C. JINARAJADASA

Chủ tịch thứ tư của Hội Thông Thiên Học Quốc Tế (có trụ sở tại Adyar). C. Jinarajadasa sinh tại Sri Lanka vào ngày 16 tháng 12 năm 1875, một tháng sau khi Hội được thành lập. Cha mẹ của Ông là người theo Phật giáo, nên Ông được nuôi dạy trong truyền thống Phật giáo. Năm 1886, nhà hoạt động Thông Thiên Học Charles Leadbeater đến Sri Lanka trong chuyến công tác về giáo dục Phật giáo và đã gặp Jinarajadasa. Khi Jinarajadasa được mười ba tuổi, Ông Leadbeater đưa Ông sang Anh, nơi Ông được giáo dục tư trước khi vào học tại St. John’s College, Cambridge, và tốt nghiệp năm 1900 với chuyên ngành Sanskrit và ngữ học. Sau khi tốt nghiệp, Ông trở về Sri Lanka và nhận chức phó hiệu trưởng của Trường Ananda (1900–1901).

Jinarajadasa gia nhập Hội Thông Thiên Học vào ngày 14 tháng 3 năm 1903 và hăng hái làm việc cho Hội tại Sri Lanka cho đến khi, theo yêu cầu của Bà Annie Besant—lúc ấy là chủ tịch của Hội—Ông sang Ý hai năm để làm công tác Thông Thiên Học, đồng thời theo học cao học tại Đại học Pavia. Từ đó trở đi, Ông đi thuyết giảng khắp thế giới cho Hội cho đến khi Thế chiến thứ hai bùng nổ năm 1939. Năm 1916, Ông kết hôn với bà Dorothy M. Graham, cũng là một người hoạt động nổi bật trong Hội Thông Thiên Học, đồng thời là thẩm phán hòa giải tại Madras và là người sáng lập Hiệp hội Phụ nữ Ấn Độ vào năm 1917. Jinarajadasa từng giữ nhiều chức vụ trong Hội, bao gồm Phó Chủ tịch (1921–1928), đứng đầu The Manor ở Sydney, Úc (1934), và giám đốc Thư viện Adyar (1930–1932). Năm 1935, Ông trở thành Ngoại Trưởng của Trường Bí truyền Thông Thiên Học.

Năm 1945, Jinarajadasa được đề cử làm Chủ Tịch Hội Thông Thiên Học và được bầu mà không có đối thủ, chính thức nhậm chức vào ngày 17 tháng 2 năm 1946. Trụ sở Adyar khi đó đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng do một phần bị Không quân Hoàng gia Anh chiếm dụng trong Thế chiến thứ hai và bị bỏ mặc nhiều năm. Ông đã quy tụ quanh mình một nhóm cộng sự tận tâm, và dưới sự lãnh đạo của Ông, khu đất nhanh chóng lấy lại vẻ đẹp ban đầu. Dù sức khỏe yếu, Ông vẫn dốc toàn lực khôi phục hoạt động của Hội tại các quốc gia, đặc biệt là ở châu Âu, vốn chịu thiệt hại nặng nề do chiến tranh. Một hội nghị đặc biệt của mười chín chi hội được tổ chức tại Geneva nhằm phục hồi sinh hoạt của các chi bộ. Năm 1949, Ông sáng lập Trường Minh Triết (School of the Wisdom) tại Adyar để cung cấp cho các hội viên chương trình huấn luyện Thông Thiên Học chuyên sâu hơn và đào tạo họ phục vụ tại quốc gia của mình.

Jinarajadasa nổi tiếng nhờ những chuyến đi và bài thuyết giảng rộng khắp thế giới thay mặt Hội Thông Thiên Học. Ông thông thạo tiếng Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, điều này giúp Ông truyền bá Thông Thiên Học ở nhiều nước và góp phần hồi sinh hoạt động của Hội sau Thế chiến thứ hai. Ông là một nhà huyền bí có khuynh hướng khoa học mạnh mẽ, có khả năng diễn đạt những tư tưởng phức tạp bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Suốt cuộc đời, Ông luôn quan tâm đến thời sự và những khám phá khoa học mới, nhờ đó mang đến cho công tác Thông Thiên Học của mình sức sống và sự mới mẻ khiến thính giả yêu mến.

Đến năm 1953, Ông hoàn tất nhiệm kỳ bảy năm làm chủ tịch và do sức khỏe kém, Ông từ chối tái cử. Sau khi trao chức cho người kế nhiệm là N. Sri Ram, Ông bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Giữ đúng lời hứa thăm nước Mỹ, Ông qua đời tại trụ sở quốc gia của Hội Thông Thiên Học ở Mỹ, mang tên “Olcott” (theo tên vị chủ tịch sáng lập), vào ngày 18 tháng 6 năm 1953. Thi hài Ông được hỏa táng; một nửa tro cốt được gửi về Adyar để an táng trong Khu Vườn Tưởng Niệm, phần còn lại được giữ tại Olcott cho đến cuối những năm 1990, khi chúng được an táng trong một Khu Vườn Tưởng Niệm của Mỹ được xây dựng để đón nhận.

Jinarajadasa là một tác giả có sức sáng tác dồi dào, gồm cả văn xuôi lẫn thơ, và năm 1913 Ông được trao Huy chương T. Subba Row vì những đóng góp cho văn học Thông Thiên Học. Các tác phẩm đã xuất bản của Ông bao gồm Christ and Buddha (1908) (Chúa và Phật), In His Name (1913), Theosophy and Modern Thought (1914), How We Remember Our Past Lives (1915), The Nature of Mysticism (1917), Letters from the Masters of the Wisdom, Tập 1 và 2 (1919, 1926), First Principles of Theosophy (1921), The Early Teachings of the Masters (1923), và Did Madame Blavatsky Forge the Mahatma Letters? (1934).

Bài viết được dịch từ Theosophy Forward – Jinarajadasa, Curuppumullage (1875 -1953)

  1. Chúng ta nhớ các Kiếp sống đã qua bằng cách nào?
  2. Những Nghiên Cứu Huyền linh
  3. Những Nguyên Lý Đầu tiên Của Thông Thiên Học
  4. Tầm Nhìn Thiêng Liêng
  5. Thư Chân sư K.H. gởi Ông C.W. Leadbeater
Scroll to Top