08. Lịch Sử Huyền Bí của Borobudur—CHƯƠNG 8——Borobudur

Βοrobudur

The wonderful monument called Borobudur is often described as a temple; but this is not strictly speaking correct. A temple is an edifice more or less like a Christian church or a Muhammadan mosque—a building in which people gather together for religious purposes, to offer worship or prayer to their Deity, or to listen to expositions of the doctrines of their faiths. Another type of sacred structure is the Stūpa or Dāgoba, which is usually a solid bell-shaped erection, built to enshrine and to safeguard a relic of the Lord Buddha or some other great saint or teacher. Perhaps the finest specimen of this is the great Shwe Dagon or Golden Pagoda at Rangoon—a magnificent gilded spire higher than St. Paul’s Cathedral in London.

Di tích kỳ diệu gọi là Borobudur thường được mô tả như một ngôi đền; nhưng nói nghiêm ngặt, điều đó không đúng. Ngôi đền là một kiến trúc ít nhiều giống nhà thờ Kitô hay thánh đường Hồi—một công trình nơi người ta tụ họp vì mục đích tôn giáo, để dâng lễ hay cầu nguyện lên Thần Linh, hoặc để nghe giảng dạy về giáo lý của tín ngưỡng mình. Một kiểu kiến trúc thiêng liêng khác là Stūpa hay Dāgoba, vốn thường là một công trình hình chuông đặc, được xây để tàng trữ và bảo hộ xá lợi của Đức Phật hay của một đại thánh, đại sư nào khác. Có lẽ mẫu đẹp nhất của loại này là đại bảo tháp Shwe Dagon hay Chùa Vàng ở Rangoon—một ngọn tháp dát vàng lộng lẫy cao hơn cả Nhà thờ Thánh Phaolô ở Luân Đôn.

Borobudur has more of the characteristics of a Stūpa than of a temple, for undoubtedly a relic was at one time preserved there; yet [21] it is like no other Stūpa in the world, for it may be called a great picture-gallery, the scenes of which are not painted on canvas or in fresco, but carved in bas-relief in stone, in a series of panels of wonderful precision throughout, and many of them really beautiful. There are 2141 of these, and it is calculated that if they were placed end to end they would extend for nearly three miles.

Borobudur mang nhiều đặc điểm của một Stūpa hơn là của một ngôi đền, vì không nghi ngờ gì, nơi đây từng lưu giữ xá lợi; tuy vậy, [21] nó khác với mọi Stūpa khác trên thế giới, vì có thể gọi nó là một đại phòng tranh, nơi các trường cảnh không vẽ trên toan hay bích họa, mà khắc bằng đá theo lối phù điêu, thành những ô bảng liên tiếp với độ chính xác kỳ diệu, và nhiều bức thật sự đẹp. Có tất cả 2141 bức, và người ta tính rằng nếu đặt nối đuôi nhau chúng sẽ kéo dài gần ba dặm.

clip_image002

Plate I

Minh họa I

Perhaps the best way to realize Borobudur is to think of it neither as a temple nor a Stūpa, but as a low rounded hill sheathed with masonry. The original rock of the hill forms the core of the entire erection, which is simply built on to it in successive terraces. The arrangement of these will be best understood by examining first the view of Borobudur from the air (Plate I). We see from the air photograph that the whole fabric may be said to consist of three separate parts. There is first the square base on which the whole edifice stands, each side of the square measuring 620 ft.; and even that will be seen to be really double, consisting of two platforms. These platforms have their own symbolism, to which I shall refer presently. [22]

Có lẽ cách tốt nhất để lĩnh hội Borobudur là đừng nghĩ về nó như một ngôi đền hay một Stūpa, mà như một gò đất thấp tròn trịa được bọc trong lớp xây đá. Khối đá gốc của gò tạo thành lõi cho toàn bộ công trình, vốn chỉ đơn giản được xây chồng lên qua các tầng bậc liên tiếp. Bố cục của các tầng này sẽ được hiểu tốt nhất bằng cách trước tiên xem quang cảnh Borobudur từ trên không (Minh họa I). Từ bức ảnh chụp trên không, ta thấy toàn bộ kiến trúc có thể coi như gồm ba phần riêng biệt. Trước hết là nền vuông nơi cả công trình đứng vững, mỗi cạnh vuông dài 620 bộ Anh; và ngay cả phần ấy cũng sẽ thấy thực ra có hai tầng, gồm hai bệ. Các bệ này có biểu tượng riêng, tôi sẽ nói đến sau. [22]

clip_image004

Plate II

Minh họa II

From this base rises the second part of the edifice, consisting of four rectangular stages, each being a wide terrace or gallery between walls, but open to the sky. It is upon these walls that we find the beautiful [23] carvings which I have already mentioned (Plate III), rising on either hand as we walk along the galleries—usually two lines of panels one above the other. The top row of reliefs on the chief wall of the lowest gallery represents in order the story of the last life of the Lord Gautama, as it is given in the Sanskrit book called Lālitavistara, while the other scenes are understood to illustrate His teaching in the successive stages of the heaven-world. We see the third division of the building—the three circular platforms and the large central dāgoba (Plate I).

Từ nền ấy vươn lên phần thứ hai của kiến trúc, gồm bốn tầng hình chữ nhật, mỗi tầng là một hành lang hay sân thượng rộng nằm giữa các bức tường, nhưng để lộ thiên. Chính trên các bức tường này ta tìm thấy những [23] chạm khắc mà tôi đã nhắc đến (Minh họa III), dựng lên hai bên khi ta bước dọc hành lang—thường là hai hàng phù điêu, một trên, một dưới. Hàng phù điêu trên cùng ở bức tường chính của hành lang thấp nhất thuật theo thứ tự câu chuyện về kiếp cuối của Đức Phật Gautama, như ghi trong sách Sanskrit có tên Lālitavistara, trong khi các cảnh còn lại được hiểu là minh họa cho giáo pháp của Ngài ở những cảnh giới liên tiếp của cõi thượng thiên. Ta thấy phần thứ ba của công trình—ba bệ tròn và đại dāgoba trung tâm (Minh họa I).

clip_image006

Plate III

Minh họa III

Unquestionably these seven stages are meant to represent the seven planes. The well-known Dutch archaeologist, Professor Krom, writes in his Life of Buddha:

Không nghi ngờ gì, bảy tầng này được dụng ý biểu trưng cho bảy cõi giới. Nhà khảo cổ Hòa Lan lừng danh, Giáo sư Krom, viết trong tác phẩm Đời Đức Phật :

“In accordance with the cosmic significance of the building the galleries are richly decorated, but the platforms which, in contrast to the phenomenal world below, are intended to represent the region of formlessness, have been left unadorned. The reliefs represent texts that were intended to impress lessons of wisdom on the believer’s mind [24] as he ascended the Stūpa, and so to prepare him for the attainment of the highest insight that the Mahāyāna brings before his eyes. In this way he was also spiritually brought on to a higher plane as he approached the central Stūpa” (p. viii).

“Phù hợp với ý nghĩa vũ trụ của tòa kiến trúc, các hành lang được trang trí phong phú, nhưng các bệ mà, trái ngược với thế giới hiện tượng bên dưới, được dụng ý biểu thị khu vực vô sắc, thì để trống không trang hoàng. Các phù điêu là những văn bản minh họa, nhằm khắc sâu bài học minh triết vào tâm trí tín đồ [24] khi y thăng dần trên Stūpa, nhờ vậy mà chuẩn bị cho y đạt đến cái thấy tối thượng mà Đại thừa đưa ra trước mắt y. Theo cách ấy, y cũng được dẫn dắt thăng lên một tầng tâm linh cao hơn khi y tiến gần đến Tháp trung tâm” (tr. viii).

Quite apart from the carvings and their story, there are in these four galleries 432 larger statues of the Lord Buddha ranged at regular intervals along the upper part of the walls, each sitting in its own niche or recessed shrine (Plate IV). All the 108 images on each side are seated with the same Mūdra or gesture of hands (Plate V). On the North, the Mūdra is that called Abhaya—Have no fear; on the East, the Mūdra is Bhūmisparsha—Touching the earth; on the South, Dāna—Giving; on the West, Dhyāna—Meditation.

Tách khỏi các chạm khắc và câu chuyện của chúng, trong bốn hành lang này còn có 432 tượng lớn của Đức Phật được bố trí theo khoảng cách đều đặn dọc phần trên của tường, mỗi tượng ngồi trong một hốc hay khám thờ riêng (Minh họa IV). Cả 108 tượng ở mỗi cạnh đều an tọa với cùng một Mūdra hay thế tay (Minh họa V). Ở phía Bắc, Mūdra là Abhaya—Chớ sợ hãi; ở phía Đông, Mūdra là Bhūmisparsha—Chạm đất; ở phía Nam, Dāna—Bố thí; ở phía Tây, Dhyāna—Thiền định.

As will be seen from Plate VI, on each of the circular platforms we find a ring of statues of the Lord, 72 in all; but in these cases each statue sits inside a lattice-work dāgoba or cupola of stone. The lattice-work differs on these platforms, the holes being sometimes [25] square and sometimes diamond-shaped, and I take them as meant to symbolize (as well as can be done in stone) the marvellous transparency and delicacy of appearance of the auras or vehicles of men on these higher levels.

Như thấy ở Minh họa VI, trên mỗi bệ tròn ta gặp một vòng tượng của Đức Phật, tất cả là 72; nhưng trong các trường hợp này, mỗi tượng ngồi bên trong một dāgoba hay vòm lát ô bằng đá. Các lỗ lưới trên những vòm này có hình thức khác nhau ở các bệ, [25] khi thì vuông, khi thì hình thoi, và tôi cho rằng chúng được dụng ý biểu trưng (trong phạm vi có thể bằng đá) vẻ trong suốt và tinh tế kỳ diệu của các hào quang hay các vận cụ của con người trên những tầng cao này.

clip_image008

Plate IV

Minh họa IV

clip_image010

Plate V

Minh họa V

clip_image012

Plate VI

Minh họa VI

clip_image014

Plate VII

Minh họa VII

The senior monks of the Buddhist Sangha used to lead their pupils and their pilgrim-visitors from stage to stage of the building, delivering a series of lectures upon the life and teaching of the Lord, and using the carvings as illustrations. But to the more advanced students they also expounded the theory of the seven planes, and yet further, of the seven principles of man, employing the three circles and the four squares as emblems, just as we today use the triangle and the square to signify the Upper Triad and the Lower Quaternary.

Các vị tăng trưởng lão của Tăng đoàn Phật giáo từng dẫn học trò và khách hành hương của họ đi từ tầng này sang tầng khác của tòa kiến trúc, thuyết giảng một loạt bài về đời và pháp của Đức Phật, dùng các phù điêu làm minh họa. Nhưng với các môn sinh cao hơn, các ngài còn khai thị cả học thuyết về bảy cõi, và hơn nữa, về bảy nguyên khí của con người, dùng ba vòng tròn và bốn hình vuông làm tiêu đồ, y như ngày nay chúng ta dùng tam giác và hình vuông để biểu thị Tam Nguyên Tinh Thần và Tứ Phân Hạ.

The whole edifice is surmounted by a larger cupola, fifty feet in diameter, crowned by a broken spire (Plate VII). This cupola originally contained a small box or jar of ashes (which have, however, long ago been stolen) and also a curious unfinished statue of a Buddha. The theory of many archeologists is that it was intended to symbolize Amitābha, and [26] was intentionally left unfinished, to show that the Boundless Light could not be represented in human form, but could only be suggested—that, as Mr. Banner says in his Romantic Java: “Mortal skill may not presume to represent in His completeness the All-Highest”. The same author also remarks:

Toàn công trình được đội trên một vòm lớn, rộng năm mươi bộ, phía trên là một tháp nhọn đã gãy (Minh họa VII). Vòm này nguyên có chứa một chiếc hộp hay một bình tro nhỏ (nhưng đã bị đánh cắp từ lâu), và cả một pho tượng Đức Phật chưa hoàn thiện. Nhiều nhà khảo cổ cho rằng pho tượng này được dụng ý tượng trưng cho Amitābha, và [26] cố ý để dang dở, để cho thấy Quang Minh Vô Lượng không thể biểu hiện bằng hình tướng nhân loại, mà chỉ có thể gợi lên—rằng, như Ông Banner nói trong sách Java Lãng Mạn : “Tài khéo của phàm nhân không dám cả gan mô tả trọn vẹn Đấng Tối Cao.” Cùng tác giả còn nhận xét:

“The lowest of the angled terraces is decorated with carvings representative of common mundane scenes, to emphasize the moral that upon the earth rest all the higher spiritual values. But upon either wall of the four galleries there-after we find a continuous series of bas-reliefs illustrating the religious phenomena in ascending gradation. The first gallery, that is to say, displays a selection of scenes from the historical life of Buddha; the second shows us the minor deities of the Brahmanic worship adopted into the Buddhist Pantheon; the third contains the higher deities, at the plane in which the shrine rather than the deity itself is worshipped; while in the fourth we find only groups of Dhyāni-Buddhas.”[1] (1) [27]

“Hành lang góc thấp nhất được trang hoàng bằng các phù điêu mô tả những cảnh đời phàm tục, nhằm nhấn mạnh bài học đạo đức rằng trên mặt đất nương tựa mọi giá trị tinh thần cao hơn. Nhưng trên mỗi bức tường của bốn hành lang sau đó, ta thấy một chuỗi liên tục các phù điêu mô tả những hiện tượng tôn giáo theo cấp độ đi lên. Hành lang thứ nhất, nghĩa là, trình bày tuyển tập những cảnh từ đời lịch sử của Đức Phật; hành lang thứ hai cho ta thấy các vị thần thứ cấp của Bà-la-môn giáo được tiếp nhận vào trong Phật điện; hành lang thứ ba chứa các vị thần cao hơn, ở tầng mà đền thờ hơn là chính vị thần được tôn thờ; trong khi ở hành lang thứ tư ta chỉ thấy các nhóm Dhyāni-Phật.” (1) [27]

Whether the detail of this statement is correct I cannot say, for I am not sufficiently acquainted with the minute indications by which specialists in archaeology consider that they recognize the various types of Buddhas; but the general idea corresponds with much that I have seen.

Liệu chi tiết của phát biểu này có chính xác hay không thì tôi không dám quả quyết, vì tôi không am tường đủ những dấu chỉ tinh vi mà các chuyên gia khảo cổ học dựa vào đó để cho rằng họ nhận diện được các dạng loại khác nhau của chư Phật; nhưng ý tưởng tổng quát thì tương ứng với nhiều điều tôi đã thấy.

The square double platform upon which the whole vast structure rests really makes another stage below the surface of the earth, in which there is an elaborate series of carvings representing various lokas—evidently the lower astral plane, which actually does occupy exactly that position in space. It is supposed by some that this lowest stage was originally intended to be open to the air exactly like the others; other archaeologists claim that it was always intended to be underground to typify the “hells,” but that a broad vaulted passage ran round in front of the carvings, so that they could be seen. Traces of this vaulted passage are said to exist, but when the place was discovered by Europeans it was already filled by huge blocks of stone. The theory is that the enormous weight of the superincumbent [28] masonry caused the whole structure to begin to settle even before it was finished, and that the builders had therefore to sacrifice their lowest stage in order to save the whole. In other words, it was seen that the base would not be strong enough to support the whole, so in order to strengthen that base, a large band of masonry was built round it like a gigantic stone ring, which is now the square platform.

Nền vuông kép mà trên đó cả toàn bộ cấu trúc mênh mông này đặt mình thực sự tạo thành một tầng nữa bên dưới mặt đất, trong đó có một chuỗi chạm khắc công phu mô tả các lokas— rõ ràng là cõi cảm dục thấp, vốn thật sự chiếm đúng vị trí ấy trong không gian. Có người cho rằng tầng thấp nhất này nguyên được dự tính để lộ thiên giống hệt như các tầng khác; những nhà khảo cổ khác lại khẳng định rằng nó vốn được dự tính làm ngầm để biểu trưng cho “địa ngục”, nhưng có một hành lang vòm rộng chạy vòng trước các phù điêu để người ta có thể xem được. Người ta nói vẫn còn dấu vết của hành lang vòm này, nhưng khi nơi đây được người Âu phát hiện thì nó đã bị lấp kín bởi những khối đá khổng lồ. Giả thuyết là sức nặng khổng lồ của khối xây đè nặng [28] khiến toàn bộ công trình bắt đầu lún ngay cả trước khi hoàn thành, và do đó những người xây dựng đã buộc phải hy sinh tầng thấp nhất để cứu cả khối. Nói cách khác, người ta thấy rằng đế không đủ vững để chịu toàn bộ, nên để gia cố đế ấy, một băng xây rộng được dựng bao quanh như một vòng đá khổng lồ, và nay chính là nền vuông.

In the middle of each of the four sides of the square a steep stairway ascends, the gateway to each stairway being guarded by sitting lions, and spanned by ornate arches of the highest architectural perfection (Plate VII). From the square basic platform to the topmost of the circular platforms is but 118 ft. in perpendicular height, while the perimeter of the whole pyramid standing on that lower platform is 2080 ft., so that the entire complexity of galleries, with their bewildering wealth of ornamentation, makes a much-flattened half-globe, whose contour against the sky is a perfect curve. In fact, as one writer has unpoetically said, the work has been carried out so skilfully that from [29] far away the structure looks not unlike a highly ornate dish-cover!

Giữa mỗi cạnh trong bốn cạnh của hình vuông có một cầu thang dốc đi lên, cổng vào mỗi cầu thang được canh giữ bởi các sư tử ngồi, và bắc ngang bởi những vòm trang trí đạt đến sự toàn bích kiến trúc cao nhất (Bảng VII). Từ nền vuông cơ bản lên đến nền tròn cao nhất chỉ cao thẳng đứng 118 ft., trong khi chu vi của cả kim tự tháp đặt trên nền thấp ấy là 2080 ft., nên toàn bộ phức hợp hành lang, với sự phong phú đến choáng ngợp của các trang trí, tạo thành một nửa quả cầu rất dẹt, mà đường viền chống lên bầu trời là một đường cong hoàn hảo. Thật vậy, như một tác giả đã nói một cách hơi kém thi vị, công trình được thi công khéo đến nỗi từ [29] xa trông nó không khác gì một nắp đậy đĩa cực kỳ tinh xảo!

It is a mere mound as compared with the Shore Dagon (Rangoon), or the stupendous ruins at Angkor-Wat (Indo-China), but in its details it is far more wonderful and beautiful than either of them. Mr. Scheltema, in his book Monumental Java, describes it as “the most consummate achievement of Buddhist architecture in the whole world”; and in another place he speaks of “the supernatural beauty of Borobudur.” Professor Krom, whom I have already quoted, remarks that Borobudur is one of the most renowned documents and religious monuments of Buddhist art, and that this very beautiful architectural erection surpasses all works of art which one finds in the East. Dr. Krom himself, who is otherwise a materialist, was so affected by the beauty of Borobudur that he says that the atmosphere radiated by this monument is so extraordinary because of the divine inspiration which guided the hands that shaped it.

So với Chùa Shwedagon ở bờ biển (Rangoon) hay phế tích vĩ đại ở Angkor-Wat (Đông Dương), thì nó chỉ như một gò đất, nhưng trong từng chi tiết, nó kỳ diệu và mỹ lệ vượt xa cả hai. Ông Scheltema, trong sách Monumental Java, mô tả nó là “thành tựu hoàn mỹ nhất của kiến trúc Phật giáo trên toàn thế giới”; và ở chỗ khác ông nói đến “vẻ đẹp siêu nhiên của Borobudur.” Giáo sư Krom, người mà tôi đã trích dẫn, nhận xét rằng Borobudur là một trong những tư liệu và di tích tôn giáo lừng danh nhất của nghệ thuật Phật giáo, và rằng công trình kiến trúc rất đẹp này vượt trên mọi tác phẩm nghệ thuật mà người ta tìm thấy ở phương Đông. Bản thân Bác sĩ Krom, vốn là một người duy vật, đã xúc động đến mức ông nói rằng bầu khí do đài kỷ niệm này phát ra thật khác thường, vì sự cảm hứng thiêng liêng đã dẫn dắt đôi tay đã tạo tác nên nó.

[Note by C. Jinarājadāsa: I first saw Borobudur in 1919. Since then I have visited [30] the monument twice. I have been profoundly impressed by one special quality of the architect’s great conception. This monument is linked in my mind with that marvel of India, the Taj Mahal. There is in both an unusual quality of a transcendental unity, and in addition something almost supernatural. It is as if each monument were really a great thought-form—in granite at Borobudur and in marble at Agra, and that this thought-form descended to earth and clothed itself in matter. It becomes then the monument which we admire. In the cases of both Borobudur and the Taj Mahal, there is a feeling that if some magician were to wave his wand, each monument would in its entirety simply rise upwards into the heavens and vanish. I know of no other monuments which have this unusual spiritual quality. Probably the Parthenon at Athens had the same magic quality.]

[Ghi chú của C. Jinarājadāsa: Tôi lần đầu thấy Borobudur vào năm 1919. Từ đó tôi đã viếng thăm [30] đài kỷ niệm này hai lần. Tôi bị ấn tượng sâu sắc bởi một phẩm tính đặc biệt trong ý niệm vĩ đại của kiến trúc sư. Đài kỷ niệm này gắn trong tâm tôi với kỳ quan của Ấn Độ, Taj Mahal. Ở cả hai đều có một phẩm tính bất thường của sự hợp nhất siêu vượt, và thêm vào đó là điều gì đó gần như siêu nhiên. Như thể mỗi đài kỷ niệm thực là một Hình tư tưởng vĩ đại—bằng đá granit ở Borobudur và bằng đá cẩm thạch ở Agra, và Hình tư tưởng ấy đã hạ xuống trần gian và khoác mình trong vật chất. Thế rồi nó trở thành đài kỷ niệm mà chúng ta chiêm ngưỡng. Trong cả hai trường hợp, Borobudur và Taj Mahal, có một cảm giác rằng nếu một nhà pháp thuật nào đó vung đũa thần, mỗi đài kỷ niệm sẽ, trong trọn vẹn của mình, đơn giản bay vút lên trời và biến mất. Tôi không biết đài kỷ niệm nào khác có phẩm tính tinh thần khác thường này. Có lẽ Parthenon ở Athens cũng từng có phẩm tính nhiệm mầu như thế.]

A mile and a half from Borobudur is the temple of Mendoot—a building which, though very much smaller than the other and having quite a different purpose, is evidently of the same period and exhibits the same [31] combination of felicity in design and precision in execution. This time the edifice is really a temple, containing three large statues, which practically fill it; and one may see that even at the present day the peasants of the neighbourhood still pay reverence to them, and lay before them daily offerings of flowers.

Cách Borobudur một dặm rưỡi là đền Mendoot—một công trình tuy nhỏ hơn nhiều so với đài kia và có mục đích hoàn toàn khác, nhưng rõ ràng cùng thời kỳ và thể hiện cùng [31] sự kết hợp giữa hạnh vận trong thiết kế và độ chuẩn xác trong thi công. Lần này công trình thực sự là một ngôi đền, chứa ba pho tượng lớn, hầu như lấp đầy không gian; và có thể thấy ngay cả ngày nay những người nông dân quanh vùng vẫn kính bái các tượng, dâng đặt trước các Ngài lễ vật hoa tươi mỗi ngày.

The temple was apparently originally a structure of brick, but round that some eleven or twelve hundred years ago was built a stone outer sheath, scrupulously following the older design in all its complicated details of panellings, and of horizontal and perpendicular projections. It stands in the middle of an elevated platform, and its exterior is decorated with excellent carvings such as those at Borobudur, but in this case they illustrate not the life of the Lord Buddha but certain ancient folk-tales or popular legends, of the order of Aesop’s Fables. The building has a high pyramidal roof which, I am told, shows remarkable skill in vaulting. It is supposed that there was originally some sort of dāgoba-like top or spire as a finish to the truncated pyramid, but as no [32] traces of this now remain, the restorers have not ventured to make any attempt to reproduce it (Plate VIII).

Dường như ban đầu ngôi đền là một cấu trúc gạch, nhưng cách đây chừng mười một hay mười hai thế kỷ người ta xây bao quanh một lớp vỏ đá bên ngoài, tỉ mỉ theo sát bản thiết kế cũ trong mọi chi tiết phức tạp của các mảng ốp và những chi tiết nhô ngang, nhô dọc. Đền đứng giữa một bệ cao, và mặt ngoài được trang sức bằng những chạm khắc tuyệt hảo như ở Borobudur, nhưng trong trường hợp này chúng minh họa không phải đời sống của Đức Phật mà là một số cổ tích hay truyền thuyết dân gian, thuộc loại Ngụ ngôn Aesop. Công trình có mái hình kim tự tháp cao mà, theo tôi được biết, cho thấy tay nghề vòm rất điêu luyện. Người ta cho rằng nguyên thủy có một đỉnh hay tháp dạng dāgoba hoàn tất cho kim tự tháp cụt ngọn, nhưng vì không còn [32] dấu vết nào, những người trùng tu đã không dám mạo muội tái tạo (Bảng VIII).

A broad flight of steps leads up to a high and rather narrow doorway, on entering which the traveller finds himself in a lofty square room in the presence of the three great statues to which Ι have already referred, sitting with their backs to the three walls, precisely as though they were gathered round a table in conversation; but there is no table (Plate IΧ). As we enter, the image of the Lord Buddha faces us, while that shown on our right is a Bodhisattva. The statue in the middle, which by many marks is clearly intended for the Lord Buddha, is fourteen feet high in its sitting position, while the other two are only eight feet from top to toe as they sir. (1) Originally, therefore, the central statue must have towered above the others, but its enormous weight has caused its base to subside considerably, so that now they are almost on a level.

Một thềm bậc rộng dẫn lên một cửa ra vào cao và khá hẹp; vừa bước vào, lữ khách thấy mình ở trong một gian phòng vuông cao vút, đối diện với ba pho tượng lớn mà tôi đã nói, các tượng ngồi tựa lưng vào ba bức tường, y như thể các Ngài quây quần quanh một chiếc bàn đàm thoại; nhưng không có bàn (Bảng IX). Khi chúng ta bước vào, tượng Đức Phật quay mặt về phía ta, còn tượng bên hữu của ta là một vị Bồ Tát. Pho tượng ở giữa, mà qua nhiều dấu chỉ hiển nhiên được dụng ý là Đức Phật, cao mười bốn feet ở tư thế ngồi, còn hai pho kia chỉ cao tám feet tính từ đỉnh đến gót khi các Ngài ngồi. (1) Vậy ban đầu, pho tượng trung tâm hẳn vượt trội hẳn hai tượng kia, nhưng sức nặng khổng lồ đã khiến bệ của nó lún xuống đáng kể, nên giờ đây chúng gần như ở cùng một cao độ.

(1) As the two images to the right and to the left wear crowns, they represent Bodhisattvas. Often the crown of a Bodhisattva has a small Buddha image carved on it, as a sign that the Bodhisattva will later become a Buddha.—C. J.

(1) Vì hai tượng bên hữu và bên tả đội mảo miện, nên các tượng biểu trưng Bồ Tát. Thường vương miện của một vị Bồ Tát có khắc một hình Phật nhỏ, như dấu hiệu rằng vị Bồ Tát ấy về sau sẽ thành Phật.—C. J.

clip_image016

Plate VIII

Bảng VIII

clip_image018

Plate IX [33]

Bảng IX [33]

Several curious things may be noted in connection with these statues. They are not in the least the traditional half-Mongolian Buddha figures; the faces are clearly Aryan, and also quite individual—indeed, they are supposed to be portraits. The Lord Buddha is seated as a European and not as an Asiatic, and the others are at least halfway between the two postures. The edge of the Lord’s robe is conventionally indicated by a line, yet it does not seem to conceal the rest of the body. Both of the other statues are much more ornately dressed, wearing necklaces, armlets, wristbands, anklets and tiaras; and it is remarkable that these ornaments are far more Brahmanical than Buddhistic in character.

Có thể ghi nhận vài điều lý thú liên quan đến các pho tượng này. Chúng tuyệt không phải là các tượng Phật theo truyền thống nửa Mông Cổ; khuôn mặt rõ ràng là Arya, và cũng khá mang tính cá nhân—thật vậy, người ta cho là chân dung. Đức Phật ngồi theo lối người Âu chứ không theo lối Á, còn hai tượng kia thì ít nhất ở giữa hai tư thế ấy. Mép áo của Đức Phật được biểu thị theo ước lệ bằng một đường viền, thế nhưng dường như không che khuất phần thân còn lại. Cả hai tượng kia ăn vận trang sức cầu kỳ hơn nhiều, mang dây chuyền, vòng tay, vòng cổ tay, vòng cổ chân và mũ miện; và đáng chú ý là những đồ trang sức này mang sắc thái Bà-la-môn nhiều hơn Phật giáo.

There is much dispute among archeologists as to the identity of these other figures, and no reliance can be placed upon the names of Padmapāni and Manjushrī, which are often attached to them by the photographers. The curator who was in charge of Mendoot on my first visit—a very able man who was exceedingly kind and helpful—professed himself as fairly certain that the figure on the left of the Lord (but of course on our right as we [34] look at them from the doorway) was intended for the Lord Maitreya; I myself for various reasons rather inclined to the idea that the other image, seated on the right of the Lord, may have been meant for the great Bodhisattva. The little figure hovering over the head of that statue is usually explained as a Dhyānī-Buddha overshadowing the earthly manifestation.

Trong giới khảo cổ học có nhiều tranh luận về căn tính của hai tượng kia, và không thể đặt niềm tin vào những danh xưng Padmapāni và Manjushrī mà các nhà nhiếp ảnh thường gắn vào. Người quản thủ trông coi Mendoot trong lần tôi đầu đến—một người rất tài năng, hết sức tử tế và hữu ích—tỏ ra khá chắc rằng pho tượng bên trái Đức Phật (nhưng dĩ nhiên là ở bên chúng ta hữu khi [34] ta nhìn từ cửa vào) được dụng ý là Đức Di Lặc; phần tôi, vì nhiều lẽ, lại nghiêng về ý rằng tượng kia, ngồi bên hữu Đức Phật, có lẽ được dụng ý là vị Đại Bồ Tát. Hình nhỏ lơ lửng trên đầu pho tượng ấy thường được giải thích là một vị Phật Dhyānī đang phủ bóng hiện thân trần thế.

There is a strong belief among the Javanese noble families (who have many interesting traditions of the past) that there is an underground passage from Mendoot to Borobudur, leading into a subterranean Temple of Initiation which, they assert, exists under the latter —a passage which was intentionally closed at a later date. Dr. Brandes, an archeologist of high reputation, discovered in the course of his excavations a red-brick building under the foundations of Mendoot, but was unable to continue his investigations because they endangered the stability of the whole edifice. It is supposed that Mendoot was the central shrine (the private chapel, as it were,) of a great group of monasteries occupied by the host of monks attached to Borobudur. [35]

Có một niềm tin mạnh mẽ trong các gia tộc quý tộc người Java (những người có nhiều truyền thuyết thú vị về quá khứ) rằng có một đường hầm ngầm từ Mendoot đến Borobudur, dẫn tới một Đền Điểm đạo dưới lòng đất mà họ khẳng quyết là tồn tại bên dưới đài kỷ niệm sau—một đường hầm về sau cố ý bị bịt lại. Bác sĩ Brandes, một nhà khảo cổ có thanh danh lớn, trong quá trình khai quật đã phát hiện một công trình gạch đỏ bên dưới nền móng của Mendoot, nhưng không thể tiếp tục điều tra vì điều đó gây nguy cho sự vững chãi của cả tòa kiến trúc. Người ta cho rằng Mendoot là điện thờ trung tâm (tựa như nhà nguyện riêng) của một quần thể tu viện lớn nơi trú ngụ của đông đảo tăng chúng trực thuộc Borobudur. [35]



  1. (1) Op. cit., p. 126.


Leave a Comment

Scroll to Top