heart which is hidden in the term “kama-manas.” One [785] of the profoundest occult mysteries will be revealed to the consciousness of man when he has solved the secret of the building of his astral vehicle, and the forming of the link which exists between that sheath and the astral light in its totality on the astral plane.

4. Thủy. Quả cầu hoặc hình cầu của tinh chất khí rực lửa trở nên ngưng tụ và hóa lỏng hơn nữa; nó bắt đầu đông đặc trên bề mặt bên ngoài của nó và vòng-giới-hạn của mỗi vỏ bọc được xác định rõ ràng hơn. Nhiệt của hình cầu tăng lên và được tập trung ở lõi hoặc tim của hình cầu nơi nó tạo ra sự đập ở trung tâm vốn đặc trưng cho mặt trời, hành tinh, và các vận cụ khác nhau của tất cả các thực thể đang nhập thể. Đó là một giai đoạn tương tự như giai đoạn thức tỉnh của sự sống trong bào thai trong giai đoạn tiền sản, và sự tương đồng này có thể được thấy diễn ra trong việc xây dựng hình tướng vốn diễn ra trên mọi cõi. Giai đoạn này đánh dấu sự phối hợp công việc của hai nhóm thái âm tổ phụ cao hơn, và “Các Tổ phụ của Nhiệt Kép” hiện đang hợp tác một cách thông minh. Tim và bộ não của chất liệu của hình tướng đang tiến hoá chậm rãi được liên kết. Đạo sinh sẽ thấy thú vị khi theo dõi sự tương đồng của điều này, giai đoạn thủy, với vị trí mà cõi cảm dục giữ trong thể hành tinh và hệ thống, và sự liên minh giữa thể trí và tim vốn được ẩn giấu trong thuật ngữ “trí-cảm.” Một  trong những bí ẩn huyền bí sâu sắc nhất sẽ được tiết lộ cho tâm thức của con người khi y đã giải được bí mật của việc xây dựng vận cụ cảm dục của mình, và việc hình thành mối liên kết tồn tại giữa vỏ bọc đó và ánh sáng cảm dục trong toàn bộ của nó trên cõi cảm dục.

5. The Etheric. The stage is not to be confined to the building of the physical body in its etheric division, for its counterpart is found on all the planes with which man is concerned in the three worlds. The condensation and the solidification of the material has proceeded till now the three groups of Pitris form a unity in work. The rhythm set up has been established and the work synchronised. The lesser builders work systematically and the law of Karma is demonstrating actively, for it should be remembered that it is the inherent karma, colouring, or vibratory response of the substance itself which is the selective reaction to the egoic note. Only that substance which has (through past utilisation) been keyed to a certain note and vibration will respond to the mantram and to the subsequent vibrations issuing from the permanent atom. This stage is one of great importance, for it marks the vital circulation throughout the entire vehicle of a particular type of force. This can be clearly seen in relation to the etheric body which circulates the vital force or prana of the sun. A similar linking up with the force concerned is to be seen on the astral and the mental planes. “The Pitris of the Triple Heat” are now working synthetically, and the brain, the heart and the lower centres are co-ordinated. The lower and the higher are linked, and the channels are unimpeded so that the circulation of the triple energy is possible. This is true of the form building of all entities, macrocosmic and microcosmic. It is marked by the active co-operation of another group of Pitris, termed “The Pitris of Vitality” in connection with the others. Group after group co-operate, [786] for the three main bodies are distributed among many lesser.

5. Dĩ thái. Giai đoạn này không chỉ giới hạn trong việc xây dựng thể xác trong phần dĩ thái của nó, vì đối phần của nó được tìm thấy trên tất cả các cõi mà con người có liên quan trong ba cõi giới. Sự ngưng tụ và đông đặc của vật chất đã tiến hành cho đến bây giờ ba nhóm Tổ phụ tạo thành một sự hợp nhất trong công việc. Nhịp điệu được thiết lập đã được thiết lập và công việc được đồng bộ hóa. Các nhà xây dựng nhỏ hơn làm việc một cách có hệ thống và định luật Nghiệp quả đang biểu lộ một cách tích cực, vì cần nhớ rằng chính là nghiệp quả cố hữu, màu sắc, hoặc sự đáp ứng rung động của chính chất liệu là phản ứng chọn lọc đối với âm điệu chân ngã. Chỉ có chất liệu đó vốn đã (thông qua việc sử dụng trong quá khứ) được điều chỉnh theo một âm điệu và rung động nhất định mới đáp ứng với mantram và với các rung động tiếp theo phát ra từ nguyên tử trường tồn. Giai đoạn này có tầm quan trọng lớn, vì nó đánh dấu sự lưu thông sinh lực trong toàn bộ vận cụ của một loại mãnh lực cụ thể. Điều này có thể được thấy rõ ràng liên quan đến thể dĩ thái vốn lưu thông sinh lực hoặc prana của mặt trời. Một sự liên kết tương tự với mãnh lực liên quan được thấy trên các cõi cảm dục và trí tuệ. “Các Tổ phụ của Nhiệt Tam phân” hiện đang làm việc một cách tổng hợp, và bộ não, tim và các trung tâm thấp hơn được phối hợp. Cái thấp hơn và cái cao hơn được liên kết, và các kênh không bị cản trở để sự lưu thông của năng lượng tam phân là có thể. Điều này đúng với việc xây dựng hình tướng của tất cả các thực thể, đại thiên địa và tiểu thiên địa. Nó được đánh dấu bởi sự hợp tác tích cực của một nhóm Tổ phụ khác, được gọi là “Các Tổ phụ của Sinh lực” liên quan đến những nhóm khác. Nhóm này hợp tác với nhóm khác,  vì ba thể chính được phân phối cho nhiều thể nhỏ hơn.

6. The Solid. This marks the final stage in actual form building, and signifies the moment wherein the work is done as regards the aggregating and shaping of substance. The greater part of the work of the lunar Pitris stands now accomplished. The word “solid” refers not solely to the lowest objective manifestation, for a solid form may be ethereal, and only the stage of evolution of the entity involved will reveal its relative significance.

6. Rắn. Điều này đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong việc xây dựng hình tướng thực tế, và biểu thị thời điểm trong đó công việc được thực hiện liên quan đến việc tập hợp và định hình chất liệu. Phần lớn công việc của các thái âm tổ phụ bây giờ đã hoàn thành. Từ “rắn” không chỉ đề cập đến sự biểu lộ khách quan thấp nhất, vì một hình tướng rắn có thể là dĩ thái, và chỉ có giai đoạn tiến hoá của thực thể liên quan mới tiết lộ thâm nghĩa tương đối của nó.

All that has been here laid down as to the progressive stages of form construction on every plane is true of all forms in all systems and schemes, and is true of all thought-form building. Man is constructing thoughtforms all the time, and is following unconsciously the same method as his Ego pursues in building his bodies, as the Logos follows in building His system, and as a planetary Logos uses in constructing His scheme.

Tất cả những gì đã được trình bày ở đây về các giai đoạn tiến triển của việc xây dựng hình tướng trên mọi cõi đều đúng với tất cả các hình tướng trong tất cả các hệ thống và hệ hành tinh, và đúng với tất cả việc xây dựng hình tư tưởng. Con người đang xây dựng các hình tư tưởng mọi lúc, và đang theo một cách vô thức cùng một phương pháp như Chân Ngã của y theo đuổi trong việc xây dựng các thể của y, như Thượng đế theo đuổi trong việc xây dựng Hệ thống của Ngài, và như một Hành Tinh Thượng đế sử dụng trong việc xây dựng Hệ hành tinh của Ngài.

A man speaks, and a very diversified mantram is the result. The energy thus generated swings into activity a multitude of little lives which proceed to build a form for his thought; they pursue analogous stages to those just outlined. At this time, man sets up these mantric vibrations unconsciously, and in ignorance of the laws of sound and of their effect. The occult work that he is carrying on is thus unknown to him. Later he will speak less, know more, and construct more accurate forms, which will produce powerful effects on physical levels. Thus eventually in distant cycles will the world be “saved,” and not just a unit here and there.

Một người nói, và một mantram rất đa dạng là kết quả. Năng lượng do đó được tạo ra đưa vào hoạt động một vô số các sự sống nhỏ vốn tiến hành xây dựng một hình tướng cho tư tưởng của y; chúng theo các giai đoạn tương tự như những gì vừa được phác thảo. Vào thời điểm này, con người thiết lập các rung động mantram này một cách vô thức, và trong sự vô minh về các định luật của âm thanh và về tác dụng của chúng. Công việc huyền bí mà y đang thực hiện do đó không được y biết đến. Sau này y sẽ nói ít hơn, biết nhiều hơn, và xây dựng các hình tướng chính xác hơn, vốn sẽ tạo ra các tác dụng mạnh mẽ trên các cấp độ vật lý. Như vậy cuối cùng trong các chu kỳ xa xôi, thế giới sẽ được “cứu rỗi,” và không chỉ là một đơn vị ở đây và ở đó.

In connection with this building of man’s sheaths certain interesting points of manifestation occur which might be dealt with now, leaving the student to work out the correspondences in relation to the system and the planet, and giving only general indications which may be of use to him in his conclusions. [787]

Liên quan đến việc xây dựng các vỏ bọc của con người, một số điểm biểu hiện thú vị xảy ra mà có thể được đề cập đến bây giờ, để đạo sinh tự tìm ra các sự tương ứng liên quan đến hệ thống và hành tinh, và chỉ đưa ra các chỉ dẫn chung có thể hữu ích cho y trong các kết luận của mình.

In all the work of form-building, certain very vital occasions occur which concern the Ego even more than the sheaths themselves, though the reflex action between the lower personal self and the higher is so close as to be well nigh inseparable.

Trong tất cả công việc xây dựng hình tướng, một số dịp rất quan trọng xảy ra vốn liên quan đến Chân Ngã thậm chí nhiều hơn cả chính các vỏ bọc, mặc dù phản ứng phản xạ giữa phàm ngã thấp hơn và chân ngã rất gần gũi đến mức gần như không thể tách rời.

The moment wherein the Ego appropriates the sheath. This takes place only after the fourth spirilla is beginning to vibrate, and the period differs according to the power of the ego over the lower self. In connection with the dense physical vehicle, an analogy can be seen when the Ego ceases from his work of overshadowing, and at some period between the fourth and seventh year makes his contact with the physical brain of the child. A similar occurrence takes place in connection with the etheric vehicle, the astral, and the mental.

Thời điểm trong đó Chân Ngã chiếm hữu vỏ bọc. Điều này chỉ diễn ra sau khi spirilla thứ tư bắt đầu rung động, và khoảng thời gian khác nhau tùy thuộc vào sức mạnh của chân ngã đối với phàm ngã. Liên quan đến vận cụ thể xác đậm đặc, một sự tương đồng có thể được thấy khi Chân Ngã ngừng công việc phủ bóng của nó, và vào một thời điểm nào đó giữa năm thứ tư và thứ bảy, nó tạo ra sự tiếp xúc với bộ não thể xác của đứa trẻ. Một sự kiện tương tự diễn ra liên quan đến vận cụ dĩ thái, cảm dục, và trí tuệ.

The moment wherein the energy of the Ego is transmitted from one sheath to a lower one. It is often overlooked that the path of incarnation is not a quick one, but that the Ego descends very slowly and takes possession gradually of his vehicles; the less evolved the man, the slower is the process. We are dealing here with the period of time which transpires after the Ego has made the first move towards descent, and not with the time which elapses between two incarnations. This work of passing on to a plane for purposes of incarnation marks a definite crisis, and is characterised by the exertion of the will in sacrifice, the appropriation of the substance in love, and its energising into activity.

Thời điểm trong đó năng lượng của Chân Ngã được truyền từ một vỏ bọc sang một vỏ bọc thấp hơn. Thường bị bỏ qua rằng con đường nhập thể không phải là một con đường nhanh chóng, mà Chân Ngã giáng xuống rất chậm và chiếm hữu dần dần các vận cụ của nó; con người càng ít tiến hoá, quá trình càng chậm. Chúng ta đang đề cập ở đây đến khoảng thời gian diễn ra sau khi Chân Ngã đã thực hiện bước đầu tiên hướng tới sự giáng xuống, và không phải với thời gian trôi qua giữa hai lần nhập thể. Công việc chuyển sang một cõi vì mục đích nhập thể này đánh dấu một cuộc khủng hoảng rõ ràng, và được đặc trưng bởi sự nỗ lực của ý chí trong sự hi sinh, sự chiếm hữu chất liệu trong tình thương, và việc tiếp năng lượng cho nó để hoạt động.

The moment wherein the particular type of force with which any particular sheath is energised is appropriated. This brings the sheath concerned:

Thời điểm trong đó loại mãnh lực cụ thể mà bất kỳ vỏ bọc cụ thể nào được tiếp năng lượng được chiếm hữu. Điều này đưa vỏ bọc liên quan:

a. Under the influence of the egoic ray,

a. Dưới ảnh hưởng của cung chân ngã,

b. Under the influence of a particular subray of the egoic ray,

b. Dưới ảnh hưởng của một cung phụ cụ thể của cung chân ngã,

c. And through that influence,— [788]

c. Và thông qua ảnh hưởng đó,—

Under certain astrological influences,

Dưới một số ảnh hưởng chiêm tinh nhất định,

Under certain planetary radiations,

Dưới một số bức xạ hành tinh nhất định,

Under the influences of certain force currents, emanating from certain constellations.

Dưới ảnh hưởng của một số dòng mãnh lực nhất định, phát ra từ một số chòm sao nhất định.

These three events have a very interesting analogy in connection with the work of the Logos in the construction of His physical body, the solar system, and also in certain correspondences which can be seen embodied in facts dealt with at the first three Initiations.

Ba sự kiện này có một sự tương đồng rất thú vị liên quan đến công việc của Thượng đế trong việc xây dựng thể xác của Ngài, hệ mặt trời, và cả trong một số sự tương ứng có thể được thấy thể hiện trong các sự thật được đề cập đến ở ba Lần Điểm Đạo đầu tiên.

From the standpoint of the lower self, the two most vital moments in the work of the reincarnating Ego, are those in which the mental unit is re-energised into cyclic activity, and in which the etheric body is vitalised. It concerns that which links the centre at the base of the spine with a certain point within the physical brain via the spleen. This is dealing purely with the physiological key.

Từ quan điểm của phàm ngã, hai thời điểm quan trọng nhất trong công việc của Chân Ngã tái nhập thể, là những thời điểm trong đó đơn vị hạ trí được tái tiếp năng lượng vào hoạt động chu kỳ, và trong đó thể dĩ thái được tiếp sinh lực. Nó liên quan đến cái liên kết trung tâm ở đáy cột sống với một điểm nhất định bên trong bộ não thể xác thông qua lá lách. Điều này hoàn toàn đề cập đến chìa khóa sinh lý học.

We might now touch upon a very interesting point concerning the dense physical body, dealing therefore with that which is not considered a principle either in the macrocosm or the microcosm. As we know, man is essentially mental man, and astral man; then the two take to themselves an etheric sheath for purposes of objective work. That is the true lower man, these two in the etheric body. But later—in order to know even on the lowest plane of all—man takes to himself a coat of skin, as the Bible expresses it, and puts on (over his etheric body) that outer illusory form we know so well. It is his lowest point of objectivity and his direct “imprisoning.” This appropriation of a dense sheath by the Ego is subject to a very peculiar piece of karma connected with the four Kumaras, or Heavenly Men, Who form the logoic Quaternary. In the schemes which concern the logoic Triad (or those of the three major Rays or Heavenly Men) dense physical incarnation is not the appointed [789] lot, and man functions in his lowest manifestation in etheric matter.

Bây giờ chúng ta có thể đề cập đến một điểm rất thú vị liên quan đến thể xác đậm đặc, do đó đề cập đến cái không được coi là một nguyên khí trong đại thiên địa hoặc tiểu thiên địa. Như chúng ta biết, con người về cơ bản là con người trí tuệ, và con người cảm dục; sau đó cả hai lấy cho mình một vỏ bọc dĩ thái vì mục đích công việc khách quan. Đó là phàm nhân thực sự, hai cái này trong thể dĩ thái. Nhưng sau đó—để biết ngay cả trên cõi thấp nhất của tất cả—con người lấy cho mình một lớp da, như Kinh thánh diễn tả, và mặc lên (trên thể dĩ thái của y) hình tướng ảo ảnh bên ngoài đó mà chúng ta biết rất rõ. Đó là điểm khách quan thấp nhất của y và sự “giam cầm” trực tiếp của y. Sự chiếm hữu một vỏ bọc đậm đặc này bởi Chân Ngã phải chịu một phần nghiệp quả rất đặc biệt liên quan đến bốn vị Kumara, hoặc các Đấng Thiên Nhân, vốn tạo thành Tứ phân Thượng đế. Trong các hệ hành tinh liên quan đến Tam nguyên Thượng đế (hoặc của ba Cung chính hoặc các Đấng Thiên Nhân) sự nhập thể thể xác đậm đặc không phải là  số phận được chỉ định, và con người hoạt động trong sự biểu lộ thấp nhất của y trong chất liệu dĩ thái.

This appropriation of the lowest body is distinguished in several ways from the approach to the other sheaths. For one thing, there is no permanent atom to be vitalised. The physical plane is a complete reflection of the mental; the lowest three subplanes reflect the abstract subplanes and the four etheric subplanes reflect the four mental concrete planes. The manifestation of the Ego on the mental plane (or the causal body) is not the result of energy emanating from the permanent atoms as a nucleus of force but is the result of different forces, and primarily of group force. It is predominantly marked by an act of an exterior force, and is lost in the mysteries of planetary karma. This is equally true of man’s lowest manifestations. It is the result of reflex action, and is based on the force of the group of etheric centres through which man (as an aggregate of lives) is functioning. The activity of these centres sets up an answering vibration in the three lowest subplanes of the physical plane, and the interaction between the two causes an adherence to, or aggregation around, the etheric body of particles of what we erroneously term “dense substance.” This type of energised substance is swept up in the vortex of force currents issuing from the centres and cannot escape. These units of force, therefore, pile up according to the energy direction around and within the etheric sheath till it is hidden and concealed, yet interpenetrating. An inexorable law, the law of matter itself, brings this about, and only those can escape the effect of the vitality of their own centres who are definitely “Lords of Yoga” and can—through the conscious will of their own being—escape the compelling force of the Law of Attraction working on the lowest cosmic physical subplane.

Sự chiếm hữu thể thấp nhất này được phân biệt theo nhiều cách so với việc tiếp cận các vỏ bọc khác. Một là, không có nguyên tử trường tồn nào được tiếp sinh lực. Cõi hồng trần là một sự phản ánh hoàn toàn của cõi trí; ba cõi phụ thấp nhất phản ánh các cõi phụ trừu tượng và bốn cõi phụ dĩ thái phản ánh bốn cõi trí cụ thể. Sự biểu lộ của Chân Ngã trên cõi trí (hoặc thể nguyên nhân) không phải là kết quả của năng lượng phát ra từ các nguyên tử trường tồn như một hạt nhân của mãnh lực mà là kết quả của các mãnh lực khác nhau, và chủ yếu là của mãnh lực nhóm. Nó chủ yếu được đánh dấu bởi một hành động của một mãnh lực bên ngoài, và bị mất trong các bí ẩn của nghiệp quả hành tinh. Điều này cũng đúng với các sự biểu lộ thấp nhất của con người. Nó là kết quả của phản ứng phản xạ, và dựa trên mãnh lực của nhóm các trung tâm dĩ thái mà qua đó con người (như một tập hợp các sự sống) đang hoạt động. Hoạt động của các trung tâm này thiết lập một sự rung động đáp ứng trong ba cõi phụ thấp nhất của cõi hồng trần, và sự tương tác giữa hai điều này gây ra một sự bám dính vào, hoặc sự tập hợp xung quanh, thể dĩ thái của các hạt của cái mà chúng ta gọi một cách sai lầm là “chất liệu đậm đặc.” Loại chất liệu được tiếp năng lượng này bị cuốn vào xoáy của các dòng mãnh lực phát ra từ các trung tâm và không thể thoát ra. Do đó, các đơn vị mãnh lực này, chồng chất lên theo hướng năng lượng xung quanh và bên trong vỏ bọc dĩ thái cho đến khi nó bị che giấu và che đậy, nhưng vẫn thâm nhập lẫn nhau. Một định luật không thể lay chuyển, định luật của chính vật chất, mang lại điều này, và chỉ những người chắc chắn là “Các Chúa Tể của Yoga” mới có thể thoát khỏi tác dụng của sinh lực của các trung tâm của chính họ và có thể—thông qua ý chí có ý thức của bản thể của chính họ—thoát khỏi mãnh lực bắt buộc của Định luật Hấp dẫn hoạt động trên cõi phụ vật lý vũ trụ thấp nhất.

An interesting analogy (accurate on general lines [790] though in detail not so apparent) exists between the building of the antaskarana on mental levels between the mental unit and the manasic permanent atom (whereby the Path of Liberation is travelled, and man set free) and the opening up of the channel between the centre at the base of the spine and the brain and thence to the head centre. Through this latter channel man escapes out of the dense physical body, and continuity of consciousness (between the astral and the physical planes) is reached. In the one case, through right direction of force, the etheric web no longer forms a barrier; it is destroyed and the man is fully conscious in the physical brain of what transpires on the astral plane. In the other case, the causal body also is eventually destroyed through the right direction of force. We will not here take up the specific work of building upon the scaffolding of the etheric body the dense physical form. It has been sufficiently dealt with in other books. We will only want to touch upon two more points which are of interest in this consideration of the work of the lunar Pitris in building man’s body.

Một sự tương đồng thú vị (chính xác trên các đường nét chung  mặc dù chi tiết không rõ ràng như vậy) tồn tại giữa việc xây dựng antaskarana trên các cấp độ trí tuệ giữa đơn vị hạ trí và nguyên tử trường tồn manas (nhờ đó Con Đường Giải Thoát được đi, và con người được giải thoát) và việc mở ra kênh giữa trung tâm ở đáy cột sống và bộ não và từ đó đến luân xa đầu. Thông qua kênh sau này, con người thoát ra khỏi thể xác đậm đặc, và sự liên tục của tâm thức (giữa các cõi cảm dục và hồng trần) đạt được. Trong một trường hợp, thông qua sự định hướng đúng đắn của mãnh lực, mạng lưới dĩ thái không còn tạo thành một rào cản; nó bị phá hủy và con người hoàn toàn có ý thức trong bộ não thể xác về những gì diễn ra trên cõi cảm dục. Trong trường hợp khác, thể nguyên nhân cũng cuối cùng bị phá hủy thông qua sự định hướng đúng đắn của mãnh lực. Chúng ta sẽ không đề cập ở đây đến công việc cụ thể của việc xây dựng trên giàn giáo của thể dĩ thái hình tướng thể xác đậm đặc. Nó đã được đề cập đầy đủ trong các cuốn sách khác. Chúng ta sẽ chỉ muốn đề cập đến hai điểm nữa vốn thú vị trong việc xem xét công việc của các thái âm tổ phụ trong việc xây dựng thể của con người.

In connection with the building of the dense body, it should be stated that it appears as a human form, much in the nature of a cross within the ovoid of the other spheres. It is notably of a fivefold nature:

Liên quan đến việc xây dựng thể đậm đặc, cần nói rằng nó xuất hiện như một hình người, rất giống với một cây thập giá bên trong hình trứng của các hình cầu khác. Nó đáng chú ý là có bản chất ngũ phân:

Head.

Đầu.

Two Arms.

Hai Cánh tay.

Two Legs.

Hai Chân.

According to the position assumed by the man, he is seen as a symbol of the cross and is then fourfold (the two legs being considered as one lower limb) or, if separated, as fivefold, and has been then considered as the symbol of the five-pointed star. This fivefold nature of the dense physical body is brought about through the fact that only five centres primarily are really active in average man [791] up to the third Initiation; all are there, and all are vitalised, but only five in this fivefold normal evolution are dominant. The force emanating from these five, therefore, sweeps the dense substance into a close aggregation. As two of the centres are not functioning as actively as the other five, an ovoid is not formed as in the case of the etheric, astral and mental sheaths. The fivefold shape of physical man is the result of the fivefold direction of force currents from five centres.

Tùy thuộc vào tư thế mà con người đảm nhận, y được xem như một biểu tượng của cây thập giá và sau đó là tứ phân (hai chân được coi là một chi dưới) hoặc, nếu tách rời, là ngũ phân, và sau đó đã được coi là biểu tượng của ngôi sao năm cánh. Bản chất ngũ phân này của thể xác đậm đặc được tạo ra bởi sự thật rằng chỉ có năm trung tâm chủ yếu thực sự hoạt động ở con người trung bình  cho đến Lần Điểm Đạo thứ ba; tất cả đều ở đó, và tất cả đều được tiếp sinh lực, nhưng chỉ có năm trong sự tiến hoá ngũ phân bình thường này là chiếm ưu thế. Do đó, mãnh lực phát ra từ năm trung tâm này, cuốn chất liệu đậm đặc vào một sự tập hợp chặt chẽ. Vì hai trong số các trung tâm không hoạt động tích cực như năm trung tâm kia, một hình trứng không được hình thành như trong trường hợp của các vỏ bọc dĩ thái, cảm dục và trí tuệ. Hình dạng ngũ phân của con người thể xác là kết quả của sự định hướng ngũ phân của các dòng mãnh lực từ năm trung tâm.

It might be interesting also to point out that the interaction of the energy of the solar Pitris and of the lunar Pitris produces a very definite effect upon the lower group of lunar Pitris, and is one of the means whereby they will eventually reach the stage at which the solar Pitris are. This (if fully realised by man) will bring him to a very careful control of his sheaths, and to a close attention to the direction in which his force or energy is turned. He is responsible for the work of aiding in the evolution of substance, being himself a manasaputra.

Cũng có thể thú vị khi chỉ ra rằng sự tương tác của năng lượng của các thái dương tổ phụ và của các thái âm tổ phụ tạo ra một tác dụng rất rõ ràng đối với nhóm thái âm tổ phụ thấp hơn, và là một trong những phương tiện nhờ đó chúng cuối cùng sẽ đạt đến giai đoạn mà các thái dương tổ phụ đang ở. Điều này (nếu được con người nhận ra hoàn toàn) sẽ đưa y đến một sự kiểm soát rất cẩn thận các vỏ bọc của mình, và đến một sự chú ý chặt chẽ đến hướng mà mãnh lực hoặc năng lượng của y được quay. Y chịu trách nhiệm về công việc hỗ trợ trong sự tiến hoá của chất liệu, bản thân y là một manasaputra.

[Commentary S7S5]

(h.) Incarnation and Karma. In resuming our consideration of the process pursued by the reincarnating Ego, it is necessary to point out that the entire subject radically concerns energy, and that according to the place in evolution of the unit of force involved, so will the length of time required for the process be brief, or the reverse. In the early stages, the initiatory impulse is heavy and slow, and the matter required for the sheaths is of a correspondingly “low” grade, that is, it is of low vibratory capacity, and the time elapsing between the first vibration outwards on the mental plane, and the coordination of the dense physical body is a long one. Later on, the vibration becomes more powerful and the effects therefore are more rapidly felt. At the close of evolution, when the human unit is upon the Path and consciously controlling his destiny, and working off [792] karma, the intervals intervening between two incarnations are brief or not as the man may choose in the interests of the work to be done, and according to his intention to achieve liberation from form. It must also be remembered that as the evolutionary process proceeds, the egoic activity calls out response not only from substance in the three worlds, but also from the formless levels of the system. The response will be felt finally on monadic levels. Then, after a moment of equilibrium, the effect of the rhythm is felt entirely on the higher planes, and leaves the lower.

(h.) Nhập thể và Nghiệp quả. Khi tiếp tục xem xét quá trình được Chân Ngã tái nhập thể theo đuổi, cần chỉ ra rằng toàn bộ chủ đề liên quan một cách cơ bản đến năng lượng, và rằng tùy thuộc vào vị trí trong sự tiến hoá của đơn vị mãnh lực liên quan, thời gian cần thiết cho quá trình sẽ ngắn, hoặc ngược lại. Trong các giai đoạn đầu, xung động khởi đầu nặng nề và chậm chạp, và vật chất cần thiết cho các vỏ bọc có cấp độ “thấp” tương ứng, nghĩa là, nó có khả năng rung động thấp, và thời gian trôi qua giữa rung động đầu tiên ra ngoài trên cõi trí, và sự phối hợp của thể xác đậm đặc là một thời gian dài. Sau này, rung động trở nên mạnh mẽ hơn và do đó các tác dụng được cảm nhận nhanh hơn. Vào cuối sự tiến hoá, khi đơn vị con người đang trên Thánh Đạo và có ý thức kiểm soát vận mệnh của mình, và đang hóa giải  nghiệp quả, các khoảng thời gian xen kẽ giữa hai lần nhập thể là ngắn hoặc không như con người có thể chọn vì lợi ích của công việc phải làm, và theo ý định của y để đạt được sự giải thoát khỏi hình tướng. Cũng phải nhớ rằng khi quá trình tiến hoá diễn ra, hoạt động chân ngã không chỉ gọi sự đáp ứng từ chất liệu trong ba cõi giới, mà còn từ các cấp độ vô hình của hệ thống. Sự đáp ứng cuối cùng sẽ được cảm nhận trên các cấp độ chân thần. Sau đó, sau một khoảnh khắc cân bằng, tác dụng của nhịp điệu được cảm nhận hoàn toàn trên các cõi cao hơn, và rời khỏi các cõi thấp hơn.

The word “moment” is used here in its occult significance to specify a period of time, and must be considered as a period relative to a day or year of Brahma. One of the secrets of initiation is concerned with the apprehension of cycles, and with their duration, and the following terms have to be appreciated, their duration recognised, and their antithesis (an intervening pralaya) duly considered before a man is considered a true occultist.

Từ “khoảnh khắc” được sử dụng ở đây theo thâm nghĩa huyền bí của nó để chỉ định một khoảng thời gian, và phải được coi là một khoảng thời gian tương đối so với một ngày hoặc một năm của Brahma. Một trong những bí mật của điểm đạo liên quan đến sự nắm bắt các chu kỳ, và với thời gian của chúng, và các thuật ngữ sau đây phải được đánh giá cao, thời gian của chúng được nhận biết, và sự đối lập của chúng (một pralaya xen kẽ) được xem xét đúng đắn trước khi một người được coi là một nhà huyền bí học thực sự.

a. 100 years of Brahma

An occult century. The period of a solar system.

b. One year of Brahma

The period of seven chains, where the seven planetary schemes are concerned.

c. One week of Brahma

The period of seven rounds in one scheme. It has a chain significance.

d. One day of Brahma

The occult period of a round.

e. One hour of Brahma

Concerns interchain affairs.

f. One Brahmic minute

Concerns the planetary centres, and therefore egoic groups.

g. One Brahmic moment

Concerns an egoic group, and its relation to the whole.

These are the greater periods of time, and when their significance is comprehended, much that is now obscure [793] will be revealed. As yet, it is only to initiates that the true figures are given, the figures in theSecret Doctrine, such as the 100 years of Brahma, strike the general average but it must be ever remembered that in considering the figures where a scheme, for instance, is concerned, much latitude has to be allowed for individual planetary karma, and idiosyncrasy.

Đây là các khoảng thời gian lớn hơn, và khi thâm nghĩa của chúng được thấu hiểu, nhiều điều hiện đang tối tăm  sẽ được tiết lộ. Cho đến nay, chỉ có các điểm đạo đồ mới được cung cấp các con số thực sự, các con số trong Giáo Lý Bí Nhiệm, chẳng hạn như 100 năm của Brahma, đưa ra mức trung bình chung nhưng phải luôn nhớ rằng khi xem xét các con số nơi một hệ hành tinh, chẳng hạn, có liên quan, phải cho phép nhiều sự linh hoạt đối với nghiệp quả hành tinh cá nhân, và đặc tính riêng.

The following points are worthy of consideration when upon this subject, and deal with some interesting factors.

Các điểm sau đây đáng được xem xét khi đề cập đến chủ đề này, và đề cập đến một số yếu tố thú vị.

All the planetary Rishis are not equally “long-lived,” in the occult sense of the term, and the seven planetary Logoi of the seven sacred planets are at different stages of evolution; Their vibratory response, therefore, differs, producing varying effects in time.

Tất cả các Rishi hành tinh không “sống lâu” như nhau, theo nghĩa huyền bí của thuật ngữ, và bảy Hành Tinh Thượng đế của bảy hành tinh thiêng liêng đang ở các giai đoạn tiến hoá khác nhau; Do đó, sự đáp ứng rung động của Các Ngài khác nhau, tạo ra các tác dụng khác nhau theo thời gian.

The three major planetary schemes (Uranus, Neptune, and Saturn) have not, as yet, received their fullest stimulation, and will not do so until the “energy of the sacred seven” has been transferred to Them. Figures, therefore, as regards their duration and persistence are not in order.

Ba hệ hành tinh chính (Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương, và Sao Thổ) vẫn chưa nhận được sự kích thích đầy đủ nhất của chúng, và sẽ không làm như vậy cho đến khi “năng lượng của bảy vị thiêng liêng” được chuyển giao cho Các Ngài. Do đó, các con số, liên quan đến thời gian và sự tồn tại của chúng không theo thứ tự.

The figures for the planets concerned with the “inner round” differ as to length of time but not as to space location from those of other planets.

Các con số cho các hành tinh liên quan đến “cuộc tuần hoàn bên trong” khác nhau về độ dài thời gian nhưng không khác về vị trí không gian so với các hành tinh khác.

The true figures in connection with any planetary scheme and its occult activity are not ascertainable by the man who cannot be trusted with the significance of the other planetary bodies (of great number) within the solar ring-pass-not. The entire solar sphere is full of such bodies, characterised by the same features as are the seven and the ten, and each of them in some degree has an effect upon the whole. Figures, therefore, cannot be considered as final until the effect of the lesser planetary bodies upon their immediate neighbours is known, and the extent of their planetary radiation has been gauged. There are more than 115 of such bodies to be reckoned with, and all are at varying stages of vibratory [794] impulse. They have definite orbits, they turn upon their axis, they draw their “life” and substance from the sun, but owing to their relative insignificance, they have not yet been considered factors of moment. This attitude of mind will change when etheric vision is a fact, and the reality of the existence of an etheric double of all that is in manifestation will be recognised by scientists. This fact will be demonstrated towards the close of the century, and, during the early part of the next century a revolution in astronomical circles will occur which will result in the study of the “etheric planets.” As these bodies are organs of energy, permeating the dense form, the study of the interaction of solar energy, and the occult “give and take” of planetary bodies will assume a new significance. Certain planetary bodies (both greater and lesser) are “absorbers,” others are “radiators,” while some are in the stage of demonstrating a dual activity, and are being “transmuted.” All these circumstances require to be considered by the initiate who is dealing with cycles.

Các con số thực sự liên quan đến bất kỳ hệ hành tinh nào và hoạt động huyền bí của nó không thể được xác định bởi người không thể được tin tưởng với thâm nghĩa của các thiên thể hành tinh khác (với số lượng lớn) bên trong vòng-giới-hạn thái dương. Toàn bộ khối cầu thái dương đầy những thiên thể như vậy, được đặc trưng bởi các đặc điểm giống như bảy và mười, và mỗi thiên thể trong số chúng ở một mức độ nào đó có tác dụng đối với toàn thể. Do đó, các con số, không thể được coi là cuối cùng cho đến khi tác dụng của các thiên thể hành tinh nhỏ hơn đối với các láng giềng ngay lập tức của chúng được biết, và mức độ bức xạ hành tinh của chúng đã được đo lường. Có hơn 115 thiên thể như vậy cần được tính đến, và tất cả đều ở các giai đoạn xung động rung động khác nhau.  Chúng có quỹ đạo rõ ràng, chúng quay trên trục của chúng, chúng lấy “sự sống” và chất liệu của chúng từ mặt trời, nhưng do sự không đáng kể tương đối của chúng, chúng chưa được coi là các yếu tố quan trọng. Thái độ này sẽ thay đổi khi thị kiến dĩ thái là một sự thật, và thực tại của sự tồn tại của một thể dĩ thái của tất cả những gì đang biểu hiện sẽ được các nhà khoa học nhận biết. Sự thật này sẽ được chứng minh vào cuối thế kỷ này, và, trong phần đầu của thế kỷ tiếp theo, một cuộc cách mạng trong giới thiên văn học sẽ xảy ra vốn sẽ dẫn đến việc nghiên cứu các “hành tinh dĩ thái.” Vì các thiên thể này là các cơ quan năng lượng, thấm nhuần hình tướng đậm đặc, việc nghiên cứu sự tương tác của năng lượng mặt trời, và sự “cho và nhận” huyền bí của các thiên thể hành tinh sẽ mang một thâm nghĩa mới. Một số thiên thể hành tinh (cả lớn và nhỏ) là “vật hấp thụ,” những thiên thể khác là “vật bức xạ,” trong khi một số đang trong giai đoạn biểu lộ một hoạt động kép, và đang được “chuyển hoá.” Tất cả những hoàn cảnh này cần được xem xét bởi điểm đạo đồ đang đối phó với các chu kỳ.

Figures also must be computed when the effect upon the planets of what are called “asteroids” is known. This is much greater than exoteric science has so far admitted, but the significance of this must eventually be interpreted in terms of energy and on etheric levels.

Các con số cũng phải được tính toán khi tác dụng đối với các hành tinh của cái được gọi là “tiểu hành tinh” được biết. Điều này lớn hơn nhiều so với khoa học ngoại môn đã thừa nhận cho đến nay, nhưng thâm nghĩa của điều này cuối cùng phải được diễn giải theo năng lượng và trên các cấp độ dĩ thái.

Another factor in computation which must also be considered is the effect of the various moons upon any planetary scheme, and the true meaning of the eighth sphere in connection with dense substance. Every moon is occultly a “point of corruption,” or that which is passing off in noxious gases. The transmutation of the form has been proceeded with in their case to a point where all that represents vital energy has left, all solar life has passed off, no remnants of pranic energy remain, and that which is to be seen is simply the decay of the physical body,—a decay which is proceeding on etheric levels as well as [795] on physical. The decay of a moon has as great an evil effect upon all that contacts it as a decaying body on earth has upon its surroundings. It is occultly “offensive.” This will be more truly apprehended when the etheric double of our moon is studied. As the moon becomes small through the process of disintegration, its effect upon the Earth will be correspondingly lessened, and this stage will be paralleled by a consequent greater freedom from evil impulse of the sons of men. Better conditions among the animals will be another result above all else, and the dying out of that which is noxious in the animal kingdom. By the time the seventh round is reached, the evil effect of the then moon (which will have to all intents and purposes practically disappeared) will be finished. During the fifth round, men will discover how to neutralise any remaining effects through scientific achievement and knowledge of the necessary sounds and mantrams, and thus much evil will be offset. The etheric moon is included in these remarks. The greatest effect of moon conditions is to be seen working out predominantly in the terror, and present distress in the animal kingdom.  [cclvii] 58

Một yếu tố khác trong tính toán cũng phải được xem xét là tác dụng của các mặt trăng khác nhau đối với bất kỳ hệ hành tinh nào, và ý nghĩa thực sự của khối cầu thứ tám liên quan đến chất liệu đậm đặc. Mọi mặt trăng về mặt huyền bí là một “điểm của sự thối rữa,” hoặc cái đang thoát ra dưới dạng khí độc. Sự chuyển hoá của hình tướng đã được tiến hành trong trường hợp của chúng đến một điểm mà tất cả những gì đại diện cho năng lượng sinh lực đã rời đi, tất cả sự sống mặt trời đã qua đi, không còn tàn dư của năng lượng prana, và cái có thể được thấy chỉ đơn giản là sự phân hủy của thể xác,—một sự phân hủy đang diễn ra trên các cấp độ dĩ thái cũng như  trên các cấp độ vật lý. Sự phân hủy của một mặt trăng có tác dụng xấu đối với tất cả những gì tiếp xúc với nó cũng như một cơ thể đang phân hủy trên trái đất có đối với môi trường xung quanh nó. Nó “gây khó chịu” về mặt huyền bí. Điều này sẽ được nắm bắt một cách chân thực hơn khi thể dĩ thái của mặt trăng của chúng ta được nghiên cứu. Khi mặt trăng trở nên nhỏ hơn thông qua quá trình tan rã, tác dụng của nó đối với Trái đất sẽ giảm đi tương ứng, và giai đoạn này sẽ song song với một sự tự do lớn hơn do đó khỏi xung động xấu của những người con của nhân loại. Các điều kiện tốt hơn giữa các loài động vật sẽ là một kết quả khác trên hết, và sự chết đi của cái độc hại trong giới động vật. Vào thời điểm cuộc tuần hoàn thứ bảy đạt được, tác dụng xấu của mặt trăng lúc đó (vốn sẽ thực tế đã biến mất) sẽ kết thúc. Trong cuộc tuần hoàn thứ năm, con người sẽ khám phá ra cách trung hòa bất kỳ tác dụng còn lại nào thông qua thành tựu khoa học và tri thức về các âm thanh và mantram cần thiết, và do đó nhiều điều xấu sẽ được hóa giải. Mặt trăng dĩ thái được bao gồm trong những nhận xét này. Tác dụng lớn nhất của các điều kiện mặt trăng được thấy diễn ra một cách nổi bật trong sự kinh hoàng, và sự đau khổ hiện tại trong giới động vật.  [cclvii] 58

A further factor in cyclic computation lies in the effect of the following stars and constellations upon our system and upon any particular scheme within the system:

Một yếu tố nữa trong tính toán chu kỳ nằm ở tác dụng của các ngôi sao và chòm sao sau đây đối với hệ thống của chúng ta và đối với bất kỳ hệ hành tinh cụ thể nào trong hệ thống:

a. The Great Bear.

a. Đại Hùng Tinh.

b. The Little Bear.

b. Tiểu Hùng Tinh.

c. The Pole Star, especially where our planet is concerned.

c. Sao Bắc Đẩu, đặc biệt là nơi hành tinh của chúng ta có liên quan.

d. The Pleiades.

d. Thất Nữ.

e. The constellation of Capricorn.

e. Chòm sao Ma Kết.

f. Draco.

f. Thiên Long.

g. Sirius.

g. Thiên Lang.

h. The various constellations and stars of the Zodiac. [796]

h. Các chòm sao và ngôi sao khác nhau của Hoàng đạo.

The mystery is hidden in esoteric astrology, and until the subject of energy working through the etheric body, of radioactivity, and of the transmutation of all bodies from a lower state into a higher is better comprehended, the true mystery of the “influence” of these various bodies upon each other will remain at its present stage—an unrevealed secret. If the radiatory effect of a human being or of a group of human beings upon each other is as yet practically an unknown thing from the standpoint of practical science, so the occult effect of these greater forms upon each other remains unknown. Science recognises certain effects, leading and tending to the general coherence of the universe, just as the general laws of the social order among men are theoretically apprehended, but the true scientific realisation of energy-radiations emanating from the etheric bodies of all these suns and groups of suns, and from all these planets and groups of planets is little understood. Their atomic activity is recognised, but that department of their being, which finds its correspondence in “animal magnetism” in man, is little realised, while the even more potent factor of the magnetic radiation of their astral bodies is totally uncalculated, nor is it admitted. All these factors have to be allowed for in any consideration of the factor of time and cycles, and the true esoteric knowledge is not to be gained by the study of figures by the lower mind. It comes as the result of the intuition and is stimulated at initiation.

Bí ẩn được ẩn giấu trong chiêm tinh học nội môn, và cho đến khi chủ đề năng lượng hoạt động thông qua thể dĩ thái, của sự phóng xạ, và của sự chuyển hoá của tất cả các thể từ một trạng thái thấp hơn thành một trạng thái cao hơn được thấu hiểu tốt hơn, bí ẩn thực sự của “ảnh hưởng” của các thiên thể khác nhau này lên nhau sẽ vẫn ở giai đoạn hiện tại của nó—một bí mật chưa được tiết lộ. Nếu tác dụng bức xạ của một con người hoặc của một nhóm con người lên nhau vẫn còn thực tế là một điều chưa được biết đến từ quan điểm của khoa học thực tế, thì tác dụng huyền bí của các hình tướng lớn hơn này lên nhau vẫn chưa được biết. Khoa học nhận biết một số tác dụng, dẫn đến và có xu hướng đến sự gắn kết chung của vũ trụ, giống như các quy luật chung của trật tự xã hội giữa con người được nắm bắt về mặt lý thuyết, nhưng sự nhận ra khoa học thực sự của các bức xạ năng lượng phát ra từ các thể dĩ thái của tất cả các mặt trời và các nhóm mặt trời này, và từ tất cả các hành tinh và các nhóm hành tinh này ít được thấu hiểu. Hoạt động nguyên tử của chúng được nhận biết, nhưng bộ phận đó của bản thể của chúng, vốn tìm thấy sự tương ứng của nó trong “từ tính động vật” ở con người, ít được nhận ra, trong khi yếu tố thậm chí còn mạnh mẽ hơn của bức xạ từ tính của các thể cảm dục của chúng hoàn toàn không được tính toán, cũng không được thừa nhận. Tất cả các yếu tố này phải được cho phép trong bất kỳ sự xem xét nào về yếu tố thời gian và các chu kỳ, và tri thức bí truyền thực sự không thể đạt được bằng cách nghiên cứu các con số bằng hạ trí. Nó đến như kết quả của trực giác và được kích thích ở lần điểm đạo.

All that has here been pointed out, can be applied equally (though in a very finite sense) to the ego and its cycles, and also equally, considerations other than the purely “personal” will enter into its time periods. The influence of other groups and of other units, the effects of radiation from other rays, and of certain types of force as yet unrevealed, and thus outside our consideration, are concerned with its appearing, with the duration of its [797] manifestation, its subsequent obscuration, and final pralayic interval. As the Ego has time periods corresponding to those of Brahma, and its “100 years” and its “777 incarnations” have a solar analogy, so equally groups of Egos differ as to time, just as the planetary schemes are analogous in evolution but differ where their periods are concerned. The Law of Periodicity is one, but as it is based upon initial impulse, and upon the rhythmic beat of the “central heart” or the “central sun” of any organism (solar system, planetary scheme, planetary chain, egoic group or individual egoic life) the true nature or “family” of any such organism must be ascertained before cyclic pronouncements can be made with any hope of approximate accuracy. This was why H. P. B. sought to emphasise the need of studying the “astral family” and occult heredity of any person, for in the astral is to be found the clue to the “egoic family or group.” With this clue the student can then ascertain the characteristics of his group on egoic levels, its place among other egoic groups, and eventually his ray or group centre. As time elapses, the true study of heredity and esoteric transmission will open up, and the whole fabric of thought built up around such modern expressions as:

Tất cả những gì đã được chỉ ra ở đây, có thể được áp dụng một cách bình đẳng (mặc dù theo một nghĩa rất hữu hạn) cho chân ngã và các chu kỳ của nó, và cũng như vậy, các cân nhắc khác ngoài những cân nhắc hoàn toàn “cá nhân” sẽ đi vào các khoảng thời gian của nó. Ảnh hưởng của các nhóm khác và của các đơn vị khác, các tác dụng của bức xạ từ các cung khác, và của một số loại mãnh lực chưa được tiết lộ, và do đó nằm ngoài sự xem xét của chúng ta, có liên quan đến sự xuất hiện của nó, với thời gian của  sự biểu hiện của nó, sự che khuất tiếp theo của nó, và khoảng thời gian pralaya cuối cùng. Vì Chân Ngã có các khoảng thời gian tương ứng với các khoảng thời gian của Brahma, và “100 năm” và “777 lần nhập thể” của nó có một sự tương đồng thái dương, thì các nhóm Chân Ngã cũng khác nhau về thời gian, giống như các hệ hành tinh tương tự trong sự tiến hoá nhưng khác nhau về các khoảng thời gian của chúng. Định luật Chu kỳ là một, nhưng vì nó dựa trên xung động ban đầu, và trên nhịp đập nhịp nhàng của “trái tim trung tâm” hoặc “mặt trời trung tâm” của bất kỳ sinh vật nào (hệ mặt trời, hệ hành tinh, dãy hành tinh, nhóm chân ngã hoặc đời sống chân ngã cá nhân) bản chất thực sự hoặc “gia đình” của bất kỳ sinh vật nào như vậy phải được xác định trước khi các tuyên bố chu kỳ có thể được đưa ra với bất kỳ hy vọng nào về sự chính xác gần đúng. Đây là lý do tại sao H. P. B. tìm cách nhấn mạnh sự cần thiết của việc nghiên cứu “gia đình cảm dục” và di truyền huyền bí của bất kỳ người nào, vì trong cảm dục có thể tìm thấy manh mối cho “gia đình hoặc nhóm chân ngã.” Với manh mối này, đạo sinh sau đó có thể xác định các đặc điểm của nhóm của mình trên các cấp độ chân ngã, vị trí của nó giữa các nhóm chân ngã khác, và cuối cùng là cung hoặc trung tâm nhóm của y. Khi thời gian trôi qua, việc nghiên cứu thực sự về di truyền và sự truyền thừa bí truyền sẽ mở ra, và toàn bộ cấu trúc tư tưởng được xây dựng xung quanh các biểu hiện hiện đại như:

a. Consanguinity or blood ties

a. Huyết thống hoặc mối quan hệ máu mủ

b. Physical heredity

b. Di truyền thể xác

c. Atavism

c. Lại giống

d. Intermarriage

d. Hôn nhân khác chủng tộc

e. Family relationships

e. Các mối quan hệ gia đình

f. The family unit

f. Đơn vị gia đình

g. Soul mates

g. Tri kỷ

h. Divorce and many other terms

h. Ly hôn và nhiều thuật ngữ khác

will be shifted to higher planes, and will be recognised and used in connection with soul relationships. They are, as yet, but a faint realisation on the physical plane of [798] certain inner relations, which are seeking outer response. When all aggregates of ideas are interpreted in terms of force and energy, in terms of attraction and repulsion, or the vibratory response of units to each other, and of aggregates of units to other groups, we shall have the clearing up of many problems and a simplification of life. Men will be true to their group affiliations, and the present misgrouping and mismating will gradually, through knowledge, die out.

sẽ được chuyển sang các cõi cao hơn, và sẽ được nhận biết và sử dụng liên quan đến các mối quan hệ linh hồn. Chúng, cho đến nay, chỉ là một sự nhận ra mờ nhạt trên cõi hồng trần của  một số mối quan hệ bên trong nhất định, vốn đang tìm kiếm sự đáp ứng bên ngoài. Khi tất cả các tập hợp ý tưởng được diễn giải theo mãnh lực và năng lượng, theo sự hấp dẫn và đẩy lùi, hoặc sự đáp ứng rung động của các đơn vị với nhau, và của các tập hợp đơn vị với các nhóm khác, chúng ta sẽ có sự làm sáng tỏ nhiều vấn đề và một sự đơn giản hóa cuộc sống. Con người sẽ trung thành với các mối liên kết nhóm của họ, và sự nhóm sai và kết đôi sai hiện tại sẽ dần dần, thông qua tri thức, chết đi.

We can now take up the consideration of karma in its relation to the act of reincarnation. As we are well aware, the law of karma is the most stupendous law of the system and one which it is impossible for the average man in any way to comprehend, for, if traced back along its central root and its many ramifications, one eventually reaches the position where causes antedating the solar system have to be dealt with, and this point of view can only be usefully grasped by a high initiate.

Bây giờ chúng ta có thể tiếp tục xem xét nghiệp quả trong mối quan hệ của nó với hành động tái nhập thể. Như chúng ta đã biết rõ, định luật nghiệp quả là định luật vĩ đại nhất của hệ thống và là một định luật mà người bình thường không thể thấu hiểu được bằng bất kỳ cách nào, vì, nếu được truy ngược lại dọc theo gốc rễ trung tâm của nó và nhiều nhánh của nó, người ta cuối cùng sẽ đến vị trí nơi các nguyên nhân có trước hệ mặt trời phải được đề cập đến, và quan điểm này chỉ có thể được nắm bắt một cách hữu ích bởi một điểm đạo đồ cao.

This great law really concerns, or is based on causes which are inherent in the constitution of matter itself and on the interaction between atomic units whether we use this expression in connection with an atom of substance, a human being, a planetary atom or a solar atom.

Định luật vĩ đại này thực sự liên quan, hoặc dựa trên các nguyên nhân vốn cố hữu trong cấu tạo của chính vật chất và trên sự tương tác giữa các đơn vị nguyên tử cho dù chúng ta sử dụng biểu hiện này liên quan đến một nguyên tử của chất liệu, một con người, một nguyên tử hành tinh hoặc một nguyên tử thái dương.

We might express it also in saying that the will aspect or initiatory impulse is primarily that which produces cause, which is cause itself. It should be remembered ever that cause involves the idea of duality, i.e., that which initiates, and that which is produced simultaneously by the initiation. The two ideas are inseparable, yet nevertheless the second idea in its most abstract connotation must not be considered literally as an effect; true effect involves a third idea. Some appreciation of the problem may be gleaned by a consideration of phenomena which ever involves this dual initiatory cause and its objective effect: [799]

Chúng ta cũng có thể biểu lộ nó khi nói rằng phương diện ý chí hoặc xung động khởi đầu chủ yếu là cái tạo ra nguyên nhân, vốn là chính nguyên nhân. Phải luôn nhớ rằng nguyên nhân bao gồm ý tưởng về nhị nguyên tính, tức là, cái khởi xướng, và cái được tạo ra đồng thời bởi sự khởi xướng. Hai ý tưởng này không thể tách rời, nhưng tuy nhiên ý tưởng thứ hai trong ý nghĩa trừu tượng nhất của nó không được coi theo nghĩa đen là một tác dụng; tác dụng thực sự bao gồm một ý tưởng thứ ba. Một số sự đánh giá cao về vấn đề có thể được thu thập bằng cách xem xét các hiện tượng vốn luôn bao gồm nguyên nhân khởi xướng kép này và tác dụng khách quan của nó:

a. Spirit-matter in dual activity produces the objective universe.

a. Tinh thần-vật chất trong hoạt động kép tạo ra vũ trụ khách quan.

b. Electric fire and fire by friction when brought into contact produce solar fire; it flashes forth from darkness, yet a darkness which is potent with energy.

b. Lửa điện và lửa do ma sát khi tiếp xúc tạo ra Lửa Thái dương; nó lóe lên từ bóng tối, nhưng một bóng tối vốn có tiềm năng với năng lượng.

c. Will-desire is the cause of incarnation; the will-to-be reacting on substance (whose main quality is desire or responsiveness to sensation) produces the forms through which the central Life or Existence seeks expression.

c. Ý chí-ham muốn là nguyên nhân của sự nhập thể; ý chí-là phản ứng với chất liệu (vốn có phẩm tính chính là ham muốn hoặc khả năng đáp ứng với cảm giác) tạo ra các hình tướng mà qua đó Sự sống hoặc Sự tồn tại trung tâm tìm cách biểu lộ.

d. Ideas and thought-matter together produce thoughtforms.

d. Các ý tưởng và chất liệu tư tưởng cùng nhau tạo ra các hình tư tưởng.

If the student considers these points, it will become apparent that it is not possible for him to do more than study the effects produced by the juxtaposition of the pairs of opposites; he cannot dissociate them in his mind and deal with Spirit per se, or with matter per se any more than the atom of substance in man’s physical body can dissociate itself from that body, and consider itself independently of form influences. All atoms are always controlled by the following factors, just as a man in the body of a planetary Logos, and a planetary Logos within His greater Whole will be equally controlled by the same basic principles:

Nếu đạo sinh xem xét các điểm này, sẽ trở nên rõ ràng rằng y không thể làm gì hơn là nghiên cứu các tác dụng được tạo ra bởi sự đặt cạnh nhau của các cặp đối lập; y không thể tách rời chúng trong thể trí của mình và đối phó với Tinh thần tự thân, hoặc với vật chất tự thân cũng như nguyên tử của chất liệu trong thể xác của con người không thể tách rời khỏi thể đó, và tự xem xét mình độc lập với các ảnh hưởng của hình tướng. Tất cả các nguyên tử luôn được kiểm soát bởi các yếu tố sau đây, giống như một người trong thân thể của một Hành Tinh Thượng đế, và một Hành Tinh Thượng đế trong Toàn Thể lớn hơn của Ngài sẽ được kiểm soát một cách bình đẳng bởi các nguyên tắc cơ bản giống nhau:

The influence and quality of the organ or unit in which it finds a place. In the human atom this means his group force or influence.

Ảnh hưởng và phẩm tính của cơ quan hoặc đơn vị mà nó tìm thấy một vị trí. Trong nguyên tử con người, điều này có nghĩa là mãnh lực hoặc ảnh hưởng nhóm của y.

The life influence of the entire physical body of which any atom is a corporate part. In the human atom this means the influence of the particular centre in which his egoic group has a place, and the type of energy which it embodies.

Ảnh hưởng sự sống của toàn bộ thể xác mà bất kỳ nguyên tử nào là một phần hợp thành. Trong nguyên tử con người, điều này có nghĩa là ảnh hưởng của trung tâm cụ thể mà nhóm chân ngã của y có một vị trí, và loại năng lượng mà nó thể hiện.

The life influence of the desire or astral body, the strongest karmic agency which has to be considered. [800] In the human atom, this involves the influence of the three centres in the body of the Heavenly Man which form any specific “force triangle,” and which have much to do with the liberation of groups of Egosfrom manifestation.

Ảnh hưởng sự sống của thể ham muốn hoặc cảm dục, tác nhân nghiệp quả mạnh nhất phải được xem xét.  Trong nguyên tử con người, điều này liên quan đến ảnh hưởng của ba trung tâm trong thân thể của Đấng Thiên Nhân vốn tạo thành bất kỳ “tam giác mãnh lực” cụ thể nào, và vốn có nhiều liên quan đến sự giải thoát của các nhóm Chân Ngã khỏi sự biểu hiện.

The life influences of the mental body, or of that principle which imposes upon the atom the quality of activity in form, which governs the reaction of the atom to its group life, and which enables the quality of its life to be demonstrated. In the human atom this concerns those causes which are incident to a man’s Ray, or literally the influence of the life of the planetary Logos as He functions as a self-conscious Life on His Own plane, as He works out His Own plans, and consequently sweeps into activity the cells of His body as mere incidents where He (the basic central life) is concerned.

Các ảnh hưởng sự sống của thể trí, hoặc của nguyên khí đó vốn áp đặt lên nguyên tử phẩm tính của hoạt động trong hình tướng, vốn chi phối phản ứng của nguyên tử đối với sự sống nhóm của nó, và vốn cho phép phẩm tính của sự sống của nó được biểu lộ. Trong nguyên tử con người, điều này liên quan đến các nguyên nhân vốn ngẫu nhiên đối với Cung của một người, hoặc theo nghĩa đen là ảnh hưởng của sự sống của Hành Tinh Thượng đế khi Ngài hoạt động như một Sự sống tự ý thức trên Cõi riêng của Ngài, khi Ngài thực hiện các Thiên Cơ của riêng Ngài, và do đó cuốn vào hoạt động các tế bào của thân thể của Ngài như những sự kiện đơn thuần nơi Ngài (sự sống trung tâm cơ bản) có liên quan.

The life impulse of the Thinker functioning in the causal body who—though a great abstraction or the Absolute where the cellular life is concerned—is nevertheless a potent and active factor in the imposition of rhythm upon the atom in every body. In the human atom, this brings in the influence of the life of the solar Logos, for that Life imposes rhythm upon every human atom in the system, and does so through the agency of substance and its inherent quality, sensation.

Xung động sự sống của Thức giả hoạt động trong thể nguyên nhân người—mặc dù là một sự trừu tượng lớn hoặc là Cái Tuyệt đối nơi sự sống tế bào có liên quan—tuy nhiên là một yếu tố mạnh mẽ và tích cực trong việc áp đặt nhịp điệu lên nguyên tử trong mọi thể. Trong nguyên tử con người, điều này mang lại ảnh hưởng của sự sống của Thái dương Thượng đế, vì Sự sống đó áp đặt nhịp điệu lên mọi nguyên tử con người trong hệ thống, và làm như vậy thông qua tác nhân của chất liệu và phẩm tính cố hữu của nó, cảm giác.

In these thoughts, we have but approached the study of karma from a fresh angle, and endeavoured to show the sources of the “influences” which play upon all atomic lives.

Trong những suy nghĩ này, chúng ta chỉ mới tiếp cận việc nghiên cứu nghiệp quả từ một góc độ mới, và cố gắng chỉ ra các nguồn của các “ảnh hưởng” vốn tác động lên tất cả các sự sống nguyên tử.

The atom likewise is controlled by its own “esse,” or by its own inherent nature or vibration, which was the quality of matter itself before it was aggregated into a solar system, and which was the vibratory activity produced through the rhythmic life of an earlier solar system. [801] This is equally true of all atoms of all grades, but only in connection with the atom of substance, and to some degree with the human atom, is it in any way possible to ascertain the predisposing causes. Until the mystery of the Great Bear is revealed and is known as it is, and until the influence of the Pleiades is comprehended, and the true significance of the cosmic triangle formed by

Nguyên tử cũng được kiểm soát bởi “bản chất” của chính nó, hoặc bởi bản chất hoặc rung động cố hữu của chính nó, vốn là phẩm tính của chính vật chất trước khi nó được tập hợp thành một hệ mặt trời, và vốn là hoạt động rung động được tạo ra thông qua sự sống nhịp nhàng của một hệ mặt trời trước đó.  Điều này cũng đúng với tất cả các nguyên tử của tất cả các cấp độ, nhưng chỉ liên quan đến nguyên tử của chất liệu, và ở một mức độ nào đó với nguyên tử con người, mới có thể xác định được các nguyên nhân tiền định bằng bất kỳ cách nào. Cho đến khi bí ẩn của Đại Hùng Tinh được tiết lộ và được biết như nó là, và cho đến khi ảnh hưởng của Thất Nữ được thấu hiểu, và thâm nghĩa thực sự của tam giác vũ trụ được hình thành bởi

a. The seven Rishis of the Great Bear,

a. Bảy Rishi của Đại Hùng Tinh,

b. The seven planetary Logoi of our solar system,

b. Bảy Hành Tinh Thượng đế của hệ mặt trời của chúng ta,

c. The seven Pleiades or Sisters,

c. Bảy Thất Nữ hoặc các Chị em,

is revealed, the karma of the seven sacred planets will remain unknown. All that we can see is its working out in the solar system. The intricacy of the whole subject will be apparent when it is borne in mind that not only do these three groups form a cosmic triangle, but that within that triangle many lesser triangles have to be studied. Any one of the seven Rishis with one of our planetary Logoi and one of the seven Sisters may form a subsidiary triangle, and all must thus be studied.

được tiết lộ, nghiệp quả của bảy hành tinh thiêng liêng sẽ vẫn chưa được biết. Tất cả những gì chúng ta có thể thấy là sự hoạt động của nó trong hệ mặt trời. Sự phức tạp của toàn bộ chủ đề sẽ trở nên rõ ràng khi ghi nhớ rằng không chỉ ba nhóm này tạo thành một tam giác vũ trụ, mà bên trong tam giác đó nhiều tam giác nhỏ hơn phải được nghiên cứu. Bất kỳ một trong bảy Rishi với một trong các Hành Tinh Thượng đế của chúng ta và một trong bảy Chị em có thể tạo thành một tam giác phụ, và tất cả do đó phải được nghiên cứu.

In connection with the karma of the solar Logos, the subject is even more abstract and incomprehensible. It lies hidden—not in the seven constellations—but in the three constellations which concern the three bodies of His Personality and which in themselves are but manifestations of a central LIFE past our concept and our recognition. It concerns the manifestation in time and space of the ONE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID, and Whose relationship to the solar Logos finds a faint analogy in that of the planetary Logos to man, the human unit. It profits not to extend the thought any further.

Liên quan đến nghiệp quả của Thái dương Thượng đế, chủ đề thậm chí còn trừu tượng và khó hiểu hơn. Nó ẩn giấu—không phải trong bảy chòm sao—mà trong ba chòm sao liên quan đến ba thể của Phàm ngã của Ngài và vốn tự chúng chỉ là sự biểu hiện của một SỰ SỐNG trung tâm vượt quá khái niệm và sự nhận biết của chúng ta. Nó liên quan đến sự biểu hiện trong thời gian và không gian của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ, và mối quan hệ của Ngài với Thái dương Thượng đế tìm thấy một sự tương đồng mờ nhạt trong mối quan hệ của Hành Tinh Thượng đế với con người, đơn vị con người. Việc mở rộng suy nghĩ thêm nữa không có lợi.

We are but seeking to emphasise the fact of the interdependence of all atoms and forms, to lay stress upon the reality of the variety of influences which play upon all [802] that is manifesting, and to call attention to the fact of the karma of the past aeons, kalpas and that unknowable period in which the initiatory impulses were set up which are still persisting, and which God, man and atoms are still working out and off. Influences or vibrations, calling forth response, play upon every form and atom in the solar system and all that can be predicated of them is that they tend to develop consciousness of some kind, impose certain rhythms according to that conscious response, and produce aggregations or group activity.

Chúng ta chỉ đang tìm cách nhấn mạnh sự thật về sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các nguyên tử và hình tướng, để nhấn mạnh thực tại của sự đa dạng của các ảnh hưởng tác động lên tất cả  những gì đang biểu hiện, và để thu hút sự chú ý đến sự thật của nghiệp quả của các aeon, kalpa trong quá khứ và khoảng thời gian không thể biết đó trong đó các xung động khởi đầu đã được thiết lập vốn vẫn đang tồn tại, và vốn Thượng đế, con người và các nguyên tử vẫn đang thực hiện và hóa giải. Các ảnh hưởng hoặc rung động, gọi sự đáp ứng, tác động lên mọi hình tướng và nguyên tử trong hệ mặt trời và tất cả những gì có thể được khẳng định về chúng là chúng có xu hướng phát triển tâm thức của một loại nào đó, áp đặt các nhịp điệu nhất định theo sự đáp ứng có ý thức đó, và tạo ra các sự tập hợp hoặc hoạt động nhóm.

The liberation from karma about which would-be occult students so glibly talk is after all but the freeing of the atom from its own personal problem (the problem of response to unitary sensation), and its conscious acquiescence in group response and work. It marks the dissociation of the human atom from the rhythm imposed upon him by the lower “influences” which find their channel of approach through his vehicles, or lunar bodies, and his consequent willing recognition of the will-impulse of his greater whole, or the life of the egoic group—a centre in the planetary body. It involves atomic control, but involves also conscious subjection to the karma of the Heavenly Man. Man is no longer the slave of the rhythm of matter per se, but controls it in the three worlds of his endeavour; he is still nevertheless controlled by the group karma of the planetary centre, by its influence, life and vibratory impulse. The same can be predicated of a Heavenly Man, and of a solar Logos.

Sự giải thoát khỏi nghiệp quả mà các đạo sinh huyền bí học tương lai nói một cách trôi chảy sau cùng chỉ là sự giải thoát của nguyên tử khỏi vấn đề cá nhân của chính nó (vấn đề của sự đáp ứng với cảm giác đơn nhất), và sự chấp nhận có ý thức của nó trong sự đáp ứng và công việc nhóm. Nó đánh dấu sự tách rời của nguyên tử con người khỏi nhịp điệu được áp đặt lên y bởi các “ảnh hưởng” thấp hơn vốn tìm thấy kênh tiếp cận của chúng thông qua các vận cụ của y, hoặc các thể nguyệt, và sự nhận biết sẵn lòng do đó của y về xung động ý chí của toàn thể lớn hơn của y, hoặc sự sống của nhóm chân ngã—một trung tâm trong thể hành tinh. Nó liên quan đến sự kiểm soát nguyên tử, nhưng cũng liên quan đến sự phục tùng có ý thức đối với nghiệp quả của Đấng Thiên Nhân. Con người không còn là nô lệ của nhịp điệu của vật chất tự thân, mà kiểm soát nó trong ba cõi giới của nỗ lực của y; tuy nhiên y vẫn bị kiểm soát bởi nghiệp quả nhóm của trung tâm hành tinh, bởi ảnh hưởng, sự sống và xung động rung động của nó. Điều tương tự có thể được khẳng định về một Đấng Thiên Nhân, và về một Thái dương Thượng đế.

We might, in closing, express the same thought in terms of fire, remembering that words only limit and confine the thought, and that the main reason for this mode of approach is to bring pictorially before man some aspects of the central idea.

Chúng ta có thể, khi kết thúc, biểu lộ cùng một suy nghĩ theo lửa, nhớ rằng các từ chỉ giới hạn và giam hãm suy nghĩ, và rằng lý do chính cho cách tiếp cận này là để mang lại một cách hình ảnh trước con người một số khía cạnh của ý tưởng trung tâm.

“Electric fire, or will-impulse” in conjunction with “fire by friction” produces light or “solar fire.” Electric fire is force or energy of some kind, and hence in itself [803] is fundamentally an emanation. “Fire by friction” is substance with the quality of heat as its predominant characteristic; it is latent heat or sensation. Both these ideas, therefore, convey the idea of duality. An emanation must have its originating source, and heat is but the result of friction, and is necessarily dual. Both these concepts involve facts long antedating the solar system, and hidden in the Universal Mind. All that we can scientifically ascertain is the nature of that which is produced by their approximation, and this is solar fire or light. These thoughts may make clear somewhat the significance of the number five, esoterically considered. Electric fire, being an emanation is essentially dual in concept, and so is fire by friction; they together produce solar fire, and thus the esoteric fifth.

“Lửa điện, hoặc xung động ý chí” kết hợp với “lửa do ma sát” tạo ra ánh sáng hoặc “Lửa Thái dương.” Lửa điện là mãnh lực hoặc năng lượng của một loại nào đó, và do đó tự nó  về cơ bản là một sự phát xạ. “Lửa do ma sát” là chất liệu với phẩm tính của nhiệt là đặc điểm nổi bật của nó; nó là nhiệt tiềm ẩn hoặc cảm giác. Do đó, cả hai ý tưởng này, đều truyền đạt ý tưởng về nhị nguyên tính. Một sự phát xạ phải có nguồn gốc của nó, và nhiệt chỉ là kết quả của sự ma sát, và nhất thiết là kép. Cả hai khái niệm này đều liên quan đến các sự thật có từ rất lâu trước hệ mặt trời, và ẩn giấu trong Vũ Trụ Trí. Tất cả những gì chúng ta có thể xác định một cách khoa học là bản chất của cái được tạo ra bởi sự gần đúng của chúng, và đây là Lửa Thái dương hoặc ánh sáng. Những suy nghĩ này có thể làm rõ phần nào thâm nghĩa của số năm, được xem xét một cách bí truyền. Lửa điện, là một sự phát xạ, về cơ bản là kép trong khái niệm, và lửa do ma sát cũng vậy; chúng cùng nhau tạo ra Lửa Thái dương, và do đó là số năm bí truyền.

It will be apparent that when a man speaks of karma, he is dealing with something much wider than the interplay of effect and cause within the sphere of his own individual routine. He is, in all things, governed by causes originating in the aggregate of lives which form his egoic group, by the aggregate of groups which form one petal in a centre of a Heavenly Man, by force or purpose circulating through a triangle of centres, and by the life energy or purposeful will of the planetary Logos Himself. Finally he is governed by the will of the solar Logos as it demonstrates itself in initiatory activity. Beyond this we need hardly go, but enough has been said to show that every human atom is under the dominance of forces outside his own consciousness, which sweep him and others into situations from which there is no escape, and which are to him incomprehensible.

Sẽ rõ ràng rằng khi một người nói về nghiệp quả, y đang đề cập đến một cái gì đó rộng lớn hơn nhiều so với sự tương tác của tác dụng và nguyên nhân trong phạm vi của thói quen cá nhân của chính y. Y, trong mọi sự, bị chi phối bởi các nguyên nhân bắt nguồn từ tập hợp các sự sống vốn tạo thành nhóm chân ngã của y, bởi tập hợp các nhóm vốn tạo thành một cánh hoa trong một trung tâm của một Đấng Thiên Nhân, bởi mãnh lực hoặc mục đích lưu thông qua một tam giác của các trung tâm, và bởi năng lượng sự sống hoặc ý chí có mục đích của chính Hành Tinh Thượng đế. Cuối cùng y bị chi phối bởi ý chí của Thái dương Thượng đế khi nó tự biểu lộ trong hoạt động khởi đầu. Ngoài điều này, chúng ta không cần phải đi xa hơn, nhưng đã nói đủ để cho thấy rằng mọi nguyên tử con người đều nằm dưới sự thống trị của các mãnh lực bên ngoài tâm thức của chính y, vốn cuốn y và những người khác vào các tình huống mà không có lối thoát, và vốn đối với y là không thể thấu hiểu.

This has been at no time better illustrated than in the event of the late war and in present world conditions; these are effects of causes having their origin in the renewed activity of a certain planetary triangle, and in the vibration set up by our planetary Logos on the moon-chain, [804] and which had a faint beginning in an earlier solar system. This vibration impinged primarily upon certain atoms and groups of atoms in His body, principally those composing the human and animal kingdoms, and produced the apparently dire results which we have been witnessing. So great was the effect of His energy, that the vegetable kingdom was somewhat (though not so much) affected, and the mineral kingdom felt the effect in a startling manner, far more than the vegetable kingdom and almost as much as the animal. Here we have a setting of circumstances outside human and even group control, which illustrates the helplessness of man in certain conditions, and which serves to bring in factors apparently apart from the individual vibration of the fourth kingdom.

Điều này chưa bao giờ được minh họa tốt hơn so với sự kiện của cuộc chiến tranh vừa qua và trong các điều kiện thế giới hiện tại; đây là các tác dụng của các nguyên nhân có nguồn gốc từ hoạt động được làm mới của một tam giác hành tinh nhất định, và trong sự rung động được thiết lập bởi Hành Tinh Thượng đế của chúng ta trên dãy mặt trăng,  và vốn có một sự khởi đầu mờ nhạt trong một hệ mặt trời trước đó. Rung động này tác động chủ yếu lên một số nguyên tử và các nhóm nguyên tử trong thân thể của Ngài, chủ yếu là những nguyên tử tạo nên giới nhân loại và động vật, và tạo ra các kết quả dường như thảm khốc mà chúng ta đã chứng kiến. Tác dụng của năng lượng của Ngài lớn đến mức giới thực vật bị ảnh hưởng phần nào (mặc dù không nhiều), và giới kim thạch cảm nhận được tác dụng một cách đáng kinh ngạc, nhiều hơn nhiều so với giới thực vật và gần như nhiều bằng giới động vật. Ở đây chúng ta có một tập hợp các hoàn cảnh bên ngoài sự kiểm soát của con người và thậm chí cả nhóm, vốn minh họa sự bất lực của con người trong một số điều kiện nhất định, và vốn phục vụ để mang lại các yếu tố dường như tách biệt với rung động cá nhân của giới thứ tư.

Nevertheless, within limits, man definitely does “control his destiny,” and can initiate action which produces effects recognisable by him as being dependent upon his activity along a particular line. He does, on a miniature scale, repeat the procedure of the Logos on a vaster scale, and thus is the arbiter of his own destiny, the producer of his own drama, the architect of his own home, and the initiator of his own affairs. Though he may be the meeting place of forces outside his control, yet he can utilize force, circumstance and environment and can turn them, if he so will, to his own ends.

Tuy nhiên, trong giới hạn, con người chắc chắn “kiểm soát vận mệnh của mình,” và có thể khởi xướng hành động tạo ra các tác dụng có thể được y nhận biết là phụ thuộc vào hoạt động của y theo một đường lối cụ thể. Y, trên một quy mô thu nhỏ, lặp lại quy trình của Thượng đế trên một quy mô lớn hơn, và do đó là người quyết định vận mệnh của chính mình, người sản xuất vở kịch của chính mình, kiến trúc sư của ngôi nhà của chính mình, và người khởi xướng các công việc của chính mình. Mặc dù y có thể là nơi gặp gỡ của các mãnh lực ngoài tầm kiểm soát của mình, nhưng y có thể sử dụng mãnh lực, hoàn cảnh và môi trường và có thể biến chúng, nếu y muốn, thành mục đích của riêng mình.

The working out of karmic law in a man’s own life might be broadly divided into three divisions, in each of which a different type of energy is demonstrating, producing effects upon the lower and higher bodies of a definite nature.

Sự hoạt động của định luật nghiệp quả trong cuộc sống của một người có thể được chia thành ba phần rộng rãi, trong mỗi phần một loại năng lượng khác nhau đang biểu lộ, tạo ra các tác dụng đối với các thể thấp hơn và cao hơn của một bản chất rõ ràng.

In the very early stages, when man is scarcely more than an animal, the vibratory activity of the atoms of his three sheaths (and of the lowest primarily) governs all actions on his part. He is the victim of the vibratory activity of physical substance, and much that occurs is the [805] consequence of the interaction between the Ego and its lowest manifestation, the physical sheath. The centre of attention is the physical body and only faintly are the two subtler bodies responding. The egoic impulse is slow and heavy, and the vibration is directed to producing response between the egoic consciousness and the atoms of the physical body. The physical permanent atom is more active than the other two. It is the aspect of “fire by friction” which is fanned by the egoic breath, with a triple object in view:

Trong các giai đoạn rất sớm, khi con người hầu như không hơn một con vật, hoạt động rung động của các nguyên tử của ba vỏ bọc của y (và của cái thấp nhất chủ yếu) chi phối mọi hành động của y. Y là nạn nhân của hoạt động rung động của chất liệu thể xác, và nhiều điều xảy ra là  hậu quả của sự tương tác giữa Chân Ngã và sự biểu lộ thấp nhất của nó, vỏ bọc thể xác. Trung tâm của sự chú ý là thể xác và chỉ có hai thể tinh tế hơn mới đáp ứng một cách mờ nhạt. Xung động chân ngã chậm và nặng, và rung động được định hướng để tạo ra sự đáp ứng giữa tâm thức chân ngã và các nguyên tử của thể xác. Nguyên tử trường tồn thể xác hoạt động tích cực hơn hai nguyên tử kia. Đó là khía cạnh của “lửa do ma sát” được thổi bởi hơi thở chân ngã, với ba mục tiêu trong tâm trí:

a. Co-ordinating the physical body.

a. Phối hợp thể xác.

b. Increasing the resistance of the etheric web, a work which was only carried to the desired point by the middle of the Atlantean root-race.

b. Tăng cường sức đề kháng của mạng lưới dĩ thái, một công việc chỉ được thực hiện đến điểm mong muốn vào giữa giống dân gốc Atlantis.

c. Bringing certain of the lower centres to the necessary stage of expression.

c. Đưa một số trung tâm thấp hơn đến giai đoạn biểu lộ cần thiết.

The heat of the atoms in the bodies is increased during this stage, and their atomic life co-ordinated, while the triangle between the three permanent atoms becomes a demonstrable fact and not a faint indication.

Nhiệt của các nguyên tử trong các thể tăng lên trong giai đoạn này, và sự sống nguyên tử của chúng được phối hợp, trong khi tam giác giữa ba nguyên tử trường tồn trở thành một sự thật có thể chứng minh và không phải là một dấu hiệu mờ nhạt.

During the second stage, the law of karma or karmic influence (through the inevitable reflex action produced by the increased activity of the sheaths) turns its attention to the working out of desire, and its transmutation into the higher aspiration. Through experience, the pairs of opposites are recognised by the Thinker, and he becomes no longer the victim of the vibratory impulses of his physical body; the factor of intelligent choice becomes apparent. The man begins to discriminate between the pairs of opposites, choosing ever in the early stages that which appeals most to his lower nature and that which he believes will bring him pleasure. The centre of the attention of the Ego is the astral body, and it becomes so closely co-ordinated with the physical body that the two form one united expression of desire. The mental body [806] remains comparatively inactive at this stage. The love nature of the Ego is in process of being developed, and this stage is the longest of the three. It deals with the evolution of the petals of the egoic lotus, and with the blending of solar fire and of fire by friction. Reflex action between the lower and the higher during this middle period produces three effects, which will be seen, if carefully studied to convey much information anent the working out of the law of Karma. These three effects are:

Trong giai đoạn thứ hai, định luật nghiệp quả hoặc ảnh hưởng nghiệp quả (thông qua phản ứng phản xạ không thể tránh khỏi được tạo ra bởi hoạt động gia tăng của các vỏ bọc) chuyển sự chú ý của nó sang việc hóa giải ham muốn, và sự chuyển hoá của nó thành sự chí nguyện cao hơn. Thông qua kinh nghiệm, các cặp đối lập được Thức giả nhận biết, và y không còn là nạn nhân của các xung động rung động của thể xác của y; yếu tố của sự lựa chọn thông minh trở nên rõ ràng. Con người bắt đầu phân biệt giữa các cặp đối lập, luôn chọn trong các giai đoạn đầu cái hấp dẫn nhất đối với bản chất thấp hơn của y và cái mà y tin rằng sẽ mang lại cho y niềm vui. Trung tâm của sự chú ý của Chân Ngã là thể cảm dục, và nó trở nên phối hợp chặt chẽ với thể xác đến mức cả hai tạo thành một biểu hiện thống nhất của ham muốn. Thể trí  vẫn tương đối không hoạt động ở giai đoạn này. Bản chất tình thương của Chân Ngã đang trong quá trình được phát triển, và giai đoạn này là giai đoạn dài nhất trong ba giai đoạn. Nó đề cập đến sự tiến hoá của các cánh hoa của hoa sen chân ngã, và với sự hòa trộn của Lửa Thái dương và của lửa do ma sát. Phản ứng phản xạ giữa cái thấp hơn và cái cao hơn trong giai đoạn giữa này tạo ra ba tác dụng, vốn sẽ được thấy, nếu được nghiên cứu cẩn thận để truyền đạt nhiều thông tin về sự hoạt động của định luật Nghiệp quả. Ba tác dụng này là:

1. The development of the astral permanent atom with a concurrent stimulation of the physical permanent atom, and thus the growth and evolution of the two sheaths concerned.

Sự phát triển của nguyên tử trường tồn cảm dục với sự kích thích đồng thời của nguyên tử trường tồn thể xác, và do đó sự tăng trưởng và tiến hoá của hai vỏ bọc liên quan.

2. The co-ordination of the threefold man through the innate vitality of the astral body and its effect upon the mental and the physical. This is the kama-manasic period, and as this body is the only complete sphere in the threefold lower man, it is the most powerful body inherently for it embodies (as does the solar system) the heart aspect, or embryonic love nature, which it is the object of macrocosmic and microcosmic evolution to develop.

Sự phối hợp của con người tam phân thông qua sinh lực bẩm sinh của thể cảm dục và tác dụng của nó đối với thể trí và thể xác. Đây là thời kỳ trí-cảm, và vì thể này là khối cầu hoàn chỉnh duy nhất trong phàm nhân tam phân, nó là thể mạnh nhất về bản chất vì nó thể hiện (như hệ mặt trời) khía cạnh tim, hoặc bản chất tình thương phôi thai, vốn là đối tượng của sự tiến hoá đại thiên địa và tiểu thiên địa để phát triển.

3. Finally the unfoldment of the nine egoic petals in three stages.

Cuối cùng là sự mở ra của chín cánh hoa chân ngã trong ba giai đoạn.

In the working out of the law we must therefore note that man is first of all the victim of the impulses of dense substance or of the brahma aspect, and thus repeats rapidly the evolutionary process of the preceding solar system; in the second stage he is the victim of desire, or of his own love nature.

Trong sự hoạt động của định luật, do đó chúng ta phải lưu ý rằng con người trước hết là nạn nhân của các xung động của chất liệu đậm đặc hoặc của khía cạnh brahma, và do đó lặp lại nhanh chóng quá trình tiến hoá của hệ mặt trời trước đó; trong giai đoạn thứ hai, y là nạn nhân của ham muốn, hoặc của bản chất tình thương của chính y.

In the third stage, the law of karma works through a man’s mental nature, and awakens in him recognition of the law, and an intellectual apprehension of cause and of effect. This is the shortest stage but is also the most powerful; it concerns the evolution of the three inner [807] petals shielding the “jewel,” and their ability to disclose at the right moment that which lies hidden. It covers the period of the evolution of advanced man, and of the man upon the Path. In connection with the human family it covers the first half of the next round, prior to the great separation. Electric fire is beginning to make its radiations felt, and the will or purpose of the Ego is now consciously realised upon the physical plane. The three permanent atoms form a triangle of light, and the petals of the lotus are rapidly unfolding. When the will and purpose of the Ego are realised by man in his waking consciousness in the physical brain, then the law of karma in the three worlds is becoming neutralised, and man is on the verge of liberation. He has exhausted the initial vibration, and there is no response within his sheaths to the threefold vibration of the three worlds; he stands freed from the three kingdoms and the fourth.

Trong giai đoạn thứ ba, định luật nghiệp quả hoạt động thông qua bản chất trí tuệ của một người, và đánh thức trong y sự nhận biết về định luật, và một sự nắm bắt trí tuệ về nguyên nhân và tác dụng. Đây là giai đoạn ngắn nhất nhưng cũng là giai đoạn mạnh mẽ nhất; nó liên quan đến sự tiến hoá của ba cánh hoa bên trong  che chắn “viên ngọc,” và khả năng của chúng để tiết lộ vào đúng thời điểm cái ẩn giấu. Nó bao gồm thời kỳ của sự tiến hoá của con người tiên tiến, và của con người trên Thánh Đạo. Liên quan đến gia đình nhân loại, nó bao gồm nửa đầu của cuộc tuần hoàn tiếp theo, trước sự phân tách lớn. Lửa điện đang bắt đầu làm cho các bức xạ của nó được cảm nhận, và ý chí hoặc mục đích của Chân Ngã bây giờ được nhận ra một cách có ý thức trên cõi hồng trần. Ba nguyên tử trường tồn tạo thành một tam giác ánh sáng, và các cánh hoa của hoa sen đang mở ra nhanh chóng. Khi ý chí và mục đích của Chân Ngã được con người nhận ra trong tâm thức tỉnh táo của y trong bộ não thể xác, thì định luật nghiệp quả trong ba cõi giới đang trở nên bị trung hòa, và con người đang trên bờ vực của sự giải thoát. Y đã cạn kiệt rung động ban đầu, và không có sự đáp ứng nào trong các vỏ bọc của y đối với rung động tam phân của ba cõi giới; y đứng được giải thoát khỏi ba giới và giới thứ tư.

[Commentary S7S6]

d. On the Building of the Causal Body —d. Về sự xây dựng thể nguyên nhân

We enter now upon one of the most vitally practical parts of our Treatise on Fire, that which deals with the building of the causal body, or body of manifestation of the Ego. It concerns the work of the solar Angels, or the true self-conscious Identity, man. If the student has in any way apprehended the general trend of the earlier pages, he will now be in a condition of mind which will enable him to interpret all that is said in terms of energy, or of that vibratory activity which is produced by the three major phases of electrical phenomena, the union which produces that divine manifestation called Man, or, when the aggregated units are considered, the human kingdom.

Giờ đây chúng ta bước vào một trong những phần thực tiễn trọng yếu nhất của Luận về Lửa Vũ Trụ, phần đề cập đến sự kiến tạo thể nguyên nhân, hay thể biểu lộ của Chân ngã. Nó liên quan đến công việc của các Thái dương Thiên Thần, hay chân Ngã tự thức chân chính, con người. Nếu môn sinh đã phần nào nắm bắt hướng đi tổng quát của những trang trước, y sẽ ở trong một trạng thái tâm trí cho phép y diễn giải tất cả những điều được nói theo ngôn ngữ của năng lượng, hay của hoạt động rung động do ba pha chủ yếu của hiện tượng điện tạo ra, sự hợp nhất vốn sản sinh biểu lộ thiêng liêng được gọi là Con Người, hay, khi xét các đơn vị được kết tập, là giới nhân loại.

(a) Introductory Remarks—(a) Lời dẫn nhập

We have studied somewhat the constitution of the Triangles, or Pitris, Who, through self-sacrifice, endow man with self-consciousness, building his egoic vehicle out of Their own essence. We [808] have touched briefly upon the lunar Pitris, who endow man with his lower sheaths and principles through which the energy of the solar Lords may make itself felt, and we shall now proceed to study three things:

Chúng ta đã khảo cứu phần nào cấu trúc của các Tam giác, hay các Pitris, Những Vị, qua sự tự hy sinh, ban cho con người tự thức, kiến tạo thể nguyên nhân của y từ chính bản thể của Các Ngài. Chúng ta [808] đã chạm qua các thái âm tổ phụ, những vị ban cho con người các vỏ thấp và các nguyên khí, qua đó năng lượng của các Thái dương Chủ có thể tự biểu lộ, và giờ đây chúng ta sẽ tiến tới khảo sát ba điều:

– First, the effect of the higher energy upon the lower bodies, as it gradually makes itself felt during the evolutionary process, and thus simultaneously “redeems” man in an occult sense, and also “elevates” the lunar Pitris.

Thứ nhất, tác động của năng lượng cao đối với các thể thấp, khi nó dần dần tự làm cho mình được cảm nhận trong tiến trình tiến hóa, và như thế đồng thời “chuộc lại” con người theo nghĩa huyền bí, và cũng “nâng thượng” các thái âm tổ phụ.

– Second, the effect of this energy on the mental plane in the development and unfoldment of the egoic lotus.

Thứ hai, tác động của năng lượng này trên cõi trí trong sự phát triển và khai mở Hoa Sen Chân Ngã.

– Third, the awakening to activity of the central Life within the lotus. This activity demonstrates in a twofold manner:

Thứ ba, sự thức tỉnh đi vào hoạt động của Sự sống trung tâm bên trong Hoa Sen. Hoạt động này biểu lộ theo hai cách:

a. As the realization by the man on the physical plane within the physical brain of his divine nature, resulting in a consequent demonstration of divinity upon earth, prior to liberation.

Như sự chứng ngộ bởi con người trên cõi hồng trần, trong bộ não hồng trần, về thiên tính của mình, đưa đến một sự biểu lộ thiên tính trên đất trước khi giải thoát.

b. As the conscious activity of the individual Ego on the mental plane in cooperation with its group or groups.

Như hoạt động có ý thức của Chân ngã cá biệt trên cõi trí trong hiệp tác với nhóm hay các nhóm của nó.

In the first case, we have the effect of the egoic life upon its sheaths, and their subsequent control, and in the second case we have the self-awakening of the egoic unit on its own plane; in the third case, we have a group realization, or the entrance by the unit into the consciousness of the Heavenly Man.

Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta có tác động của sự sống chân ngã lên các vỏ của nó, và sự chế ngự chúng về sau; trong trường hợp thứ hai, chúng ta có sự tự-thức tỉnh của đơn vị chân ngã trên chính cõi của nó; trong trường hợp thứ ba, chúng ta có một chứng ngộ theo nhóm, hay sự đi vào tâm thức của Đấng Thiên Nhân bởi đơn vị.

It will not be possible to do more than indicate broad general lines of development. The subject of egoic evolution cannot be fully comprehended until after initiation, but it is felt now by the Teachers on the inner side that the main principles had better be given out at once in view of the unexpected development (since the opening of this century) of two great sciences:

Sẽ không thể làm gì hơn ngoài việc chỉ ra những đường nét tổng quát của phát triển. Đề tài về tiến hóa chân ngã không thể được thấu hiểu trọn vẹn cho tới sau điểm đạo, nhưng hiện nay các Giáo sư ở nội giới cảm thấy rằng các nguyên lý chính nên được công bố ngay, xét đến sự phát triển bất ngờ (kể từ khi thế kỷ này mở ra) của hai đại khoa:

– The Science of Electricity. The investigations of [809] scientists have been greatly stimulated by the discovery of radium, which is an electrical phenomenon of a certain kind, and by the knowledge this discovery brought of the radioactive substances; the development of the many methods of utilizing electricity has also greatly aided. This science has brought man to the threshold of a discovery which will revolutionize world thought on these matters, and which will eventually solve a great part of the economic problem, thus leaving many more persons free for mental growth and work. This expansion of knowledge can be looked for before one hundred and fifty years have transpired.

Khoa Học Điện Lực. Các khảo cứu của [809] các nhà khoa học đã được kích thích mạnh bởi phát hiện về radium, vốn là một hiện tượng điện loại nào đó, và bởi tri thức mà phát hiện này mang lại về các chất phóng xạ; sự phát triển nhiều phương pháp sử dụng điện lực cũng đã trợ giúp rất nhiều. Khoa học này đã đưa con người tới ngưỡng cửa một khám phá sẽ cách mạng hóa tư tưởng thế giới về các vấn đề này, và rốt cuộc sẽ giải quyết một phần lớn vấn đề kinh tế, nhờ đó giải phóng nhiều người hơn cho tăng trưởng và công tác trí tuệ. Sự mở rộng tri thức này có thể được trông đợi trước khi một trăm năm mươi năm trôi qua.

– The Science of Psychology. The psychoanalytic theories which (though indicative of progress) are yet tending in a wrong direction, may prove disastrous to the higher development of the race unless the true nature of the “psyche” is elucidated. When the public mind has apprehended, even cursorily, the following briefly stated facts, the trend of popular education, the object of political science, and the goal of economic and social endeavor will take a new and better direction. These facts might be summed up in the following postulates:

Khoa Học Tâm Lý.  Các học thuyết phân tâm học, tuy biểu thị tiến bộ, nhưng hiện đang có xu hướng đi về một hướng sai, có thể gây tai hại cho sự phát triển cao hơn của nhân loại trừ phi bản chất chân thực của “tâm linh” được làm sáng tỏ. Khi công chúng nắm bắt, dù sơ khởi, các sự kiện được nêu vắn tắt sau đây, chiều hướng của nền giáo dục phổ thông, mục đích của khoa học chính trị, và cứu cánh của nỗ lực kinh tế và xã hội sẽ theo một hướng mới và tốt đẹp hơn. Các sự kiện đó có thể được tóm trong các tiên đề sau:

I. Man is in essence divine. 59 This has ever been enunciated throughout the ages, but remains as yet a beautiful theory or belief, and not a proven scientific fact, nor is it universally held. [810]

I. Con người, về bản thể là thiêng liêng. 59 Điều này từ xưa vẫn được tuyên ngôn, nhưng đến nay vẫn chỉ là một học thuyết hay tín niệm đẹp, chứ chưa là một sự kiện khoa học được chứng thực, cũng chưa được chấp nhận phổ quát. [810]

II. Man is in fact a fragment of the Universal Mind, or world soul, 60 and as a fragment is thus partaker of the instincts and quality of that soul, as it manifests through the human family. Therefore, unity is only possible upon the plane of mind. This, if true, must lead to the tendency to develop within the physical brain a conscious realization of group affiliations on the mental plane, a conscious recognition of group relationships, ideals and goal, and a conscious manifestation of that continuity of consciousness which is the object of evolution at this time. It will further produce the transference of the race consciousness from the physical plane to the mental, and a consequent solving through “knowledge, love, and sacrifice” of all present problems. This will bring about emancipation from the present physical plane disorder. It must lead to the education of the public as to the nature of man, and the development of the powers latent within him—powers which will set him free from his present limitations, and which will produce in the human family a collective repudiation of. the present conditions. When men everywhere recognize themselves and each other, as divine self-conscious units, functioning primarily in the causal body but utilizing the three lower vehicles only as a means of contact with the three lower planes, we will have government, politics, economics and the social order readjusted upon sound, sane and divine lines.

II. Con người, thực ra là một mảnh của Vũ Trụ Trí, hay đại hồn thế giới, 60 và như một mảnh nên dự phần vào các bản năng và phẩm tính của đại hồn ấy, khi nó biểu lộ qua gia đình nhân loại. Do đó, hợp nhất chỉ khả hữu trên cõi trí. Nếu điều này đúng, nó ắt dẫn đến khuynh hướng phát triển trong bộ não hồng trần một nhận thức có ý thức về các liên hệ nhóm trên cõi trí, một sự nhận biết có ý thức về các mối quan hệ nhóm, lý tưởng và cứu cánh, và một biểu lộ có ý thức về sự liên tục của tâm thức, vốn là mục đích của tiến hóa vào thời điểm này. Điều đó sẽ còn đưa đến việc chuyển di tâm thức của chủng loại từ cõi hồng trần lên cõi trí, và do đó giải quyết thông qua “tri thức, tình thương, và hy sinh” tất cả các vấn đề hiện tại. Điều này sẽ đem lại sự giải phóng khỏi tình trạng hỗn loạn hiện nay trên cõi hồng trần. Nó tất yếu dẫn đến việc giáo dục quần chúng về bản tính của con người, và phát triển các năng lực tiềm ẩn trong y—những năng lực sẽ giải phóng y khỏi các giới hạn hiện tại, và sẽ sản sinh trong gia đình nhân loại một sự từ khước tập thể đối với các điều kiện hiện giờ. Khi con người khắp nơi nhận biết chính mình và nhau như các đơn vị tự thức thiêng liêng, chủ yếu vận hành trong thể nguyên nhân nhưng sử dụng ba vận cụ thấp chỉ như phương tiện tiếp xúc với ba cõi thấp, bấy giờ chúng ta sẽ có chính quyền, chính trị, kinh tế và trật tự xã hội được điều chỉnh lại trên các đường lối lành mạnh, minh triết và thiêng liêng.

59 Each human being is an incarnation of God.—S. D., III, 449.

59 Mỗi con người là một lần lâm phàm của Thượng đế.—S. D., III, 449.

Compare:—S. D., II, 541; S. D., III, 475; and the Biblical words: “I have said, Ye are Gods.” “Know ye not that ye are the Temple of the Holy Spirit?”

So sánh:—S. D., II, 541; S. D., III, 475; và lời Kinh: “Ta đã nói: Các ngươi là Thần.” “Há các ngươi không biết rằng các ngươi là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần sao?”

No Being can become a God without passing through the human cycles.

Không một Hữu thể nào có thể trở thành Thượng đế mà không đi qua các chu kỳ nhân loại.

– S. D., II, 336.

– S. D., II, 336.

Man therefore is like God in that he represents the pairs of opposites, good and evil, light and darkness, male and female, etc. He is a duality.

Vì vậy, con người giống như Thượng đế ở chỗ y biểu hiện cặp đối đãi, thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, nam và nữ, v.v. Y là một nhị nguyên.

He represents also God in that He is a triplicity, being three in one, and one in three.

Y cũng biểu hiện Thượng đế ở chỗ Ngài là một tam vị, ba trong một, và một trong ba.

– See S. D., II, 553.

– Xem S. D., II, 553.

By man the divine Monad is meant.

Bởi “con người” là chỉ Chân thần.

– S. D., II, 196.

– S. D., II, 196.

60 S. D., I, Proem., pp. 42-44.

60 S. D., I, Dẫn luận., tr. 42-44.

III. Man in his lower nature, and in his three vehicles, is an aggregate of lesser lives, dependent upon him for their group nature, for their type of activity, and collective response, and [811] who—through the energy or activity of the solar Lord—will themselves later be raised, and developed to the human stage.

III. Con người trong bản chất thấp của mình, và trong ba vận cụ của mình, là một tập hợp của những sự sống nhỏ hơn, lệ thuộc vào y về bản chất nhóm của chúng, về loại hình hoạt động của chúng, và về sự đáp ứng tập thể của chúng, và [811] những sự sống ấy—thông qua năng lượng hay hoạt động của Thái dương Thiên Thần—về sau chính chúng sẽ được nâng lên, và phát triển đến giai đoạn nhân loại.

When these three facts are understood, then and only then will we have a right and just comprehension of the nature of man.

Khi ba sự kiện này được hiểu, thì và chỉ khi ấy chúng ta mới có một sự thấu hiểu đúng đắn và công bằng về bản tính của con người.

Again, this realization will bring about three changes in the thought of the age:

Một lần nữa, sự nhận thức này sẽ đem lại ba thay đổi trong tư tưởng của thời đại:

(1) A readjustment of the medical knowledge of man, resulting in a truer understanding of the physical body, of its treatment, and of its protection, and thus producing a juster apprehension of the laws of health. The aim of the physician will then be to find out what it is in a man’s life which is preventing egoic energy from flooding every part of his being; to find out what lines of thought are being indulged in which are causing that inertia of the will aspect which is so conducive to wrongdoing; to ascertain what it is in the emotional body which is affecting the nervous system, and thus obstructing the flow of energy from the love petals of the egoic lotus (via the astral permanent atom) to the astral body, and from thence to the nervous system; to discover what is the hindrance in the etheric body which is preventing the right flow of prana, or of solar vitality to every part of the body.

(1)  Sự điều chỉnh lại tri thức y học về con người,  đưa đến một sự thấu hiểu đúng hơn về thể xác, về cách điều trị, và về phương pháp bảo vệ nó, và như vậy sản sinh một sự nắm bắt xác đáng hơn về các định luật sức khỏe. Mục tiêu của lương y lúc đó sẽ là tìm xem trong đời sống của một người có cái gì đang ngăn cản năng lượng chân ngã tuôn tràn đến mọi phần trong hữu thể của y; tìm xem đang có những đường lối tư tưởng nào được buông thả, vốn gây nên sự trì trệ của phương diện ý chí—điều rất thuận duyên cho điều ác; xác định xem trong thể cảm dục có điều gì đang tác động lên hệ thần kinh, và do đó cản trở dòng năng lượng từ các cánh hoa bác ái của Hoa Sen Chân Ngã (qua Nguyên tử trường tồn cảm dục) tới thể cảm dục, và từ đó tới hệ thần kinh; phát hiện cái gì là chướng ngại trong thể dĩ thái đang ngăn cản lưu thông đúng đắn của prana, hay sinh lực thái dương đến mọi phần của thể xác.

It is essential that in days to come medical men should realize that disease in the physical body is incidental to wrong internal conditions. This is already being somewhat considered but the whole question will remain but a beautiful theory (even though an incontrovertible one in view of the achievements of mental scientists and of the various faith healers) until the true nature of the ego, its constitution, its powers, and its field of influence are duly apprehended.

Điều cốt yếu là trong những ngày sắp đến, giới y học nên nhận ra rằng bệnh tật nơi thể xác chỉ là phụ thuộc vào các tình trạng bên trong sai lệch. Điều này hiện đã được xem xét phần nào nhưng toàn bộ vấn đề vẫn sẽ chỉ là một học thuyết đẹp (dẫu là một học thuyết không thể bác bỏ xét đến các thành tựu của các nhà khoa học tâm trí và của các nhà trị liệu đức tin) cho đến khi bản chất chân thực của chân ngã, cấu tạo của nó, các năng lực và lĩnh vực ảnh hưởng của nó được lĩnh hội đúng mức.

This revelation will come when medical men accept this [812] teaching as a working hypothesis, and then begin to note, for instance, the powers of endurance shown by the great souls of the earth, and their capacity to work at high pressure, and to remain practically immune from disease until (at the close of a long life of usefulness) the Ego deliberately chooses to “die-out” of physical existence. It will come when the medical profession concentrates upon preventative action, substituting sunshine, a vegetarian diet, and the application of the laws of magnetic vibration and vitality for the present regimen of drugs and surgical operations. Then will come the time when finer and better human beings will manifest on earth. When also physicians learn the nature of the etheric body, and the work of the spleen as a focal point for pranic emanations, then sound principles and methods will be introduced which will do away with such diseases as tuberculosis, debility, malnutrition and the diseases of the blood and of the kidneys. When doctors comprehend the effect of the emotions upon the nervous system, they will turn their attention to the amelioration of environal conditions, and will study the effects of the emotional currents upon the fluids of the body, and primarily upon the great nerve centers, and the spinal column. When the connection between the dense physical and the subtler bodies is a fact established in medical circles, then will the right treatment of lunacy, of obsessions, and of wrong mental conditions be better comprehended, and the results more successful; finally, when the nature of egoic force, or of energy is studied, and the function of the physical brain as the transmitter of egoic intent is better comprehended, then the coordination of man’s entire being will be studied, and illness, debility and disease, will be traced to their just cause, and will be treated through the cause and not just through the effect.

Mặc khải này sẽ đến khi giới y học chấp nhận giáo huấn này như một giả thuyết công tác, và rồi bắt đầu lưu ý, chẳng hạn, sức bền bỉ do những linh hồn lớn của địa cầu biểu hiện, và năng lực làm việc ở áp lực cao, và hầu như miễn nhiễm với bệnh tật cho đến khi (vào cuối một đời dài hữu ích) Chân ngã cố ý chọn “ra khỏi” hiện hữu hồng trần. Nó sẽ đến khi giới y tập trung vào hành động phòng ngừa, thay thế ánh dương, chế độ chay tịnh, và sự ứng dụng các định luật rung động từ tính và sinh lực cho chế độ thuốc men và phẫu thuật hiện nay. Bấy giờ sẽ đến thời kỳ những con người tốt đẹp và tinh luyện hơn xuất hiện trên trần. Khi các y sĩ cũng học được bản chất của thể dĩ thái, và công việc của lá lách như một tiêu điểm cho các phóng xạ prana, bấy giờ các nguyên tắc và phương pháp đúng sẽ được giới thiệu, những điều sẽ loại bỏ các chứng bệnh như lao phổi, suy nhược, suy dinh dưỡng và các bệnh của huyết dịch và của thận. Khi các thầy thuốc hiểu tác động của cảm xúc lên hệ thần kinh, họ sẽ hướng sự chú ý đến việc cải thiện các điều kiện môi sinh, và sẽ nghiên cứu các hiệu ứng của các dòng cảm xúc lên các dịch thể trong thân, và chủ yếu lên các trung tâm thần kinh lớn, và cột sống. Khi mối liên hệ giữa thể xác đậm đặc và các thể tinh vi trở thành một sự kiện được thiết lập trong giới y học, bấy giờ sự điều trị đúng đắn các chứng điên loạn, ám nhiễm, và các tình trạng tâm thần sai lệch sẽ được hiểu rõ hơn, và kết quả thành công hơn; sau cùng, khi bản chất của lực chân ngã, hay của năng lượng được khảo cứu, và chức năng của bộ não hồng trần như kẻ truyền đạt ý định của chân ngã được hiểu rõ hơn, bấy giờ sự phối kết toàn thể hữu thể con người sẽ được khảo sát, và đau ốm, suy nhược và bệnh tật sẽ được lần theo nguyên nhân đích thực của chúng, và sẽ được điều trị từ nguyên nhân chứ không chỉ từ hậu quả.

(2) The entire social world of thought will apply itself to the understanding of the emotional nature of [813] humanity, to the group relationships involved, and to the interaction between individuals and other individuals, between groups and other groups. These relationships will be interpreted wisely and broadly and a man will be taught his responsibility to the lesser lives which he ensouls. This will produce a just direction of individual force, and its utilization for the stabilization, the development, and the refining of the substance of the different vehicles. Men will also be taught their definite responsibility under law to their own individual families. This will bring about the protection of the family unit, and its scientific development; it will cause the elimination of marital troubles, and the abolition of abuses of different kinds, so prevalent now in many family circles.

(2) Toàn bộ thế giới tư tưởng xã hội sẽ áp dụng mình vào việc thấu hiểu bản tính cảm xúc của [813] nhân loại, các mối liên hệ nhóm liên hệ, và sự tương tác giữa cá nhân với cá nhân, giữa nhóm với nhóm. Những mối liên hệ này sẽ được diễn giải một cách minh triết và quảng bác, và con người sẽ được dạy trách nhiệm của họ đối với các sự sống nhỏ hơn mà họ phú linh. Điều này sẽ sản sinh một sự định hướng đúng đắn của lực cá nhân, và việc sử dụng lực ấy cho việc ổn định, phát triển, và tinh luyện chất liệu của các vận cụ khác nhau. Con người cũng sẽ được dạy trách nhiệm xác định của họ theo luật đối với gia đình riêng của mình. Điều này sẽ mang lại sự bảo vệ đơn vị gia đình, và sự phát triển có tính khoa học của nó; nó sẽ đưa đến việc loại trừ các rắc rối hôn nhân, và bãi bỏ những lạm dụng thuộc nhiều loại, vốn đang phổ biến trong nhiều gia đình hiện thời.

Responsibility to the community in which a man is placed will likewise be emphasized. Men will be taught the true esoteric meaning of citizenship—a citizenship based upon egoic group relations, the law of rebirth, and the real meaning of the law of karma. They will be taught national responsibility, and the place of the community within the nation, and of the nation within the comity of nations. Men will finally be taught their responsibility to the animal kingdom. This will be brought about in three ways:

Trách nhiệm đối với cộng đồng nơi một người cư trú cũng sẽ được nhấn mạnh. Con người sẽ được dạy ý nghĩa nội môn chân thực của quyền công dân—một quyền công dân đặt nền trên các liên hệ nhóm chân ngã, luật tái sinh, và ý nghĩa thực sự của luật nghiệp quả. Họ sẽ được dạy trách nhiệm quốc gia, và vị trí của cộng đồng trong lòng quốc gia, và của quốc gia trong cộng đồng các quốc gia. Cuối cùng, con người sẽ được dạy trách nhiệm của họ đối với giới động vật. Điều này sẽ được mang lại theo ba cách:

1. Man’s truer understanding of his own animal nature.

Sự thấu hiểu đúng hơn của con người về bản tính thú tính của chính mình.

2. A comprehension of the laws of individualization, and the effect of the influence of the fourth, or human, kingdom upon the third, or animal, kingdom.

Một sự lĩnh hội các định luật biệt ngã hóa, và tác động của ảnh hưởng của giới thứ tư, hay nhân loại, lên giới thứ ba, hay thú vật.

3. The work of an Avatar of a lesser order Who will come in the beginning of the next century to reveal to man his relationship to the third kingdom. His way is being prepared by the many who in these days are developing public interest through the [814] various societies for the benefit and protection of animals, and through the many stories to be found in books and current periodicals.

Công tác của một Đấng Hoá Thân cấp thấp hơn, Sẽ đến vào đầu thế kỷ tới để mặc khải cho con người mối liên hệ của y với giới thứ ba. Con đường của Ngài đang được chuẩn bị bởi nhiều người ngày nay đang phát triển quan tâm của công chúng thông qua [814] các hội đoàn khác nhau vì quyền lợi và bảo vệ thú vật, và qua nhiều truyện kể được tìm thấy trong sách vở và các tạp chí hiện thời.

We are told by H. P. B. (S. D., III, 580.) that the sense of responsibility is one of the first indications of egoic control, and as more and more of the human family come under egoic influence, conditions will be bettered slowly and steadily in every department of life.

Chúng ta được Bà H. P. B. cho biết (S. D., III, 580.) rằng ý thức trách nhiệm là một trong những dấu hiệu đầu tiên của sự chế ngự của chân ngã, và khi càng nhiều người trong gia đình nhân loại đi vào ảnh hưởng chân ngã, các điều kiện sẽ chậm rãi và vững vàng được cải thiện trong mọi lĩnh vực của đời sống.

(3) In the educational world an apprehension of man’s true nature will bring about a fundamental change in the methods of teaching. The emphasis will be laid upon teaching people the fact of the Ego on its own plane, the nature of the lunar bodies, and the methods of aligning the lower bodies so that the Ego can communicate direct with the physical brain, and thus control the lower nature and work out its purposes. Men will be taught how, through concentration and meditation, they can ascertain knowledge for themselves, can develop the intuition, and thus draw upon the resources of the Ego. Then will men be taught to think, to assume control of the mental body, and thus develop their latent powers.

(3)  Trong thế giới giáo dục  sự lĩnh hội bản tính chân thực của con người sẽ đem lại một thay đổi nền tảng trong các phương pháp dạy học. Sự nhấn mạnh sẽ đặt vào việc dạy cho mọi người sự kiện  về Chân ngã trên chính cõi của nó, bản chất của các thể âm nguyệt, và các phương pháp chỉnh hợp các thể thấp để Chân ngã có thể thông tin trực tiếp với bộ não hồng trần, và như vậy chế ngự bản chất thấp và thực hiện các mục đích của mình. Con người sẽ được dạy cách, thông qua tập trung và tham thiền, họ có thể tự đắc tri, có thể phát triển trực giác, và do đó rút lưu các tài nguyên của Chân ngã. Rồi con người sẽ được dạy cách tư duy,  nắm quyền điều khiển thể trí, và như vậy phát triển các năng lực tiềm ẩn của họ.

In the above few remarks are indicated very briefly and inadequately the results which may be looked for from a true understanding of the essential nature of man. It has been written in view of the necessity these days of a statement as to the real or inner man, and as to the laws of the kingdom of God. That inner man has ever been known to be there, and the “kingdom within” has ever been proclaimed until H. P. B. came and gave out the same old truths from a new angle, giving an occult turn to mystic thought. Now comes the opportunity for man to realize the laws of his own being, and in that realization those who stand on the verge of intuitional apprehension of knowledge and those of scientific bent who are willing to accept these truths as a working [815] hypothesis to be utilized as a basis for experiment until proven false, will have the chance to solve the world problems from within. Thus will the Christ principle be manifested upon earth, and thus will the Christ nature be demonstrated to be a fact in nature itself.

Trong vài nhận xét trên đã được chỉ thị rất ngắn gọn và chưa đầy đủ các kết quả có thể trông đợi từ một sự thấu hiểu chân thực về bản tính cốt yếu của con người. Điều này được viết ra bởi nhu cầu hiện nay về một tuyên ngôn liên quan đến con người thực hay con người nội tại, và về các định luật của… Con người nội tại ấy bao giờ cũng được biết là hiện hữu, và “vương quốc ở bên trong” vốn đã được công bố mãi cho đến khi Bà H. P. B. xuất hiện và trình bày những chân lý xưa cũ ấy dưới một góc nhìn mới, đem một chuyển hướng huyền bí cho tư tưởng thần bí. Nay đến cơ hội để con người nhận ra các định luật của chính sự sống mình, và trong nhận thức ấy, những ai đứng bên bờ sự lĩnh hội trực giác về tri thức và những người có khuynh hướng khoa học sẵn sàng chấp nhận các chân lý này như một [815] giả thuyết làm việc để được sử dụng như một nền tảng cho thực nghiệm cho đến khi bị chứng minh là sai, sẽ có cơ hội giải quyết các vấn đề thế giới từ nội tâm. Như thế, nguyên lý Christ sẽ được biểu hiện trên địa cầu, và như thế, bản tính Christ sẽ được chứng minh là một sự kiện trong chính thiên nhiên.

The value to the public thought of a true explanation of the evolution of the Ego, and its gradually developing power on earth is very great. There are two ways in which man may view this matter, both of which provide food for meditation, and well merit serious consideration. Both of them have been somewhat dealt with by thinkers of many schools of thought, and hence do not require any lengthy elucidation. The problem may be regarded as one calling for the elevation of the inner consciousness of the human unit (functioning in the physical body) to the higher levels of the mental plane, and therefore involves a raising or expansion of his waking consciousness till it becomes aware of this higher life. This is the way of mystical approach, and many instances of its successful accomplishment can be studied in the lives of the mystics of all ages. By sheer devotion and strenuous application, and by a severe disciplining of the physical body, the mystic effects his entrance into the heart center of his little system, and his life becomes irradiated by the beams of his own central sun—the egoic light divine. The problem may again be regarded as one in which the effort of the man is concentrated in an attempt to bring down into the physical brain consciousness, and thus on to the physical plane, the life and power and energy of the inner center, the Ego. This involves necessarily a scientific apprehension of the laws of being, and a recognition of the dual nature of the Self. It involves a devotion to the work of bringing about a domination of the lunar lords through the radiant control of the solar Lord. This is the occult method. It is the method of studying the constitution of those entities who form the [816] fourfold lower nature, the personality, and a close investigation of those divine Essences Who build the body of the Ego or higher self. To this must be added a severe application of the laws of nature to the individual problem.

Giá trị đối với tư duy công chúng của một giải thích chân thực về sự tiến hóa của Chân ngã, và quyền năng dần phát triển của nó trên địa cầu là vô cùng to lớn. Có hai cách mà con người có thể nhìn nhận vấn đề này, cả hai đều cung cấp nhiều điều đáng suy ngẫm, và rất đáng được xem xét nghiêm túc. Cả hai đã phần nào được đề cập đến bởi các nhà tư tưởng thuộc nhiều trường phái, do đó không đòi hỏi một sự minh giải dài dòng. Vấn đề có thể được xem như một tiếng gọi nâng cao tâm thức nội tại của đơn vị nhân loại (đang hoạt động trong thể xác) lên các cấp độ cao hơn của cõi trí, và vì vậy bao hàm một sự nâng hay mở rộng tâm thức thức tỉnh của y cho đến khi nó trở nên tự biết về đời sống cao hơn này. Đây là con đường tiếp cận theo lối thần bí, và có thể nghiên cứu nhiều trường hợp thành tựu của nó trong cuộc đời của các nhà thần bí qua mọi thời đại. Bằng lòng sùng kính thuần túy và sự áp dụng tinh cần, và bằng sự kỷ luật nghiêm khắc đối với thể xác, nhà thần bí thực hiện sự đi vào trung tâm tim của tiểu hệ của y, và đời sống y được chói rạng bởi những tia sáng của mặt trời trung tâm riêng—ánh sáng chân ngã thiêng liêng. Vấn đề cũng có thể lại được xem như một vấn đề trong đó nỗ lực của con người tập trung vào việc cố gắng đem xuống bộ não thể xác, và như thế là xuống cõi hồng trần, đời sống, quyền năng và năng lượng của trung tâm nội tại, Chân ngã. Điều này tất yếu đòi hỏi một sự lĩnh hội khoa học về các định luật của sự sống, và một sự nhận thức về tính nhị nguyên của Tự Ngã. Nó bao hàm một sự tận hiến cho công việc đưa đến sự chế ngự các nguyệt tinh quân thông qua sự kiểm soát chói rạng của nhật tinh quân. Đây là phương pháp huyền môn. Đó là phương pháp nghiên cứu cấu trúc của những thực thể cấu thành [816] bản chất tứ phân thấp, tức phàm ngã, và là cuộc khảo sát kỹ lưỡng về các Bản Thể thiêng liêng xây dựng thể của Chân ngã hay chân ngã cao hơn. Vào đó phải được thêm vào sự áp dụng nghiêm ngặt các định luật thiên nhiên vào vấn đề cá nhân.

What is proposed in this Treatise is to follow the latter method, as the aim is to make clear the rationale of the process.

Điều được đề xuất trong Luận này là theo phương pháp sau cùng, vì mục đích là làm rõ cơ lý của tiến trình.

[Commentary S7S7]

(b) The Evolution of the Petals —(b) Sự Tiến Hóa của Các Cánh Hoa

The building of the causal body is the result of dual energy, that of the lower self with its reflex action upon the higher unit, and that of the natural energy of the self as it makes its direct impress upon the substance of the egoic lotus. It should here be remembered that, subtle though the material may be, the egoic lotus is as truly substance of a particular vibration as is the physical body, only (owing to its rarity) physical plane man regards it practically as non-substantial. It is in fact, as earlier pointed out, the result of the dual vibration of the fivefold Dhyanis or Gods in conjunction with the fourfold Quaternary, or the Pitris of the lower vehicles. Through a conscious effort of the planetary Logoi, these Dhyanis and lower Pitris are brought into a close relationship. This produces (upon the third subplane of the mental plane) a ninefold vibration or whorl in the gaseous matter of the plane—for this is the cosmic gaseous subplane—which, after a certain period of persistence, assumes the form of a nine-petalled lotus. This lotus is folded over in bud shape upon the central point, or heart of the lotus—that spark of electric fire which by its action or innate vitality working upon the substance of the lotus, attracts to itself sufficient of that substance to form three inner petals, which closely shield the central spark; these are nevertheless of the same substance or essence as the nine other petals. The student must be careful not to materialize his concept too much and it might therefore be wise for him to view [818] this manifestation from other angles and employ other terms to express the same idea. For instance, the body of the Ego may be viewed in the following four ways:

Việc xây dựng thể nguyên nhân là kết quả của năng lượng kép: của phàm ngã với tác động phản chiếu của nó lên đơn vị cao hơn, và của năng lượng thiên nhiên của tự ngã khi nó khắc ấn trực tiếp lên chất liệu của hoa sen chân ngã. Ở đây cần nhớ rằng, dù chất liệu có vi tế đến đâu, hoa sen chân ngã thật sự là chất liệu có một tần số rung riêng biệt như thể xác, chỉ có điều (do độ hiếm vi tế của nó) con người ở cõi hồng trần hầu như xem nó như phi vật chất. Thật ra, như đã nêu trước, nó là kết quả của rung động kép của năm vị Dhyanis hay các Chư Thiên phối hiệp với Bộ Tứ tứ phân, tức các Tổ phụ của các vận cụ thấp. Thông qua một nỗ lực có ý thức của các Hành Tinh Thượng đế, các Dhyanis và các Tổ phụ thấp được đưa vào một mối liên hệ mật thiết. Điều này tạo ra (trên cõi phụ thứ ba của cõi trí) một rung động hay một vòng xoáy chín phần trong chất hơi khí của cõi—vì đây là cõi phụ hơi khí vũ trụ—cái mà, sau một thời kỳ tồn tại nhất định, đảm nhận hình thức của một hoa sen chín cánh. Hoa sen này khép lại theo hình nụ bao quanh điểm trung tâm, hay trái tim của hoa sen—tia lửa lửa điện ấy, nhờ tác động hay sinh lực bẩm sinh của nó làm việc trên chất liệu của hoa sen, lôi kéo về mình đủ chất liệu ấy để hình thành ba cánh hoa bên trong, che chở khít khao tia lửa trung tâm; tuy vậy chúng vẫn cùng chất hay cùng bản thể với chín cánh còn lại. Đạo sinh phải thận trọng đừng quá vật chất hóa quan niệm của mình và do đó có lẽ khôn ngoan nếu y nhìn [818] biểu hiện này từ các góc độ khác và dùng những thuật ngữ khác để diễn đạt cùng một ý. Chẳng hạn, thể của Chân ngã có thể được nhìn theo bốn cách sau:

As nine vibrations, emanating from a central point, which, in its pulsation or radiations produces three major vibrations of great force pursuing a circular activity around the center; the nine vibrations pursue a diagonal path until they reach the periphery of the egoic sphere of influence. At this point they swing around, thus forming the well-known spheroidal form of the causal body.

Như chín rung động, xuất lộ từ một điểm trung tâm, cái mà trong sự dao động hay bức xạ của nó tạo ra ba rung động chính có lực mạnh theo đuổi một hoạt động vòng tròn quanh tâm; chín rung động theo một lối đi chéo cho đến khi chúng đến chu vi của quả cầu ảnh hưởng của chân ngã. Tại điểm này chúng quay vòng, như vậy hình thành hình cầu quen thuộc của thể nguyên nhân.

As nine petals of a lotus, radiating from a common center, and hiding within themselves three central petals, which conceal a central point of fire. The radiations from the tip of each petal are those which cause the illusion of a spheroidal shape.

Như chín cánh của một hoa sen, tỏa ra từ một tâm chung, và che giấu bên trong chúng ba cánh trung tâm, vốn che khuất một điểm lửa trung tâm. Những bức xạ từ đầu mỗi cánh là cái gây ra ảo tưởng về một hình dạng hình cầu.

As nine spokes of a wheel, converging towards a central hub, which is in itself threefold, and which hides the central energy or dynamo of force—the generator of all the activity.

Như chín nan hoa của một bánh xe, quy tụ về một moay-ơ trung tâm, bản thân nó là ba ngôi, và che giấu năng lượng trung tâm hay máy phát lực—kẻ phát sinh mọi hoạt động.

As nine types of energy which produce definite emanations from a threefold unit, again itself an outgoing from a central unit of force.

Như chín loại năng lượng tạo nên các xuất lộ xác định từ một đơn vị tam phân, chính nó lại là một sự phóng xuất ra từ một đơn vị năng lực trung tâm.

For all purposes, the second definition will be the one of the most use to us in our attempt to picture the constitution, nature, method of development and true evolution of the Ego, functioning in the causal body.

Cho mọi mục đích, định nghĩa thứ hai sẽ hữu dụng nhất cho chúng ta trong nỗ lực hình dung cấu tạo, bản tính, phương pháp phát triển và sự tiến hóa chân thực của Chân ngã đang hoạt động trong thể nguyên nhân.

In terms of fire, the same truths may be expressed as follows, and this should be carefully pondered upon by the student of this Treatise:

Bằng ngôn ngữ của lửa, cùng những chân lý ấy có thể được diễn đạt như sau, và điều này cần được đạo sinh của Luận này suy ngẫm cẩn trọng:

1. Electric fire—Spirit—Will aspect—Jewel in the lotus.

1. Lửa điện—Tinh thần—Phương diện Ý chí—Viên ngọc trong hoa sen.

2. Solar fire—Consciousness—Love aspect—The nine petals.

2. Lửa Thái dương—Tâm thức—Phương diện Bác ái—Chín cánh hoa.

3. Fire by friction—Substance—Activity aspect—The three permanent atoms. [819]

3. Lửa do ma sát—Chất liệu—Phương diện Hoạt động—Ba Nguyên tử trường tồn. [819]

– In electric fire, the Monad is represented in its threefold nature, and stands for that type of manifestation which will be brought to its highest stage of development in the next solar system.

Trong lửa điện,  Chân thần được biểu thị trong bản tính tam phân của Nó, và tượng trưng cho kiểu biểu hiện sẽ được đưa đến giai đoạn phát triển cao nhất trong hệ mặt trời kế tiếp.

– In solar fire, these solar Pitris in their ninefold formation represent and make possible the unfolding of the consciousness of the Monad through the medium of the Ego in the three worlds of human evolution.

Trong lửa Thái dương,  các thái dương Tổ phụ này, trong hình thức chín phần của Các Ngài, biểu thị và làm cho khả dĩ sự khai mở tâm thức của Chân thần thông qua trung gian của Chân ngã trong ba cõi giới tiến hóa nhân loại.

– In fire by friction, the lunar Pitris are represented and constitute the lower self, the personality, or those vehicles by means of which the Ego in turn is to acquire experience on the lower planes.

Trong lửa do ma sát,  các thái âm Tổ phụ được biểu thị và tạo thành phàm ngã, tức phàm ngã, hay các vận cụ nhờ đó Chân ngã lại có thể thu thập kinh nghiệm trên các cõi thấp.

Yet these three are one in manifestation within the egoic auric egg, and the interchange of energy and vitality proceeds steadily. Spirit uses the Soul, or the Ego, as a vehicle of enlightenment, and the Ego uses the lower Quaternary as its medium of expression. The evolution of Spirit can really therefore be divided into three stages:

Tuy nhiên, ba yếu tố này là một trong biểu hiện bên trong noãn hào quang chân ngã, và sự hoán lưu năng lượng và sinh lực diễn tiến đều đặn. Tinh thần dùng Linh hồn, hay Chân ngã, như một vận cụ soi sáng, và Chân ngã dùng Bộ Tứ thấp như môi giới để biểu lộ. Sự tiến hóa của Tinh thần thật ra vì thế có thể được phân chia làm ba giai đoạn:

– First. The stage in which the lunar Pitris function primarily, and prepare the lower sheaths for occupancy. The lower vibrations control, and “fire by friction” is that which warms and nourishes to the practical exclusion of all else.

Thứ nhất. Giai đoạn trong đó các thái âm Tổ phụ hoạt động chủ yếu, và chuẩn bị các lốt thấp cho việc cư trú. Các rung động thấp khống chế, và “lửa do ma sát” là cái sưởi ấm và nuôi dưỡng, hầu như loại trừ tất cả những gì khác.

– Second. The stage in which the solar Pitris gradually become predominant, in which the egoic consciousness is developed. The sheaths are occupied by the Thinker, are gradually controlled by him, are bent to his will and purpose, and are eventually discarded. The middle vibrations control and solar fire irradiates; it lights up in due course of evolution the lower sheaths; it gradually increases its heat, and eventually aids in the destruction of the forms.

Thứ hai. Giai đoạn trong đó các thái dương Tổ phụ dần trở nên trội hơn, trong đó tâm thức chân ngã được phát triển. Các lốt được Đấng Tư duy cư trú, dần được Ngài kiểm soát, được uốn theo ý chí và mục đích của Ngài, và rốt cuộc bị loại bỏ. Các rung động trung giới khống chế và lửa Thái dương chiếu rạng; đến giai đoạn thích đáng của tiến hóa, nó thắp sáng các lốt thấp; nó dần gia tăng nhiệt lực của nó, và cuối cùng trợ giúp việc hủy hoại các hình thể.

– Third. The stage in which electric fire is revealed, and through the intensity of its blaze puts out the other fires. The lunar Pitris have fulfiled their work, the solar Pitris [820] have developed the self-conscious unit, man, and the monad (having utilized both) discards both, and withdraws into itself, this time plus the gain of material existence, and plus developed love-wisdom.

Thứ ba. Giai đoạn trong đó lửa điện được hiển lộ, và nhờ cường độ bừng sáng của nó mà dập tắt các lửa khác. Các thái âm Tổ phụ đã hoàn tất công việc của mình, các thái dương Tổ phụ [820] đã phát triển đơn vị tự thức, con người, và chân thần (sau khi đã sử dụng cả hai) loại bỏ cả hai, và quy hồi tự nội, lần này cộng thêm phần thu hoạch từ sự tồn tại vật chất, và cộng thêm bác ái–minh triết đã được phát triển.

In terms of the old Commentary, the truth is thus stated:

Theo ngôn từ của Cổ Luận, chân lý được phát biểu như sau:

“The Lord of Life Himself sits at the heart and watches. The Lords of solar fire pursue their task and sacrifice themselves to the lunar Lords of all the lower planes. They die, but resurrect. They pass without, and come again. Yet the Lord of Life sits still.

“Chính Chúa Tể của Sự Sống ngự ở trái tim và quan sát. Các Chúa tể của lửa Thái dương theo đuổi công việc của Các Ngài và tự hiến mình cho các nguyệt tinh quân của mọi cõi thấp. Các Ngài chết, nhưng phục sinh. Các Ngài đi ra ngoài, và lại đến. Tuy vậy Chúa Tể của Sự Sống vẫn an tọa.

The lunar Lords begin to die; their power begins to wane with each successive cycle. The solar Lords shine forth in triumph and consign the fourfold ones to fire,—the fire which burns and dissipates the form.

Các nguyệt tinh quân bắt đầu chết; quyền năng của họ bắt đầu suy giảm theo mỗi chu kỳ kế tiếp. Các nhật tinh quân chiếu rạng trong khải hoàn và trao phó những kẻ tứ phân cho lửa,—ngọn lửa thiêu đốt và làm tiêu tan hình thể.

Many times the work repeats itself; the cycles wax and wane, until the day triumphant when the solar Lord acclaims himself and knows himself the ruler.

Nhiều lần công việc lặp lại; các chu kỳ tăng giảm, cho đến ngày khải hoàn khi nhật tinh quân tự tuyên xưng mình và tự biết mình là vị cai quản.

The Lord of Life then turns Himself, and arises in His might. He consumes the solar Lords, and they perish as did the lunar Lords. He speaks a Word; the fire descends. The blaze bursts forth. Gone is the lower fire through the flame of solar burning, gone is the middle fire through the intensity of fire from Heaven.

Bấy giờ Chúa Tể của Sự Sống xoay mình, và trỗi dậy trong Uy lực của Ngài. Ngài thiêu tận các nhật tinh quân, và họ diệt vong như các nguyệt tinh quân. Ngài xướng một Linh từ; lửa giáng hạ. Ngọn bừng bừng bốc lên. Lửa thấp đã tắt do ngọn cháy của lửa Thái dương, lửa trung đã tắt do cường độ của Lửa từ Trời.

Naught remaineth save a threefold flame of violet, indigo and yellow. THAT disappears. Then darkness reigns. Yet the Lord of Life persists, though invisible.”

Không còn lại gì ngoài một ngọn tam hỏa của tím, chàm và vàng. CÁI ẤY biến mất. Rồi bóng tối trị vì. Tuy vậy Chúa Tể của Sự Sống vẫn tồn tại, dù vô hình.”

As we know, the egoic lotus consists of three circles,—each circle being composed of three petals, and all shielding the inner bud where hides the jewel. It is with the evolution of these petals that we are concerned, with their formation, their vitalization, their nurturing, and eventual unfoldment. It will be useful for the student at this stage to remember that we are primarily dealing with the development of the second aspect in man, the love-wisdom aspect, and are only secondarily considering the third aspect, that of activity which finds its energizing centers in the three permanent atoms. [821]

Như chúng ta biết, hoa sen chân ngã gồm ba vòng tròn,—mỗi vòng gồm ba cánh, và tất cả che chở nụ bên trong nơi viên ngọc ẩn giấu. Chúng ta quan tâm đến sự tiến hóa của các cánh hoa này, với sự hình thành, sự tiếp sinh lực, sự nuôi dưỡng, và rốt cuộc là sự khai mở của chúng. Sẽ hữu ích cho đạo sinh ở giai đoạn này nhớ rằng chúng ta chủ yếu đang xử lý sự phát triển của Phương diện thứ hai nơi con người, phương diện bác ái–minh triết, và chỉ thứ yếu xét đến phương diện thứ ba, tức phương diện hoạt động, vốn tìm các trung tâm tiếp năng lượng của mình ở ba Nguyên tử trường tồn. [821]

These three circles of petals are called in the esoteric terminology:

Ba vòng tròn cánh hoa này, trong thuật ngữ nội môn, được gọi là:

1. The “outer knowledge” triad, or the lords of active wisdom.

1. Bộ ba “tri thức ngoại tại”, hay các chúa tể của minh triết hoạt động.

2. The middle “love” triad, or the lords of active love.

2. Bộ ba “bác ái” ở giữa, hay các chúa tể của tình thương hoạt động.

3. The inner “sacrificial” triad, or the lords of active will.

3. Bộ ba “hy sinh” bên trong, hay các chúa tể của ý chí hoạt động.

The first is the summation of experience and developed consciousness; the second is the application of that knowledge in love and service, or the expression of the Self and the Not-Self in reciprocal vibration; and the third is the full expression of knowledge and love turned toward the conscious sacrifice of all to the furthering of the plans of the planetary Logos, and to the carrying out of His purposes in group work. Each of these three groups of petals come under the definite guidance of three groups of Agnishvattas, who form them out of their own substance and who in essence are the threefold Ego during its manifestation. Through them flows the force and coherent energy of those mysterious Entities whom (when considering the human family as a whole) we call:

Bộ thứ nhất là tổng hợp của kinh nghiệm và tâm thức đã phát triển; bộ thứ hai là sự ứng dụng tri thức ấy trong tình thương và phụng sự, hay là sự biểu lộ của Tự Ngã và Phi Ngã trong rung động đối ứng; và bộ thứ ba là sự biểu lộ trọn vẹn của tri thức và tình thương hướng về sự hy sinh có ý thức tất cả cho việc xúc tiến các kế hoạch của Hành Tinh Thượng đế, và cho việc thi hành các Mục đích của Ngài trong công việc tập thể. Mỗi một trong ba nhóm cánh hoa này nằm dưới sự hướng dẫn xác định của ba nhóm Agnishvattas, những vị hình thành chúng từ chính chất liệu của Các Ngài và về bản chất là Chân ngã tam phân trong suốt kỳ biểu hiện của nó. Thông qua Các Ngài tuôn chảy mãnh lực và năng lượng kết tụ của những Thực Thể huyền bí mà (khi xét đến toàn thể gia đình nhân loại) chúng ta gọi là:

a. The Buddhas or Lords of Activity.

a. Các Đức Phật hay các Chúa tể của Hoạt động.

b. The Buddhas or Lords of Compassionate Love.

b. Các Đức Phật hay các Chúa tể của Từ bi Bác ái.

c. The Buddhas of Sacrifice, of Whom the Lord of the World is, to man, the best known exponent.

c. Các Đức Phật của Hy sinh, mà đối với con người, Đức Chúa Tể Thế Giới là vị hiện thân được biết đến rõ nhất.

Through these three groups flows that threefold energy which, on the mental plane, finds its medium of expression in connection with the human kingdom, in the three groups of Agnishvattas or solar Pitris above referred to. These groups form the substance of the three circles of petals, and each group has also a special influence upon the particular petal belonging to their especial scale of vibrations. For the sake of clarity, we might tabulate the various petals so that the student may [822] get a clearer comprehension of the conformation of his own causal vehicle, and some idea of the various triangular relationships:

Thông qua ba nhóm này mà ba luồng năng lượng tam phân ấy chảy đến, cái mà trên cõi trí tìm ra môi giới biểu lộ của nó trong mối liên hệ với giới nhân loại, trong ba nhóm Agnishvattas hay thái dương Tổ phụ đã nói ở trên. Các nhóm này tạo thành chất liệu của ba vòng tròn cánh hoa, và mỗi nhóm cũng có ảnh hưởng đặc biệt lên cánh hoa đặc thù thuộc thang rung động riêng của họ. Vì sự minh bạch, chúng ta có thể lập bảng các cánh hoa khác nhau để đạo sinh [822] có thể hiểu rõ hơn về hình thể của vận cụ nguyên nhân của chính mình, và có một ý niệm nào đó về các mối liên hệ tam giác khác nhau:

I. The outer “knowledge” triad:

I.  Bộ ba “tri thức” ngoại tại:

a. Petal 1—Knowledge on the physical plane.

a. Cánh 1—Tri thức trên cõi hồng trần.

Colors: Orange, green and violet.

Màu sắc: cam, lục và tím.

b. Petal 2—Love on the physical plane.

b. Cánh 2—Tình thương trên cõi hồng trần.

Colors: Orange, rose and blue.

Màu sắc: cam, hồng và lam.

c. Petal 3—Sacrifice on the physical plane.

c. Cánh 3—Hy sinh trên cõi hồng trần.

Colors: Orange, yellow and indigo.

Màu sắc: cam, vàng và chàm.

These three petals are organized and vitalized in the Hall of Ignorance, but remain unopened and only begin to unfold as the second circle is organized.

Ba cánh này được tổ chức và tiếp sinh lực trong Phòng Vô Minh,  nhưng vẫn chưa mở và chỉ bắt đầu hé nở khi vòng tròn thứ hai được tổ chức.

II. The middle “love” triad:

II. Bộ ba “bác ái” ở giữa:

a. Petal 1—Higher Knowledge applied through love on the physical and astral planes.

a. Cánh 1—Tri thức cao được áp dụng qua tình thương trên các cõi hồng trần và cảm dục.

Colors: Rose, and the original three.

Màu sắc: hồng, và ba màu nguyên thủy.

b. Petal 2—Higher intelligent love on the physical and astral planes.

b. Cánh 2—Tình thương thông minh cao trên các cõi hồng trần và cảm dục.

Colors: Rose and the corresponding three [Orange, rose and blue].

Màu sắc: hồng và ba màu tương ứng [cam, hồng và lam].

c. Petal 3—Loving intelligent sacrifice on the physical and astral planes.

c. Cánh 3—Hy sinh đầy tình thương thông minh trên các cõi hồng trần và cảm dục.

Colors: Rose and the same three [Orange, yellow and indigo].

Màu sắc: hồng và ba màu như trước [cam, vàng và chàm].

These three petals preserve the fundamental orange but add the color rose in every petal, so that four colors are now seen. These petals are organized and vitalized in the Hall of Learning, but remain unopened. The outer tier of petals simultaneously unfolds till it is open entirely, revealing the second circle; the third remains shielded.

Ba cánh này giữ nền tảng màu cam nhưng thêm màu hồng trong mỗi cánh, vì vậy giờ đây thấy bốn màu. Các cánh này được tổ chức và tiếp sinh lực trong Phòng Học Hỏi,  nhưng vẫn chưa mở. Vòng cánh hoa ngoài cùng đồng thời khai mở cho đến khi mở hoàn toàn, để lộ vòng tròn thứ hai; vòng thứ ba vẫn còn được che chở.

[Commentary S7S7 Part 2]

The inner “sacrificial” triad:

Bộ ba “hy sinh” bên trong:

a. Petal 1—The Will to sacrifice through knowledge on the mental plane, and thus intelligently to dominate the entire threefold lower man.

a. Cánh 1—Ý chí hy sinh qua tri thức trên cõi trí, và như thế thông minh mà chế ngự toàn bộ phàm ngã tam phân.

Colors: Yellow and the four colors, orange, green, violet and rose. [824]

Màu sắc: vàng và bốn màu cam, lục, tím và hồng. [824]

b. Petal 2—The will to sacrifice through love on the mental plane, and thus to serve.

b. Cánh 2—Ý chí hy sinh qua tình thương trên cõi trí, và nhờ thế mà phụng sự.

Colors: Yellow and the four colors, orange, violet, rose and blue.

Màu sắc: vàng và bốn màu cam, tím, hồng và lam.

c. Petal 3—The utter sacrifice of all forever.

c. Cánh 3—Sự hy sinh trọn vẹn mọi sự mãi mãi.

Colors: Yellow, orange, rose, blue and indigo.

Màu sắc: vàng, cam, hồng, lam và chàm.

In the mystery of these subsidiary colors and of the gradual shining forth within the lotus of five colors in any one petal at one time, is veiled the mystery of the five Kumaras. (S. D., I, 483.) The student who seeks the significance of the preponderance of orange and of rose is approaching the secret of the two Kumaras Who fell. More it is not possible to say, but the colors hold the esoteric key to this great occurrence. This inner circle of petals is organized and vitalized in the Hall of Wisdom, and simultaneously the middle circle unfolds, so that two rows of petals are duly opened, and only the third remains to be unclosed. This final opening is effected during the period of treading the stages of the Path of Initiation, and in this round it is hastened by the rites of initiation and by the strenuous and abnormal efforts of the man himself, aided by the electrical work of the Initiator, wielding the Rod of Power.

Trong huyền nhiệm của các màu phụ này và của sự tỏa sáng dần dần bên trong hoa sen của năm màu trong bất kỳ một cánh nào vào cùng một thời điểm, ẩn giấu huyền nhiệm của năm vị Kumara. (Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 483.) Đạo sinh nào tìm ý nghĩa của sự trội vượt của cam và hồng là đang tiến gần bí mật về hai vị Kumara đã sa ngã. Không thể nói thêm nữa, nhưng các màu nắm giữ chìa khóa nội môn cho biến cố trọng đại này. Vòng trong cùng của các cánh hoa được tổ chức và tiếp sinh lực trong Phòng Minh triết, và đồng thời vòng giữa khai mở, sao cho hai hàng cánh hoa được mở hoàn toàn, và chỉ còn hàng thứ ba chưa mở. Sự mở cuối cùng này được thực hiện trong thời kỳ bước trên các giai đoạn của Con Đường Điểm Đạo, và trong dãy này nó được đẩy nhanh bởi các lễ nghi điểm đạo và bởi nỗ lực mạnh mẽ và “bất thường” của chính con người, được trợ lực bởi công tác điện lực của Đấng Điểm đạo, vị vận dụng Thần Trượng Điểm đạo.

Though we have thus divided off the different stages of development, we have but dealt with the general average, gathering our facts from the records to which we have access and which are grouped in relation to this subject into the three groups, related to:

Dù chúng ta đã phân chia những giai đoạn phát triển khác nhau, chúng ta mới chỉ đề cập đến mức độ trung bình, thu thập dữ kiện từ các ghi chép mà chúng ta có thể tiếp cận và vốn được nhóm lại liên quan đến chủ đề này thành ba nhóm, liên hệ với:

a. The Monads of power.

a. Các Chân thần của quyền năng.

b. The Monads of love.

b. Các Chân thần của tình thương.

c. The Monads of activity.

c. Các Chân thần của hoạt động.

The student must remember that according to these groupings, so will be the tendency of the petals to unfold. For instance, in the case of the majority of men, being [825] Monads of Love, the love petals are more easily awakened, for love is the nature of the present manifestation and the line of love in some direction (low, high, or spiritual) is the line of least resistance for the many. Yet the Monads of activity are numerous and influential and the first petal in each ring is for them the easiest to unfold. For both groups the “knowledge” petal is the first opened, owing to the inherent nature of the Manasadevas themselves, and their basic vibration. For all, sacrifice is the hardest, for it involves ever the two factors of intelligence and love,—intelligent knowledge and a love that goes out to that which must be saved through sacrifice.

Đạo sinh phải nhớ rằng theo các nhóm này, khuynh hướng khai mở của các cánh hoa sẽ như vậy. Thí dụ, trong trường hợp đa số nhân loại, với [825] tư cách là các Chân thần của Bác ái, các cánh hoa tình thương được đánh thức dễ dàng hơn, vì tình thương là bản tính của cuộc biểu hiện hiện tại và tuyến tình thương theo một hướng nào đó (thấp, cao, hay tinh thần) là con đường ít trở ngại nhất cho số đông. Tuy vậy, các Chân thần của hoạt động cũng đông đảo và có ảnh hưởng, và cánh thứ nhất trong mỗi vòng đối với họ là dễ khai mở nhất. Đối với cả hai nhóm, cánh “tri thức” là cánh mở đầu tiên, do bản tính cố hữu của chính các Manasadeva, và rung động căn bản của các Ngài. Với tất cả, hy sinh là điều khó nhất, vì nó luôn luôn bao hàm hai yếu tố trí tuệ và tình thương,—tri thức thông minh và một tình thương hướng đến cái phải được cứu độ bằng hy sinh.

[Commentary S7S8 Part 1]

In these three circles of petals lies concealed another clue to the mystery of the 777 incarnations. The figures do not convey an exact number of years, but are figurative and symbolical; they are intended to convey the thought of three cycles of varying duration, based upon the septenary nature of the manifesting monad.

Trong ba vòng tròn cánh hoa này ẩn giấu một đầu mối khác cho huyền nhiệm của 777 lần lâm phàm. Những con số này không diễn đạt một số năm chính xác, mà là biểu tượng và hình tượng; chúng nhằm truyền đạt ý niệm về ba chu kỳ có độ dài khác nhau, dựa trên bản tính thất phân của chân thần đang biểu hiện.

First. The 700 incarnations. These concern the unfoldment of the outer circle. This is the longest period. The initial vibration is slow and heavy, and millennia of lives have to elapse before the interchange of energy between the Ego and its reflection, the personal self (the lower threefold man) is such that the consciousness of the man occultly “awakens” in the Hall of Learning. For advanced man at this time these incarnations took place upon the moon chain and in some cases upon certain planets connected with the inner round. This is the circumstance which necessitated his “coming-in” during the Atlantean root-race. Men of this type refused to incarnate earlier, as the bodies were too coarse; this was the cyclic reflection (on the lowest plane) of the refusal of the Monads to incarnate at the dawn of manvantaric opportunity. No real “sin” was committed; it was their privilege to discriminate, and this refusal has its [826] bearing upon conditions upon Earth, being the basis of the great class distinctions which—in every land—have been so fruitful of trouble and the esoteric foundation of the “caste” system, so abused now in India. The problem of labor and capital has its roots in the subjective distinction between “equipped and unequipped” Egos, between those units of the human family on earth who have passed out of the Hall of Ignorance, and those who are yet groping in its dark and gloomy corridors; between those Egos who are only “bud” Egos, and those who have organized the outer circle of petals, and whose petals are ready to open up.

Thứ nhất. 700 lần lâm phàm. Chúng liên hệ đến sự khai mở của vòng ngoài cùng. Đây là giai đoạn dài nhất. Rung động sơ khởi chậm và nặng, và thiên niên kỷ của những kiếp sống phải trôi qua trước khi sự hoán lưu năng lượng giữa Chân ngã và phản ảnh của nó, tức bản ngã cá nhân (con người tam phân thấp) đạt đến mức mà tâm thức của con người một cách huyền linh “thức tỉnh” trong Phòng Học Hỏi. Đối với người tiến hóa cao ở thời điểm này, những lần lâm phàm đó diễn ra trên dãy Mặt Trăng và trong một số trường hợp trên những hành tinh nào đó có liên hệ với vòng nội tâm. Đây là hoàn cảnh dẫn đến sự “giáng trần” của y trong giống dân gốc Atlantis. Những người thuộc loại này từ chối lâm phàm sớm hơn, vì các xác thân quá thô; đây là phản ánh chu kỳ (trên cõi thấp nhất) của sự từ chối của các Chân thần lâm phàm vào lúc khởi đầu cơ hội manvantara. Không có “tội lỗi” thực sự nào được phạm; đó là đặc quyền của họ để phân biện, và sự từ chối này có [826] liên đới đến các điều kiện trên Địa Cầu, là nền tảng của các giai cấp lớn—ở mọi xứ—vốn đã sinh nhiều rắc rối và là nền tảng nội môn của hệ thống “đẳng cấp” hiện bị lạm dụng ở Ấn Độ. Vấn đề lao động và tư bản có gốc rễ trong sự phân biệt chủ quan giữa các Chân ngã “được trang bị và không được trang bị”, giữa những đơn vị của gia đình nhân loại trên đất mà đã bước ra khỏi Phòng Vô Minh, và những người vẫn còn dò dẫm trong các hành lang tối tăm và ảm đạm của nó; giữa những Chân ngã mới chỉ là “nụ” hoa sen, và những ai đã tổ chức vòng cánh hoa ngoài, và các cánh của họ đã sẵn sàng để khai mở.

The idea of a septenate of centuries must be carefully pondered upon, and as ever in all occult matters, the idea of triplicity must be also borne in mind with a synthesizing period, which is a summation of the triple coordination:

Ý niệm về một bảy bách niên phải được suy ngẫm cẩn trọng, và như bao giờ trong mọi vấn đề huyền môn, ý niệm về tam phân cũng phải luôn được ghi nhớ với một thời kỳ tổng hợp, là phần thâu kết của sự phối hợp tam phân:

The Building Entities (Tabulation IV)

Quality

Entity

Center

Personality

Kingdom

1.

Atma

Logos

Head (Brain)

Grand Heavenly Man

Seventh

Unity

2-3.

Buddhi

Manas

Planetary Logos

Heart and Throat

Heavenly Men

Sixth & Fifth

Duality

4.

Mental

Man

Solar Plexus

Base of Spine

Man

Fourth

Triplicity

5.

Astral

Animal

Generative Organs

Third

Duality

6.

Etheric

Vegetable

Spleen

Second

Transitional

7.

Dense

Mineral

None

First

Unity

Each cycle (again figurative cycles) leaves one of the petals more vitalized, and has a definite effect on each.

Mỗi chu kỳ (lại nữa là các chu kỳ hình tượng) để lại một trong các cánh hoa được tiếp sinh lực hơn, và có một ảnh hưởng xác định lên mỗi cánh.

Second. The 70 incarnations. These concern the unfoldment of the middle circle. Much may be learned from a consideration of the occult significance involved in the sending out of their followers by any initiate (such as the Christ) in groups of seventy, going two and two. These seventy incarnations primarily effect the development of love in the personal life, the evolution of the astral nature, based on the recognition of the pairs of opposites, and their equilibrising in love and service.

Thứ hai. 70 lần lâm phàm. Chúng liên hệ đến sự khai mở của vòng giữa. Nhiều điều có thể học được từ việc xét đến ý nghĩa nội môn hàm ẩn trong việc gửi môn đồ của mình ra đi bởi bất kỳ một điểm đạo đồ nào (như Đức Christ) theo các nhóm bảy mươi, đi hai người một. Bảy mươi lần lâm phàm này chủ yếu tác động sự phát triển tình thương trong đời sống cá nhân, sự tiến hóa của bản chất cảm dục, dựa trên sự nhận ra các cặp đối đãi, và sự quân bình chúng trong tình thương và phụng sự.

This cycle covers the period passed by the man in the [827] Hall of Learning and has its correspondence in the Atlantean root-race and its conflict between the Lords of the Dark Face and the Brotherhood of Light. Within the life of each individual, a similar conflict wages during this period, ending with the final kurukshetra or battleground which earns for the man the right to tread the Probationary Path, and eventually the privilege to stand before the Portal of Initiation. Again the numerical significance of the numbers must be studied; this time they are hid in the number ten, or three cycles of three lesser periods, each making nine, and one synthesizing period, leading up to the consummation of one period within the greater cycle; this is signified by the ten of relative perfection. 63, 64 The interplay between kamic impulse and manasic energy has produced a realization within the consciousness of the Ego of that [828] which he has learned within the two Halls; the outer circle of petals is unfolded, and the central ring is ready to open.

Chu kỳ này bao trùm thời kỳ con người trải qua trong [827] Phòng Học Hỏi và có sự tương ứng của nó trong giống dân gốc Atlantis và cuộc xung đột giữa các Chúa Tể của Diện Mạo Hắc Ám và Huynh đệ của Ánh sáng. Trong đời sống của mỗi cá nhân, một cuộc xung đột tương tự nổi lên trong thời kỳ này, kết thúc bằng kurukshetra sau cùng hay bãi chiến trường đem lại cho con người quyền được bước trên Con Đường Dự Bị, và rốt cuộc là đặc ân đứng trước Cửa Điểm đạo. Một lần nữa, ý nghĩa số học của các con số phải được nghiên cứu; lần này chúng ẩn trong số mười, hay ba chu kỳ của ba giai đoạn nhỏ hơn, mỗi chu kỳ tạo thành chín, và một thời kỳ tổng hợp, dẫn đến sự viên mãn tương đối của một thời kỳ trong chu kỳ lớn hơn; điều này được biểu thị bởi số mười của sự hoàn mãn tương đối. 63, 64 Sự hoán lưu giữa xung lực cảm dục và năng lượng manasic đã sản sinh một sự nhận thức trong tâm thức của Chân ngã về [828] những gì y đã học được trong hai Phòng; vòng cánh hoa ngoài được khai mở, và vòng trung tâm sẵn sàng mở ra.

63 The Number 10.—See S. D., I, 125, 126.

63 Con Số 10.—Xem Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 125, 126.

1. The three, enclosed within the circle are the sacred Four.

1. Bộ ba, được bao bọc trong vòng tròn là Tứ thánh.

a. Adi-Sanat, the Number, Unity. The Logos, or the One in physical incarnation. God and man function as unities on their respective physical planes.

Adi-Sanat, Con Số, Nhất thể. Logos, hay Đấng Duy Nhất trong hiện thân hồng trần. Thượng đế và con người vận hành như các nhất thể trên các cõi hồng trần tương ứng của các Ngài.

b. The Voice of the Word, the Numbers, for He is one and nine. The second aspect. The embodied Idea. Consciousness.

Tiếng Nói của Linh từ,  các Con Số, vì Ngài là một và chín. Phương diện thứ hai. Ý tưởng được thể hóa. Tâm thức.

c. The formless Square, the matter aspect, substance and form. Limitation.

Hình Vuông vô tướng, phương diện vật chất, chất liệu và hình tướng. Sự giới hạn.

Trace these out in connection with:

Hãy lần theo những điều này trong mối liên hệ với:

i. A solar Logos informing a solar system.

Một Thái dương Thượng đế đang thấm nhuần một hệ mặt trời.

ii. A planetary Logos, informing a planetary scheme.

Một Hành Tinh Thượng đế đang thấm nhuần một hệ hành tinh.

iii. Man, informing his bodies of manifestation.

Con người, thấm nhuần các thể biểu lộ của mình.

2. The ten are the arupa universe.

2. Con số mười là vũ trụ arupa.

The emphasis here is laid upon the subjective Lives, or the Intelligent Consciousness within the forms.

Trọng tâm ở đây đặt vào các Sự Sống chủ quan, hay Tâm thức Thông minh bên trong các hình tướng.

These ten might be called:

Mười vị này có thể được gọi là:

I. The first Logos—Shiva—Father—Will.

Đệ nhất Logos—Shiva—Cha—Ý chí.

II. The second Logos—Vishnu—Son—Love-wisdom.

Đệ nhị Logos—Vishnu—Con—Bác Ái – Minh Triết.

III. The third Logos—Brahma—Holy Ghost—Intelligence over-shadowing Matter, Mother.

Đệ tam Logos—Brahma—Chúa Thánh Thần—Trí tuệ phủ bóng Vật chất, Mẹ.

1. The Lord of Cosmic Will—First Ray.

Đấng Chúa Tể của Ý chí Vũ Trụ—Cung thứ nhất.

2. The Lord of Cosmic Love—Second Ray.

Đấng Chúa Tể của Tình thương Vũ Trụ—Cung thứ hai.

3. The Lord of Cosmic Intelligence—Third Ray.

Đấng Chúa Tể của Trí tuệ Vũ Trụ—Cung thứ ba.

4. The Lord of Cosmic Harmony—Fourth Ray.

Đấng Chúa Tể của Hòa điệu Vũ Trụ—Cung thứ tư.

5. The Lord of Cosmic Knowledge—Fifth Ray.

Đấng Chúa Tể của Tri thức Vũ Trụ—Cung thứ năm.

6. The Lord of cosmic Devotion—Sixth Ray.

Đấng Chúa Tể của Sùng tín Vũ Trụ—Cung thứ sáu.

7. The Lord of Cosmic Ceremonial—Seventh Ray.

Đấng Chúa Tể của Nghi lễ Vũ Trụ—Cung thứ bảy.

They are the subjective consciousness, the cause of manifestation.

Các Ngài là tâm thức chủ quan, nguyên nhân của sự biểu lộ.

64 S. D., I, 214; II, 393, 445, 446.

64 Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 214; II, 393, 445, 446.

Third. The 7 incarnations. These are those passed upon the Probationary Path. This is an interesting period in which certain things are effected which might be described in the following terms:

Thứ ba. 7 lần lâm phàm. Đây là những kiếp sống trải qua trên Con Đường Dự Bị. Đây là một thời kỳ thú vị trong đó những điều nào đó được thực hiện mà có thể được mô tả bằng các thuật ngữ sau:

The two outer rings of petals are stimulated in a new and special sense through the conscious act of the probationary disciple. Much of the work hitherto has been pursued under the ordinary laws of evolution and has been unconscious. Now all that changes as the mental body becomes active, and two of the will petals are coordinated, and one “awakes” vitality and unfolds.

Hai vòng ngoài của các cánh hoa được kích thích theo một nghĩa mới và đặc biệt thông qua hành động có ý thức của người đệ tử dự bị. Phần nhiều công việc từ trước đến nay đã được tiến hành theo các định luật tiến hóa thông thường và ở trạng thái vô thức. Bây giờ tất cả thay đổi khi thể trí trở nên hoạt động, và hai cánh ý chí được phối kết, và một cánh “tỉnh” sinh lực và khai mở.

The fire or energy from these two rings begins to circulate along the atomic triangle and when this is the case it marks a very momentous epoch; a dual work has been consummated in the personal lower life and in the egoic:

Lửa hay năng lượng từ hai vòng này bắt đầu lưu chuyển dọc theo tam giác nguyên tử và khi điều này xảy ra thì đánh dấu một thời điểm vô cùng quan trọng; một công việc kép đã được hoàn tất trong đời sống cá nhân thấp và trong chân ngã:

a. The permanent atoms have the four lower spirillae fully active (two groups of two each) and the fifth is in process of arousement into equal activity. The triangle is in circulatory action but has not yet achieved its full brightness nor its rotary or fourth dimensional revolution.

Các Nguyên tử trường tồn có bốn tiểu xoắn thấp hoạt động hoàn toàn (hai nhóm, mỗi nhóm gồm hai) và cái thứ năm đang được khơi dậy để đạt hoạt động ngang bằng. Tam giác ở trong hành động lưu chuyển nhưng chưa đạt đến độ sáng chói trọn vẹn cũng như chưa đạt sự quay vòng hay chuyển động chiều thứ tư.

b. The two circles of petals are “awake,” one being wide open and the other on the verge of opening.

Hai vòng cánh hoa “tỉnh thức”, một vòng đã mở rộng và vòng kia trên bờ mở ra.

Thus in the life of the probationer two aspects of the divine life are making themselves apparent, and though as yet much remains to be done, nevertheless when the inner circle of petals is awakened—through the instrumentality of the curious and abnormal process of initiation—the remaining aspect will be brought into similar prominence, and produce the perfected man in the three [829] worlds. Thus is the work of the Solar Pitris consummated.

Như thế, trong đời sống của người dự bị, hai phương diện của sự sống thiêng liêng đang tự biểu lộ, và tuy vẫn còn nhiều việc phải làm, tuy vậy khi vòng cánh hoa trong được đánh thức—thông qua khí cụ là tiến trình kỳ dị và bất thường của điểm đạo—thì phương diện còn lại sẽ được đưa lên vị trí nổi bật tương tự, và tạo ra con người được hoàn thiện trong ba [829] cõi. Như thế, công trình của các thái dương Tổ phụ được viên thành.

The fact of the abnormality of the process of initiation must here be emphasized.

Cần nhấn mạnh ở đây tính bất thường của tiến trình điểm đạo.

Initiation is in the nature of a great experiment which our planetary Logos is making during this round. In earlier and perhaps in later rounds the whole process will follow natural law. In this round and on this chain, our planetary Logos on His high level is what is esoterically called “sitting for yoga,” and is definitely undergoing certain processes of training in order to stimulate His centers. This fact is being taken advantage of by the Hierarchy on Earth to produce certain results in the races under Their guidance. The whole process is optional, and a man may—if he so choose—follow the normal process, and take aeons of time to effect what some are choosing to do in a briefer period, through a self-chosen forcing process.

Điểm đạo có tính chất của một đại thí nghiệm mà Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang thực hiện trong dãy này. Ở các dãy trước đây và có lẽ ở các dãy sau này toàn bộ tiến trình sẽ theo định luật tự nhiên. Trong dãy này và trên Dãy Địa Cầu, Hành Tinh Thượng đế của chúng ta ở cõi cao theo ngôn ngữ nội môn được gọi là “an tọa hành yoga”, và rõ ràng đang trải qua những tiến trình rèn luyện nhất định để kích thích các trung tâm của Ngài. Sự kiện này đang được Thánh Đoàn trên Địa Cầu tận dụng để tạo ra những kết quả nào đó trong các chủng tộc dưới sự hướng dẫn của Các Ngài. Toàn bộ tiến trình này là tùy chọn, và một người có thể—nếu y chọn như vậy—theo tiến trình tự nhiên, và mất hàng viễn kỷ để thực hiện điều mà một số người đang chọn làm trong một thời gian ngắn hơn, thông qua một tiến trình thúc ép do tự mình lựa chọn.

At the termination of the 777 incarnations, a man passes through the door of initiation and enters upon a brief synthesizing process, or a final period in which he garners the fruits of the experience in the two first halls, and transmutes knowledge into wisdom, transforms the shadow of things seen into the energy of that which is, and achieves the final liberation from all the lower forms which seek to hold him prisoner. This period of initiation itself is divided into seven stages, but only five of these concern the evolution of the Ego, just as the five Kumaras concern primarily the evolution of Humanity in the system and on this planet. Thus again we have the four exoteric Kumaras, of Whom two fell, and the three esoteric, of whom One gathers the life forces of the four exoteric, making with Them the five above mentioned. The student must study this question from the point of view of energy or life force, considering it from the aspect of polarity and of the mystic marriage, from [830] the comprehension of the real meaning of the sex relation, of the meeting and merging of the pairs of opposites, and the work of the one who synthesizes where every type of energy is concerned. For instance:

Khi chấm dứt 777 lần lâm phàm, con người đi qua Cửa Điểm đạo và bước vào một tiến trình tổng hợp ngắn, hay một thời kỳ sau cùng trong đó y thu hoạch các hoa trái của kinh nghiệm trong hai phòng đầu tiên, và chuyển hóa tri thức thành minh triết, chuyển đổi cái bóng của những sự vật đã thấy thành năng lượng của cái hiện hữu, và đạt được giải thoát sau cùng khỏi mọi hình tướng thấp vốn muốn giam cầm y. Thời kỳ điểm đạo tự thân được phân chia thành bảy giai đoạn, nhưng chỉ có năm giai đoạn trong đó liên hệ đến sự tiến hóa của Chân ngã, cũng như năm vị Kumara liên hệ chủ yếu đến sự tiến hóa của Nhân loại trong hệ thống và trên hành tinh này. Như thế, một lần nữa, chúng ta có bốn vị Kumara hiện hiện, trong số đó có hai vị đã sa đọa, và ba vị ẩn mật, trong đó Một Vị thu góp các sinh lực của bốn vị hiện hiện, cùng với Các Ngài tạo thành con số năm nói trên. Đạo sinh phải nghiên cứu vấn đề này từ quan điểm năng lượng hay sinh lực, xét nó dưới phương diện phân cực và “hôn phối” huyền nhiệm, từ [830] sự thấu hiểu ý nghĩa thực sự của quan hệ giới tính, về sự gặp gỡ và hòa nhập của các cặp đối đãi, và công việc của vị tổng hợp hóa ở mọi nơi mà mọi loại năng lượng đều có liên quan. Thí dụ:

a. The Ego synthesizes or gathers in the life forces of the fourfold lower man.

Chân ngã tổng hợp hay thu gom các sinh lực của con người bốn phần thấp.

b. The Mahachohan’s Ray on Earth synthesizes the life forces of the lower four. This Ray is the third subray of our planetary Ray.

Cung của Đức MahaChohan trên Địa Cầu tổng hợp các sinh lực của bốn cung thấp. Cung này là cung phụ thứ ba của Cung hành tinh của chúng ta.

c. The third major Ray of the solar system blends the minor four.

Cung chính thứ ba của hệ mặt trời hòa trộn bốn cung phụ.

d. The fifth Kumara blends and unites in Himself the work of the lower four.

Vị Kumara thứ năm hòa trộn và hợp nhất trong Chính Ngài công việc của bốn vị thấp.

The reflection of all this in the Microcosm can be studied by the man who understands how the physical body is the vehicle of all the principles.

Phản ảnh của tất cả điều này nơi Tiểu thiên địa có thể được nghiên cứu bởi người hiểu rằng thể xác là vận cụ của mọi nguyên khí.

By the time the third Initiation is taken, the inner circle of petals is opened and the full-blown lotus in all its beauty can be seen. At the fourth Initiation the inner bud bursts open through the effect of the electrical force of the Rod, which brings in the power of the synthetic ray of the solar system itself; the inner jewel is thus revealed. The work has been accomplished; the energy resident in the permanent atoms, has vitalized all the spirillae whilst the perfected force of the lotus, and the dynamic will of the central spark are brought into full and united activity. This brings about a threefold display of vital force which causes the disintegration of the form and the following results:

Đến khi lần điểm đạo thứ ba được thọ lãnh, vòng cánh hoa trong đã mở và hoa sen nở trọn vẹn với toàn bộ vẻ đẹp của nó có thể được thấy. Ở lần điểm đạo thứ tư, nụ bên trong bật mở nhờ hiệu lực của năng lực điện của Thần Trượng, cái đem đến quyền năng của cung tổng hợp của chính hệ mặt trời; viên ngọc bên trong do đó được hiển lộ. Công việc đã hoàn tất; năng lượng cư trú trong các Nguyên tử trường tồn đã tiếp sinh lực cho tất cả các tiểu xoắn trong khi năng lực toàn bích của hoa sen, và ý chí động lực của tia lửa trung tâm được đưa vào hoạt động đầy đủ và hợp nhất. Điều này tạo ra một biểu hiện tam phân của sinh lực dẫn đến sự phân rã của hình thể và các kết quả sau:

a. The permanent atoms become radioactive, and their ring-pass-not is therefore no longer a barrier to the lesser units within; the electronic lives in their various groups escape, and return to the eternal reservoir. They form substance of a very high [831] order, and will produce the forms of those existences who, in another cycle, will seek vehicles.

Các Nguyên tử trường tồn trở nên phóng xạ, và vòng-giới-hạn của chúng vì thế không còn là rào cản đối với các đơn vị nhỏ hơn bên trong; các sự sống điện tử trong nhiều nhóm khác nhau của chúng thoát ra, và trở về kho tàng vĩnh cửu. Chúng tạo thành chất liệu của một [831] đẳng cấp rất cao, và sẽ sản sinh hình tướng cho những sự sống, ở một chu kỳ khác, sẽ kiếm tìm các vận cụ.

b. The petals are destroyed by the action of fire, and the multiplicity of deva lives which form them and give to them their coherence and quality are gathered back by the solar Pitris of the highest order into the Heart of the Sun; they will be directed outward again in another solar system.

Các cánh hoa bị hủy bởi tác động của lửa, và muôn vàn sự sống deva cấu thành chúng và đem lại cho chúng sự kết tụ và phẩm tính được các thái dương Tổ phụ bậc cao nhất thu hồi vào Trái Tim của Mặt Trời; chúng sẽ lại được phóng xuất ra trong một hệ mặt trời khác.

c. The atomic substance will be used for another manvantara, but the solar Pitris will not again be called upon to sacrifice themselves until the next solar system when they will come in as planetary Rays, thus repeating upon monadic levels in the next system what they have done in this. They will then be the planetary Logoi.

Chất nguyên tử sẽ được dùng cho một giai kỳ sinh hóa khác, nhưng các thái dương Tổ phụ sẽ không lại được kêu gọi tự hiến cho đến hệ mặt trời kế tiếp khi đó các Ngài sẽ đến như các Cung hành tinh, nhờ vậy lặp lại trên các cấp độ chân thần trong hệ tới điều mà các Ngài đã làm trong hệ này. Khi ấy Các Ngài sẽ là các Hành Tinh Thượng đế.

[Commentary S7S8 Part 2]

d. The central Life electric returns to its source, escaping out of prison and functioning as a center of energy on planes of cosmic etheric energy.

Sự Sống điện trung tâm quy hồi nguồn cội của nó, thoát khỏi ngục tù và hoạt động như một trung tâm năng lượng trên các cõi của năng lượng dĩ thái vũ trụ.

We have endeavored above to convey a general idea of the evolutionary process in connection with the Ego and its progression under karmic and cyclic law. If the student ponders upon these two laws it will become apparent to him that both might be summed up under the generic term of the Law of Rhythm. All manifestation is the result of active energy producing certain results, and expenditure of energy in any one direction will necessitate an equal expenditure in an opposite. This in terms of the Ego and its life experience brings about three stages:

Chúng tôi đã cố gắng ở trên để truyền đạt một ý niệm tổng quát về tiến trình tiến hóa trong mối liên hệ với Chân ngã và sự tiến triển của nó dưới định luật nghiệp quả và chu kỳ. Nếu đạo sinh suy ngẫm về hai định luật này, y sẽ thấy rõ rằng cả hai có thể được tóm tắt dưới thuật ngữ khái quát là Định luật Nhịp điệu.  Mọi biểu hiện là kết quả của năng lượng hoạt động tạo ra những kết quả nhất định, và sự tiêu phí năng lượng theo bất kỳ hướng nào sẽ đòi hỏi một sự tiêu phí ngang bằng theo hướng đối nghịch. Điều này, xét theo Chân ngã và kinh nghiệm sống của nó, dẫn đến ba giai đoạn:

– First. The stage wherein the energy manifested acts outwardly. The Self becomes identified with its sheaths. This is the strictly personal stage.

Thứ nhất. Giai đoạn trong đó năng lượng biểu hiện tác động ra bên ngoài. Tự Ngã đồng nhất hóa với các lốt của nó. Đây là giai đoạn thuần túy cá nhân.

– Second. The stage wherein adjustment under law is being sought, and the Self is neither entirely identified with its sheaths, nor identified entirely with Itself. It is [832] learning to choose between the pairs of opposites. This is the period of the fiercest strife and turmoil, and the battlefield wherein the adjustment has to be made; it is the laboratory period wherein enough transmutative force is generated by the disciple to carry him to the opposite extreme of the earlier stage,—that stage wherein the energy will manifest within and not without.

Thứ hai. Giai đoạn trong đó sự điều chỉnh theo định luật đang được tìm kiếm, và Tự Ngã không hoàn toàn đồng nhất với các lốt của mình, cũng chẳng hoàn toàn đồng nhất với Chính Mình. Nó [832] đang học cách lựa chọn giữa các cặp đối đãi. Đây là thời kỳ của cuộc tranh đấu và xáo trộn kịch liệt nhất, và là bãi chiến trường nơi sự điều chỉnh phải được thực hiện; đó là giai đoạn “phòng thí nghiệm” nơi đủ năng lực chuyển hóa được người đệ tử tạo ra để mang y đến cực đối của giai đoạn trước—giai đoạn mà năng lượng sẽ biểu hiện bên trong  chứ không phải bên ngoài.

– Third. The stage wherein the energy of the Ego is centered at the heart of the circle, and not in the periphery, being applied from thence through the conscious effort of the Ego in group service. The pull of the lower nature is superseded, and the attraction of that which is higher even than the Ego is felt. The earlier process has then to be repeated on a higher turn of the spiral, and monadic energy begins to work upon the Ego as the egoic worked upon the personality. The Monad, which has been identifying Itself with the Ego (its outer manifestation) begins again to seek its own true center “within the Heart,” and on the higher levels results affecting distribution and conservation of energy may again be seen.

Thứ ba. Giai đoạn trong đó năng lượng của Chân ngã được tập trung ở trái tim của vòng tròn, chứ không phải ở chu vi, được ứng dụng từ đó thông qua nỗ lực có ý thức của Chân ngã trong phụng sự tập thể. Sức kéo của bản chất thấp bị vượt trội, và sức hấp dẫn của cái còn cao hơn cả Chân ngã được cảm nhận. Tiến trình ban đầu rồi phải được lặp lại trên một vòng xoắn cao hơn, và năng lượng chân thần bắt đầu tác động lên Chân ngã như chân ngã đã từng tác động lên phàm ngã. Chân thần, Đấng đã đồng nhất Chính Mình với Chân ngã (biểu hiện ngoại tại của Nó) lại bắt đầu kiếm tìm tâm điểm chân thực của Chính Mình “bên trong Trái Tim”, và trên các cấp độ cao hơn, các kết quả liên quan đến phân phối và bảo tồn năng lượng có thể lại được thấy.

It is necessary to emphasize this procedure because it is important that all occultists should learn to interpret and to think in terms of energy and of force, in contradistinction to the sheaths or instruments employed. The mystic has recognized this “force” factor, but has only worked with the positive force aspect. The occultist must recognize and work with three types of force, or energy, and therein lies the distinction between his work and that of the mystic. He recognizes:

Cần nhấn mạnh tiến trình này vì quan trọng là tất cả các nhà huyền môn phải học cách diễn dịch và tư duy bằng những thuật ngữ của năng lượng và mãnh lực, trái ngược với các lốt hay khí cụ được sử dụng. Nhà thần bí đã nhận ra yếu tố “mãnh lực” này, nhưng chỉ làm việc với phương diện dương  của mãnh lực. Nhà huyền môn phải nhận ra và làm việc với ba loại mãnh lực, hay năng lượng, và ở đó nằm sự sai khác giữa công việc của y và công việc của nhà thần bí. Y nhận ra:

1. Positive force—Or that which energizes.

Mãnh lực dương—Tức cái làm cho sự sống hóa.

2. Negative force—Or that which is the recipient of energy; that which acts or assumes form under the impact of positive force. [833]

Mãnh lực âm—Tức cái là thụ thể của năng lượng; cái hoạt động hay đảm nhận hình tướng dưới tác động của mãnh lực dương. [833]

3. Light, or harmonic force—That which is produced by the union of these two. The result is radiant energy, and is the result of the equilibrising of the two others.

Ánh sáng, hay mãnh lực điều hòa—Cái được sản sinh bởi sự hợp nhất của hai cái kia. Kết quả là năng lượng bức xạ,  và là kết quả của sự quân bình hai lực kia.

These three aspects of energy have been called, as has been often said:

Ba phương diện năng lượng này vẫn thường được gọi, như đã nhiều lần nói:

a. Electric fire—positive energy—Father.

Lửa điện—năng lượng dương—Cha.

b. Fire by friction—negative energy—Mother.

Lửa do ma sát—năng lượng âm—Mẹ.

c. Solar fire—radiant energy—Sun or Son.

Lửa Thái dương—năng lượng bức xạ—Mặt Trời hay Người Con.

Each of these two last aspects demonstrates within itself in a dual manner, but the effect is a unified whole as regards the great Unity in which they are demonstrating.

Mỗi trong hai phương diện sau biểu hiện trong tự thân theo cách nhị phân, nhưng hiệu quả là một toàn thể hợp nhất đối với Đại Nhất Thể trong đó chúng đang biểu hiện.

The problem of the devas may be somewhat better understood if it is remembered that they in themselves embody the two types of energy. For instance, the solar Pitris are the substance of the egoic bodies and groups, and the medium of expression for the Spirit aspect, for Spirit manifests by means of soul. The lunar Pitris, who form the personal lower self, being the aggregate of the lower sheaths, are energized and used by the solar Lords. These solar Angels again are in many groups and express within their own ranks a dual energy, both positive and negative. There is the positive life of the egoic lotus which coordinates, preserves, and actuates the petals, and there is also the energy of the petal substance itself, or the negative aspect which is swept by the positive force of the greater solar Lords into living whorls or wheels which we symbolically call “petals.” There is a close analogy in connection with the planetary Logos, and the solar Logos between prana, the life force which animates the etheric body of man, and by means of that [834] force coheres the dense physical body, and that synthesizing life force of the Logos which animates every atom on every plane of the system. If this is meditated upon, and the fact of all our planes being the etheric and dense manifestation of the solar Logos is realized, then the place played by the solar Angels may become somewhat elucidated, and their relation to the planetary Logos and to the solar Logos may become also clearer.

Vấn đề về các deva có thể phần nào được hiểu rõ hơn nếu nhớ rằng chính các Ngài bao hàm hai loại năng lượng. Thí dụ, các thái dương Tổ phụ là chất liệu của các thể và các nhóm chân ngã, và là môi giới biểu lộ cho phương diện Tinh thần, vì Tinh thần biểu lộ bằng phương tiện của linh hồn. Các thái âm Tổ phụ, những vị cấu thành phàm ngã, là tổng số các lốt thấp, được các nhật tinh quân tiếp sinh lực và sử dụng. Các Thiên thần Thái dương này lại có nhiều nhóm và biểu hiện trong hàng ngũ của chính Các Ngài một năng lượng nhị phân, vừa dương vừa âm. Có sự sống dương của hoa sen chân ngã, cái phối kết, bảo tồn, và tác động các cánh hoa, và cũng có năng lượng của chính chất liệu cánh hoa, tức phương diện âm vốn được cuốn vào các vòng xoáy hay bánh xe sống bởi mãnh lực dương của các nhật tinh quân vĩ đại mà chúng ta gọi một cách biểu tượng là “các cánh hoa”. Có một sự tương cận mật thiết trong mối liên hệ với Hành Tinh Thượng đế, và Thái dương Thượng đế giữa prana,  sinh lực vốn sinh động thể dĩ thái của con người, và bằng phương tiện [834] lực ấy kết tụ nên thể xác đậm đặc, với sinh lực tổng hợp của Thượng đế vốn sinh động mọi nguyên tử trên mọi cõi của hệ thống. Nếu điều này được suy ngẫm, và thực tại rằng mọi cõi của chúng ta là sự biểu hiện dĩ thái và đậm đặc của Thái dương Thượng đế được nhận thức, thì vai trò do các Thiên thần Thái dương đóng sẽ phần nào được sáng tỏ, và mối liên hệ của họ với Hành Tinh Thượng đế và với Thái dương Thượng đế cũng có thể trở nên rõ hơn.

We must not only study them in connection with ourselves and with our effort to identify ourselves with the solar Lords of the lunar Pitris, but must recognize also:

Chúng ta không chỉ phải nghiên cứu các Ngài trong mối liên hệ với chính chúng ta và với nỗ lực của chúng ta nhằm đồng hóa với các nhật tinh quân của các thái âm Tổ phụ, mà còn phải nhận ra:

a. The solar Angels of a planetary scheme.

Các Thiên thần Thái dương của một hệ hành tinh.

b. The solar Angels of the solar system.

Các Thiên thần Thái dương của hệ mặt trời.

c. The lunar lords of the scheme and system.

Các nguyệt tinh quân của hệ hành tinh và của hệ thống.

The word “lunar” is here an anachronism and is technically inaccurate. The moon or moons in any scheme are systemic effects, and are not causes. In certain planetary relationships, they are considered causes, but in connection with our solar system they are not. Yet also, in connection with a system, there exist cosmically certain bodies in space which have as definite an effect upon the system as the moon has upon the earth. This is something as yet unknown and incomprehensible to metaphysicians, scientists and astronomers. War wages cosmically as yet between the systemic “lunar” lords, and those Entities who are analogous to the solar Lords on cosmic levels. Until our students extend their concept to include in their calculations the logoic astral and mental bodies as the Logos seeks to express emotion and mind on the physical plane (through His physical body, a solar system) they will not progress far towards the heart of the solar mystery. Until the force of the cosmic lunar Lords is sought for, the fact of there being entire constellations beyond our solar system in process of disintegration in time and space in a manner similar to [835] the disintegration of the moon will not be known nor the effects of this traced. Eventually our solar system will pass into a similar state. The true mystery of evil 65 lies here, and the true reality of the “War in Heaven” must here be sought. Similarly it must be remembered that planetary schemes pass into obscuration and “die out,” through the withdrawal in all cases of the positive life and energy and of the electric fire which is the animating principle of every system, scheme, globe, kingdom in nature, and human unit. This produces again in every case the dying out of the “solar radiance,” or of the light produced by the commingling of the negative and positive energy. All that is left in every case again is the habitual energy of the substance upon which, and through which, the positive energy has had such a [836] remarkable effect. This negative type of force gradually dissipates, or disperses itself, and seeks the central reservoir of energy. The spheroidal form is thus disintegrated. This can be seen working out now in the case of the moon, and the same rule holds good for all bodies. We might word it otherwise: The solar Devas (or radiant energy) return to the central Heart or to the source which breathed them out. This leaves the lesser deva substance dependent upon its own internal heat, as it involves the withdrawal of that which built substance into form. This deva substance is of many kinds and perhaps the consequent procedure can be more clearly understood if we say that as the form breaks up the lesser builders and devas return to their group soul. Certain of them, those who form the bodies of the fourth kingdom in nature, and who are therefore the highest kind of substance through which consciousness can manifest in the three worlds, are on the road towards individualization,—they are nearer the human stage than the substance of the three other kingdoms. They occupy a place in the deva evolution analogous to that which a man holds in the human kingdom (note that I say kingdom, not evolution) who is nearing the Path. The goal for the devas (below the rank of solar Pitris) is individualization, and their objective is to become men in some future cycle. The goal for a man is initiation, or to become a conscious Dhyan Chohan, and in some distant cycle to do for the humanity of that age what the solar Pitris have done for him, and make their self-conscious expression a possibility. The goal for a solar Pitri is, as said earlier, to become a logoic Ray. 66 [837]

Từ “nguyệt” ở đây là một cách dùng lỗi thời và không chính xác về mặt thuật ngữ. Mặt trăng hay các mặt trăng trong bất cứ một hệ hành tinh nào đều là các hiệu ứng mang tính hệ thống, chứ không phải là nguyên nhân. Trong những mối quan hệ hành tinh nhất định, chúng được xem như nguyên nhân, nhưng trong liên hệ với hệ mặt trời của chúng ta thì không phải vậy. Tuy nhiên, cũng trong liên hệ với một hệ thống, tồn tại về mặt vũ trụ những thiên thể trong không gian có tác động xác định lên hệ thống y như mặt trăng tác động lên Trái Đất. Điều này hiện vẫn chưa được biết và khó hiểu đối với các nhà siêu hình học, các nhà khoa học và các nhà thiên văn. Cuộc chiến vẫn còn đang diễn ra theo tầm vũ trụ giữa các nguyệt tinh quân trong hệ, và những Thực thể tương tự các nhật tinh quân trên các cấp vũ trụ. Cho đến khi các đạo sinh mở rộng quan niệm của mình để đưa vào các phép tính những thể cảm dục và thể trí của Thái dương Thượng đế khi Ngài tìm cách biểu lộ cảm xúc và trí tuệ trên cõi hồng trần (thông qua thể xác của Ngài, tức một hệ mặt trời) thì họ sẽ chưa tiến xa về phía cốt tủy của huyền nhiệm thái dương. Cho đến khi người ta tìm tòi sức mạnh của các nguyệt tinh quân vũ trụ, thì việc có những chòm sao toàn vẹn bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta đang ở trong quá trình phân rã theo thời gian và không gian theo phương cách tương tự [835] sự phân rã của mặt trăng sẽ vẫn chưa được biết đến, cũng như các hiệu ứng của nó chưa được theo dõi. Sau cùng hệ mặt trời của chúng ta cũng sẽ đi vào một trạng thái tương tự. Ở đây có chân huyền nhiệm của ác 65, và cũng ở đây phải tìm chân thực của “Cuộc ‘Chiến Trên Trời’.” Tương tự, cần ghi nhớ rằng các hệ hành tinh đi vào thời kỳ tối khuất và “tắt lịm,” là do trong mọi trường hợp có sự thâu hồi sinh mệnh dương và năng lượng dương, cùng Lửa điện vốn là nguyên khí sinh động của mọi hệ, mọi hệ hành tinh, bầu hành tinh, giới trong thiên nhiên, và đơn vị nhân loại. Điều này một lần nữa trong mọi trường hợp gây nên sự tắt lịm của “hào quang thái dương,” hay ánh sáng được tạo ra bởi sự hòa trộn của năng lượng âm và dương. Mỗi lần như vậy, điều duy nhất còn lại là năng lượng cố hữu của chất liệu, mà trên đó, và xuyên qua đó, năng lượng dương đã tạo nên [836] một hiệu ứng đáng kinh ngạc. Loại mãnh lực âm tính này dần dần tiêu tan, hay tự tản mát, và tìm về kho dự trữ năng lượng trung tâm. Vì vậy, hình cầu bị phân rã. Hiện có thể thấy điều này đang diễn ra với mặt trăng, và quy luật ấy áp dụng đúng cho mọi thiên thể. Chúng ta có thể diễn đạt khác đi: Các thiên thần thái dương (hay năng lượng rực sáng) quay trở về Trái Tim trung tâm hoặc nguồn đã thở ra họ. Điều đó để lại chất liệu thiên thần thứ yếu phải lệ thuộc vào chính nhiệt nội tại của nó, vì nó kéo theo sự thâu hồi của cái đã kết cấu chất liệu thành hình tướng. Chất liệu thiên thần này có nhiều loại, và có lẽ tiến trình hệ quả sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nói rằng khi hình tướng vỡ ra thì những nhà kiến tạo nhỏ và các thiên thần trở về Hồn nhóm của họ. Một số trong họ, những vị cấu thành các thể của giới thứ tư trong thiên nhiên, và do đó là loại chất liệu cao nhất qua đó tâm thức có thể biểu lộ trong ba cõi giới, đang trên con đường hướng tới biệt ngã hóa,—họ gần giai đoạn nhân loại hơn chất liệu của ba giới kia. Họ chiếm một vị trí trong tiến hóa của thiên thần tương tự như vị trí mà một con người giữ trong giới nhân loại (lưu ý tôi nói “giới,” chứ không phải “tiến hóa”) khi y đang đến gần Thánh Đạo. Mục tiêu đối với các thiên thần (dưới cấp bậc của thái dương tổ phụ) là biệt ngã hóa, và mục đích của họ là trở thành người trong một chu kỳ tương lai. Mục tiêu đối với con người là điểm đạo, hoặc trở thành một Dhyan Chohan có ý thức, và trong một chu kỳ xa xăm sẽ làm cho nhân loại của thời đại ấy điều mà các thái dương tổ phụ đã làm cho y, khiến sự biểu lộ tự ý thức trở thành khả hữu. Mục tiêu đối với một thái dương tổ phụ, như đã nói trước, là trở thành một Cung của Thượng đế. 66  [837]

65 Problem of Evil.

65 Vấn đề của Ác.

The following quotation is from a trance writing, given through Dr. Anna Kingsford; it runs thus:

Trích dẫn sau đây là từ một bài viết trong trạng thái xuất thần, truyền qua Bác sĩ Anna Kingsford; nội dung như sau:

“You have demanded also the origin of evil. This is a great subject, and we should have withheld it from you longer, but that it seems to us now that you are in need of it. Understand then that Evil is the result of Creation. For Creation is the result of the projection of Spirit into matter; and with this projection came the first germ of evil. We would have you know that there is no such thing as a purely spiritual evil, but evil is the result of the materialization of Spirit. If you examine carefully all we have said to you concerning the various forms of evil, you will see that every one is the result of the limitation of the power to perceive that the whole Universe is but the Larger Self… It is, then, true that God created evil; but yet it is true that God is Spirit, and being Spirit is incapable of evil. Evil is then purely and solely the result of the materialization of God. This is a great mystery. We can but indicate it tonight… God is perception itself. God is universal percipience. God is that which sees and that which is seen. If we could see all, hear all, touch all, and so forth, there would be no evil, for evil comes of the limitation of perception. Such limitation was necessary if God was to produce aught other than God. Aught other than God must be less than God. Without evil, therefore, God would have remained alone. All things are God according to the measure of the Spirit in them.”

“Các ông cũng đã đòi hỏi nguồn gốc của ác. Đây là một đề tài lớn, và chúng tôi lẽ ra đã giữ lại lâu hơn, nếu không vì dường như với chúng tôi rằng giờ đây các ông đang cần đến nó. Vậy hãy hiểu rằng Ác là hệ quả của Sự Sáng Tạo. Vì Sáng Tạo là hệ quả của sự phóng chiếu Tinh thần vào vật chất; và với sự phóng chiếu ấy đến mầm mống đầu tiên của ác. Chúng tôi muốn các ông biết rằng không hề có cái gọi là một ác tính thuần túy tinh thần, mà ác là hệ quả của sự hiện hình của Tinh thần. Nếu các ông xem xét cẩn thận tất cả những gì chúng tôi đã nói với các ông về các hình thái khác nhau của ác, các ông sẽ thấy rằng mọi hình thái đều là hệ quả của sự hạn chế năng lực tri nhận rằng toàn Vũ trụ chỉ là Cái Ngã Lớn Hơn… Vậy thì, đúng là Thượng đế đã tạo ra ác; nhưng đồng thời cũng đúng là Thượng đế là Tinh thần, và đã là Tinh thần thì không thể có ác. Vậy ác hoàn toàn chỉ là hệ quả của sự hiện hình của Thượng đế. Đây là một đại huyền nhiệm. Tối nay chúng tôi chỉ có thể gợi chỉ… Thượng đế là chính sự tri nhận. Thượng đế là năng lực tri nhận phổ quát. Thượng đế là cái thấy và cái bị thấy. Nếu chúng ta có thể thấy tất cả, nghe tất cả, chạm đến tất cả, vân vân, thì sẽ không có ác, vì ác đến từ sự giới hạn của tri nhận. Sự giới hạn như vậy là cần thiết nếu Thượng đế muốn sản sinh điều gì khác hơn chính Thượng đế. Bất cứ cái gì khác Thượng đế ắt kém hơn Thượng đế. Không có ác, vậy thì, Thượng đế sẽ vẫn đơn độc. Mọi sự đều là Thượng đế tùy theo mức độ Tinh thần trong chúng.”

That is to say, a perfected humanity will be a perfect vehicle of the divine Spirit (see the Mercaba of Ezekiel, 1st Chapter). Great is our indebtedness to the Seers who throw out for us flashes of light on the darkness and mystery of human life, where the struggling Spirit within is so often buried in the depths of this mysterious Chaos, thereby making visible the darkness, so that we are enabled to see a few steps of the Way ahead, thus encouraging us to press forward with renewed assurance that the mists and clouds will be dispelled, and we shall in due time enter the fullness of the divine Presence.

Nghĩa là, một nhân loại được hoàn thiện sẽ là một vận cụ hoàn hảo của Tinh thần thiêng liêng (xem cỗ xe Mercaba của Ê-xê-chi-ên, Chương 1). Ân đức của chúng ta đối với các Nhà Tiên tri, những vị rải cho chúng ta những tia chớp ánh sáng soi vào bóng tối và huyền nhiệm của đời người, thật lớn lao, nơi mà Tinh thần đang tranh đấu bên trong thường bị chôn vùi sâu trong vực thẳm của Hỗn Mang bí nhiệm này, nhờ vậy khiến bóng tối trở nên hữu hình, để chúng ta có thể trông thấy vài bước của Con Đường phía trước, và được khích lệ tiến lên với niềm xác tín mới rằng sương mù và mây mù sẽ tan, và đúng thời chúng ta sẽ bước vào sự viên mãn của Hiện Diện thiêng liêng.

The Theosophist, Vol. XXIX, p. 50.

The Theosophist, Tập XXIX, tr. 50.

66 The Goal for the Pitris:

66 Mục tiêu đối với các Tổ phụ:

The lunar Pitris are on a level with the lower Principles.—S. D., II, 82.

Các thái âm tổ phụ ngang hàng với các nguyên khí thấp.—S. D., II, 82.

a. They create our lower principles—S. D., II, 92.

Họ tạo ra các nguyên khí thấp của chúng ta—S. D., II, 92.

b. They possess creative fire but not divine fire—S. D., II, 81, 82.

Họ sở hữu Lửa sáng tạo nhưng không có Lửa thiêng liêng—S. D., II, 81, 82.

c. They evolve the human form—S. D., I, 203.

Họ tiến hóa hình thể con người—S. D., I, 203.

d. They will eventually become men—S. D., I, 203.

Rốt cuộc họ sẽ trở thành người—S. D., I, 203.

e. Compare S. D., II, 99.

So sánh S. D., II, 99.

The higher Principles are latent in the animals.—S. D., II, 266, 279.

Các nguyên khí cao tiềm ẩn trong loài vật.—S. D., II, 266, 279.

a. The solar Pitris embody the fifth principle—S. D., I, 241.

Các thái dương tổ phụ thể hiện nguyên khí thứ năm—S. D., I, 241.

b. They give consciousness to man—S. D., I, 204.

Họ ban tâm thức cho con người—S. D., I, 204.

c. They furnish the vehicle for the incarnating Monad, forming the egoic body

Họ cung cấp vận cụ cho Chân thần đang nhập thể, cấu thành thể nguyên nhân

d. – S. D., I, 237.

– S. D., I, 237.

e. They develop the human type—S. D., II, 243.

Họ phát triển kiểu loại nhân loại—S. D., II, 243.

Compare S. D., II, 96.

So sánh S. D., II, 96.

To return to the matter which we were considering;—Just as the moon is a deterrent or malefic force where the Earth is concerned, and productive of evil “influences,” so all such disintegrating bodies are equally destructive. Such bodies exist within the solar ring-pass-not, 67 unrecognized as yet, and disintegrating constellations (of which there are many in the universe, unknown and unrecognized by scientists) have an equally malefic effect upon our system, and upon all that passes into their sphere of influence.

Trở lại vấn đề chúng ta đang xét;—Cũng như mặt trăng là một mãnh lực cản trở hay độc hại đối với Trái Đất, và sản sinh những “ảnh hưởng” bất thiện, thì mọi thiên thể đang phân rã như thế đều phá hoại ngang nhau. Những thiên thể như vậy tồn tại bên trong vòng-giới-hạn của hệ mặt trời, 67 hiện vẫn chưa được nhận biết, và các chòm sao đang phân rã (vốn có rất nhiều trong vũ trụ, chưa được các nhà khoa học biết và công nhận) có một hiệu ứng độc hại ngang nhau lên hệ của chúng ta, và lên mọi thứ đi vào phạm vi ảnh hưởng của chúng.

There is one such constellation, situated between the lesser Dipper and our system, and another, interrelated with the Pleiades and our system which still have a profound effect upon the physical body of the solar Logos.

Có một chòm sao như thế, nằm giữa chòm Gấu Nhỏ và hệ của chúng ta, và một chòm khác, có liên hệ với Pleiades và hệ của chúng ta, vẫn còn có ảnh hưởng sâu xa lên thể xác của Thái dương Thượng đế.

The above paragraph is specifically worded thus because the effects are felt in the lowest sheath of all, and are responsible for much that is ignorantly termed “black magic.” These two constellations have ran their cycles and are “dissolving.” Some of their life force and energy has been transferred to our solar system, [838] just as the lunar life force was transferred to our earth, and this it is that is the cause of much cyclic evil. The process of decay and the evil emanations induced still have power to influence forms which are responsive to what was for them an earlier vibration. The substance of these forms is magnetically linked with the decaying body, much as the etheric double is connected with its dense sheath, and effects are therefore manifested. Purificatory fire is the only cure for this magnetic corruption, and this is being utilized freely by the planetary Logoi in Their schemes, and by the solar Logos in the system.

Đoạn văn trên được diễn đạt đặc biệt như vậy vì các hiệu ứng được cảm nhận trong lớp vỏ thấp nhất của tất thảy, và là nguyên nhân của nhiều điều mà người ta ngu muội gọi là “Hắc thuật.” Hai chòm sao này đã chạy xong các chu kỳ của chúng và đang “tan rã.” Một phần sinh lực và năng lượng của chúng đã được chuyển sang hệ mặt trời của chúng ta, [838] cũng như sinh lực thái âm đã được chuyển sang Trái Đất của chúng ta, và chính điều này là nguyên nhân của nhiều ác tính theo chu kỳ. Quá trình thối hóa và những phát xạ độc hại được tạo ra vẫn còn khả năng ảnh hưởng đến các hình tướng vốn đáp ứng với cái đối với chúng là một rung động sớm hơn. Chất liệu của những hình tướng này được nối kết từ tính với thiên thể đang phân hủy, tương tự như bản đôi dĩ thái nối với lớp vỏ đậm đặc của nó, nên các hiệu ứng vì thế được biểu lộ. Lửa thanh lọc là phương thuốc duy nhất cho sự thối rữa từ tính này, và điều này đang được các Hành Tinh Thượng đế sử dụng tự do trong các hệ của Các Ngài, và bởi Thái dương Thượng đế trong toàn hệ.

67 Unseen Planets: “Not all of the Intra-Mercurial planets, nor yet those in the orbit of Neptune, are yet discovered, although they are strongly suspected. We know that such exist and where they exist; and that there are innumerable planets “burnt out” they say,—in Obscuration we say;—planets in formation and not yet luminous, etc.”…

67 Những Hành tinh Chưa Thấy: “Không phải tất cả các hành tinh trong quỹ đạo bên trong Sao Thủy, cũng như những hành tinh trong quỹ đạo của, đã được phát hiện, dù chúng bị nghi ngờ mạnh mẽ. Chúng tôi biết những hành tinh như thế tồn tại và chúng ở đâu; và rằng có vô số hành tinh ‘cháy tắt’ họ nói,—chúng tôi nói là trong Thời Kỳ Tối Khuất;—những hành tinh đang hình thành và chưa phát quang, v.v.”…

“When so attached the ‘tasimeter’ will afford the possibility not only to measure the heat of the remotest of visible stars, but to detect by their invisible radiations stars that are unseen and otherwise undetectable, hence planets also. The discoverer, an F. T. S., a good deal protected by M., thinks that if, at any point in a blank space of heavens—a space that appears blank even through a telescope of the highest power—the tasimeter indicates an accession of temperature and does so invariably; this will be a regular proof that the instrument is in range with the stellar body either non-luminous or so distant as to be beyond the reach of telescopic vision. His tasimeter, he says, ‘is affected by a wider range of etheric undulations than the Eye can take cognizance of.’ Science will Hear sounds from certain planets before she Sees them. This is a Prophecy.”—Mahatma Letters to A. P. Sinnett, p. 169.

“Khi gắn như vậy thì ‘tasimeter’ sẽ mang lại khả năng không chỉ đo được nhiệt của ngôi sao xa nhất trong số các sao thấy được, mà còn phát hiện bằng bức xạ vô hình của chúng những ngôi sao chưa thấy và không thể phát hiện bằng cách khác, do đó cả các hành tinh nữa. Người phát minh, một F. T. S., được Chân sư M. che chở khá nhiều, cho rằng nếu, tại bất cứ điểm nào trong một khoảng trống của bầu trời—một khoảng trống vẫn xuất hiện trống rỗng ngay cả qua kính thiên văn công suất cao nhất—tasimeter chỉ ra một sự gia tăng nhiệt độ và làm như vậy một cách bất biến; đó sẽ là bằng chứng quy tắc rằng dụng cụ đang bắt được một thiên thể hoặc không phát quang hoặc quá xa đến mức vượt ngoài tầm nhìn của kính thiên văn. Ông nói, tasimeter của ông ‘bị tác động bởi một dải dao động dĩ thái rộng hơn dải mà Con Mắt có thể nhận biết.’ Khoa học sẽ Nghe âm thanh từ một số hành tinh trước khi bà ấy Thấy chúng. Đây là một Lời Tiên Tri.”— Mahatma Letters to A. P. Sinnett, tr. 169.

Purificatory Fire —Lửa thanh lọc

“The fire burned low. A dull red glow slumbered within the Heart of Mother. Its warmth was scarcely felt. The first and second of the inner lines throbbed with the burning, but the rest were cold.

“Ngọn lửa cháy thấp. Một quầng đỏ đục ngủ vùi trong Trái Tim của Mẹ. Hơi ấm của nó hầu như không cảm nhận được. Hai đường thứ nhất và thứ hai ở bên trong đập theo nhịp cháy, nhưng phần còn lại thì lạnh.

The Sons of God looked down from the innermost center. They looked, then turned away Their gaze and thoughts to other spheres. Their hour had not yet come. The elemental fires had not prepared the altar for the Lords. The sacrificial fire waited in its high place and the steady glow beneath increased.

Các Con của Thượng đế nhìn xuống từ trung tâm thâm sâu nhất. Các Ngài nhìn, rồi quay ánh nhìn và tư tưởng của Các Ngài sang những cõi khác. Giờ của Các Ngài chưa đến. Những lửa nguyên tố chưa chuẩn bị bàn thờ cho các Chúa Tể. Ngọn lửa tế hiến đợi ở nơi cao và quầng sáng đều bên dưới gia tăng.

The fire burned clearer, and the first and second slowly lighted up. Their glow became a line of brilliant fire yet the five remained untouched. The Sons of God again looked down. For one brief second They thought upon the Mother, and as They thought the third caught fire. Swiftly They looked away for the form as yet relayed to Them no call. The heat was latent and no outer warmth ascended to Their place.

Ngọn lửa cháy sáng hơn, và thứ nhất cùng thứ hai từ từ rực lên. Quầng sáng của chúng trở thành một đường lửa rực rỡ nhưng năm đường còn lại vẫn bất động. Các Con của Thượng đế lại nhìn xuống. Trong một thoáng giây Các Ngài nghĩ về Mẹ, và khi Các Ngài nghĩ đến thì cái thứ ba bắt lửa. Các Ngài nhanh chóng quay đi vì hình tướng vẫn chưa truyền đến cho Các Ngài lời triệu báo nào. Nhiệt còn tiềm tàng và không có hơi ấm bên ngoài nào bốc lên tới nơi của Các Ngài.

The aeons passed. The glow increased. The Spheres took form, but dissipated rapidly, lacking coherent force. They passed. They came again. Action incessant, noise and fire and smoldering heat characterized Their cycles. But the Lhas in Their high heaven spurned this elemental work and gazed within Themselves. They meditated.

Những đại kiếp trôi qua. Quầng sáng gia tăng. Những Quả Cầu mang hình, nhưng tan rã nhanh chóng, thiếu lực kết tụ. Chúng qua đi. Rồi lại đến. Hành động không dứt, ồn ã và lửa cùng hơi nóng âm ỉ đặc trưng cho các chu kỳ của Chúng. Nhưng các Lha trên cõi trời cao của Các Ngài khước từ công việc nguyên tố này và nhìn vào Nội Tâm. Các Ngài tham thiền.

The glow became a steady burning and tiny flames were seen. The first, the second, and the third became three lines of fire and one triangle was consummated. Yet the four are seen quiescent [839] and respond not to the heat. Thus do the cycles and the elemental lives pass and repass, and their work continues.

Quầng sáng trở thành một đốm cháy đều và những ngọn lửa nhỏ xuất hiện. Thứ nhất, thứ hai, và thứ ba thành ba đường lửa và một tam giác được thành tựu. Tuy vậy bốn vẫn thấy [839] tĩnh lặng và không đáp ứng với nhiệt. Thế là các chu kỳ và các sự sống hành khí cứ qua lại, và công việc của chúng vẫn tiếp tục.

The forms are set, yet brief their span. They move not, yet they pass. The hour has come for the great awakening. They pass no longer down but mount.

Các hình tướng được định lập, nhưng ngắn ngủi tuổi thọ chúng. Chúng không chuyển động, nhưng rồi chúng qua đi. Giờ đã điểm cho cuộc tỉnh thức lớn lao. Chúng không còn đi xuống nữa mà leo lên.

This is the interlude for which the Lhas in Their high place have waited. They may not enter yet the forms prepared, but feel Their hour approaching. They meditate anew, and for a minute gaze upon the myriad threefold fires until the fourth responds.

Đây là quãng nghỉ mà các Lha ở nơi thượng giới của Các Ngài đã đợi. Các Ngài chưa thể đi vào các hình tướng đã chuẩn bị, nhưng cảm nhận giờ của Các Ngài đang đến gần. Các Ngài lại tham thiền, và trong một phút nhìn xuống muôn vàn lửa tam phân cho đến khi cái thứ tư đáp ứng.

The sixty seconds passed in dynamic concentration produce forms of triple kind, three sets of forms, and myriads in the three. The Heart of Mother contracts, and expands with these sixty fiery breaths. The lines become allied, and cubes are formed, shielding the inner fire. The altar is prepared, and four square stands. The altar glows, red at the center and warm without.

Sáu mươi giây trôi qua trong nhất tâm năng động tạo ra những hình tướng loại tam phân, ba bộ hình tướng, và muôn vàn trong ba loại. Trái Tim của Mẹ co lại, và giãn ra theo sáu mươi hơi thở rực lửa này. Các đường trở nên kết liên, và các khối lập phương thành hình, che chở lửa bên trong. Bàn thờ được chuẩn bị, và đứng bốn phương vững chãi. Bàn thờ rực sáng, đỏ ở trung tâm và ấm ra phía ngoài.

The altar flames. Its heat mounts up, yet it burns not, nor is consumed. Its heat, which has no flame, reaches a higher sphere; the Sons of God for a brief period warm Themselves, yet approach not nearer to it until the passing of another cycle. They await the hour, the hour of sacrifice.

Bàn thờ bốc lửa. Nhiệt của nó bốc cao, ấy vậy mà nó không thiêu đốt, cũng không bị tiêu hủy. Nhiệt của nó, không có ngọn, vươn tới cõi cao hơn; các Con của Thượng đế trong một thời khắc sưởi ấm mình, nhưng không đến gần hơn nữa cho đến khi một chu kỳ khác trôi qua. Họ đợi giờ khắc, giờ tế hiến.

The solar Lords, taking the Word as sounded by the Sons of God, arise in the fierceness of their solar life and approach the altar. The four lines glow and burn. The sun applies a ray; the solar Lords pass it through Their substance and again approach the altar. The fifth line awakens and becomes a glowing point, and then a dull red line, measuring the distance ‘twixt the altar and the One Who watches.

Các nhật tinh quân, lĩnh lấy Linh từ khi được các Con của Thượng đế xướng lên, trỗi dậy trong mãnh lực thái dương của đời sống họ và tiến đến bàn thờ. Bốn đường rực sáng và cháy. Mặt Trời chiếu một tia; các nhật tinh quân truyền tia ấy qua chất thể của Các Ngài và lại tiếp cận bàn thờ. Đường thứ năm thức dậy và trở thành một điểm sáng rực, rồi một đường đỏ đục, đo khoảng cách giữa bàn thờ và Đấng đang quan sát.

The fivefold fire dynamic begins to flicker and to burn. It lights not yet without; it simply glows. The aeons pass away, the cycles come and go.

Lửa động lực ngũ phân bắt đầu lập loè và bốc cháy. Nó chưa chiếu sáng ra ngoài; nó chỉ rực lên. Các đại kiếp luân qua, các chu kỳ đến rồi đi.

Steadily the solar Lords sacrifice Themselves; They are the fire upon the altar. The fourth provides the fuel.

Các nhật tinh quân kiên định tế hiến chính Mình; Các Ngài là ngọn lửa trên bàn thờ. Cái thứ tư cung cấp nhiên liệu.

The Sons of God still watch. The work nears its final consummation. The Eternal Lhas in Their high place call each to each, and four take up the cry: “The fire is burning. Does the heat suffice?” [840]

Các Con của Thượng đế vẫn dõi nhìn. Công việc gần đi đến thành tựu sau cùng. Các Lha Vĩnh Cửu trên nơi cao của Các Ngài gọi nhau, và bốn vị cất tiếng đáp: “Lửa đang cháy. Nhiệt đã đủ chăng?” [840]

Two answer to each other: “ ‘The fire is burning; the altar is well-nigh destroyed. What happens next?’ “ “Add to the fire with fuel from Heaven. Breathe on the blazing fire and fan its flame to utter fierceness.”

Hai vị đáp lời nhau: “Lửa đang cháy; bàn thờ hầu như đã bị tiêu.” “Kế tiếp là gì?” “Hãy thêm củi từ Trời cho lửa. Hãy thổi vào ngọn lửa bừng cháy và quạt ngọn của nó cho đến độ dữ dội tột cùng.”

Thus the command goes out from One Who watches, silent hitherto, through countless aeons. They send forth breath. Something prevents the passage of the breath. They call for aid. One makes His appearance Who has not yet been seen.

Như thế mệnh lệnh phát ra từ Một Đấng đang quan sát, từ trước đến nay vẫn lặng im qua vô lượng đại kiếp. Các Ngài phóng ra hơi thở. Có cái gì đó ngăn trở đường đi của hơi thở. Các Ngài kêu gọi trợ giúp. Một Đấng xuất hiện, Đấng trước đó chưa từng được thấy.

He lifts His hand. The one, the two, the three, the four and five merge into one and mingle with the sixth. The flame mounts up, responding to the breath. The final disappearance of the cube is needed and then the work stands forth.”

Ngài giơ tay. Cái thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ năm hòa làm một và hòa trộn với cái thứ sáu. Ngọn lửa dâng lên, đáp ứng với hơi thở. Cần có sự biến mất sau cùng của khối lập phương và thế là công trình hiển hiện.”

From the archives of The Lodge.

Từ kho lưu trữ của Thánh đoàn.

[Commentary S7S9 Part 1]

(c) The Names of the Egoic Lotuses —(c) Các Danh xưng của Các Hoa Sen Chân Ngã

We might consider briefly the work of forming the egoic lotus on its own plane; this is as the result of the work of the Agnishvattas, after its segregation in space, and the formation of its ring-pass-not. We have touched upon the remotest and earliest stages. One point we have not yet emphasized but which is of interest to the thoughtful student. This is the fact of the difference existing between the egoic bodies owing to their varying stages of development. For instance, up till the middle of the Atlantean root-race (S.D., I, 196.) (when the door of individualization was closed), Egos were to be seen at many differing stages from the newly organized “buds,” representing freshly individualized men, to the highly developed causal bodies of the different disciples and initiates, who were superintending the evolution of the race. Now the egoic bodies might be grouped from the evolutionary standpoint as follows:

Chúng ta có thể xét lược công việc hình thành hoa sen chân ngã trên chính cõi của nó; đây là kết quả công việc của các Agnishvattas, sau khi nó được cách ly trong không gian, và vòng-giới-hạn của nó được hình thành. Chúng ta đã chạm đến những giai đoạn xa xôi và sớm nhất. Có một điểm chúng ta chưa nhấn mạnh nhưng lại đáng quan tâm đối với đạo sinh biết suy tư. Đó là sự khác nhau giữa các thể chân ngã do các giai đoạn phát triển khác nhau của chúng. Chẳng hạn, cho đến giữa giống dân gốc Atlantis (S.D., I, 196.) (khi cánh cửa của biệt ngã hóa khép lại), có thể thấy các Chân ngã ở nhiều giai đoạn khác nhau từ những “nụ” vừa tổ chức, biểu hiện người vừa mới biệt ngã hóa, đến những thể nguyên nhân phát triển cao của các đệ tử và các điểm đạo đồ khác nhau, những vị đang giám sát tiến hóa của nhân loại. Giờ đây các thể chân ngã có thể được nhóm lại theo quan điểm tiến hóa như sau:

On the third subplane of the mental plane:

Trên cõi phụ thứ ba của cõi trí:

– Bud egos. Our planetary scheme, being at the midway point in its evolution, there are therefore no unopened “buds” strictly speaking. All the egoic lotuses have at least one petal open. All the lotuses are organized, but there are vast differences among those of small development, [841] showing forth in the brilliancy of the permanent atoms, and in the stage of petal unfoldment.

Các chân ngã “nụ”. Hệ hành tinh của chúng ta, vì đang ở điểm giữa của tiến hóa, do đó không còn “nụ” nào chưa mở đúng nghĩa. Tất cả các hoa sen chân ngã ít nhất đã có một cánh mở. Tất cả các hoa sen đều được tổ chức, nhưng có những khác biệt rất lớn giữa những hoa sen có mức phát triển nhỏ, [841] biểu lộ qua độ sáng chói của các Nguyên tử trường tồn, và qua giai đoạn khai mở cánh hoa.

– Brahmic lotuses in which the first or knowledge petal is fully unfolded. They are so called as they represent on the physical plane the fully active intelligent unity, the man of small mental development, the lowest type of workers, agriculturists, and peasants on every continent. They are also, called “third class creators,” as they express themselves only through the act of physical creation on the physical plane, and their function is largely to provide vehicles for those of their own group.

Các hoa sen Brahmic trong đó cánh hoa thứ nhất hay cánh hoa tri thức được khai mở hoàn toàn. Chúng được gọi như vậy vì trên cõi hồng trần chúng biểu hiện đơn vị thông tuệ hoạt động hoàn toàn, người có phát triển trí tuệ ít, hạng người lao động thấp nhất, nông phu và tá điền ở mọi châu lục. Chúng cũng được gọi là “những nhà sáng tạo hạng ba,” vì họ chỉ biểu lộ qua hành vi sáng tạo thể xác trên cõi hồng trần, và chức năng của họ phần lớn là cung cấp vận cụ cho những người thuộc nhóm của chính họ.

– The lotuses of Brahman, in which the second petal is showing signs of opening and the second aspect in its lowest manifestation is showing signs of demonstration. They stand as representing certain groups of Egos from certain planetary schemes, notably Jupiter and Venus, who are a grade higher than the class above, but which have as yet a long way to go. They are called “second class creators,” for though they demonstrate on the physical plane in the act of physical creation, yet they are more swayed by love than by animal instinct as in the first case. They are to be found incarnating at this time in the Orient, particularly in India and in the Latin countries, and just lately in America.

Các hoa sen của Brahman, trong đó cánh hoa thứ hai đang có dấu hiệu mở ra và phương diện thứ hai trong biểu lộ thấp nhất của nó đang có dấu hiệu hiển lộ. Chúng đại diện cho những nhóm Chân ngã nhất định đến từ một số hệ hành tinh, đáng chú ý là Sao Mộc và Sao Kim, cao hơn một bậc so với hạng trên, nhưng vẫn còn một đoạn đường dài phải đi. Chúng được gọi là “những nhà sáng tạo hạng nhì,” vì dù biểu lộ trên cõi hồng trần qua hành vi sáng tạo thể chất, nhưng họ bị chi phối bởi tình thương nhiều hơn là bởi bản năng thú tính như trong trường hợp thứ nhất. Hiện nay có thể thấy họ đang lâm phàm ở phương Đông, đặc biệt ở Ấn Độ và các nước Latinh, và gần đây ở nước Mỹ.

– Primary lotuses. These are a group of special interest brought in under the influence of the Lord of the fifth Ray, and therefore fundamentally allied to the energy which is the special manifestation in this system and the basis of all achievement, that is, manas. They were quiescent during the Atlantean root-race but have come in during the fourth and fifth subraces of this root-race. They are a group a good deal more advanced than the earlier classes but need much to develop the second petal. With them the first and the third petals in the first circle are opening, but the middle petal is yet shut. The middle tier also shows no signs of vitality. Owing [842] to conditions in their emanating planet, their development has been one-sided, and hence their entering on a wave of energy into this scheme in order to “round” themselves out, as it is called. They may be seen in the purely intellectual selfish scientific type. They are responsible for much of the advanced application of mechanical science to the needs of men, and for the introduction of certain types of machinery; they work largely in connection with the energy of the mineral kingdom. By this it must be inferred that the solar Lords who embody this type are linked with a group of lunar Lords who respond magnetically to the devas of the mineral kingdom. Their work for the race has at present a deleterious effect, but when the second petal is opened, the wonders then to be achieved by them in loving service along their own particular line will be one of the factors which will regenerate the fourth kingdom. They will achieve emancipation in the fifth round, four fifths of them passing on to the Path and one fifth set back for another cycle.

Các hoa sen sơ cấp. Đây là một nhóm đặc biệt đáng lưu ý được đưa vào dưới ảnh hưởng của Đấng Chúa Tể Cung năm, và do đó về căn cơ liên hệ với năng lượng vốn là biểu lộ đặc thù trong hệ này và là nền tảng của mọi thành tựu, tức manas. Chúng ở trong trạng thái tĩnh trong giống dân gốc Atlantis nhưng đã đi vào trong giống dân phụ thứ tư và thứ năm của giống dân gốc này. Đây là một nhóm khá tiến bộ hơn các hạng trước đó nhưng còn cần phát triển nhiều ở cánh thứ hai. Ở họ, cánh thứ nhất và thứ ba trong vòng thứ nhất đang mở, còn cánh giữa vẫn đóng. Tầng giữa cũng không có dấu hiệu sinh khí. Do [842] các điều kiện trong hành tinh xuất xạ của họ, sự phát triển của họ bị thiên lệch, nên họ đi vào theo một làn sóng năng lượng vào hệ này để “làm cho tròn đầy” chính mình, như người ta nói. Có thể thấy họ ở kiểu loại khoa học thuần trí, vị kỷ. Họ chịu trách nhiệm cho nhiều ứng dụng tiên tiến của khoa học cơ khí vào các nhu cầu của con người, và về việc đưa vào một số loại máy móc; họ làm việc chủ yếu liên hệ với năng lượng của giới kim thạch. Qua đó phải hiểu rằng các nhật tinh quân thể hiện loại này được kết liên với một nhóm nguyệt tinh quân đáp ứng từ tính với các thiên thần của giới kim thạch. Công việc của họ đối với nhân loại hiện tại có hiệu ứng bất lợi, nhưng khi cánh thứ hai được mở, những điều kỳ diệu mà họ sẽ đạt được trong phụng sự bằng tình thương theo chính đường hướng riêng của họ sẽ là một trong những yếu tố tái sinh giới thứ tư. Họ sẽ đạt giải thoát trong cuộc tuần hoàn thứ năm, bốn phần năm trong số họ bước lên Con Đường và một phần năm bị giữ lại cho một chu kỳ khác.

– Lotuses of passion or desire. They are so called because their fundamental nature is embodied love in some one or other form. The bulk of the Monads of Love are among this large group and they are to be seen incarnating in the bulk of the well-to-do, kindly people of the world. They are divided into five groups, of whom three individualized upon this planet, and two were the very latest to individualize upon the moon chain. They have two petals unfolded and the third is for them at this time the object of their attention. Many may succeed in unfolding it before the seventh root-race of this round but the bulk of them will unfold it in the second root-race of the next round, and will stand ready before the close of the round to pass on to the probationary path, having unfolded one tier of petals, and organized the second. All these lotuses of the first circle are divided into groups but interplay goes on between them; energy in any center [843] produces reflex energy in another. It must be remembered that in closing the door in Atlantean times to the animal kingdom, and the consequent temporary cessation of the forming of any more “bud lotuses” the effect was dual, in directions other than the human or the animal. It was the result of the internal decision on the part of the planetary Logos to turn His attention away from the act of creation on the systemic mental plane to the work of progressive evolution. This caused a cessation of certain types of activity, producing a quiescence in certain of His centers, and an increased activity in others. It also had an effect upon the solar Angels, and consequently upon the Heart of the solar system from whence they are drawn. Floods of energy or streams of force from the heart of the sun (the subjective Sun) were arrested and directed elsewhere, while the Pitris already active began to center their attention upon the work begun, and temporarily new beginnings were out of order. It must not be forgotten here that the work of the solar Pitris from their point of view, is not primarily the evolution of man, but is the process of their own development within the plan of the solar Logos. The evolution of the human race is, for them, but a method.

Các hoa sen của dục vọng hay ham muốn. Chúng được gọi như vậy vì bản tính nền tảng của chúng là tình thương được thể hiện trong một dạng nào đó. Phần lớn các Chân thần của Bác Ái ở trong nhóm lớn này và có thể thấy họ đang lâm phàm trong đa số những người khá giả, tử tế của thế giới. Chúng được chia làm năm nhóm, trong đó ba nhóm biệt ngã hóa trên hành tinh này, và hai nhóm là những nhóm biệt ngã hóa muộn nhất trên dãy Mặt Trăng. Chúng có hai cánh đã mở và cánh thứ ba hiện là đối tượng chú ý của chúng. Nhiều người có thể khai mở được cánh này trước giống dân gốc thứ bảy của cuộc tuần hoàn này, nhưng phần lớn sẽ khai mở nó trong giống dân gốc thứ hai của cuộc tuần hoàn tới, và sẽ sẵn sàng trước khi cuộc tuần hoàn khép lại để bước lên Con Đường Dự Bị, sau khi đã khai mở một tầng cánh hoa, và tổ chức tầng thứ hai. Tất cả những hoa sen của vòng thứ nhất này đều được chia nhóm nhưng vẫn có sự tương tác giữa chúng; năng lượng ở bất cứ trung tâm nào [843] cũng tạo ra năng lượng phản xạ ở trung tâm khác. Cần nhớ rằng việc đóng cánh cửa vào thời Atlantis đối với giới động vật, và hệ quả là tạm thời ngưng hình thành thêm các “hoa sen nụ,” đã có hiệu ứng kép, theo những phương hướng khác ngoài nhân loại hay giới động vật. Đó là kết quả của quyết định nội tại từ phía Hành Tinh Thượng đế, quay sự chú tâm của Ngài khỏi hành vi sáng tạo trên cõi trí hệ thống sang công việc của tiến hóa tiến tới. Điều này gây nên sự chấm dứt của những loại hoạt động nhất định, tạo ra sự tĩnh lặng trong vài trung tâm của Ngài, và gia tăng hoạt động ở những trung tâm khác. Nó cũng gây một hiệu ứng lên các Thiên Thần thái dương, và do đó lên Trái Tim của hệ mặt trời, nơi họ được rút ra. Những lũ năng lượng hay dòng mãnh lực phóng xuất từ trái tim của mặt trời (Mặt Trời chủ quan) bị chặn lại và hướng đi nơi khác, trong khi các Tổ phụ đã hoạt động bắt đầu tập trung chú ý vào công việc đã khởi sự, và tạm thời, những khởi đầu mới không còn theo thứ tự. Không được quên rằng công việc của các thái dương tổ phụ, nhìn từ quan điểm của chính họ, không chủ yếu là tiến hóa con người, mà là tiến trình phát triển của chính họ trong khuôn khổ Thiên Cơ của Thái dương Thượng đế. Tiến hóa của nhân loại đối với họ chỉ là một phương tiện.

Perfected men are in the councils of the planetary Logos of their particular ray; the solar Pitris are in the council of the solar Logos. 69

Những con người hoàn thiện có mặt trong các công nghị của Hành Tinh Thượng đế thuộc cung của họ; các thái dương tổ phụ có mặt trong công nghị của Thái dương Thượng đế. 69

[Commentary S7S9 Part 2]

It might be of value here if we temporarily stopped our consideration of the egoic groups and briefly tabulated the evolutions, remembering that in this tabulation, the planes of differentiation alone are concerned; on the plane of the unmanifest or of the subjective, only unity is known. It must again be remembered that the term “unmanifest” is one of relative importance only, and concerns man’s apprehension of all that is. To the solar Logos the planes of the unmanifest are objective. Man has not as yet achieved etheric vision, and the etheric [845] subplanes are to him as yet unmanifest. The solar Logos has cosmic etheric vision fully developed, and because He is on the cosmic Path all is known and fully revealed to Him within the solar System.

Có lẽ sẽ hữu ích nếu ở đây chúng ta tạm ngừng việc xét các nhóm chân ngã và bảng hóa ngắn gọn các tiến hóa, ghi nhớ rằng trong bảng hóa này, chỉ các cõi của biến phân mới được đề cập; trên cõi của không-biểu-lộ hay của cõi chủ quan, chỉ biết đến sự nhất thể. Cũng cần nhớ rằng thuật ngữ “không biểu lộ” chỉ mang ý nghĩa tương đối, và liên quan đến sự nắm bắt của con người  về tất cả những gì là. Thái dương Thượng đế có thị kiến dĩ thái vũ trụ phát triển hoàn toàn, và bởi vì Ngài đang trên Thánh Đạo vũ trụ nên mọi sự trong Hệ mặt trời đều được biết và được hiển bày trọn vẹn cho Ngài, còn con người thì chưa đạt được thị kiến dĩ thái, và các cõi phụ [845] dĩ thái đối với y vẫn còn là không biểu lộ.

69 All these will become solar Logoi of varying grades.

69 Tất cả những vị này sẽ trở thành các Thái dương Thượng đế ở các cấp độ khác nhau.

Lives and Goals (Tabulation VI)

Lives

Goal

1.

Planetary Logoi—The major Three.

Cosmic liberation; the final cosmic Initiations.

2.

The minor four planetary Logoi.

Cosmic Initiation, or the first four Initiations.

3.

The informing Lives of a planetary globe.

Manus of a cosmic chain. Not a seed manu, but a periodical manu of lesser degree. This involves an unrevealable mystery, connected with certain Hierarchies of color.

4.

The informing Life of a kingdom in nature.

Transference in one of three directions:

To the line of the solar Pitris.

To Sirius, as a karmic adjuster.

To the solar system of the next order to work in connection with the planetary Logos of his own line as ruler of a kingdom or life wave in the system, and not just in a scheme.

5.

The solar Pitris.

The highest three groups will become major planetary Logoi; the lower four groups will become minor planetary Logoi.

6.

The Human evolution.

To become the solar Pitris of another cycle. To follow any of the paths earlier enumerated. Those who become solar Pitris, being the bulk of humanity, return to Sirius to be breathed out again into activity.

7.

The lunar Pitris

To become men. They will in their higher grades pass directly into the animal evolution of the next cycle and so eventually individualize. Their three higher grades will become animal-men, and the lower four will contribute to the quaternic forms of the men of the next creation.

8.

The Animal evolution

Human kingdom.

9.

The Vegetable evolution

The Animal kingdom.

10.

The Mineral evolution

The Vegetable kingdom.

11.

The four higher grades of lesser Builders on all planes.

They will form the manifested double or form of that mysterious third evolution of the next system; that is, the etheric body of the planetary entity. This mysterious life is as yet an unfathomable mystery and one which will not be revealed till the final one of the triplicity of solar systems of our solar Logos.

12.

The three lower grades of the lesser Builders

The physical body in its densest form of the planetary entity.

[Commentary S7S9 Part 3]

It might here be noted that the planetary Entity is the sumtotal of all the elemental lives of the lesser Builders functioning as, or forming, the substance of any particular globe in physical objectivity. The mystery of the whole subject lies hidden in three things:

Cũng có thể ghi nhận rằng Thực thể hành tinh là tổng số của tất cả các sự sống hành khí thuộc các Nhà Kiến Tạo thấp hơn đang vận hành như, hay cấu thành, chất liệu của bất kỳ bầu hành tinh nào trong tình trạng khách quan hồng trần. Bí nhiệm của toàn đề tài ẩn dấu trong ba điều:

First, the fact that our three planes, physical, astral, and mental, form the dense body of the solar Logos, and are therefore not considered as forming principles.

Thứ nhất, sự kiện là ba cõi của chúng ta, hồng trần, cảm dục, và trí, cấu thành thể đậm đặc của Thái dương Thượng đế, nên không được xem là cấu thành các nguyên khí.

The second fact is that the lesser “lives” or the elemental essence are the “refuse” of an earlier system, and react to inherent impulses so powerfully that it was only possible to control them through the dynamic will of the Logos, consciously applied. The word “refuse” must be interpreted analogically, and as is understood when it is said that man gathers to himself in each fresh incarnation matter to form his dense physical body which is tinged with the earlier vibrations of preceding incarnations. These “lives” have been gradually drawn in during the entire mahamanvantara as it became safe and possible to control and bend them to the will of the greater Builders. Much of the earlier energy-substance in systemic construction has been passed on into that force-matter which we call that of the lunar Pitris, and its place has gradually been taken by this type of energy, gathered in from the greater sphere in which our Logos has place. The twelve evolutions are after all but the twelve types of energy, manifesting ever in three groups of forces, and again as one group when synthesized during the process of manifestation. They are fourfold in interaction, and have a systemic ebb and flow about which little is known.

Sự kiện thứ hai là các “sự sống” thấp hơn hay Tinh chất hành khí là “phế tích” của một hệ trước, và phản ứng mãnh liệt với các xung lực tiềm sinh đến nỗi chỉ có thể khống chế chúng bằng ý chí năng động của Thượng đế, được tác động có ý thức. Từ “phế tích” phải được hiểu theo lối tương đồng, như khi người ta nói con người trong mỗi lần lâm phàm thu gom cho mình chất liệu để tạo nên thể xác đậm đặc mang sắc thái bởi những rung động sớm hơn của các lần lâm phàm trước. Những “sự sống” này đã được từ từ thu hút vào trong suốt toàn bộ Đại giai kỳ sinh hóa khi mà việc khống chế chúng và uốn chúng theo ý muốn của các Nhà Kiến Tạo lớn hơn trở nên an toàn và khả hữu. Phần lớn năng chất sơ thời trong việc kiến tạo hệ thống đã được chuyển vào thứ lực-chất mà chúng ta gọi là của các thái âm tổ phụ, và chỗ của nó dần dần được thế bởi loại năng lượng này, được thu góp từ đại không gian nơi Thượng đế của chúng ta có vị trí. Mười hai tiến hóa rốt lại chỉ là mười hai loại năng lượng, luôn biểu lộ trong ba nhóm mãnh lực, và lại hợp thành một nhóm khi được tổng hợp trong tiến trình của sự biểu hiện. Chúng có tương tác tứ phân, và có một triều triều hệ thống lên xuống mà người ta biết rất ít.

Third, the fact of the coming into incarnation of the [846] informing life “ of this low grade substance, who is an entity from a point in the Heavens which may not be mentioned: He embodies influences of a manasic nature, but manas at its very lowest vibration. Perhaps some idea of this may be gathered if it is stated that there is a resemblance between this vibration, or this energizing life, and the basic vibration of the solar system preceding this one. We must remember that our basic vibration was the result of the evolutionary process of the entire earlier system. This entity has the same analogous relation to the deva evolution as the mysterious “bridges” which baffle scientists, and which are found between the vegetable and the animal kingdom, and the mineral and the vegetable; they are neither the one nor the other. On a large scale, this “life” or the informing entity of the lower life of the physical plane of the solar system is neither a full exponent of the subconscious life of the earlier system, nor of the elemental life of this; only in the next system will be seen the manifestation of a form of consciousness of a type at present inconceivable to man. Esoterically he is stated to have “neither sight nor hearing”; he is neither deva nor human in essence. He is occultly “blind,” utterly unaware; he is capable only of movement, and resembles the fetus in the womb; that which is coming to the birth only the next greater cycle will reveal. The mystery of the moon (S. D., I, 172, footnote.) or of the “divine lunatic” is connected somewhat with the revelation (through the premature compassion of our planetary Logos) of the life of this nature, informing the dense globe of the moon chain. On His high level, pity awoke in the heart of the planetary Logos for certain involutionary existences within the moon chain, and (like the Buddha on a lesser scale and at a much later date) compassionate zeal brought the karmic results with which we are still concerned. The “beast” must be driven back [847] for his own good to run his cycle, hidden in his den and confined within safe limits until the dawning of a new system brings him conscious opportunity.

Thứ ba, sự kiện về việc đi vào lâm phàm của [846] sự sống thấm nhuần “chất liệu hạ đẳng này,” y là một Thực thể đến từ một điểm trong Trời Cao mà không thể gọi tên: Y thể hiện những ảnh hưởng mang bản chất manasic, nhưng là manas ở rung động thấp nhất của nó. Có lẽ có thể hình dung điều này nếu nói rằng có sự tương tự giữa rung động này, hay sự sống năng lực này, và rung động nền tảng của hệ mặt trời ngay trước hệ hiện tại. Chúng ta phải nhớ rằng rung động nền tảng của chúng ta là kết quả của tiến trình tiến hóa của toàn bộ hệ trước. Thực thể này có mối liên hệ tương đồng với tiến hóa thiên thần cũng như những “cầu nối” huyền bí làm các nhà khoa học bối rối, những cầu nối giữa giới thực vật và giới động vật, và giữa giới kim thạch và giới thực vật; chúng không hẳn là cái này cũng không hẳn là cái kia. Ở quy mô lớn, “sự sống” này hay Thực thể thấm nhuần của đời sống thấp trên cõi hồng trần của hệ mặt trời không phải là một biểu hiện đầy đủ của đời sống tiềm thức của hệ trước, cũng không phải của đời sống hành khí của hệ này; chỉ trong hệ tới mới thấy biểu lộ một dạng tâm thức hiện nay con người không thể tưởng tượng. Về mặt huyền bí, y được nói là “không có thị cũng không có thính”; y về bản chất không phải thiên thần cũng không phải nhân loại. Huyền môn gọi y là “mù lòa,” hoàn toàn vô thức; y chỉ có khả năng chuyển động, và giống như thai nhi trong lòng mẹ; cái đang đến với sinh thành chỉ có chu kỳ lớn kế tiếp mới bày lộ. Huyền nhiệm của mặt trăng (S. D., I, 172, cước chú.) hay của “kẻ điên thiêng liêng” phần nào liên quan đến sự mặc khải (thông qua lòng bi mẫn trước thời của Hành Tinh Thượng đế chúng ta) về sự sống thuộc loại này, thấm nhuần bầu đậm đặc của dãy Mặt Trăng. Trên cảnh giới cao của Ngài, lòng bi mẫn trỗi dậy trong tâm Hành Tinh Thượng đế đối với những tồn tại giáng hạ trong dãy Mặt Trăng, và (giống như Đức Phật trên một tỷ lệ nhỏ hơn và ở một thời kỳ muộn hơn nhiều) nhiệt tâm bi mẫn đã mang lại những kết quả nghiệp lực mà đến nay chúng ta vẫn còn bận tâm. “Con thú” phải bị xua trở lại [847] vì điều lợi cho chính y, để chạy trọn chu kỳ của y, ẩn trong hang và bị kiềm tỏa trong giới hạn an toàn, cho đến khi bình minh của một hệ mới đem lại cho y cơ hội có ý thức.

More we may not say. It must be remembered that the mysteries of existence are as yet but little cognized by man. In cases where profound mysteries lie, man is often totally unaware of it; and frequently man remains blind and deaf where no mystery is but only revelation for those who have eyes to see and ears to hear. When man has penetrated to those secrets which lie behind the lower kingdoms in nature, when he has solved the problem of the constitution of the interior of the Earth, and has from there worked his way back to knowledge of the working of the involutionary path and the lives which tread that path, then and then only will he begin to realize the strangeness of that which lies beyond his ken.

Chúng ta không thể nói thêm. Cần nhớ rằng các huyền nhiệm của hiện hữu cho đến nay con người còn nhận thức được rất ít. Ở những chỗ có những huyền nhiệm thâm sâu, con người thường hoàn toàn không hay biết; và thường khi con người vẫn mù và điếc nơi không có huyền nhiệm mà chỉ có mặc khải cho những ai có mắt để thấy và có tai để nghe. Khi con người thâm nhập vào những bí ẩn nằm sau các giới thấp trong thiên nhiên, khi y giải được bài toán về cấu trúc bên trong của Trái Đất, và từ đó lần ngược trở lại tri thức về vận hành của con đường giáng hạ tiến hóa và về các sự sống bước trên con đường ấy, thì chỉ khi đó y mới bắt đầu nhận ra sự lạ lùng của cái ở ngoài tầm của y.

One further hint may be given, which will serve to throw a beam of light upon the problem for those who are ready, and will add to the confusion of the non-intuitive:—From the standpoint of the ONE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID, to Whom our solar system is but a center (which center being one of the three truths revealed at the seventh Initiation)

Có thể cho một gợi ý nữa, sẽ chiếu một tia sáng lên vấn đề cho những ai đã sẵn sàng, và sẽ làm tăng bối rối cho người không có trực giác:—Từ quan điểm của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ, đối với Ngài hệ mặt trời của chúng ta chỉ là một trung tâm (mà  trung tâm ấy là một trong ba chân lý được tiết lộ ở lần điểm đạo thứ bảy)

a. System I—was characterized by the organization of a center, and the mysterious life we have been speaking about was produced by the “lowest vibration of the center.”

Hệ I—được đặc trưng bởi sự tổ chức một trung tâm, và sự sống mầu nhiệm mà chúng ta đã nói tới được sản sinh bởi “rung động thấp nhất của trung tâm.”

b. System II—is characterized by the activity in three dimensions of this center, and the evolution of three types of consciousness, deva, human and subhuman, in all their many grades and hierarchies. It is the period of the balancing of the forces in the center.

Hệ II—được đặc trưng bởi hoạt động trong ba chiều của trung tâm này, và bởi sự tiến hóa của ba loại tâm thức, thiên thần, nhân loại và phi nhân, trong tất cả các cấp và huyền giai của chúng. Đây là thời kỳ quân bình các lực trong trung tâm.

c. System III—will be characterized by the fourth dimensional activity of the center, and the twelve types of evolution will become four types of force. [848]

Hệ III—sẽ được đặc trưng bởi hoạt động bốn chiều của trung tâm, và mười hai loại tiến hóa sẽ trở thành bốn loại mãnh lực. [848]

This is next to impossible for man to understand and will seem inexplicable, but this hint is imparted in order that man may realize the interdependence of the various systems, and the place they hold in a greater scheme; the intent is not to give the student uncorrelated facts of no apparent use to him. Without the premise of our position within a vaster scheme, man’s deductions will remain inaccurate.

Điều này hầu như là bất khả đối với con người để hiểu và sẽ dường như không thể cắt nghĩa, nhưng gợi ý này được đưa ra để con người nhận ra tính liên thuộc giữa các hệ khác nhau, và vị trí chúng giữ trong một đại đồ án; ý định không phải là cung cấp cho đạo sinh những dữ kiện rời rạc không có vẻ hữu dụng đối với y. Nếu không có tiền đề về vị trí của chúng ta trong một đồ án bao la hơn, các suy luận của con người sẽ vẫn thiếu chính xác.

[Commentary S7S9 Part 4]

We will now proceed with our enumeration of the groups of Egos according to their characteristics, but it might be wise to deal first with a problem which may be in some minds and see if it is not capable of solution. Two problems come before the mind of the thoughtful student; one concerns the position (in connection with any particular planetary scheme) of those vast groups of Egos, which are embodied by Lives, emanating from any one of the seven Rays, and associated with any of the various schemes. The other deals with the effect produced by the “coming-in” of Egos on the mental plane which are not “bud” Egos, but are possibly very fully developed, such as disciples and initiates.

Giờ chúng ta sẽ tiếp tục việc liệt kê các nhóm Chân ngã theo các đặc tính của chúng, nhưng có lẽ nên xử lý trước một bài toán có thể đang ở trong tâm trí một số người và xem nó có thể được giải hay không. Hai vấn đề đến với tâm trí của đạo sinh biết suy tư; một liên quan đến vị trí (trong liên hệ với bất kỳ hệ hành tinh đặc thù nào) của những nhóm Chân ngã mênh mông, vốn được các Sự sống thể hiện, phát xuất từ bất cứ một trong bảy cung, và liên hệ với bất kỳ hệ nào trong các hệ khác nhau. Vấn đề kia liên quan đến hiệu ứng do “sự đến” của các Chân ngã trên cõi trí vốn không phải “Chân ngã nụ,” mà có thể phát triển rất đầy đủ, như các đệ tử và các điểm đạo đồ.

These thoughts may be clarified if certain statements are made relating to the mental plane, and which will serve as indications as to the direction in which the solution of these problems may be sought.

Những suy tưởng này có thể được làm sáng tỏ nếu nêu ra một số mệnh đề liên quan đến cõi trí, và chúng sẽ giúp chỉ thị hướng mà ở đó có thể tìm cầu lời giải cho các vấn đề này.

The mental plane is, as H. P. B. has pointed out, the vastest of all the planes with which we are concerned. It is the key plane of the solar system. It is the pivotal plane upon which the great Wheel turns. It is the meeting place of the three lines of evolution and has been for this reason esoterically termed “the council chamber of the Three Divinities.” On this plane, the three Persons of the logoic Trinity meet in united work. Below two Persons may be seen associated; above another duality functions, but only on this plane do the Three make an at-one-ment. [849]

Cõi trí, như Bà H. P. B. đã chỉ rõ, là cõi bao la nhất trong tất cả các cõi liên hệ với chúng ta. Nó là cõi then chốt của hệ mặt trời. Nó là cõi bản lề mà trên đó Bánh Xe lớn xoay chuyển. Nó là nơi gặp gỡ của ba tuyến tiến hóa và vì lý do này đã được gọi một cách huyền bí là “phòng công nghị của Ba Vị Thiêng.”  Trên cõi này, ba Ngôi của Tam Vị thuộc Thượng đế gặp nhau trong công trình hợp nhất. Bên dưới có thể thấy hai Ngôi kết hợp; bên trên một nhị nguyên khác vận hành, nhưng chỉ trên cõi này Ba Ngôi mới làm nên một sự hợp nhất. [849]

All the Logoi of the differing schemes are expressing Themselves upon this plane. There are certain schemes in the system which find their lowest manifestation on this plane, and have no physical body such as the Earth, and the other dense planets. They exist through the medium of gaseous matter, and their spheres of manifestation are simply composed of the four cosmic ethers and the cosmic gaseous. But all the great Lives of the solar system do possess bodies of our systemic mental matter, and therefore on that plane communication between all these Entities becomes a possibility. This fact is the basis of occult realization, and the true ground for the at-one-ment. Matter of the abstract levels of the mental plane enters into the composition of the vehicles for all these greater Existences and through the medium of this energized substance each can get en rapport with each, no matter what Their individual goal of attainment may be. The units, therefore, in Their bodies can equally get in touch with all other Egos and groups once they have achieved the consciousness of the mental plane (causal consciousness) and know the varying group “keys,” the group tones and colors.

Tất cả các Thượng đế của những hệ hành tinh khác nhau đều đang tự biểu lộ trên cõi này. Có những hệ trong Hệ mặt trời mà nơi biểu lộ thấp nhất của chúng nằm trên cõi này, và không có thể xác như Trái Đất, hay các hành tinh đậm đặc khác. Chúng tồn tại  qua trung gian chất khí, và các cầu giới biểu lộ của chúng chỉ cấu thành bởi bốn dĩ thái vũ trụ và chất khí vũ trụ. Nhưng mọi Đại Sự Sống của Hệ mặt trời đều có các thể bằng chất liệu cõi trí hệ thống, vì vậy trên cõi đó sự giao tiếp giữa tất cả các Thực thể này trở thành khả hữu. Sự kiện này là nền tảng của nhận thức huyền bí,  và là cơ sở chân thực cho sự hợp nhất.  Chất liệu của các cõi phụ trừu tượng của cõi trí hòa vào kết cấu của các vận cụ dành cho tất cả các Đại Tồn Tại ấy, và thông qua chất liệu đã được tiếp sinh lực này, mỗi vị có thể đặt đồng cảm ứng  với mỗi vị khác, bất kể Mục tiêu chứng đắc cá nhân của Các Ngài là gì. Do đó, các đơn vị trong các thể của Các Ngài cũng có thể tiếp xúc với mọi Chân ngã khác và các nhóm khác khi họ đã đạt tâm thức của cõi trí (tâm thức chân ngã) và biết các “khóa” nhóm khác nhau, các âm điệu và sắc màu nhóm.

It will consequently be apparent to the careful student that in this fact lies the true relationship between the various groups of Egos, no matter what degree of evolution, or what ray and in which scheme they may be. The basic truth here involved may be better grasped if the following occult phrases are studied:

Vì vậy, điều này sẽ hiển nhiên đối với đạo sinh thận trọng rằng trong sự kiện này nằm mối liên hệ chân thực giữa các nhóm Chân ngã khác nhau, bất kể mức tiến hóa, cung nào và thuộc hệ nào. Chân lý căn bản ở đây có thể được nắm bắt tốt hơn nếu nghiên cứu các ngữ cú huyền bí sau:

Within the Hall of Ignorance kama-manas rules. The man, weighed down by much misplaced desire, seeks for the object of his heart’s attention within the murky halls of densest maya. He finds it there but dies ere garnering all the longed-for fruit. The serpent stings him, and the joy desired recedes from out his grasp. All seeking thus the selfish fruits of karma must each despise each other; hence strife and greed, ill-will and hatred, death and retribution, karmic invocation and the thunderbolt of vengeance characterize this Hall. [850]

“Trong Phòng Vô Minh trí-cảm cai trị. Con người, bị đè nặng bởi nhiều ham muốn đặt sai chỗ, tìm kiếm đối tượng của sự chú tâm trong tim nơi những đại sảnh mù mịt của ảo lực dày đặc nhất. Y tìm thấy nó ở đó nhưng chết trước khi gom hái tất cả trái ngọt ao ước. Con rắn cắn y, và niềm vui mong muốn trượt khỏi tay y. Tất cả những ai như vậy tìm kiếm trái ngọt ích kỷ của nghiệp quả thì kẻ này khinh bỉ kẻ kia; bởi vậy, tranh chấp và tham lam, ác ý và hận thù, chết chóc và báo ứng, khẩn cầu nghiệp lực và tia sét báo oán đặc trưng cho Phòng này. [850]

Within the Hall of Learning intellect rules and seeks to guide. Desire of a higher kind, the fruit of manas and its use, supplants the lower kamic urge. Man weighs and balances, and in the twilight Halls of Intellection seeks for the fruit of knowledge. He finds it but to realize that knowledge is not all; he dies upon the open field of knowledge, hearing a cry beat on his dying ears: “Know that the knower greater is than knowledge; the One who seeks is greater than the sought.

Trong Phòng Hiểu Biết  trí năng cai trị và tìm cách hướng dẫn. Một ham muốn cao hơn, trái ngọt của manas và việc sử dụng nó, thay thế cho xung lực dục vọng thấp. Con người cân đo và đong đếm, và trong những Đại sảnh Hoàng hôn của Trí năng, y tìm kiếm trái ngọt của tri thức. Y tìm thấy nó nhưng để nhận ra rằng tri thức không phải là tất cả; y chết trên cánh đồng rộng của tri thức, khi nghe một tiếng kêu dội vào tai đang hấp hối: “Hãy biết rằng thức giả lớn hơn tri thức; Kẻ đi tìm lớn hơn điều được tìm.

Within the Hall of Wisdom the Spirit rules; the One within the lesser ones assumes supreme control. Death is not known within these halls, for its two great gates are passed. Discord and strife both disappear and only harmony is seen. The knowers see themselves as One; they recognize the field wherein knowledge grows as Brahmic dissonance and differentiation. Knowledge they know as method, an instrument of purpose utilized by all and just a germ of eventual recognition. Within this hall union of each with each, blending of one and all, and unity of action, goal and skill marks every high endeavor.”

Trong Phòng Minh triết, Tinh thần cai trị; Đấng Bên Trong trong các tiểu ngã đảm nhận quyền tối thượng. Chết chóc không được biết đến trong các đại sảnh này, vì hai cánh cổng lớn của nó đã được vượt qua. Bất hòa và tranh chấp đều biến mất và chỉ còn hòa điệu hiện bày. Các thức giả thấy chính mình là Một; họ nhận biết cánh đồng nơi tri thức tăng trưởng là bất hòa và biến phân mang tính Brahmic. Tri thức, họ biết là phương pháp, khí cụ của Mục đích do tất cả cùng sử dụng, và chỉ là một mầm mống của sự nhận biết cuối cùng. Trong đại sảnh này, hiệp nhất của mỗi người với mỗi người, hòa trộn của một với tất thảy, và đồng nhất trong hành động, mục tiêu và sở hành đánh dấu mọi nỗ lực tột bậc.”

If these words are pondered on, it will be realized that true union exists in the realization that the greater life ever includes the lesser, and that each expansion of consciousness brings man closer to this realized Oneness.

Nếu suy niệm những lời này, sẽ nhận ra rằng hiệp nhất chân thực tồn tại trong nhận thức rằng sự sống lớn bao giờ cũng bao hàm sự sống nhỏ, và rằng mỗi lần mở rộng tâm thức đều đưa con người đến gần hơn với Sự Nhất Thể đã được chứng tri.

Therefore, if one might venture to express an abstraction and a state of consciousness in terms of time and space, and through the limitation of language, it might be stated that on egoic levels, or on the three higher subplanes of the mental plane, there exists a channel of communication, based on similarity of vibration and oneness of endeavor, between every one of the planetary schemes, within the solar ring-pass-not. Here, and here alone (as regards the three worlds and the human kingdom), becomes possible the establishing of egoic relationships and the transmission of thought substance between

Vì vậy, nếu có thể mạo muội diễn đạt một trừu tượng và một trạng thái tâm thức bằng những thuật ngữ của thời gian và không gian, và qua hạn chế của ngôn ngữ, có thể nói rằng trên các cấp độ chân ngã, hay trên ba cõi phụ cao của cõi trí, tồn tại một kênh giao tiếp, dựa trên tương đồng rung động và một thể nỗ lực, giữa mọi hệ hành tinh nằm trong vòng-giới-hạn của hệ mặt trời. Ở đây, và chỉ ở đây (xét trong ba cõi thấp và giới nhân loại), mới có thể thiết lập các mối liên hệ chân ngã và truyền dẫn chất liệu tư tưởng giữa

a. Units and egoic groups.

Các đơn vị và các nhóm chân ngã.

b. Groups and other groups. [851]

Các nhóm và các nhóm khác. [851]

c. Greater groups with still greater or with lesser ones.

Những nhóm lớn với những nhóm còn lớn hơn nữa hoặc với những nhóm nhỏ hơn.

d. Egos in one planetary scheme with those in another.

Các Chân ngã trong một hệ hành tinh với các Chân ngã trong một hệ khác.

The Ahhi, the greater Builders, 71 Who are the Lords working out the will of the solar Logos, mainly use two planes for communication with each other and with Their cohorts:

Ahhi, các Đấng Xây Dựng vĩ đại, 71 là những Chúa Tể đang thực thi ý chí của Thái dương Thượng đế, chủ yếu sử dụng hai cõi để giao tiếp với nhau và với các hàng thuộc hạ:

– First, the second plane, where They communicate by means of a spiritual medium incomprehensible to man at present.

Thứ nhất, cõi thứ hai,  nơi Các Ngài giao tiếp bằng một môi giới tinh thần hiện nay vượt ngoài sự hiểu biết của con người.

– Second, the mental plane, where They communicate with all lesser lives by means of a type of mental telepathy.

Thứ hai, cõi trí,  nơi Các Ngài giao tiếp với mọi sự sống thấp hơn bằng một loại viễn cảm trí tuệ.

The “coming-in” of advanced Egos from the inner round, or from other planetary schemes, or from subtler spheres where they have been in pralaya awaiting opportunity is produced in a triple manner and is the result of a triple activity. It is caused by an understanding between the planetary Logos of a scheme, and a brother planetary Logos whereby an exchange is effected. The student must here think in terms of force and energy, of magnetic interaction and the conscious transmission of energy out of the body of the planetary Logos, via the centers or a center, into the body of another planetary Logos. The cause here is the will or purpose, the object is sensation, and the method is force transference. Exactly the same understanding lies back of the coming in of egos from the inner round, only this time the energy is sent forth by certain existences (working in connection with any planetary Logos) who are the “custodians of the inner circle.” This touches upon a mystery and deals with the coming-in of high Egos, of Avatars, of Buddhas, [852] of masters, of initiates, and of disciples, and of all who have to wait for group, and not individual, urge for the fulfilment of cyclic karma on a large scale, and whose “wheels” are controlled by cosmic forces and not by purely systemic forces.

“Sự đến” của những Chân ngã tiến bộ từ vòng nội, hay từ các hệ hành tinh khác, hoặc từ những cõi vi tế hơn nơi họ đã ở trong Giai kỳ qui nguyên chờ đợi thời cơ, được tạo ra theo một cách thức tam phân và là kết quả của một hoạt động tam phân. Nó được gây nên bởi một sự điều giải giữa Hành Tinh Thượng đế của một hệ, và một Hành Tinh Thượng đế huynh đệ, nhờ đó một sự trao đổi được thực hiện. Ở đây đạo sinh phải tư duy theo những thuật ngữ của mãnh lực và năng lượng, của tương tác từ tính và sự  truyền dẫn có ý thức năng lượng ra khỏi thể của một Hành Tinh Thượng đế, thông qua các trung tâm hay một trung tâm, vào thể của một Hành Tinh Thượng đế khác. Nguyên nhân ở đây là Ý chí hay Mục đích, đối tượng là cảm thọ, và phương pháp là chuyển giao mãnh lực.  Chính sự hiểu tri ấy cũng nằm sau sự đến của các chân ngã từ vòng nội, chỉ khác là lần này năng lượng được phát ra bởi những tồn tại nhất định (làm việc liên kết với bất kỳ Hành Tinh Thượng đế nào) là những “người quản thủ của vòng nội.” Điều này chạm đến một bí nhiệm và liên quan đến sự giáng lâm của các Chân ngã cao, các Đấng Hoá Thân, các Đức Phật, [852] các Chân sư, các điểm đạo đồ, và các đệ tử, và tất cả những ai phải chờ đợi xung lực thuộc nhóm, chứ không phải cá nhân, để hoàn tất nghiệp lực chu kỳ ở quy mô lớn, và “các bánh xe” của họ được các lực vũ trụ điều khiển chứ không phải các lực thuần hệ thống.

Another factor might be termed the karmic results of seeds sown in days long past, and hidden in the mysteries of the earlier system, scheme, or chain as the case may be. All these three groups of manifestation follow karmic impulse, and this impulse it is which controls the time period, and method of the appearance in any group of planetary egos, of newly born lotus buds, or of lotuses which are termed “mystically transplanted.” These latter are probably of a high degree of unfoldment. This is possible in individual cases and in the case of entire groups.

Một yếu tố khác có thể gọi là các kết quả nghiệp của những hạt giống được gieo từ thuở xa xưa, ẩn trong các huyền nhiệm của hệ, hệ hành tinh, hay dãy trước đó, tùy trường hợp. Cả ba nhóm biểu hiện này đều theo xung lực nghiệp, và chính xung lực này điều khiển thời kỳ và phương pháp xuất hiện trong bất kỳ nhóm chân ngã hành tinh nào, của các “nụ hoa sen” vừa sinh, hay của các hoa sen được gọi là “được chuyển trồng theo lối huyền bí.” Những hoa sen sau này có thể ở vào một mức độ khai mở cao. Điều này khả hữu trong các trường hợp cá nhân và cả trong trường hợp toàn nhóm.

A third factor has to do with the transference of Egos or lotuses from one sphere of activity to another and this necessarily produces conditions calling for the appearance of similar centers to take their place. Energy transmitted must be supplied from elsewhere, and this is another predisposing factor for the appearance of egoic lotuses in any scheme. The law of the conservation of force holds good on any plane.

Một yếu tố thứ ba liên quan đến việc chuyển dịch các Chân ngã hay các hoa sen từ một khu vực hoạt động này sang khu vực khác, và điều này tất yếu tạo ra những điều kiện đòi hỏi sự xuất hiện của những trung tâm tương tự để thay thế. Năng lượng đã truyền đi phải được cung cấp từ nơi khác, và đây là một yếu tố thuận duyên khác cho sự xuất hiện của các hoa sen chân ngã trong bất kỳ hệ hành tinh nào. Định luật bảo toàn lực hiệu dụng trên mọi cõi.

This whole question of the transference of egoic lotuses from any one scheme to another, or from chain to chain, on the mental plane is one of very real intricacy, and cannot be elucidated to the unpledged disciple. Only these general indications are in any way possible.

Toàn bộ vấn đề về sự chuyển dịch các hoa sen chân ngã từ một hệ hành tinh này sang hệ khác, hoặc từ Dãy này sang Dãy khác, trên cõi trí, là một vấn đề thực sự cực kỳ tinh vi phức tạp, và không thể được giảng giải cho một đệ tử chưa thệ nguyện. Chỉ có thể đưa ra những chỉ dẫn tổng quát như vậy mà thôi.

It must also be remembered in connection with our planet that Egos appear in those groups whose lotuses are not produced as the result of the Law of Attraction working between the animal kingdom of the globe and the higher Triads, but which are Egos who have individualized elsewhere, and who therefore come in with their petals already organized, and perhaps with several [853] petals unfolded. This has necessarily a profound effect both upon the groups in which they appear, and upon the type of man who will make his appearance subsequently in physical plane incarnation. This is touched upon in the Secret Doctrine when the question of the early teachers and divine kings who occupied the ill-favored bodies of the early humanity, is broached.” 72, 73

Cũng cần phải nhớ, liên hệ với hành tinh của chúng ta, rằng các Chân ngã xuất hiện trong những nhóm mà các hoa sen của họ không được sản sinh do Định luật Hấp dẫn vận hành giữa giới động vật của bầu hành tinh và Tam nguyên tinh thần cao hơn, mà đó là những Chân ngã đã biệt ngã hóa ở nơi khác, do đó đi vào với các cánh hoa đã được tổ chức sẵn, và có lẽ với vài [853] cánh hoa đã khai mở. Điều này tất yếu có ảnh hưởng sâu xa cả lên những nhóm trong đó họ xuất hiện, lẫn lên loại người sẽ xuất hiện về sau trong lần lâm phàm trên cõi hồng trần. Điều này được đề cập trong Giáo Lý Bí Nhiệm khi nêu vấn đề về những bậc thầy sơ kỳ và các vị vua thiêng liêng, vốn cư ngụ trong các thể xác bất lợi của nhân loại thời kỳ đầu.” 72, 73

71 From a Sensa word meaning “serpents.” These are the Dragons of Wisdom.

71 Từ Sensa có nghĩa là “rắn.” Đây là những Rồng của Minh triết.

– See S. D., I, 55, 69, 70.

– Xem S. D., I, 55, 69, 70.

72 See the early part of the Secret Doctrine, Volume II.

72 Xem phần đầu của Giáo Lý Bí Nhiệm, Tập II.

73 C. W. Leadbeater had a dim apprehension of this idea when he referred to those boat loads of Egos from the moon chain. He has of course materialized the idea far too much; if the same fundamental idea is expressed in terms of force and of the appearance of force centers within the earth chain, which force centers are the result of energy emanating from an earlier chain and producing whorls in the ether or substance of the mental plane, then the true significance may be more easily grasped.

73 C. W. Leadbeater đã có một nhận thức mờ nhạt về ý tưởng này khi Ông nhắc đến những “thuyền chở” các Chân ngã từ Dãy Mặt Trăng. Tất nhiên Ông đã hiện hình hóa ý tưởng đó quá mức; nếu cùng một ý niệm nền tảng ấy được diễn đạt bằng các thuật ngữ về lực và về sự xuất hiện các trung tâm lực trong Dãy Địa Cầu, mà các trung tâm lực ấy là kết quả của năng lượng xuất lộ từ một Dãy trước kia và tạo ra các luồng xoáy trong dĩ thái hay chất liệu của cõi trí, thì thâm nghĩa chân thực có thể dễ nắm bắt hơn.

[Commentary S7S10 Part 1]

To continue with our consideration of egoic groups: It might be briefly stated that the egoic groups in connection with our planet may be roughly grouped according to the stage of lotus organization, as follows:

Tiếp tục với việc khảo sát các nhóm hoa sen chân ngã: Có thể tóm lược rằng các nhóm hoa sen chân ngã liên quan đến hành tinh của chúng ta có thể được phân loại đại thể theo giai đoạn tổ chức của hoa sen, như sau:

a. Egos who were produced through the individualization process in Lemurian days. They are the Earth humanity, along with the second group.

Những Chân ngã được sản sinh qua tiến trình biệt ngã hóa vào thời Lemuria. Họ là nhân loại Địa Cầu, cùng với nhóm thứ hai.

b. Egos who have individualized during the Atlantean root-race until the door was shut.

Những Chân ngã đã biệt ngã hóa trong giống dân gốc Atlantis cho đến khi cánh cửa được khép lại.

c. Egos who have “come-in” from the moon chain and who are much more evolved than the earth humanity.

Những Chân ngã đã “đi vào” từ Dãy Mặt Trăng và tiến hóa vượt xa nhân loại Địa Cầu.

d. Egos who have been swept in since Atlantean days to take the place of those Egos who have achieved liberation, and whose causal bodies have disappeared, or whose lotuses have “died out” leaving a vacuum in force substance which must be supplied and filled. They usually come in from one of two schemes:

Những Chân ngã đã được cuốn vào kể từ thời Atlantis để thay thế những Chân ngã đã đạt giải thoát, mà thể nguyên nhân của họ đã biến mất, hoặc các hoa sen của họ đã “tàn lụi” để lại một khoảng trống trong chất liệu lực cần phải được cung ứng và lấp đầy. Họ thường đi vào từ một trong hai hệ hành tinh:

i. From the scheme embodied by the polar opposite of our planetary Logos.

Từ hệ hành tinh vốn là đối cực của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta.

ii. From that scheme which is allied with these two in forming a systemic triangle. [854]

Từ hệ hành tinh vốn liên kết với hai hệ kia để hình thành một tam giác hệ thống. [854]

These cases are necessarily rare at present but will become more frequent as more and more of the human race take the fourth Initiation.

Những trường hợp này hiện tại tất yếu là hiếm nhưng sẽ trở nên thường xuyên hơn khi ngày càng nhiều người trong nhân loại trải qua lần điểm đạo thứ tư.

e. Certain rare Egos or lotuses from schemes not enumerated in the above triplicity. They are usually only brought in so that they may perfect certain developments in their own nature, to carry out experimental work in connection with the deva kingdom, or to produce certain group results desired by the planetary Logos. They frequently do not descend into dense physical incarnation but work primarily on mental and astral levels, returning to their own spheres eventually for the final stages of liberation.

Một số Chân ngã hay hoa sen hiếm hoi từ các hệ hành tinh không được liệt kê trong bộ ba kể trên. Họ thường chỉ được đưa vào để hoàn thiện những phát triển nhất định trong tự tính của chính mình, để thực hiện công việc thí nghiệm liên quan đến giới thiên thần, hoặc để tạo ra những kết quả nhóm nhất định mà Hành Tinh Thượng đế mong muốn. Họ thường không hạ giáng vào nhập thể hồng trần đậm đặc mà hoạt động chủ yếu trên các cấp độ trí và cảm dục, rồi rốt cuộc quay về lĩnh vực riêng của họ để trải qua những giai đoạn cuối của giải thoát.

All these lotuses in their myriad differentiations have specific effects upon each other on mental levels, and these effects are as yet utterly unrealized by man. Nevertheless, they are the basis of the true psychology, and the grounds of all true activity. The student would do well to ponder upon the effect any advanced Ego would be likely to have upon:

Tất cả những hoa sen này, trong muôn vàn biến phân của chúng, đều có những tác động đặc thù lên nhau trên các cấp độ trí, và những tác động này cho đến nay vẫn hoàn toàn chưa được nhân loại nhận biết. Tuy nhiên, chúng là nền tảng của tâm lý học chân thực, và là căn cứ của mọi hoạt động chân thực. Đạo sinh nên ngẫm nghĩ về ảnh hưởng mà bất kỳ một Chân ngã cao cấp nào có thể có đối với:

a. Other Egos in his group.

Các Chân ngã khác trong nhóm của y.

b. The solar Pitris who are the substance of the group.

Các thái dương tổ phụ vốn là chất liệu của nhóm.

c. The lunar Pitris, who are linked with the solar Pitris through the permanent atoms.

Các thái âm tổ phụ, vốn liên kết với các thái dương tổ phụ thông qua các nguyên tử trường tồn.

We have enumerated above certain classifications of groups of Egos to be found on the causal levels of the mental plane, so as to give students some idea of the vastness of the subject, and the complexity of the problem. It must be remembered that on the third subplane of the mental plane there is no individual separation such as we find when in physical manifestation, but nevertheless group separation is to be seen. These groups are far too many to enumerate in detail. We have outlined and named five of the larger groups as catalogued under [855] one scheme of tabulation in the Hall of Records. Other methods of enumeration exist, and even under the one here used, these five groups are each subdivided into ten groups, and these again are broken up into lesser units, all of them being known and portrayed under certain symbols.

Chúng ta đã liệt kê ở trên một số phân loại các nhóm Chân ngã được tìm thấy trên các cấp độ của thể nguyên nhân thuộc cõi trí, nhằm giúp cho các đạo sinh có một ý niệm về sự bao la của đề tài, và độ phức tạp của vấn đề. Cần nhớ rằng trên cõi phụ thứ ba của cõi trí không có sự phân ly cá nhân như chúng ta thấy khi đang hiện hình nơi cõi hồng trần, nhưng dù vậy vẫn có thể thấy sự phân biệt theo nhóm. Các nhóm này quá nhiều để có thể liệt kê chi tiết. Chúng tôi đã phác thảo và đặt tên năm nhóm lớn hơn như được ghi mục lục theo [855] một hệ thống phân bảng trong Phòng Lưu Trữ Ký Lục. Những phương pháp liệt kê khác cũng tồn tại, và ngay cả theo cách đang dùng ở đây, năm nhóm này mỗi nhóm lại được chia thành mười nhóm, và những nhóm đó lại được phân nhỏ thành những đơn vị bé hơn, tất cả đều được biết đến và mô tả dưới những ký hiệu nhất định.

When we come to the second subplane of the mental plane (the plane whereon the egoic bodies of advanced humanity, of disciples, and of initiates are found) the method of grouping will be according to:

Khi chúng ta xét đến cõi phụ thứ hai của cõi trí (cõi mà trên đó các thể chân ngã của nhân loại tiến bộ, của các đệ tử và các điểm đạo đồ được tìm thấy) thì phương pháp phân nhóm sẽ là theo:

a. Ray.

Cung.

b. Subray.

Cung phụ.

c. Department (whether under the Manu, the Mahachohan or the Bodhisattva on our earth scheme or their analogies on other schemes).

Ngành (dưới quyền vị Manu, vị Mahachohan hay vị Bồ-tát trên hệ hành tinh Địa Cầu của chúng ta, hoặc các tương đồng của Các Ngài trên những hệ khác).

d. The Master’s group.

Nhóm của Chân sư.

These egoic lotuses are all organized, and have a number of petals unfolded whilst some are in the final stages of development.

Những hoa sen chân ngã này đều đã được tổ chức, và có một số cánh hoa đã khai mở, trong khi vài cánh đang ở giai đoạn phát triển cuối cùng.

They have also been grouped under the following three heads:

Chúng cũng đã được nhóm lại theo ba đầu đề sau:

– Lotuses of revelation. Those in which the “jewel” is just about to be revealed.

Những hoa sen của mặc khải. Những hoa sen mà trong đó “viên ngọc” sắp hiển lộ.

– Lotuses with perfume. Those whose occult “smell” or aroma is permeating their environment. They are those Egos who have not yet completely unfolded the final tier of petals, but whose lives are of magnetic force in the three worlds, and whose careers are distinguished by altruistic service.

Những hoa sen có hương. Những hoa sen mà “mùi hương” hay hương ẩn linh đang thấm nhuần môi trường của chúng. Đây là những Chân ngã chưa hoàn toàn khai mở tầng cánh hoa cuối, nhưng cuộc đời của họ có lực từ tính trong ba cõi, và sự nghiệp của họ nổi bật bởi sự phụng sự vị tha.

– Radiant lotuses, or those whose light is beginning to shine forth as lights in a dark place.

Những hoa sen rực sáng, hoặc những hoa sen có ánh sáng đang bắt đầu tỏa ra như những ánh đèn nơi chốn tăm tối.

They are grouped also according to primary color, to subsidiary coloring, according to key or tone, and one tabulation is entirely numerical. It might be of interest [856] to the student if we here pointed out that in the Hall of Records in connection with the human Egos certain of the records under symbological terminology keep a minute account of the following facts concerning each unit:

Chúng cũng được nhóm theo màu chính, màu phụ, theo chủ âm hay cung âm, và có một bảng phân loại hoàn toàn theo con số. Có thể điều này sẽ [856] khiến đạo sinh quan tâm nếu chúng tôi nêu ra rằng trong Phòng Lưu Trữ Ký Lục liên quan đến các Chân ngã nhân loại, một số ghi chép theo thuật ngữ biểu tượng ghi chép chi li các sự kiện sau liên quan đến mỗi đơn vị:

The lunar record. This deals with all the lower vehicles and forms, employed by the human Monads and concerns itself with:

Hồ sơ thái âm. Điều này liên quan đến tất cả các hạ thể và các hình thể được các Chân thần nhân loại sử dụng, và chú trọng đến:

a. Their rate of vibration,

Tốc độ rung động của chúng,

b. Their type,

Loại hình của chúng,

c. Their key number,

Số chủ âm của chúng,

d. The particular group of lunar Lords who are concerned with those bodies,

Nhóm đặc thù các vị nguyệt tinh quân liên hệ đến những thể ấy,

e. The detailed history of the elemental lives who construct the bodies.

Lịch sử chi tiết của các sự sống hành khí kiến tạo các thể.

This information is employed by the karmic official responsible for the production of a new set of vehicles at each incarnation, in order to assist the working out of karma. The history of the lunar bodies is stored up in the permanent atoms.

Thông tin này được viên chức nghiệp quả chịu trách nhiệm sản sinh một bộ phận thể mới cho mỗi lần nhập thể sử dụng, nhằm trợ giúp cho sự vận hành của nghiệp. Lịch sử của các hạ thể thái âm được lưu trữ trong các nguyên tử trường tồn.

The solar record. This deals with the more permanent egoic vehicle, and concerns itself with:

Hồ sơ thái dương. Điều này liên quan đến vận cụ chân ngã tương đối bền vững hơn, và chú trọng đến:

a. The rate of vibration.

Tốc độ rung động.

b. The history of the petal unfoldment.

Lịch sử của tiến trình khai mở các cánh hoa.

c. The history of any particular group of solar Angels concerned with the formation of the lotus.

Lịch sử của bất kỳ nhóm Thái dương Thiên Thần nào liên hệ đến sự hình thành hoa sen.

d. The activity of the deva substance out of which the lotus is constructed.

Hoạt động của chất liệu thiên thần cấu thành hoa sen.

e. Group relationships.

Các mối quan hệ nhóm.

This information is used by the Master Who has made Himself responsible for the stimulation and the growth of any particular series of Egos, and also by advanced Egos who are consciously working with their group.

Thông tin này được vị Chân sư, Đấng đã tự nhận trách nhiệm kích thích và nuôi dưỡng sự tăng trưởng của một loạt Chân ngã nhất định, sử dụng, và cũng được các Chân ngã tiến bộ đang làm việc một cách tự ý thức với nhóm của mình sử dụng.

The consciousness record. This concerns the response of the indwelling Entity to its surroundings. It deals [857] with the utilization of knowledge by the knower, and is in many ways the most intricate and the most lengthy of the records.

Hồ sơ tâm thức. Điều này liên quan đến sự đáp ứng của Đấng Cư Ngụ đối với hoàn cảnh chung quanh. Nó đề cập [857] đến việc vận dụng tri thức bởi thức giả, và theo nhiều phương diện là loại hồ sơ tinh vi rắc rối nhất và dài nhất.

These records are mostly used by the Lord of the World and His pupils to ascertain information in connection with the planetary centers. They are arranged in such a way that the entire record of any group, however vast and extensive, is embodied in seven sheets of symbols, each containing forty-nine symbols. These sheets are changed and corrected once every seven years, and are precipitated on astral matter by an effort of will by the Chohan responsible for the particular group involved.

Những hồ sơ này chủ yếu được Đức Chúa Tể Thế Giới và các môn đồ của Ngài sử dụng để xác định thông tin liên quan đến các trung tâm hành tinh. Chúng được sắp xếp theo cách sao cho toàn bộ hồ sơ của bất kỳ nhóm nào, dù rộng lớn và bao quát đến đâu, đều được thể hiện trong bảy tấm biểu tượng, mỗi tấm chứa bốn mươi chín ký hiệu. Những tấm này được thay đổi và hiệu chỉnh mỗi bảy năm một lần, và được ngưng tụ trên chất liệu cảm dục bằng một nỗ lực ý chí của vị Chohan chịu trách nhiệm đối với nhóm cụ thể liên can.

[Commentary S7S10 Part 2]

(d.) The Petals and the Etheric Centers [858 – 868]—Các Cánh Hoa và các Trung Tâm Dĩ Thái [858 – 868]

It remains now to point out the close connection between the unfoldment of the petals in the egoic lotuses and the etheric centers in man. It is through the centers that psychic energy flows. Students should carefully bear in mind the two following facts:

Giờ đây còn phải chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa sự khai mở các cánh hoa trong những hoa sen chân ngã và các trung tâm dĩ thái nơi con người. Chính qua các trung tâm mà năng lượng thông linh lưu chuyển. Các đạo sinh nên nhớ kỹ hai sự kiện sau:

First, the etheric body is vitalized, as we know, by prana. Pranic energy is the stimulator of animal activity, and of physical plane development. Its effect is primarily upon the atoms of the physical body and it has a triple effect upon the substance of the physical body:

Thứ nhất, thể dĩ thái được tiếp sinh lực, như chúng ta biết, bởi prana. Năng lượng prana là tác nhân kích thích hoạt động thú tính, và sự phát triển trên cõi hồng trần. Tác động của nó chủ yếu lên các nguyên tử của thể xác, và nó có một tác động tam phân lên chất liệu của thể xác:

a. It preserves the animal health of the body.

Nó duy trì sức khỏe thú tính của thân thể.

b. It constructs and builds in the body, through its energy and force currents, what is needed to replace the daily wear and tear.

Nó kiến tạo và xây dựng trong thân thể, thông qua năng lượng và các dòng lực của nó, những gì cần thiết để thay thế hao mòn hằng ngày.

c. It is the medium whereby man comes into physical touch with his brother man. Physical magnetism is largely, even if not wholly, dependent upon prana.

Nó là môi giới nhờ đó con người có tiếp xúc hồng trần với đồng loại. Từ điện hồng trần phần lớn, dù không hoàn toàn, là phụ thuộc vào prana.

The etheric, centers are the force vortices formed in etheric matter by astral impulse, transmitted via the [858] astral centers. These astral centers in their turn are the transmitters of still higher energy, and thus the statement is technically true, that the etheric centers are the source of man’s psychic energy, and are therefore affected by the unfoldment of the petals. Every petal is in its turn a type of force center, and the energy emanating from it affects the etheric centers, and produces every type of psychic energy of the true kind.

Các trung tâm dĩ thái là những xoáy lực được hình thành trong chất dĩ thái bởi xung lực cảm dục, được truyền dẫn thông qua [858] các trung tâm cảm dục. Chính những trung tâm cảm dục này lại là các trạm truyền dẫn của năng lượng cao hơn nữa, và vì vậy mệnh đề sau là đúng về mặt kỹ thuật, rằng các trung tâm dĩ thái là nguồn của năng lượng thông linh của con người, do đó bị tác động bởi sự khai mở của các cánh hoa. Mỗi cánh hoa tự nó là một loại trung tâm lực, và năng lượng phát xạ từ nó tác động đến các trung tâm dĩ thái, và tạo ra mọi loại năng lượng thông linh chân chính.

The energy flowing from the Ego is but little felt in the early stages of development. Man follows his allotted path through animal and racial instinct, and can be safely left to the stimulation emanating from his group centers, and to the ordinary driving force inherent in form, and to the earlier life waves. It is only when he has reached a comparatively advanced stage (in comparison with that of animal man) that egoic or psychic force pours through his centers in such a way as to produce results in consciousness—of these he will eventually become profoundly aware within his physical brain. I do not here refer to the ordinary animal psychism displayed by the higher animals, and found among certain of the post Lemurian races. This is a type of consciousness inherent in the atoms, and is a constituent part of the “soul of the world.” It is unconscious and uncontrolled and has no part in this teaching. I refer to the conscious psychism which is displayed by advanced humanity, by disciples and initiates of all grades. This kind is the result of the pouring in of egoic energy through the etheric centers (mainly through five of them) in such a way that the consciousness of the physical brain becomes aware of it, and also aware of:

Năng lượng tuôn từ Chân ngã chỉ được cảm nhận ít ỏi trong những giai đoạn phát triển ban đầu. Con người theo con đường được định phần thông qua bản năng thú tính và chủng tộc, và có thể an toàn mà phó mặc cho sự kích thích phát xuất từ các trung tâm nhóm của y, cho lực thúc đẩy thông thường vốn cố hữu trong hình tướng, và cho các làn sóng sự sống trước kia. Chỉ khi y đã đạt đến một giai đoạn tương đối tiến bộ (so với “người thú”) thì lực chân ngã hay lực thông linh mới tuôn qua các trung tâm của y theo một cách tạo ra các kết quả trong tâm thức—về những điều này y rốt cuộc sẽ trở nên thâm nhập sâu xa trong bộ não hồng trần của mình. Ở đây tôi không nói đến tính thông linh thú tính thông thường được thể hiện bởi các loài thú bậc cao, và thấy nơi một số giống dân hậu Lemuria. Đây là một loại tâm thức cố hữu trong các nguyên tử, và là một thành phần của “linh hồn của thế giới.” Nó vô thức và không kiểm soát được và không thuộc về giáo huấn này. Tôi đề cập đến loại thông linh có ý thức vốn được thể hiện bởi nhân loại tiến bộ, bởi các đệ tử và điểm đạo đồ ở mọi cấp bậc. Loại này là kết quả của sự tuôn tràn năng lượng chân ngã qua các trung tâm dĩ thái (chủ yếu qua năm trung tâm trong số đó) theo một cách sao cho tâm thức của bộ não hồng trần trở nên nhận biết điều đó, và cũng nhận biết:

a. Its purpose,

Mục đích của nó,

b. Its technique,

Kỹ thuật của nó,

c. The effects produced within the lower self of the man himself and also upon others, [859]

Những hiệu quả được tạo ra trong phàm ngã của chính người đó và cũng như nơi những người khác, [859]

d. His ability to employ it or not as he may desire. It is under his control.

Khả năng dùng hay không dùng nó như ý muốn. Nó nằm trong tầm kiểm soát của y.

The centers with which the student is concerned are, as we know, four in number:

Những trung tâm mà đạo sinh phải quan tâm, như chúng ta biết, gồm bốn:

a. The head,

Trung tâm đầu,

b. The heart,

Trung tâm tim,

c. The throat,

Trung tâm cổ họng,

d. The base of the spine.

Trung tâm ở đáy cột sống.

These are the only ones which should receive consideration. His work is to transfer the force or energy out of the two lower—the spinal and the solar plexus—into the three higher. It is presumed that he has already transferred, or is in process of transferring, the energy of the generative organs into the center of desire, the solar plexus, with the aim in view of guiding it still higher to the throat center. The splenic center, being the vehicle of prana, is specially developed under evolutionary law, and its energy is not transferred to another center, but is consciously diffused. When its correspondence in the head center is awakened, this becomes the organ of occult healing; through it the healer (by an act of will), absorbs prana and vitality from the ethers, and then breathes it out again upon the object to be healed by an act of compassionate healing.

Chỉ có những trung tâm này là nên được khảo cứu. Công việc của y là chuyển lực hay năng lượng ra khỏi hai trung tâm thấp—trung tâm cột sống và tùng thái dương—đưa vào ba trung tâm cao. Người ta giả định rằng y đã chuyển, hoặc đang trong tiến trình chuyển, năng lượng của các cơ quan sinh dục vào trung tâm ham muốn, tức tùng thái dương, với mục tiêu định hướng nó lên cao hơn nữa đến trung tâm cổ họng. Luân xa lá lách, vì là vận cụ của prana, đặc biệt được phát triển theo định luật tiến hóa, và năng lượng của nó không được chuyển sang trung tâm khác, mà được phân tán một cách có ý thức. Khi đối phần của nó trong trung tâm đầu được đánh thức, trung tâm này trở thành cơ quan của trị liệu huyền môn; qua đó, người chữa lành (bằng một tác ý) hấp thu prana và sinh khí từ các tầng dĩ thái, rồi thở nó ra trên đối tượng cần trị liệu bằng một hành vi chữa lành đầy bi mẫn.

In connection with the etheric centers, we should note the fact that the major head center is twofold in structure, and consists of a lotus of ninety-six petals between the eyebrows, and of a twelve-petalled lotus at the top of the head, with ninety-six petals in a subsidiary whorl. The significance of these figures is profound. In every case the figure twelve is met with, showing a definite relation to the basic psychic lotuses on egoic levels. Twelve multiplied by eight stands for the twelve petals in each case, while in the figure eight lies hidden the idea of duality: [860]

Liên hệ đến các trung tâm dĩ thái, chúng ta nên chú ý rằng trung tâm đầu chính yếu có cấu trúc nhị phân, gồm một hoa sen 96 cánh giữa hai chân mày, và một hoa sen 12 cánh trên đỉnh đầu, với 96 cánh trong một vòng xoáy phụ. Ý nghĩa của những con số này là thâm áo. Trong mọi trường hợp đều gặp con số mười hai, cho thấy một liên hệ nhất định với các hoa sen tâm linh cơ bản ở các cấp độ chân ngã. Mười hai nhân tám biểu trưng cho mười hai cánh hoa trong mỗi trường hợp, trong khi nơi con số tám ẩn giấu ý niệm nhị nguyên tính: [860]

a. The four of the quaternary,

Bốn của bộ tứ quaternary,

b. The four of the egoic auric egg (the three aspects, and the ring-pass-not.)

Bốn của noãn hào quang chân ngã (ba phương diện, và vòng-giới-hạn).

We must note also, that the idea of twelve in connection with the centers is found in three of them:

Chúng ta cũng phải lưu ý rằng ý niệm mười hai, liên hệ với các trung tâm, được tìm thấy trong ba trung tâm:

a. The higher head center,

Trung tâm đầu cao,

b. The secondary head center,

Trung tâm đầu phụ,

c. The heart center.

Trung tâm tim.

If the student studies this condition, and links up the idea of the three tiers of petals in the twelve-petalled lotus, he may find illumination. More it is not possible to give at this stage.

Nếu đạo sinh khảo sát tình trạng này, và liên kết ý niệm ba tầng cánh hoa trong hoa sen mười hai cánh, y có thể tìm thấy sự soi sáng. Ở giai đoạn này không thể nói thêm.

It is only when the etheric centers—the two head centers and the heart center—are fully active with their twelve petals completely unfolded that the central circle of petals in the egoic lotus (the fourth or inner circle) unfolds. The significance of the four circles in the egoic lotus, and the eight circles of twelve petals each in the etheric lotuses on the mental plane is of great importance.

Chỉ khi các trung tâm dĩ thái—hai trung tâm đầu và trung tâm tim—hoàn toàn hoạt động với mười hai cánh hoa của chúng khai mở trọn vẹn thì vòng cánh hoa trung tâm trong hoa sen chân ngã (vòng thứ tư hay vòng trong) mới khai mở. Ý nghĩa của bốn vòng trong hoa sen chân ngã, và tám vòng mười hai cánh mỗi vòng trong các hoa sen dĩ thái trên cõi trí là vô cùng quan trọng.

The centers with which man has to deal are necessarily five at this stage owing to the following facts, which must be studied if a man desires to awaken his centers according to plan, and if he wishes safely to follow along the line of the true psychic unfoldment:

Những trung tâm mà con người phải xử lý tất yếu là năm vào giai đoạn này do các sự kiện sau, những điều phải được khảo cứu nếu một người muốn đánh thức các trung tâm của mình theo đúng kế hoạch, và nếu y mong theo an toàn đường lối khai mở thông linh chân thực:

– The fact that the energy starts from the fifth plane, the mental, where man is concerned,

Sự kiện rằng năng lượng, xét nơi con người, khởi phát từ cõi thứ năm, tức cõi trí,

– The fact that it is through the agency of the fifth principle that man can consciously work at his own unfoldment,

Sự kiện rằng chính qua khí cụ của nguyên khí thứ năm mà con người có thể làm việc một cách tự ý thức trên sự khai mở của chính mình,

– The fact that the path of evolution is for man a fivefold one, covering the five planes of human unfoldment; and is divided into five stages as regards the Ego,

Sự kiện rằng con đường tiến hóa, đối với con người, là một con đường ngũ phân, bao trùm năm cõi của sự khai mở nhân loại; và được phân thành năm giai đoạn xét theo Chân ngã,

– The fact that although this is the second solar system from the standpoint of the egoic cycles of the Logos, [861] or His second major egoic cycle, yet it is the fifth when viewed from another angle, that of the lesser cycles. It corresponds to the fifth period in human evolution, that in which man treads the path. The Logos is now treading the cosmic Path.

Sự kiện rằng tuy đây là hệ mặt trời thứ hai xét theo các chu kỳ chân ngã của Thái dương Thượng đế, [861] hay chu kỳ chân ngã lớn thứ hai của Ngài, nhưng lại là thứ năm khi nhìn từ một góc độ khác, tức các chu kỳ nhỏ hơn. Nó tương ứng với giai đoạn thứ năm trong tiến hóa nhân loại, giai đoạn mà con người dẫm bước trên Thánh Đạo. Thái dương Thượng đế hiện đang dẫm bước trên Thánh Đạo vũ trụ.

– The fact that the fifth spirilla is in process of awakening. This has to be effected before the interplay of energy between the egoic lotus and the etheric centers becomes so powerful as to awaken man’s physical brain, and cause him to become aware of the inner currents. This takes place usually when the fifth petal is organized.

Sự kiện rằng spirilla thứ năm đang trong tiến trình thức tỉnh. Điều này phải được thực hiện trước khi sự giao thoa năng lượng giữa hoa sen chân ngã và các trung tâm dĩ thái trở nên mạnh đến mức đánh thức bộ não hồng trần của con người, khiến y trở nên nhận biết các dòng lưu chuyển nội giới. Điều này thường xảy ra khi cánh hoa thứ năm được tổ chức.

This whole question can also be viewed in a larger manner from the standpoint of the five Kumaras. It must be remembered that the aggregate of the etheric centers of any particular group of men form the force centers or minute “energy units” in the larger petals of their group center. These again form petals in some particular planetary center, and the aggregate of these petals form those larger centers of energy which we call “planetary centers.” These in their turn form centers of force for the Logos.

Toàn bộ vấn đề này cũng có thể được nhìn rộng hơn từ quan điểm của năm vị Kumara. Cần phải nhớ rằng tổng hợp các trung tâm dĩ thái của bất kỳ nhóm người nào nhất định tạo nên các trung tâm lực hay những “đơn vị năng lượng” vi tế trong các cánh hoa lớn hơn của trung tâm nhóm của họ. Những cánh hoa này lại tạo thành các cánh hoa trong một trung tâm hành tinh nào đó, và tổng hợp của những cánh hoa này tạo ra các trung tâm năng lượng lớn hơn mà chúng ta gọi là “các trung tâm hành tinh.” Những trung tâm này lại tạo thành các trung tâm lực cho Thái dương Thượng đế.

Yet the mystery in connection with this is so profound that unless the student carefully guards himself from too mathematical and material a concept, he will go astray. The etheric centers of man are not on the same plane as the etheric centers of a planetary Logos. His centers are on the plane of the fourth cosmic ether, the systemic buddhic plane, and it is only when man has taken the final initiation that his energy becomes incorporated into that of the planetary center on its own plane. The etheric centers of the planetary Logos are transmitters and transmuters of force, and bear the same relation to Him as do the physical centers to a human being. All the dense physical centers, such as the mouth, for instance, [862] are transmitters of some type of energy arising in the human brain or will.

Tuy nhiên, huyền bí liên quan đến điều này thâm sâu đến mức nếu đạo sinh không cẩn trọng tự bảo toàn khỏi một quan niệm quá toán học và vật chất, y sẽ lạc lối. Các trung tâm dĩ thái của con người không ở cùng cõi với các trung tâm dĩ thái của một Hành Tinh Thượng đế. Các trung tâm của Ngài ở trên cõi dĩ thái vũ trụ bậc bốn, tức cõi Bồ đề hệ thống, và chỉ khi con người đã trải qua cuộc điểm đạo tối hậu thì năng lượng của y mới được nhập làm một vào năng lượng của trung tâm hành tinh trên chính cõi của nó. Các trung tâm dĩ thái của Hành Tinh Thượng đế là những trạm truyền dẫn và chuyển hóa năng lượng, và có cùng tương quan với Ngài như các trung tâm hồng trần đối với con người. Tất cả các trung tâm hồng trần đậm đặc, như miệng chẳng hạn, [862] là những trạm truyền dẫn một loại năng lượng nào đó phát sinh trong bộ não hay ý chí của con người.

The understanding of force, of force transmission, and of the effects of liberated force upon the higher planes is the secret of occult knowledge. Force or energy flows in from the Ego. It works through the etheric centers and produces results on the three planes, varying according to the age of the soul. As yet, through lack of alignment, this egoic force does not reach the physical brain as fully as it later will, but it does reach the astral centers, and is frequently the cause of much of that lack of emotional control everywhere to be seen. The astral substance is as yet insufficiently organized, and when aroused by egoic energy moves violently. Astral substance is played upon by two counter streams of force: first, the egoic, and secondly, that vibration set up through countless ages on the physical plane, which is latent in substance itself, and is the result of an earlier solar system. This it is which produces the violent action and reaction to be seen in every life.

Sự thấu hiểu về lực, về sự truyền dẫn lực, và về các hiệu ứng của lực được giải phóng trên các cõi cao hơn là bí quyết của tri thức huyền linh. Lực hay năng lượng tuôn vào từ Chân ngã. Nó hoạt động qua các trung tâm dĩ thái và tạo ra kết quả trên ba cõi, tùy theo niên kỷ của linh hồn. Cho đến nay, do thiếu sự chỉnh hợp, lực chân ngã chưa đến được bộ não hồng trần đầy đủ như về sau, nhưng nó có đến các trung tâm cảm dục, và thường là nguyên nhân của tình trạng thiếu kiểm soát cảm xúc vẫn thấy khắp nơi. Chất liệu cảm dục hiện vẫn chưa được tổ chức đầy đủ, và khi bị năng lượng chân ngã kích thích thì chuyển động dữ dội. Chất liệu cảm dục bị tác động bởi hai dòng lực đối nghịch: thứ nhất, lực chân ngã; thứ hai, rung động được thiết lập qua vô số thời đại nơi cõi hồng trần, vốn tiềm ẩn trong chất liệu tự thân, và là kết quả của một hệ mặt trời trước. Chính điều này sản sinh những hành động và phản ứng dữ dội thấy trong mọi cuộc đời.

[Commentary S7S10 Part 3]

It is not possible to give more data concerning the unfoldment of the petals and their connection with the etheric centers. Three hints of practical import anent this stupendous subject may however be given which, if duly pondered upon, may carry illumination to those who are ready.

Không thể đưa thêm dữ liệu về sự khai mở các cánh hoa và mối liên hệ của chúng với các trung tâm dĩ thái. Tuy nhiên có thể đưa ra ba ám chỉ mang tính thực hành về đề tài hùng vĩ này, và nếu được suy ngẫm thấu đáo, có thể đem lại soi sáng cho những ai đã sẵn sàng.

The first is that the etheric centers become active in a fourth dimensional sense (or become wheels turning upon themselves) when the aspirant has complied with certain details.

Thứ nhất là các trung tâm dĩ thái trở nên hoạt động theo nghĩa chiều thứ tư (hay trở thành những bánh xe tự quay trên chính mình) khi người chí nguyện đã tuân thủ những điều khoản nhất định.

He must work upon the unfoldment of the fifth and sixth petals, or the final two in the second circle and must endeavor to bring about two things in connection with his threefold lower nature: [863]

Y phải làm việc trên sự khai mở cánh hoa thứ năm và thứ sáu, tức hai cánh cuối của vòng thứ hai, và phải nỗ lực đưa đến hai điều trong liên hệ với bản chất thấp tam phân của mình: [863]

a. He must align his three bodies so that there is a direct channel of contact formed between the Ego and the physical brain.

Y phải chỉnh hợp ba thể của mình sao cho hình thành một kênh tiếp xúc trực tiếp giữa Chân ngã và não bộ hồng trần.

b. He must strive to bring about a stabilization of both the astral body and the mind, and must aim at that emotional equilibrium which is produced by the conscious “balancing of forces.”

Y phải cố gắng tạo ra một sự ổn định cho cả thể cảm dục và thể trí, và phải hướng đến sự quân bình cảm xúc vốn được tạo ra bởi sự “cân bằng các lực” một cách có ý thức.

He must study the laws of transmutation and be a student of that divine alchemy which will result in a knowledge of how to transmute the lower force into the higher, of how to transfer his consciousness into the higher vehicles, and of how to manipulate energy currents so that his own nature is transformed. He will then become a channel for the light of the Ego, and for the illumination of buddhi to pour through for the saving of the race, and the lighting of those who stumble in dark places. He must demonstrate the laws of radioactivity in his own life on the physical plane. His life must begin to radiate, and to have a magnetic effect upon others. By this I mean he will begin to influence that which is imprisoned in others, for he will reach—through his own powerful vibrations—the hidden center in each one. I do not mean by this the physical or magnetic effect that many quite unevolved souls have upon others. I refer to that spiritual radiation that is only responded to and realized by those who themselves are becoming aware of the spiritual center within the heart. At this stage the man is recognized as one who can speak occultly “heart to heart.” He becomes a stimulator of the heart center in his brother, and one who arouses men into activity for others.

Y phải nghiên cứu các định luật chuyển hóa và là một đạo sinh của thuật luyện đan thiêng liêng, điều sẽ đưa đến tri thức về cách chuyển hóa hạ lực thành thượng lực, về cách chuyển dời tâm thức của y vào các hiện thể cao hơn, và về cách thao luyện các dòng năng lượng để bản tính của chính y được chuyển đổi. Lúc ấy y sẽ trở thành một kênh cho ánh sáng của Chân ngã, và cho sự chiếu rọi của Bồ đề tuôn qua nhằm cứu độ nhân loại, và soi đường cho những ai vấp ngã nơi chốn tối tăm. Y phải biểu lộ các định luật phóng xạ trong chính đời sống của y trên cõi hồng trần. Đời sống của y phải bắt đầu tỏa sáng, và có hiệu ứng từ tính lên người khác. Ý tôi muốn nói là y sẽ bắt đầu ảnh hưởng đến cái bị giam cầm trong những người khác, vì y sẽ chạm đến—thông qua các rung động mạnh mẽ của chính y—trung tâm ẩn tàng trong mỗi người. Tôi không muốn nói đến hiệu ứng vật lý hay từ lực mà nhiều linh hồn còn kém tiến hóa gây ra nơi người khác. Tôi nói đến sự phát xạ tinh thần chỉ được đáp ứng và nhận ra bởi những ai chính họ đang trở nên nhận biết trung tâm tinh thần bên trong trái tim. Ở giai đoạn này, người đó được nhận ra là một người có thể, theo ngôn ngữ huyền bí, “nói từ tim đến tim.” Y trở thành một tác nhân kích thích trung tâm tim nơi huynh đệ của mình, và là người đánh thức con người hành động vì tha nhân.

The second hint is that as the aspirant becomes progressively radioactive, and as the energy of the inner God demonstrates more and more through the lower personality, the “heat radiations” become so powerful that very definite results are produced of a personal, and also [864] of an environal, nature. A few of these results might be enumerated as follows:

Ám chỉ thứ hai là khi người chí nguyện trở nên phóng xạ một cách tuần tự, và khi năng lượng của Thần nội tại hiển lộ ngày càng nhiều thông qua phàm ngã thấp, thì “phóng xạ nhiệt” trở nên mạnh mẽ đến mức tạo ra những kết quả rất xác định thuộc phương diện cá nhân, và cũng [864] thuộc phương diện môi trường. Có thể kể vài kết quả như sau:

– The etheric web, separating the lower physical consciousness of the brain from the astral plane begins to undergo a lengthy process of destruction, and the first “rents” in the web occur. It is through these that the student becomes aware of the inner planes, becomes conscious in the physical brain of the inner happenings, and can (if a disciple) make his contacts with his Ego and (via that ego) with his Guru. 74 This marks a very important development.

Mạng lưới dĩ thái, vốn ngăn cách ý thức hồng trần của bộ não khỏi cõi cảm dục, bắt đầu trải qua một tiến trình hủy phá kéo dài, và những “vết rách” đầu tiên trong mạng lưới xuất hiện. Chính qua các vết rách này mà đạo sinh trở nên nhận biết các cõi nội giới, trở nên có ý thức trong não bộ hồng trần về các sự kiện nội giới, và có thể (nếu là một đệ tử) thiết lập các tiếp xúc với Chân ngã của mình và (thông qua Chân ngã ấy) với Guru của mình. 74 Điều này đánh dấu một phát triển rất quan trọng.

– The higher head center increases its activity and becomes capable of receiving flashes of illumination from the higher planes. This happens only occasionally at first but with increasing frequency as the years progress, and the “rents” become more numerous.

Trung tâm đầu cao gia tăng hoạt động và trở nên có khả năng tiếp nhận những tia chớp soi sáng từ các cõi cao. Ban đầu điều này chỉ xảy ra đôi khi nhưng với tần suất tăng dần theo năm tháng, cùng với việc “vết rách” trở nên nhiều hơn.

– The various triangles become vivified and proceed to increased activity in due geometrical progression, whilst the center between the shoulder blades, the converging point for certain fires, becomes active. This marks a definite stage in the process of transferring the fires into the higher centers. Roughly speaking, this period of the transference of the heat or energy of the lower centers into the higher may be divided into two parts: first, that in which the centers in the lower part of the body (those below the diaphragm) are transferred into the centers in the higher part of the torso. These centers in the torso are three in number, the heart, the throat, and the center between the shoulder blades. We must here note that the throat center is situated in the lower part of the throat, and properly belongs to the torso and not to the head. It should also be stated here that the center between the shoulder blades is not a “sacred” center, but is of a temporary nature, and is created by the aspirant himself during the process of transference. [865]

Các tam giác khác nhau được sinh động hóa và tiến tới hoạt động gia tăng theo tiến trình hình học thích đáng, trong khi trung tâm giữa hai bả vai, điểm hội tụ của một số ngọn lửa, trở nên hoạt động. Điều này đánh dấu một giai đoạn xác định trong tiến trình chuyển các ngọn lửa lên các trung tâm cao. Nói một cách đại thể, giai đoạn chuyển dịch nhiệt hay năng lượng của các trung tâm thấp lên cao có thể được chia thành hai phần: thứ nhất, giai đoạn mà các trung tâm ở phần thấp của thân (những trung tâm bên dưới cơ hoành) được chuyển vào các trung tâm ở phần cao của thân mình. Những trung tâm ở thân mình này có ba: tim, cổ họng, và trung tâm giữa hai bả vai. Ở đây cần ghi nhớ rằng trung tâm cổ họng nằm ở phần thấp của cổ họng, và đúng ra thuộc về thân mình chứ không thuộc về đầu. Cũng cần nói rõ rằng trung tâm giữa hai bả vai không phải là một trung tâm “thiêng liêng,” mà là một trung tâm có tính tạm thời, được chính người chí nguyện tạo ra trong tiến trình chuyển dịch. [865]

The second stage is that in which the energy of the lower six centers:

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn trong đó năng lượng của sáu trung tâm thấp:

a. The throat,

Cổ họng,

b. The heart,

Tim,

c. The solar plexus,

Tùng thái dương,

d. The spleen,

Lá lách,

e. The organs of generation,

Các cơ quan sinh dục,

f. The base of the spine,

Đáy cột sống,

are—in due order according to a man’s ray and subray—transferred into the correspondences within the head center. These seven head centers are the reflection in the microcosm of those “mansions prepared in the Heavens” which receive the sevenfold energy of the monad. These are the chambers prepared by the lower energy which are to be the recipients of “soul or the higher psychic energy.”

—được, theo đúng thứ tự tùy theo cung và cung phụ của một người—chuyển vào những đối phần trong trung tâm đầu. Bảy trung tâm đầu này là phản ảnh trong tiểu vũ trụ của những “tòa dinh đã chuẩn bị trên Trời” vốn tiếp nhận bảy loại năng lượng của Chân thần. Đây là những tịnh thất được chuẩn bị bởi hạ năng lượng, để trở thành các thọ nhận thể của “linh hồn hay năng lượng thông linh cao hơn.”

The final hint which can be given, may be summed up in the words that as the aspirant progresses, 75 he not only balances the pairs of opposites, but the secret of his brother’s heart becomes revealed to him. He becomes an acknowledged force in the world, and is recognized as one who can be depended upon to serve. Men turn to him for assistance and help along his recognized line, and he begins to sound forth his note so as to be heard not only in human but in deva ranks as well. This he does, at [866] this stage, through the pen in literature, through the spoken word in lecturing and teaching, through music, painting and art. He reaches the hearts of men in some way or another, and becomes a helper and server of his race.

Ám chỉ cuối cùng có thể đưa ra, có thể tóm trong lời rằng khi người chí nguyện tiến bộ, 75 y không những quân bình được hai cực đối đãi, mà bí mật của trái tim huynh đệ mình cũng trở nên hiển lộ cho y. Y trở thành một lực lượng được thừa nhận trong thế gian, và được nhận ra như một người có thể cậy dựa để phụng sự. Người đời tìm đến y để nhận trợ giúp và giúp đỡ theo đường lối đã được thừa nhận của y, và y bắt đầu xướng lên âm điệu của mình sao cho không chỉ loài người mà cả hàng ngũ chư thiên thần cũng đều nghe thấy. Ở [866] giai đoạn này, y làm điều ấy qua ngòi bút trong văn chương, qua lời nói trong diễn thuyết và giảng dạy, qua âm nhạc, hội họa và nghệ thuật. Y chạm đến trái tim con người bằng cách này hay cách khác, và trở thành một người trợ giúp và phụng sự chủng loại của mình.

Two more characteristics of this stage might hero be enumerated.

Có thể kể thêm hai đặc điểm nữa của giai đoạn này.

The aspirant has an appreciation of the occult value of money in service. He seeks nothing for himself, save that which may equip him for the work to be done, and he looks upon money, and that which money can purchase, as something which is to be used for others and a means to bring about the fruition of the Master’s plans as he senses those plans. The occult significance of money is little appreciated, yet one of the greatest tests as to the position of a man upon the probationary path is that which concerns his attitude to and his handling of that which all men seek in order to gratify desire. Only he who desires naught for himself can be a recipient of financial bounty, and a dispenser of the riches of the universe. In other cases where riches increase, they bring with them naught but sorrow and distress, discontent and misuse.

Người chí nguyện có sự thấu hiểu về giá trị huyền bí của tiền bạc trong phụng sự. Y không tìm kiếm gì cho riêng mình, ngoại trừ những gì có thể trang bị cho công việc phải làm, và y xem tiền bạc, cùng với những gì tiền có thể mua, là thứ để dùng cho người khác và là một phương tiện để giúp thành tựu các kế hoạch của Chân sư như y trực nhận được. Ý nghĩa huyền bí của tiền bạc ít được thấu triệt, thế nhưng một trong những thử thách lớn nhất để xác định địa vị của một người trên Con Đường Dự Bị là thử thách liên quan đến thái độ và cung cách xử trí của y đối với cái mà mọi người đều tìm kiếm nhằm thỏa mãn dục vọng. Chỉ ai không ham muốn gì cho riêng mình mới có thể là người thọ nhận ân phước tài chính, và là người phân phát sự giàu có của vũ trụ. Trong các trường hợp khác, khi của cải gia tăng, chúng chỉ kéo theo sầu khổ và phiền muộn, bất mãn và lạm dụng.

At this stage also the aspirant’s life becomes an “instrument of destruction” in the occult sense of the term. Wherever he goes the force which flows through him from the higher planes, and from his own inner God, produces at times peculiar results upon his environment. It acts as a stimulator of both the good and the evil. The lunar Pitris who form the bodies of his brothers and his own body are likewise stimulated, their activity is increased, and their power greatly aggravated. This fact is used by Those Who work on the inner side to bring about certain desired ends. This it is also which oft times temporarily causes the downfall of advanced souls. They cannot stand the force pouring into them, or upon them, [867] and through the temporary over-stimulation of their centers and vehicles they go astray. This can be seen working out in groups as well as in individuals. But, inversely, if the lunar Lords of the lower self have been earlier subjugated and brought under control, then the effect of the force and energy contacted is to stimulate the response of the physical brain consciousness and the head centers to egoic contact. Then the otherwise destructive force becomes a factor for good and helpful stimulation, and can be used by Those Who know how, to lead men on to further illumination.

Cũng ở giai đoạn này, đời sống của người chí nguyện trở thành một “khí cụ hủy diệt” theo nghĩa huyền bí của thuật ngữ. Bất cứ nơi đâu y đi đến, lực tuôn qua y từ các cõi cao, và từ Thần linh nội tại của chính y, đôi khi tạo nên những kết quả dị thường lên môi trường chung quanh. Nó tác động như một tác nhân kích thích cả điều thiện lẫn điều ác. Các thái âm tổ phụ kiến tạo các thể của huynh đệ y và của chính y cũng được kích thích, hoạt động của họ gia tăng, và quyền năng của họ được khuếch đại rất lớn. Sự kiện này được Các Đấng làm việc ở nội giới sử dụng để đưa đến những mục đích mong muốn nhất định. Chính điều này cũng là nguyên nhân nhiều khi khiến các linh hồn tiến bộ tạm thời sa ngã. Họ không chịu đựng được lực tuôn vào trong họ, hay giáng xuống trên họ, [867] và do sự quá kích tạm thời các trung tâm và các vận cụ của họ mà họ chệch đường. Điều này có thể thấy nơi các nhóm cũng như nơi cá nhân. Nhưng, theo chiều ngược lại, nếu các nguyệt tinh quân của phàm ngã thấp đã được khuất phục trước đó và đưa vào kiểm soát, thì hiệu ứng của lực và năng lượng được tiếp xúc sẽ là kích thích sự đáp ứng của ý thức não bộ hồng trần và các trung tâm đầu đối với tiếp xúc chân ngã. Lúc ấy, lực vốn dĩ có tính hủy hoại sẽ trở thành một nhân tố tốt lành và một sự kích thích hữu ích, và có thể được Các Đấng biết cách sử dụng để dẫn dắt con người đến sự soi sáng xa hơn.

All these stages have to work out on all the three lower planes and in the three bodies; this they do according to the particular Ray and subray. In this fashion the work of the disciple is carried forward, and his testing and training carried out until the two circles of petals are unfolded, and the third is organized. Thus he is brought, through right direction of energy and wise manipulation of force currents, to the Portal of Initiation, and graduates out of the Hall of Learning 76 into the great Hall of Wisdom—that Hall wherein he gradually becomes “aware” of forces, and powers, latent in his own Ego and egoic group. It is the Hall wherein he gains the right to use the force of the egoic group, for he can now be trusted to wield it only for the helping of humanity. After the fourth Initiation, he becomes a sharer in, and can be trusted with some part of the energy of the planetary Logos and thus be enabled to carry forward the plans of that Logos for evolution. [868]

Tất cả những giai đoạn này đều phải được triển khai trên cả ba cõi thấp và trong ba thể; điều này diễn tiến tùy theo Cung và cung phụ đặc thù. Bằng cách đó, công việc của đệ tử được thúc đẩy, và sự thử thách cùng huấn luyện của y được tiến hành cho đến khi hai vòng cánh hoa được khai mở, và vòng thứ ba được tổ chức. Như vậy, qua sự hướng đạo đúng đắn các năng lượng và sự thao luyện khôn ngoan các dòng lực, y được đưa đến Cửa Điểm Đạo, và tốt nghiệp ra khỏi Phòng Học Tập 76 để bước vào Đại Phòng Minh Triết—Phòng mà trong đó y dần dần trở nên “nhận biết” các lực và quyền năng tiềm ẩn trong chính Chân ngã của y và trong nhóm chân ngã. Đó là Phòng mà ở đó y đạt được quyền sử dụng lực của nhóm chân ngã, vì giờ đây y có thể được tin cậy chỉ sử dụng nó để giúp đỡ nhân loại. Sau lần điểm đạo thứ tư, y trở thành một người đồng công, và có thể được tin cậy giao phó một phần năng lượng của Hành Tinh Thượng đế, nhờ đó có thể tiếp tục các kế hoạch tiến hóa của Vị Logos ấy. [868]

74 A Guru is a spiritual teacher.

74 Guru là một vị thầy tinh thần.

75 Aspirant.

75 Người chí nguyện.

“The practices which make for union with the Soul are: fervent aspiration, spiritual reading, and complete obedience to the Master.

“Những thực hành đưa đến sự hợp nhất với Linh hồn là: khát vọng nồng nhiệt, đọc sách tinh thần, và vâng phục trọn vẹn vị Thầy.

The word which I have rendered “fervent aspiration” means primarily “fire”; and in the Eastern teaching, it means the fire which gives life and light, and at the same time the fire which purifies. We have, therefore, as our first practice, as the first of the means of spiritual growth, that fiery quality of the will which enkindles and illumines, and, at the same time, the steady practice of purification, the burning away of all known impurities.”

Từ mà tôi dịch là “khát vọng nồng nhiệt” trước hết có nghĩa là “lửa”; và trong giáo huấn Đông phương, nó nghĩa là ngọn lửa ban sự sống và ánh sáng, đồng thời là ngọn lửa thanh luyện. Do đó, như là thực hành thứ nhất của chúng ta, như là phương tiện đầu tiên của sự tăng trưởng tinh thần, là phẩm tính hỏa của ý chí—phẩm tính khơi lửa và chiếu rọi,—và đồng thời là sự thực hành đều đặn của thanh luyện, thiêu đốt mọi cấu uế đã biết.”

“Their aim is, to bring soul-vision, and to wear away hindrances.”

“Mục tiêu của chúng là đem lại thị kiến linh hồn, và bào mòn các chướng ngại.”

“The Rules are these: purity, serenity, fervent aspiration, spiritual reading, and perfect obedience to the Master.”

“Các Quy luật là thế này: thanh khiết, bình thản, khát vọng nồng nhiệt, đọc sách tinh thần, và vâng phục trọn vẹn vị Thầy.”

“The perfection of the powers of the bodily vesture comes through the wearing away of impurities, and through fervent aspiration.”

“Sự hoàn thiện các quyền năng của chiếc áo thân xác đến từ sự bào mòn các cấu uế, và nhờ khát vọng nồng nhiệt.”

Yoga Sutras of Patanjali, Book II, 1, 2, 32, 43 (C. Johnston’s Edition).

– Yoga Sutra của Patanjali, Sách II, 1, 2, 32, 43 (Ấn bản của C. Johnston).

76 The three Halls through which the soul of man must progress are spoken of in The Voice of the Silence, pp. 19, 20.

76 Ba Phòng mà linh hồn con người phải tiến triển qua được nói đến trong Tiếng Nói của Im Lặng, tr. 19, 20.

– 1st Hall—Hall of Ignorance—infant humanity—Physical plane.

Phòng thứ nhất—Phòng Vô Minh—nhân loại ấu thời—Cõi hồng trần.

– 2nd Hall—Hall of Learning—average man—Astral plane.

Phòng thứ hai—Phòng Học Tập—con người trung bình—Cõi cảm dục.

– 3rd Hall—Hall of Wisdom—spiritual man—Mental plane.

Phòng thứ ba—Phòng Minh Triết—con người tinh thần—Cõi trí.

The longest time is spent in the Hall of Ignorance. The later period in the Hall of Learning is called the Probationary Path. In the Hall of Wisdom the Initiate approaches the central mystery of Being.

Thời gian dài nhất được dành trong Phòng Vô Minh. Giai đoạn về sau trong Phòng Học Tập được gọi là Con Đường Dự Bị. Trong Phòng Minh Triết, vị điểm đạo đồ tiến gần đến mầu nhiệm trung tâm của Bản thể.

[Commentary S7S11 Part 1]

(e.) Initiation and the Petals.

In considering the connection of the petals and their unfoldment through initiation, there is little which it is permissible to give out at this time for the information of the general public. All that is possible is to give certain statements, containing:

Khi xét đến mối liên hệ của các cánh hoa và sự khai mở của chúng qua điểm đạo, hiện có rất ít điều được phép công bố lúc này cho đại chúng. Tất cả những gì có thể làm là đưa ra vài mệnh đề, gồm:

a. Hints as to the right direction of the energy,

Những ám chỉ về hướng đúng của năng lượng,

b. Suggestions as to the basic mysteries which man has to solve,

Những gợi ý về các mầu nhiệm căn để mà con người phải giải đáp,

c. Indications as to certain correspondences,

Những chỉ dấu về một số tương ứng,

d. Practical points for constructive thinking.

Những điểm thực tiễn để tư duy xây dựng.

Students must remember that the aim of all truly occult teachers is not to give information but to train their pupils in the use of thought energy. It will therefore be apparent why this method of instruction is the one invariably used. It is the method which involves the dropping of a hint on the part of the Teacher, and the correlation perhaps of certain correspondences, coupled with a suggestion as to the sources of light. It involves, on the part of the pupil, the following recognitions:

Các đạo sinh phải nhớ rằng mục tiêu của mọi Huấn sư huyền môn chân chính không phải là cung cấp thông tin mà là rèn luyện học trò trong việc sử dụng năng lượng tư tưởng. Do đó sẽ rõ vì sao phương pháp giáo huấn này là phương pháp luôn luôn được dùng. Đó là phương pháp bao hàm việc Vị Huấn sư gợi ra một ám chỉ, và có thể liên hệ một số tương ứng, kèm theo một gợi ý về các nguồn sáng. Nó đòi hỏi, nơi người học trò, các nhận thức sau:

a. That the hint may be worth following.

Rằng ám chỉ có thể đáng để lần theo.

b. That meditation is the pathway to the source of light, and that the hint dropped is the “seed” for meditation.

Rằng tham thiền là con đường dẫn đến nguồn sáng, và ám chỉ được buông là “tư tưởng hạt giống” cho tham thiền.

c. That facts, ill-assorted and uncorrelated, are menaces to knowledge and no help.

Rằng các sự kiện, khi rời rạc và thiếu liên hệ, là mối đe dọa cho tri thức và chẳng giúp ích gì.

d. That every aspect of truth, progressively grasped, has to be assimilated, and welded into the experience of the student.

Rằng mọi khía cạnh của chân lý, được nắm bắt tiến dần, đều phải được đồng hóa và hàn gắn vào kinh nghiệm của đạo sinh.

e. That unless the correspondences agree in an atomic, personal, planetary and cosmic fashion, they are not to be trusted.

Rằng trừ phi các tương ứng đồng quy theo bình diện vi mô, cá nhân, hành tinh và vũ trụ, thì chúng không đáng tin cậy.

f. That much information is withheld until the student is a disciple, and still more until he is a pledged initiate. The reason for this is to be found in the [869] fact that all knowledge concerns energy, its application, and its use or misuse.

Rằng nhiều thông tin được giữ lại cho đến khi đạo sinh trở thành một đệ tử, và còn nhiều hơn nữa cho đến khi y là một điểm đạo đồ đã thệ nguyện. Lý do cho điều này nằm ở [869] thực tế rằng mọi tri thức đều liên quan đến năng lượng, sự áp dụng của nó, và việc sử dụng hay lạm dụng nó.

Let us now continue with our consideration of the petals and Initiation.

Giờ chúng ta tiếp tục khảo cứu về các cánh hoa và Điểm Đạo.

Each of the three circles of lotus petals is closely connected with one of the three Halls. This has been earlier referred to. Much of the work connected with the first tier of petals is part of the experience in the Hall of Ignorance. The act of organizing and preparing for unfoldment is the most important stage, and that with which man is the most concerned. The act of petal opening is of briefer duration, and is produced by the pouring in of solar heat or fire, and thus bringing about a fresh access of energy. This is produced in our earth scheme through the cooperation of the Mahachohan, of the Chohan of a man’s egoic group, and the particular Ego concerned.

Mỗi một trong ba vòng cánh hoa của hoa sen đều liên kết mật thiết với một trong ba Phòng. Điều này đã được đề cập trước. Phần lớn công việc liên quan đến tầng cánh hoa thứ nhất là một phần của kinh nghiệm trong Phòng Vô Minh. Hành vi tổ chức và chuẩn bị cho sự khai mở là giai đoạn quan trọng nhất, và là điều mà con người quan tâm nhiều nhất. Hành vi mở cánh hoa có thời gian ngắn hơn, và được tạo ra bởi sự tuôn tràn nhiệt hay hỏa thái dương, nhờ vậy mang đến một đợt tiếp ứng năng lượng mới. Điều này được sản sinh trong hệ Địa Cầu của chúng ta thông qua sự cộng tác của vị Mahachohan, vị Chohan của nhóm chân ngã của một người, và vị Chân ngã cụ thể liên hệ.

The following tabulation may be found helpful:

Bảng phân loại sau đây có thể hữu ích:

I. Knowledge Petals—First circle

Cánh hoa Tri thức—Vòng thứ nhất

a. Organized in the Hall of Ignorance.

Được tổ chức trong Phòng Vô Minh.

b. Guided by the force and energy of the Mahachohan.

Được hướng dẫn bởi lực và năng lượng của vị Mahachohan.

c. The third group of solar Pitris affected.

Nhóm thứ ba của các thái dương tổ phụ bị tác động.

II. Love Petals—Second circle

Cánh hoa Bác ái—Vòng thứ hai

a. Organized in the Hall of Learning.

Được tổ chức trong Phòng Học Tập.

b. Guided by the force of the Bodhisattva.

Được hướng dẫn bởi lực của vị Bồ-tát.

c. The second group of solar Lords affected.

Nhóm thứ hai của các nhật tinh quân bị tác động.

III. Will or Sacrifice Petals—Third circle

Cánh hoa Ý chí hay Hy sinh—Vòng thứ ba

a. Organized in the Hall of Wisdom.

Được tổ chức trong Phòng Minh Triết.

b. Guided by the force and energy of the Manu.

Được hướng dẫn bởi lực và năng lượng của vị Manu.

c. The first group of solar Angels affected.

Nhóm thứ nhất của các Thái dương Thiên Thần bị tác động.

At the stage which we are considering (that of the organization and unfoldment of the first tier of petals), the egoic influence felt at the beginning is but small, but when the three petals become sufficiently active and alive through the energy accumulated and stored up in the [870] ego during the activities of the personal life, a form of initiation then takes place which is a reflection (on a lower plane) of the great manasic initiations. The energy in the outer circle of petals causes it to spring apart from the next circle, and to unfold. This threefold energy becomes interactive and a very definite stage is thus reached. This series of initiations is seldom recognized within the physical brain consciousness owing to the relatively inchoate stage of the bodies, and the unresponsiveness of the brain matter. Yet they are nevertheless initiations of a definite though less important character, and they involve primarily the display (within the personal life of the man) of an intelligent recognition of his group relationships on earth. This recognition is frequently selfish in character, as, for instance, that which the union worker displays, but it is indicative of group interplay.

Ở giai đoạn mà chúng ta đang xét (giai đoạn tổ chức và khai mở tầng cánh hoa thứ nhất), ảnh hưởng của chân ngã được cảm nhận lúc khởi đầu chỉ nhỏ nhoi, nhưng khi ba cánh hoa trở nên đủ hoạt động và sinh động nhờ năng lượng tích lũy và tích chứa trong [870] chân ngã trong suốt các hoạt động của đời sống phàm ngã, thì một dạng điểm đạo diễn ra, vốn là phản ảnh (trên một cõi thấp hơn) của các cuộc điểm đạo manas vĩ đại. Năng lượng trong vòng cánh hoa ngoài làm cho nó tách khỏi vòng kế bên, và khai mở. Nguồn năng lượng tam phân này trở nên tương tác, và như vậy đạt đến một giai đoạn rất xác định. Chuỗi điểm đạo này hiếm khi được nhận biết trong ý thức não bộ hồng trần do tình trạng còn non nớt tương đối của các thể, và do chất não bộ chưa đáp ứng. Tuy vậy, chúng vẫn là những cuộc điểm đạo có tính chất xác định dù ít quan trọng hơn, và chủ yếu bao hàm sự biểu lộ (trong đời sống phàm ngã của con người) một nhận thức thông minh về các mối liên hệ nhóm của y trên trần gian. Nhận thức này thường mang tính vị kỷ, như trường hợp công nhân công đoàn, nhưng nó là dấu hiệu của sự tương tác nhóm.

A similar process takes place when the second circle of petals is organized and ready for unfoldment. This time the World Teacher, the Master and the Ego concerned are cooperating, for these smaller initiations deal with the love nature, with astral or emotional organization, and with the recognition (by the man in his personal life) of some form of unselfish love, and of a love for some object, person or ideal which leads to altruistic endeavor, and to the negation of the lower self.

Một tiến trình tương tự diễn ra khi vòng thứ hai của các cánh hoa được tổ chức và sẵn sàng khai mở. Lần này, Đấng Thầy của Thế Giới, vị Chân sư và Chân ngã liên hệ cùng cộng tác, vì các cuộc điểm đạo nhỏ này xử lý bản chất bác ái, với việc tổ chức cảm dục hay cảm tính, và với sự nhận thức (bởi con người trong đời sống phàm ngã) một hình thái ái mộ vô kỷ, và một tình yêu đối với một đối tượng, con người hay lý tưởng nào đó dẫn đến nỗ lực vị tha, và đưa đến sự phủ định phàm ngã.

This brings us to the third group of petals or to the unfolding of the will or sacrifice petals, based on intelligent purpose and pure love. The force in this group calls in a different factor, that of the Manu, as well as the force of the Bodhisattva, and the desired effect is produced through the full cooperation of the fully awakened Ego, aided by his own Master (if he is evolving in a cycle wherein hierarchical effort for humanity takes the form it does in this present one), and the Manu. Eventually (after the second Initiation) the Lord of the World comes [871] in as a factor,—the Lord of world power, fully expressing itself in love.

Điều này đưa chúng ta đến nhóm cánh hoa thứ ba, hay sự khai mở của ý chí hay các cánh hoa hi sinh, đặt nền trên mục đích thông tuệ và tình thương thuần khiết. Mãnh lực trong nhóm này kêu gọi một yếu tố khác, đó là của vị Manu, cũng như mãnh lực của vị Bodhisattva, và hiệu quả mong muốn được tạo ra nhờ sự hợp tác trọn vẹn của Chân ngã đã hoàn toàn thức tỉnh, được Chân sư riêng của y trợ giúp (nếu y đang tiến hóa trong một chu kỳ mà nỗ lực của Thánh Đoàn cho nhân loại mang hình thức như trong hiện tại này), và bởi vị Manu. Rốt cuộc (sau lần điểm đạo thứ hai) Đức Chúa Tể Thế Giới [871] đi vào như một yếu tố—Chúa Tể của quyền lực thế gian, bộc lộ trọn vẹn chính Ngài trong tình thương.

Speaking generally, therefore, it might be stated that egoic groups in whom the knowledge petals are being organized and unfolded come under the primary influence of the Mahachohan; those in whom the love aspect, or the second circle of petals, is opening come under the primary influence of the Bodhisattva, with the knowledge unfoldment paralleling the work; whilst those in whom the third tier is being opened come under the energy direction of the Manu, with the two other types of force coordinated. It will be apparent to the careful reader that in this fact lies hid the secret of why the Mahachohan holds office longer than either of His two Brothers, holding it as He does for an entire world period. The key to these cycles lies hid in the following thoughts: the Bodhisattva and the Manu change more frequently and pass on to other work owing to the fact that They each embody one type of triple force, whereas the Mahachohan is the focal point for five types of energy, each in its turn triple in nature.

Nói chung, do đó, có thể phát biểu rằng các nhóm chân ngã mà trong đó các cánh hoa tri thức đang được tổ chức và khai mở thì chịu sự ảnh hưởng chủ yếu của vị MahaChohan; những nhóm mà trong đó phương diện bác ái, hay vòng cánh hoa thứ hai, đang mở ra thì chịu ảnh hưởng chủ yếu của vị Bodhisattva, đồng thời sự khai mở tri thức song hành với công việc; trong khi những nhóm mà trong đó tầng thứ ba đang được mở thì chịu sự điều hướng năng lượng của vị Manu, với hai loại mãnh lực kia được phối hợp. Điều hiển nhiên với người đọc cẩn thận là trong sự kiện này ẩn giấu bí mật vì sao vị MahaChohan giữ ngôi vị lâu hơn hai Huynh đệ của Ngài, nắm giữ như Ngài làm cho trọn một thời kỳ thế gian. Chìa khóa của những chu kỳ này ẩn giấu trong các tư tưởng sau: vị Bodhisattva và vị Manu thay đổi thường xuyên hơn và chuyển sang công việc khác bởi lẽ Mỗi Ngài hiện thân một loại mãnh lực tam phân, trong khi vị MahaChohan là tiêu điểm cho năm loại năng lượng, mỗi loại đến lượt mình đều có bản tính tam phân.

[Commentary S7S11 Part 2]

In each case of petal unfoldment, certain types of force are generated, dealt with, assimilated, and used, at first unconsciously and finally with full intelligence.

Trong mỗi trường hợp khai mở cánh hoa, những loại mãnh lực nhất định được tạo sinh, được đề cập đến, được đồng hóa, và được sử dụng, lúc đầu một cách vô thức và sau cùng với đầy đủ trí tuệ.

In the Hall of Ignorance the force of the energy of Brahma (the activity and intelligence of substance) is that mostly dealt with, and the man has to learn the meaning of activity based on:

Trong Phòng Vô Minh  người ta chủ yếu đề cập đến mãnh lực của năng lượng của Brahma (hoạt động và trí tuệ của chất liệu), và con người phải học ý nghĩa của hoạt động đặt nền trên:

a. Inherent energy,

Năng lượng vốn có,

b. Absorbed energy,

Năng lượng hấp thụ,

c. Group energy,

Năng lượng nhóm,

d. Material energy or that which is hidden in physical plane matter.

Năng lượng vật chất hay cái ẩn tàng trong vật chất của cõi hồng trần.

In the Hall of Learning the disciple becomes aware of, and uses the energy of, the second aspect in form-building, in social relations, in family and other group affiliations. [872] He comes to the true recognition of sex and its relations but as yet views this force as something to be controlled and not something to be consciously and constructively utilized.

Trong Phòng Học hỏi người đệ tử ý thức được và sử dụng năng lượng của phương diện thứ hai trong kiến tạo hình tướng, trong các mối quan hệ xã hội, trong gia đình và các liên hệ nhóm khác. [872] Y đi đến sự nhận biết chân thực về Tính giao và các liên hệ của nó, nhưng vẫn coi mãnh lực này như điều phải được kiểm soát chứ chưa phải điều để được sử dụng một cách có ý thức và kiến tạo.

In the Hall of Wisdom the initiate comes to the knowledge of the first great aspect of energy, the dynamic use of will in sacrifice, and to him is then committed the key to the three fold mystery of energy. Of this energy in its threefold aspect he became aware in the other two halls. At the third, fourth and fifth Initiations the three keys to the three mysteries are given to him.

Trong Phòng Minh triết, vị điểm đạo đồ đạt đến sự hiểu biết về phương diện vĩ đại thứ nhất của năng lượng, việc sử dụng năng động ý chí trong hi sinh, và khi đó giao vào tay y chìa khóa của bí nhiệm tam phân về năng lượng. Về năng lượng này trong phương diện tam phân, y đã nhận biết trong hai Phòng kia. Ở lần điểm đạo thứ ba, thứ tư và thứ năm, ba chìa khóa của ba bí nhiệm được trao cho y.

The key to the mystery sensed in the first Hall, the mystery of Brahma, is handed to him and he can then unlock the hidden energies of atomic substance. The key to the mystery of sex, or of the pairs of opposites, is thrust into his hand, and he can then unlock the hidden forces within all forms. The key to the mystery of sacrifice and to the secret of the Silent Watchers in the cosmos is revealed to him, and he learns to unlock the hidden energies of the will aspect. The dynamo of the solar system is shown to him, if it might so be expressed, and the intricacies of its mechanism revealed.

Chìa khóa của bí nhiệm đã cảm nhận trong Phòng thứ nhất, bí nhiệm của Brahma, được trao vào tay y và rồi y có thể mở khóa những năng lượng ẩn của nguyên tử chất. Chìa khóa của bí nhiệm về Tính giao, hay của các cặp đối cực, được đặt vào tay y, và rồi y có thể mở khóa những mãnh lực ẩn trong mọi hình tướng. Chìa khóa của bí nhiệm hi sinh và của bí mật về các Đấng Canh Chừng Im Lặng trong vũ trụ được tiết lộ cho y, và y học cách mở khóa những năng lượng ẩn của phương diện ý chí. Máy phát lực của hệ mặt trời được chỉ cho y, nếu có thể diễn đạt như thế, và những tinh vi của cơ cấu nó được phơi bày.

The following are the three basic mysteries of the solar system:

Sau đây là ba bí nhiệm căn bản của hệ mặt trời:

1. The mystery of Electricity. The mystery of Brahma. The secret of the third aspect. It is latent in the physical sun.

Bí nhiệm của Điện.  Bí nhiệm của Brahma. Bí mật của phương diện thứ ba. Nó ẩn tàng trong mặt trời vật chất.

2. The mystery of Polarity, or of the universal sex impulse. The secret of the second aspect. It is latent in the Heart of the Sun, i.e., in the subjective Sun.

Bí nhiệm của Lưỡng Cực,  hay của xung động tính giao phổ quát. Bí mật của phương diện thứ hai. Nó ẩn tàng trong Trái Tim của Mặt Trời, tức là trong Mặt Trời chủ quan.

3. The mystery of Fire itself, or the dynamic central systemic force. The secret of the first aspect. It is latent in the central spiritual sun.

Bí nhiệm của chính Lửa,  hay mãnh lực trung ương năng động của hệ thống. Bí mật của phương diện thứ nhất. Nó ẩn tàng trong Mặt trời Tinh thần Trung Ương.

These three mysteries which we have touched upon above, come in a peculiar sense under the jurisdiction of [873] certain great Lords or Existences, and They have much to do with the revealing of the mystery to those prepared initiates Who come under Their influence during the final stages of the Path.

Ba bí nhiệm này mà chúng ta vừa chạm đến ở trên, theo một nghĩa đặc biệt, thuộc quyền [873] của vài vị Đại Chúa hay các Đấng Hiện Hữu, và Các Ngài có nhiều liên hệ với việc mặc khải bí nhiệm cho những vị điểm đạo đồ đã chuẩn bị, là những vị đến dưới ảnh hưởng của Các Ngài trong các giai đoạn cuối của Thánh Đạo.

The mystery of electricity has three keys, each of which is held in the hands of one of the Buddhas of Activity. Theirs is the prerogative to control the electrical forces of the physical plane, and Theirs the right to direct the three major streams of this type of force in connection with our present globe. These three streams are concerned with atomic substance, out of which all forms are constructed. In connection with our chain there are three mysterious Entities (of whom our three Pratyeka Buddhas are but the Earth reflections) Who perform a similar function in connection with the electrical forces of the chain. In the scheme, the planetary Logos has also three cooperating Existences Who are the summation of His third Aspect, and who perform therefore work similar to that performed by the three aspects of Brahma in the solar system. The mystery of this threefold type of electricity is largely connected with the lesser Builders, with the elemental essence in one particular aspect,—its lowest and most profound for men to apprehend as it concerns the secret of that which “substands” or “stands back” of all that is objective. In a secondary sense it concerns the forces in the ethers which are those which energize and produce the activities of all atoms. Another type deals with the electrical phenomenon which finds its expression in the light which man has somewhat harnessed, in the phenomena such as thunder storms and the manifestation of lightning, with the aurora borealis, and in the production of earthquakes and all volcanic action. All these manifestations are based on electrical activity of some kind, and have to do with the “soul of things,” or with the essence of matter. The old Commentary says: [874]

Bí nhiệm của điện có ba chìa khóa, mỗi chìa khóa do một trong các Đức Phật của Hoạt động nắm giữ. Đặc quyền của Các Ngài là kiểm soát những lực điện của cõi hồng trần, và quyền của Các Ngài là điều hướng ba dòng chính của loại mãnh lực này liên quan đến bầu hành tinh hiện tại của chúng ta.  Ba dòng này liên quan đến nguyên tử chất, từ đó mọi hình tướng đều được cấu tạo. Liên quan đến Dãy của chúng ta  có ba Đấng Huyền Bí (mà ba vị Phật Độc Giác của chúng ta chỉ là những phản ảnh trên Địa cầu) làm một chức năng tương tự liên quan đến các lực điện của Dãy. Trong hệ hành tinh,  Hành Tinh Thượng đế cũng có ba Đấng Hợp tác là tổng số phương diện thứ ba của Ngài, và do vậy thực hiện công việc tương tự với công việc mà ba phương diện của Brahma làm trong hệ mặt trời. Bí nhiệm của loại điện tam phân này phần lớn liên quan đến các Nhà Kiến tạo thứ yếu, với Tinh chất hành khí ở một phương diện đặc thù của nó—phương diện thấp nhất và cũng sâu xa nhất đối với con người để thấu đạt vì nó liên quan đến bí mật của cái “làm nền” hay “đứng sau” mọi cái hiện hình. Theo nghĩa thứ yếu, nó liên hệ với các mãnh lực trong cõi dĩ thái, là những thứ sinh lực hóa và sản sinh hoạt động của mọi nguyên tử. Một loại khác liên hệ với hiện tượng điện biểu lộ trong thứ ánh sáng mà con người phần nào đã khuất phục, trong các hiện tượng như dông bão và sự biểu hiện của tia chớp, với cực quang, và trong việc tạo ra động đất cùng mọi hoạt động núi lửa. Tất cả những biểu hiện này đều đặt nền trên hoạt động điện nào đó, và liên quan đến “linh hồn của vạn vật”, hay đến tinh chất của chất liệu. Cổ Luận nói: [874]

“The garment of God is driven aside by the energy of His movements, and the real Man stands revealed, yet remains hidden, for who knows the secret of a man as it exists in his own self-recognition.”

“Chiếc áo của Thượng đế bị đẩy lệch bởi năng lượng của những chuyển động của Ngài, và Con Người thật hiện lộ, nhưng vẫn ẩn tàng, vì ai biết bí mật của một con người như nó tồn tại trong chính sự tự-nhận biết của y.”

The mystery of electricity deals with the “garment” of God, just as the mystery of polarity deals with His “form.”

Bí nhiệm của điện liên hệ đến “chiếc áo” của Thượng đế, cũng như bí nhiệm của lưỡng cực liên hệ đến “hình tướng” của Ngài.

In the mystery of Polarity, we have three different types of force manifesting and thus it is apparent that the two mysteries deal with the six forces. These three types of force are manipulated by the Buddhas of Love. They, through Their sacrifice, concern Themselves with the problem of sex, or of “magnetic approach” on all the planes. The Buddha of Whom we speak and Who contacts His people at the full moon of Wesak, is one of the three connected with our globe, having taken the place of One Who passed on to higher work in connection with the Chain, for the same hierarchical grading is seen as in connection with the Buddhas of Action. One group might be considered the divine Carpenters of the planetary system, the other the divine Assemblers of its parts and the Ones Who, through the magnetic influence They wield, unite the diversities and build them into form.

Trong bí nhiệm của Lưỡng Cực, chúng ta có ba loại mãnh lực khác nhau phô diễn, và như vậy hiển nhiên hai bí nhiệm xử lý sáu mãnh lực. Ba loại mãnh lực này được thao luyện bởi các Đức Phật của Bác ái. Các Ngài, qua sự hi sinh của Mình, tự liên can với vấn đề Tính giao, hay “tiếp cận từ tính” trên mọi cõi. Đức Phật mà chúng ta nói đến và Ngài tiếp xúc dân của Ngài vào trăng tròn Wesak, là một trong ba vị liên hệ với bầu hành tinh của chúng ta,  sau khi đảm nhận chỗ của Một Vị đã chuyển lên công việc cao hơn liên hệ đến Dãy,  vì cùng một sự phân phẩm Thánh Đoàn được thấy như trong liên hệ với các Đức Phật của Hành động. Có thể xem một nhóm là những người Thợ Mộc thiêng liêng của hệ hành tinh, nhóm kia là các Nhà Lắp Ráp thiêng liêng của các phần của nó và là Những Vị, qua ảnh hưởng từ tính mà Các Ngài sử dụng, hợp nhất các dị biệt và kiến tạo chúng thành hình tướng.

The present ideas anent Sex must be transmuted and raised from the existing lower connotation to its true significance. Sex—in the three worlds—has to do with the work of the lunar Pitris and the solar Lords. It signifies essentially the form-building work in substance, and its energizing by the spiritual aspect. It signifies the elevation of the material aspect through the influence of Spirit as the two together perform their legitimate function in cooperation and thus—by their mutual union and blending—produce the Son in all His glory. This method of interpreting it is equally true of all the Existences manifesting on any plane, systemic and cosmic. Certain [875] factors enter into the thought of sex which might be enumerated as follows:

Những quan niệm hiện thời về Tính giao phải được chuyển hóa và nâng lên khỏi hàm nghĩa thấp hiện có để đạt đến thâm nghĩa chân thực của nó. Tính giao—trong ba cõi—liên quan đến công việc của các thái âm tổ phụ và các nhật tinh quân. Về cốt tủy, nó biểu thị công việc kiến tạo hình tướng trong chất liệu, và việc sinh lực hóa nó bằng phương diện tinh thần. Nó biểu thị sự thăng nâng phương diện vật chất qua ảnh hưởng của Tinh thần khi hai phương diện cùng thi hành chức năng hợp pháp của mình trong hợp tác, và như thế—bằng sự kết hợp và hòa quyện qua lại—sản sinh Người Con trong toàn vinh quang của Ngài. Phương pháp giải thích này cũng đúng như nhau đối với mọi Đấng Hiện Hữu biểu lộ trên bất kỳ cõi nào, hệ thống và vũ trụ. Một vài [875] yếu tố đi vào tư tưởng về Tính giao có thể liệt kê như sau:

a. Mutual attraction,

Hấp lực hỗ tương,

b. Complementary suitability,

Sự tương hợp bổ túc,

c. Instinctual appeal,

Sự hấp dẫn theo bản năng,

d. Approach, and recognized cooperation,

Sự tiếp cận và hợp tác được thừa nhận,

e. Union,

Hợp nhất,

f. The next stage is the temporary importance of the material aspect, that of the Mother, the feminine aspect,

Giai đoạn kế tiếp là tầm quan trọng tạm thời của phương diện vật chất, tức của Mẹ, phương diện nữ tính,

g. The withdrawal into a temporary retirement of the Father,

Sự lui vào ở ẩn tạm thời của Cha,

h. The work of creating the Son,

Công cuộc tạo thành Người Con,

i. The evolution and growth of the Son, both materially and in consciousness,

Sự tiến hóa và tăng trưởng của Người Con, cả về mặt vật chất lẫn trong tâm thức,

j. Emancipation of the Son from his Mother, or the liberation of the soul at maturity from matter,

Sự giải thoát của Người Con khỏi Mẹ mình, hay sự giải phóng linh hồn khỏi vật chất khi trưởng thành,

k. Recognition by the Son of the Father and his return to that Father.

Sự nhận biết của Người Con về Cha và sự trở về với Cha.

The final result of all these successive stages being that all the three aspects have performed their functions (their dharma) on the physical plane and all three have demonstrated certain types of energy.

Kết quả sau cùng của tất cả các giai đoạn kế tiếp nhau này là cả ba phương diện đều đã thi hành các chức năng của họ (dharma của họ) trên cõi hồng trần và cả ba đều đã biểu lộ những loại năng lượng nhất định.

The Father aspect manifests in giving the initial impulse or the positive electrical demonstration which is the germ of the created Son, and Whose Life is embodied in the Son. The occult significance of the words of the Christ in answer to the cry “Lord, show us the Father” is little appreciated. “He that has seen Me has seen the Father, for I and my Father are One,” He said. (Bible. John XIV, 8.)

Phương diện Cha biểu lộ trong việc ban xung lực khởi thủy hay biểu hiện điện dương tính vốn là mầm của Người Con được tạo thành, và Sự Sống của Ngài được thể hiện trong Người Con. Ý nghĩa huyền bí của những lời Đức Christ đáp lại lời thỉnh cầu “Lạy Chúa, xin chỉ cho chúng con thấy Cha” ít được đánh giá đúng. “Ai đã thấy Ta thì đã thấy Cha, vì Ta và Cha Ta là Một,” Ngài nói. (Kinh Thánh. Giăng XIV, 8.)

The Mother, or the negative aspect, builds and nourishes, guards and cherishes the Son through the antenatal, and the infant stages, and stands around Him during later stages, giving of the energy of her own body and activity in ministry to His need. [876]

Mẹ, hay phương diện âm tính, kiến tạo và dưỡng nuôi, bảo hộ và ấp ủ Người Con qua giai đoạn tiền sản và ấu thời, và đứng quanh Ngài trong các giai đoạn sau, hiến dâng năng lượng của chính thân và hoạt động của mình để phục vụ nhu cầu của Ngài. [876]

The Son, the combined energy of Father and of Mother, embodies both types and all the dual sets of qualities, but has a character all His Own, an essence which is His peculiar nature, and an energy which leads Him to fulfil His Own ends and projects, and which will eventually cause Him to repeat the process of producing,—

Người Con,  năng lượng kết hợp của Cha và của Mẹ, bao hàm cả hai loại và tất cả các cặp phẩm tính lưỡng nguyên, nhưng có một Tính cách hoàn toàn của Riêng Ngài, một bản tánh vốn là đặc sắc riêng, và một năng lượng dẫn dắt Ngài hoàn thành những cứu cánh và dự phóng của Riêng Ngài, và cuối cùng sẽ khiến Ngài lặp lại tiến trình tạo ra,—

1. Conception,

Thụ thai,

2. Creation,

Sáng tạo,

3. Conscious growth,

Tăng trưởng có ý thức,

as did His Father.

như Cha của Ngài đã làm.

When we reach the mystery of Fire, we are concerned with that mysterious extra-systemic energy which is the basis of both the activity of Mother and the Life of the Son. The Son in very deed “becomes His Mother’s husband,” as say the ancient Scriptures. This is but an enigmatical phrase unless interpreted in terms of the combination of energy. Only when the Son has reached maturity and knows Himself as essentially the same as the Father can He consciously perform His Father’s function, and produce and perpetuate that which is needed for the sustaining of cosmic generation.

Khi chúng ta đi đến bí nhiệm của Lửa,  chúng ta đang liên hệ với năng lượng huyền bí siêu-hệ, vốn là nền tảng vừa của hoạt động của Mẹ vừa của Sự Sống của Người Con. Quả thật Người Con “trở thành phu quân của Mẹ mình”, như các Kinh văn cổ nói. Đây chỉ là một ngôn ngữ ẩn dụ trừ khi được giải thích theo các thuật ngữ của sự phối kết các năng lượng. Chỉ khi Người Con đạt đến trưởng thành và biết Mình vốn đồng nhất với Cha thì Ngài mới có thể ý thức thi hành chức năng của Cha Mình, và sản sinh, duy trì cái cần thiết cho việc tiếp diễn sinh thành vũ trụ.

[Commentary S7S11 Part 3]

The electricity of substance, the electricity of form, and the electricity of Life itself must blend and meet before the true Man (whether Logos, or human being) realizes himself as creator. Man at this stage knows somewhat of the electricity of substance, and is coming to the belief as to the electricity of form (even though as yet he calls it magnetism) but as yet he knows nought of the electrical reality of life itself. Only when the “jewel in the Lotus” is about to be revealed, or the third circle of petals is about to open up, does the initiate begin to have a realization of the true meaning of the word “life” or spirit. The consciousness has to be fully awakened before he can ever understand that great energizing something of which the other types of energy are but expressions. [877]

Điện của chất liệu, điện của hình tướng, và điện của chính Sự Sống phải hòa quyện và gặp nhau trước khi Con Người chân thật (dù là Thượng đế hay con người) tự nhận biết mình là đấng sáng tạo. Con người ở giai đoạn này biết đôi chút về điện của chất liệu, và đang đi đến tin tưởng về điện của hình tướng (dù hiện nay y còn gọi đó là từ tính) nhưng y vẫn chưa biết gì về thực tại điện lực của chính Sự Sống. Chỉ khi “viên ngọc trong Hoa Sen” sắp được hiển lộ, hay vòng cánh hoa thứ ba sắp mở ra, vị điểm đạo đồ mới bắt đầu có một nhận thức về ý nghĩa chân thực của từ “sự sống” hay tinh thần. Tâm thức phải được đánh thức hoàn toàn trước khi y có thể hiểu được cái “điều gì đó” đại năng sinh động mà những loại năng lượng khác chỉ là biểu hiện của nó. [877]

There are only two more points to be considered in connection with the petals and initiation.

Chỉ còn hai điểm nữa cần được xem xét liên quan đến các cánh hoa và điểm đạo.

First, it should be noted that the words “knowledge, love and sacrifice” mean much more occultly than the apparent significance of the terms. Each circle of petals stands for one of these three ideas, and each circle again embodies these three aspects of existence in a greater or lesser degree. These three concepts are the modes of expression of the three great qualities which (from the standpoint of the Past, the Present and the Future) characterize the natures of all the manifesting entities—Gods, men and devas. From the standpoint of the central factor in manifestation, man, it should be realized that knowledge was inherent in the previous solar system, and is the faculty of which he has to avail himself. It is there available for his use. It is the hidden energy of the planetary Logos which he has to learn to focus through his physical brain, and thus apply.

Thứ nhất, cần lưu ý rằng các từ “tri thức, bác ái và hi sinh” mang nghĩa nhiều hơn rất nhiều, theo huyền nghĩa, so với ý nghĩa hiển nhiên của các thuật ngữ. Mỗi vòng cánh hoa biểu trưng cho một trong ba ý niệm này, và mỗi vòng lại bao hàm ba phương diện của sự tồn tại ở mức độ lớn hay nhỏ. Ba khái niệm này là những lối biểu lộ của ba phẩm tính vĩ đại vốn (từ lập trường của Quá khứ, Hiện tại và Tương lai) đặc trưng cho các bản tánh của mọi thực thể đang biểu lộ—các Thần linh, con người và chư thiên thần. Từ lập trường của yếu tố trung tâm trong sự biểu lộ—tức con người—cần nhận ra rằng tri thức  đã vốn có sẵn trong hệ mặt trời trước, và là khả năng mà y phải biết vận dụng. Nó ở đó sẵn sàng cho y dùng. Nó là năng lượng ẩn tàng của Hành Tinh Thượng đế mà y phải học cách tập trung qua bộ não hồng trần của mình, và như vậy áp dụng.

Love is the faculty inherent in the present. It is the hidden energy of the planetary Logos of which he must avail himself and focus in his heart center and thus apply.

Bác ái là khả năng vốn sẵn có trong hiện tại. Nó là năng lượng ẩn tàng của Hành Tinh Thượng đế mà y phải biết vận dụng và tập trung vào luân xa tim và như thế áp dụng.

Sacrifice is the faculty which will be his in the future, which he will intelligently focus through the highest head center and thus apply. It is dependent upon his development of consciousness, and therefore upon his recognition of the esoteric purpose of his group, and of the planetary existences. As it involves what is termed “a solar and lunar act of abnegation” it involves, therefore, a due comprehension of solar and of lunar energy, and a bringing of both these two groups to a stage of cooperative activity. It concerns, therefore, the nature of the Jewel in the lotus, and it is only when the three sacrifice petals in the three tiers are unfolded that this particular type of energy is released. The lunar Lords of the three bodies have been controlled, and their vibration synchronized, so that the great act of sacrifice finds them ready [878] for the final process of renunciation. The solar Lords, in their three major groups, are equally ready for the final sacrifice, which involves the “rupture between the sun and the moon” as it is called. This results in the breaking of the magnetic link between the true man, and the vibratory sensitive substance of which his three world bodies are made. The need for incarnation is no longer felt, the chains of karma are broken, and the man is liberated. The “lunar Lords return to their own place” or—as the Christian expresses it—”Satan is bound for a thousand years,” (Bible. Rev. XX, 2.) this meaning only that pralayic peace is the lot of these entities until the return of manvantaric opportunity.

Hi sinh là khả năng sẽ là của y trong tương lai, mà y sẽ tập trung một cách thông tuệ qua luân xa đầu cao nhất và như vậy áp dụng. Nó tùy thuộc vào sự phát triển tâm thức của y, và do đó tùy thuộc vào sự nhận biết của y về mục tiêu nội môn của nhóm mình, và của các tồn tại hành tinh. Vì nó bao hàm cái được gọi là “một hành vi từ bỏ mang tính thái dương và thái âm” nên nó đòi hỏi, do vậy, một sự thấu triệt đúng đắn về năng lượng thái dương và thái âm, và một sự đưa cả hai nhóm này đến giai đoạn hoạt động hợp tác. Do đó, nó liên quan đến bản tánh của Viên ngọc trong hoa sen, và chỉ khi ba cánh hoa hi sinh ở cả ba tầng được khai mở thì loại năng lượng đặc thù này mới được giải phóng. Các nguyệt tinh quân của ba thể đã bị chế ngự, và rung động của họ được đồng bộ, để cho hành vi hi sinh vĩ đại khiến họ sẵn sàng [878] cho tiến trình cuối cùng của sự từ bỏ. Các thái dương tổ phụ, trong ba nhóm chính của họ, cũng sẵn sàng như vậy cho cuộc hi sinh sau cùng, điều này bao hàm “sự đoạn tuyệt giữa mặt trời và mặt trăng” như cách gọi của nó. Điều này dẫn đến sự phá vỡ mối liên kết từ tính giữa con người chân thật và chất liệu cảm ứng rung động mà các thể thuộc ba cõi của y được cấu tạo. Nhu cầu giáng sinh không còn được cảm thấy, xiềng xích nghiệp quả bị phá tan, và con người được giải thoát. “Các nguyệt tinh quân trở về chốn của họ” hay—như người Cơ đốc giáo diễn đạt—“Satan bị trói trong ngàn năm,” (Kinh Thánh. Khải Huyền XX, 2.) điều này chỉ có nghĩa là an bình thuộc Giai kỳ qui nguyên là phần của những thực thể này cho đến khi cơ hội thuộc Giai kỳ sinh hóa trở lại.

The final sacrifice involves also the disappearance of the lower triangle, or the severing of the connection between the three permanent atoms in the lower part of the causal body or egoic lotus, and the central unit of energy. The energy of these atoms is set loose through the intense heat produced by the union of the three fires and is reabsorbed into the general reservoir in interplanetary space. The fiery triangle is lost sight of in the general blaze, and the deva essences who temporarily formed it cease their activity.

Sự hi sinh sau cùng cũng bao hàm sự biến mất của tam giác thấp, hay việc cắt đứt mối liên kết giữa ba Nguyên tử trường tồn ở phần thấp của thể nguyên nhân hay Hoa Sen Chân Ngã, và đơn vị năng lượng trung tâm. Năng lượng của các nguyên tử này được phóng thích nhờ sức nóng mãnh liệt tạo ra bởi sự hợp nhất của ba loại lửa và được tái hấp thu vào hồ chứa chung trong không gian liên hành tinh. Tam giác lửa mất dấu trong ngọn hỏa quang chung, và các bản thể deva tạm thời cấu thành nó chấm dứt hoạt động.

Again, the solar Angels complete their initial sacrifice by a final one, and offer themselves upon the fiery altar. The causal body is completely destroyed. The four lower groups of solar Pitris return to the heart of the subjective sun, or to that inmost center of the system from whence they came, whilst the three higher groups are carried (by the force and energy generated in the fiery furnace and blaze, and through the stimulation produced by the blazing forth of the central jewel) straight to the central spiritual sun, there to abide until another kalpa calls them forth to sacrifice Themselves, this time as planetary Logoi. The student must bear in mind that [879] in thinking of the Pitris, he must ever think in group terms. The Pitris who formed the egoic body of a human being do not—alone and isolated—form planetary Logoi. The forty-nine groups of solar fires concerned in the great work are those spoken of, and they become the forty-nine planetary Logoi in connection with seven solar systems. In them is hid the mystery of the three who become the sixteen—united or synthesized by the seventeenth—a correspondence upon cosmic levels of the seven with the eighth sphere. This must remain practically an insoluble mystery to man at present.

Lại nữa, các Thái dương Thiên Thần hoàn tất sự hi sinh ban đầu của Các Ngài bằng một sự hi sinh sau cùng, và hiến mình trên bàn thờ lửa. Thể nguyên nhân bị hủy diệt hoàn toàn. Bốn nhóm thấp của các thái dương tổ phụ trở về Trái tim của mặt trời chủ quan, hay về trung tâm thâm viễn nhất của hệ thống, nơi từ đó họ khởi lai, còn ba nhóm cao thì được đưa đi (bởi mãnh lực và năng lượng được tạo trong lò lửa hừng hực, và nhờ sự kích thích sinh ra bởi sự bừng sáng của viên ngọc trung tâm) thẳng đến Mặt trời Tinh thần Trung Ương, để an trụ ở đó cho đến khi một kalpa khác triệu thỉnh họ xuất hiện để hi sinh chính Mình, lần này như các Hành Tinh Thượng đế. Đạo sinh phải ghi nhớ rằng [879] khi nghĩ về các tổ phụ, y phải luôn nghĩ theo thuật ngữ nhóm. Các tổ phụ đã kiến tạo thể chân ngã của một con người không—một cách đơn lẻ và tách biệt—trở thành các Hành Tinh Thượng đế. Bốn mươi chín nhóm hỏa Thái dương liên can trong đại công trình là những gì được nói đến, và họ trở thành bốn mươi chín Hành Tinh Thượng đế liên hệ với bảy hệ mặt trời. Ở họ ẩn giấu bí nhiệm của ba vị trở thành mười sáu—được hợp nhất hay tổng hợp bởi vị thứ mười bảy—một sự tương ứng trên các cấp độ vũ trụ của bảy với quả cầu thứ tám. Điều này hiện nay trên thực tế vẫn là một bí nhiệm bất khả giải đối với con người.

The four groups who found their way to the Heart of the system will reappear as the four planetary Logoi who are the twenty-eight and who thus produce the possibility of the ten of perfection in another series of manifesting systems.

Bốn nhóm đã tìm đường đến Trái Tim của hệ thống sẽ tái xuất hiện như bốn Hành Tinh Thượng đế là hai mươi tám và như thế tạo ra khả tính của mười của sự viên mãn trong một chuỗi hệ thống biểu lộ khác.

The seven types of solar energy find the “path of return” to their central emanating source; by the disruption of the tie between them and the lunar lords (who are esoterically spoken of as “dead or dying on the field of battle”) the great sacrifice is consummated, and they are free to return in triumph.

Bảy loại năng lượng Thái dương tìm “Con Đường Trở Về” đến nguồn xuất lộ trung tâm của chúng; bằng sự đứt đoạn sợi dây giữa chúng với các nguyệt tinh quân (những vị được nói một cách huyền môn là “chết hay đang hấp hối trên chiến trường”) cuộc hi sinh vĩ đại được hoàn tất, và chúng được tự do khải hoàn trở về.

The occult significance of these words in connection with the energy standing behind and working through all appearance might be expressed as follows:

Huyền nghĩa của những lời này trong liên hệ với năng lượng đứng sau và hoạt động xuyên qua mọi biểu tướng có thể diễn đạt như sau:

Knowledge 79 is the right apprehension of the laws of energy, of the conservation of force, of the sources of [880] energy, of its qualities, its types and its vibrations. It involves an apprehension of:

Tri thức 79 là sự thấu triệt đúng đắn các định luật của năng lượng, của việc bảo toàn lực, của các nguồn [880] năng lượng, của các phẩm tính, các loại và các rung động của nó. Nó bao hàm sự thấu triệt:

a. The different key vibrations.

Các rung chính khác nhau.

b. The centers whereby force enters.

Các trung tâm qua đó lực đi vào.

c. The channels along which it circulates. [881]

Các kênh mạch theo đó nó lưu chuyển. [881]

d. The triangles and other geometrical figures which it produces during evolution.

Các tam giác và những hình học khác mà nó tạo thành trong tiến trình tiến hóa.

e. The cycles and the ebb and flow of energy in connection with the different types of planetary manifestation, including all the kingdoms of nature.

Các chu kỳ và thủy triều của năng lượng liên hệ với các kiểu biểu hiện hành tinh khác nhau, bao gồm mọi giới trong thiên nhiên.

f. The true significance of those force aspects which we call “periods of pralaya” and those we call “periods of manifestation.” It also involves a right realization of the laws of obscuration.

Thâm nghĩa chân thực của những phương diện lực mà chúng ta gọi là “các thời kỳ Giai kỳ qui nguyên” và những gì chúng ta gọi là “các thời kỳ biểu lộ.” Nó cũng bao hàm một nhận thức đúng về các định luật của sự che mờ.

All this the man has been learning in the various Halls through practical experience, involving pleasure and pain; these, in the final initiations, bring him to a realization not only of the existence of these forces but of how to wield and manipulate them. This is knowledge: to rightly direct force currents, first in the three worlds of human endeavor, and then in the solar system.

Tất cả những điều này con người đã học trong các Phòng khác nhau qua kinh nghiệm thực tiễn, bao hàm khoái lạc và thống khổ; những điều này, trong các lần điểm đạo tối hậu, đưa y đến một nhận thức không chỉ về sự hiện hữu của các mãnh lực này mà còn về cách điều động và thao luyện chúng. Đây là tri thức: điều hướng đúng đắn các dòng lực, trước hết trong ba cõi của nỗ lực nhân gian, rồi trong toàn hệ mặt trời.

Love is the right apprehension of the uses and purposes of form, and of the energies involved in form-building, the utilization of form, and the eventual dissipation of the superseded form. It involves a realization of the Laws of Attraction and Repulsion, of the magnetic interplay between all forms, great and small, of group relationships, of the galvanizing power of the unifying life, and the attractive power of one unit upon another, be it atom, man, or solar system. It involves an understanding of all forms, form purposes, and form relationships; it concerns the building processes in man himself, and in the solar system; and it necessitates the development of those powers within man which will make him a conscious Builder, a solar Pitri of a coming cycle. This [882] is one of the great revelations at initiation: the unveiling to the initiate of the particular cosmic center whence emanates the type of force or energy which he, the initiate, will be concerned with when he becomes in due course of time a solar Pitri, or divine manasaputra to a coming humanity. Hence he must have, not only knowledge, but the energy of love likewise to enable him to perform the function of linking the higher three and the lower four of a future race of men at some distant period, thus permitting of their individualizing through the sacrifice of his own fully conscious middle principle.

Bác ái là sự thấu triệt đúng đắn về công dụng và mục đích của hình tướng, và về các năng lượng can dự trong việc kiến tạo hình tướng, việc sử dụng hình tướng, và việc sau cùng làm tiêu tan hình tướng đã lỗi thời. Nó bao hàm một nhận thức về các Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi, về sự tương giao từ tính giữa mọi hình tướng, lớn và nhỏ, về các liên hệ nhóm, về sức mạnh hoạt hóa của sự sống hợp nhất, và quyền năng hấp dẫn của đơn vị này đối với đơn vị kia, dù là nguyên tử, con người, hay hệ mặt trời. Nó bao hàm một sự hiểu biết về mọi hình tướng, mục đích hình tướng, và các mối liên hệ hình tướng; nó liên quan đến các tiến trình kiến tạo trong chính con người, và trong hệ mặt trời; và nó đòi hỏi sự phát triển các năng lực trong con người giúp y trở thành một Nhà Kiến tạo có ý thức, một thái dương tổ phụ của một chu kỳ sắp tới. Đây [882] là một trong các mặc khải lớn lao ở điểm đạo: việc vén mở cho vị điểm đạo đồ thấy trung tâm vũ trụ đặc thù từ đó phát lộ loại mãnh lực hay năng lượng mà y, vị điểm đạo đồ, sẽ liên can đến khi đến đúng thời y trở thành một thái dương tổ phụ, hay một vị manasaputra thiêng liêng cho một nhân loại sắp đến. Do đó, y không những phải có tri thức, mà còn phải có năng lượng của bác ái để cho phép y thi hành chức năng nối kết ba cao và bốn thấp của một chủng tộc nhân loại tương lai vào một thời kỳ xa xăm, nhờ vậy cho phép họ biệt ngã hóa qua sự hi sinh chính nguyên khí trung giới đã hoàn toàn ý thức của y.

79

79

1. There are seven branches of knowledge mentioned in the Puranas:

Có bảy ngành tri thức được nói đến trong các Puranas:

2. – S. D., I, 192.

– Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 192.

3. The Gnosis, the hidden Knowledge, is the seventh Principle, the six schools of Indian philosophy are the six principles.—S. D., I, 299.

Mật tri, Tri thức ẩn, là Nguyên khí thứ bảy; sáu phái triết học Ấn Độ là sáu nguyên khí.—Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 299.

4. These six schools are:

Sáu phái này là:

a. The school of Logic—Proof of right perception.

Phái Luận lý—Chứng minh của tri giác đúng.

b. The atomic school—System of particulars. Elements. Alchemy and chemistry.

Phái Nguyên tử—Hệ thống của các đặc thù. Các nguyên tố. Thuật luyện đan và hóa học.

c. The Sankhya school—System of numbers. The materialistic school. The theory of the seven states of matter or prakriti.

Phái Sankhya—Hệ thống con số. Phái duy vật. Thuyết bảy trạng thái của vật chất hay prakriti.

d. The school of Yoga—Union. The rule of daily life. Mysticism.

Phái Yoga—Hiệp nhất. Quy luật đời sống hằng ngày. Thần bí học.

e. The school of Ceremonial Religion—Ritual. Worship of the devas or Gods.

Phái Tôn giáo Nghi lễ—Nghi điển. Thờ phụng chư thiên thần hay các Thượng đế.

f. The Vedanta school—Has to do with non-duality. Deals with the relation of Atman in man to the Logos.

Phái Vedanta—Liên quan đến bất nhị. Bàn về mối liên hệ giữa Atman trong con người và Thượng đế.

5. There are four branches of knowledge to which H. P. B. specially refers:

Có bốn ngành tri thức mà riêng Bà H. P. B. đề cập:

6. – S. D., I, 192.

– Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 192.

7. These four are probably those with which man has dealt the most, in this fourth round and fourth chain.—Compare S. D., I, 70, 95, 107, 227.

Bốn ngành này có lẽ là những ngành mà con người đã xử lý nhiều nhất, trong cuộc tuần hoàn thứ tư và Dãy thứ tư.—So sánh Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 70, 95, 107, 227.

8. The four Noble Truths. The four Vedas. The four Gospels. The four basic admissions. The four ready Elements. The four grades of Initiation.

Bốn Chân lý Cao quý. Bốn Veda. Bốn Phúc âm. Bốn thừa nhận căn bản. Bốn Nguyên tố sẵn sàng. Bốn cấp bậc Điểm đạo.

a. Yajna Vidya—The performance of religious rites in order to produce certain results. Ceremonial magic. It is concerned with Sound, therefore with the Akasha, or the ether of space. The “yajna” is the invisible Deity who pervades space.

Yajna Vidya—Sự thực hành các nghi lễ tôn giáo để tạo ra những kết quả nhất định. Huyền thuật nghi lễ. Nó liên hệ đến Âm Thanh, do đó đến Akasha, hay dĩ thái của không gian. “yajna” là Thần linh vô hình thấm nhuần không gian.

b. Perhaps this concerns the physical plane?

Có lẽ điều này liên hệ đến cõi hồng trần?

c. Mahavidya—The great magic knowledge. It has degenerated into Tantrika worship. Deals with the feminine aspect, or the matter (mother) aspect. The basis of black magic. True mahayoga has to do with the form (second aspect) and its adaptation to Spirit and its needs.

Mahavidya—Đại minh triết huyền thuật. Nó đã suy thoái thành sự thờ phụng Tantrika. Liên quan đến phương diện nữ, hay phương diện chất (mẹ). Nền tảng của hắc thuật. Chân mahayoga liên quan đến hình tướng (phương diện thứ hai) và sự thích ứng của nó với Tinh thần và các nhu cầu của Tinh thần.

d. Perhaps this concerns the astral plane?

Có lẽ điều này liên hệ đến cõi cảm dục?

e. Guyha vidya—The science of mantrams. The secret knowledge of mystic mantrams. The occult potency of sound, of the Word.

Guyha vidya—Khoa học về các mantram. Tri thức bí mật của các mantram huyền nhiệm. Oai lực huyền bí của âm thanh, của Linh từ.

f. Perhaps this concerns the mental plane?

Có lẽ điều này liên hệ đến cõi trí?

g. Atma vidya—True spiritual wisdom.

Atma vidya—Minh triết tinh thần chân thật.

9. Knowledge of truth is a common inheritance.—S. D., II, 47, 3.

Tri thức chân lý là gia tài chung.—Giáo Lý Bí Nhiệm, II, 47, 3.

10. Knowledge is a relative subject, and varies according to the grade achieved.

Tri thức là một vấn đề tương đối, và thay đổi tùy theo cấp độ đạt được.

a. Ranges of further knowledge open up before a planetary Logos.

Những miền tri thức rộng hơn mở ra trước một Hành Tinh Thượng đế.

b. – S. D., II, 740.

– Giáo Lý Bí Nhiệm, II, 740.

c. The four truths can be arrived at by unaided man.—S. D., III, 420.

Bốn chân lý có thể đạt được bởi con người không cần trợ giúp.—Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 420.

11. Finally, Knowledge is a dangerous weapon: This is due to Personal Selfishness. It is only safe when:

Sau hết, Tri thức là một vũ khí nguy hiểm: Điều này là do Tính ích kỷ cá nhân. Nó chỉ an toàn khi:

a. One gives oneself up to it, body, soul and spirit.—S. D., III, 62, 63.

Người ta hiến dâng bản thân cho nó, thân, hồn và thần.—Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 62, 63.

b. One has an unshakeable belief in one’s own divinity—S. D., III, 62, 63.

Người ta có niềm tin bất lay chuyển vào thiên tính của chính mình—Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 62, 63.

c. One recognizes one’s own immortal Principle.

Người ta nhận ra Nguyên khí bất tử của chính mình.

d. One knows oneself—S. D., III, 435, 436.

Người ta biết chính mình—Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 435, 436.

e. All the virtues are practiced.—S. D., III, 262.

Mọi đức hạnh đều được thực hành.—Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 262.

f. One has experience.—S. D., III, 481.

Người ta có kinh nghiệm.—Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 481.

g. One realizes knowledge is the fruit of Spirit alone.—S. D., III, 453.

Người ta nhận ra tri thức chỉ là quả của Tinh thần mà thôi.—Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 453.

h. Knowledge is acquired through the region of the higher mind.

Tri thức được thủ đắc qua miền của thượng trí.

i. S. D., III, 453.

Giáo Lý Bí Nhiệm, III, 453.

[Commentary S7S12 Part 1]

Sacrifice involves even more than what has been already pointed out. It involves the following factors:

Hi sinh  bao hàm nhiều hơn cả những gì đã chỉ ra. Nó bao hàm các yếu tố sau:

a. Knowledge of the purposes and intentions of the planetary Logos,

Tri thức về các mục đích và ý định của Hành Tinh Thượng đế,

b. Realization of the particular and peculiar type of energy, and of the quality of his own Ray Lord,

Nhận thức về loại năng lượng đặc thù và đặc dị, và về phẩm tính của Đấng Chúa Tể cung của y,

c. Comprehension of the different groups of existences who are participating in planetary evolution and in solar manifestation,

Sự lĩnh hội về các nhóm hiện hữu khác nhau đang tham dự vào tiến hóa hành tinh và vào biểu lộ thái dương,

d. A revelation as to certain cosmic enterprises in which our planetary Logos is acting as an intelligent cooperator. Thus is brought in the factor of extra-systemic force.

Một mặc khải về một vài doanh nghiệp vũ trụ mà trong đó Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang hành động như một cộng tác viên thông tuệ. Như vậy yếu tố năng lượng siêu-hệ được đưa vào.

When all these and other factors are considered, it is evident that the energy set loose in sacrifice to these plans and intentions involves such a vast field of comprehending wisdom that it is not possible for the average man ever to sense it. It deals with the purposes and plans of the Silent Watchers over the three planes—the five, and the seven; it deals with the dynamic force of the great Destroying Angels on all the planes, who will eventually—through the manipulation of the three forms of energy—bring to an end all that is. These angels are a mysterious group of fohatic Lives Who sound forth the [883] trumpets of destruction, and by means of the notes sounded produce that shattering which will set loose the energy of forms.

Khi tất cả những yếu tố này và các yếu tố khác được cân nhắc, hiển nhiên năng lượng được phóng thích trong sự hi sinh cho các kế hoạch và ý định này bao hàm một trường độ minh triết quá bao la đến nỗi người bình thường không thể nào cảm nhận được. Nó liên quan đến các mục đích và kế hoạch của các Đấng Canh Chừng Im Lặng trên ba cõi—năm, và bảy; nó liên quan đến mãnh lực động của các Thiên thần Hủy Diệt vĩ đại trên mọi cõi, là những vị cuối cùng—thông qua việc thao luyện ba hình thức năng lượng—sẽ đưa đến chấm dứt mọi sự. Những thiên thần này là một nhóm Sự Sống fohatic huyền bí Những vị thổi vang [883] những kèn lệnh của hủy diệt, và bằng những nốt được xướng phát mà tạo ra sự vỡ tan cốt để giải phóng năng lượng của các hình tướng.

The second point is very briefly given. It concerns the innermost circle of petals, or that set of three petals, or those three streams of whirling energy, which immediately surround the “jewel in the lotus.” Each of these three petals is related to one of the three circles, and is organized as each of the three circles is unfolded. They form, therefore, a synthesis of knowledge, love or sacrifice, and are closely connected through the type of force flowing through them with one of the three higher centers of the planetary Logos of a man’s particular ray. This central unit of threefold force is dealt with in a specific manner at initiation.

Điểm thứ hai được nêu rất vắn tắt. Nó liên quan đến vòng cánh hoa thâm nội nhất, hay bộ ba cánh hoa, hay ba dòng năng lượng xoáy, vốn bao quanh ngay “viên ngọc trong hoa sen.” Mỗi cánh hoa trong ba cánh này liên hệ với một trong ba vòng cánh hoa, và được tổ chức khi mỗi vòng cánh được khai mở. Do đó chúng hình thành một tổng hợp của tri thức, bác ái và hi sinh, và qua loại năng lượng chảy xuyên chúng, chúng liên hệ chặt chẽ với một trong ba trung tâm cao của Hành Tinh Thượng đế thuộc cung riêng của một người. Đơn vị trung tâm của lực tam phân này được xử lý theo một cách thức chuyên biệt ở điểm đạo.

At the first, the second, and the third Initiations, one of the three petals opens up, permitting an ever freer display of the central electric point. At the fourth Initiation, the jewel (being completely revealed) through its blazing light, its intense radiatory heat, and its terrific outflow of force, produces the disintegration of the surrounding form, the shattering of the causal body, the destruction of the Temple of Solomon, and the dissolution of the lotus flower. The work of the Initiator in this connection is very interesting. Through the medium of the Rod of Initiation and of certain Words of Power, He brings about results of a coordinating, transmuting and liberating nature.

Ở lần điểm đạo thứ nhất, thứ hai, và thứ ba, một trong ba cánh hoa mở ra, cho phép sự phô diễn tự do hơn của điểm điện trung tâm. Ở lần điểm đạo thứ tư, viên ngọc (do được hoàn toàn hiển lộ) thông qua ánh quang rực rỡ của nó, sức nóng tỏa ra mãnh liệt của nó, và sự tuôn đổ lực khủng khiếp của nó, tạo ra sự tan rã của hình tướng bao quanh, sự vỡ nát của thể nguyên nhân, sự hủy phá Đền Thờ của Solomon, và sự phân giải của đóa hoa sen. Công việc của Đấng Điểm đạo trong liên hệ này thật hết sức lý thú. Thông qua môi giới của Thần Trượng Điểm đạo và của một vài Quyền năng từ, Ngài mang lại các kết quả mang tính phối hợp, chuyển hóa và giải thoát.

Through the action of the Rod as wielded at the first two Initiations, the two outer circles unfold, the energy of the two is set free and the two sets of force as embodied in the six petals are coordinated and become interactive. This stage of petal adjustment succeeds upon that called earlier “unfoldment” and has to do with the simultaneous action of the two tiers of petals. The interplay between the two circles is completed, and the [884] circulation of the force currents perfected. According to a man’s ray and subray, so is the Rod applied to what might be termed the “key” petal. This of course differs according to the unit of force involved. It is of interest to note here that, as the petal substance is deva substance and as the energy of the petals is the energy of certain manasadevas (one of the three higher orders of Agnishvattas) the initiate is over-shadowed (the word is not entirely satisfactory in explaining the type of deva service here necessitated, but it must suffice) by a great deva who represents the equilibrium of substantial vibration which is brought about by the efforts of the initiate, aided by the adepts who present him, and who each represent one of the two polarities of force. This is temporarily stabilized by the Initiator. These three factors,

Do tác động của Thần Trượng như được vận dụng ở hai lần điểm đạo đầu, hai vòng cánh bên ngoài khai mở, năng lượng của đôi vòng được giải phóng và hai bộ mãnh lực vốn thể hiện trong sáu cánh hoa được phối hợp và trở nên tương tác. Giai đoạn điều chỉnh cánh hoa này đến tiếp sau giai đoạn gọi trước đó là “khai mở” và liên quan đến hành động đồng thời của hai tầng cánh hoa. Sự giao động qua lại giữa hai vòng được hoàn tất, và [884] sự lưu thông của các dòng lực được làm trọn vẹn. Theo cung và cung phụ của một người, Thần Trượng được áp vào cái có thể gọi là cánh hoa “chìa khóa”. Dĩ nhiên điều này khác nhau tùy theo đơn vị lực được liên can. Đáng chú ý rằng vì chất liệu cánh hoa là chất liệu deva và vì năng lượng của các cánh là năng lượng của một vài manasadevas (một trong ba đẳng cấp cao của Agnishvattas) nên vị điểm đạo đồ được phủ bóng (từ này không hoàn toàn thỏa đáng để diễn đạt loại phục vụ deva ở đây là điều tất yếu, nhưng đành tạm dùng) bởi một vị đại deva, vị này biểu trưng cho trạng thái quân bình của rung động chất thể vốn được tạo ra bởi nỗ lực của vị điểm đạo đồ, với sự trợ giúp của các vị chân sư giới thiệu y, mỗi vị đại diện cho một trong hai cực của lực. Trạng thái này được Đấng Điểm đạo tạm thời làm ổn định. Ba yếu tố này,

1. The representing deva,

Vị deva đại diện,

2. The two adepts,

Hai vị chân sư,

3. The initiator,

Đấng Điểm đạo,

form, for a brief second, a triangle of force with the initiate at the center. Through them circulates the terrific power, the “fire from Heaven,” which is brought down from the higher triad through the agency of the electrical rod.

trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, kết thành một tam giác lực với vị điểm đạo đồ ở trung tâm. Xuyên qua họ lưu chuyển mãnh lực khủng khiếp, “lửa từ Trời,” vốn được dẫn xuống từ Tam nguyên tinh thần nhờ cơ quan là thần trượng điện lực.

This application of extra-egoic force is in itself of a threefold nature, as symbolized by the three protective agencies and the threefold nature of the Rod itself. It emanates in a primary sense from the planetary Logos of a man’s ray, and proceeds from that one of the planetary centers which corresponds to either the head, heart, or throat center in a human unit. This energy is applied to the corresponding tier of petals and to the corresponding petal in a tier according to the initiation taken, and according to the primary and secondary ray. A close connection can be traced here between the petals and the centers on the etheric level of the physical plane, [885] and thus it can be seen how (when the necessary work is done) it is possible to have a direct transmission of force from the higher planes to the lower in the following order:

Sự áp dụng mãnh lực siêu-chân ngã này tự thân mang tính tam phân, như được biểu trưng bởi ba cơ quan bảo hộ và bản tính tam phân của chính Thần Trượng. Trước tiên nó xuất lộ từ Hành Tinh Thượng đế thuộc cung của một người, và phát xuất từ trung tâm hành tinh tương ứng với trung tâm đầu, tim, hay cổ họng nơi con người. Năng lượng này được áp vào tầng cánh hoa tương ứng và vào cánh hoa tương ứng trong một tầng tùy theo lần điểm đạo đã thọ, và tùy theo cung chính và cung phụ. Có thể truy nguyên một mối liên hệ mật thiết ở đây giữa các cánh hoa và các trung tâm trên cõi dĩ thái của cõi hồng trần, [885] và như thế có thể thấy rằng (khi công việc cần thiết được thực hiện) có thể có sự truyền lực trực tiếp từ các cõi cao xuống cõi thấp theo thứ tự sau:

a. From the logoic center, or the planetary Logos, to the Monad on its own plane.

Từ trung tâm logoic, hay Hành Tinh Thượng đế, đến Chân thần trên cõi riêng của nó.

b. From that Monad to one of the three tiers of petals, according to the aspect or ray concerned.

Từ Chân thần đó đến một trong ba tầng cánh hoa, theo phương diện hay cung được nói đến.

c. From the tier of petals, viewed as a unit, to one of the petals in the circle, according to the quality and type of force, using the petal as a transmitting agency.

Từ tầng cánh hoa, được xem như một đơn vị, đến một trong các cánh trong vòng, tùy theo phẩm tính và loại lực, dùng cánh hoa như một cơ quan truyền dẫn.

d. From the particular petal in which the force is momentarily centered to one of the permanent atoms, again according to ray and type of force.

Từ cánh hoa đặc thù trong đó lực tạm thời được tập trung đến một trong các Nguyên tử trường tồn, lại nữa tùy theo cung và loại lực.

e. From the permanent atom via the atomic triangle, and the mental, and astral centers, to that one of the three higher centers in the etheric body particularly concerned.

Từ Nguyên tử trường tồn qua tam giác nguyên tử, và các trung tâm trí, cảm dục, đến một trong ba trung tâm cao trong thể dĩ thái có liên quan đặc biệt.

f. From the etheric center to the physical brain.

Từ trung tâm dĩ thái đến bộ não hồng trần.

We have here put very briefly the process of force transmission from the Monad to man on the physical plane, and hence it will be apparent why the emphasis is so consistently laid upon the necessity for bodily purity (in all the three bodies), and upon the alignment of those bodies so that the flow of force may be unimpeded. The effects of this downflow of force may be viewed in a twofold manner, that is, in a material and in a psychic sense.

Chúng ta vừa minh họa rất vắn tắt tiến trình truyền lực từ Chân thần đến con người trên cõi hồng trần, và do vậy hiển nhiên vì sao nhấn mạnh được đặt liên tục lên sự cần thiết của sự thanh khiết nơi các thể (trong cả ba thể), và lên sự chỉnh hợp các thể ấy để dòng lưu chuyển lực không bị cản trở. Ảnh hưởng của sự tuôn đổ lực này có thể được nhìn nhận theo hai phương diện, tức theo nghĩa vật chất và theo nghĩa tâm linh cảm ứng.

The material effect, or the result of this stimulation upon the forms and upon the atoms in the forms, is to render them radioactive, or to set loose the energy of substance. This is the liberating of the energy imprisoned within the form, and concerns the Brahma aspect, and [886] the evolution of matter itself. It affects the lunar bodies, and therefore relates to the lunar Lords or Pitris, causing a weakening of their hold upon the lesser builders, bringing them more under the force streams from the solar Angels, and leading to a situation which will eventually result in a return of the lunar Pitris of all degrees to the central point for force substance. In a psychic sense the result of the downflow is a stimulation of consciousness, and the acquisition (through that stimulation) of the psychic powers latent in man. His three higher physical centers, the pineal gland, the pituitary body, and the alta major center are affected, and man becomes psychically aware in the physical brain of the higher influences, happenings and powers. According to the ray concerned, so is the center affected. The force of the lunar Lords, which has succeeded in keeping these three organs quiescent, is superseded and the solar Angels pour in their energy.

Hiệu quả vật chất,  hay kết quả của sự kích thích này lên các hình tướng và lên các nguyên tử trong hình tướng, là làm cho chúng trở nên phóng xạ, hay giải phóng năng lượng của chất liệu. Đây là sự giải phóng năng lượng bị giam cầm trong hình tướng, và liên quan đến phương diện Brahma, và [886] tiến hóa của chính vật chất. Nó ảnh hưởng đến các thể nguyệt tính, và do vậy liên hệ đến các nguyệt tinh quân hay thái âm tổ phụ, khiến sức nắm giữ của họ trên các Tiểu kiến tạo bị yếu đi, đưa họ vào dưới các dòng lực từ các Thái dương Thiên Thần, và dẫn đến một tình huống rốt cuộc sẽ khiến các thái âm tổ phụ ở mọi cấp độ quay trở về điểm trung tâm của chất lực. Theo nghĩa tâm linh cảm ứng, kết quả của sự tuôn đổ là sự kích thích tâm thức, và sự thủ đắc (thông qua kích thích đó) các quyền năng tâm linh cảm ứng tiềm tàng trong con người. Ba trung tâm hồng trần cao của y—tuyến tùng, tuyến yên, và trung tâm alta major—được ảnh hưởng, và con người trở nên tâm linh cảm ứng, nhận biết trong bộ não hồng trần về các ảnh hưởng, biến cố và quyền năng cao hơn. Tùy theo cung liên hệ mà trung tâm tương ứng chịu ảnh hưởng. Mãnh lực của các nguyệt tinh quân, vốn đã thành công trong việc giữ ba cơ quan này ở trạng thái yên lặng, bị thay thế, và các Thái dương Thiên Thần tuôn đổ năng lượng của Các Ngài vào.

All this again is closely connected with the threefold energy of the physical body, and produces effects within the spinal column which arouses the kundalini fire at the base of the spine, causing it to mount along the triple spinal channel, again according to ray and aspect involved. More anent this may not here be said, as the dangers of a premature knowledge along this line are far greater than the dangers of ignorance. Suffice it to point out that the fires at the lower centers,—those below the diaphragm—have, by the time the second initiation is reached, usually mounted to the center between the shoulder blades; at the second initiation they rise as far as the head, and all the fires of the torso are then active. All that remains then to do is to centralize them, to produce the necessary geometrical interplay between the seven head centers, and then to focus them all prior to the final liberation in the highest center of all. [887]

Tất cả điều này lại nữa liên hệ chặt chẽ đến năng lượng tam phân của thể hồng trần, và tạo ra những hiệu quả bên trong cột sống đánh thức lửa kundalini ở đáy cột sống, khiến nó dâng lên dọc theo ba ống cột sống, lại nữa theo cung và phương diện liên hệ. Không thể nói nhiều hơn ở đây về điều này, vì các hiểm họa của tri thức sớm sủa trong lãnh vực này lớn hơn nhiều so với hiểm họa của sự vô tri. Chỉ cần chỉ ra rằng các lửa ở các trung tâm thấp—những trung tâm bên dưới cơ hoành—đến khi lần điểm đạo thứ hai đạt được, thường đã dâng lên đến trung tâm giữa hai bả vai; ở lần điểm đạo thứ hai chúng dâng lên đến tận đầu, và mọi ngọn lửa ở thân mình đều lúc ấy hoạt động. Khi ấy chỉ còn lại việc là tập trung chúng, tạo ra giao động hình học cần thiết giữa bảy trung tâm ở đầu, và rồi quy tụ tất cả trước khi giải thoát sau cùng trong trung tâm cao nhất của tất cả. [887]

[Commentary S7S12 Part 2]

4. THE FIRE ELEMENTALS, THE LESSER BUILDERS. CÁC NHÓM HÀNH KHÍ LỬA, NHỮNG VỊ TIỂU KIẾN TẠO

a. Introductory—Mở đầu.

It will be apparent now that in our consideration of the deva Builders, great and small, of the solar system, we have hitherto practically confined ourselves to those who are the functioning agents in the three worlds of human endeavour. We have dealt briefly with the Builders on the evolutionary arc, the greater entities who either have passed through the human kingdom, and therefore have left that stage of evolution behind them in earlier cycles, or are at this time the “solar agents” of human manifestation. All these forms of divine existence represent—in their own place—aspects of positive force. We come now to the consideration of the lesser builders in the three worlds, those who represent the negative aspect of force, being on the involutionary arc, and who are, therefore, the recipients of energy and influences. They are worked upon by energy, and through the activity of the greater Builders are forced into different directions in space, being built into the differing forms. The energy that works upon them, as is well known, emanates from the second aspect, and in their totality they form the great Mother.

Có thể thấy rõ rằng trong khi xem xét những thiên thần kiến tạo, cả lớn và nhỏ, trong hệ mặt trời, chúng ta đã chủ yếu giới hạn mình vào những vị đang hoạt động trong ba cõi của nỗ lực nhân loại. Chúng ta đã đề cập ngắn gọn đến những người kiến tạo trên con đường thăng thượng tiến hoá, các thực thể lớn hơn hoặc đã vượt qua giới nhân loại, và do đó đã đi qua giai đoạn tiến hoá đó ở các chu kỳ trước, hoặc hiện tại là các “đại diện thái dương” của biểu hiện nhân loại. Tất cả các hình thức tồn tại thiêng liêng này biểu thị—tại vị trí riêng của chúng—các phương diện của lực dương. Chúng ta nay đến việc xem xét các Tiểu Kiến Tạo trong ba cõi, những vị biểu thị phương diện lực âm, nằm trên con đường giáng hạ tiến hoá, và do đó, là các tiếp nhận của năng lượng và ảnh hưởng. Chúng bị ảnh hưởng bởi năng lượng, và thông qua hoạt động của những Đấng Đại Kiến Tạo, bị buộc phải đi theo các hướng khác nhau trong không gian, được cấu tạo thành các hình thức khác nhau. Năng lượng tác động lên chúng, như đã được biết rõ, xuất phát từ phương diện thứ hai, và tổng thể của chúng hình thành Đại Mẫu.

I would call to the attention of all students the fact that these lesser builders are literally a “sea of fire” upon which the great breath, or the AUM, takes effect. Each fiery spark, or atom, becomes (through the action of the Word), vitalised with new life, and impregnated with a different type of energy. In the union of the life of atomic substance itself with that which causes the atoms to cohere, and to form vehicles of some kind or another, can be seen demonstrating the “Son of God.” Herein lies the essential duality of all manifestation; this duality is later supplemented by the life of the One Who sounds the Word. Thus is the cosmic incarnation [888] brought about with the three factors entering in. This has been sufficiently dealt with in earlier pages.

Tôi muốn thu hút sự chú ý của tất cả đạo sinh tới thực tế rằng những Tiểu Kiến Tạo này thực sự là một “biển lửa” mà hơi thở vĩ đại, hay AUM, phát huy tác dụng. Mỗi tia lửa rực cháy, hoặc nguyên tử, trở nên (thông qua hành động của Linh từ), được sinh khí bằng đời sống mới, và được thấm nhuần với một loại năng lượng khác nhau. Trong sự kết hợp của đời sống nguyên tử tự thân với điều khiến các nguyên tử cô động lại, và hình thành các vận cụ nào đó, có thể thấy được việc biểu hiện của “Con của Thượng đế.” Ở đây có nhị nguyên tính thiết yếu của tất cả biểu hiện; nhị nguyên tính này sau đó được bổ sung bởi đời sống của Đấng phát Linh từ. Vì thế, sự nhập thể vũ trụ [888] được thực hiện với ba yếu tố xuất hiện. Điều này đã được giải quyết đủ trong các trang trước.

Much that will have to be said will be of a tabulatory nature, and the only way in which students can check up the approximate accuracy of that which is imparted will be through a careful meditation upon:

Nhiều điều cần nói sẽ ở dạng bảng biểu, và cách duy nhất để các đạo sinh có thể kiểm tra độ chính xác gần đúng của những gì được truyền đạt là thông qua việc tham thiền cẩn thận về:

a. The Law of Correspondences.

a. Định luật Tương ứng.

b. The realisable probabilities.

b. Các khả năng có thể nhận ra.

c. The indications in occult literature of a corroborative nature.

c. Các chỉ dẫn trong văn học huyền bí có tính chất xác thực.

Students should remember that we are dealing with involutionary substance, or atomic matter. This atomic matter is living substance, each atom being a tiny life palpitating with the vitality of the third Logos. These lives, being negative energy, are responsive to their polar opposite, and can (under the Law of Attraction and Repulsion) be built into forms which are the expression of the second aspect. Eventually the forms themselves become in their turn negative, and responsive to still another type of force, becoming recipients of the life of the first Logos when the fourth or human kingdom is reached.

Đạo sinh nên nhớ rằng chúng ta đang đề cập đến vật chất giáng hạ tiến hoá, hoặc vật chất nguyên tử. Vật chất nguyên tử này là chất liệu sống, mỗi nguyên tử là một sự sống nhỏ bé rung động với sinh khí của Logos thứ ba. Các sự sống này, là năng lượng âm, phản ứng với đối cực của chúng, và có thể (dưới định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi) được đóng thành các hình thức vốn là biểu hiện của phương diện thứ hai. Cuối cùng, các hình thức tự chúng trở thành âm, và phản ứng với một loại lực khác, trở thành tiếp nhận của đời sống của Logos thứ nhất khi đạt đến giới thứ tư hay giới nhân loại.

This Treatise seeks to prove, that in the fourth kingdom the three fires meet:

Luận này tìm cách chứng minh rằng, trong giới thứ tư, ba ngọn lửa hội tụ:

a. Fire by friction, or the negative Brahma Aspect, the third Aspect.

a. Lửa ma sát, hay Phương diện Brahma âm, Phương diện thứ ba.

b. Solar Fire, or the positive negative Vishnu Aspect, the second Aspect.

b. Lửa Thái dương, hay Phương diện Vishnu âm dương, Phương diện thứ hai.

c. Electric Fire, or the positive Shiva Aspect, the first Aspect.

c. Lửa Điện, hay Phương diện Shiva dương, Phương diện thứ nhất.

Man in the three worlds, consciously or unconsciously, recapitulates the logoic process, and becomes a creator, working in substance through the factor of his positive energy. He wills, he thinks, he speaks, and thought-forms eventuate. Atomic substance is attracted to the enunciator. The tiny lives which compose that substance are forced (through the energy of the thinker), into forms, which are themselves active, vitalised and powerful. What man builds is either a beneficent or a maleficent creation according to the underlying desire, motive, or purpose.

Con người trong ba thế giới, ý thức hay vô thức, tái diễn quá trình của Thượng đế, và trở thành nhà tạo dựng, làm việc trong chất liệu thông qua yếu tố năng lượng dương của mình. Y nghĩ, y nói, và hình tư tưởng xuất hiện. Vật chất nguyên tử bị thu hút đến người phát ngôn. Các sinh vật nhỏ bé cấu thành vật chất đó bị buộc (thông qua năng lượng của người suy nghĩ), thành các hình thức, tự chúng hoạt động, sinh khí và mạnh mẽ. Những gì con người xây dựng là một sự tạo dựng lợi ích hay có hại tùy theo mong muốn cơ bản, động cơ, hay mục đích.

It is essential that we endeavour to make practical what is here to be imparted, as it is useless for man to study the groups of lesser builders, their functions and their names, unless he realises that with many of them he has an intimate connection, being himself one of the great builders, and a creator within the planetary scheme. Men should remember that through the power of their thoughts and their spoken words they definitely produce effects upon other human beings functioning on the three planes of human evolution and upon the entire animal kingdom. The separative and maleficent thoughts of man are largely responsible for the savage nature of wild beasts, and the destructive quality of some of nature’s processes, including certain phenomena, such as plague and famine.

Điều cốt yếu là chúng ta cố gắng làm thực tiễn những gì được phát đạt ở đây, vì vô ích cho con người khi nghiên cứu các nhóm kiến tạo nhỏ hơn, chức năng và tên gọi của chúng, trừ khi y nhận ra rằng với nhiều trong số đó y có sự kết nối mật thiết, trong vai trò một của những người kiến tạo vĩ đại, và là nhà tạo dựng trong kế hoạch hành tinh. Con người nên nhớ rằng, thông qua năng lực suy nghĩ và lời nói của họ, chắc chắn tạo ra những ảnh hưởng lên những con người khác đang hoạt động trên ba cõi tiến hoá nhân loại và trên toàn bộ vương quốc động vật. Những suy nghĩ phân biệt và có hại của con người chủ yếu chịu trách nhiệm cho bản chất hoang dã của các loài dã thú, và chất lượng hủy diệt của một số quá trình tự nhiên, bao gồm các hiện tượng như dịch bệnh và nạn đói.

It is of no value to man to know the names of some of the “army of the voice” unless he comprehends his relationship to that army, unless he apprehends the responsibility which is his to be a beneficent creator, working under the law of love, and not impelled to the creative act through selfish desire, or uncontrolled activity.

Chẳng có giá trị gì cho con người khi biết tên của một số thành viên của “quân đội của tiếng nói” trừ khi y hiểu biết mối quan hệ của mình với quân đội đó, trừ khi y nhận thấy trách nhiệm vốn thuộc về y như một nhà tạo dựng có lợi ích, hoạt động dưới định luật tình thương, và không bị thúc đẩy đến hành động sáng tạo bởi ham muốn ích kỷ, hay hoạt động không kiểm soát.

b. Physical Plane Elementals.—Các Hành Khí trên Cõi Hồng Trần.

It should be remembered that the devas we have been considering are the originators of impulse, and the manipulators of energy in their own degree, and on their own plane. In connection with them are to be found, therefore, the recipients of force, or the multitude of lives of an elemental nature which form the sumtotal of the matter of a plane. These are swept on waves of energy, through the impulse of the Breath, and as the result of [890] vibratory action, into all forms as we know them on the physical plane. Therefore, in connection with manifestation on the physical plane the devas may be divided into three groups:

Cần nhớ rằng những thiên thần chúng ta đã chú ý là những người khởi nguồn xung lực, và những người điều khiển năng lượng trong bậc độ và trên cõi riêng của họ. Trong quan hệ với họ có thể tìm thấy, do đó, các tiếp nhận của lực, hoặc đa số sự sống của một bản chất hành khí vốn tạo thành tổng thể vật chất của một cõi. Chúng bị cuốn theo các làn sóng năng lượng, thông qua xung lực của hơi Thở, và là kết quả của [890] hành động rung động, vào tất cả các hình thức như chúng ta biết chúng trên cõi hồng trần. Do đó, trong quan hệ với sự biểu hiện trên cõi hồng trần, các thiên thần có thể được chia thành ba nhóm:

1. The transmitters of the will of God, the originators of activity in deva substance. These are the greater builders in their various groups.

1. Các người truyền đạt ý chí của Thượng đế, những người khởi nguồn hoạt động trong vật chất thiên thần. Đây là những người kiến tạo vĩ đại trong các nhóm khác nhau của họ.

2. The manipulators of the initiated energy. These are the myriads of workers with force who transmit the impulse in their turn to the elemental essence. They are the builders of lesser degree, but are on the evolutionary arc as are the first group.

2. Các người điều khiển năng lượng khởi nguồn. Những người này là vô số công nhân với lực vốn truyền đạt xung lực lần lượt cho tinh chất hành khí. Họ là những người kiến tạo ở mức độ nhỏ hơn, nhưng nằm trên con đường thăng thượng tiến hoá như nhóm đầu tiên.

3. The recipients of force, the sumtotal of the living substance of a plane. These lives are passive in the hands of the builders of greater degree.

3. Các người tiếp nhận lực, tổng thể của chất liệu sống của một cõi. Những sự sống này bị động trong tay của những người kiến tạo ở mức độ cao hơn.

The three groups to be considered are:

Ba nhóm để được xem xét là:

1. The elementals of densest matter.

1. Các hành khí của vật chất đậm đặc nhất.

2. The elementals of liquid matter.

2. Các hành khí của vật chất lỏng.

3. The elementals of gaseous matter.

3. Các hành khí của vật chất khí.

We must bear in mind as we study these three groups that we are not concerned with the transmitters, but with the manipulators and with the recipients of energy.

Chúng ta phải ghi nhớ khi nghiên cứu ba nhóm này rằng chúng ta không quan tâm đến những người truyền đạt, mà đến những người điều khiển và với những người tiếp nhận năng lượng.

The Elementals of Densest Matter. These are the workers and builders which are concerned with the tangible and objective part of all manifestation. In their totality they literally form that which can be touched, seen, and contacted physically by man. In considering these matters we must never dissociate the various groups in our minds in a too literal sense, for they all interpenetrate and blend, in the same manner as man’s physical body is compounded of dense, liquid, gaseous, and etheric matter. Diversity, producing a unity, is everywhere to be seen; this fact must constantly be borne [891] in mind by the occult student when studying the subhuman forms of existence. There is a distinct danger in all tabulations, for they tend to the forming of hard and fast divisions, whereas unity pervades all.

Các Hành Khí của Vật Chất Đậm Đặc Nhất. Đây là những người công nhân và người kiến tạo đang quan tâm đến phần hữu hình và cụ thể của tất cả biểu hiện. Tổng thể của chúng thực sự hình thành những gì có thể được chạm vào, nhìn thấy, và tiếp xúc vật lý với con người. Khi xem xét những vấn đề này, chúng ta không bao giờ nên tách rời các nhóm khác nhau trong tâm trí mình quá theo nghĩa đen, vì tất cả chúng cùng thâm nhập và hòa lẫn, tương tự như cách mà cơ thể vật lý của con người được cấu thành từ chất đậm đặc, lỏng, khí, và dĩ thái. Sự đa dạng, tạo ra một sự hợp nhất, có thể thấy ở khắp mọi nơi; điều này cần được liên tục ghi nhớ [891] bởi sinh viên huyền bí khi nghiên cứu các hình thức tồn tại cận nhân loại. Có một nguy cơ rõ ràng trong tất cả các bảng biểu, vì chúng có xu hướng hình thành các phân chia cứng nhắc, trong khi sự hợp nhất lan tỏa tất cả.

Among the manipulating devas of the lowest level of the dense physical plane are to be found certain subterranean forms of existence, of which hints are to be found in the ancient and occult books. There is to be found in the very bowels of the earth, an evolution of a peculiar nature, with a close resemblance to the human. They have bodies of a peculiarly gross kind, which might be regarded as distinctly physical as we understand the term. They dwell in settlements, or groups, under a form of government suited to their needs in the central caves several miles below the crust of the earth. Their work is closely connected with the mineral kingdom, and the “agnichaitans” of the central fires are under their control. Their bodies are constituted so as to stand much pressure, and they are not dependent upon as free a circulation of air as man is, nor do they resent the great heat to be found in the earth’s interior. Little can here be communicated anent these existences, for they are connected with the lesser vital portions of the physical body of the planetary Logos, finding their microcosmic correspondence in the feet and legs of a man. They are one of the factors which make possible the revolutionary progressive activity of a planet.

Trong số những thiên thần điều khiển ở mức thấp nhất của cõi vật lý đậm đặc là các dạng tồn tại ngầm dưới lòng đất, có những gợi ý có thể được tìm thấy trong các sách cổ xưa và huyền bí. Có thể tìm thấy trong các lớp sâu nhất của Trái Đất, một tiến hóa của một bản chất đặc biệt, với một sự tương đồng gần gũi với con người. Họ có cơ thể thuộc loại thô bỉ đặc biệt, có thể được coi là vật lý một cách rõ ràng như chúng ta hiểu thuật ngữ này. Họ sống trong các khu định cư, hoặc các nhóm, dưới một hình thức cai trị phù hợp với nhu cầu của họ trong các hang động trung tâm, một vài dặm dưới lớp vỏ Trái Đất. Công việc của họ được gắn kết chặt chẽ với giới khoáng vật, và “agnichaitans” của các lửa trung tâm dưới sự kiểm soát của họ. Cơ thể của họ được cấu thành sao cho chịu đựng được áp lực lớn, và họ không phụ thuộc vào một sự tuần hoàn không khí tự do như con người, cũng không phản đối nhiệt độ cao tìm thấy bên trong Trái Đất. Ít có gì có thể được truyền đạt ở đây về những tồn tại này, vì họ liên quan đến các phần sống nhỏ hơn của thể vật lý của Logos hành tinh, tìm thấy sự tương ứng vi mô của chúng trong đôi chân và cánh tay của con người. Họ là một trong những yếu tố khiến hoạt động cách mạng tiến bộ của một hành tinh trở nên khả thi.

Allied with them are several other groups of low class entities, whose place in the scheme of things can only be described as having relation to the grosser planetary functions. Little is gained by enlarging upon these lives and their work; it is not possible for man in any way to contact them, nor would it be desirable. When they have pursued their evolutionary cycle, they will take their place in a later cycle in the ranks of certain deva bodies that are related to the animal kingdom. [892]

Hợp tác với họ là các nhóm thực thể hạ cấp khác, vị trí của chúng trong kế hoạch thiêng liêng chỉ có thể được mô tả là có liên quan đến các chức năng hành tinh thô bỉ nhất. Ít có gì có thể thu được từ việc mở rộng về những sự sống và công việc của chúng; không thể nào con người có thể tiếp xúc với chúng theo bất kỳ cách nào, cũng không mong muốn điều đó. Khi chúng đã theo đuổi chu kỳ tiến hóa của mình, chúng sẽ chiếm vị trí trong một chu kỳ sau tại hàng ngũ các cơ thể thiên thần cụ thể liên quan đến giới động vật. [892]

It is commonly supposed that all the fairies, gnomes, elves, and like nature spirits are to be found solely in etheric matter, but this is not so. They are to be found in bodies of gaseous and liquid substance likewise, but the mistake has arisen for the reason that the basis of all that which can be objectively seen is the etheric structure, and these little busy lives frequently protect their dense physical activities through the agency of glamour, and cast a veil over their objective manifestation. When etheric vision is present then they can be seen, for the glamour, as we understand it, is only a veil over that which is tangible.

Thường cho rằng tất cả các nàng tiên, gnomes, tiên elf, và các tinh linh thiên nhiên tương tự chỉ có thể tìm thấy trong chất liệu dĩ thái, nhưng điều này không đúng. Chúng có thể được tìm thấy trong các thân thể của chất liệu khí và chất liệu lỏng cũng vậy, nhưng có sự nhầm lẫn nảy sinh do cơ cấu cơ bản của tất cả những gì có thể được thấy rõ là cấu trúc dĩ thái, và những sự sống nhỏ bé bận rộn này thường bảo vệ các hoạt động vật lý đậm đặc của chúng thông qua tác nhân ảo cảm, và che phủ biểu hiện cụ thể của chúng. Khi tầm nhìn dĩ thái hiện diện thì chúng có thể được thấy, vì ảo cảm, như chúng ta hiểu, chỉ là một tấm màn che phủ cái hữu hình.

Students must at this juncture remember that all dense physical forms, whether of a tree, an animal, a mineral, a drop of water, or a precious stone, are in themselves elemental lives constructed of living substance by the aid of living manipulators, acting under the direction of intelligent architects. It will immediately become apparent why it is not possible in any way to tabulate in connection with this particular lowest group. A beautiful diamond, a stately tree, or a fish in the water are but devas after all. It is the recognition of this essential livingness which constitutes the basic fact in all occult investigation, and is the secret of all beneficent magic. It is not my purpose, therefore, to deal more specifically with these lowest forms of divine life, except to impart two facts, and thus give indication of the solution of two problems which have oft disturbed the average student; these are, first, the problem as to the purpose of all reptilian life, and, secondly, the specific connection of the bird evolution with the deva kingdom.

Sinh viên cần vào lúc này nhớ rằng tất cả các hình thức vật lý đậm đặc, dù là của một cây, một động vật, một khoáng vật, một giọt nước, hay một viên đá quý, đều tự thân chúng là các sự sống hành khí được cấu thành từ chất liệu sống nhờ sự giúp đỡ của những người điều khiển sống động, hoạt động dưới sự chỉ đạo của các kiến trúc sư thông minh. Ngay lập tức trở nên rõ ràng tại sao không thể tabulate theo bất kỳ cách nào trong mối liên hệ với nhóm thấp nhất này. Một viên kim cương đẹp, một cây to lớn, hoặc một con cá dưới nước chỉ là các thiên thần sau tất cả. Chính sự nhận thức về sự sống thiết yếu này cấu thành sự kiện cơ bản trong tất cả nghiên cứu huyền học, và là bí mật của tất cả huyền thuật lợi ích. Vì vậy, không phải mục đích của tôi để đề cập cụ thể hơn đến những hình thức thấp nhất của đời sống thiêng liêng này, ngoại trừ việc truyền đạt hai sự thật, và do đó đưa ra chỉ dẫn về giải pháp của hai vấn đề mà thường đã làm xáo trộn đạo sinh trung bình; đó là, đầu tiên, vấn đề về mục đích của tất cả đời sống bò sát, và thứ hai, sự kết nối cụ thể của sự tiến hóa loài chim với vương quốc thiên thần.

The secret of the reptile kingdom is one of the mysteries of the second round, and there is a profound significance connected with the expression “the serpents of wisdom” which is applied to all adepts of the good law. [893] The reptile kingdom has an interesting place in all mythologies, and all ancient forms of truth impartation, and this for no arbitrary reason. It is not possible to enlarge upon the underlying truth which is hidden in the karmic history of our planetary Logos, and is revealed as part of the teaching given to initiates of the second degree.

Bí mật của vương quốc bò sát là một trong những bí ẩn của vòng tiến hóa thứ hai, và có một ý nghĩa sâu sắc liên quan đến biểu hiện “những con rắn của minh triết” được áp dụng cho tất cả các chân sư của luật lệ tốt lành. [893] Vương quốc bò sát có một vị trí thú vị trong tất cả huyền thoại học, và tất cả các hình thức truyền đạt chân lý cổ xưa, và điều này không phải là vì lý do tùy tiện. Không thể mở rộng về chân lý tiềm ẩn mà được giấu kính trong lịch sử nghiệp quả của hành tinh Logos của chúng ta, và được tiết lộ như một phần của giáo lý được truyền đạt cho các người đã tham gia điểm đạo độ thứ hai.

The second great life impulse, or life wave, initiated by our planetary Logos, when brought in conjunction with the first, was the basis of that activity which we call evolutionary energy; it resulted in a gradual unrolling, or revelation, of the divine form. The heavenly serpent manifested, being produced out of the egg, and began its convolutions, gaining in strength and majesty, and producing through its immense fecundity millions of lesser “serpents.” The reptile kingdom is the most important part of the animal kingdom in certain aspects, if such an apparently contradictory statement can be made. For all animal life can be seen passing through it during the prenatal stage, or returning to it when the form is in advanced decomposition. The connection is not purely a physical one, but it is also psychic. When the real nature and method of the kundalini, or serpent fire, is known, this relation will be better understood, and the history of the second round assume a new importance.

Xung lực đời sống thứ hai, hoặc làn sóng đời sống, được khởi xướng bởi Logos hành tinh của chúng ta, khi được kết hợp với xung lực đầu tiên, là nền tảng của hoạt động mà chúng ta gọi là năng lượng tiến hóa; nó dẫn đến việc dần dần mở ra, hoặc mặc khải, của hình thức thiêng liêng. Con rắn thiên đàng hiện ra, được sinh ra từ trứng, và bắt đầu cuộn xoắn, thu được sức mạnh và sự vĩ đại, và sản sinh qua sức sinh sản vô hạn của nó hàng triệu “rắn” nhỏ hơn. Ở một số khía cạnh nhất định, vương quốc bò sát là phần quan trọng nhất của giới động vật, nếu có thể có một tuyên bố mâu thuẫn rõ ràng như vậy. Vì tất cả sự sống động vật có thể thấy được đi qua nó trong giai đoạn tiền sinh, hoặc trở lại với nó khi hình thức ở giai đoạn phân hủy tiến bộ. Sự kết nối không chỉ là thuần túy vật lý, mà còn là hàm xúc cảm. Khi bản chất thực sự và phương pháp của kundalini, hoặc lửa rắn, được biết đến, mối quan hệ này sẽ được hiểu rõ hơn, và lịch sử của vòng tiến hóa thứ hai sẽ trở nên quan trọng mới.

The secret of life lies hidden in the serpent stage,—not the life of the Spirit, but the life of the soul, and this will be revealed as the “serpent of the astral light” is truly approached, and duly studied. One of the four Lipika Lords, Who stand nearest to our planetary Logos, is called “The Living Serpent,” and His emblem is a serpent of blue with one eye, in the form of a ruby, in its head. Students who care to carry the symbology a little further can connect this idea with the “eye of Shiva” which sees and knows all, and records all, as [894]does the human eye in lesser degree; all is photographed upon the astral light, as the human eye receives impressions upon the retina. The same thought is frequently conveyed in the Christian Bible, in the Hebrew and Christian recognition of the all-seeing eye of God. The application and value of the hints here given may be apparent if the subject of the third eye is studied, and its relation to the spine, and the spinal currents investigated. This third eye is one of the objects of kundalinic vivification, and in the spinal territory there is first the centre at the base of the spine, the home of the sleeping fire. Next we have the triple channel along which that fire will travel in due course of evolution, and finally we find at the summit of the column, and surmounting all, that small organ called the pineal gland, which when vivified causes the third eye to open, and the beauties of the higher, subtler planes to stand revealed. All this physico-psychical occurrence is possible to man owing to certain events which happened to the Heavenly Serpent in the second, or serpent, round. These happenings necessitated the formation and evolution of that peculiar and mysterious family we call the reptilian. These forms of divine life are very intimately connected with the second planetary scheme, being responsive to energy emanating from that scheme, and reaching the earth via the second globe in the second chain. A group of special devas (connected with a particular open sound in the planetary Word), work with the reptile evolution.

Bí mật của sự sống ẩn giấu trong giai đoạn con rắn,—không phải là đời sống của Tinh thần, mà là đời sống của linh hồn, và điều này sẽ được tiết lộ khi “con rắn của ánh sáng cảm dục” thực sự được tiếp cận, và được nghiên cứu đúng đắn. Một trong bốn Chúa tể Lipika, đứng gần nhất với Logos hành tinh của chúng ta, được gọi là “Con Rắn Sống,” và biểu tượng của Ngài là một con rắn xanh với một mắt, dưới hình dạng một viên hồng ngọc, trên đầu của nó. Sinh viên nào muốn mang biểu tượng này xa hơn có thể liên kết ý tưởng này với “mắt của Shiva” vốn nhìn và biết tất cả, và ghi lại tất cả, như  người mắt loài người ghi nhận ấn tượng lên võng mạc. Cùng tư tưởng này thường được truyền đạt trong Kinh Thánh Cơ Đốc,  trong nhận thức Hebrew và Cơ Đốc về mắt toàn thấy của Thượng đế. Ứng dụng và giá trị của các gợi ý ở đây có thể trở nên rõ ràng nếu   chủ đề về mắt thứ ba được nghiên cứu, và mối liên hệ của nó với   xương sống, và dòng năng lượng dọc theo cột sống được điều tra. Mắt thứ ba này là một trong những đối tượng  của sự sinh động hóa kundalinic, và trong lãnh thổ xương sống có đầu tiên là trung tâm ở đáy cột sống,   nơi mà lửa ngủ. Tiếp theo là dòng ba dọc theo đó  lửa sẽ di chuyển trong tiến trình tiến hóa, và cuối cùng  chúng ta tìm thấy tại đỉnh của cột, và trên tất cả, cơ quan nhỏ bé gọi là   tuyến tùng, khi được sinh động hóa khiến mắt thứ ba   mở, và làm cho các cõi giới cao hơn, tinh   nhạy hơn được tỏ rõ. Tất cả sự kiện vật lý-tinh cảm này  có thể đối với con người nhờ vào một số sự kiện đã xảy ra với Con Rắn Thiên Đàng  trong vòng thứ hai, hoặc vòng tiến hóa của loài rắn. Những sự kiện này  buộc phải hình thành và tiến hóa ra khỏi dòng dõi đặc biệt và bí ẩn mà chúng ta gọi là dòng dõi loài bò sát. Các hình   thái của đời sống thiêng liêng này có mối liên hệ rất thân mật với hệ hành tinh thứ hai,   phản ứng với năng lượng phát ra từ hệ đó, và   đến Trái Đất thông qua bầu số hai trong dãy thứ hai.   Một nhóm thiên thần đặc biệt (liên kết với một âm   mở cụ thể trong Linh từ hành tinh), làm việc với sự tiến hóa của loài bò sát.

It should be noted here that this evolution on the etheric planes has a closer effect upon man than on the physical. If students will apply themselves to the consideration of these facts, to the investigation of the serpent lore in all lands, mythologies and scriptures, and if they will link up all this knowledge with that concerning those heavenly constellations which have a serpent appellation (such as, for instance, the Dragon), much [895] illumination may come. If the intuition suffices, knowledge may then be imparted which will make clearer the connection between the physical bodies with their centres, and the psychic nature.

Nên lưu ý ở đây rằng sự tiến hóa này trên các cõi dĩ thái có ảnh hưởng chặt chẽ hơn đến con người hơn là trên phương diện vật lý.   Nếu sinh viên có thể áp dụng bản thân vào việc xem xét những sự kiện này, điều tra về huyền thoại con rắn ở tất cả   các quốc gia, thần thoại và kinh điển, và nếu họ liên kết tất cả kiến thức này với các chòm sao thiên đường vốn có danh hiệu là   rắn (như, chẳng hạn, Rồng), có thể đến được nhiều   sự soi sáng[895]. Nếu trực giác đủ, kiến thức có thể được truyền đạt để làm cho sự kết nối trở nên rõ ràng   hơn giữa các hình thể vật lý với các trung tâm, và bản chất tâm linh.

The bird kingdom is specifically allied to the deva evolution. It is the bridging kingdom between the purely deva evolution and two other manifestations of life.

Vương quốc chim cụ thể kết hợp với sự tiến hoá thiên thần. Đó là vương quốc cầu nối giữa sự tiến hoá thiên thần thuần túy và hai sự biểu hiện khác của sự sống.

First. Certain groups of devas who desire to pass into the human kingdom, having developed certain faculties, can do so via the bird kingdom, and certain devas who wish to get in communication with human beings can do so via the bird kingdom. This truth is hinted at in the Christian Bible and Christian religious representations by angels or devas being frequently represented as having wings. These cases are not many, as the usual method is for the devas gradually to work themselves towards individualisation through expansive feeling, but in the cases which do occur these devas pass several cycles in the bird kingdom, building in a response to a vibration which will ultimately swing them into the human family. In this way they become accustomed to the use of a gross form without the limitations, and impurities, which the animal kingdom engenders.

Thứ nhất. Một số nhóm thiên thần nào đó muốn bước vào giới nhân loại, đã phát triển một số năng lực, có thể  làm điều này thông qua vương quốc loài chim, và một số  thiên thần muốn giao tiếp với con người có thể làm điều này qua vương quốc loài chim. Sự thật này được gợi ý trong  Kinh Thánh Cơ Đốc và các biểu tượng tôn giáo Cơ Đốc bằng cách đại diện cho các thiên thần hoặc các deva thường có cánh.  Những trường hợp này không nhiều, vì phương pháp thường được sử dụng là các thiên thần dần dần làm việc để hướng tới sự cá nhân hóa thông qua cảm giác mở rộng, tuy nhiên trong những trường hợp xảy ra, các thiên thần này trải qua một số chu kỳ  trong vương quốc loài chim, xây dựng trong phản ứng  với một rung động mà cuối cùng sẽ cuốn họ vào trong  gia đình con người. Theo cách này, họ làm quen với việc  sử dụng một dạng thô nháp mà không có sự hạn chế, và ô nhiễm,  mà giới động vật tạo ra.

Second. Many devas pass out of the group of passive lives in the effort to become manipulating lives via the bird kingdom, and before becoming fairies, elves, gnomes, or other sprites, pass a certain number of cycles in the bird realm.

Thứ hai. Nhiều thiên thần bước ra khỏi nhóm sự sống  bị động trong nỗ lực trở thành những sự sống điều khiển thông qua  vương quốc loài chim, và trước khi trở thành các tiên,  gấu nhỏ, yêu tinh, hoặc những linh thồn khác, trải qua  một số chu kỳ trong vương quốc loài chim.

Why the two above events occur will not be apparent to the casual reader, nor will the true connection between the birds and the devas be accurately realised by the occult student unless he applies himself to the consideration of the “bird or swan out of time and space,” and the place that birds play in the mysteries. Herein lies for him the clue. He must remember likewise the fact that every life of every degree, from a god to the most [896] insignificant of the lesser devas, or builders, must at some time or another pass through the human family.

Tại sao hai sự kiện trên xảy ra sẽ không rõ ràng đối với  người đọc bình thường, cũng như mối quan hệ thực sự giữa các loài chim và các thiên thần sẽ không  được nhận thức chính xác bởi đạo sinh huyền bí trừ khi y áp dụng bản thân vào việc xem xét “con chim hoặc thiên nga ngoài thời gian và không gian”,  và vai trò của các loài chim trong các bí ẩn. Ở đây là mấu chốt cho y. Y cũng phải nhớ sự thật rằng mỗi sự sống của mỗi cấp bậc,  từ một vị thần đến người nhỏ nhất[896], hoặc ít ấn tượng nhất của các deva nhỏ hơn, hoặc những người kiến tạo, phải vào một lúc nào đó trải qua gia đình nhân loại.

As H. P. B. has pointed out,  [cclxxix]80 birds and serpents are closely connected with wisdom, and therefore with the psychic nature of God, of men, and of devas. The study of mythology should reveal certain stages and relationships which will make this matter clearer.

Như H.P.B. đã chỉ ra, [cclxxix]80 chim và rắn liên kết chặt chẽ với sự minh triết, và do đó với  bản chất tâm linh của Thượng Đế, của con người, và của các thiên thần. Việc nghiên cứu  về thần thoại sẽ tiết lộ một số giai đoạn và mối  quan hệ làm rõ vấn đề này.

[Commentary S7S13 Part 1]

The Elementals and Lesser Devas of Liquid Matter. A very interesting illustration of the interpenetration of all the living matter of creation can be seen in connection with the atmosphere surrounding our planet. In it is to be found:

Các Hành Khí và Các Deva Nhỏ Hơn của Vật Chất Lỏng. Một minh chứng rất thú vị về sự thâm nhập của tất cả chất liệu sống của sự sáng tạo có thể thấy được trong  sự liên kết với bầu không khí xung quanh hành tinh  của chúng ta. Trong đó có thể tìm thấy:

a. Moisture, or those living essences which are the liquid elementals.

a. Độ ẩm, hoặc các tinh chất sống vốn là  những hành khí lỏng.

b. Gaseous substance, or those lives which are linked to all fiery essences, being volatile and the result of heat.

b. Chất khí, hay những sự sống liên kết  với tất cả các tinh chất lửa, có tính chất bay hơi và là  kết quả của nhiệt.

c. Etheric matter, or the lowest orders of the devas of the ethers.

c. Vật chất dĩ thái, hoặc các cấp bậc thấp nhất của  các deva của các ether.

This major triplicity, when in conjunction, produces that which we breathe, and that in which we live and move and have our being. To the thoughtful student the air is full of symbology, for it is a synthesis, and that which bridges the higher and the lower strata of manifestation.

Bộ ba lớn này, khi kết hợp, tạo ra cái mà chúng ta  hít thở, và cái mà trong đó chúng ta sống và di chuyển và có  chính hữu thể của chúng ta. Đối với đạo sinh suy tư,  không khí tràn đầy biểu tượng, vì nó là một sự tổng hợp,  và cái nối kết các cấp cao hơn và mức thấp hơn  của biểu hiện.

We must centre our attention first upon those lives which constitute the sumtotal of all that is watery, and liquid throughout manifestation, and in dealing with this we must remember that we are concerned with the most occult of investigations, and with matters which are very closely connected with man’s evolution.

Chúng ta phải tập trung sự chú ý của mình đầu tiên lên  những sự sống vốn cấu thành tổng thể của tất cả  những gì ướt át, và lỏng xuyên suốt biểu hiện,  và khi đối phó với điều này, chúng ta phải nhớ rằng chúng  ta đang quan tâm đến những nghiên cứu huyền bí nhất, và  với các vấn đề rất gần gũi với sự tiến hóa của con người.

The many groups of the water devas of the manipulatory class have been roughly grouped by mythological writers, under the terms undines, mermaids, and other [897] expressions, but their diversity is great, and this will be necessarily apparent when it is remembered that the sumtotal of water upon the earth (oceans, seas, rivers, lakes and streams), far exceeds the dry portion, or land, and every drop of moisture is in itself a tiny life, fulfilling its function and running its cycle. The mythic forms above referred to are but those myriad lives built into a form through which an evolutionary deva is seeking expression.

Nhiều nhóm deva nước của lớp điều khiển đã được  xếp gộp sơ bộ bởi các nhà văn thần thoại, dưới các  thuật ngữ như undines, mỹ nhân ngư, và các biểu hiện  khác[897], nhưng sự đa dạng của chúng là rất lớn, và điều này  sẽ rõ ràng cần thiết khi nhớ rằng tổng số nước trên  Trái Đất (các đại dương, biển, sông, hồ và suối)  vượt xa phần đất liền, hoặc đất, và mỗi giọt  ẩm là một sự sống nhỏ bé, thực thi chức năng của nó và  chạy qua chu kỳ của nó. Các dạng thần thoại được đề cập ở  trên chỉ là những sự sống vô số được xây dựng thành một  dạng thông qua đó một deva tiến hóa đang tìm kiếm sự biểu hiện.

The extreme interest of this subject might be expressed under certain statements which will give the student some idea of the close attention which should, and eventually will be paid to this subject of the deva lives of watery manifestation. As said above, the aggregate of these lives is greater than the aggregate of those lives which form the sum total of solid earth as we understand the term, even though they do not exceed the number of lives which form the gaseous portion of manifestation; this gaseous portion is found in the atmosphere, interpenetrating dense matter, and filling in a large degree the interior caverns of the planet. The microcosmic resemblance to the great Life of the planet is seen in the fact that both forms are but outer sheaths or frameworks, sheltering an inner “vault”; both forms are hollow, both have their negative and positive extremities, their poles, so to speak, and internally much proceeds affecting the outer evolutions.

Sự thú vị cực kỳ của chủ đề này có thể  thể hiện dưới một số tuyên bố sẽ cho đạo sinh  một ý niệm về sự chú trọng chặt chẽ mà cần thiết phải có, và  sẽ làm sáng tỏ chủ đề lives của deva  biểu hiện dưới dạng nước. Như đã nói trên, tổng  thể của những sự sống này vượt quá số lượng những hành khí  cấu thành tổng số vật chất rắn trên Trái Đất mà  chúng ta hiểu thuật ngữ, mặc dù chúng không vượt qua số lượng  người kiến tạo các phần khí, bởi vì các phần khí  này được tìm thấy trong bầu không khí, thâm nhập vào vật chất đậm đặc, và  lấp đầy phần lớn các hang động trong lòng  hành tinh. Sự tương đồng vi mô với Sự sống  lớn của hành tinh có thể thấy trong thực tế rằng  cả hai hình thức chỉ là vỏ ngoài hoặc khuôn khổ bên trong, chứa đựng  một “vault” bên trong; cả hai hình thức đều rỗng, cả hai đều có  các cực âm và dương, các cực, có thể nói, và bên trong một số điều nhiều tiến triển xảy ra ảnh hưởng đến các  biến đổi bên ngoài.

One of the most occult of the planets, Neptune, presides over the “devas of the waters”; their presiding deva Lord, Varuna, the Raja of the astral plane, being an emanation from that planet. Students will find it of profound interest to study the close interaction therefore between:

Một trong những hành tinh huyền bí nhất, Neptune,  chủ trì “các deva của các dòng nước”; chúa  tể deva chủ trì của họ, Varuna, Raja của cõi cảm dục,  là một phát xạ từ hành tinh đó. Các sinh viên sẽ  tìm thấy quan tâm sâu sắc đến việc nghiên cứu sự tương tác gần gũi giữa:

1. The sixth plane, the astral plane, and the sixth subplane of the physical plane, the liquid subplane. [898]

1. Cấp độ thứ sáu, cõi cảm dục, và cấp độ phụ thứ sáu của  cõi hồng trần, cấp độ phụ lỏng. [898]

2. The sixth subplane of each plane in the solar system, and their relation to each other.

2. Cấp độ phụ thứ sáu của mỗi cõi trong hệ mặt trời,  và mối quan hệ giữa chúng.

Herein will be found one reason why men of a relatively low type of physical body, and having an astral body with some sixth subplane matter in it are responsive to higher things and have a spiritual aspiration. The influence emanating from the sixth subplane of the buddhic plane calls out a reciprocal response from the sixth subplane matter in other bodies, and the sixth principle of buddhi under the Law of Correspondences intensifies that vibration.

Ở đây sẽ tìm thấy một lý do tại sao những người đàn ông  có cơ thể vật lý tương đối thấp, và có cơ thể cảm dục có  một số vật chất cấp độ phụ thứ sáu trong đó đều phản ứng với những điều cao hơn và có một  khao khát tinh thần. Ảnh hưởng phát ra từ cấp độ phụ thứ sáu của cõi Bồ đề kêu gọi một phản ứng tương ứng  từ vật chất cấp độ phụ thứ sáu trong các cơ thể khác,  và nguyên lý thứ sáu của bồ đề dưới Định luật Tương ứng tăng cường rung động đó.

The name Neptune is one under which the planetary Logos of one of the major three schemes is known upon our planet. Certain of His influences and energies affect paramountly the deva essence of this sixth subplane matter, reaching them via the Raja Lord Varuna. This knowledge is of practical value astrologically, for it will enable men to understand the nature of their own physical bodies, and above all of their astral bodies. It is an occult fact that the type of astral matter in a man’s body decides the quality of the watery substance of his physical body. There is, in occultism, no dissociating the physico-psychic natures, for the latter determines the former. The planet Neptune therefore has a profound effect and a close connection under the Law of Correspondences with the sixth, or astral plane, which is the plane of the liquid portion of the logoic physical body, with the sixth subplane of the physical plane, or with the liquid portion of the human physical body and of the planetary physical body, also with the sixth type of energy or force, or the sixth ray.

Tên Neptune là một tên mà Logos hành tinh của một trong ba hệ thống lớn được biết đến trên hành tinh của chúng ta.  Một số ảnh hưởng và năng lượng của Ngài ảnh hưởng  quan trọng nhất đến bản chất deva của cấp độ phụ thứ sáu  này, thông qua Chúa tể Raja Varuna. Kiến thức này có giá trị thực tế về mặt chiêm tinh học, vì nó sẽ cho phép các người đàn ông hiểu rõ về bản chất cơ thể vật lý của họ,  và hơn hết là về cơ thể cảm dục của họ. Thực tế về huyền bí rằng loại vật chất cảm dục trong cơ thể của một người quyết định chất lượng của phần chất lỏng của cơ thể vật lý của anh ta. Trong huyền học, không có sự phân tách  giữa các bản chất vật lý-tâm lý, vì bản chất sau  quy định bản chất trước đó. Hành tinh Neptune vì vậy  có ảnh hưởng sâu sắc và một mối quan hệ gần gũi dưới  Định luật Tương ứng với cấp độ cảm dục thứ sáu, là cõi lỏng của  thể vật lý logoic, với cấp độ phụ thứ sáu  của cõi hồng trần, hoặc phần lỏng của cơ thể vật lý nhân loại và của cơ thể vật lý hành tinh,  cũng như với loại năng lượng hoặc lực thứ sáu,  hoặc cung thứ sáu.

The major scheme over which Neptune presides forms a systemic triangle of great interest for esoteric astrologers with the sixth scheme and one other. This is symbolised in the three pronged trident which the god Neptune [899] is always portrayed as holding, the prongs being literally the symbolic triangles connected with each other by three lines of force.

Hệ thống lớn mà Neptune chủ trì hình thành một tam giác hệ thống thú vị cho các nhà chiêm tinh bí truyền với hệ thống  thứ sáu và một hệ thống khác. Điều này được biểu thị trong  cái ba chạc luôn được mô tả là thuộc về thần  Neptune [899], với các chạc vốn thực sự là các tam giác  biểu tượng kết nối với nhau bởi ba dòng lực.

This planet has also a vital relation to the sixth logoic principle, or Buddhi, and therefore the sixth principle of man. No man begins to co-ordinate the buddhic vehicles until he comes under Neptunian influence in some life or another. When this is the case, his personality horoscope will show Neptunian influence dominating somewhere.

Hành tinh này cũng có mối quan hệ quan trọng với  nguyên lý logoic thứ sáu, hoặc Bồ đề,  và do đó với nguyên lý thứ sáu của con người. Không ai bắt đầu  điều phối các phương tiện bồ đề cho đến khi anh ta chịu ảnh hưởng  của Neptune trong một cuộc đời nào đó. Khi điều này xảy ra, lá số tử vi cá nhân của anh ta sẽ cho thấy ảnh hưởng của  Neptunian chi phối ở đâu đó.

The Neptunian scheme governs one of the three paths of return, and gathers to itself eventually all those Egos who attain primarily through the manipulation of the sixth type of energy usually called devotion. It is Neptunian influence likewise which presides over and makes possible the second Initiation, wherein the initiate produces results in the astral body, and wherein his astral centres are the object of the Hierophant’s attention. This particular type of energy flows through three centres:

Hệ thống Neptunian điều hành một trong ba con đường trở về, và  nó cuối cùng tập hợp tất cả những Linh hồn đạt  được chủ yếu thông qua việc điều khiển loại năng lượng thứ  sáu thường được gọi là sự tận tụy. Cũng chính ảnh hưởng của  Neptunian điều hành và làm cho có thể Cuộc Điểm Đạo thứ hai,  nơi mà người điểm đạo tạo ra kết quả trong cơ thể cảm dục,  và nơi mà các trung tâm cảm dục của anh ta là đối tượng của sự chú ý  của Hierophant. Loại năng lượng đặc biệt này chảy qua ba trung tâm:

a. That particular head centre which is linked to the heart centre.

a. Trung tâm đầu liên kết với trung tâm trái tim.

b. The heart centre.

b. Trung tâm trái tim.

c. The solar plexus.

c. Tùng thái dương.

The planet Neptune, along with the planetary Logos of the sixth ray controls the astral centres in man. This statement involves much esoteric macrocosmic significance. When it is remembered that all centres—human and divine—are composed of deva essence, the connection between this influence and the devas, and their reflex effect upon man, will immediately become apparent.

Hành tinh Neptune, cùng với Logos hành tinh của cung thứ sáu điều khiển các trung tâm cảm dục của con người. Tuyên bố này  liên quan đến nhiều ý nghĩa vĩ mô vi tế. Khi nhớ rằng tất cả các trung tâm—nhân loại và thiêng liêng—được cấu thành từ tinh chất  deva, sự kết nối giữa ảnh hưởng này và các  deva, và hiệu ứng phản chiếu của chúng  trên con người, sẽ trở nên rõ ràng ngay lập tức.

In the mystery of the sea and the secret of its occult “drying up” or absorption, will be revealed eventually the significance underlying: [900]

Trong bí mật của biển cả và bí mật về sự “sấy khô” hoặc hấp  thụ huyền bí của nó, sẽ được tiết lộ về trường  ý nghĩa dưới: [900]

a. The sex impulse, macrocosmically and microcosmically interpreted.

a. Xung lực tình dục, được giải thích theo cả vĩ mô và vi mô.

b. The cessation of desire.

b. Sự chấm dứt của dục vọng.

c. The direction of fire to the throat centre instead of to the generative organs.

c. Sự hướng dẫn của lửa đến trung tâm cổ họng thay vì đến các cơ quan sinh sản.

d. Pralaya and obscuration.

d. Pralaya và ám muội.

e. The meaning of the words “There shall be no more sea” found in the Christian Bible.

e. Ý nghĩa của các từ “Biển sẽ không còn” tìm thấy trong  Kinh Thánh Cơ Đốc.

When meditating upon these thoughts, students will find it well to bear in mind the fact that Neptune is one of the major or synthesising planets, that it is an “absorbing” or “abstracting” planet, and that it is connected with the process whereby eventual perfection is demonstrated. The Son is made perfect, and the cosmic incarnation is brought to a close.

Khi thiền về những suy nghĩ này, đạo sinh sẽ thấy tốt  khi nhớ rằng Neptune là một trong những hành tinh  lớn hay tổng hợp, rằng nó là một hành tinh “hấp thụ”  hoặc “trừu tượng hóa”, và rằng nó liên quan đến  quá trình mà sự hoàn hảo cuối cùng được chứng minh.  Đức Con được hoàn thiện, và sự nhập thể vũ trụ được kết thúc.

There is again a very close esoteric connection between the fact lying behind the Biblical words “the Spirit of God moved upon the face of the waters,”  [cclxxx]81 and the ordered lawful activity of the Great Mother as she performs her work of body-building under the impulse of desire. The true relation between the astral plane and the physical plane will only become apparent as students carefully bear in mind that the astral plane of the solar system is the sixth subplane of the cosmic physical plane, and constitutes the sumtotal of the liquid substance of the logoic physical body. When this is realised, the work of the deva essence takes due place; the factor of desire, or of astral motion, and its reflex action upon the physical body via the sixth subplane will become apparent, and the Great Mother will be seen actively engaged, under the influence of desire, in the work of building, nourishing, and producing that warmth and moisture which make manifestation possible. The Mother is the greatest of the devas, and closely linked [901] with the devas of the waters, for moisture of some kind or another is an essential to all life.

Có một sự kết nối huyền bí gần gũi nữa giữa sự  thực tế nằm sau lời trong Kinh Thánh “Thần của Chúa làu dọc trên bề mặt nước,” [cclxxx]81 và hoạt  động hợp pháp có trật tự của Mẹ Lớn khi bà thực hiện công việc xây dựng cơ thể dưới tác động  của dục vọng. Mối quan hệ thực sự giữa cõi cảm dục  và cõi hồng trần sẽ chỉ trở nên rõ ràng khi đạo  sinh cẩn thận ghi nhớ rằng cõi cảm dục của hệ mặt  trời là cấp độ phụ thứ sáu của cõi thể chất vũ trụ,  và cấu thành tổng số chất lỏng của thân thể thể vật lý  logoic. Khi điều này được nhận ra, công việc của tinh  chất deva được đặt vào đúng chỗ; yếu tố  dục vọng, hoặc chuyển động cảm dục, và tác động phản chiếu  của nó trên cơ thể vật lý qua cấp độ phụ thứ sáu sẽ  trở nên rõ ràng, và Mẹ Lớn sẽ được nhìn thấy  hoạt động tích cực, dưới ảnh hưởng của dục vọng,  trong công việc xây dựng, nuôi dưỡng, và sản xuất đó  nhiệt độ và độ ẩm làm cho biểu hiện trở nên khả thi.  Mẹ là vị duy nhất của các deva, và kết nối chặt chẽ  [901] với các deva của dòng nước, vì độ ẩm dưới  một dạng nào đó là cần thiết cho tất cả sự sống.

[Commentary S7S13 Part 2]

The sixth principle, therefore, or the love aspect (the Christ principle), and the sixth plane, are connected; there is an interplay of energy between the fourth cosmic ether, or buddhic energy, and the sixth plane, or astral energy. The devas on both these planes belong essentially to groups over which Neptunian influence presides, hence the astral plane can, and eventually will, directly reflect the buddhic.

Do đó, nguyên lý thứ sáu, hoặc khía cạnh tình thương (nguyên  lý Christ), và cõi thứ sáu, được kết nối; có sự tương tác  năng lượng giữa ether vũ trụ thứ tư, hoặc năng  lượng bồ đề, và cõi thứ sáu, hoặc năng lượng cảm dục.  Các deva trên cả hai cõi này chủ yếu thuộc nhóm tác động dưới  ảnh hưởng của Neptune, do đó cõi cảm dục có thể, và  cuối cùng sẽ, phản ánh trực tiếp cõi bồ đề.

The greater building devas on the second plane of the solar system, the monadic plane or the second cosmic ether, direct the energies of the manipulating devas of the fourth cosmic ether, the buddhic plane.

Các deva xây dựng lớn hơn trên cõi thứ hai của hệ  mặt trời, cõi monadic hoặc ether vũ trụ thứ hai, chỉ đạo  các năng lượng của các deva tác động của ether vũ trụ thứ tư, cõi bồ đề.

The manipulating devas of the fourth cosmic ether will, in due course of evolution, work out the plan in objective perfection through the medium of the living substance of the lesser devas of the liquid or astral plane. When they have done this two results will be seen: first, the astral plane will perfectly reflect the buddhic plane and, secondly, the result of that will be that the physical plane will produce the exact vehicle needed for microcosmic or macrocosmic expression through the force of water, or desire.

Các deva tác động của ether vũ trụ thứ tư sẽ,  trong tiến trình tiến hóa đầy đủ, thực hiện kế hoạch trong  sự hoàn hảo cụ thể bằng kết quả của chất liệu  sống động của các deva thấp hơn của cõi lỏng hoặc cõi cảm dục.  Khi họ đã làm điều này, hai kết quả sẽ được thấy:  đầu tiên, cõi cảm dục sẽ phản ánh hoàn hảo cõi  bồ đề và, thứ hai, kết quả của điều đó sẽ là rằng cõi  hồng trần sẽ sản xuất chính xác phương tiện cần thiết  cho sự biểu hiện vi mô hoặc vĩ mô thông qua lực của  nước, hoặc dục vọng.

All this is revealed to esotericists in the symbology of the circulatory system in man. As the blood system, with its two types of channels (arteries and veins) and its two types of builders (the red and the white corpuscles), is studied from the occult standpoint, much will be ascertained of a revolutionary nature. The laws of the path of outgoing, and of the path of return, with the two groups of deva lives therein concerned, will be apprehended by man. A further hint may here be given. In the physical body of man in connection with the circulatory system, we find, in the three factors—the heart, the arteries, and the veins—the clue to the three types [902] of devas, and also to the systemic triangle which they represent, and further, to the three modes of divine expression. There is a planetary as well as a systemic circulation, and it is carried on through the medium of deva substance everywhere, macrocosmically as well as microcosmically.

Tất cả những điều này được tiết lộ cho các nhà huyền bí học trong sự  biểu tượng của hệ thống tuần hoàn ở con người. Khi  hệ thống máu, với hai loại tuyến (trụ mạch và tiểu  huyết cầu) và hai loại người xây dựng (hồng và trắng), được  nghiên cứu từ quan điểm huyền bí, nhiều điều sẽ được tìm hiểu một cách cách mạng.  Các luật của con đường ra đi, và của con đường trở lại, với  hai nhóm sinh mạng deva trong đó tham gia, sẽ được  hiểu bởi con người. Sẽ có thể đưa ra một gợi ý  hơn nữa. Trong cơ thể vật lý của con người trong  mối liên quan đến hệ thống tuần hoàn, chúng ta thấy, trong  ba yếu tố—tim, động mạch, và tĩnh mạch—manh mối đối với  ba kiểu deva, cũng như với tam giác hệ thống mà  chúng đại diện, và hơn nữa, với ba phương thức của biểu  hiện thiêng liêng. Có một tuần hoàn hành tinh cũng  như một tuần hoàn hệ thống, và nó được thực hiện thông qua  sự hiện diện của tinh chất deva ở khắp mọi nơi, vĩ mô lẫn  vi mô.

The devas of the sixth physical subplane can be divided into three groups, and these again into seven and into forty-nine, thus corresponding with all groups in the solar system. These groups (in their essential nature) respond to that “which lies above more than that which lies below,” which is only an occult way of expressing a relationship of an intimate nature between the devas of fire and the devas of water, and a negation of a close connection between the water devas and the earth. Occultly expressed, through the action of the fire devas, the water devas find liberation.

Các deva của cấp độ phụ thứ sáu của thể hồng trần  có thể phân chia thành ba nhóm, và những nhóm này  lại thành bảy và thành bốn mươi chín, do đó tương ứng  với tất cả các nhóm trong hệ mặt trời. Những nhóm  này (trong nguồn gốc thiết yếu của chúng) phản ứng với  cái “nằm trên hơn là cái nằm dưới”, vốn chỉ là một cách  huyền bí để diễn đạt một mối quan hệ của  bộ phận mật thiết giữa các deva lửa và các deva nước, và sự  phủ định của một kết nối gần gũi giữa các deva nước  và đất. Biểu trưng huyền bí, thông qua hành động của các deva lửa, các deva nước tìm thấy sự giải thoát.

The devas of water find for themselves the path of service in their great work of nourishing all the vegetable and animal life upon the planet; the goal for them is to enter into that higher group of devas which we call the gaseous or fire devas. These, through the action of their fire upon the waters, produce that sequence of evaporation, condensation, and eventual precipitation which—through its constant activity—nourishes all life upon the earth. Thus again can the psychic laws of love be seen at work in the deva kingdom as in the human; first, the withdrawal or segregation of the unit from the group (called individualisation in man, and evaporation in the water realm). Next, condensation, or the amalgamation of the unit with a newer or higher group, this we call condensation for the devas of the waters, and initiation in man; finally, the sacrifice of the group of human or deva atoms to the good of the whole. So does the law of service and sacrifice govern all the second aspect divine in all its departments great [903] or small. Such is the law. But in the human kingdom, though love is the fulfilling of the law, it is arrived at along the path of pain and sorrow, and every true lover and server of humanity is stretched upon the cross until for them the sixth principle dominates, and the sixth type of matter in their bodies is completely subjected to the higher energy.  [cclxxxi]82 In the case of the devas, love is the fulfilling of the law without pain or sorrow. It is for them the line of least resistance, for they are the mother aspect, the feminine side of manifestation, and the easy path for them is to give, to nourish, and to tend. Therefore, the devas of the waters pour themselves out in service to the vegetable and animal kingdoms, and in the transmutative fires all that holds them on the sixth subplane will eventually be overcome, and through occult “distillation and evaporation” these devas will eventually form part of the gaseous fiery group and become those fires which are the basis of the divine alchemy.

Các deva nước tìm thấy cho bản thân mình con đường phụng sự  trong công việc vĩ đại của họ nuôi dưỡng tất cả đời sống thực vật và động vật trên hành tinh; mục tiêu đối với  họ là bước vào nhóm deva cao hơn mà chúng ta gọi là deva khí hoặc lửa.  Những người này, thông qua hành động của lửa của họ trên nước, sản sinh ra  tất cả các dạng sự bốc hơi, ngưng tụ, và cuối cùng là sự kết tủa vốn—thông qua hoạt động liên tục của nó—nuôi dưỡng tất cả đời sống  trên Trái Đất. Do đó, một lần nữa các luật tâm lý về tình thương có thể thấy được hoạt động trong vương quốc deva cũng như  trong vương quốc con người; trước tiên là sự rút lui hoặc tách rời  đơn vị ra khỏi nhóm (gọi là sự cá nhân hóa trong con người, và sự bốc hơi trong lĩnh vực nước). Tiếp theo, sự ngưng tụ, hay sự hợp nhất của đơn vị với một nhóm mới hoặc cao hơn, điều này chúng ta gọi là sự ngưng tụ cho  các deva của các dòng nước, và sự điểm đạo của con người; cuối cùng, sự hy sinh của nhóm các nguyên tử con người  hoặc deva vì lợi ích tổng thể. Vì vậy, luật phụng sự và  hi sinh chi phối mọi khía cạnh thiêng liêng thứ hai trong  tất cả các bộ phận lớn hoặc nhỏ. Đó là luật. Nhưng trong  vương quốc con người, mặc dù tình thương là sự hoàn thành  của luật, nó được đạt được dọc theo con đường của đau đớn và nỗi buồn, và  mọi người yêu thương và phụng sự nhân loại chân thật đều bị căng  ra trên thập giá cho đến khi với họ nguyên lý thứ sáu chi phối,  và loại vật chất thứ sáu trong cơ thể của họ hoàn toàn chịu sự toàn năng của năng lượng cao hơn. [cclxxxi]82 Trong trường hợp của các deva, tình thương là sự hoàn thành của luật mà không có đau đớn  hoặc đau khổ. Nó là cho họ con đường ít trở ngại nhất, vì họ  là khía cạnh của người mẹ, khía cạnh nữ của biểu hiện, và con đường dễ nhất cho họ là cho, nuôi dưỡng, và phò hộ. Do đó,  các deva của các dòng nước đổ mình ra phụng sự cho  các vương quốc thực vật và động vật, và trong các lửa chuyển đổi  tất cả những gì níu kéo chúng trên cấp độ phụ thứ sáu cuối cùng  sẽ được vượt qua, và qua “sự chưng cất và bốc hơi” huyền bí,  các deva này sẽ cuối cùng trở thành một phần của nhóm khí  lửa và trở thành những ngọn lửa là nền tảng của thuật giả kim  thiêng liêng.

Speaking generally, it must be remembered that the earth devas of densest matter become, in the course of evolution, the devas of the waters, and find their way eventually on to the astral plane, the cosmic liquid; the devas of the waters of the physical plane find their way, through service, on to the gaseous subplane, and then to the cosmic gaseous, becoming the devas of the mental plane. This literally and occultly constitutes the transmutation of desire into thought.

Nói chung, cần nhớ rằng các deva của vật chất  đậm nhất trở thành, trong quá trình tiến hóa, deva của các dòng  nước, và tìm thấy con đường của họ cuối cùng là trên cõi cảm xúc,  cõi lỏng của vũ trụ; các deva của dòng nước của cõi hồng trần tìm ra con đường của mình,  thông qua phụng sự, trên cõi phụ khí, và  sau đó đến dãy khí vũ trụ, trở thành  deva của cõi tâm lý. Điều này thực sự và huyền bí  cấu thành sự chuyển đổi của dục vọng thành tư tưởng.

The gaseous devas become eventually the devas of the fourth ether, and from thence in long aeons, find their way to the cosmic fourth ether, the buddhic plane. These three groups are therefore cosmically connected with: [904]

Các deva khí cuối cùng trở thành deva của ether thứ tư,  và từ đó qua những năm dài, tìm ra con đường của họ  đến ether thứ tư vũ trụ, cõi bồ đề. Vì vậy, ba  nhóm này do đó có sự liên kết vũ trụ  với: [904]

1. The cosmic astral plane and the constellation whence emotional and desire energy originates.

1. Cõi cảm xúc vũ trụ và chòm sao nơi  nguồn gốc của năng lượng cảm xúc và dục vọng.

2. The cosmic mental plane, and therefore with the constellation Sirius.

2. Cõi tâm lý vũ trụ, và vì thế với chòm sao Sirius.

3. The cosmic buddhic plane, and the constellation of the Pleiades.

3. Cõi bồ đề vũ trụ, và chòm sao của  Pleiades.

Thus can the whole process be worked out, if man carefully studies his own nature, and the law of analogy.

Vì vậy, toàn bộ quá trình có thể được hoàn thành,  nếu con người cẩn thận nghiên cứu bản thân mình, và  định luật đạo lý.

[Commentary S7S13 Part 3]

The Devas of the Gaseous Subplane. In dealing with the elementals, or lesser devas, under the manipulatory devas of this extensive group, we are dealing with the devas of fire, and with the fiery essences of substantial nature which can be seen manifesting in myriads of forms. Certain of the subdivisions of this group are known to students, such as:

Các Deva của Cõi Phụ Khí. Khi đề cập đến hành khí,  hoặc các deva nhỏ hơn, dưới sự điều khiển của các deva điều khiển  của nhóm rộng lớn này, chúng ta đang đề cập đến deva lửa,  và với các tinh chất lửa của bản chất chất lượng  vốn có thể được thấy biểu hiện trong vô số hình thức. Một số  trong số các phân nhóm của nhóm này được biết đến với các đạo sinh,  chẳng hạn như:

The Salamanders, or the fiery lives which can be seen by clairvoyants leaping in the flames of a furnace or of a volcano; this group can be subdivided into four groups according to color—red, orange, yellow, and violet—the last of which approximate very closely to the devas of the fourth ether.

Các Salamanders, hoặc các sự sống lửa  vốn có thể được thấy bởi những người sáng nhãn nhảy múa trong  ngọn lửa của một lò rèn hoặc của một núi lửa; nhóm này có thể phân chia  thành bốn nhóm theo màu sắc—đỏ, cam, vàng,  và tím—trong đó nhóm cuối cùng gần gũi hơn với deva của  ether thứ tư.

The Agnichaitans; this is a term applied to the fiery lives, which are the sumtotal of the plane substance, as seen in the first part of our treatise, and also to the tiny essences which compose the fires of manifestation. As the nature of physical plane electricity is understood and studied, and its true condition realised, the reality of the existence of these agnichaitans will stand revealed.

Agnichaitans; đây là một thuật ngữ áp dụng cho các sự sống lửa, vốn là tổng hợp của chất liệu cõi, như đã thấy trong phần đầu của luận văn chúng ta, và cũng cho các tinh chất nhỏ bé mà tạo thành những ngọn lửa của sự biểu hiện. Khi bản chất của điện cõi hồng trần được hiểu và nghiên cứu, và tình trạng thực sự của nó được nhận ra, thực tại của sự tồn tại của các agnichaitans này sẽ được tiết lộ.

As the race becomes clairvoyant, as it surely will in a great degree before the close of this rootrace, these gaseous devas will stand revealed, and men will realise that they are working with fiery lives, and that they are themselves closely allied to these lives through the fires of their own bodies. The clairvoyance which is in process [905] of developing in this rootrace is entirely physical, and, under the law, its development is to be anticipated, for the Aryan rootrace is that one wherein man—in this fourth round—comes to full self-consciousness. This involves complete physical vision, and the use in perfection of the three physical plane senses of hearing, touch, and sight. In the next rootrace, astral clairvoyance will be prevalent, though not universal, and thus contact with the buddhic plane will be more easily achieved. In the earlier rootraces of the next round, the fifth, there will be a recapitulation of the activities of this round, until, in the fifth rootrace, the sumtotal of that achieved in this round will be seen. Men will then begin to demonstrate mental clairvoyance. Thus the cycles mingle and overlap, in order that no unit of life, however small and unimportant, may fail in opportunity.

Khi giống dân trở nên thông nhãn, điều này chắc chắn sẽ xảy ra một cách rộng rãi trước khi giống dân gốc này kết thúc, những thiên thần khí này sẽ được tiết lộ, và loài người sẽ nhận ra rằng họ đang làm việc với các sự sống lửa, và chính họ cũng gắn bó chặt chẽ với những sự sống này thông qua các ngọn lửa của cơ thể họ. Sự thông nhãn đang trong quá trình phát triển [905] của giống dân gốc này hoàn toàn mang tính hồng trần, và, theo định luật, sự phát triển của nó là điều cần mong đợi, bởi vì giống dân gốc Arya là giống dân mà trong chu kỳ bốn này, con người đạt đến sự tự ý thức hoàn toàn. Điều này bao gồm tầm nhìn thể chất hoàn chỉnh, và sử dụng hoàn hảo ba giác quan cõi hồng trần là nghe, chạm và nhìn. Trong giống dân gốc tiếp theo, sự thông nhãn cảm dục sẽ phổ biến, mặc dù không phải là phổ quát, và do đó tiếp xúc với cõi bồ đề sẽ dễ dàng đạt được hơn. Trong những giống dân gốc ban đầu của chu kỳ năm tiếp theo, sẽ có sự tóm tắt lại các hoạt động của chu kỳ này, cho đến khi, trong giống dân gốc năm, tổng hợp những gì đã đạt được trong chu kỳ này sẽ được thấy. Con người sẽ bắt đầu chứng tỏ được sự thông nhãn trí tuệ. Do đó, các chu kỳ giao thoa và đan xen, để không một đơn vị sự sống nào, dù nhỏ và không quan trọng, có thể thiếu cơ hội.

These agnichaitans of the third subplane come particularly under the influence of Saturnian energy. They are the great fusers of substance, and it is in connection with them that the transmutation of metals becomes possible. They have a relationship to the mineral kingdom analogous to that which the watery devas have to the vegetable and animal. They are, as will be apparent, connected with the throat centre of a planetary Logos and of a solar Logos, and it is through their activity that the transmission of sound through the air becomes possible. It might surprise students and inventors could they but realise that the present rapid growth of wireless communication everywhere is due to the swinging into contact with the human vibration of a group of fiery deva lives hitherto uncontacted.

Những agnichaitans của cõi phụ ba đặc biệt dưới ảnh hưởng của năng lượng Sao Thổ. Họ là những người dung hợp chất liệu vĩ đại, và chính nhờ liên kết với họ mà sự chuyển hóa của kim loại trở nên khả thi. Họ có mối quan hệ với giới khoáng vật giống như mối quan hệ mà các thiên thần nước có với giới thực vật và động vật. Họ, như sẽ được thấy, có liên kết với trung tâm cổ họng của Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế, và thông qua hoạt động của họ mà việc truyền âm thanh qua không khí trở nên khả thi. Điều này có thể làm ngạc nhiên các môn sinh và nhà phát minh nếu họ nhận ra rằng sự phát triển nhanh chóng của truyền thông không dây hiện tại ở khắp nơi là do sự tiếp xúc với dao động nhân loại của một nhóm các sự sống thiên thần lửa chưa từng được tiếp xúc trước đây.

Just as each plane has its seven subplanes, so likewise each subplane can be subdivided, thus making forty-nine fires on every plane, or the three hundred and forty-three fires of the solar system. Herein can be found the clue to the mystery of the “fourth between the three” [906] which has at times bewildered students of the occult records. There are several ways of reading these figures, 3 4 3, but the only occult method which can be hinted at here, lies in the recognition of the three higher planes, the three lower planes, the fourth plane of meeting between them. This fourth plane has occultly been called “the meeting place.” When it is remembered that the goal for these gaseous devas is the fourth cosmic ether, or the buddhic plane and that they (in their major and minor groups) are the internal macrocosmic and microcosmic fires, some idea may be gained as to the true significance of the eventual at-one-ment between the two lines of evolution for the goal for man likewise is the buddhic plane.

Cũng như mỗi cõi có bảy cõi phụ, mỗi cõi phụ cũng có thể được chia nhỏ, tạo ra bốn mươi chín ngọn lửa trên mỗi cõi, hay ba trăm bốn mươi ba ngọn lửa của hệ mặt trời. Ở đây có thể tìm thấy manh mối cho bí ẩn của “thứ tư giữa ba” [906] vốn đôi khi làm rối rắm các môn sinh nghiên cứu huyền bí. Có nhiều cách để đọc những con số này, 3 4 3, nhưng cách duy nhất thần bí có thể được gợi ý ở đây, là sự nhận thức về ba cõi cao hơn, ba cõi thấp hơn, cõi thứ tư là nơi gặp gỡ giữa chúng. Cõi thứ tư này đã được gọi thần bí là “nơi gặp gỡ”. Khi nhớ rằng mục tiêu của các thiên thần khí này là cõi thần khí thứ tư, hay cõi bồ đề, và họ (trong nhóm lớn và nhỏ của họ) là các ngọn lửa vũ trụ nội và ngoại quan, một số ý tưởng có thể được hình thành về thâm nghĩa thực sự của sự hợp nhất cuối cùng giữa hai dòng tiến hóa bởi mục tiêu cho con người tương tự là cõi bồ đề.

On the third subplane, therefore, in its fifth division of deva essences, certain groups are now being contacted in this, the fifth rootrace; the result of this contact can be seen in the stimulation of responsive vibration, which is demonstrated already in the discovery of wireless intercourse and of radium.

Do đó, trên cõi phụ thứ ba, do đó, trong phân khu thứ năm của các tinh chất thiên thần, một số nhóm hiện đang được tiếp xúc trong giống dân gốc này; kết quả của sự tiếp xúc này có thể thấy trong sự kích thích của rung động đáp ứng, được chứng minh rõ ràng trong sự khám phá giao tiếp không dây và của radium.

There will also be seen a paralleling increased vibration of the human spirillae which will result, before the end of the round, in the awakening to full activity of the fifth spirilla of the human physical permanent atom.

Cũng sẽ thấy sự tăng rung động tương ứng của các spirillae nhân loại, điều này sẽ dẫn tới, trước khi kết thúc chu kỳ, sự thức tỉnh toàn hoạt động của spirillae thứ năm của nguyên tử trường tồn thể xác nhân loại.

Hence the work of the Mahachohan at this time in connection with seventh ray (which is temporarily acting as the synthesis of the five types of energy over which He presides), might be summed up as follows:

Do đó, công việc của Mahachohan trong thời điểm này liên quan đến cung bảy (hiện tạm thời hoạt động như sự tổng hợp của năm loại năng lượng mà Ngài chủ trì), có thể được tóm tắt như sau:

First, He is utilising the seventh type of energy in order to further the recognition by the human unit of the subtler substance of the physical plane. This seventh ray is a primary factor in the production of objectivity. The energy of the planetary Logos of the seventh scheme dominates the seventh plane; it is the ray whereon deva substance and Spirit can meet and adapt [907] themselves to each other with greater facility than on any other ray except the third.

Thứ nhất, Ngài đang sử dụng loại năng lượng cung bảy để thúc đẩy sự nhận thức của đơn vị nhân loại về chất liệu tinh tế hơn của cõi hồng trần. Cung bảy này là một yếu tố chính trong việc sản sinh khách quan. Năng lượng của Hành Tinh Thượng đế của hệ hành tinh thứ bảy chi phối cõi thứ bảy; đó là cung mà trên đó vật chất thiên thần và Linh có thể gặp gỡ và thích nghi với nhau dễ dàng hơn bất kỳ cung nào khác ngoại trừ cung ba.

Man, at present, is fully conscious, through some one or other of his senses, on the three lower subplanes; it is intended that he shall be equally conscious on the four higher. This has to be brought about by the stimulation of the deva substance which composes his bodies. This will be accomplished through the dynamic will of the transmitting devas as they energise the manipulatory devas, and thus affect the myriads of lesser lives which compose man’s body, and also by an increased responsiveness of the indwelling man or thinker to the contact made upon his body. This increased awareness will be brought about by the arousing of the fifth spirilla, by the unfolding of the fifth petal in the egoic lotus, and by the gradual opening of the third eye through the arousing and uniform activity of five factors: the centre at the base of the spine, the three channels in the spinal column, and the pineal gland.

Con người, hiện nay, hoàn toàn ý thức, thông qua một trong những giác quan của mình, trên ba cõi phụ thấp hơn; mục tiêu là anh ta sẽ có sự ý thức tương tự trên bốn cõi phụ cao hơn. Điều này đạt được bằng cách kích thích chất liệu thiên thần tạo thành thể của anh ta. Điều này sẽ được thực hiện thông qua ý chí động lực của các thiên thần truyền dẫn khi họ truyền sinh lực cho các thiên thần điều khiển, và do đó ảnh hưởng đến hàng nghìn sự sống nhỏ hơn tạo thành cơ thể của con người, cũng như bằng cách gia tăng khả năng đáp ứng của con người hoặc tư tưởng gia đối với tiếp xúc lên cơ thể của anh ta. Nhận thức gia tăng này sẽ được đem lại thông qua việc khơi dậy spirilla thứ năm, qua sự phát triển của cánh hoa thứ năm trong Hoa Sen Chân Ngã, và thông qua sự mở dần của con mắt thứ ba thông qua việc kích hoạt và hoạt động đồng đều của năm yếu tố: trung tâm tại đáy cột sống, ba kênh trong cột sống, và tuyến tùng.

All these factors involve the activity of deva essence, plus the resultant awareness of the thinker. This will be followed by the conscious use of the newly-awakened powers. In this manner the close interrelation and interdependence of the two lines of evolution becomes magnificently apparent.

Tất cả các yếu tố này liên quan đến hoạt động của tinh chất thiên thần, và cộng với sự nhận thức kết quả của tư tưởng gia. Điều này sẽ được theo sau bằng việc sử dụng có ý thức những quyền năng mới thức tỉnh. Theo cách này, mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai dòng tiến hóa trở nên rõ ràng một cách tuyệt vời.

Second, the Mahachohan is working specifically at this time (in co-operation with the Manu), with the devas of the gaseous subplane; this is in connection with the destroying work they are to effect by the end of this rootrace, in order to liberate Spirit from constricting forms. Volcanic action therefore may be looked for, demonstrating in unexpected localities, as well as within the sphere of the present earthquake and volcanic zones. Serious disturbance may be looked for in California before the end of the century, and in Alaska likewise.

Thứ hai, Mahachohan đang làm việc đặc biệt vào thời điểm này (hợp tác với Manu), với các thiên thần của cõi phụ khí; điều này liên quan đến công việc phá hủy mà họ sẽ thực hiện vào cuối giống dân gốc này, nhằm giải phóng Linh khỏi các hình thể ràng buộc. Do đó, hoạt động núi lửa có thể được tìm kiếm, thể hiện ở những địa điểm bất ngờ cũng như trong phạm vi của các khu vực động đất và núi lửa hiện nay. Sự xáo trộn nghiêm trọng có thể dự đoán ở California trước cuối thế kỷ này, và cũng ở Alaska.

The work of the Mahachohan can also be seen in the [908] effect that the devas of the kundalini fire are producing upon man. These are a peculiar group of Agnichaitans who have reached a stage of evolution which permits of their being separated off from their group into a group connected with a certain fire in man’s bodies. This fire owing to its present activity, and the direction of that activity, is responsible for the reaction against physical marriage, and for the desire evinced by highly evolved men everywhere to evade the marriage relation, and confine themselves to creation upon the mental or astral planes. This is due to the present inclination of the manipulatory devas of the lower generative organs to seek the throat centre, and to function there, utilising the strength of the kundalini fire to bring this about. All this is under the law of evolution, but in the interim between cause and justified effect much harm, evasion of the law, and consequent suffering can be seen. Owing, therefore, to the violent reaction at this time against the safeguarding laws of civilisation, it has been decided that the nature and functions of the devas must be somewhat revealed to man, and that their place in the scheme of things, and man’s close connection and dependence upon them, must be given out.  [cclxxxii]83 At the same time, the means whereby they can be contacted, and the words whereby they can be controlled, will be withheld.

Công việc của Mahachohan cũng có thể được thấy trong [908] tác động mà các thiên thần lửa kundalini đang tạo ra lên con người. Đây là một nhóm Agnichaitans đặc biệt đã đạt đến một giai đoạn tiến hóa cho phép họ tách rời khỏi nhóm của mình thành một nhóm liên quan đến một loại lửa nhất định trong cơ thể con người. Ngọn lửa này do hoạt động hiện tại của nó, và hướng đi của hoạt động đó, đang chịu trách nhiệm cho phản ứng chống lại hôn nhân thể xác, và cho mong muốn được thể hiện bởi những người đàn ông phát triển cao ở khắp nơi tránh xa mối quan hệ hôn nhân, và chỉ tập trung vào sự sáng tạo trên các cõi trí tuệ hoặc cảm dục. Điều này là do sự khuynh hướng hiện tại của các thiên thần điều khiển của các cơ quan sinh dục thấp hơn muốn tìm kiếm trung tâm cổ họng, và hoạt động ở đó, sử dụng sức mạnh của lửa kundalini để đạt được điều này. Tất cả điều này nằm trong định luật tiến hóa, nhưng trong khoảng thời gian giữa nguyên nhân và hiệu quả hợp lý, có thể thấy nhiều sự tổn hại, sự lách luật, và sự chịu đựng hậu quả. Do đó, do phản ứng dữ dội hiện tại chống lại các định luật bảo vệ của văn minh, đã quyết định rằng bản chất và chức năng của các thiên thần phải được tiết lộ phần nào cho con người, và vị trí của họ trong hệ thống, và sự kết nối và phụ thuộc chặt chẽ của con người nơi họ, phải được công bố. [cclxxxii]83 Đồng thời, các phương tiện để họ có thể được liên lạc, và các từ ngữ để kiểm soát họ, sẽ được giữ kín.

Laxness in the marriage relation, due to this particular cause, is only seen amongst the highly evolved and amongst the independent thinkers of the race. Similar laxness amongst the masses, and the low types of humanity, is based upon a different reason, and their promiscuity is due to certain developments of the animal nature in its lowest manifestation. These two causes [909] will bear consideration by those who have the present needs of civilisation at heart. They can then co-operate with the Mahachohan in the work of effecting the very necessary transfer of force from a lower to a higher centre, and prevent (through knowledge), the incidental license. This will bring about a refusal to besmirch the great love or sex impulse of nature.

Sự lỏng lẻo trong quan hệ hôn nhân, do nguyên nhân cụ thể này, chỉ thấy trong số những người phát triển cao và trong số những người tư tưởng độc lập của giống dân. Sự lỏng lẻo tương tự trong số đại chúng, và các loại người thấp, dựa trên lý do khác, và sự vô lễ của họ là do sự phát triển của bản chất động vật trong biểu hiện thấp nhất của nó. Hai nguyên nhân này [909] sẽ cần được xem xét bởi những người có trái tim cho những nhu cầu hiện tại của văn minh. Họ có thể hợp tác với Mahachohan trong công việc chuyển giao mãnh lực hết sức cần thiết từ một trung tâm thấp lên trung tâm cao hơn, và ngăn chặn (thông qua tri thức), sự phóng túng tình cờ. Điều này sẽ mang lại một sự từ chối để bôi nhọ tình yêu lớn lao hoặc sự thúc đẩy tình dục của thiên nhiên.

The ceremonial ray has been often called “the marriage ritual of the Son,” because upon this ray Spirit and matter can meet and have union. This fact also should be borne in mind during the next one hundred years, for they will see great changes in the marriage laws. The present laxity will inevitably bring a reaction, and the laws will become more stringent, in order to safeguard the race during a transition period. These laws will not be along the line of making escape from the marriage relation more difficult, but will take effect at the other end, so to speak; the rising generation will be properly taught and guarded, and indiscriminate, hasty marriage will not be permitted, nor will juveniles be allowed rashly to enter into the marriage obligation. There is no need to enlarge further upon this, for in working out their own problems men learn, and all that those upon the inner side are permitted to do is to give a hint or an indication.

Cung nghi lễ thường được gọi là “nghi lễ hôn nhân của Con,” bởi vì trên cung này Linh và vật chất có thể gặp gỡ và hợp nhất. Sự thật này cũng nên được ghi nhớ trong một trăm năm tới, bởi vì họ sẽ chứng kiến sự thay đổi lớn trong các luật hôn nhân. Sự lỏng lẻo hiện tại sẽ không thể tránh khỏi dẫn đến một phản ứng, và các luật sẽ trở nên nghiêm ngặt hơn, để bảo vệ giống dân trong thời kỳ chuyển tiếp. Những luật này sẽ không tập trung vào việc làm cho việc thoát khỏi mối quan hệ hôn nhân khó khăn hơn, mà sẽ có hiệu lực ở đầu kia, nói cách khác; thế hệ ngày lên sẽ học được cách thích hợp và được bảo vệ, và việc kết hôn bừa bãi, vội vã sẽ không được phép, cũng như trẻ vị thành niên sẽ không được phép vội vàng tham gia vào cam kết hôn nhân. Không cần phải mở rộng thêm về điều này, bởi vì trong việc giải quyết các vấn đề của riêng họ, con người học hỏi, và tất cả những gì mà người bên trong được phép làm là đưa ra một gợi ý hay một chỉ dẫn.

Another angle of the Mahachohan’s work at this time is connected with sound, and therefore with the particular devas whom we are considering. Through the mismanagement of men, and their unbalanced development, the sounds of earth, such as those of the great cities, of the manufactories, and of the implements of war, have brought about a very serious condition among the gaseous devas. This has to be offset in some way and the future efforts of civilisation will be directed towards the spreading of a revolt against the evils of congested living and to the dissemination of an impulse of a widespread [910] nature to seek the country and wide spaces. One of the main interests in the future will be a tendency towards the elimination of noise, owing to the increased sensitiveness of the race. When the energy of water and of the atom is harnessed for the use of man, our present types of factories, our methods of navigation and of transportation, such as steamers and railway apparatus, will be entirely revolutionised. This will have a potent effect not only on man but on the devas.

Một góc độ khác của công việc hiện tại của Mahachohan liên quan đến âm thanh, và do đó với các thiên thần cụ thể mà chúng ta đang xem xét. Do sự quản lý sai lầm của con người, và sự phát triển không cân bằng của họ, những âm thanh của trái đất, chẳng hạn như của các thành phố lớn, của các nhà máy, và của các công cụ chiến tranh, đã tạo ra một điều kiện rất nghiêm trọng trong số các thiên thần khí. Điều này phải được hóa giải theo một cách nào đó và những nỗ lực trong tương lai của văn minh sẽ được hướng đến cuộc nổi dậy chống lại các tệ nạn của cuộc sống đông đúc và sự phát tán của một động lực rộng lớn [910] để tìm kiếm đồng quê và không gian rộng lớn. Một trong những mối quan tâm chính trong tương lai sẽ là một xu hướng loại bỏ tiếng ồn, do sự gia tăng nhạy cảm của giống dân. Khi năng lượng của nước và của nguyên tử được khai thác cho nhu cầu của con người, các loại nhà máy hiện tại của chúng ta, các phương pháp định hướng và vận chuyển, chẳng hạn như tàu hơi nước và thiết bị đường sắt, sẽ hoàn toàn thay đổi. Điều này sẽ có tác động mạnh mẽ không chỉ đối với con người mà còn với các thiên thần.

[Commentary S7S14 Part 1]

c. The Elementals of the Ethers.—c. Các Hành Khí của Dĩ Thái.

We will consider now the etheric levels of the physical plane or the four highest subplanes of the physical plane. These etheric levels are but gradations of physical plane matter of a rarer and more refined kind, but physical nevertheless. They are termed in most textbooks:

Chúng ta sẽ xem xét bây giờ các cõi dĩ thái của cõi hồng trần hoặc bốn cõi phụ cao nhất của cõi hồng trần. Các cõi dĩ thái này chỉ là sự phân cấp của chất liệu cõi hồng trần ở dạng tinh tế và hiếm hơn, nhưng vẫn là vật chất. Chúng được gọi trong hầu hết các sách giáo khoa:

1. The first ether, or atomic matter.

1. Cõi dĩ thái thứ nhất, hoặc chất liệu nguyên tử.

2. The second ether, or sub-atomic matter.

2. Cõi dĩ thái thứ hai, hoặc chất liệu cận nguyên tử.

3. The third ether, or super-etheric matter.

3. Cõi dĩ thái thứ ba, hoặc chất liệu siêu dĩ thái.

4. The fourth ether, or simply etheric matter.

4. Cõi dĩ thái thứ tư, hoặc chỉ đơn giản là chất liệu dĩ thái.

The fourth ether is the only one as yet recognised by scientists, and is the subject of their present investigations, little though they may realise it.

Cõi dĩ thái thứ tư là cõi duy nhất hiện được các nhà khoa học công nhận, và là đối tượng nghiên cứu hiện tại của họ, dù họ ít nhận ra điều đó.

On the atomic subplane are the permanent physical atoms of all humanity and the appropriated atoms of the deva kingdom. The devas do not develop as do the human race. They reincarnate in groups, and not as individuals, though each group is composed of units, and has nothing of the nature of the involutionary group soul. The group soul on the involutionary path and that upon the evolutionary are unlike; one is passing on to differentiation and is composed of entities animated by one general life; the other has differentiated, and each entity is a separate unit of the one life, complete in itself, yet one with the whole. [911]

Trên cõi phụ nguyên tử là các nguyên tử trường tồn thể xác của toàn nhân loại và các nguyên tử được chiếm hữu của giới thiên thần. Các thiên thần không phát triển như nhân loại. Họ tái sinh trong nhóm, và không như các cá nhân, mặc dù mỗi nhóm được tạo thành từ các đơn vị, và không có gì mang tính chất của hồn nhóm của con đường giáng hạ. Hồn nhóm trên con đường giáng hạ và trên con đường thăng thượng không giống nhau; một là đang tiến tới biến phân và được tạo thành từ các thực thể được kích hoạt bởi một sự sống chung; cái khác đã biến phân, và mỗi thực thể là một đơn vị riêng biệt của sự sống duy nhất, hoàn toàn trong tự thân, nhưng lại hòa làm một với toàn thể. [911]

There are many types of life to be contacted on the four etheric levels, but we can only concern ourselves at present with the deva life, remembering that the deva evolution is of equal importance to that of the human. These devas are many in number, are of involutionary and evolutionary nature, and of all grades and types. Ruling over them on the physical plane is the great deva Kshiti. He is a deva of rank and power equal to a Chohan of a Ray; He presides over everything outside the human kingdom upon the physical plane, and He has for His council the four subordinate deva lords of the four etheric levels. He, with these subordinate devas, presides over a subsidiary council of seven devas who handle all that concerns the deva evolution, and the work of the greater and the lesser builders.

Có nhiều loại sự sống để liên lạc trên bốn cõi dĩ thái, nhưng hiện tại chúng ta chỉ có thể quan tâm đến sự sống thiên thần, nhớ rằng tiến hóa của thiên thần cũng quan trọng tương đương với nhân loại. Các thiên thần này nhiều về số lượng, có những bản chất giáng hạ và thăng thượng, và thuộc mọi cấp và loại. Chủ trì họ trên cõi hồng trần là Đại thiên thần Kshiti. Ngài là một thiên thần có cấp bậc và quyền năng ngang bằng với một Chohan của một cung; Ngài chủ trì tất cả các hoạt động ngoài giới nhân loại trên cõi hồng trần, và Ngài có hội đồng của mình với bốn thiên thần chủ của bốn cõi dĩ thái. Ngài, cùng với các thiên thần phụ thuộc này, chủ trì một hội đồng phụ của bảy thiên thần, những người xử lý tất cả những gì liên quan đến tiến hóa thiên thần, và công việc của các Nhà Xây Dựng lớn và nhỏ.

The deva Ruler of the fourth, or lowest ether, has delegated a member of His council to meet with certain of the Masters at this time for two specific purposes, first, to see whether the approximation of the two lines of evolution, human and deva, might be now tentatively permitted, and, secondly, to reveal some of the methods of healing and the causes of physical disability which are inherent in the etheric double.

Thiên thần Chủ của cõi dĩ thái thứ tư, hoặc thấp nhất, đã ủy nhiệm một thành viên trong hội đồng của Ngài để gặp gỡ những Chân sư tại thời điểm này với hai mục tiêu cụ thể, thứ nhất, để xem liệu sự tiếp cận của hai dòng tiến hóa, nhân loại và thiên thần, có thể hiện giờ được phép tạm thời không, và thứ hai, để tiết lộ một số phương pháp chữa bệnh và các nguyên nhân của sự bất tận thể xác vốn có trong thể đôi dĩ thái.

Devas of all kinds and colours are found on the physical etheric levels, but the prevailing hue is violet, hence the term so often employed, the “devas of the shadows.” With the coming in of the ceremonial ray of violet, we have the amplification therefore of the violet vibration, always inherent on these levels, and the great opportunity therefore for contact between the two kingdoms. It is in the development of etheric vision (which is a capacity of the physical human eye) and not in clairvoyance that this mutual apprehension will become possible. With the coming in likewise of this ray will arrive those who belong thereon, with a natural gift of seeing etherically. Children will frequently be born who will see etherically as easily as the average human being sees physically; as conditions of harmony gradually evolve out of the present world chaos, devas and human beings will meet as friends.

Các thiên thần của tất cả các loại và màu sắc đều được tìm thấy trên cõi dĩ thái hồng trần, nhưng màu sắc chiếm ưu thế là tím, do đó thuật ngữ thường được sử dụng, “các thiên thần của bóng tối.” Với sự xuất hiện của cung nghi lễ của màu tím, chúng ta có sự khuếch đại của rung động màu tím, vốn có sẵn trên các cõi này, và cơ hội lớn cho sự tiếp xúc giữa hai giới. Chính trong sự phát triển của tầm nhìn dĩ thái (là một khả năng của mắt người hồng trần) chứ không phải trong sự thông nhãn mà sự thấu hiểu lẫn nhau này có thể thành hiện thực. Với sự xuất hiện của cung này, cũng sẽ có những người thuộc cung này xuất hiện, với món quà tự nhiên của việc nhìn nhận dĩ thái. Trẻ em sẽ thường xuyên được sinh ra có thể nhìn nhận dĩ thái dễ dàng như người trung bình nhìn nhìn nhận hồng trần; khi những điều kiện hòa hợp dần dần phát triển ra khỏi hỗn loạn thế giới hiện tại, các thiên thần và nhân loại sẽ gặp nhau như những người bạn.

As the two planes, astral and physical, merge and blend, and continuity of consciousness is experienced upon the two, it will be difficult for human beings to differentiate at first between devas of the astral plane, and those of the physical. At the beginning of this period of recognition, men will principally contact the violet devas, for those of the higher ranks amongst them are definitely making the attempt to contact the human. These devas of the shadows are of a dark purple on the fourth etheric level, of a lighter purple, much the same colour as violet, on the third etheric level, a light violet on the second, whilst on the atomic subplane they are of a glorious translucent lavender.

Khi hai cõi, cõi cảm dục và cõi hồng trần, hòa nhập và hòa quyện, và sự liên tục của tâm thức được trải nghiệm trên cả hai, ban đầu sẽ gặp khó khăn cho nhân loại để phân biệt giữa thiên thần của cõi cảm dục và của cõi hồng trần. Vào thời kỳ bắt đầu này của sự công nhận, loài người sẽ chủ yếu liên lạc với các thiên thần tím, vì người thuộc các cấp bậc cao hơn trong số họ đang cố gắng tiếp xúc rõ rệt với nhân loại. Những thiên thần của bóng tối này có màu tím đậm trên cõi dĩ thái thứ tư, màu tím nhạt hơn, giống như màu tím, trên cõi dĩ thái thứ ba, màu tím nhạt trên thứ hai, trong khi trên cõi phụ nguyên tử, họ có màu tím oai hùng trong suốt.

Some of the groups of devas to be contacted on the physical plane are as follows:

Một số nhóm thiên thần được liên lạc trên cõi hồng trần như sau:

Four groups of violet devas, associated with the etheric doubles of all that exists on the physical plane. These four are in two divisions, those associated with the building of the etheric doubles, and those out of whose substance these doubles are built.

Bốn nhóm thiên thần tím, liên quan đến các thể đôi dĩ thái của tất cả những gì tồn tại trên cõi hồng trần. Trong đó bốn nhóm này được chia thành hai nhóm, nhóm liên quan đến việc xây dựng các thể đôi dĩ thái, và nhóm xây dựng các thể đôi này từ chất liệu của chính họ.

The green devas of the vegetable kingdom. These exist in two divisions also. They are of high development, and will be contacted principally along the lines of magnetisation. The greater devas of this order preside over the magnetic spots of the earth, guard the solitude of the forests, reserve intact spaces on the planet which are required to be kept inviolate; they defend them from molestation, and with the violet devas are at this time working definitely, though temporarily, under the Lord Maitreya. The Raja Lord of the astral plane, Varuna [913] and his brother Kshiti, have been called to the council chamber of the Hierarchy for specific consultation, and just as the Masters are endeavouring to prepare humanity for service when the World Teacher comes, so these Raja Lords are working along similar lines in connection with the devas. They are arduous in Their work, intense in Their zeal, but much obstructed by man.

Các thiên thần xanh của giới thực vật. Những thiên thần này cũng tồn tại trong hai nhóm. Họ có sự phát triển cao, và sẽ chủ yếu được liên lạc thông qua các đường magnet hóa. Những thiên thần lớn hơn của thứ tự này chủ trì các điểm từ trường của trái đất, bảo vệ sự cô độc của rừng, giữ nguyên trạng các không gian trên hành tinh cần được giữ nguyên vẹn; họ bảo vệ chúng khỏi sự xâm phạm, và cùng với các thiên thần màu tím đang làm việc rõ ràng, nhưng tạm thời, dưới Đấng Chưởng Giáo Maitreya. Chúa Tể Raja của cõi cảm dục, Varuna [913] và anh trai của Ngài, Kshiti, đã được triệu tập vào phòng hội đồng của Thánh đoàn để tham vấn cụ thể, và cũng như các Chân sư đang cố gắng chuẩn bị nhân loại cho phụng sự khi Thầy của Thế giới đến, thì các Chúa Tể Raja đang làm việc theo các nguyên tắc tương tự liên quan đến các thiên thần. Các Ngài rất tận tụy trong công việc của mình, nhiệt thành trong tâm huyết, nhưng bị nhiều sự ngăn trở bởi con người.

The white devas of the air and water who preside over the atmosphere work with certain aspects of electrical phenomena, and control the seas, rivers, and streams. From among them, at a certain stage in their evolution, are gathered the guardian angels of the race when in physical plane incarnation. Each unit of the human family has his guardian deva.

Các thiên thần trắng của không khí và nước chủ trì bầu khí quyển làm việc với những khía cạnh nhất định của hiện tượng điện, và kiểm soát biển, sông và suối. Trong số họ, ở một giai đoạn nào đó trong quá trình tiến hoá của họ, là các thiên thần hộ mệnh của giống dân khi trong sự nhập thể cõi hồng trần. Mỗi đơn vị của gia đình nhân loại có một thiên thần hộ mệnh.

Each group of devas has some specific method of development and some means whereby they evolve and attain a particular goal.

Mỗi nhóm thiên thần có một phương pháp phát triển cụ thể và một phương tiện phát triển và đạt được mục tiêu đặc biệt.

For the violet devas the path of attainment lies through feeling, and through educating the race in the perfecting of the physical body in its two departments.

Đối với các thiên thần tím, con đường đạt thành nằm qua cảm giác, và thông qua việc giáo dục giống dân trong việc cải thiện các thể hồng trần của mình trong hai lĩnh vực.

For the green devas the path of service is seen in magnetisation, of which the human race knows nothing as yet. Through this power they act as the protectors of the vegetable plant life, and of the sacred spots of the earth; in their work lies the safety of man’s body, for from the vegetable kingdom for the remainder of this round comes the nourishment of that body.

Đối với các thiên thần xanh, con đường phục vụ được thấy trong việc magnet hóa, mà nhân loại vẫn chưa biết đến. Thông qua sức mạnh này, họ làm nhiệm vụ bảo vệ sự sống thực vật và các điểm thiêng liêng của trái đất; trong công việc này nằm sự an toàn của cơ thể con người, bởi vì từ giới thực vật đến cuối chu kỳ này có sự nuôi dưỡng của cơ thể đó.

For the white devas the path of service lies in the guarding of the individuals of the human family, in the care and segregation of types, in the control of the water and air elementals, and much that concerns the fish kingdom.

Đối với các thiên thần trắng, con đường phục vụ nằm trong việc bảo vệ các cá nhân của gia đình nhân loại, trong việc chăm sóc và phân loại các loại, trong việc kiểm soát các nguyên tố nước và không khí, và nhiều thứ liên quan đến giới cá.

Thus in the service of humanity in some form or another lies attainment for these physical plane devas. They have much to give and do for humanity, and in time [914] it will be apparent to the human unit what he has to give towards the perfecting of the deva kingdom. A great hastening of their evolution goes forward now coincident with that of the human family.

Do đó, trong việc phục vụ nhân loại dưới một hình thức nào đó hoặc một cách khác, sự đạt thành nằm cho những thiên thần cõi hồng trần này. Họ có nhiều điều để trao đổi và thực hiện cho nhân loại, và theo thời gian [914] con người sẽ rõ ràng về điều gì anh ta có để cống hiến đối với sự hoàn thiện của giới thiên thần. Một sự thúc đẩy mạnh mẽ của sự tiến hóa của họ đang tiến triển bây giờ đồng thời với tiến hóa của gia đình nhân loại.

There is another group of devas about which much may not as yet be communicated. They have come in from another planetary scheme, and are specialists in their particular line. They have attained, or passed through, the human kingdom, and are of equal rank with certain members of the Hierarchy, having chosen to stay and work in connection with the physical plane evolution. They are not many in number, being only twelve. Four work in the violet group, five in the green group, and two in the white, with a presiding officer of rank equal to a Chohan. The number of the deva evolution is six, as that of man is now five, and as ten stands for perfected man, so twelve stands for perfection in the deva kingdom. This group presides over the three earlier enumerated. Certain subsidiary groups are found.

Có một nhóm thiên thần khác mà chưa thể tiết lộ nhiều về họ. Họ đã đến từ một hệ hành tinh khác, và là những người chuyên về dòng công việc cụ thể của họ. Họ đã đạt được, hoặc đã trải qua, giới nhân loại, và có cấp bậc tương đương với các thành viên nhất định của Thánh đoàn, đã chọn ở lại và làm việc trong liên kết với tiến hóa của cõi hồng trần. Họ không nhiều về số lượng, chỉ có mười hai người. Bốn người làm việc trong nhóm màu tím, năm người trong nhóm màu xanh, và hai người trong nhóm màu trắng, với một sĩ quan cao cấp có cấp bậc tương đương với một Chohan. Số lượng của tiến hóa thiên thần là sáu, như của con người bây giờ là năm, và vì mười tượng trưng cho con người hoàn hảo, thì mười hai tượng trưng cho sự hoàn thiện trong giới thiên thần. Nhóm này chủ trì ba nhóm trước đã được liệt kê. Có những nhóm phụ nhất định được tìm thấy.

Under group 1 are found all the elementals working with the etheric doubles of men, all the elementals forming the etheric bodies wherein is life, and all the elementals working with the etheric counterparts of so-called inanimate objects. These are named in the order and the importance of their development. The violet devas are on the evolutionary path; the elementals are on the involutionary path, the goal for them being to pass into the deva kingdom of violet hue.

Dưới nhóm 1 tập trung tất cả các hành khí làm việc với các thể đôi dĩ thái của con người, tất cả các hành khí hình thành các thể dĩ thái mà bao hàm sự sống, và tất cả các hành khí làm việc với các đối phần dĩ thái của các vật thể gọi là vô cơ. Những điều này được nêu lên theo thứ tự và tầm quan trọng của sự phát triển chúng. Các thiên thần tím đang trên con đường thăng thượng tiến hóa; các hành khí đang trên con đường giáng hạ, mục tiêu của họ là đi vào giới thiên thần màu tím.

Under group 2 work the fairies of plant life, the elves who build and paint the flowers, the radiant little beings who inhabit the woods and the fields, the elementals who work with the fruits, vegetables, and with all that leads to the covering of the earth’s surface with verdure. Associated with them are the [915] lesser devas of magnetisation, those attached to sacred spots, to talismans and to stones, and also a special group to be found around the habitations of the Masters wherever situated.

Dưới nhóm 2 có công việc của các tiên cây, các yêu tinh xây dựng và tô màu hoa, những sinh vật rực rỡ nhỏ bé cư ngụ trong rừng và cánh đồng, các hành khí làm việc với trái cây, rau quả, và với tất cả những gì dẫn đến bao phủ bề mặt của trái đất với thực vật. Được liên kết với họ là các [915] thiên thần nhỏ hơn của magnet hóa, những người liên kết với các điểm thánh, với bùa và đá, và cũng là một nhóm đặc biệt được tìm thấy xung quanh các ngôi nhà của các Chân sư ở bất cứ đâu.

Under group 3 work the elementals of the air and the sea, the sylphs, the water fairies, and the devas who guard each human being.

Dưới nhóm 3 làm việc với hành khí của không khí và biển, các thần gió, tiên nước, và các thiên thần bảo vệ mỗi con người.

Here only general hints are given. This list is not complete and does not include the grosser elementals, the brownies, and those that inhabit the dark spaces of the earth, the cities and the subterranean spots of the earth’s crust.

Ở đây chỉ có những gợi ý chung được đưa ra. Danh sách này không hoàn chỉnh và không bao gồm các hành khí thô tục hơn, những người nâu, và những người cư ngụ trong những không gian tối của trái đất, các thành phố và những vùng dưới lòng đất của vỏ trái đất.

[Commentary S7S14 Part 2]

The devas of the ethers carry on their foreheads a translucent symbol in the form of a crescent moon, and by this they may be distinguished from the astral devas by those able to see clairvoyantly.

Các thiên thần của các cõi dĩ thái mang trên trán mình một biểu tượng trong suốt dưới hình dạng mặt trăng lưỡi liềm, và nhờ vậy họ được phân biệt với các thiên thần của cõi cảm dục bởi những người có khả năng thấy được một cách thông nhãn.

As we consider the devas of the ethers, we find that they fall naturally—as far as manifestation is concerned—into two main groups. Each group is represented on each of the four subplanes, and this grouping must be considered as but one method of differentiation out of the many possible. These groups are, first, those devas who are the transmitters of prana to all forms of life; they are a group of intermediary devas, and may be regarded as the energy providers in their various differentiations; secondly, those devas who form the etheric bodies of every form in manifestation. These constitute the bulk of the lesser devas.

Khi chúng ta xem xét các thiên thần của cõi dĩ thái, chúng ta phát hiện ra rằng họ tự nhiên chia thành hai nhóm chính khi đề cập đến sự biểu hiện. Mỗi nhóm được đại diện trên mỗi bốn cõi phụ, và sự phân nhóm này chỉ được coi như một phương pháp phân biệt trong nhiều phương pháp có thể. Các nhóm này, đầu tiên, là những thiên thần là những người truyền dẫn prana cho tất cả các dạng sự sống; họ là một nhóm thiên thần trung gian, và có thể được coi như những nhà cung cấp năng lượng trong nhiều sự biến phân của họ; thứ hai, là những thiên thần hình thành các thể dĩ thái của mọi dạng đang biểu hiện. Đó là khối lượng lớn của các thiên thần nhỏ hơn.

There are naturally many other organised intelligences in the great Army of the Voice in connection with this primary division of the physical plane, but if the student will consider these two groups, and will investigate their relationship to man and to the Heavenly Man within Whose body they are to be found, he will learn much which will enable him to comprehend problems hitherto considered insoluble, and will find many thingsrevealed which will tend to revolutionise the findings of modern science, and bring about changes in the care of the physical body.

Tự nhiên có nhiều trí tuệ tổ chức khác trong đại Quân Đội của Linh từ liên quan đến sự phân chia chính của cõi hồng trần này, nhưng nếu môn sinh sẽ xem xét hai nhóm này, và điều tra mối quan hệ của họ với con người và với Đấng Thiên Nhân mà trong cơ thể của Ngài họ được tìm thấy, họ sẽ học được nhiều điều giúp họ hiểu các vấn đề trước đây được coi là không thể giải, và sẽ tìm ra nhiều điều được tiết lộ dẫn đến việc cách mạng hóa các phát hiện của khoa học hiện đại, và mang lại những thay đổi trong việc chăm sóc cơ thể hồng trần.

The Devas and Energy. Before we take up the consideration of these two groups it might be wise here to emphasise the necessity of remembering that when we consider the etheric levels of the physical plane we are dealing with those planes upon which the true form is to be found, and are approaching the solution of the mystery of the Holy Spirit and the Mother. In this realisation, and its extension to include an entire solar system, will come a clarifying of the connection between the four higher planes of the system and the three worlds of human endeavour. We have, in the macrocosm, the four planes of super-conscious life, or those four central vibrations which are the basis of the life and energy of the etheric body of a planetary Logos and of a solar Logos, and the three planes of conscious and of self-conscious life which form the dense physical vehicle of a Heavenly Man, and of the Grand Man of the Heavens.

Các Thiên Thần và Năng Lượng. Trước khi chúng ta bắt đầu xem xét hai nhóm này, có thể là khôn ngoan ở đây để nhấn mạnh sự cần thiết phải nhớ rằng khi chúng ta xem xét các cõi dĩ thái của cõi hồng trần, chúng ta đang xử lý những cõi mà dạng thật được tìm thấy, và đang tiến gần đến việc giải quyết bí ẩn của Chúa Thánh Thần và Mẹ. Trong sự nhận thức này, và sự mở rộng của nó để bao gồm toàn bộ hệ mặt trời, sẽ có một sự làm sáng tỏ mối liên hệ giữa bốn cõi cao hơn của hệ thống và ba thế giới của nỗ lực nhân loại. Chúng ta có, trong đại thiên địa, bốn cõi của sự sống siêu tâm thức, hay bốn rung động trung tâm vốn là cơ sở của sự sống và năng lượng của thể dĩ thái của một Hành Tinh Thượng đế và của Thái dương Thượng đế, và ba cõi của sự sống có ý thức và sự tự ý thức tạo nên thể vật chất đậm đặc của một Đấng Thiên Nhân, và của Đấng Đại Hùng của Trời.

By a close scrutiny of these conditions in the macrocosm and in the microcosm will come a comprehension of the reason why the physical vehicle is never considered a principle at all by occultists. The Holy Spirit, the One Who overshadows and Who implants the germ of life in the waiting acquiescent Virgin Mother or matter (causing her to awaken and to commence her great work of producing the divine incarnation) is a primary factor from the standpoint of the second solar system. In a way incomprehensible to modern thinkers, the Mother, or the divine Aspirant to the mysteries of the cosmic marriage, was (in a previous system) the dominant factor. In this system in connection with substance it is the Holy Spirit. The work, therefore, on etheric levels, and the energy and activity originating therefrom, are the factors that primarily are responsible on the physical [917] plane for all that is tangible, objective, and manifested. The accretion of matter around the vital body, and the densification of substance around the vital etheric nucleus are in themselves the result of interaction, and the final interchange of vibration between that which might be called the residue from an earlier manifestation, and the vibration of this present one.

Bằng cách xem xét chặt chẽ các điều kiện này trong đại thiên địa và trong tiểu thiên địa, sẽ có sự hiểu biết về lý do tại sao không bao giờ coi thể xác là một nguyên lý đối với các nhà huyền bí học. Chúa Thánh Thần, Đấng Phủ bóng và Người cấy mầm sự sống vào Đức Mẹ đồng trinh đang chờ đợi và sẵn lòng hoặc vật chất (khiến Bà tỉnh thức và bắt đầu công việc vĩ đại của mình trong việc thực hiện sự hiện thân thiêng liêng) là một yếu tố chính từ quan điểm của hệ mặt trời thứ hai. Theo một cách không thể hiểu nổi đối với những người suy nghĩ hiện đại, Đức Mẹ, hay ứng viên thiêng liêng cho các bí mật của hôn nhân vũ trụ, đã (trong một hệ thống trước) là yếu tố chiếm ưu thế. Trong hệ thống này liên quan đến chất liệu thì đó là Chúa Thánh Thần. Vì vậy, công việc trên các cõi dĩ thái, và năng lượng và hoạt động có nguồn gốc từ đó, là các yếu tố chính chịu trách nhiệm cho tất cả những gì là hữu hình, khách quan và biểu hiện trên cõi hồng trần. Sự tích tụ của vật chất xung quanh thể sinh lực, và sự ngưng tụ của chất liệu xung quanh hạt nhân dĩ thái sinh lực đều là kết quả của sự tương tác, và sự giao tiếp rung động cuối cùng giữa những gì có thể được gọi là dư âm từ một biểu hiện trước đó, và rung động của biểu hiện hiện tại này.

It is here—in the relation between positive electrical energy in its fourfold differentiation, and the triple negative receptive lower substance—that scientists will eventually arrive at certain definite deductions and discover:

Chính ở đây—trong mối quan hệ giữa năng lượng điện dương trong bốn lần biến phân của nó, và chất liệu âm tiêu cực tiếp nhận thấp hơn mà các nhà khoa học cuối cùng sẽ đi đến một số suy luận rõ ràng và khám phá:

a. The secret of matter itself, that is, matter as we know and see it.

a. Bí mật của chính chất liệu, tức là chất liệu như chúng ta biết và thấy nó.

b. The key to the process of creation upon the physical plane, and the method whereby density and concretion on the three lower levels are brought about.

b. Chìa khoá cho quá trình tạo ra trên cõi hồng trần, và phương pháp mà theo đó mật độ và sự ngưng đọng trên ba cấp độ thấp hơn được thực hiện.

c. The formulas for organic transmutation, or the key to the processes whereby the elements as we know them can be disintegrated and recombined.

c. Các công thức cho sự chuyển hóa hữu cơ, hoặc chìa khoá cho các quy trình mà các nguyên tố chúng ta biết có thể bị phân rã và tái hợp.

Only when scientists are prepared to admit the fact that there is a body of vitality which acts as a focal point in every organised form, and only when they are willing to consider each element and form of every degree as constituting part of a still greater vital body, will the true methods of the great goddess Nature become their methods. To do this they must be prepared to accept the sevenfold differentiation of the physical plane as stated by Eastern occultism, to recognise the triple nature of the septenary manifestation.

Chỉ khi các nhà khoa học sẵn lòng thừa nhận thực tế rằng có một thể sinh lực đóng vai trò là điểm tập trung năng lượng trong mỗi hình thức tổ chức, và chỉ khi họ sẵn lòng coi mỗi nguyên tố và hình thức của mọi cấp độ là cấu thành một phần của một thể sinh lực lớn hơn, thì các phương pháp đúng thực của nữ thần tự nhiên vĩ đại sẽ trở thành các phương pháp của họ. Để làm điều này, họ phải sẵn lòng chấp nhận sự phân biệt bảy lần của cõi hồng trần như đã được nêu ra bởi huyền bí học Đông phương, để thừa nhận bản chất ba mặt của biểu hiện bảy phần.

a. The atomic or Shiva energy, the energy of the first subplane or the first etheric plane.

a. Năng lượng nguyên tử hoặc năng lượng Shiva, năng lượng của cõi phụ đầu tiên hoặc cõi dĩ thái thứ nhất.

b. The vital form building energy of the three ensuing etheric levels.

b. Năng lượng xây dựng hình thể sinh lực của ba cõi dĩ thái tiếp theo.

c. The negative receptive energy of the three planes [918] of the dense physical, the gaseous, the liquid and the truly dense.

c. Năng lượng âm tiêu cực tiếp nhận của ba cõi [918] của hồng trần đậm đặc, khí, lỏng và thực sự đậm đặc.

They will also eventually consider the interplay between the lower three and the higher four in that great atom called the physical plane. This can be seen duplicated in the atom of the physicist or chemist. Scientific students who are interested in these matters will find it worth while to consider the correspondence between these three types of energy, and that which is understood by the words, atoms, electrons, and ions.

Họ cũng sẽ cuối cùng xem xét sự tương tác giữa ba thấp hơn và bốn cao hơn trong nguyên tử vĩ đại được gọi là cõi hồng trần. Điều này có thể được thấy tái hiện trong nguyên tử của nhà vật lý hoặc nhà hóa học. Các sinh viên khoa học quan tâm đến những vấn đề này sẽ thấy đáng để họ xem xét sự tương ứng giữa ba loại năng lượng này, và những gì được hiểu bởi các từ, nguyên tử, điện tử và ion.

All that manifests (from God to man)  [cclxxxiii]84 is the result of these three types of energy or force, of their combination, their interplay, and their psychic action and reaction. During the great cycle of logoic appearance it is the second type of energy which dominates and which is of evolutionary importance, and this is why the etheric body which lies back of all that is visible is the most important. This is equally true of gods, of men and of atoms.

Tất cả những gì biểu hiện (từ Thượng đế đến con người) [cclxxxiii]84 là kết quả của ba loại năng lượng hoặc mãnh lực này, sự kết hợp của chúng, sự tương tác của chúng và hành động tâm lý của chúng. Trong chu kỳ vĩ đại của sự xuất hiện logoic, đó là loại năng lượng thứ hai chiếm ưu thế và có tầm quan trọng tiến hóa, và đây là lý do tại sao thể dĩ thái nằm sau tất cả những gì thấy được là quan trọng nhất. Điều này cũng đúng với các vị thần, con người và nguyên tử.

Much time is spent in speculating upon the sources of life, upon the springs of action, and upon the impulses which underlie the creative processes. Hitherto science has worked somewhat blindly and has spent much time investigating the lower three planes. It has dealt principally with the Mother, with the negative receptive matter, and is only now becoming aware of the Holy Spirit aspect, or of the energy which enables that Mother to fulfill her function, and to carry on her work.

Nhiều thời gian được tiêu tốn để suy đoán về nguồn gốc của sự sống, về những động lực của hành động, và về những động lực thúc đẩy ẩn sau các quá trình sáng tạo. Cho đến nay, khoa học đã làm việc một cách khá mù quáng và đã tiêu tốn nhiều thời gian nghiên cứu ba cõi thấp hơn. Nó chủ yếu xử lý Mẹ, với chất liệu âm tiêu cực tiếp nhận, và chỉ bây giờ bắt đầu trở nên nhận thức về khía cạnh Chúa Thánh Thần, hoặc năng lượng cho phép Mẹ thực hiện chức năng của mình, và tiếp tục công việc của mình.

Considering the same problem microcosmically it may be pointed out that men are only now beginning to be [919] aware of the springs of spiritual action, and of the sources of spiritual life. The energy of the higher planes is only revealing itself as men begin to tread the Way, and to come under the influence of buddhi, which flows from the fourth cosmic etheric plane.

Cân nhắc cùng vấn đề trong tiểu thiên địa, có thể được chỉ ra rằng đàn ông chỉ đang bắt đầu [919] nhận thức về nguồn gốc của hành động tinh thần, và của nguồn gốc của sự sống tinh thần. Năng lượng của các cõi cao hơn chỉ đang tự tiết lộ khi con người bắt đầu đi trên Đường Đạo, và bắt đầu chịu ảnh hưởng của bồ đề, vốn chảy từ cõi bồ đề thứ tư.

Finally, when scientists are willing to recognise and to co-operate with the intelligent forces that are to be found on etheric levels, and when they become convinced of the hylozoistic nature of all that exists, their findings and their work will be brought into a more accurate correspondence with things as they really are. This, as has been earlier pointed out, will be brought about as the race develops etheric vision, and the truth of the contentions of the occultist is proved past all controversy.

Cuối cùng, khi các nhà khoa học sẵn lòng công nhận và hợp tác với các lực lượng thông minh trên các cõi dĩ thái, và khi họ trở nên thuyết phục về bản chất hylỗzôi của tất cả những gì tồn tại, thì kết quả nghiên cứu và công việc của họ sẽ được làm rõ mối quan hệ chính xác hơn với những sự việc như chúng thực sự là. Điều này, như đã được chỉ ra trước đó, sẽ xảy ra khi giống dân phát triển tầm nhìn dĩ thái, và sự thật của những tuyên bố của nhà huyền bí học được chứng minh vượt qua mọi tranh cãi.

It will have been noted that in the enumeration of these two main groups, we did not touch upon that great group of Builders who are called esoterically “Those who transmit the Word.” I have only dealt with the two groups who constitute the “Army of the Voice.” This is due to the fact that in this section we are only dealing with that army, or with those builders, great and small, who are swept into activity as the Word of the physical plane sounds forth. The “Transmitters of the Word” upon the first subplane or atomic level are those who take up the vibratory sound as it reaches them from the astral plane and—passing it through their bodies—send it forth to the remaining subplanes. These transmitters may be, for purposes of clarity, considered as seven in number. In their totality they form the atomic physical bodies of the Raja Lord of the plane and in a peculiarly occult sense these seven form (in their lower differentiations on etheric levels) the sumtotal of the etheric centres of all human beings, just as on the cosmic etheric levels are found the centres of a Heavenly Man.

Sẽ nhận thấy rằng trong việc liệt kê hai nhóm chính này, chúng ta không chạm vào nhóm các Nhà Xây Dựng vĩ đại được gọi một cách huyền bí là “Những Người Truyền Linh Từ.” Tôi chỉ đã đề cập đến hai nhóm tạo thành “Quân Đội của Linh Từ.” Điều này là do thực tế là trong phần này chúng ta chỉ đang xử lý quân đoàn đó, hoặc với những nhà xây dựng, lớn và nhỏ, vốn bị cuốn vào hoạt động khi Linh Từ của cõi hồng trần vang lên. Những “Người Truyền Linh Từ” trên cõi phụ đầu tiên hoặc cõi nguyên tử là những người nhận rung động âm thanh khi nó đến từ cõi cảm dục và, sau khi truyền nó qua cơ thể của họ, gửi nó đến các cõi phụ còn lại. Những người truyền dẫn này có thể, cho mục đích làm rõ, được coi là bảy về số lượng. Tổng cộng, họ tạo thành các cơ thể vật lý nguyên tử của Chúa Tể Raja của cõi đó và theo một nghĩa huyền bí đặc biệt, nhóm bảy này tạo thành (trong sự biến phân thấp hơn của chúng trên các cõi dĩ thái) tổng số của các trung tâm dĩ thái của tất cả các thực thể con người, cũng như trên các cõi dĩ thái vũ trụ tìm thấy các trung tâm của một Đấng Thiên Nhân.

The connection between the centres and etheric substance, systemic and human, opens up a vast range for [920] thought. The “Transmitters of the Word” on the atomic subplane of each plane are devas of vast power and prerogative who may be stated to be connected with the Father aspect, and embodiments of electric fire. They are all fully self-conscious, having passed through the human stage in earlier kalpas. They are also corporate parts of the seven primary head centres in the body of a solar Logos or planetary Logos.

Mối liên hệ giữa các trung tâm và chất liệu dĩ thái, hệ thống và con người, mở ra một phạm vi rộng lớn cho [920] suy nghĩ. Các “Người Truyền Linh Từ” trên cõi phụ nguyên tử của mỗi cõi là các thiên thần có quyền năng và quyền đặc biệt rộng lớn mà có thể được nêu ra là có mối liên quan đến khía cạnh Cha, và là hiện thân của lửa điện. Họ đều hoàn toàn tự ý thức, đã trải qua giai đoạn con người trong các kalpa trước đó. Họ cũng là các bộ phận công ty của bảy trung tâm đầu tiên trong cơ thể của một Thái dương Thượng đế hoặc Hành Tinh Thượng đế.

Though connected with the Father aspect, they are nevertheless part of the body of the Son, and each of them, according to the plane which he energises, is a component part of one or other of the seven centres, either solar or planetary—planetary when only the particular centre is concerned, systemic when that centre is viewed as an integral part of the whole.

Mặc dù có sự liên kết với khía cạnh Cha, họ vẫn là một phần của cơ thể của Con, và mỗi trong số họ, tùy theo cõi mà anh ta kích động, là một phần cấu thành của một trong những trung tâm bảy, hoặc là Thái dương hoặc hành tinh—hành tinh khi chỉ có trung tâm đặc biệt quan tâm, hệ thống khi trung tâm đó được xem xét như một phần không thể thiếu của toàn bộ.

Each of these great lives (embodying deva energy of the first degree) is an emanation from the central spiritual sun in the first instance and from one of the three major constellations in the second instance. Systemically they fall into three groups: Group 1 includes those transmitters of the Word who are found on the three lower subplanes of the plane Adi, or the logoic plane. Group 2 comprises those great builders who transmit the Word on the three next systemic planes, the monadic, the atmic and the buddhic. Group 3 is formed of those who carry on a similar function in the three worlds of human endeavour. Fundamentally they are also emanations from one of the seven stars of the Great Bear in the third instance.

Mỗi trong những sự sống vĩ đại này (hiện thân cho năng lượng thiên thần đầu tiên) là một sự phát xạ từ Mặt trời Tinh thần Trung Ương đầu tiên và từ một trong ba chòm sao lớn nhất trong lần thứ hai. Hệ thống chúng chia thành ba nhóm: Nhóm 1 bao gồm những người truyền dẫn Linh Từ trên ba cõi phụ thấp hơn của cõi Adi, hoặc cõi thượng đế. Nhóm 2 bao gồm những người xây dựng vĩ đại truyền Linh Từ trên ba cõi hệ thống tiếp theo, cõi chân thần, cõi atma và cõi bồ đề. Nhóm 3 gồm những người thực hiện chức năng tương tự trong ba thế giới nỗ lực nhân loại. Về cơ bản, họ cũng là những phát xạ từ một trong bảy ngôi sao của Tam Đại Hùng trong lần thứ ba.

In these triple emanatory forces may be found the origin of all that is visible and objective, and through their agency our solar system takes its place within the greater cosmic scheme, and a certain basic cosmic fire is formed. They are the sumtotal of the head, the heart and the throat centres of the solar Logos, and their correspondences will be found within a Heavenly Man, a human [921] being, and an atom. Hence the scientist, as he discovers the nature of the atom, is putting himself in touch with these three types of solar energy, and is unravelling the central mystery of the system. As the triple nature of the atom stands revealed, so likewise the triple nature of man and of God gradually becomes proven. The energy of these groups passes through the physical sun, and from thence they sound the Word for the particular plane of their specific endeavour.

Trong những lực lượng phát xạ ba này có thể tìm thấy nguồn gốc của tất cả những gì hữu hình và khách quan, và thông qua sự trợ giúp của họ, hệ mặt trời của chúng ta chiếm một vị trí trong kế hoạch vũ trụ lớn hơn, và một ngọn lửa vũ trụ cơ bản đã được tạo thành. Họ là tổng hòa của các trung tâm đầu, tim và cổ họng của Thái dương Thượng đế, và những sự tương ứng của họ sẽ được thấy trong một Hành Tinh Thượng đế, một con người và một nguyên tử. Vì vậy, các nhà khoa học, khi họ khám phá ra bản chất của nguyên tử, đang tiếp xúc với các loại năng lượng Thái dương này, và đang giải đáp bí mật trung tâm của hệ thống. Như bản chất ba của nguyên tử dần dần lộ diện, cũng vậy, bản chất ba của con người và của Thượng đế từng bước được chứng minh. Năng lượng của các nhóm này truyền qua Mặt Trời Thể Dĩ thái, và từ đó họ truyền Linh Từ cho cõi chính yếu của sự nỗ lực cụ thể của họ.

The student must not make the mistake of thinking that these seven great transmitters are the seven Heavenly Men. They form one half of Their real nature. This is all that can be said of this great mystery, though it might be added that from another angle of vision, they form but one third of his threefold divine nature. Man is dual, being Spirit and matter; he is also, during evolution, a triplicity, so it is with a Heavenly Man, and hence the mystery.

Người học không nên mắc sai lầm nghĩ rằng bảy người truyền dẫn vĩ đại này là bảy Đấng Thiên Nhân. Họ hình thành một nửa trong thực sự của họ. Đây là tất cả những gì có thể nói về bí ẩn lớn này, mặc dù có thể thêm rằng từ một góc nhìn khác, họ chỉ hình thành một phần ba trong tự nhiên ba phần thần thánh của Ngài. Con người là hai phần, linh là Tinh thần và vật chất; trong suốt tiến hóa, anh ta cũng là một tam phân, cũng vậy là một Đấng Thiên Nhân, và do đó bí ẩn.

The great Transmitter of the Word on the physical plane, which is the one under our consideration, is the energising factor of the throat centre of Brahma. An interesting tabulation of the threefold centres and the three divine aspects might here be given which may prove of use to the student, though he should carefully bear in mind that these centres are for the purpose of generating and transmitting energy.

Người truyền dẫn Linh Từ vĩ đại trên cõi hồng trần, vốn là người đang được xem xét, là yếu tố cung cấp năng lượng cho trung tâm cổ họng của Brahma. Một bảng xếp hạng thú vị về các trung tâm tam phân và ba khía cạnh thần thánh có thể được đưa ra ở đây, có thể hữu ích cho người học, mặc dù anh ta nên cẩn thận ghi nhớ rằng những trung tâm này hiện diện là để tạo ra và truyền dẫn năng lượng.

1. The transmitter of energy on the physical plane forms the throat centre in the body of Brahma, the third aspect.

1. Người truyền dẫn năng lượng trên cõi hồng trần hình thành trung tâm cổ họng trong cơ thể của Brahma, khía cạnh thứ ba.

2. The transmitter of energy upon the astral plane forms the heart centre of Brahma.

2. Người truyền dẫn năng lượng trên cõi cảm dục hình thành trung tâm tim của Brahma.

3. The transmitter of the Word on the mental plane forms the head centre of this, the third aspect.

3. Người truyền dẫn Linh Từ trên cõi trí hình thành trung tâm đầu của khía cạnh thứ ba này.

These three Raja Lords, devas, or transmitters, form the three centres of logoic force in the three worlds. They are the lowest energy aspect of Brahma. [922]

Ba Chúa Tể Raja này, các thiên thần, hoặc người truyền dẫn, hình thành ba trung tâm của năng lượng lo-go-ic trong ba thế giới. Họ là khía cạnh năng lượng thấp nhất của Brahma. [922]

4. The Transmitter of the Word upon the buddhic plane forms the throat centre of Vishnu, the second aspect. From thence the Word goes forth that builds the dense physical form of a Heavenly Man or of a solar Logos.

4. Người truyền dẫn Linh Từ trên cõi bồ đề hình thành trung tâm cổ họng của Vishnu, khía cạnh thứ hai. Từ đó Linh Từ phát ra xây dựng thể vật chất đậm đặc của một Đấng Thiên Nhân hoặc của một Thái dương Thượng đế.

5. The Transmitter of energy upon the monadic plane forms the heart centre of Vishnu, the second aspect.

5. Người truyền dẫn năng lượng trên cõi chân thần hình thành trung tâm tim của Vishnu, khía cạnh thứ hai.

6. The Transmitter of force upon the atmic plane forms the head centre of Vishnu.

6. Người truyền dẫn mãnh lực trên cõi atma hình thành trung tâm đầu của Vishnu.

This tabulation will be confusing to students unless it is realised that we are here considering these aspects only as dualities, and are dealing with one of the dual parts. It will be apparent that in the Vishnu aspect, for instance, which manifests upon the second plane, the energy of that plane will act as the head centre to the succeeding planes, and this apprehension, rightly grasped, will clarify the others.

Bảng thống kê này sẽ gây lúng túng cho người học trừ khi nhận ra rằng chúng ta đang xét các khía cạnh này chỉ như những đối ngẫu, và đang xử lý một trong những phần đối ngẫu. Sẽ rõ ràng rằng trong khía cạnh Vishnu, chẳng hạn, nó biểu hiện trên cõi thứ hai, năng lượng của cõi đó sẽ hành động như trung tâm đầu cho các cõi tiếp theo, và sự nhận thức đúng đắn về điều này sẽ làm rõ các khía cạnh khác.

The Transmitter of the Word on the first plane of Adi is the embodiment of the throat centre of a cosmic entity. From this statement will come a just realisation of our place in the cosmic scheme, and the fundamentally physical nature of the seven planes of the solar system is also here demonstrated, the nature of Brahma, or the Holy Spirit, becoming apparent.

Người Truyền Linh Từ trên cõi đầu tiên của Adi là hiện thân của luân xa cổ họng của một thực thể vũ trụ. Từ tuyên bố này sẽ mang lại một nhận thức đúng đắn về vị trí của chúng ta trong đại thể vũ trụ, và bản chất cơ bản vật lý của bảy cõi của hệ mặt trời cũng được minh chứng ở đây, bản chất của Brahma, hay Chúa Thánh Thần, trở nên rõ ràng.

The old Commentary says:

Cổ Luận xưa nói rằng:

“Brahma is One, yet includes His brother. Vishnu is One, yet existeth not apart from His brother, younger in point of time yet older far. Shiva is One, and antedates Them both, yet He appeareth not nor is He seen, until They both have cycled through Their courses.”

“Brahma là Một, nhưng bao gồm Cả Huynh Đệ Ngài. Vishnu là Một, nhưng tồn tại không tách rời khỏi Huynh Đệ Ngài, trẻ hơn về mặt thời gian nhưng xa xưa hơn. Shiva là Một, và có trước Cả Hai, tuy nhiên Ngài không xuất hiện và không được thấy, cho đến khi Cả Hai hoàn thành chu trình của Các Ngài.”

The above sevenfold tabulation can be, under the law of correspondences, applied equally to every plane, for the transmitters and workers on each plane form similar groups. Equally well can man consider this tabulation in connection with his seven centres, and from a study [923] of the two together he will gain knowledge as to the type of energy which flows through any particular centre. These transmitters likewise can be heard sounding forth the Word with particular force and power in that planetary scheme which corresponds to their note and is keyed to their vibration. The planetary schemes, therefore, will fall into a similar grouping, and this will open up for students a vast field of conjecture. The seven Prajapatis fall into two groups of three, with one dominating. Students will do well to remember in studying the solar system, the planes, the schemes, man and the atom, that the groupings of the lines or streams of energy during the evolutionary cycles fall naturally into four divisions:

Bảng bảy phân nêu trên có thể, theo định luật tương ứng, được áp dụng cho mọi cõi, vì những người truyền và công nhân trên mỗi cõi tạo thành các nhóm tương tự. Con người cũng có thể coi bảng này liên quan đến bảy luân xa của mình, và từ việc nghiên cứu [923] hai yếu tố này người ấy sẽ đạt được tri thức về loại năng lượng tuôn chảy qua một luân xa cụ thể nào đó. Những người truyền này cũng có thể được nghe phát ra Linh Từ với lực và quyền năng đặc biệt trong sơ đồ hành tinh tương ứng với âm điệu của chúng và được điều chỉnh theo rung động của chúng. Do đó, các sơ đồ hành tinh sẽ rơi vào một nhóm tương tự, và điều này sẽ mở ra cho đạo sinh một lĩnh vực suy đoán rộng lớn. Bảy Prajapatis rơi vào hai nhóm ba, với một nhóm thống trị. Đạo sinh sẽ được lợi nếu nhớ rằng khi nghiên cứu hệ mặt trời, các cõi, các sơ đồ, con người và nguyên tử, rằng các nhóm của những dòng hoặc dòng chảy năng lượng trong các chu kỳ tiến hóa sẽ tự nhiên chia thành bốn phân chia:

1. 1-3-3

1. 1-3-3

2. 4-3

2. 4-3

3. 3-4

3. 3-4

4. 3-1-3

4. 3-1-3

Division 1 can be understood under the law of correspondences when the nature of the atomic plane of the solar system, the three cosmic etheric planes, and the three planes of human endeavour are investigated in connection with each other.

Phân chia 1 có thể được hiểu theo định luật tương ứng khi bản chất của cõi nguyên tử của hệ mặt trời, ba cõi dĩ thái vũ trụ, và ba cõi nỗ lực của con người được điều tra liên quan đến nhau.

Division 2 becomes easier of comprehension when the close relation between the four cosmic etheric planes and the three lower planes is grasped. This can be illuminated by a study of the four physical ethers and the three lower subplanes of our physical plane.

Phân chia 2 trở nên dễ hiểu hơn khi mối quan hệ gắn bó giữa bốn cõi dĩ thái vũ trụ và ba cõi thấp hơn được hiểu. Điều này có thể được soi sáng bằng việc nghiên cứu bốn dĩ thái vật lý và ba cõi phụ thấp hơn của cõi hồng trần của chúng ta.

Division 3 finds the clue to its mystery in the constitution of the mental plane, with its three formless levels, and its four levels of form.

Phân chia 3 tìm thấy manh mối cho bí ẩn của nó trong cấu tạo của cõi trí, với ba mức không hình và bốn mức hình.

Division 4 can be grasped as the student arrives at a comprehension of his own nature as a spiritual triad, an egoic body and a threefold lower man. He can likewise approach the first division in a similar manner, and view himself as a primary force or Monad, a triple secondary [924] force or Ego, and a threefold lower energy, or personality, remembering that we are here dealing only with creative energy and with the Brahma aspect of manifestation as it co-ordinates itself with the Vishnu aspect.

Phân chia 4 có thể được nắm bắt khi đạo sinh đạt đến sự thấu hiểu về bản chất của mình như một tam nguyên tinh thần, một thể chân ngã và một phàm ngã tam phân. Người ấy cũng có thể tiếp cận phân chia đầu tiên theo cách tương tự, và nhìn nhận bản thân như một lực lượng nguyên thủy hoặc Chân Thần, một lực thứ cấp tam phân hoặc Chân Ngã, và một năng lượng thấp hơn ba phân, hoặc phàm ngã, đồng thời nhớ rằng chúng ta chỉ đang đề cập đến năng lượng sáng tạo và với phương diện của Brahma trong sự biểu lộ khi nó tự điều hòa với phương diện Vishnu.

The Transmitters of Prana. We have in an earlier section of this treatise considered somewhat the devas who are the transmitters of prana for the etheric body of man and of the planet. They are the reflection upon the lowest plane of the Vishnu aspect of divinity; the seven subplanes of our physical plane reflect in a dim and distorted fashion the three aspects, and are a shadow, dark and unrevealing, of the Godhead. This group of transmitters are responsible for three principal results, and are active along three main lines.

Những Người Truyền Prana. Chúng ta đã xem xét ở phần trước của luận này về các thiên thần là những người truyền prana cho thể dĩ thái của con người và của hành tinh. Chúng là phản ánh trên cõi thấp nhất của phương diện Vishnu của thiên tính; bảy cõi phụ của cõi hồng trần của chúng ta phản ánh một cách mờ tối và lệch lạc ba phương diện, và là bóng tối, không hé mở của Thượng đế. Nhóm người truyền này chịu trách nhiệm cho ba kết quả chính, và hoạt động dọc theo ba đường chính.

They are the devas who vitalise and produce the energy of all forms of sentient life. Theirs is the life which pulsates through the etheric body of every plant and animal and of all intermediate forms of life, and which constitutes the raging fire which is seen circulating through all etheric vehicles. Among many other functions they produce the warmth of the sun and of all bodies; they are the cause of solar, planetary, and human radiation, and they nourish and preserve all forms. They occultly mediate between the Father and the Mother on each plane, whether cosmic or systemic. They originate in the sun, and are closely related to the logoic and planetary solar plexus, for the evolutionary process, as in all manifestation, is the result of desire, acting upon the creative faculties and producing that which is objective.

Chúng là thiên thần cung cấp năng lượng và tạo ra năng lượng của mọi hình tướng sống cảm thức. Sự sống của chúng là sự sống đang đập trong thể dĩ thái của mọi thực vật và thú vật và của mọi hình tướng sống trung gian, và là lửa đang cháy được thấy tuần hoàn qua mọi hiện thể dĩ thái. Trong nhiều chức năng khác, chúng tạo ra hơi ấm của mặt trời và của mọi thân thể; chúng là nguyên nhân của sự bức xạ mặt trời, hành tinh và con người, và chúng nuôi dưỡng và bảo tồn mọi hình tướng. Chúng che giấu một cách huyền bí giữa Cha và Mẹ trên mỗi cõi, dù là vũ trụ hay hệ thống. Chúng khởi nguồn từ mặt trời và có mối quan hệ mật thiết với tùng thái dương của Thái dương hệ và hành tinh, vì quá trình tiến hóa, như trong mọi biểu lộ, là kết quả của khát vọng, tác động lên khả năng sáng tạo và tạo ra điều có tính khách quan.

They are the devas who energise the myriads of minute lives which build the etheric bodies of all that is seen and tangible, and who are the instigators of the creative processes on the three lowest subplanes of the physical plane. Systemically, the devas engaged in this line of activity can be subdivided into two groups: [925]

Chúng là những thiên thần nạp năng lượng cho vô số sự sống nhỏ bé mà kiến tạo thể dĩ thái của tất cả những gì thấy được và sờ nắm được, và là khởi đầu của các quá trình sáng tạo trên ba cõi phụ thấp nhất của cõi hồng trần. Theo hệ thống, các thiên thần hoạt động trong lĩnh vực này có thể được chia thành hai nhóm: [925]

a. Those who work on the four higher systemic planes and from thence influence in the three worlds, producing through reflex action the desired results.

a. Những thiên thần hoạt động trên bốn cõi hệ thống cao hơn và từ đó ảnh hưởng trong ba cõi, tạo ra thông qua hành động phản xạ các kết quả mong muốn.

b. Those who work in the three worlds of human endeavour, producing directly dense physical manifestation.

b. Những thiên thần hoạt động trong ba cõi nỗ lực của con người, sản sinh trực tiếp biểu lộ thể chất đậm đặc.

All the etheric devas who transmit energy on the physical plane belong to the second division above enumerated, and according to the subplane on which they work come under the guidance of a greater intelligence on a corresponding plane.

Tất cả các thiên thần dĩ thái truyền năng lượng trên cõi hồng trần thuộc về phân chia thứ hai đã được liệt kê ở trên, và theo cõi phụ mà chúng hoạt động dưới sự hướng dẫn của một trí tuệ lớn hơn trên một cõi tương ứng.

There are also the devas who form the attractive force of all subhuman forms, holding the forms of the three lower kingdoms of nature together in coherency, and thus producing the body of manifestation of the great Entity who is the sumtotal of the life of the kingdom, and of the lesser beings who ensoul different families and groups within any specific kingdom.

Cũng có những thiên thần hình thành lực hấp dẫn của tất cả các hình tướng dưới nhân thể, giữ các hình tướng của ba vương quốc thấp hơn của tự nhiên lại với nhau thành sự gắn kết, và do đó tạo thành thân thể biểu lộ của Thực thể vĩ đại là tổng hợp của sự sống của vương quốc, và các thực thể nhỏ hơn phú linh các gia đình và nhóm khác nhau trong bất kỳ vương quốc cụ thể nào.

The Devas of the Etheric Double. The subject that we are to deal with now concerns those devas who are etheric doubles of all that is. It is full of profit therefore to the wise student, for it reveals the method whereby all forms materialise upon the physical plane.

It is not the purpose of this treatise to trace the materialisation of a form as it originates upon the archetypal planes, through the agency of divine thought, and from thence (through directed streams of intelligent energy) acquires substance as it is reproduced upon each plane, until eventually (upon the physical plane) the form stands revealed at its densest point of manifestation. No form is as yet perfect, and it is this fact which necessitates cyclic evolution, and the continual production of forms until they approximate reality in fact and in deed. The method of form production may be tabulated as follows: [926]

FORM PRODUCTION

1. Divine thought…The cosmic mental plane.

2. Divine desire…..The cosmic astral plane.

3. Divine activity….The cosmic physical plane (our seven systemic planes).

The logoic Breath…First plane…The Sound  [cclxxxiv] 85 A.

This is the first etheric appearance of a solar system upon the atomic subplane of the cosmic physical plane. The seeds of life are all latent. Faculty inheres from an earlier solar essence.

The logoic Sound…Second plane…The Sound A U.

This is the body of the solar system in the second ether. This plane is the archetypal plane. The seeds of [927] life are vibrating or germinating. The seven centres of energy are apparent. The one deva Agni is seen as seven. The form is now potentially perfect.

The logoic triple Word..The third plane..The Sound A U M.

The body of the solar system in substance of the third etheric plane is seen, and the three function as one. The triple energy of the Logos is co-ordinated, and nothing now can hinder the work of evolution. The three groups of devas are active, and the archetypal form is in process of materialization.

The logoic septenary word…The fourth plane…The seven syllabled Word. The logoic etheric Centres become active

The etheric body of the solar system is now complete, though it will not be perfected till the end of another manvantara. The greater body of vitality is ready to energise the dense physical vehicle. The seven centres with their forty-nine major petals are vibrant, and consciousness thrills through every atom in the system.

An interlude or period of pause is to be found at this stage of development; in it the processes of co-ordination and of stabilisation are carried on; the energy or the vibration is increased until it becomes possible, by a simultaneous effort, emanating from all the three aspects, to bring into objectivity that which is as yet subjective. This is paralleled by man on the physical plane in the applied effort he has to make to bring through and materialise, that which he has conceived and desired. The reason so many people fail in materialising their concepts, and hence come to be reckoned as failures, is owing to the fact of their inability to make a co-ordinated applied effort, and thus set in motion substance of the three lower subplanes of the physical plane. They succeed [928] in bringing their concept through from the mental plane (as does the Logos on cosmic levels) as far as the fourth etheric level of the physical, and there their energy becomes exhausted owing to three things:

a. Lack of sustained will or concentration,

b. Lack of alignment with the Ego,

c. A weakness of co-ordination between the two parts of the physical vehicle.

The logoic Phrase…Fifth plane…The plane of the logoic mantram of 35 stanzas. The gaseous body.

The gaseous form of the solar system now appears, and the energy centres become veiled and hidden. Accretion and concretion rapidly proceeds. The three groups of builders co-ordinate their efforts afresh and a new influx of energy—bearing devas from the logoic head centre—pours in. The lesser builders respond to the logoic mantram chanted anew at each manvantara, and the seven streams of energy from the seven logoic centres are directed downwards.

The logoic Song of Love or Desire…The Sixth plane…A poem in forty-two verses. The logoic liquid body.

This song or vibration causes the bringing in of a body of devas from the logoic heart centre to swell the efforts of those already active. The liquid body of the solar Logos appears, and the form exists in its six differentiations. Concretion is very rapid, and activity is considerably more violent owing to the greater density of the accruing substance.

The logoic Book of Life…Seventh plane…Exists in forty-nine chapters.

The entire form stands revealed. During evolution it must manifest its purpose and its nature. A third group [929] of devas from the logoic throat centre appear, and cooperate with their brothers. All the fires are burning, all the centres are active, and every petal, forty-nine in number, on the fourth plane of Buddhi is producing a reflex activity upon the dense physical plane.

Men, when occupied in creation of any kind, and in the process of producing forms on earth which embody an idea, work along similar lines. The analogy is perfect.

In connection with those human beings who create nothing, but who are only swept into activity under the urge of circumstance—and they are the bulk of the human race—it should be pointed out that they are a part of the creative activity of some greater, and more advanced, entity. As self-conscious evolution proceeds, more and more of the human family will become creators and intelligent workers in connection with deva substance. In the initial stages, therefore, of their dissociation from a passive attitude, there will be found a revolt against law and order, a refusal to be governed, and an ability evidenced to follow out an individual concept at the expense of the group, great or small. This apparent defect, evolution itself and experience will remedy, and as the consciousness becomes alive to higher vibrations the man will become aware of the purpose and plan of the Intelligence of his group. He will awaken to the beauty of that plan and will begin to submerge his own interests in the greater, and to co-operate intelligently. The creative power which had before been of a separative nature will be offered as a willing sacrifice to the greater energy, and his small plans and ideas will be merged in the greater ones. He will no longer, however, be a passive unit, swept hither and thither by the energy of his group, but will become a positive, active potent force, self-immolated through intelligent recognition of the greater plan.

He will become alive to the fact that there are living [930] forces in nature. As the greater energy thrills through him, his own latent powers are awakened. He sees and knows the deva forces and can consequently work with them intelligently. Some he will control and manipulate, with others he will co-operate, and others still he will obey.

It is in the realisation of these facts anent deva substance, the power of sound, the law of vibration, and the ability to produce forms in conformity with law, that the true magician can be seen. Herein too lies one of the distinctions to be found between magicians of the Good Law, and those of the Left-hand Path. A white magician can control and manipulate deva substance, and he proceeds to do it through an intelligent co-operation with the greater builders. Owing to the purity and holiness of his life, and the height of his own vibration, he can contact them in some one or other of their grades. The magician of the shadows controls and manipulates deva substance on the astral and physical plane and on the lower levels of the mental plane through the force of his own vibration and knowledge, but not through co-operation with the directing builders. He cannot contact them, as his character is impure through selfishness, and his vibration is too low; his power therefore is limited and destructive, yet immense within certain restrictions.

The devas of the etheric doubles fall into two groups. They are those who are the lesser builders, and who, under direction from the greater builders, form the etheric doubles of all that can be seen and all that is tangible on the dense physical plane. They exist in vast hosts and are omnipresent; they gather and build the material needed to form the etheric double of everything, and they do this under certain laws and work under certain restrictions. They are called in occult phraseology “the listening devas,” for they are the ones who pick up that particular note and tone from the transmitters of [931] the physical plane sound which is needed to gather the substance for any intended material form. Again, they are spoken of as “having ears but seeing not.” They work in close co-operation with the elementals of the dense physical body. This second group are spoken of as the “seeing elementals,” for they exist in matter of the three lower subplanes and can therefore see on the objective plane in the occult sense which always implies an analogy between sight and knowledge. The ”listening builders” gather the material; the “seeing elementals” take that gathered material, and build it into any specific form. They exist in many groups according to their point in evolution, and some of them might be tabulated as follows:

1. The builders of the human vehicle.

This is the highest group of lesser builders, who are highly specialised. These will be dealt with somewhat in detail later.

2. The builders of the forms in the three kingdoms of nature in their two divisions.

First. The builders of the mineral kingdom. These are the workers occultly called “the elemental alchemists.” They are in many groups connected with the differing elements, metals, chemicals, and minerals, and with what are called active and radioactive substances. They are the custodians of two secrets, that of the immetalisation of the Monad, and the secret of the transmutation of metals.

Second. The builders of the vegetable kingdom. They exist in many groups and are termed “the surface alchemists” and “the bridging units.” They build the doubles of every form of vegetable life, and just as the “alchemists” of the mineral kingdom are mostly concerned with the action of fire, these other alchemical workers are concerned with the liquid action of divine [932] manifestation. They work, therefore, in co-operation with the devas of the waters, or liquid substance, whilst the earlier mentioned group work with the gaseous devas. A hint is here conveyed, but greater expansion of the statement is not possible, owing to the danger of the knowledge to be reached. With them is hidden three secrets: One is concerned with the earlier solar system, or the green solar system; another deals with the laws of bridging, or the interaction between the kingdoms of nature, and the third is connected with the history of the second round; this secret when revealed will make clear why man (under the law) should be a vegetarian and not carnivorous. Scientists are learning already certain things connected with the second secret, and they may hope, as the knowledge of the significance of colour is extended, to glean hints as to the first. The third secret will not be indicated more clearly till the sixth race is living upon earth.

Third. The builders of all animal etheric forms. These are a group closely allied with those who build the human form. They came in force from a reservoir of energy which was kept in a quiescent condition until the physical condition of any particular scheme warranted their activity. With them came in much that accounts for the present sad condition, for much of the fear, hatred, and destructive condition to be found among the animals is caused by their bodies being built, and the work of evolution carried on by the “imperfect gods” (as H. P. B. expresses it) working in imperfect matter as yet imperfectly manipulated. The secret of fear is hidden in the etheric body, and the particular type of substance out of which it may be built.

3. The builders of the planetary etheric web.

Their work is exceedingly obscure and exists in three divisions: [933]

a. The materialisation of the web. This is only perfected by the fourth round, and was purposely hurried in connection with our planet owing to karmic conditions, and under the law of spiritual necessity. A correspondence to this can be seen in the case of man himself. The etheric web was very loosely co-ordinated in man at the beginning of the fourth rootrace. Spiritual necessity forced its rapid consolidation, and it is now so constituted that it forms a barrier between the physical and the astral plane.

b. The preservation of the planetary web. This will be continued until the sixth round. During this period spiritual evolution proceeds with a certain degree of planetary safety, for the web protects from certain solar influences, and acts largely as a sifter and a distributor of solar forces.

c. The destruction of the web. This takes place towards the end of planetary evolution, thus permitting the escape of the imprisoned planetary life and the absorption of the life essence into its synthesiser. The process of destruction can only be described in the words perforation and disintegration.

4. The builders of the etheric body of the planetary Entity.

This great involutionary life must remain for many aeons a mystery. His etheric body is now in process of building, and only in another solar system will he assume definite physical form. Sufficient energy has not yet been generated to permit of his manifestation objectively. He remains as yet subjective. He has his solar correspondence. [934]

5. The builders of the planetary body.

This proceeds under the same law as that of the solar system and of man, but, as in the solar system, it proceeds upon the higher planes. Students are here recommended to trace the relation between the solar and cosmic planes in this specific connection.

6. The etheric doubles of all that man creates.

These are a special group of etheric builders who, under karma, are forced to act in conjunction with human beings.

These are but a few out of the many groups possible to touch upon; it is needless further to enlarge, as no substantial profit will eventuate from the impartation of further information. Only the briefest indications can be given and touched upon. It is neither safe nor advisable as yet to impart to men knowledge anent the workers in etheric matter, which would enable them to contact them, nor is it wise as yet to link up coherently the scattered facts already given in different occult books. Science is treading on the borderland of discovery, and trespassing already into the domain of the building devas. Caution is needed. Yet if the hints given above are studied, if the various secrets of the builders are pondered upon, and if the esoteric side of Masonry is carefully and persistently meditated upon, the work of the Great Architect and His many assistants will stand forth in a clearer and a fuller light. One hint may here be given, forgetting not that the work is twofold:

The construction of the tabernacle, or the building of the temporary forms is the work of the Divine Carpenter, whilst the building of the Temple of Solomon, or the construction of the more permanent structure is the work of the Supervising Architect. One concerns operative, and the other speculative Masonry in the true esoteric significance of the word. [935]

The devas who form the etheric doubles of all objects out of their own substance must also be considered. These builders are the sumtotal of all physical plane substance, and constitute the matter of the etheric levels of the physical plane. They exist, therefore, in four groups, and each group has a curious karmic relation to one of the four kingdoms in nature:

Group.   Plane.  Kingdom.

First………..One…….Human

Second……Two…….Animal

Third……….Three…..Vegetable

Fourth……..Four……Mineral

The substance of the highest physical form of a human being is therefore atomic. The Master’s physical body is made of atomic matter, and when He wishes to materialise it on the dense physical plane, He forms a sheath of gaseous substance upon that atomic matter, perfect in its delineation of all the known physical traits. The substance of the highest form of animal body is that of the second ether, and herein is to be found a clue as to the relation between all sea and watery forms to the animal. The highest form of body possible for the vegetable form of life is that of the third ether. These facts will be demonstrated in the seventh round when the present three kingdoms of nature—the human, the animal, and the vegetable will objectively exist in etheric matter; that will be for them their densest manifestation. The mineral kingdom will find its highest manifestation in matter of the fourth ether, and this transmutation is already taking place, for all the radioactive substances now being discovered are literally becoming matter of the fourth ether. The mineral kingdom isrelatively nearing its possible manvantaric perfection, and by the time the seventh round is reached all mineral lives (not forms) [936] will have been transferred to another planet. This will not be so with the other three kingdoms.

The etheric deva substance is acted upon in two ways:

It is awakened into a specific activity by the sounding of the physical plane word, and it is built into forms by the lesser builders.

It will, therefore, be apparent that it comes under the influence of two types of force or energy.

We will now briefly take up the subject of the work of the devas who build man’s etheric and dense physical body. By dividing our thoughts into two sections, we may be able to cover the ground somewhat more easily, dealing first with the building devas and the microcosm and then with the lesser builders of the etheric levels.

d. The Elementals and the Microcosm.

Man and the building devas. Man, in the process of evolution, as he pursues the method of reincarnation, works with four types of builders and three major grades of building essence or deva substance.

He connects with the transmitting devas who are found in connection with the microcosm on the fourth subplane of the mental plane, and on the atomic subplanes of the astral and physical plane. He connects next with the devas concerned with:

1. The mental unit.

2. The astral permanent atom.

3. The physical permanent atom.

He co-operates with the work of the building devas who form the etheric body, and influences the building devas of the dense physical substances, so that the necessary physical vehicle for his objective manifestation becomes an actuality.

These are the four main groups of devas which come under the influence of any particular Ego. They unitedly [937] produce the lower man, and bring into manifestation the Personality, that reflection of the Ego and shadow of the Monad. The three grades of building essence which are built into forms through the activity of the above four groups are here briefly recognised as the mental substance, built into the mental body, the astral substance, built into the astral vehicle and the matter of the physical body. These seven groups form, in their totality, what we might call the Brahma aspect of the microcosm.

From another point of view, we may be considered as studying the action of the solar Angel, or Lord, upon the lunar angels, and the process whereby the solar Lord imposes a certain rhythm and vibration upon different aspects of lower manifestation. Esoterically, this is all hidden in the words of a very ancient writing, which says:

“As the moon revolves, she reflects. As she reflects, she causes response in that which failed to radiate. These three, the Sun, the Moon, and the Mother, produce that which pursues a tiny cycle, and burns.”

The first step of the Ego towards producing a “shadow” is expressed in the words “The Ego sounds his note.” He utters his voice, and (as in the logoic process) the lesser “army of the voice” responds immediately to it. According to the tone and quality of the voice, so is the nature of the responsive agents. According to the depth or height of the note, and according to its volume, so is the status or grade of building deva which replies to the call. This egoic note produces, therefore, certain effects:

It sweeps into activity devas who proceed to transmit the sound. They utter a word.

It reaches the listening devas of the second grade who take up the word and proceed to elaborate it into what might be called a mantric phrase. The building process definitely begins in a sequential threefold manner. The [938] mental body begins to co-ordinate in three stages. All the building stages overlap. When, for instance, the co-ordination of the mental body is in its second stage, the first stage of astral concretion begins. This is carried on for seven stages (three major and four minor) which overlap in an intricate fashion. Again, when the second stage is reached, a vibration is produced which awakens response in etheric matter on the physical plane, and the builders of the etheric double commence their activity. Again the process is repeated. When the second stage of the work of these etheric devas is begun, conception takes place upon the physical plane. This is a very important point to be remembered, for it brings the entire process of human birth definitely into line with established karmic law. It shows the close connection between that which is subjective and that which is tangible and seen. The building of the physical body proceeds like that of the three stages during the prenatal period:

a. The work of the building devas during the three and a half months prior to the realisation of life. This period sees the third stage of the building of the etheric body entered upon.

b. The building work of the next three and a half months of the gestation period.

c. The final process of concretion carried on through the remaining two months.

Students will here find it interesting to trace out the correspondence in this method of producing evolutionary manifestation in a planetary scheme with its rounds and races, and in a solar system with its manvantaras and greater cycles.

In summing up this very cursory outline, the work of the etheric devas does not cease at the birth of the man, but is continued likewise in three stages, which find a close analogy in the life period of a solar system. [939]

First, their work is directed to the steady increase of the human physical vehicle, so that it may follow accurately the lines of growth of the two subtler bodies. This is carried on till maturity is reached. The next stage is that in which their work consists largely of repair work, and the preservation of the body during the years of full manhood so that it can measure up to the purpose of the subjective life. This purpose necessarily varies according to the stage of development of the man. Finally comes the stage when the work of building ceases. The vitality in the etheric body waxes dim, and the processes of destruction begin. The Ego begins to call in his forces. The “sound” becomes faint and dim; there is less and less volume for the transmitters to pass on, and the initial vibration gets fainter and fainter. The period of obscuration comes in. First the physical body waxes weak and useless; then the Ego withdraws from the centres, and functions for a few hours in the etheric double. This in turn is devitalised, and so the process is carried on till one by one the sheaths are discarded and the egoic “shadow” is dissipated.

The work of the building devas.

Let us now consider the work of the building devas on the three planes, dealing with them in two groups:

a. Those who are connected with the permanent atoms.

b. Those who are responsible for the building process.

The devas of the permanent atoms. This particular group of devas are the aggregate of the lives who form the mental unit and the two permanent atoms. They, as we know, have their place within the causal periphery, and are focal points of egoic energy. They are the very highest type of building devas, and form a group of lives which are closely allied to the solar Angels. They exist in seven groups connected with three of the spirillae of the logoic physical permanent atom. These three spirillae are to these seven groups of lives what the three major rays are to the seven groups of rays on the egoic subplanes of the mental plane. This phrase will bear meditating upon, and may convey much information to the intuitional thinker. There is a correspondence between the three permanent atomic triads, and the appearance of man in the third root race. A curiously interesting sequence of the three lines of force can be seen in:

a. The triads of the involutionary group soul.

b. The appearance of triple natured man in the third root race.

c. The triads in the causal bodies of any self-conscious unit.

These building devas are the ones who take up the sound as the Ego sends it forth through certain of the transmitting deva agencies, and by the vibration which this sets up they drive into activity the surrounding deva essence in their two groups:

a. Those who build the form.

b. Those who are built into the form.

They only affect those of analogous vibration. The stages of the building of any of the four forms through which lower man (the Quaternary) functions, follow exactly analogous stages to the building of the dense physical body, for instance, of a planet, or of a solar system. This can be traced all the way from the nebulous and chaotic stages through the fiery to the solid, or to the relatively solid where a subtle body is concerned. There is no need for us further to enlarge. H. P. B. has outlined these stages in the Secret Doctrine,  [cclxxxv]86 and they have been dealt with in an earlier part of this Treatise.

We have dealt at some length already with the work [941] of the transmitting devas upon the three planes in the three worlds, and with that of the devas connected with those relatively permanent focal points—the permanent atoms within the causal periphery. We can now consider the group of builders who, responding to the note of the transmitting agencies and to the initial vibration of the second group of builders concerned with the triple lower self, begin the work of aggregating and moulding the living substance necessary for egoic manifestation upon the lower planes.

We have seen that the first three stages of the egoic work are:

1. The sounding of the appropriate note, which note is indicative of man’s place in evolution, and of the nature of his “psyche,” or Ego.

2. The transmission of this note by the solar Angel, and the three groups of devas connected with the three permanent atoms.

3. The vibration set up within these atoms which is in line with the note sounded, and which becomes so strong as to make itself felt in the surrounding deva substance, thus awakening response.

These may be considered as the three primary stages, and we find demonstrated (in connection with the microcosm) the three factors of sound, colour and vibration, which, under the Law of Analogy, reflect the three aspects of the macrocosm. Here too is found a resemblance to the work of the first three Sephiroths of the Kabbalah,—the primary stage of manifestation finding its dim reflection in the work of the Ego in the three worlds.

The second stage now takes place, in which the work of building proceeds until the microcosm, man, makes his appearance upon the physical plane. This is succeeded by a third stage of evolution, in which the psychic nature of man is to demonstrate through the medium of the [942] created forms. Then the next two groups of Sephiroth are seen reproduced in man. He is demonstrated to be nine from another angle but we are only concerned in this section with the builders of the form.

These groups of builders are four in number:

1. The builders of the mental body.

2. The builders of the astral body.

3. The builders of the etheric body.

4. The builders of the dense physical.

Each of these groups can be subdivided into four or seven or three, according to the plane concerned. Students must remember that matter from the two lowest subplanes of the physical and of the astral planes are never built into the human body as now constituted; it is of too low a vibration, and too coarse a grade for even the lowest type of men on earth at this time. It must be pointed out also that in the average man, the matter of some subplane will preponderate according to the depth of his nature and his place on the ladder of evolution. The “builders” of the human body work under the direction of one of the Lords of Karma from the lowest group. These Lords are to be found in three groups, and a Lord out of the third group has the work of superintending the builders of the human being on the three planes. Under Him are to be found certain karmic agents, who again are divided into the following groups:

1. Three karmic agents responsible to the karmic Lords for the work on the three planes.

2. Five karmic Lords who work in close connection with the Manus of the various races, and who are responsible for the correct building of the varying race types.

3. Karmic agents responsible for the subrace types of the present time. [943]

4. Certain intermediary agents who represent (within these three groups) the seven Ray types.

5. Those agents of the good Law who are connected specifically with the work of the etheric centres, and their response to the different planetary centres.

6. The keepers of the records.

These various intelligences manipulate the building forces through the medium of streams of energy, which streams are set in motion when the Ego sounds his note. It must be remembered that in more or less degree upon his own plane the Ego is aware of his karma, and of what must be done to promote growth during the coming incarnation. He works, therefore, in connection with these Lords, but is only directly in touch with an agent of the sixth group and of the fourth. Through these two the work proceeds as far as the Ego is individually concerned, and they set in motion for him (after he has sounded his note) the machinery of the Law.

The builders of the human personality again are divided into seven main groups; all devas, just as is the case with the human Monads, come under one or other of the seven Rays, and are responsive to one or other of the seven logoic streams of fiery energy. According to a man’s egoic Ray, so will be the type of deva substance influenced.

These builders work with certain elementals, but it is only upon the physical plane that any idea can be given as to their nature and work. These elementals are the little entities who, adhering to the plan as embodied by the builders, blindly construct the fabric of the body, and form the sheaths through which the Ego is to express himself. On the etheric planes they build the real “form” out of etheric substance, and produce the sheath of intricate lines of interlacing fiery strands, which is in [944] reality an extension of the sutratma, or life thread. As it is woven and interlaced it becomes vitalised with the life energy sent down from the Ego, just as Shiva, the Father, gives to the Son the real “bios” or life, while the Mother warms, builds, and nourishes the body. The work of the etheric elementals reaches its primary consummation when the sutratma is connected with the three centres of the physical nature within the cranium—the pineal gland, the pituitary body, and the alta major centre. Occultly, the most important connection is the entrance of the sutratma into the centre at the top of the head, that through which the life of the etheric body withdraws at the moment of death. This is the vital point. The “thread” of life there, by the time the seventh year is reached, has divided itself into three branches, reaching out to the three centres. The realisation of this fact will eventually prove of much interest to scientists. A good deal of imbecility, or of arrested development will be found to have its origin in the etheric connection with these three centres. The etheric web is literally the fine network of fiery threads which spreads itself over the centre, and forms an area of fairly large dimensions. It separates the two bodies, astral and physical. A similar corresponding area will be found in the solar system. Through it the cosmic forces must pass to the different planetary schemes.

The elemental groups of the dense physical plane who are swept into activity by the builders, are three in number:

a. The gaseous elementals.

b. The liquid elementals.

c. The strictly dense elementals.

One group concerns itself with the fiery channels, with the fires of the human body, and with the different gases to be found within the human periphery. Another group [945] is to be seen working in connection with the circulatory system, and with all the liquids, juices, and waters of the body; whilst the third is largely involved in the construction of the frame, through the right apportioning of the minerals and chemicals. A hint in connection with medicine is here to be found; it is occultly true that just as the liquid devas and elementals are closely related to the vegetable kingdom, and both to the plane of the emotions, the logoic liquid body, so the ills of men which affect the circulatory system, the kidneys, the bladder, and the lubrication of the joints, will find a CURE in vegetable constituents and above all in the right adjustment of the emotional nature.

Several influences other than those mentioned have to be considered when the subject of the work of these builders of man’s body is under discussion. Not only are they affected by:

a. A man’s note,

b. The colour poured forth by the transmitting agents,

c. The karmic agents,

but they come under:

d. Group karma and vibration which will sweep in another group of agencies and builders, and thus affect a man’s bodies,

e. Racial karma, an extension of the above,

f. Forces playing upon the planet from another scheme, or through the formation of a systemic triangle,

g. A cosmic triangle of force of some specific kind which may bring in entities and energies of any particular scheme incident upon the karma of the planetary Logos.

It will, therefore, be apparent to the student how intricate this subject is and how truly each man is the outcome of force of some kind—egoic primarily, but also [946] planetary, and even systemic. Yet withal, no man is ever put into circumstances which are insurmountable, once he has reached the point where he has intelligently put himself on the side of evolution, or of God. Prior to that he may, and will, be driven by the gales of circumstance; the press of group and racial karma will force him into situations necessary for the process of awakening him to his own innate possibilities. Once he becomes the conscious builder himself, seeking to control the forces and builders of his lower nature, and to construct the Temple of Solomon, then he is no longer subject to the earlier conditions. He becomes a ruler, a builder, and a transmitter, until the time comes when he is one with the solar Angels, and the work of human evolution is accomplished.

What has been said above is very superficial, and only that has been imparted which has a profound significance for man at this time. Much must be inferred, and more must be arrived at under the Law of Correspondences. It must ever be borne in mind likewise that our basic conception is one of fiery energy, of force centres set in motion, and kept in active vibration, by the pulsation of still greater centres. Every form is built of fiery atoms, or energetic lives, through the agency of greater lives, and is held in coherent form within the still greater sheaths,—that greater sheath being to the lesser what the macrocosm is to the microcosm. All these groups of building lives may be divided into three groups of energy units, and their nature deduced from the phrases:

1. Groups of lives animated by dynamic energy.

2. Groups of lives animated by radiant energy.

3. Groups of lives animated by atomic energy.

These again are the sumtotal of the three fires, electric fire, solar fire and fire by friction. In terms of the cosmic [947] physical plane, the correspondence to the systemic plane can be seen in the following tabulation:

1. Dynamic energy…electric fire…..atomic subplane. First etheric substance. Plane adi.

2. Radiant energy…solar fire……..three cosmic etheric levels. Logoic etheric body.

3. Atomic energy…fire by friction…three planes of the three worlds. Logoic dense vehicle.

Each plane will be found to reflect this order in an interesting manner.

Scroll to Top