02. Thuyết Giáng Linh và Thông Thiên Học — CHƯƠNG II—KINH NGHIỆM CÁ NHÂN

Chapter II—Chương II

PERSONAL EXPERIENCES—KINH NGHIỆM CÁ NHÂN

The Silk Hat Experiment—Thí nghiệm với mũ phớt

The first time that, so far as I can recollect, I ever heard spiritualism mentioned was in connection with the seances held by Mr. D. D. Home with the Emperor Napoleon III. The statements made with reference to those seemed to me at that time quite incredible, and when reading the account of them aloud to my mother one evening I expressed strong doubts as to whether the description could possibly be accurate. The article ended, however, with the remark that anyone who felt unable to credit the story might readily convince himself of its possi­bility by bringing together a few of his friends, and inducing them to sit quietly round a small table either in darkness or in dim light, with the palms of their hands resting lightly upon the surface of the table. It was stated that a still easier plan was to place an ordinary silk hat upon the table brim upwards, and let two or three people rest their hands lightly upon the brim. It was asserted that the hat or table would presently begin to turn, and in this way the existence of a force not under the control of any one present would be demonstrated.

Theo trí nhớ của tôi, lần đầu tiên tôi nghe nói đến thần linh học là liên quan đến các buổi gọi hồn do Ông D. D. Home thực hiện với Hoàng đế Napoleon III. Những lời tường thuật về các buổi ấy đối với tôi lúc bấy giờ hoàn toàn khó tin, và khi đọc to bản tường trình ấy cho mẹ tôi nghe vào một buổi tối, tôi đã bày tỏ hoài nghi mạnh mẽ xem liệu mô tả như thế có thể chính xác được không. Bài viết, tuy nhiên, kết thúc bằng nhận xét rằng bất cứ ai cảm thấy không thể tin câu chuyện trên đều có thể dễ dàng tự mình kiểm chứng khả năng ấy bằng cách mời vài người bạn, và bảo họ ngồi yên quanh một chiếc bàn nhỏ trong bóng tối hay dưới ánh sáng lờ mờ, với lòng bàn tay đặt nhẹ trên mặt bàn. Người ta còn nói rằng cách dễ hơn nữa là đặt một chiếc mũ phớt thông thường lên bàn, vành ngửa lên, và để hai hoặc ba người đặt khẽ tay lên vành mũ. Người ta khẳng định rằng chiếc mũ hoặc chiếc bàn sẽ sớm bắt đầu xoay, và theo cách đó sự tồn tại của một mãnh lực không do bất kỳ ai trong phòng kiểm soát sẽ được chứng minh.

This sounded fairly simple, and my mother suggested that, as it was just growing dusk and the time seemed appropriate, we should make the ex­periment forthwith. Accordingly I took a small round table with a central leg, the normal vocation of which was to support a flower-pot containing a great arum lily. I brought in my own silk hat from the stand in the hall and placed it on the table, and we put our hands upon its brim as pre­scribed. The only person present besides my mother and myself was a small boy of twelve, who, as we afterwards discovered, was a powerful physical medium; but I knew nothing about mediums then. I do not think that any of us expected any result whatever, and I know that I was immensely surprised when the hat gave a gentle but decided half-turn on the polished surface of the table.

Điều này nghe có vẻ khá đơn giản, và mẹ tôi gợi ý rằng vì trời vừa chạng vạng và thời điểm có vẻ thích hợp, chúng tôi nên lập tức tiến hành thí nghiệm. Thế là tôi mang vào một chiếc bàn tròn nhỏ có một chân giữa, vốn dĩ thường để đặt một chậu hoa trồng bông ráy khổng lồ. Tôi lấy chiếc mũ phớt của mình từ giá treo ngoài sảnh vào đặt trên bàn, và chúng tôi đặt tay lên vành mũ như chỉ dẫn. Người duy nhất có mặt ngoài mẹ tôi và tôi là một cậu bé mười hai tuổi, mà về sau chúng tôi phát hiện là một đồng tử vật lý mạnh; nhưng khi ấy tôi chưa biết gì về đồng tử. Tôi không nghĩ ai trong chúng tôi mong đợi bất kỳ kết quả nào, và tôi biết mình đã vô cùng ngạc nhiên khi chiếc mũ xoay nhẹ nhưng dứt khoát nửa vòng trên mặt bàn bóng loáng.

Each of us thought the other must have moved it unconsciously, but it soon settled that question for us, for it twirled and gyrated so vigorously that it was difficult for us to keep our hands upon it. At my suggestion we raised our hands; the hat came up under them, as though attached to them, and remained suspended a couple of inches from the table for a few moments before falling back upon it. This new development astonished me still more, and I endeavoured to obtain the same result again. For a few minutes the hat declined to respond, but when at last it did come up as before, it brought the table with it! Here was my own familiar silk bat, which I had never before suspected of any occult qualities, suspending itself mysteriously in air from the tips of our fingers, and, not content with that defiance of the laws of gravity on its own account, attaching a table to its crown and lifting that also! I looked down to the feet of the table; they were about six inches from the carpet, and no human foot was touching them or near them! I passed my own foot underneath, but there was certainly nothing there—nothing physically per­ceptible, at any rate.

Mỗi người đều cho rằng người kia hẳn đã vô thức đẩy nó, nhưng chẳng mấy chốc chiếc mũ tự giải quyết giúp chúng tôi câu hỏi đó, vì nó xoay tròn và đảo vũ dữ dội đến mức chúng tôi khó mà giữ tay trên nó. Theo gợi ý của tôi, chúng tôi nhấc tay lên; chiếc mũ bám lên dưới tay chúng tôi, như thể dính vào tay, và lơ lửng cách mặt bàn chừng vài phân trong chốc lát rồi mới rơi trở lại. Diễn biến mới này càng làm tôi kinh ngạc, và tôi cố gắng đạt lại cùng kết quả. Trong vài phút chiếc mũ không đáp ứng, nhưng khi rốt cuộc nó đã trồi lên như trước, nó kéo theo cả chiếc bàn! Kia là chiếc mũ phớt quen thuộc của tôi, mà trước đó tôi chưa từng ngờ có phẩm chất huyền bí nào, giờ đây bí ẩn treo mình giữa không trung từ đầu ngón tay chúng tôi, và không chỉ thách thức trọng lực cho riêng nó, mà còn bám vào chóp của nó một chiếc bàn và nhấc cả chiếc bàn lên nữa! Tôi nhìn xuống chân bàn; chúng cách mặt thảm khoảng mười lăm phân, và không có bàn chân người nào chạm vào hay lại gần! Tôi còn đưa chân mình lòn phía dưới, nhưng chắc chắn chẳng có gì ở đó—ít nhất là chẳng có gì cảm nhận được về mặt vật lý.

Of course when the hat first moved it had crossed my mind that the small boy must somehow be playing a trick upon us; but in the first place he obviously was not doing so, and in the second he could not possibly have produced this result un­observed. After about two minutes the table dropped away from the hat, and almost immediately the latter fell back to its companion, but the experi­ment was repeated several times at intervals of a few minutes. Then the table began to rock violent­ly, and threw the hat off—a plain hint to us, if any of us had known enough to take it. But none of us had any idea of what to do next, though we were keenly interested in these extraordinary movements. I was not myself thinking of the phenomenon in the least as a manifestation from the dead, but only as the discovery of some strange new force.

Dĩ nhiên, ngay khi chiếc mũ chuyển động, ý nghĩ lướt qua đầu tôi rằng cậu bé kia hẳn chơi khăm chúng tôi bằng cách nào đó; nhưng thứ nhất, rõ ràng cậu ta không làm thế, và thứ hai, cậu ta không thể nào tạo ra kết quả này mà không bị phát hiện. Chừng hai phút sau, chiếc bàn rơi khỏi chiếc mũ, và hầu như ngay lập tức chiếc mũ rơi về lại bên bạn đồng hành của nó, nhưng thí nghiệm được lặp lại vài lần cách nhau vài phút. Rồi chiếc bàn bắt đầu lắc mạnh, và hất văng chiếc mũ—một ám chỉ hết sức rõ ràng gửi tới chúng tôi, nếu ai trong chúng tôi biết đủ để hiểu. Nhưng chẳng ai biết nên làm gì tiếp, dù chúng tôi vô cùng hứng thú với những chuyển động khác thường này. Chính tôi khi ấy không hề nghĩ đến hiện tượng này như một sự biểu hiện từ người đã khuất, mà chỉ như việc phát hiện ra một loại mãnh lực mới lạ.

I spoke of these curious occurrences next day to some friends, and found one among them who had once or twice seen something of the sort, and was familiar with the rudiments of spiritualistic proce­dure. I promptly invited him to join us on the following evening, and to assist in our experiments. The same phenomena were reproduced, but this time, by our friend’s aid, we asked questions and found that the table would tilt intelligently in response to them. The communicating entity, how­ever, could not have been a man of any great know­ledge, for nothing of any importance was said, either then or afterwards, and the manifestations were always rather of the nature of horse-play. Their most remarkable feature was the enormous physical strength displayed on several occasions. Heavy furniture was frequently dashed violently about, and sometimes considerably damaged, yet none of us was really hurt. Once, later on, an especially sceptical friend had the end of a heavy brass fender dropped upon his foot, but I think he distinctly brought it upon himself by his impolite remarks!

Sang hôm sau tôi kể những việc lạ này cho vài người bạn, và tìm được một người trong số họ từng đôi lần thấy chuyện tương tự, lại quen thuộc với những điều sơ đẳng về thủ pháp thần linh học. Tôi lập tức mời ông ấy tham gia với chúng tôi tối hôm sau, và hỗ trợ các thí nghiệm. Những hiện tượng giống hệt được tái diễn, nhưng lần này, với sự giúp đỡ của người bạn, chúng tôi đặt câu hỏi và thấy chiếc bàn có thể nghiêng trả lời một cách thông minh. Tuy nhiên, thực thể giao tiếp không thể là một người có hiểu biết lớn, vì chẳng có điều gì đáng kể được nói ra, lần ấy cũng như những lần sau, và các biểu hiện luôn mang tính bông đùa. Nét nổi bật nhất là sức mạnh vật lý to lớn bộc lộ trong một số dịp. Những đồ đạc nặng bị quăng quật dữ dội và đôi khi hư hại đáng kể, nhưng chẳng ai trong chúng tôi thực sự bị thương. Có lần, về sau, một người bạn đặc biệt hoài nghi bị thả cả đầu của một khung chắn lò sưởi bằng đồng nặng lên chân, nhưng tôi nghĩ chính anh ta đã chuốc họa vì những lời lẽ khiếm nhã của mình!

Violent Demonstrations—Những màn phô diễn dữ dội

The silk hat was ruined at the second seance, so thereafter we placed our hands directly upon the table—or at least we commenced by doing so, for after a few minutes it was usually waltzing about so wildly that we could only occasionally touch it. At the third sitting (if that term be not a misnomer as applied to an evening spent mainly in jumping about to avoid the charges of various articles of furniture) our little table suffered con­siderably. During a moment of comparative rest, when we were able to keep our hands on it, we beard a curious whirring sound underneath it, and some small object fell to the floor. Picking it up we found it to be a screw, and wondered where the “spirits” had obtained such a thing, and why they had brought it. Twice more the same whir­ring sound was heard, and two more screws were presented to us, but even yet we did not realize what was being done.

Chiếc mũ phớt hỏng ngay ở buổi gọi hồn thứ hai, nên về sau chúng tôi đặt tay trực tiếp lên bàn—hoặc ít nhất là khởi đầu như thế, vì chỉ sau vài phút nó thường lượn vũ điên cuồng khiến chúng tôi chỉ đôi lúc mới chạm tới được. Ở buổi thứ ba (nếu dùng chữ “ngồi” không phải là sai, vì đó là một buổi tối phần nhiều dành để nhảy dựng lên tránh những cú lao tới của đủ loại đồ đạc), chiếc bàn nhỏ của chúng tôi chịu tổn thất đáng kể. Trong một khoảnh khắc tương đối yên, khi chúng tôi có thể giữ tay trên bàn, chúng tôi nghe thấy tiếng vo vo kỳ lạ ở dưới, và một vật nhỏ rơi xuống sàn. Nhặt lên thì thấy đó là một con ốc vít, và chúng tôi tự hỏi “linh hồn” lấy thứ đó từ đâu, và để làm gì mà mang tới. Hai lần nữa tiếng vo vo ấy vang lên, và thêm hai con ốc được “biếu” cho chúng tôi, nhưng thậm chí lúc ấy chúng tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Suddenly we were startled by what I can only describe as an exceedingly heavy kick on the under side of the table, which dashed it upwards against our hands and all but threw us over. The effect precisely resembled that of a vigorous kick from a heavy boot, and it was repeated three or four times in rapid succession until the top of the table was broken away from the leg. The leg waltzed off by itself, while the top fell to the floor, but by no means to lie quiet there. If a coin be set spinning with the thumb and fingers upon a smooth surface it displays a peculiar wobbling rotation just as it is in the act of settling down to rest. That was exactly the motion of this table upon the floor, and two strong men, kneeling upon it, and exerting all their force to hold it down, were unable to do so, but were thrown off apparently with the utmost ease.

Đột nhiên, chúng tôi giật mình bởi điều tôi chỉ có thể mô tả là một cú đá cực kỳ mạnh vào mặt dưới của bàn, khiến nó hất lên tay chúng tôi và suýt nữa hất văng chúng tôi. Cảm giác giống hệt như bị một chiếc ủng nặng tung cú đá mạnh, và nó được lặp lại ba bốn lần liên tiếp cho đến khi mặt bàn tách khỏi chân. Cái chân bàn tự nó “khiêu vũ” đi mất, còn mặt bàn rơi xuống sàn, nhưng không chịu nằm yên ở đó. Nếu bạn đặt một đồng xu quay bằng ngón cái và ngón trỏ trên mặt phẳng trơn, nó sẽ biểu lộ một chuyển động xoay chao đặc biệt ngay lúc sắp dừng. Đó chính xác là chuyển động của mặt bàn trên sàn, và hai người đàn ông lực lưỡng quỳ đè lên, dốc toàn lực ghìm xuống, vẫn không thể khống chế, mà còn bị hất văng ra dễ dàng.

As we were holding it as nearly down upon the carpet as we could, the same prodigious kicks came underneath it as before, so that whoever kicked could evidently do so through the carpet and the floor of the room without the slightest hindrance. It was only after the performance was over, and we came to examine our table, that we understood what had happened. The entity who was playing with us had apparently wished to separate the top of the table from the lower part, and had somehow contrived to extract three of the screws as though with a screw-driver; but the fourth had been rusted in and could not be removed—hence apparently the kicks which broke it out and accomplished the separation.

Khi chúng tôi đang cố giữ bàn sát mặt thảm hết mức có thể, những cú đá ghê gớm tương tự lại giáng từ dưới lên, khiến cho bất kỳ ai đá cũng rõ ràng có thể làm thế xuyên qua thảm và sàn nhà mà chẳng vướng víu mảy may. Chỉ sau khi màn biểu diễn chấm dứt và chúng tôi khám xét chiếc bàn, mới hiểu điều gì đã xảy ra. Thực thể đang đùa nghịch với chúng tôi rõ ràng muốn tách mặt bàn khỏi phần dưới, và bằng cách nào đó đã tháo được ba con ốc như thể dùng tua-vít; nhưng con thứ tư bị rỉ sét cứng ngắc không tháo ra được—vì vậy xem ra mới có những cú đá làm bật nó ra và hoàn tất việc tách rời.

This exhibition of prodigious strength at a seance is by no means unusual. In describing one which took place on Staten Island in the spring of 1870, Mr. Robert Dale Owen remarks:

Sự phô diễn sức mạnh ghê gớm trong một buổi gọi hồn như vậy không phải là hiếm. Mô tả một buổi như thế diễn ra ở Staten Island vào mùa xuân năm 1870, Ông Robert Dale Owen nhận xét:

“Then—probably intensified by the darkness—com­menced a demonstration exhibiting more physical force than I had ever before witnessed. I do not believe that the strongest man living could, without a handle fixed to pull by, have jerked the table with anything like the violence with which it was now, as it seemed, driven from side to side. We all felt it to be a power, a single stroke from which would have killed any one of us on the spot.” (The Debatable Land, p. 285.)

“Rồi—có lẽ do bóng tối làm tăng cảm giác—bắt đầu một màn trình diễn bộc lộ nhiều lực vật lý hơn bất kỳ điều gì tôi từng chứng kiến trước đó. Tôi không tin rằng người mạnh nhất thế gian, nếu không có một cái tay cầm để nắm kéo, lại có thể giật chiếc bàn với cái dữ dội như nó bây giờ, như thể bị đánh mạnh từ bên này sang bên kia. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy đó là một quyền năng, mà chỉ một đòn thôi cũng có thể giết chết ngay tại chỗ bất kỳ ai trong chúng tôi.” ( The Debatable Land , tr. 285.)

Evidence Of Unknown Power—Bằng chứng về một quyền năng vô hình

These phenomena, which thus came so unexpect­edly into my life, would no doubt have been despised as frivolous by the veteran spiritualist, but to me they were exceedingly interesting. They took place in my own house, they were entirely unconnected with any professional medium, and they were incontrovertibly free from any suspicion of trickery. Consequently here were certain indubit­able facts, absolutely new to me, and needing investigation. I had no knowledge then that there was a considerable literature upon the subject, and I was not expecting from this study any proof of the life after death. So far, I had had evidence only of the existence of some unseen intelligence, capable of wielding enormous power of a kind quite different from any recognized by science. But it was precisely that power which interested me, and I was anxious to discover whether there was any method by which it could be utilized for the general benefit.

Những hiện tượng bất ngờ đi vào đời tôi như thế hẳn sẽ bị các nhà thần linh học lão luyện xem là phù phiếm, nhưng với tôi chúng vô cùng thú vị. Chúng diễn ra ngay trong nhà tôi, hoàn toàn không liên quan đến bất kỳ đồng tử chuyên nghiệp nào, và hiển nhiên không thể bị nghi ngờ là mánh khóe. Do đó, đây là những sự kiện không thể chối cãi, hoàn toàn mới đối với tôi, cần được khảo cứu. Lúc ấy tôi chưa biết rằng có một văn khố đáng kể về đề tài này, và tôi cũng không kỳ vọng tìm được từ việc nghiên cứu này bằng chứng về đời sống sau khi chết. Cho đến lúc ấy, tôi chỉ có bằng cớ về sự hiện diện của một trí tuệ vô hình, có khả năng vận dụng một mãnh lực khổng lồ thuộc một loại hoàn toàn khác với bất cứ thứ nào được khoa học công nhận. Nhưng chính mãnh lực ấy mới là điều làm tôi quan tâm, và tôi nóng lòng muốn biết liệu có phương pháp nào để có thể vận dụng nó vì lợi ích chung hay không.

We never advanced much further in these home investigations. My mother feared the destruction of her furniture, and in deference to her objections we simply suspended operations when the forces became too boisterous, resuming our sitting only when things quieted down. We had no raps, and no direct voices; any communications which came were always given by the tilting or rising of the table. The entity concerned seemed willing enough to give tests along its own peculiar lines. For example, it occurred to us one evening to ask whether the table could rise in the air without our hands resting upon it; it promptly responded that it could and would, so we all drew back hastily, and watched that table rise till its feet were about a yard from the ground, while it was entirely out of the reach of every member of the party. It remained suspended for perhaps a minute or rather more, and then sank gently to the carpet.

Chúng tôi không tiến xa hơn được bao lăm trong những khảo cứu tại gia này. Mẹ tôi sợ đồ đạc bị phá hỏng, và chiều theo sự phản đối của Bà, chúng tôi đơn giản ngừng lại mỗi khi các “lực” trở nên quá hung hăng, chỉ tiếp tục khi mọi thứ lắng dịu. Chúng tôi không có tiếng gõ, cũng không có “tiếng nói trực tiếp”; bất kỳ thông điệp nào nhận được đều luôn truyền qua cách nghiêng hay nhấc bàn. Thực thể liên can dường như sẵn lòng cho “thi” theo cách riêng của nó. Chẳng hạn, một tối chúng tôi nảy ý hỏi liệu chiếc bàn có thể nhấc lên không trung mà không cần tay chúng tôi đặt lên hay không; nó lập tức hồi đáp rằng có thể và sẽ làm, nên tất cả chúng tôi vội vàng lùi lại, và nhìn chiếc bàn nâng chân lên cao chừng gần một thước, hoàn toàn ngoài tầm với của mọi người trong nhóm. Nó lơ lửng có lẽ một phút hay hơn chút, rồi hạ xuống thảm một cách êm ái.

Lights—Ánh sáng

Lights of various kinds frequently appeared, but usually they gave us the impression not so much of being intentionally shown as of manifesting inci­dentally in the course of other phenomena. They were of three varieties: (a) little sparkling lights like those of fireflies, which used to play over and about our hands, while they rested on the table; (b) large pale luminous bodies, several inches in diameter and often crescent-shaped; (c) a vivid flash resembling lightning, which on one occasion crossed the room and struck and overthrew a large plant in a pot, leaving upon it distinct marks of scorching, much as I suppose lightning might have done. The first and third varieties gave us the impression of being electrical, while the second appeared to be rather phosphorescent in nature. Nothing occurred that we could definitely call materialization, though dark bodies of some sort occasionally passed between us. These phenomena usually took place by firelight, though on one occasion we obtained a few much modified manifestations in full daylight. The room appeared to become charged with some kind of force, as though with electricity; for at least an hour after the seance was closed the furniture continued to creak mysteriously, and the table on several occasions moved out two or three feet from its corner after its flowerpot had been replaced upon it.

Nhiều loại ánh sáng thường xuất hiện, nhưng thông thường chúng gây cho chúng tôi ấn tượng là không hẳn được chủ ý phô bày, mà chỉ là biểu hiện phụ trong quá trình các hiện tượng khác. Chúng có ba loại: (a) những đốm chớp lấp lánh như đom đóm, chơi đùa trên và quanh tay chúng tôi khi đang đặt trên bàn; ( b ) những khối lân quang lớn, nhạt, đường kính vài phân và thường có hình lưỡi liềm; ( c ) một luồng lóe sáng rực rỡ giống tia chớp, có lần băng ngang phòng đánh ngã một chậu cây lớn, để lại trên đó những vết cháy sém rõ rệt, hẳn cũng giống như sét có thể gây nên. Loại thứ nhất và thứ ba gợi cho chúng tôi ấn tượng “điện”, trong khi loại thứ hai dường như có tính chất lân tinh. Không có gì xảy ra mà chúng tôi có thể dứt khoát gọi là hiện hình, dù đôi khi có những khối đen nào đó lướt qua giữa chúng tôi. Các hiện tượng này thường diễn ra dưới ánh lửa lò sưởi, dù có một lần chúng tôi thu được vài biểu hiện, đã giảm cường độ nhiều, ngay giữa ban ngày. Căn phòng có vẻ như được nạp đầy một loại mãnh lực nào đó, như thể là điện; ít nhất một giờ sau khi buổi ngồi kết thúc, đồ đạc vẫn tiếp tục kêu kẽo kẹt bí ẩn, và chiếc bàn vài lần tự động trượt ra khỏi góc khoảng gần một mét sau khi chậu hoa đã được đặt lại lên trên.

The messages were quite a subordinate feature, and it seemed difficult for the entity, whatever it may have been, to curb its exuberant spirits long enough to go through the tedious process of spelling out a message by tilts. We made many attempts to obtain definite information in this way, but met with no success. It always gave us the impression of being in a condition of wild rollicking enjoyment, too much excited to be patient or coherent. Fre­quently the table would dance vigorously and untir­ingly, keeping time with any music that we played or sang. Its favorite tune appeared to be the well-known spiritualistic hymn, “Shall we gather at the river?” and if at any time the power seemed deficient or the manifestations lethargic, we had only to sing that air to rouse it at once into a condition of the wildest enthusiasm and agility. Sometimes it was decidedly mischievous, and when it could be induced to deliver a message it was by no means always consistent or truthful. It appeared to be capable of annoyance; certainly on one occasion when I denounced one of its statements as false, the table leaped straight at me, and would apparently have struck me severely in the face, if I had not caught it on its way. Even so, as I held it in the air, it made violent efforts to get at me, and had to be dragged away forcibly by my friends, just as though it had been an infuriated animal. But in a few moments its strength or its passion seemed to give out, and it was harmless once more.

Thông điệp chỉ là phần phụ; thực thể, bất kể là gì, dường như khó mà kìm hãm được sự hứng khởi bột phát của nó đủ lâu để chịu đựng quy trình tẻ nhạt đánh vần thông điệp bằng cách nghiêng bàn. Chúng tôi đã nhiều lần tìm cách thu nhận thông tin dứt khoát theo lối này, nhưng vô hiệu. Nó luôn tạo cho chúng tôi ấn tượng rằng mình đang trong một trạng thái vui đùa hoang dại, quá phấn khích để có thể kiên nhẫn hay mạch lạc. Nhiều khi chiếc bàn nhảy múa hăng say không mệt mỏi, bắt nhịp với bất cứ bản nhạc nào chúng tôi chơi hay hát. Giai điệu ưa thích của nó hình như là bài thánh ca thần linh học quen thuộc “Shall we gather at the river?”, và nếu lúc nào “lực” có vẻ suy giảm hoặc biểu hiện lờ đờ, chúng tôi chỉ cần hát giai điệu ấy là lập tức khơi dậy nó đến một trạng thái hứng khởi và lanh lợi cuồng nhiệt nhất. Thỉnh thoảng nó khá tinh quái, và khi bị thuyết phục để đưa ra thông điệp, nó không phải lúc nào cũng nhất quán hay trung thực. Nó có vẻ biết bực dọc; quả thực, có một lần khi tôi tuyên bố một mệnh đề của nó là sai, chiếc bàn lao thẳng vào tôi, và xem ra đã có thể đánh vào mặt tôi rất mạnh nếu tôi không chặn lại giữa đường. Dẫu vậy, khi tôi giữ nó lơ lửng giữa không trung, nó vẫn cố gắng kịch liệt để lao vào tôi, và các bạn tôi phải kéo mạnh ra, y như thể đang khống chế một con thú bị kích nộ. Nhưng chỉ trong ít phút, sức lực hoặc cơn giận của nó dường như tàn lụi, và nó lại vô hại như trước.

Prominent in my memory is one occasion on which the forces engaged in these demonstrations actually drove us out of the room. From the beginning of the seance the control of the proceed­ings was taken entirely out of our hands. Chairs rushed about like living creatures, a heavy sofa swung out from its place by the wall into the middle of the floor, and a tall piano, of the obsolete type which used to be called an upright grand, leaned over me at a dangerous angle. Trying to save it from a heavy fall, I braced myself against it and called one of my friends to assist me. He struck a match and lit a candle, which he placed on a table, hoping that the light would check the manifestations. The table, however, gave a kind of leap which threw the candle on to the floor and extinguished it, and at once pandemonium reigned all round us, heavy articles of furniture crashing together.

Một kỷ niệm nổi bật đối với tôi là có lần các “lực” tham dự những màn biểu diễn này thực sự buộc chúng tôi phải rời khỏi phòng. Từ đầu buổi ngồi, quyền kiểm soát diễn trình hoàn toàn bị lấy khỏi tay chúng tôi. Ghế chạy lồng lên như những sinh vật sống, một chiếc sô-pha nặng rời khỏi chỗ bên tường trườn ra giữa phòng, và một cây đàn piano đứng, kiểu xưa nay đã lỗi thời, nghiêng chồm lên tôi ở một góc nguy hiểm. Cố cứu nó khỏi một cú đổ nặng nề, tôi chống người vào giữ và gọi một người bạn lại giúp. Anh ấy quẹt diêm thắp nến, đặt trên bàn, hy vọng ánh sáng sẽ kìm bớt các biểu hiện. Thế nhưng chiếc bàn nhảy bật khiến cây nến rơi xuống sàn và tắt phụt, và lập tức cảnh hỗn loạn bùng lên bốn phía, đồ đạc nặng nề va đập ầm ầm.

It was manifest that our lives were in danger, so, holding back the piano with all my strength, I shouted to my friend to open the door. After frenzied efforts he succeeded in tearing it open, I sprang back from the toppling piano, and we all fled ignominiously into the hall. The door banged behind us, and for a minute or more the crashes inside continued; then silence ensued. After five minutes or so we opened the door and entered with lights, and found all the massive furniture piled in a vast heap in the middle of the room—some of it badly broken, of course; and yet on the whole there was far less damage than one would have expected from the tremendous noise made. After this demonstration my mother banished us and our experiments to an outhouse!

Rõ ràng tính mạng chúng tôi đang bị đe dọa, nên, trong khi tôi ghìm chặt cây đàn bằng hết sức mình, tôi kêu bạn mở cửa. Sau những nỗ lực cuống cuồng, anh ấy xé được cánh cửa mở ra, tôi buông khỏi cây đàn đang chao đổ, và tất cả chúng tôi chuồn thẳng ra hành lang. Cánh cửa sập mạnh phía sau, và trong một phút hoặc hơn nữa tiếng rầm rập vẫn tiếp diễn; rồi im ắng trở lại. Chừng năm phút sau, chúng tôi mở cửa bước vào, cầm đèn soi, và thấy toàn bộ đồ đạc lớn chất thành một đống giữa phòng—dĩ nhiên một số món hư hại nặng; tuy vậy xét toàn cục thì hư hại ít hơn nhiều so với những tiếng động kinh hồn. Sau màn thị uy này, mẹ tôi đày bọn tôi cùng các thí nghiệm ra nhà ngoài!

Professional Mediums—Đồng tử chuyên nghiệp

Stimulated by these experiences, I began to make further enquiries, and soon found that there were books and periodicals devoted to this subject, and that I might carry my investigations much further by coming into connection with regular mediums. I attended a large number of public seances, and saw many interesting things at them, but the most remarkable and satisfactory results, I soon found, were obtainable only when the circles were small and harmonious. I therefore frequently had private seances, and often invited mediums to my own house, where I could be perfectly certain that there existed no machinery by means of which trickery could be practiced. In this way I soon acquired a good deal of experience, and was able to satisfy myself beyond all doubt that some at least of the manifestations were due to the action of those whom we call the dead.

Được kích thích bởi những kinh nghiệm ấy, tôi bắt đầu dò hỏi thêm, và chẳng mấy chốc nhận ra rằng có sách vở, tạp chí dành cho đề tài này, và rằng tôi có thể đẩy việc khảo cứu đi xa hơn bằng cách kết nối với các đồng tử chuyên nghiệp. Tôi tham dự rất nhiều buổi gọi hồn công khai, và thấy nhiều điều lý thú, nhưng sớm nhận ra rằng những kết quả đáng kể và thỏa đáng nhất chỉ có được khi vòng tròn nhỏ và hòa hợp. Do đó tôi thường tổ chức những buổi riêng, và hay mời các đồng tử đến nhà mình, nơi tôi có thể hoàn toàn chắc chắn rằng không có máy móc nào giúp giở trò bịp bợm. Bằng cách ấy, tôi chẳng bao lâu đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, và có thể tự thỏa mãn vượt trên mọi hồ nghi rằng ít nhất một phần các biểu hiện là do hành động của những người mà chúng ta gọi là người chết.

I found mediums of all sorts, good, bad and indifferent. There were some who were earnest and enthusiastic, and honestly anxious to aid the enquirer to understand the phenomena. Others were incredibly ignorant and illiterate, though probably honest enough; others again impressed me as sanctimonious, oleaginous and untrustworthy. A little experience, however, soon taught me upon whom I could depend, and I restricted my experiments accordingly. I pursued them for a good many years, and during that time saw many strange things—many which would probably be deemed incredible by those unfamiliar with these studies, if I should endeavour to describe them. Such of them as aptly illustrate our various classes I may perhaps cite as we go on; but to give the whole of those experiences would need a much larger book than this.

Tôi gặp đủ loại đồng tử: giỏi, dở và xoàng. Có người nhiệt thành và say mê, chân thực mong giúp người tìm hiểu hiểu thấu hiện tượng. Có kẻ dốt nát khó tin và thất học, dù có lẽ vẫn trung thực; lại có hạng khiến tôi thấy là đạo mạo giả hình, trơn tru và không đáng tin. Tuy nhiên, một chút trải nghiệm sớm dạy tôi biết tin vào ai, và tôi giới hạn các thí nghiệm cho phù hợp. Tôi theo đuổi việc ấy suốt nhiều năm, và trong thời gian đó thấy nhiều điều lạ lùng—nhiều điều, nếu tôi cố thuật lại, hẳn sẽ bị những ai xa lạ với môn học này xem là khó tin. Những điều nào thích đáng minh họa cho các phân loại khác nhau của chúng ta, có lẽ tôi sẽ dẫn ra dần; nhưng để kể hết những kinh nghiệm ấy thì cần một cuốn sách lớn hơn nhiều.

Let us turn now to our classification.

Giờ hãy trở về phân loại của chúng ta.

Leave a Comment

Scroll to Top