11. Lịch Sử Huyền Bí của Borobudur—CHƯƠNG 11—Sự Hợp Tác của Thiên Thần tại Lễ hội Dasara ở Mysore

Angelic Co-Operation At The Dasara Festival At Mysore

[Each year at the Festival observed throughout India, called Dasara, which lasts for ten days, the Mahārājah of Mysore holds various ceremonial functions. A few invited guests can also be present. At one of them he receives all the State officials who, dressed in their State uniforms, present to him certain traditional gifts, which however he only “touches and remits”. On another day there is the pūja and blessing of all the State animals—elephants, camels, horses and bullocks—of automobiles and all the coaches and carts, of the Statebrella, and of all the equipment and articles used by the Palace household, and so on. One afternoon there is a great procession through the principal streets of the city, when the streets are lined with the subjects of the Mahārājah. (1) He rides slowly in procession, sometimes

[Mỗi năm vào Lễ hội được cử hành khắp Ấn Độ, gọi là Dasara, kéo dài mười ngày, vị Mahārājah của Mysore cử hành nhiều nghi lễ khác nhau. Một số khách mời cũng có thể hiện diện. Trong một buổi, Ngài tiếp tất cả quan chức của Nhà nước, những người mặc triều phục, dâng lên Ngài vài lễ vật truyền thống, tuy nhiên Ngài chỉ “chạm vào và miễn”. Vào một ngày khác có lễ pūja và ban phúc cho mọi súc vật của Nhà nước—voi, lạc đà, ngựa và bò—cho ô tô và tất cả xe kiệu, xe ngựa, cho lọng nhà nước, và cho mọi trang bị và vật dụng dùng trong Hoàng cung, v.v. Một buổi chiều có cuộc rước lớn qua các phố chính của thành, khi các con dân của vị Mahārājah xếp hàng dọc hai bên đường. (1) Ngài đi chậm trong đoàn rước, khi thì [46] được kiệu, khi thì cưỡi trên con bạch mã của Nhà nước, và ở vài điểm các tư tế tiến ra với lễ vật. Ngài dừng lại một thoáng để “nhận”, tức là, chạm vào chúng, rồi đi tiếp.

(1) When I saw this procession there was not a single policeman about to keep the crowd in order, as was the case in British India.—C. J. [46] carried in a sedan-chair litter, sometimes mounted on the beautiful white State horse, and at certain points the priests come forward with offerings. He stops for a moment to “receive” them, i.e., to touch them, and then passes on.

(1) Khi tôi chứng kiến đoàn rước này, không có lấy một cảnh sát nào để giữ trật tự đám đông, như vẫn thấy ở Ấn Độ thuộc Anh.—C. J.

The Mahārājah of Mysore, the predecessor of the present Mahārājah, was deeply religious, and several afternoons of each week he would drive to Chāmundi Hill, where there is the temple of the patron goddess of Mysore, the Goddess Chāmundi, who is one embodiment of the Goddess Pārνatī, the consort of the God Shiva. There he would divest himself of his ordinary garb, and dressed in a dhoti as a pious Hindu would sit in meditation. The subjects of the Mahārājah had profound veneration fοr him, and whenever there was an opportunity, as at the public procession, they expressed it, in silent reverence with joined palms.

Vị Mahārājah của Mysore, vị tiền nhiệm của vị Mahārājah đương kim, là người hết sức đạo hạnh, và nhiều buổi chiều mỗi tuần Ngài lái xe đến đồi Chāmundi, nơi có ngôi đền của vị nữ thần bảo trợ Mysore, Nữ thần Chāmundi, vốn là một hiện thân của Nữ thần Pārνatī, phối ngẫu của Thần Shiva. Tại đó Ngài sẽ rũ bỏ y phục thường ngày, và, khoác một chiếc dhoti như một tín đồ Hindu mộ đạo, Ngài ngồi tham thiền. Con dân của vị Mahārājah kính ngưỡng Ngài sâu xa, và bất cứ khi nào có dịp, như trong đoàn rước công cộng, họ bày tỏ lòng kính ấy bằng sự im lặng chắp tay.

What happened in the occult world on one of these occasions in 1933 is here described by C. W. Leadbeater.—C. J.]

Điều diễn ra trong thế giới huyền linh vào một trong những dịp như vậy năm 1933 được C. W. Leadbeater thuật lại dưới đây.—C. J.]

I ought perhaps to premise that what most especially engaged my attention was the fact [47] that a reigning monarch took a leading part in all the ceremonies. Having studied occultism for half a century, I have learnt that there is a tremendous inner reality behind the idea of “the divinity which doth hedge a King,” and that, though probably he hardly .ever realizes it, he is just as truly set apart and consecrated for his position under the august Head of the First Ray as is an Archbishop for his quite different work on the Second Ray. Through each there flows the influence peculiar to his Ray; for each there is the same distinction, so little understood, between the power that may flow and the power that must flow. Let me try to explain what I mean.

Có lẽ tôi nên mở đầu rằng điều đặc biệt thu hút sự chú ý của tôi là thực tế [47] một vị quân chủ đang trị vì giữ vai trò chủ đạo trong mọi nghi lễ. Sau nửa thế kỷ học hỏi huyền bí học, tôi đã biết rằng có một thực tại nội giới to tát ẩn sau ý niệm “tính thiêng liêng bao quanh một vị Vua”, và rằng, dù có lẽ Ngài hầu như chẳng bao giờ tự ý thức, Ngài được biệt lập và thánh hiến cho ngôi vị của mình dưới quyền Đấng tôn nghiêm Đứng Đầu Cung một y như một Tổng Giám mục được thánh hiến cho công việc rất khác trên Cung hai. Qua mỗi vị đều tuôn chảy ảnh hưởng đặc thù của Cung thuộc về mình; đối với mỗi vị cũng có sự phân biệt tương tự, vốn ít được hiểu, giữa quyền năng có thể tuôn chảy và quyền năng phải tuôn chảy. Để tôi thử giải thích điều tôi muốn nói.

I can do so best by employing an analogy, drawn in this case from Christian sources. The great majority of Christians accept the doctrine of Apostolic Succession; that is to say, they know that in order to perform certain ceremonies and to do certain work a Priest must be duly ordained. The power effectively to perform those ceremonies and to do that work is conferred upon him by a duly authorized official, and that power, once [48] given, cannot be withdrawn. An ordained Priest may be, for sufficient reason, deprived of his position and its emoluments, if any, but he cannot be deprived of his priestly power. That this doctrine is understood and accepted by the Church may be seen by the perusal of the 26th of the Articles of Religion of the Church of England “On the Unworthiness of the Minister, which hindereth not the Effect of the Sacrament”. This may seem startling to some, but is really logical and reasonable; he who wishes for an explanation of this is referred to The Hidden Side of Things or to The Science of the Sacraments, in both of which this matter is treated fully.

Tôi có thể làm điều đó tốt nhất bằng cách dùng một tương đồng, lần này rút từ các nguồn Kitô giáo. Đại đa số Kitô hữu chấp nhận giáo lý Tông truyền; nghĩa là, họ biết rằng để cử hành một số nghi lễ và làm một số công việc, một Linh mục phải được truyền chức hợp lệ. Quyền năng để cử hành hữu hiệu các nghi lễ ấy và thực hiện công việc ấy được ban cho ông bởi một vị chức sắc có thẩm quyền, và quyền năng ấy một khi [48] đã ban thì không thể bị rút lại. Một Linh mục đã thụ phong có thể, vì lý do đủ nghiêm trọng, bị tước vị trí và bổng lộc (nếu có), nhưng ông không thể bị tước quyền năng linh mục. Rằng giáo lý này được Giáo hội hiểu và chấp nhận có thể thấy khi đọc Điều khoản thứ 26 trong Các Điều khoản Tín lý của Giáo hội Anh giáo, “Về Sự Bất xứng của Thừa tác viên, điều ấy không cản trở Hiệu lực của Bí tích”. Điều này có vẻ gây sửng sốt với vài người, nhưng thật ra là hợp lô-gic và hợp lý; ai muốn có lời giải thích thì xin tham khảo Khía Cạnh Ẩn Mật của Sự Vật hoặc Khoa Học về các Bí Tích, trong đó vấn đề này được trình bày đầy đủ.

From this it follows, however strange it may seem, that a Sacrament may be effectually administered by a Priest who is far from understanding it, or is even of doubtful character; that is the power or influence that must flow through him because of his ordination. But it is obvious that along with this a great deal more may and indeed must flow through a really good and earnest Priest who is devoted to his holy work, and does it [49] with full heart and understanding. Still more is this true of his superior officer, the Bishop or Archbishop; indeed, it is expected of the Bishop that he shall be a perpetual fount of blessing wherever he goes—a true follower and representative of the Head of the Second Ray.

Từ đây suy ra, dù có vẻ lạ lùng, rằng một Bí tích có thể được cử hành hữu hiệu bởi một Linh mục vốn rất không hiểu nó, hoặc thậm chí có nhân cách đáng ngờ; đó là quyền năng hay ảnh hưởng phải tuôn qua ông do bởi việc truyền chức. Nhưng rõ ràng rằng bên cạnh đó, còn có rất nhiều điều có thể và quả quyết là sẽ tuôn chảy qua một Linh mục thực sự thiện hảo và nhiệt thành, tận hiến cho công việc thánh thiêng của mình, và làm việc ấy [49] với cả tấm lòng cùng sự hiểu biết. Điều này lại càng đúng hơn nữa đối với vị thượng cấp của ông, Giám mục hay Tổng Giám mục; quả thật, người ta kỳ vọng nơi Giám mục rằng ở bất cứ đâu Ngài đến, Ngài sẽ là một nguồn mạch ban phúc không ngơi nghỉ—một môn đồ chân chính và là vị đại diện của Đấng đứng đầu Cung hai.

What I wish to emphasize is that a precisely similar attitude is expected from a King—that he has a similar consecration (at the time of his coronation), a similar power, a similar duty; but with this very important difference, that his work lies on the line of the First Ray instead of the Second.

Điều tôi muốn nhấn mạnh là một thái độ tương tự hệt như thế được kỳ vọng nơi một vị Vua—rằng Ngài có một sự thánh hiến tương tự (vào lúc đăng quang), một quyền năng tương tự, một bổn phận tương tự; nhưng có một điểm khác biệt rất quan trọng, là công việc của Ngài nằm trên tuyến của Cung một thay vì Cung hai.

His function is to rule, to guide, to guard, and when necessary to restrain; the virtues on which he lays most stress are truth, justice, strength and courage, whereas those emphasized by the Second Ray are love, gentleness, and compassion. One is concerned principally with physical life and its circumstances, the other chiefly with spiritual development. Wisdom is equally necessary on both lines.

Chức năng của Ngài là trị vì, dẫn dắt, bảo hộ, và khi cần thì kiềm chế; các đức hạnh Ngài nhấn mạnh nhất là chân lý, công chính, sức mạnh và dũng khí, trong khi những điều Cung hai đề cao là tình thương, nhu hòa và bi mẫn. Cung này chủ yếu quan tâm đến đời sống hồng trần và các hoàn cảnh của nó, còn Cung kia chủ yếu chú trọng đến sự phát triển tinh thần. Minh triết đều cần thiết như nhau trên cả hai tuyến.

The special work of the Priest or the Bishop constantly brings him before the [50] public in the exercise of his power to bless, so I have frequently had the opportunity of watching the mechanism of the Second Ray in action, even apart from my own work in the Church; but it is not so frequently that the chance comes in one’s way to see the royal function in operation on a large scale. Also, not every King is aware of the full scope of his power, and so he may not use it intentionally.

Công việc đặc thù của Linh mục hay Giám mục thường xuyên đưa Ngài ra trước [50] công chúng trong việc thi thố quyền ban phúc, nên tôi thường có cơ hội quan sát cơ chế của Cung hai vận hành, ngay cả ngoài công việc của chính tôi trong Giáo hội; nhưng cơ hội để chứng kiến chức năng vương quyền vận hành trên quy mô lớn thì lại không đến thường xuyên. Hơn nữa, không phải vị Vua nào cũng ý thức trọn vẹn phạm vi quyền năng của mình, nên có khi Ngài không chủ ý sử dụng nó.

The “tongue of good report,” however, had universally been heard in favour of His Highness the Maharajah of Mysore; every one spoke of him as an enlightened sovereign, religious by nature and anxious to do his duty to his people; so it occurred to me that it would be of interest to observe the play of forces around him on the occasion of this great public function.

Tuy nhiên, “lời khen lành” đã vang lên phổ khắp dành cho Đức Ngài, vị Mahārājah của Mysore; ai nấy đều nói về Ngài như một bậc quân vương khai minh, đạo hạnh bẩm sinh và khao khát chu toàn bổn phận với dân; nên tôi nghĩ rằng thật thú vị nếu quan sát sự diễn hành của các lực quanh Ngài trong dịp đại lễ công cộng này.

The entry of the Mahārājah into the Audience Hall was exceedingly impressive. The Mahārājah certainly had an escort—in fact he had a double escort, one visible to all, the other and much larger probably seen by few. First, a distinct aura or wave of influence preceded him. He has a very fine aura [51] of his own, this monarch; but it is not to that that I am referring. He was attended by various Devas, and the effect produced at the time of this entry was as though these Devas had thrown an enormous extra faintly luminous aura around him like a great cloud, so that it extended far before him, and as it were pushed its way into the vast crowd waiting for him. It seemed for the moment to absorb, or perhaps better still to infiltrate, all the auras of those present—not so much changing them as vivifying, intensifying, one might almost say electrifying them, undoubtedly preparing them more readily to receive other influences more personal to himself. He could have had no personal volition in manipulating this; it was done for him by those attendant Devas, but it sent a thrill through the whole of that vast crowd although some of those present were much more strongly affected by it than others.

Cảnh Đức Ngài tiến nhập Đại Sảnh Yết Kiến thật vô cùng ấn tượng. Quả thực vị Mahārājah có đoàn hộ tống—thật ra Ngài có song trùng hộ tống, một hữu hình với mọi người, cái kia và đông hơn nhiều, có lẽ chỉ ít ai thấy. Trước hết, một làn sóng ảnh hưởng hay một quầng như hào quang rõ rệt đi trước Ngài. Bản thân Ngài có một hào quang rất đẹp, vị quân vương này; nhưng tôi không nói đến hào quang ấy. Ngài được các Thiên thần tháp tùng, và hiệu ứng tạo ra vào lúc Ngài nhập trường là như thể các vị Thiên thần ấy đã ném một hào quang phụ trội khổng lồ, lờ mờ sáng quanh Ngài như một đám mây lớn, sao cho nó trải rộng ra xa phía trước, và như là xô đẩy thẳng vào đám đông mênh mông đang đợi Ngài. Trong một thoáng, nó dường như hấp thụ, hay nói đúng hơn là thẩm thấu, mọi hào quang của những người hiện diện—không đến nỗi biến đổi chúng mà là làm sinh động, tăng cường, thậm chí có thể nói là điện hóa chúng, chắc chắn là chuẩn bị cho họ sẵn sàng hơn để tiếp nhận những ảnh hưởng khác mang tính cá nhân hơn từ chính Ngài. Ngài không thể có ý chí cá nhân nào trong việc điều khiển điều này; nó được các vị Thiên thần tháp tùng thực hiện cho Ngài, nhưng nó đã gửi một làn rúng động qua toàn thể đám đông vĩ đại ấy, dù rằng vài người trong đó bị tác động mạnh hơn những người khác.

When he himself came in sight, it was at once observable that he and his double escort (physical and astral) were walking in the midst of a globe of light of the same nature as the aura which had preceded him, but far [52] more brilliant. This globe moved with the party, but was entirely distinct from the individual auras of the sovereign and the Angels and men surrounding him. Those auras are of course permanent, whereas the globe gave the impression of being specially formed for the occasion. When the Mahārājah reached the foot of the throne he paused for a few moments, and then walked round it, which seemed slightly to check the flow of the force, but on the other hand produced a strong magnetic effect—a sort of preliminary cleansing.

Khi chính Ngài xuất hiện, lập tức có thể nhận ra rằng Ngài và hai đoàn hộ tống (hồng trần và vía) cùng đi trong một quả cầu ánh sáng có cùng bản chất như hào quang đã đi trước, nhưng [51] rực rỡ hơn nhiều. Quả cầu này chuyển động cùng đoàn, nhưng hoàn toàn biệt lập với các hào quang cá nhân của quân vương, của các Thiên thần và những người vây quanh. Những hào quang ấy dĩ nhiên là thường trụ, trong khi quả cầu lại cho ấn tượng là được hình thành đặc biệt cho dịp này. Khi vị Mahārājah tới chân ngai, Ngài dừng lại vài khoảnh khắc, rồi bước vòng quanh ngai, dường như điều ấy hơi làm giảm dòng lực một chút, nhưng mặt khác lại tạo hiệu ứng từ tính mạnh—như một sự tẩy lọc sơ bộ.

Then he ascended to the throne, and as his gaze swept over that vast assembly, one felt that he was as it were entering into his kingdom, making a strong personal link with all who could respond to him, in an intimate way which had been rendered possible only by that preliminary action of his Devas in sending out the influence before him. One felt that thereby he held his audience within his grip, so that the active beneficence mentioned could be applied and materialized in their hearts. His Angel escort was industriously co-operating in all this, and its members contrived to keep up something of this [53] feeling in many of his subjects all through the long ceremony which followed. Having made this link with their help, and sent a real wave of enthusiasm sweeping through the hearts of his people as they heard their National Anthem, the sovereign seated himself, and the crowd gradually settled down also.

Rồi Ông bước lên ngai, và khi ánh nhìn của Ông quét qua hội chúng bao la ấy, người ta cảm nhận rằng như thể Ông đang tiến nhập vào vương quyền của mình, kết lập một mối liên hệ cá nhân mạnh mẽ với tất cả những ai có thể đáp ứng với Ông, theo một cách thân mật vốn chỉ khả hữu nhờ hành động chuẩn bị của các Thiên Thần của Ông khi phóng xuất ảnh hưởng đi trước Ông. Người ta cảm thấy rằng nhờ thế Ông nắm giữ thính chúng trong tay, để lòng từ thiện năng động đã nói có thể được áp dụng và hiện thực hoá trong tim họ. Đoàn hộ tống Thiên Thần của Ông đã chuyên cần hiệp tác trong tất cả những điều này, và các thành viên của đoàn đã khéo duy trì phần nào của cảm thức này [53] nơi nhiều thần dân của Ông suốt nghi lễ dài tiếp theo. Sau khi nhờ sự trợ giúp của các Ngài mà tạo lập được mối liên hệ ấy, và gửi một làn sóng hứng khởi chân thực lan tràn qua lòng dân khi họ nghe Quốc Ca, vị quân vương an toạ, và đám đông cũng dần lắng xuống.

Then the proceedings began, as described by Miss Kellett; but meantime the Deva attendants who had been floating round and above the throne brought into action a curious astral construction, the like of which I have not hitherto seen. They produced an object which I can only compare to a gigantic, sparkling, diaphanous crown, perhaps six feet or thereabouts in diameter, the base of it being the usual circular ring, but the upper parts rising apparently into a number of points resembling rather an earl’s crown than that of a King. This strange shape they held in the air some distance above the head of the ruler, so that it interpenetrated the golden canopy or roof of the throne. Into this there seemed to flow from above what I can describe only as a kind of stream of soft, liquid light, which seemed to be absorbed by—to [54] charge as it were—the form seated on the throne. When the Mahārājah stretched out his hand to touch something, a flash of this soft light passed from him to the person or object touched, and in the case of some of the recipients it evoked a certain outpouring in reply; but this varied greatly in volume, in colour and in brilliance with different people—I imagine according to their receptivity. It was evidently this scheme which enabled him to endure the fatigue of the ceremony, and yet “to give unto the last even as unto the first”.

Rồi các nghi thức bắt đầu, như Cô Kellett đã mô tả; nhưng trong lúc ấy các vị Thiên Thần phụ tá vốn đang lượn quanh và bên trên ngai đã đưa vào hoạt động một cấu trúc cảm dục kỳ lạ, điều mà cho đến nay tôi chưa từng thấy tương tự. Các Ngài tạo ra một vật mà tôi chỉ có thể so sánh với một chiếc vương miện khổng lồ, lấp lánh, mỏng trong, có lẽ rộng chừng sáu bộ hoặc chừng đó, phần đế là một vòng tròn như thường lệ, nhưng phần trên dường như vươn lên thành nhiều chóp, giống vương miện của một bá tước hơn là của một vị vua. Hình dạng lạ lùng này được các Ngài giữ lơ lửng trên không cách đầu của nhà vua một khoảng, đến nỗi nó xuyên nhập tán vàng hay mái của ngai. Từ bên trên dường như có một thứ mà tôi chỉ có thể gọi là một dòng ánh sáng mềm mại, như lưu chất, tuôn đổ vào trong đó, và dường như được hấp thu—để [54] nạp, như thể vậy—vào hình tướng đang ngự trên ngai. Khi Đức Mahārājah đưa tay chạm vào vật gì đó, một tia của thứ ánh sáng dịu ấy từ Ông truyền sang người hay vật được chạm, và trong một số trường hợp người thọ nhận đã đáp lại bằng một cuộc tuôn đổ nào đó; nhưng điều này khác nhau rất nhiều về lượng, về màu sắc và về độ rực sáng nơi những người khác nhau—tôi đoán là tuỳ theo khả năng tiếp nhận của họ. Rõ ràng chính cơ dụng này đã giúp Ông chịu đựng mệt nhọc của nghi lễ, mà vẫn “ban phát cho người cuối cùng cũng như cho người đầu tiên”.

The Durbar on the ninth night is the only one in which European guests participate. On this occasion they are presented to His Highness and receive from him a gift of flowers—garlands for the men and bouquets for the ladies. This night is more specially than the others a mere social function—there is about it less solemnity, because the Western element is so foreign to the surroundings.

Buổi Durbar vào đêm thứ chín là buổi duy nhất có sự tham dự của các vị khách Âu châu. Dịp này họ được ra mắt Đức Ngài và nhận từ tay Ông một tặng vật hoa—vòng hoa cho các ông và bó hoa cho các bà. Đêm này mang tính sinh hoạt xã hội nhiều hơn các đêm khác—ít trang nghiêm hơn, vì yếu tố phương Tây quá xa lạ với bối cảnh chung quanh.

I can well understand this feeling of “less solemnity,” for there was practically no inner side to this part of the function. The [55] sovereign was attended by his usual Deva escort—I presume that is always with him—but that strange sparkling fairy-like, floating crown was not made, and the wonderful living light of yesterday flowed very sparingly, and received scarcely any response, save in one or two cases. The Mahārājah was still every inch a king, but it was obvious that he was not their king, though quite genial and kindly disposed towards them.

Tôi hoàn toàn có thể thấu hiểu cảm giác “ít trang nghiêm hơn” ấy, vì hầu như không có phương diện nội tại nào cho phần việc này. Vị [55] quân vương được đội hộ tống Thiên Thần thường lệ theo hầu—tôi phỏng đoán là các Ngài luôn theo Ông—nhưng chiếc vương miện lạ lùng, lấp lánh, như tiên và lơ lửng ấy đã không được tạo tác, và thứ ánh sáng sống động kỳ diệu của ngày hôm qua chỉ chảy rất dè sẻn, và hầu như chẳng nhận được đáp ứng nào, trừ một hai trường hợp. Đức Mahārājah vẫn là một vị vua đúng nghĩa trong từng đường tấc, nhưng rõ ràng Ông không phải là nhà vua của họ , dẫu vẫn rất hoà nhã và thiện ý với họ.

The concluding procession was again a most interesting example of the whole-hearted co-operation of the Angel kingdom with the human. I do not know exactly from what point of view His Highness the Mahārājah regards that procession, but I am able to say that the Deva helpers look upon it as a grand final demonstration intended to impress permanently on the minds and hearts of the people the lessons which they have been trying to inculcate. Their efforts are always directed to the general upliftment of the masses whom they are trying to help, and they regard the affection and devotion which the people feel for their ruler as very important factors through which they can be [56] influenced for good. Al] through the ten days of the festival they have been trying to strengthen such feelings where they already exist, and to awaken them where they do not, and they hope, through the emotion excited by the magnificence of this final procession to stamp these ideas so deeply upon their people that they will not fade out until the next great festival comes to revivify them.

Đoàn rước bế mạc một lần nữa là một minh chứng vô cùng thú vị về sự hiệp tác hết lòng của giới Thiên Thần với nhân loại. Tôi không biết chính xác Đức Mahārājah nhìn nhận đoàn rước ấy từ quan điểm nào, nhưng tôi có thể nói rằng các Thiên Thần phụ giúp xem đó như một màn trình bày cuối cùng huy hoàng nhằm khắc ghi vĩnh viễn vào tâm trí và trái tim của dân chúng những bài học mà họ đã cố gắng truyền dạy. Nỗ lực của các Ngài luôn hướng đến sự nâng cao chung của đám đông mà các Ngài đang cố gắng trợ giúp, và các Ngài coi lòng thương mến và sùng kính mà dân chúng dành cho nhà vua là những yếu tố rất quan trọng, qua đó họ có thể được [56] tác động theo hướng thiện. Suốt mười ngày của lễ hội, các Ngài đã cố gắng củng cố những cảm tình như thế ở nơi nào chúng đã có, và đánh thức chúng ở nơi nào chúng chưa có, và các Ngài hy vọng, qua cảm xúc được khơi dậy bởi vẻ huy hoàng của đoàn rước cuối cùng này, sẽ đóng ấn những ý tưởng ấy thật sâu vào lòng dân, đến nỗi chúng sẽ không phai nhạt cho đến khi lễ hội trọng đại kế tiếp đến để phục sinh chúng.

In trying to understand the work of the Devas, we have always to bear in mind that selfishness is absolutely unknown among them; they regard its frequent manifestation by humanity as a kind of terrible disease which must be eliminated at all costs. Therefore they are always working to increase contentment and fraternal feeling in humanity, and it is in that direction that they have been moving through all the days of this prolonged festivity. They see readily that there is much in the hardness and the competition of the daily life of man which by its constant pressure tends to deaden these finer feelings and gradually to erase them, and so they wish to use this culmination of the feast to retain the level just gained. [57]

Khi cố gắng hiểu công việc của các Thiên Thần, chúng ta luôn phải ghi nhớ rằng tính vị kỷ hoàn toàn không hề có nơi các Ngài; các Ngài xem sự biểu lộ thường xuyên của nó nơi nhân loại như một chứng bệnh khủng khiếp cần phải loại trừ bằng mọi giá. Do đó, các Ngài luôn hoạt động để gia tăng sự an hoà thoả mãn và tình huynh đệ trong nhân loại, và theo hướng ấy các Ngài đã vận hành suốt những ngày dài của cuộc lễ này. Các Ngài dễ dàng nhận thấy có nhiều điều trong sự khắc nghiệt và cạnh tranh của đời sống hằng ngày của con người, vì áp lực liên tục của chúng, có xu hướng làm tê liệt những tình cảm tinh tế này và dần dần xoá nhoà chúng, nên các Ngài muốn dùng cao điểm của lễ hội này để duy trì mức độ vừa đạt được. [57]

Therefore the promoters of the movement call together a vast host of minor Angel friends to hover over and increase the joyousness of the procession, so that amidst a very surfeit of physical-plane attractions a shower of benediction may be poured out through it as it passes along. There is also the idea of strongly magnetizing the road which is taken, so that it may continue to influence those who use it. Once more the Mahārājah is the centre of all this influence, and it is through him that the greatest of the blessings are outpoured.

Bởi vậy những vị khởi xướng hoạt động đã triệu tập một đạo binh lớn các Thiên Thần thân hữu bậc nhỏ đến lượn trên cao và gia tăng niềm hân hoan của đoàn rước, để giữa một sự phong phú đến dư thừa các hấp dẫn nơi cõi hồng trần, một cơn mưa ân phúc có thể được tuôn đổ qua đó khi đoàn đi qua. Cũng còn có ý định mạnh mẽ từ hoá con đường được lựa chọn, để nó có thể tiếp tục ảnh hưởng những ai đi trên đó. Một lần nữa Đức Mahārājah là trung tâm của tất cả ảnh hưởng này, và chính qua Ông mà những phước lành lớn lao nhất được tuôn đổ.

What is there that we can learn from all this? Happily most of us are not called upon to bear the heavy burden of a royal crown; yet there are many among us who are kings in a small way—employers on a more or less extensive scale, heads of departments or offices. We cannot hope to wield the widespread influence of a monarch, but we can make happier or less happy the lives of those over whom we find ourselves temporarily in control, and we know of the promise that he who is faithful in small things will presently have the opportunity to extend that [58] faithfulness to something greater. If we find ourselves in a position of authority, it is assuredly our duty to see that the work for which we are responsible is properly done; but that can be achieved far more efficiently by kindness and persuasion than by roughness. We must learn to work not through fear but through love; so shall we deserve the angelic co-operation, and, deserving it, be sure that we shall receive it.

Chúng ta có thể học được điều gì từ tất cả những điều này? May thay phần đông chúng ta không bị kêu gọi gánh vác trọng trách nặng nề của một vương miện; thế nhưng có nhiều người trong chúng ta là những “vị vua” theo cách nhỏ—những người sử dụng lao động với quy mô ít nhiều, những người đứng đầu các ban ngành hay văn phòng. Chúng ta không thể hy vọng nắm giữ ảnh hưởng rộng khắp như một quân vương, nhưng chúng ta có thể làm cho đời sống của những người mà chúng ta tạm thời có quyền quản thúc trở nên hạnh phúc hơn hoặc kém hạnh phúc hơn, và chúng ta biết lời hứa rằng ai trung tín trong việc nhỏ sẽ sớm có cơ hội mở rộng sự trung tín đó [58] tới điều lớn lao hơn. Nếu chúng ta thấy mình ở vị trí có thẩm quyền, dĩ nhiên bổn phận của chúng ta là phải bảo đảm công việc mình chịu trách nhiệm được thực hiện một cách đúng đắn; nhưng điều đó có thể đạt được hiệu quả hơn nhiều bằng sự tử tế và thuyết phục hơn là bằng sự thô bạo. Chúng ta phải học cách làm việc không phải qua sợ hãi mà qua tình thương; như thế chúng ta sẽ xứng đáng với sự hiệp tác của các Thiên Thần, và, đã xứng đáng, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận được nó.

It was extremely interesting to me to find so marked a case of this angelic co-operation. It seems to me to show that if ever we are happy enough to reach a stage in which all the world will work together in that way along similar lines, the help of the higher evolution of the Deva Kingdom will undoubtedly be extended to us in many ways of which at present we have no conception.

Đối với tôi, việc khám phá một trường hợp nổi bật như thế về sự hiệp tác thiên thần quả là vô cùng thú vị. Dường như điều đó cho thấy rằng nếu một ngày nào đó chúng ta đủ hạnh phúc để đạt tới giai đoạn trong đó cả thế giới sẽ cùng làm việc theo cách ấy, đi theo những đường lối tương tự, thì sự trợ giúp của bậc tiến hoá cao siêu hơn trong Giới Thiên Thần chắc chắn sẽ được mở rộng đến với chúng ta bằng nhiều cách mà hiện nay chúng ta chưa hề hình dung nổi.

Leave a Comment

Scroll to Top