Chapter IV—CLAIRVOYANCE IN SPIRITUALISM
Clairvoyant Faculties—Các Năng Lực Thông Nhãn
Many of the phenomena commonly displayed at a spiritualistic gathering are simply the manifestation of the ordinary powers and faculties natural to the astral plane, such as are possessed by every dead man. I have already explained in my little work on Clairvoyance what these powers are, and any one who will take the trouble to read that will see how clearly the possession of such senses accounts for the faculty so often exhibited by the dead of reading a closed book or a sealed letter, or describing the contents of a locked box. I have had repeated evidence through many different mediums of the possession of this power; sometimes the knowledge obtained by its means was given out through the medium’s body in trance-speaking, and at other times it was expressed directly by the dead man, either in his own voice or by slate-writing. | Nhiều hiện tượng thường thấy trong một buổi nhóm theo khuynh hướng thần linh học đơn giản chỉ là sự biểu lộ những quyền năng và năng lực thông thường, tự nhiên đối với cõi cảm dục, vốn được mọi người chết sở hữu. Tôi đã giải thích trong tác phẩm nhỏ của mình về Thông Nhãn rằng những quyền năng ấy là gì, và bất cứ ai chịu khó đọc sẽ thấy rõ ràng việc sở hữu những giác quan như thế giải thích ra sao năng lực mà người chết thường biểu lộ như đọc một cuốn sách đóng kín hay một lá thư dán niêm, hoặc mô tả vật chứa trong một hộp khóa. Tôi đã có nhiều lần bằng chứng, qua nhiều đồng tử khác nhau, về việc sở hữu năng lực này; đôi khi tri kiến đạt được theo cách ấy được bộc lộ qua thân thể của đồng tử bằng những lời nói trong trạng thái xuất thần, và những lúc khác thì được bày tỏ trực tiếp bởi người đã khuất, hoặc bằng chính giọng nói của họ, hoặc bằng cách viết bảng đá. |
These astral faculties sometimes include a certain amount of prevision, though this is possessed in varying degrees; and they also frequently give the power of psychometry and of looking back to some extent into events of the past. The way in which this is sometimes done is shown in the following story, given to us by Dr. Lee, in his Glimpses of the Supernatural, vol. ii, p. 146. | Những năng lực cảm dục này đôi khi bao gồm một mức độ tiên kiến nhất định, tuy mức này khác nhau; và chúng cũng thường cho năng lực trắc tâm và khả năng ngoái nhìn lại quá khứ ở một chừng mực nào đó. Cách thức đôi khi thực hiện điều này được cho thấy trong câu chuyện sau, do Bác sĩ Lee thuật lại trong Thoáng Thấy về Cõi Siêu Nhiên, tập ii, tr. 146. |
The Missing Papers—Những Giấy Tờ Bị Thất Lạc
A commercial firm at Bolton, in Lancashire, had found that a considerable sum of money which had been sent to their bank by a confidential clerk had not been placed to their credit. The clerk remembered the fact of taking the money, though not the particulars, but at the bank nothing was known of it. The clerk, feeling that he was liable to suspicion in the matter, and anxious to elucidate it, sought the help of a spirit-medium. The medium promised to do her best. Having heard the story, she presently passed into a kind of trance. Shortly after, she said: “I see you go to the bank—I see you go to such and such a part of the bank—I see you hand some papers to a clerk—I see him put them in such and such a place under some other papers—and I see them there now.” | Một hãng buôn ở Bolton, thuộc Lancashire, phát hiện ra một khoản tiền đáng kể được một thư ký tin cậy mang tới ngân hàng gửi đã không được ghi có vào tài khoản của họ. Vị thư ký nhớ chuyện đem tiền tới, tuy không nhớ chi tiết, nhưng tại ngân hàng thì không ai biết gì về việc ấy. Người thư ký, cảm thấy mình có khả năng bị nghi ngờ và mong muốn làm sáng tỏ, đã tìm đến sự giúp đỡ của một đồng tử. Đồng tử hứa sẽ làm hết khả năng. Sau khi nghe câu chuyện, chẳng bao lâu bà rơi vào một kiểu trạng thái xuất thần. Chốc lát sau, bà nói: “Tôi thấy ông tới ngân hàng—tôi thấy ông đi tới chỗ này chỗ kia trong ngân hàng—tôi thấy ông trao một số giấy tờ cho một nhân viên—tôi thấy anh ta đặt chúng vào chỗ kia dưới một số giấy tờ khác—và tôi thấy chúng vẫn ở đó bây giờ.” |
The clerk went to the bank, directed the cashier where to look for the money, and it was found; the cashier afterwards remembering that in the hurry of business he had there deposited it. A relation of mine saw this story in a newspaper at the time, and wrote to the firm in question, the name of which was given, asking whether the facts were as stated. He was told in reply that they were. The gentleman who was applied to, having corrected one or two unimportant details in the above narration, wrote on November 9, 1847: “Your account is correct. I have the answer of the firm to my enquiry at home now.” | Người thư ký đến ngân hàng, chỉ cho thủ quỹ nơi tìm khoản tiền, và quả thực nó đã được tìm thấy; sau đó thủ quỹ nhớ ra rằng vì bận rộn nên ông đã để nó vào đó. Một họ hàng của tôi thấy câu chuyện này trên một tờ báo lúc bấy giờ, và đã viết thư hỏi công ty kia, tên công ty được nêu rõ, rằng sự việc có đúng như thuật lại không. Ông nhận được trả lời xác nhận là đúng. Vị quý ông được hỏi, sau khi chỉnh lại một hai chi tiết nhỏ không quan trọng trong câu chuyện trên, đã viết ngày 9 tháng 11 năm 1847: “Bản tường thuật của ông là chính xác. Tôi hiện còn giữ ở nhà thư trả lời của công ty cho câu hỏi của tôi.” |
The description given does not make it absolutely clear whether this was a case of clairvoyance on the part of the medium, or of the use of ordinary faculty by a dead man; but since the medium passed into a trance-condition the latter supposition seems the more probable. The dead man could easily gather from the clerk’s mind the earlier part of his story, and thus put himself en rapport with the scene; and then by following it to its close he was able to supply the information required. Here is the authenticated record of another good example of such a case, in which the power of thought-reading is much more prominently exhibited, since all the questions were mental. It is extracted from the Report on Spiritualism, published by Longman, London, in 1871, and is to be found in the Examination of the Master of Lindsay, p. 215. | Phần mô tả đưa ra không làm rõ tuyệt đối đây là một trường hợp thông nhãn của đồng tử, hay là sự sử dụng năng lực thông thường bởi một người đã khuất; nhưng vì đồng tử đã rơi vào trạng thái xuất thần nên giả định sau có vẻ hợp lý hơn. Người đã khuất có thể dễ dàng thu thập từ tâm trí người thư ký phần đầu câu chuyện của ông ta, và như thế đặt mình đồng điệu với bối cảnh; rồi bằng cách lần theo đến hồi kết, ông ta có thể cung cấp thông tin cần thiết. Sau đây là một ghi chép xác thực về một ví dụ hay khác của một trường hợp như vậy, trong đó năng lực đọc ý tưởng được bộc lộ rõ hơn nhiều, vì tất cả câu hỏi đều là câu hỏi bằng ý niệm. Trích từ Báo cáo về Thần linh học, do Longman, London, ấn hành năm 1871, và có thể tìm thấy trong Thẩm xét của Chủ tước Lindsay, tr. 215. |
A Lost Will—Một Bản Chúc Thư Thất Lạc
A friend of mine was very anxious to find the will of his grandmother, who had been dead forty years, but could not even find the certificate of her death. I went with him to the Marshalls’, and we had a seance; we sat at a table, and soon the raps came; my friend then asked his questions mentally; he went over the alphabet himself, or sometimes I did so, not knowing the question. We were told (that) the will had been drawn by a man named William Walter, who lived at Whitechapel; the name of the street and the number of the house were given. We went to Whitechapel, found the man, and subsequently, through his aid, obtained a copy of the draft; he was quite unknown to us, and had not always lived in that locality, for he had once seen better days. The medium could not possibly have known anything about the matter, and even if she had, her knowledge would have been of no avail, as all the questions were mental. | Một người bạn của tôi rất nóng lòng muốn tìm tờ di chúc của bà ngoại ông, người đã mất bốn mươi năm, nhưng thậm chí cũng không tìm nổi giấy chứng tử của bà. Tôi đi với ông ấy đến nhà của gia đình Marshall, và chúng tôi có một buổi gọi hồn; chúng tôi ngồi quanh một cái bàn, và chẳng bao lâu những tiếng gõ xuất hiện; bạn tôi khi ấy đặt câu hỏi bằng ý niệm; ông tự mình đi qua bảng chữ cái, hoặc đôi khi tôi làm, mà không biết câu hỏi là gì. Chúng tôi được cho biết (rằng) di chúc do một người tên William Walter soạn, người sống ở Whitechapel; tên phố và số nhà được nêu. Chúng tôi đến Whitechapel, tìm được người ấy, và sau đó, nhờ sự giúp đỡ của ông ta, lấy được một bản sao bản thảo; ông ta hoàn toàn không quen biết chúng tôi, và cũng không phải lúc nào cũng sống tại địa phương ấy, vì đã có thời ông sống những ngày khá hơn. Đồng tử không thể nào biết bất cứ điều gì về vụ này, và ngay cả nếu bà có biết, tri thức ấy cũng vô dụng, vì tất cả câu hỏi đều là câu hỏi bằng ý niệm. |
As I have already said, the faculty of clairvoyance is often possessed by living persons, as well as by the dead. Even in this case, in which the information was communicated by means of raps, it is still within the bounds of possibility that it may have been acquired by the living and transmitted to the physical-plane consciousness by this external means. There is an ever-increasing volume of testimony to the fact of this clairvoyance; Dr. Geley has done splendid service by giving much that is new and valuable in his recent work Clairvoyance and Materialization. In his account of the clairvoyance of Mr. Ossowiecki, which includes many tests of his ability to read sentences enclosed in sealed opaque envelopes, he tells us that this seer has from time to time been able to discover articles which have been lost or stolen. In contact with the loser he was able after brief concentration to say where the object was lost, and sometimes also where it could be found. | Như tôi đã nói, năng lực thông nhãn thường cũng được người sống sở hữu, cũng như người đã khuất. Ngay cả trong trường hợp này, trong đó thông tin được truyền đạt bằng các tiếng gõ, vẫn nằm trong phạm vi khả dĩ rằng nó có thể được người sống thu nhận và truyền đạt cho tâm thức cõi hồng trần bằng phương tiện ngoại tại này. Có một khối chứng từ ngày càng tăng về thực tế của thông nhãn; Bác sĩ Geley đã đóng góp rất lớn khi cung cấp nhiều điều mới mẻ và quý giá trong công trình gần đây Thông Nhãn và Hiện Hình . Trong tường thuật của ông về thông nhãn của Ông Ossowiecki, bao gồm nhiều phép thử khả năng đọc những câu đặt trong các phong bì mờ đục, niêm kín, ông cho biết nhà ngoại cảm này đôi lần đã tìm ra những vật bị mất hay bị đánh cắp. Khi tiếp xúc với người mất của, sau một lúc ngắn tập trung, ông có thể nói nơi vật bị mất, và đôi khi cả nơi có thể tìm thấy. |
The Lost Brooch—Chiếc Cài Áo Bị Thất Lạc
He gives the following account of one such case which was sent to him by Mme Aline de Glass, wife of a Judge of the Supreme Court of Poland. The account is also attested by her brother, M. Arthur de Bondy: | Ông đưa ra tường thuật sau về một trường hợp như thế, do Bà Aline de Glass, phu nhân một Thẩm phán của Toà Tối cao Ba Lan, gửi cho ông. Bản tường thuật cũng được em trai bà, Ông Arthur de Bondy, xác nhận: |
warsaw, wspolna, 7 | warsaw, wspolna, 7 |
July 22, 1922 | Ngày 22 tháng 7, 1922 |
Sir, | Thưa Ông, |
I have the honour to inform you of an actual miracle that Mr. Ossowiecki has worked here. I lost my brooch on Monday morning, June 6th. In the afternoon of the same day I visited the wife of General Krieger, Mr. Ossowiecki’s mother, with my brother, Mr. de Bondy, an engineer, who witnessed the event. | Tôi hân hạnh báo cho Ông biết một phép lạ thực sự mà Ông Ossowiecki đã thực hiện tại đây. Tôi mất chiếc cài áo vào sáng thứ Hai, ngày 6 tháng 6. Buổi chiều cùng ngày, tôi tới thăm phu nhân Tướng Krieger, mẹ của Ông Ossowiecki, cùng với em trai tôi, Ông de Bondy, một kỹ sư, người đã chứng kiến sự việc. |
Mr. Ossowiecki came in, my brother introduced me to his friend, and I said that I was delighted to make acquaintance with one so gifted with occult powers. All Warsaw is talking of him. He told us many interesting things, and warmed up in his talk as I listened. Then in a moment of silence I told him: | Ông Ossowiecki bước vào, em tôi giới thiệu tôi với bạn ông, và tôi nói rằng tôi rất vui được làm quen với một người được phú cho các quyền năng huyền bí như vậy. Cả Warsaw đang bàn tán về ông. Ông kể cho chúng tôi nhiều điều thú vị, và càng nói càng hứng khởi khi tôi lắng nghe. Rồi trong một khoảnh khắc im lặng tôi nói với ông: |
“I have lost my brooch today. Could you tell me anything about it? But if you are tired or it is troublesome, do not put yourself out.” | “Tôi mất một chiếc cài áo hôm nay. Ông có thể cho tôi biết gì về nó không? Nhưng nếu ông mệt hoặc thấy phiền, xin đừng bận tâm.” |
“On the contrary, madame, I will tell you. The brooch is at your house in a box; it is a metal brooch, round, with a stone in the middle. You wore it three days ago, and you value it.” | “Trái lại, thưa bà, tôi sẽ nói. Chiếc cài ở nhà bà trong một cái hộp; đó là một chiếc cài kim loại, tròn, có một viên đá ở giữa. Bà đã đeo nó ba ngày trước, và bà quý nó.” |
“No,” I said, “not that one.” (He had given a good description of a brooch kept in the same box with that which I had lost.) Then he said: | “Không,” tôi nói, “không phải chiếc đó.” (Ông đã mô tả đúng một chiếc cài để cùng trong hộp với chiếc tôi làm mất.) Rồi ông nói: |
“I am sorry not to have guessed right; I feel tired… “ | “Xin lỗi vì tôi đoán chưa đúng; tôi thấy mệt… “ |
“Let us say no more about it.” | “Thôi đừng nhắc nữa.” |
“Oh no, madame, I will try to concentrate. I should like to have some material thing that concerns the brooch…” | “Ô không, thưa bà, tôi sẽ cố tập trung. Tôi muốn có một vật gì đó có liên quan đến chiếc cài…” |
“Sir, the brooch was fastened here, on this dress.” | “Thưa ông, chiếc cài được gài ở đây, trên chiếc váy này.” |
He placed his fingers on the place indicated, and after a few seconds said: “Yes, I see it well. It is oval, of gold, very light, an antique which is dear to you as a family souvenir; I could draw it, so clearly do I see it. It has ears, as it were, and it is two parts interpenetrating, like fingers clasped together…” | Ông đặt các ngón tay lên chỗ tôi chỉ, và sau vài giây nói: “Vâng, tôi thấy rất rõ. Nó hình bầu dục, bằng vàng, rất nhẹ, một món cổ vật mà bà trân quý như một kỷ vật gia đình; tôi có thể vẽ nó, vì tôi thấy rõ đến vậy. Nó như thể có ‘tai’, và gồm hai phần xuyên nhập vào nhau, như những ngón tay đan chặt…” |
“What you say, sir, is most extraordinary. It could not be better described. Miraculous.” | “Những điều ông nói, thưa ông, thật phi thường. Không thể mô tả đúng hơn được nữa. Thật kỳ diệu.” |
He went on: “You lost it a long way from here.” (This was actually about two and a half miles.) “Yes, in Mokotowska Street at the Koszykowa corner.” | Ông tiếp: “Bà làm mất nó ở rất xa đây.” (Thực tế là khoảng hai rưỡi dặm.) “Vâng, trên phố Mokotowska ở góc Koszykowa.” |
“Yes,” I said, “I went there today.” | “Đúng,” tôi nói, “hôm nay tôi có tới đó.” |
“Then,” he said, “a poorly dressed man, with black moustache, stoops down and picks it up. It will be very difficult to get it back. Try an advertisement in the papers.” | “Rồi,” ông nói, “một người đàn ông ăn mặc tồi tàn, có ria mép đen, cúi xuống và nhặt nó lên. Sẽ rất khó lấy lại. Hãy thử đăng báo.” |
I was dazzled by the minute description, which left me no doubt that he could see the ornament. I thanked him warmly for the rare pleasure of meeting a real clairvoyant, and went home. | Tôi bị choáng ngợp bởi sự mô tả chi li, khiến tôi không nghi ngờ rằng ông nhìn thấy món trang sức. Tôi cảm ơn ông nồng hậu vì niềm vui hiếm hoi được gặp một nhà thông nhãn chân chính, và trở về nhà. |
On the following evening my brother came to see me and exclaimed: | Tối hôm sau, em trai tôi tới thăm và kêu lên: |
“What a miracle! Your brooch has been found. Mr. Ossowiecki telephones to me that you have only to go tomorrow at about 5 o’clock to Mme. Jacyna (Mr. Ossowiecki’s sister), and he will give it to you.” | “Thật là phép lạ! Chiếc cài của chị đã tìm thấy. Ông Ossowiecki gọi điện cho em rằng chị chỉ cần đến khoảng 5 giờ chiều mai tới nhà Bà Jacyna (chị của Ông Ossowiecki), ông ấy sẽ đưa lại cho chị.” |
The next day, June 7th, I went with my brother to the lady’s house, where there was company. I asked to see Mr. Ossowiecki, and asked him: “Have you my brooch?” I was much upset. | Hôm sau, ngày 7 tháng 6, tôi cùng em trai tới nhà vị phu nhân, nơi đang có khách. Tôi xin gặp Ông Ossowiecki và hỏi ông: “Ông có chiếc cài của tôi chứ?” Tôi rất xúc động. |
“Compose yourself, madame; we shall see.” And he handed me my brooch. It was a real miracle. I turned pale and could not speak for a few minutes. | “Xin bà bình tĩnh; chúng ta sẽ xem.” Rồi ông đưa cho tôi chiếc cài. Đó là một phép lạ thực sự. Tôi tái mặt và không thể nói trong vài phút. |
He told me the story very simply: “The day after our meeting I went to the bank in the morning. In the vestibule I saw a man I remembered to have met somewhere or other, and it struck me that this was the man whom I had seen mentally to have picked up your brooch. I took his hand gently, and said: ‘Sir, yesterday you found a brooch at the corner of Mokotowska and Koszykowa Streets…’ ‘Yes,’ he said, very much astonished. ‘Where is it?’ ‘At home. But how do you know?’ I described the brooch and told him all that had taken place. He turned pale and was much upset, like you, madame. He brought me the brooch, saying that he had intended to advertise its finding. That is the whole story.” | Ông kể câu chuyện rất đơn giản: “Ngày sau buổi gặp, sáng hôm ấy tôi tới ngân hàng. Ở tiền sảnh, tôi thấy một người mà tôi nhớ là đã từng gặp đâu đó, và chợt nghĩ đây chính là người mà tôi đã thấy trong tư tưởng là đã nhặt chiếc cài của bà. Tôi nhẹ nhàng nắm tay ông ấy và nói: ‘Thưa ông, hôm qua ông nhặt một chiếc cài ở góc phố Mokotowska và Koszykowa…’ ‘Vâng,’ ông ấy nói, hết sức ngạc nhiên. ‘Nó ở đâu?’ ‘Ở nhà. Nhưng làm sao ông biết?’ Tôi mô tả chiếc cài và kể lại mọi chuyện đã xảy ra. Ông ta tái mặt và xúc động mạnh, giống như bà vậy. Ông ấy mang chiếc cài tới cho tôi, nói rằng ông định đăng tin nhặt được. Câu chuyện chỉ có thế.” |
I was much moved. I thanked Mr. Ossowiecki warmly, not so much for the recovery of the brooch as for meeting such a diviner, and having a small part in this miracle. Now this fine old brooch is worn by me constantly and considered as a talisman. The incident has gone all over Poland, and Mr. Ossowiecki has become all the more celebrated. He is besieged by people who come to consult him on lost property, on men missing during the war, etc. And this modest and extraordinary man devotes much time and trouble to them with good grace and complete disinterestedness. He is a true diviner, who does much good by his gift without any personal reward. I ask pardon for so long an account, which I wished to make as exact as possible, | Tôi rất xúc động. Tôi cảm ơn Ông Ossowiecki nồng hậu, không phải chỉ vì lấy lại được chiếc cài mà còn vì được gặp một nhà cảm tri như vậy, và được góp một phần nhỏ trong phép lạ này. Nay chiếc cài cổ đẹp đẽ ấy được tôi đeo thường xuyên và xem như một bùa hộ mệnh. Sự việc đã lan khắp Ba Lan, và Ông Ossowiecki càng thêm lừng danh. Ông bị vây bủa bởi những người đến xin ông giúp về của mất, về những người mất tích trong chiến tranh, v.v. Và con người khiêm nhường, phi thường này dành nhiều thời gian, công sức cho họ với sự niềm nở và vô tư hoàn toàn. Ông là một nhà cảm tri chân chính, người làm nhiều điều thiện bởi ân tứ của mình mà không nhận bất kỳ phần thưởng cá nhân nào. Tôi xin thứ lỗi vì bản tường thuật dài, tôi muốn ghi lại chính xác nhất có thể, |
I am, Yours, | Tôi kính, |
aline de glass, | aline de glass, |
née de Bondy | nhũ danh de Bondy |
As an example of the test conditions under which Mr. Ossowiecki has done many readings, I may mention the case of the letter which was written for the purpose by Mme. Sarah Bernhardt, which we reproduce below from Clairvoyance and Materialization (p. 55). | Như một ví dụ về các điều kiện thử nghiệm dưới đó Ông Ossowiecki đã thực hiện nhiều lần đọc, tôi xin nhắc đến trường hợp bức thư do Bà Sarah Bernhardt viết riêng cho mục đích này, mà chúng tôi chép lại dưới đây từ Thông Nhãn và Hiện Hình (tr. 55). |
This letter was delivered to Dr. Geley, who handed it unopened to the clairvoyant. His reading of this was not perfect, but nevertheless striking and evidential. Dr. Geley says: | Bức thư này được chuyển cho Bác sĩ Geley, người đã trao nguyên phong cho nhà thông nhãn. Việc đọc bức thư này của ông không hoàn toàn hoàn hảo, nhưng dẫu vậy vẫn gây ấn tượng và có giá trị chứng minh. Bác sĩ Geley nói: |
“His description of the letter was, however, very precise: La vie, la vie, la vie,… (three times). There are four or five lines, and below them Sarah Bernhardt’s signature, sloping upwards.” That is correct, but he might have seen her signature in some magazine article. He continued: “La vie semble humble.” He repeated ‘humble’ two or three times. “There is reference to humanity, but the word ‘humanity’ is not written. There is an idea conjoining life and humanity. Parcequ’il у а bеаисоир de haine. Non, il n’y a pas ‘haine’; il у a seulement seulement… It is a very difficult word of eight letters! There is an exclamation mark.” | “Mô tả của ông về bức thư, tuy nhiên, rất chuẩn xác: Cuộc sống, cuộc sống, cuộc sống ,… (ba lần). Có bốn hoặc năm dòng, và bên dưới là chữ ký Sarah Bernhardt, hướng lên.” Điều đó đúng, nhưng ông có thể đã thấy chữ ký của bà trong một bài báo nào đó. Ông tiếp tục: “ Cuộc sống dường như khiêm nhu. ” Ông lặp lại ‘ khiêm nhu ’ hai hoặc ba lần. “Có một ám chỉ đến nhân loại, nhưng chữ ‘nhân loại’ không được viết. Có một ý tưởng liên kết cuộc sống và nhân loại. Bởi vì ’ đó có rất nhiều hận thù . Không, không có ‘ hận thù ’ ; chỉ có chỉ có … Đó là một từ rất khó gồm tám chữ cái! Có một dấu chấm than.” |
Then before opening the letter, which I had previously examined by reflected, direct and transmitted light and found absolutely opaque, I wrote down the following, which may be taken as Ossowiecki’s final answer: “La vie semble humble parcequ’il у а bеаисоир de haine, (pas haine, mais un mot qui n’est pas compris et qui est de huit lettres); signature Sarah Bernhardt.” The word éphémère was not known to Ossowiecki, as he told us after the letter had been opened. We asked several Poles who spoke French well if they knew this word: they did not. | Rồi trước khi mở bức thư, mà trước đó tôi đã kiểm tra bằng ánh sáng phản xạ, trực tiếp và xuyên qua và thấy hoàn toàn mờ đục, tôi viết ra như sau, có thể coi như câu trả lời cuối cùng của Ossowiecki: “ Cuộc sống dường như khiêm nhu bởi vì ’ đó có rất nhiều hận thù , (không phải hận thù , mà là một từ không ’ được hiểu và gồm tám chữ cái ); chữ ký Sarah Bernhardt.” Từ éphémère không quen thuộc với Ossowiecki, như ông nói với chúng tôi sau khi bức thư được mở ra. Chúng tôi hỏi vài người Ba Lan nói tiếng Pháp tốt xem họ có biết từ này không: họ không biết. |
The fact that Mr. Ossowiecki does see the actual form in some manner sometimes is confirmed by his vision on occasion of drawings enclosed along with the letters. Judging by the third experiment of September 21st, 1921, at Prince Lubomirski’s (p. 39), when the test letter contained four written items, and also the drawing of a fish, the picture seemed to impress him more than the written portion of the test, and he not only spoke about it, but said that he would draw it, which he did, though he reversed the picture, putting the head on the left whereas in the original it was on the right. | Thực tế rằng đôi khi Ông Ossowiecki quả có nhìn thấy hình dạng thực sự bằng cách nào đó được xác nhận bởi việc ông đôi lúc thấy cả các bức vẽ kèm theo thư. Xét theo thí nghiệm thứ ba ngày 21 tháng 9 năm 1921, tại dinh Hoàng thân Lubomirski (tr. 39), khi bức thư thử nghiệm chứa bốn mẩu viết và cả bức vẽ một con cá, bức tranh dường như gây ấn tượng mạnh với ông hơn phần viết tay của phép thử, và ông không chỉ nói về nó, mà còn bảo sẽ vẽ lại, điều mà ông đã làm, dù ông đảo ngược bức hình, đặt đầu con cá ở bên trái trong khi bản gốc ở bên phải. |
Clairvoyant “Readings”—Những “Bài Đọc” Thông Nhãn
This power of clairvoyance is also frequently displayed in a minor way at the weekly meetings of which I have spoken. After the trance address is over, the medium usually expresses her readiness to give descriptions, or “readings”, as they are often called, of the surroundings of various members of the audience. Where the circle is a small one, something is said to each of its members in turn; if there be a large number gathered together, individuals are selected and called up for special attention. | Khả năng thông nhãn này cũng thường được phô bày ở mức độ nhỏ trong các buổi nhóm hằng tuần mà tôi đã nói tới. Sau khi bài diễn thuyết trong trạng thái xuất thần kết thúc, đồng tử thường tỏ ý sẵn lòng đưa ra các mô tả, hoặc “bài đọc” như người ta thường gọi, về hoàn cảnh quanh một số thành viên tham dự. Khi vòng tròn nhỏ, điều gì đó được nói với từng người lần lượt; nếu có một đám đông lớn tụ họp, thì chọn các cá nhân và mời lên để chú ý đặc biệt. |
I have heard striking fragments of private family history brought out in this way—cases which bore every mark of genuineness; but in the majority of such meetings as I have attended the descriptions were exceedingly vague, and had a rather suspicious adaptability about them. The conversation usually ran somewhat along these lines: | Tôi đã nghe những mẩu chuyện nổi bật về lịch sử gia đình riêng tư được đưa ra theo cách này—những trường hợp mang mọi dấu hiệu chân thực; nhưng trong phần lớn các buổi họp như tôi từng tham dự, các mô tả mơ hồ tột độ, và có một sự thích ứng đáng ngờ. Cuộc đối thoại thường diễn ra đại để như sau: |
Medium (supposed to be entranced, but speaking with exactly her normal contempt for aspirates and grammatical rules). “There’s an old gent with white ‘air a-standin’ be’ind that lady in the corner.” | Đồng tử (được cho là đang xuất thần, nhưng nói y như thường ngày với kiểu khinh miệt những âm và luật ngữ pháp). “Có một ông già tóc trắng đang đứng sau lưng bà ở góc phòng kia.” |
Enthusiastic and Credulous Sitter. “Lor! that must be my father!” | Người Ngồi Nhiệt Thành và Dễ Tin. “Trời ơi! ắt hẳn là cha tôi!” |
Medium. “Yes; he smiles, he nods his ‘ed, he’s so pleased that you know him. I can see his white beard regularly shaking, he’s so glad.” | Đồng tử. “Vâng; ông ấy mỉm cười, gật đầu, ông ấy rất mừng vì bà nhận ra ông. Tôi thấy bộ râu trắng của ông rung lên vì vui mừng.” |
Sitter. “Ain’t it wonderful! But father didn’t have no beard before he passed over; p’raps he’s grown one since, or p’raps it’s my uncle Jim; he used to have a beard.” | Người ngồi . “Thật là kỳ diệu! Nhưng cha tôi không có râu trước khi ông qua đời; có lẽ ông để râu sau đó, hoặc có lẽ là chú Jim của tôi; chú ấy từng để râu.” |
Medium. “Ah! yes, that’s who it is; he nods his ‘ed again, and smiles; he wants to tell you ‘ow ‘appy he is.” | Đồng tử . “À! vâng, đúng là vậy; ông ấy lại gật đầu và mỉm cười; ông muốn nói cho bà biết ông hạnh phúc thế nào.” |
Sitter. “Well, now! just to think of poor uncle Jim coming like this! Why, it’s more than thirty years ago he was drowned at sea, when I was quite a girl; ‘an’some young chap he was, too! not more than five-and-twenty, and to be drowned like that!” | Người ngồi. “Chà, nghĩ mà xem! chú Jim tội nghiệp trở lại thế này! Ối, đã hơn ba mươi năm kể từ khi chú bị chết đuối ngoài biển, lúc tôi vẫn còn là một cô gái trẻ; chàng trai khôi ngô là thế! mới hơn hai lăm tuổi, mà lại chết đuối như vậy!” |
Medium. “Um! yes—yes—ah! I see him more clearly now—yes, you’re right. It’s not a white beard—it’s the white undershirt what sailors wears—that’s what it is!” | Đồng tử . “Ừm! vâng—vâng—à! giờ tôi thấy rõ hơn—vâng, bà nói đúng. Đó không phải là bộ râu trắng—đó là áo lót trắng mà các thủy thủ mặc—đúng thế đấy!” |
Chorus. “How lovely! how wonderful! Ain’t it beautiful to think they can come back like this!” | Đồng thanh. “Thật là tuyệt! thật là kỳ diệu! Thật đẹp khi nghĩ rằng họ có thể trở lại như thế này!” |
I have heard just about that sort of conversation a score of times; and it is naturally not calculated to produce a robust faith in that particular medium. Yet perhaps through the same illiterate woman there would come on another occasion some message about a matter of which she could by no possibility have known anything—a message which she could never have evolved from her sordid consciousness by any amount of clumsy guess-work. | Tôi đã nghe kiểu đối thoại như vậy cả chục lần; và tự nhiên điều đó không tạo nên một niềm tin vững chắc nơi đồng tử đặc thù ấy. Tuy nhiên, có lẽ cũng chính qua người phụ nữ thất học đó, lần khác lại có một thông điệp về một việc mà bà tuyệt đối không thể biết—một thông điệp bà không thể nào nặn ra từ tâm thức tầm thường của mình bằng bất cứ lượng đoán mò vụng về nào. |
A Private Test—Một Phép Thử Riêng
I remember on one such occasion applying a little private test of my own to a medium in a poor London suburb. She was a coarse-looking woman, whom I had never seen before, but she seemed earnest enough, though far from cultured. She went on from one member of the circle to another, monotonously describing behind each of them spirits with flowing robes and smiling faces; she varied the story a little in my own case by giving me “a dark-looking foreign gentleman, with something white round his head”, which may possibly have been true enough, or may have been merely a coincidence. | Tôi nhớ một lần như thế đã áp dụng một phép thử riêng nho nhỏ với một đồng tử ở một khu ngoại ô nghèo của London. Bà là một phụ nữ có vẻ thô kệch, tôi chưa từng gặp, nhưng có vẻ đủ chân thành, dẫu xa mới gọi là có văn hoá. Bà đi từ người này sang người khác trong vòng tròn, đều đều mô tả sau lưng mỗi người là những linh hồn với áo choàng phất phơ và gương mặt mỉm cười; bà thay đổi câu chuyện một chút trong trường hợp của riêng tôi bằng cách cho tôi “một quý ông ngoại quốc trông u tối, với cái gì đó màu trắng quấn quanh đầu”, điều có thể đúng hoặc chỉ là trùng hợp. |
It occurred to me to try whether she could see a thought-form, so as a change from all these reverend white-haired spirits with flowing robes, I set myself to project as strong a mental image as I could construct of two chubby boys in Eton jackets, standing behind the chair of the member of the circle who was next in order for examination. Sure enough, when that person’s turn came, the medium (or the dead man speaking through her, if there was one) described my imaginary boys with tolerable accuracy, and represented them as sons of the lady behind whom they stood. The latter denied this, explaining that her sons were grown men, and the medium then suggested grandchildren, which was also repudiated, so the mystery remained unsolved. But from the incident I deduced two conclusions: First, that either the medium was genuinely clairvoyant, or there really was a dead person speaking through her; and secondly, that whoever was concerned had not yet sufficient discernment to distinguish a thought-form materialized on the astral plane from a living astral body. | Tôi chợt nghĩ thử xem bà có nhìn thấy Hình tư tưởng không, nên như một đổi món khỏi tất cả những linh hồn râu tóc bạc phơ với áo choàng phất phơ kia, tôi cố sức phóng chiếu một hình ảnh tâm thần thật mạnh mà tôi có thể dựng được về hai cậu bé má phính mặc áo khoác kiểu Eton, đứng sau ghế của người trong vòng tròn sắp đến lượt được xem xét. Quả nhiên, khi đến lượt người đó, đồng tử (hoặc người đã khuất nói qua bà, nếu có) mô tả hai cậu bé tưởng tượng của tôi khá chính xác, và cho rằng họ là con trai của người phụ nữ phía sau lưng họ. Người phụ nữ phủ nhận, giải thích rằng con trai bà đều đã trưởng thành, và đồng tử bèn gợi ý là cháu trai—điều này cũng bị bác bỏ—vậy nên bí ẩn vẫn không giải được. Nhưng từ sự việc ấy tôi rút ra hai kết luận: Thứ nhất, hoặc đồng tử thật sự có thông nhãn, hoặc thật sự có một người đã khuất đang nói qua bà; và thứ hai, bất kể ai tham dự vào việc ấy vẫn chưa có đủ phân biện để phân biệt một Hình tư tưởng được hiện hình trên cõi cảm dục với một thể cảm dục sống động. |