05. Thuyết Giáng Linh và Thông Thiên Học — CHƯƠNG V—MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP THỬ NGHIỆM GẦN ĐÂY

Chapter V—SOME RECENT TEST CASES

Test Conditions—Các Điều Kiện Thử Nghiệm

The recent researches of many learned doctors, and other investigators associated with the Societies for Psychical Research in different countries, offer us increasing confirmation of the facts announced by the earlier experimenters. The attitude of many of these distinguished explorers into the domain of the occult inclines at the beginning towards scep­ticism—a fact which renders their evidence all the more valuable, though it makes the phenomena more difficult to obtain. It constitutes a positive mental influence acting against the manifestation of unusual psychic powers—powers which it is difficult enough to use, even under the most favourable conditions. It is only fair to add, however, that such scepticism is rarely a prejudice, but simply the scientific attitude which declines to admit the existence of any facts which have not been carefully observed, or the truth of any deductions which have not been studiously and impartially considered.

Những nghiên cứu gần đây của nhiều bác sĩ uyên bác và các nhà điều tra khác liên hệ với các Hội Nghiên cứu Thông linh ở các quốc gia khác nhau, mang đến cho chúng ta sự xác nhận ngày càng tăng về các sự kiện được các nhà thực nghiệm trước đó công bố. Thái độ của nhiều nhà thám hiểm lỗi lạc trong lĩnh vực huyền môn này lúc khởi đầu thường nghiêng về hoài nghi—một thực tế khiến chứng cứ của họ càng thêm giá trị, dẫu làm cho hiện tượng càng khó đạt được. Nó cấu thành một ảnh hưởng tinh thần tích cực tác động chống lại sự biểu lộ những quyền năng thông linh bất thường—những quyền năng vốn đã khó sử dụng ngay cả dưới những điều kiện thuận lợi nhất. Tuy nhiên, công bằng mà nói, sự hoài nghi như thế hiếm khi là định kiến, mà chỉ là thái độ khoa học vốn từ chối thừa nhận sự tồn tại của bất cứ sự kiện nào chưa được quan sát cẩn trọng, hoặc sự đúng đắn của bất cứ suy luận nào chưa được cân nhắc cần mẫn và vô tư.

The attitude and method adopted by Dr. Gustave Geley, and described in his invaluable volume Clairvoyance and Materialisation, is becoming more and more popular among experimenters. He says that the best results for scientific purposes are not to be obtained under conditions which cast suspicion upon the medium, and that the end to be sought by observers is not to protect themselves with absolute certainty at all times against any possible or conceivable fraud, but to obtain phenomena so powerful and complex that they carry their own proof and undeniable witness under the conditions demanded by the control.

Thái độ và phương pháp do Bác sĩ Gustave Geley áp dụng, và được trình bày trong tập sách vô giá Thông Nhãn và Hiện Hình, đang ngày càng trở nên phổ biến trong giới thực nghiệm. Ông nói rằng những kết quả tốt nhất cho mục đích khoa học không thu được dưới những điều kiện gieo ngờ vực lên đồng tử, và rằng mục tiêu mà người quan sát cần hướng tới không phải là tự bảo vệ mình với sự chắc chắn tuyệt đối mọi lúc trước bất cứ gian lận khả dĩ hoặc khả tưởng nào, mà là giành được những hiện tượng mạnh mẽ và phức hợp đến mức chúng tự mang chứng cứ và lời chứng không thể chối cãi dưới những điều kiện mà kiểm soát yêu cầu.

I may add that my own experience, extending over many years, fully confirms what Dr. Geley has written. I have always found it best to make friends with both the medium and the spirit-guide and to discuss the manifestations frankly with them. Dr. Geley continues:

Tôi xin thêm rằng kinh nghiệm riêng của tôi, kéo dài nhiều năm, hoàn toàn xác nhận những gì Bác sĩ Geley đã viết. Tôi luôn thấy tốt nhất là kết thân cả với đồng tử lẫn vị vong linh hướng dẫn và thảo luận thẳng thắn với họ về các sự biểu lộ. Bác sĩ Geley tiếp tục:

If experimenters waste time on poor or elementary phenomena, they will find the greatest difficulty in getting a control that will satisfy them at all points. If they are wise enough to consider elementary phenomena, and such minor frauds as they may suspect, both negligible; if they allow phenomena to develop without checking them at the outset by untimely demands, they will certainly obtain facts so various and important, also (sometimes) of such beauty, that their conviction will be complete, unshakable, and conclusive (p. 25).

Nếu những người thực nghiệm lãng phí thời gian vào những hiện tượng nghèo nàn hoặc sơ đẳng, họ sẽ thấy cực khó có được một kiểm soát thỏa mãn họ ở mọi phương diện. Nếu họ đủ khôn ngoan để xem các hiện tượng sơ đẳng, và những gian lận nhỏ mà họ có thể nghi ngờ, đều không đáng kể; nếu họ để cho hiện tượng phát triển mà không chặn lại ngay từ đầu bằng những đòi hỏi không đúng lúc, họ chắc chắn sẽ thu được những sự kiện đa dạng và quan trọng, cũng (đôi khi) đẹp đẽ đến mức niềm xác tín của họ sẽ trọn vẹn, không lay chuyển và dứt khoát (tr. 25).

Mother Marius And The Convict—Mẹ Marius Và Tên Tù Khổ Sai

In the comparatively recent general literature of spiritualism and psychical research there are many cases which satisfy these conditions. There are examples in which the accuracy of information communicated by these methods, and previously entirely unknown to those who receive it, almost certainly announces the actual presence of the entity who is claiming to communicate. I will select one typical case from M. Flammarion’s book After Death (p. 21), relating to the death of a charwoman of Nantes, generally known as Mother Marius. The narrator says that he used to frequent a cafe where there was a charwoman, a native of Brittany, whose family name was Keryado, although she was always called Mother Marius. He then continues:

Trong văn liệu tổng quát khá gần đây về thần linh học và nghiên cứu thông linh, có nhiều trường hợp thỏa mãn những điều kiện này. Có những ví dụ trong đó tính xác thực của thông tin được truyền đạt bằng những phương pháp ấy, và trước đó hoàn toàn không được biết bởi người tiếp nhận, gần như chắc chắn báo tin sự hiện diện thực sự của thực thể đang tự xưng là người truyền đạt. Tôi sẽ chọn một trường hợp điển hình từ sách Sau Khi Chết (tr. 21) của Ông Flammarion, liên quan đến cái chết của một người phụ nữ lao công ở Nantes, thường được biết đến là Mẹ Marius. Người kể nói rằng ông thường lui tới một quán cà phê có một phụ nữ lao công, gốc Brittany, tên họ là Keryado, dù bà luôn được gọi là Mẹ Marius. Ông tiếp tục:

Every week I used to leave Nantes on Saturday evening and spend Sunday on a farm in the very midst of the countryside. One Saturday I left as usual—took leave of the proprietor, of my friends, and said goodbye to this same charwoman, who was in excellent health. So, late on Saturday night, I found myself in the country as usual, but I must explain that this time, through excep­tional circumstances, I was to remain there for the whole week. The farm-house had two rooms; a kitchen and another room. On Thursday, at one o’clock in the after­noon, I was talking in the other room with the young girl of the house. There was no one in the kitchen. The doors and windows were closed. We were talking, when both of us heard a noise in the kitchen, as though the fire-tongs had fallen on to the hearthstone. Out of precaution, thinking that the cat might be getting into the jars of milk, I went to see what it was. There was nothing; everything was shut up. Scarcely had I come back into the room when there was the same noise. I turned. Nothing! Since I had already taken up spiritualism, I said to the young girl, laughing: “It’s a spirit, perhaps”—attaching no importance to my words. However, I then had the idea of using a little round table, with which we had already experimented, and we waited, both of us sitting at it, our hands upon it. Almost immediately we got a communication through rapping, according to the usual alphabetic code. “Is this a spirit?”—”Yes”—”You lived on earth?”—”Yes”—”You knew me?”—”Yes”—”What was your name?”—”Keryado”. At this odd name (I did not remember the charwoman’s family name) I was about to leave the table, thinking that the reply was point­less, when the young girl said to me: “That is the family name of the charwoman in the café”. “That is true,” I answered, and then I began a series of questions. I was unwilling to believe that she was dead, having left her in perfect health only five days before. I asked her for details, and learned that she had been taken ill at eight o’clock on Tuesday evening, that she had been carried to her home, and that she had died at eleven o’clock, of a haemorrhage… On Saturday when I returned to Nantes, as soon as I got out of the train, I went to the café, and there, to my stupefaction, they gave me confirm­ation of this woman’s death, and of all the details she had given me.

Mỗi tuần tôi rời Nantes tối thứ Bảy và dành Chủ nhật ở một trang trại giữa đồng quê. Một thứ Bảy, tôi rời đi như thường lệ—chào tạm biệt chủ quán, bạn bè, và nói lời chào với người phụ nữ lao công ấy, lúc đó sức khỏe rất tốt. Thế là, tối thứ Bảy muộn, tôi có mặt ở nông thôn như thường lệ, nhưng tôi phải nói rõ rằng lần này, vì hoàn cảnh đặc biệt, tôi sẽ ở lại đó cả tuần. Ngôi nhà nông có hai phòng; một nhà bếp và một phòng khác. Vào thứ Năm, lúc một giờ trưa, tôi đang trò chuyện trong phòng kia với cô gái trẻ của gia đình. Không có ai trong bếp. Cửa và cửa sổ đều đóng. Chúng tôi đang nói chuyện, thì cả hai nghe một tiếng động trong bếp, như thể kẹp gắp than rơi xuống tảng đá lò sưởi. Để đề phòng, nghĩ rằng con mèo có thể đang chui vào các vại sữa, tôi đi xem. Không có gì cả; mọi thứ đóng kín. Vừa trở lại phòng thì lại có tiếng động như thế. Tôi quay lại. Không gì cả! Vì tôi đã từng tìm hiểu thần linh học, tôi nói với cô gái trẻ, nửa đùa: “Có lẽ là một vong linh đấy”—mà chẳng để tâm đến lời mình. Tuy nhiên, tôi chợt nảy ý dùng một cái bàn tròn nhỏ, thứ mà chúng tôi đã dùng thử nghiệm trước đó, và chúng tôi chờ đợi, cả hai đặt tay lên mặt bàn. Gần như lập tức chúng tôi nhận được một thông điệp qua tiếng gõ, theo bảng chữ cái thường dùng. “Đây có phải là một vong linh không?”—“Phải”—“Ô đã sống trên trần gian?”—“Phải”—“Ô có biết tôi?”—“Phải”—“Tên Ô là gì?”—“Keryado”. Trước cái tên lạ (tôi không nhớ tên họ của người phụ nữ lao công) tôi suýt bỏ bàn, nghĩ rằng câu trả lời vô nghĩa, thì cô gái trẻ nói với tôi: “Đó là tên họ của người phụ nữ lao công ở quán cà phê”. “Đúng rồi,” tôi đáp, rồi bắt đầu một loạt câu hỏi. Tôi không chịu tin là bà đã chết, vì vừa mới năm hôm trước tôi còn thấy bà hoàn toàn khỏe mạnh. Tôi hỏi chi tiết và biết rằng bà lâm bệnh lúc tám giờ tối thứ Ba, được đưa về nhà, và qua đời lúc mười một giờ vì xuất huyết… Thứ Bảy khi tôi trở lại Nantes, vừa xuống tàu, tôi tới ngay quán cà phê, và ở đó, trong sự sửng sốt, tôi được xác nhận về cái chết của bà, và tất cả các chi tiết bà đã cho tôi biết.

Unquestionably also there are other cases in which only telepathy is at work. Professor Ernest Wood relates an example, which was told to him by his father, who used to investigate these things. On the occasion in question the medium, who was a personal friend also, said that he saw standing behind his visitor the “spirit” of a man dressed in convict garb. He described him in detail, saying that he was looking through prison bars, and adding that he thought the spirit wished to communicate. But the fact of the matter was that, a short time before, the enquirer had been to see the exhibition at the opening of the Manchester Ship Canal, in which was shown one of the old Botany Bay convict ships fitted up realistically with wax-work figures. He had stood for some time looking at one of these, and wondering what the unfortunate convicts must have felt, and though the incident had passed from his mind and been forgotten, that was the figure of which the medium gave him a description.

Cũng không thể phủ nhận có những trường hợp khác trong đó chỉ có viễn cảm hoạt động. Giáo sư Ernest Wood thuật một ví dụ do cha ông kể lại, người từng nghiên cứu những điều này. Trong dịp ấy, đồng tử, vốn cũng là bạn ông, nói rằng ông thấy đứng cạnh người khách là “vong linh” của một người đàn ông mặc quần áo tù khổ sai. Ô mô tả chi tiết, nói rằng ông thấy người đó nhìn qua song sắt nhà giam, và bảo rằng ông nghĩ vong linh muốn truyền đạt. Nhưng sự thật là, không lâu trước đó, người tìm hiểu đã xem cuộc triển lãm nhân dịp khánh thành Kênh đào Manchester Ship, trong đó có trưng bày một trong các tàu chở tù khổ sai đi Botany Bay, được dàn dựng thực như thật với các hình nhân sáp. Ông ta đã đứng xem hồi lâu một trong số đó, và tự hỏi những tù nhân bất hạnh hẳn phải cảm thấy thế nào, và dù sự việc đã rời khỏi trí và bị quên đi, thì đó chính là hình ảnh mà đồng tử đã mô tả cho ông.

Perhaps the first great mistake which many people make in thinking about these things is to assume that one law governs all the cases, and therefore that they are either all due to discarnate intelligences, or are all caused by some form of simple or complicated telepathy. There is a variety of causes for the phenomena produced during psychical research investigations, some of them being due to ideas in the mind of the medium or of the sitters, others to discarnate intelligences, others to thought-forms casually present or magneti­cally attracted, and others again to the psychometric influence of objects which may be near.

Có lẽ sai lầm lớn thứ nhất mà nhiều người mắc phải khi nghĩ về những điều này là giả định rằng một luật chi phối tất cả các trường hợp, và vì thế hoặc tất cả đều do các trí tuệ vô xác gây ra, hoặc tất cả đều do một hình thức viễn cảm đơn giản hay phức tạp nào đó. Có nhiều nguyên nhân đa dạng cho các hiện tượng xuất hiện trong những cuộc điều tra thông linh, một số do các ý tưởng trong tâm của đồng tử hoặc của người ngồi, số khác do các trí tuệ vô xác, số khác nữa do các Hình tư tưởng tình cờ hiện diện hoặc bị hút đến bằng từ lực, và lại có những trường hợp do ảnh hưởng trắc tâm của các vật thể ở gần.

The Pearl Tie-Pin Case—Trường Hợp Cài Cà Vạt Ngọc Trai

Another good example of successful communica­tion from the other side of death, which has been called the pearl tie-pin case, is given in Sir William Barrett’s On the Threshold of the Unseen, as follows:

Một ví dụ hay khác về sự truyền đạt thành công từ bên kia cái chết, vốn được gọi là trường hợp cài cà vạt ngọc trai, được nêu trong sách của Ngài William Barrett, Trên Ngưỡng Cửa Cái Không Thấy , như sau:

Miss C., the sitter, had a cousin, an officer with our army in France, who was killed in battle a month previously to the sitting; this she knew. One day, after the name of her cousin had been unexpectedly spelt out on the ouija board, and her name given in answer to her query “Do you know who I am?”, the following message came:

Cô C., người dự buổi cầu cơ, có một người em họ là sĩ quan trong quân đội của chúng ta tại Pháp, đã tử trận một tháng trước buổi cầu cơ; điều này cô biết. Một ngày nọ, sau khi tên của người em họ ấy bất ngờ được đánh vần trên bàn cầu cơ, và tên của cô được nêu ra khi cô hỏi “Anh biết tôi là ai không?”, đã đến thông điệp sau:

“Tell mother to give my pearl tie-pin to the girl I was to marry. I think she ought to have it.” When asked what was the name and address of the lady, both were given; the name spelt out included the full Christian and surname, the latter being very unusual and quite unknown to both sitters. The address given in London was either wrong or taken down incorrectly, as a letter sent there was returned, and the whole message was thought to be fictitious.

“Hãy nói mẹ đưa ghim cài cà vạt bằng ngọc trai của con cho cô gái mà con sắp cưới. Con nghĩ cô ấy nên có nó.” Khi được hỏi tên và địa chỉ của cô ấy là gì, cả hai đều được cho; tên đánh vần bao gồm cả tên thánh và họ, họ lại rất hiếm và hoàn toàn xa lạ với cả hai người dự. Địa chỉ ở Luân Đôn được đưa ra hoặc là sai, hoặc là ghi chép không đúng, vì một lá thư gửi đến đó bị trả lại, và toàn bộ thông điệp bị nghĩ là bịa đặt.

Six months later, however, it was discovered that the officer had been engaged, shortly before he left for the front, to the lady whose name had been given; he had, however, told no one of this. Neither his cousin nor any of his own family in Ireland were aware of the fact, and they had never seen the lady nor heard her name, until the War Office sent over the deceased officer’s effects. Then they found that he had put the lady’s name in his will as his next of kin, both Christian and surname being precisely the same as given through the automatist; and what is equally remarkable, a pearl tie-pin was found among his effects.

Tuy nhiên, sáu tháng sau, người ta phát hiện rằng viên sĩ quan ấy đã đính hôn, ngay trước khi ra mặt trận, với người phụ nữ có tên đã được cho; tuy vậy, y chưa hề nói với ai về việc này. Cả người em họ lẫn bất kỳ ai trong gia đình y ở Ai-len đều không hay biết, và họ chưa từng gặp người phụ nữ đó hay nghe tên cô, cho đến khi Bộ Chiến tranh gửi về di vật của viên sĩ quan đã khuất. Lúc đó, họ phát hiện rằng y đã ghi tên người phụ nữ ấy trong di chúc là thân nhân gần nhất của y, cả tên thánh lẫn họ đều chính xác như đã cho qua người viết tự động; và điều cũng đáng chú ý không kém là một ghim cài cà vạt bằng ngọc trai đã được tìm thấy trong di vật của y.

Both the ladies have signed a document which they sent to me, affirming the accuracy of the above statement. The message was recorded at the time, and not written from memory after verification had been obtained. Here there could be no explanation of the facts by subliminal memory, or telepathy from the living, or collusion, and the evidence points unmistakably to a message from the deceased officer.

Cả hai người phụ nữ đều đã ký một văn bản gửi cho tôi, xác nhận tính chính xác của tuyên bố trên. Thông điệp được ghi lại ngay lúc đó, chứ không phải viết lại từ trí nhớ sau khi đã xác minh. Ở đây không thể giải thích các sự kiện này bằng ký ức tiềm thức, hay viễn cảm từ người sống, hay thông đồng; và bằng chứng chỉ ra không thể lầm lẫn rằng đây là một thông điệp từ viên sĩ quan đã khuất.

The Bird Nesting Case—Vụ Làm Tổ Của Chim

Another striking case appeared in The Harbinger of Light for February, 1918. A New Zealand gentleman gives what appears to be a good test of identity from his soldier son, who was killed on the Somme in September, 1916. The communi­cation came to another gentleman through the medium of his wife, who was known to the soldier before he left for the war. In the course of his statement the soldier says:

Một trường hợp gây ấn tượng khác xuất hiện trên Sứ Giả của Ánh Sáng số tháng Hai, 1918. Một quý ông người New Zealand đưa ra điều có vẻ là một phép thử nhận dạng tốt từ người con trai là lính của Ông, người đã tử trận ở Somme vào tháng Chín, 1916. Thông điệp đến với một quý ông khác qua trung gian là vợ ông này, người vốn được người lính biết trước khi y ra trận. Trong lời thuật của mình, người lính nói:

Will you convey my love to father and mother, and my brothers? Thank God they have not gone to the war. Tell my dear mother not to hold any fanciful ideas of me, or to believe every so-called message she may receive. Tell her I owe her all that is best in me, for she is brave and good, and I would do anything possible to smooth her path in life. Tell her one particular thing that will assure her of my presence—tell her that on the day when she prevented me from going out bird’s-nesting, and took so much trouble to instruct us in the right, I decided always to try to do what was right. Tell her the recollection of the anecdote she told us always haunted me. Tell her I have not gone to any restful spiritual home yet, and probably will not till the war ends. Tell her I cannot be a shirker in the body or out of it, but having been trained with many good comrades to do my duty, I try to do it still, and if I were permitted I could tell you so much we do to help those still fighting—much that is sanctioned and assisted, too, by others higher than ourselves, but I dare not say. Tell mother that I was quite suddenly shot out of the body, and felt no pain whatever, and thanks to the insight I received through my parents, and you, and others, I simply folded my arms and had a good look at my body, and thought: “Well, is that all?” I could not wrench myself away from the body immediately, and accompanied it when carried off by stretcher-bearers to the dressing-station, because the body was not quite dead, but I felt no pain. How long it was before I lost the consciousness of my material body I cannot say, but the freedom I now feel, and the active part I am taking in what occupied me so much before death is my duty, and it seems natural and right. Besides, Mr. A.—, there are many pledges my comrades and I made to each other in the face of death, which are sacred, and must be kept, if possible. But I cannot stop now. Goodbye, Mr. A.—, goodbye. I am so delighted to have spoken to you. Tell father and mother they need have no regrets, and that my present activities are more valuable than when I was in the flesh, and quite as natural. They will know it is the right and proper course till time changes affairs. Goodbye.

Ông sẽ chuyển hộ tình thương của tôi đến cha mẹ, và các anh em tôi chứ? Tạ ơn Thượng đế họ đã không ra trận. Hãy nói với mẹ yêu của tôi đừng ôm ấp những ý nghĩ mơ tưởng về tôi, và đừng tin mọi cái gọi là thông điệp mà Mẹ có thể nhận. Hãy nói với Mẹ rằng tôi mắc nợ Mẹ tất cả những gì tốt đẹp nhất trong tôi, vì Mẹ can đảm và hiền thiện, và tôi sẽ làm mọi điều có thể để san phẳng con đường đời cho Mẹ. Hãy nói với Mẹ một điều đặc biệt sẽ bảo chứng cho sự hiện diện của tôi—hãy nói với Mẹ rằng vào ngày Mẹ ngăn tôi đi lượm tổ chim, và đã vất vả nhọc lòng dạy chúng tôi về điều phải, tôi đã quyết định luôn cố gắng làm điều đúng. Hãy nói với Mẹ rằng ký ức về giai thoại Mẹ kể luôn ám ảnh tôi. Hãy nói với Mẹ rằng tôi vẫn chưa đến bất kỳ nhà an nghỉ tinh thần nào, và có lẽ sẽ không cho đến khi chiến tranh kết thúc. Hãy nói với Mẹ rằng tôi không thể là kẻ trốn tránh, trong thân xác hay ngoài nó, mà bởi đã được rèn luyện với nhiều đồng đội tốt để làm tròn bổn phận, tôi vẫn cố gắng làm như vậy, và nếu được phép tôi có thể kể cho các vị biết bao điều chúng tôi làm để giúp những người còn đang chiến đấu—nhiều điều được chấp thuận và trợ giúp nữa bởi những Đấng cao hơn chúng tôi, nhưng tôi không dám nói. Hãy nói với Mẹ rằng tôi bị bắn ra khỏi thân xác hoàn toàn đột ngột, và không hề cảm thấy đau đớn, và nhờ sự thấy biết tôi nhận được qua cha mẹ tôi, và qua các vị, và những người khác, tôi chỉ việc khoanh tay và nhìn kỹ thân xác mình, và nghĩ: “Thế thôi sao?” Tôi không thể tự dứt ngay khỏi thân xác, và đã đi kèm nó khi những người khiêng cáng mang nó đến trạm cứu thương, vì thân xác vẫn chưa hoàn toàn chết, nhưng tôi không hề thấy đau. Bao lâu thì tôi mất ý thức về thân xác vật chất của mình tôi không thể nói, nhưng sự tự do tôi đang cảm thấy, và phần việc năng động tôi đang đảm nhận trong điều đã cuốn hút tôi rất nhiều trước khi chết—ấy là bổn phận của tôi, và điều đó có vẻ tự nhiên và phải lẽ. Ngoài ra, ông A.—, có nhiều lời thệ ước mà tôi và các đồng đội đã lập với nhau trước mặt Tử thần, đó là điều thiêng liêng, và phải được giữ, nếu có thể. Nhưng giờ tôi không thể dừng lại. Tạm biệt, ông A.—, tạm biệt. Tôi rất hoan hỉ vì đã được nói chuyện với ông. Hãy nói với cha mẹ tôi rằng họ không cần hối tiếc gì, và rằng hoạt động hiện tại của tôi quý giá hơn khi tôi còn ở trong xác phàm, và cũng tự nhiên không kém. Họ sẽ biết đó là lối đi đúng đắn và thích đáng cho đến khi thời gian thay đổi cục diện. Tạm biệt.

The father writes that the bird’s-nesting incident was known only to the boy and his mother; some years before when he had spoken of going on such an expedition his mother had earnestly told him how cruel it was to break down the home so care-fully prepared by the parents for their young, and illustrated her lesson with the idea of some great giant coming and ruthlessly smashing up her home and destroying her children.

Người cha viết rằng sự việc đi lượm tổ chim chỉ có cậu bé và Mẹ cậu biết; vài năm trước, khi cậu nói đến việc đi một chuyến như thế, Mẹ cậu đã tha thiết nói với cậu rằng thật tàn nhẫn biết bao khi phá hủy mái ấm được cha mẹ chuẩn bị công phu cho lũ con của chúng, và đã minh họa bài học bằng ý tưởng về một gã khổng lồ nào đó đến và nhẫn tâm đập tan nhà của mình và hủy diệt con cái mình.

This case is also interesting for its simple and straightforward account of the soldier’s experiences and feelings when he found himself outside his body.

Trường hợp này cũng thú vị vì bản thuật đơn sơ và thẳng thắn về những trải nghiệm và cảm xúc của người lính khi y thấy mình ở ngoài thân xác.

Cross References—Tham Chiếu Chéo

When one portion of a message is given to one medium and another portion to another, at a distance from or unknown to the first, so that the two portions fit together and make a rational whole, we have what is called a cross-reference. A well known instance of this is the Kildare-street Club case, published in The International Psychic Gazette, and reprinted in Mr. Carrington’s Psychical Phenomena and the War (p. 284). The account of the incident was furnished by Count Hamon, as follows:

Khi một phần thông điệp được đưa cho một đồng tử, và một phần khác cho một đồng tử khác, ở xa hoặc không được người thứ nhất biết đến, đến mức hai phần khớp với nhau và tạo thành một chỉnh thể hợp lý, chúng ta có cái gọi là tham chiếu chéo. Một ví dụ nổi tiếng về điều này là vụ Câu lạc bộ Kildare-street, đăng trên Công báo Thông linh Quốc tế , và in lại trong Các Hiện tượng Thông linh và Chiến tranh của Ông Carrington (tr. 284). Bản thuật về sự cố do Bá tước Hamon cung cấp, như sau:

On Monday, May 14, 1917, I attended in a private house a seance at which Mrs. Harris was the medium. There were present on this occasion, amongst several others whose names I am not authorized to mention, Miss Scatcherd, Mrs. Dixon-Hartland, and Dr. Hector Munro.

Vào thứ Hai, ngày 14 tháng Năm, 1917, tôi tham dự một buổi gọi hồn tại một tư gia, với Bà Harris làm đồng tử. Hôm đó có mặt, trong số một vài người khác mà tôi không được phép nêu tên, có Cô Scatcherd, Bà Dixon-Hartland, và Bác sĩ Hector Munro.

After many convincing conversations with spirits by means of the “direct voice” had occurred, a spirit visitor came and said very distinctly: “I want to send a message to my father.”

Sau nhiều cuộc đàm thoại đầy sức thuyết phục với các vong linh bằng phương tiện “tiếng nói trực tiếp”, một vị khách trong cõi vô hình đến và nói rất rõ ràng: “Tôi muốn gửi một thông điệp cho cha tôi.”

“Who are you?”, we asked.

“Anh là ai?”, chúng tôi hỏi.

The spirit replied: “I am an officer recently killed at the front in Flanders; my name is…” We could not hear the name very distinctly, so after some repeated efforts to get it, we said: “Well, leave the name alone for the moment and try to give us the message.”

Vong linh đáp: “Tôi là một sĩ quan mới tử trận ở tiền tuyến tại Flanders; tên tôi là…” Chúng tôi không nghe rõ tên, nên sau vài lần cố gắng lặp lại để nắm được, chúng tôi bảo: “Thôi, tạm gác tên sang một bên và cố cho chúng tôi biết thông điệp đã.”

Speaking very slowly at first, the spirit said, “My father lives near Dublin; you will find him at the well-known club there.”

Nói rất chậm lúc đầu, vong linh nói, “Cha tôi sống gần Dublin; các ông sẽ tìm thấy ông ấy ở câu lạc bộ nổi tiếng ở đó.”

A gentleman present asked: “Which club do you mean?”

Một quý ông có mặt hỏi: “Ý anh là câu lạc bộ nào?”

The spirit replied: “The Kildare-street Club; you know it well, and you also know my father.”

Vong linh đáp: “Câu lạc bộ Kildare-street; ông biết rõ mà, và ông cũng biết cha tôi nữa.”

As no one had caught the name of the father exactly right, the gentleman referred to said: “I know the Kildare-street Club very well, but I do not think I know your father; but give us the message.”

Vì không ai nghe được đúng hẳn tên của người cha, quý ông vừa nói bèn bảo: “Tôi biết Câu lạc bộ Kildare-street rất rõ, nhưng tôi không nghĩ tôi biết cha anh; nhưng hãy cho chúng tôi thông điệp.”

Continuing, the spirit went on: “My father is always worrying and unhappy about me; he can’t seem to get оver it. I want some one to tell him that I came here tonight to get this through as a test message to him, to tell him not to worry about me, as I am all right, and glad to have gone through it, and I want him not to worry and be unhappy any more.”

Tiếp tục, vong linh nói: “Cha tôi luôn lo âu và buồn khổ vì tôi; dường như ông không thể vượt qua được. Tôi muốn ai đó nói với ông rằng tối nay tôi đã đến đây để chuyển được thông điệp này như một phép thử gửi ông, để bảo ông đừng lo cho tôi, vì tôi ổn cả, và mừng vì đã vượt qua, và tôi muốn ông đừng lo lắng buồn khổ nữa.”

After a slight pause he continued, “My father also goes to mediums in Dublin, and I try to give him messages through them, but I want this sent on to him as a test message.”

Sau một thoáng ngừng, y tiếp: “Cha tôi cũng tìm đến các đồng tử ở Dublin, và tôi cố chuyển thông điệp cho ông qua họ, nhưng tôi muốn thông điệp này được gửi đến ông như một bài thử.”

We again asked him to try to give us the name, and we got one part—the Christian name—very distinctly, but the surname was always so slurred that we were unable to catch it clearly, and after many efforts had to give it up. But before we did so, I promised that I would do all I could to send on his message.

Chúng tôi lại yêu cầu y cố gắng cho tên, và chúng tôi nhận được một phần—tên thánh—rất rõ, nhưng họ thì luôn bị nói líu đi nên chúng tôi không thể nắm rõ, và sau nhiều lần cố gắng đành bỏ cuộc. Nhưng trước khi làm vậy, tôi hứa sẽ làm hết sức để chuyển thông điệp của y.

The next morning I wrote a letter to the name I thought it had sounded like, addressing it to the Kildare-street Club. In about a week this letter was returned to me through the Post Office marked “Name not known”.

Sáng hôm sau, tôi viết thư gửi đến cái tên mà tôi nghĩ nghe như thế, địa chỉ về Câu lạc bộ Kildare-street. Chừng một tuần sau, lá thư này được Bưu điện trả lại cho tôi với dấu “Không biết tên”.

I was considerably worried as to what I should do next, until the thought came to me that I should write to the secretary of the Club, simply saying that I was anxious to find the gentleman who, I believed, was a member of his club, whose son had recently been killed in Flanders; that the name was something like so-and-so, and that I had a message to give him about his son.

Tôi vô cùng băn khoăn không biết bước tiếp theo nên làm gì, cho đến khi một ý nghĩ đến với tôi rằng tôi nên viết cho thư ký của Câu lạc bộ, chỉ đơn giản nói rằng tôi đang nóng lòng tìm một quý ông mà tôi tin là hội viên câu lạc bộ của Ông, có người con trai mới tử trận ở Flanders; rằng tên của ông ấy na ná như tên nào đó, và tôi có một thông điệp muốn gửi ông về đứa con trai.

Now comes the strangest part of this strange story. In a few days I received a letter from the gentleman in question, saying that the secretary had sent him my letter, and adding: “I have had a message from my son who was recently killed in Flanders, saying he had sent me a message through a medium in London, that he had difficulty in getting the name and address through but he wanted to give me a test.” The father added: “If you understand this I hope you will send me his message.”

Giờ đây đến phần lạ lùng nhất của câu chuyện kỳ lạ này. Vài ngày sau, tôi nhận được thư từ quý ông nói trên, nói rằng vị thư ký đã gửi Ông lá thư của tôi, và thêm rằng: “Tôi đã nhận được một thông điệp từ con trai tôi, người mới tử trận ở Flanders, nói rằng nó đã gửi cho tôi một thông điệp qua một đồng tử ở Luân Đôn, rằng nó gặp khó khăn khi chuyển tên và địa chỉ nhưng nó muốn đưa cho tôi một phép thử.” Người cha thêm: “Nếu Ông hiểu điều này tôi mong Ông sẽ gửi cho tôi thông điệp của nó.”

The Deer In The Bois—Con Nai Trong Khu Rừng

One of the most strikingly successful instances of cross correspondence is published in the Journal of the American Society for Psychical Research, vol. viii, p. 413, it being a translation from a paper read at a meeting of the French Society for Psychical Research by Dr. Geley, M. Camille Flammarion being in the chair. In this case the operating entity composed a little story, dictated the major portion of it to a medium at Wimereux, near Bordeaux, omitting only three sentences, which were dictated separately but at the same time to a medium in Paris. The lady in Paris declared that she could see the spirit operators, the chief of whom gave his name as Roudolphe, in the form of lights, and that one of these lights came and went rapidly. Her three sentences were:

Một trong những ví dụ thành công ấn tượng nhất về tương ứng chéo được đăng trên Tập san của Hội Nghiên cứu Thông linh Hoa Kỳ , tập viii, tr. 413, đó là bản dịch từ một bài đọc tại cuộc họp của Hội Nghiên cứu Thông linh Pháp do Bác sĩ Geley trình bày, Ông Camille Flammarion chủ tọa. Trong trường hợp này, thực thể điều phối đã soạn một câu chuyện nhỏ, đọc cho một đồng tử ở Wimereux, gần Bordeaux, phần lớn câu chuyện, chỉ bỏ qua ba câu, vốn được đọc riêng nhưng cùng thời điểm cho một đồng tử ở Paris. Người phụ nữ ở Paris nói rằng bà có thể thấy các tác viên thuộc cõi vô hình, trong đó người đứng đầu xưng tên là Roudolphe, dưới dạng những luồng ánh sáng, và rằng một trong những ánh sáng ấy đến rồi đi rất nhanh. Ba câu của bà là:

“As well behaved as the pupils in a convent for well-trained young ladies”

“Lễ phép như các nữ sinh trong một tu viện dành cho những cô gái được huấn luyện bài bản”

“Their large sweet eyes are used to watching the passing”

“Đôi mắt to, dịu hiền của chúng vốn quen dõi theo những điều đi qua”

“The modern lady of fashion whose eyes.”

“Người phụ nữ tân thời thời thượng, người có đôi mắt.”

The following day the post brought to Paris the main part of the story which had been written in Wimereux the previous evening. Roudolphe first explained the idea of his experiment, and then wrote as follows:

Ngày hôm sau, bưu điện gửi đến Paris phần chính của câu chuyện đã được viết ở Wimereux vào tối hôm trước. Roudolphe trước hết giải thích ý tưởng về thí nghiệm của mình, rồi viết như sau:

Have you sometimes met, dear friend, as you walked in the thickets, the deer that live and roam through the leafy branches, at times… (here the automatist noted a pause in the writing)… at times the flock, jumping and frightened, so graceful and fascinating? Have you ever asked yourself what those pretty animals were thinking, and what they would become later? Far be it from me to draw their horoscope (which would after all be of no interest to them), but it seems to me that their mentality must be very different from that which animates the deer of the forest… (another pause)… strange vehicles running without the aid of an animal’s legs, and in those carriages or along the more or less frequented paths, they have contemplated women with elongated eyes like their own, delicate and stylish women. Who can ever tell us if… (another pause)… become so unnaturally large under the dash of the pencil, is not a doe of the forest in the throes of retrospective recollection?

Có khi nào bạn gặp, hỡi bạn thân, khi bạn đi dạo giữa lùm cây, những con nai sống và lang thang qua các cành lá, đôi khi… (ở đây người viết tự động ghi chú có một khoảng dừng trong khi viết)… đôi khi cả bầy, vừa nhảy vừa hốt hoảng, duyên dáng và mê hoặc làm sao? Bạn đã bao giờ tự hỏi những con vật xinh xắn ấy đang nghĩ gì, và sau này chúng sẽ thành gì chăng? Tôi hoàn toàn không có ý vạch lá số cho chúng (mà rốt cuộc cũng chẳng để làm gì đối với chúng), nhưng với tôi dường như tâm tính của chúng hẳn khác rất xa với cái tâm tính đang linh hoạt nơi loài nai trong rừng… (một khoảng dừng khác)… những cổ xa lạ chạy mà không cần chân thú, và trong những cỗ xe ấy hay dọc theo các lối đi ít nhiều có người qua lại, chúng đã chiêm ngắm những người phụ nữ có đôi mắt dài như mắt của chúng, những người phụ nữ mảnh mai và thanh nhã. Ai có thể nói cho chúng ta biết liệu… (một khoảng dừng nữa)… trở nên to một cách bất thường dưới nét bút, chẳng phải là một con nai cái trong cơn vật vã của hồi ức hoài niệm chăng?

Dear friend, I have had some trouble because Miss R. tried to understand—but trust I have succeeded with this childish story. Affectionate good night. roudolphe.

Bạn thân mến, tôi đã gặp chút khó khăn vì Cô R. cố gắng hiểu—nhưng tin rằng tôi đã làm được với câu chuyện trẻ con này. Chúc ngủ ngon thân ái. roudolphe.

We will leave it to the reader to put the two portions together and see how perfectly they fit. Dr. Geley remarks that both mediums were ignorant of the meaning and intention of the sentences they were writing, and that they both acted as machines worked by the single direction of an independent intelligence.

Chúng ta sẽ để dành cho độc giả ghép hai phần lại với nhau và xem chúng ăn khớp hoàn hảo thế nào. Bác sĩ Geley nhận xét rằng cả hai đồng tử đều không hiểu ý nghĩa và chủ đích của những câu họ đang viết, và rằng họ đều hành xử như những chiếc máy được vận hành bởi sự điều khiển đơn nhất của một trí tuệ độc lập.

The Fir-Tree Test—Phép Thử Cây Thông

In New Evidences in Psychical Research, by Mr. J. A. Hill, a lengthy account is given of the efforts at cross correspondence between various mediums. From that source I will take one case, that of the fir-trees:

Trong Những Chứng Cứ Mới trong Nghiên cứu Thông linh của Ông J. A. Hill, có một tường thuật dài về các nỗ lực tương ứng chéo giữa nhiều đồng tử khác nhau. Từ nguồn ấy tôi sẽ lấy một trường hợp, về những cây thông:

On August 28, 1901, Mrs. Verral’s script had some Latin, of which the following is a translation: “Sign with the seal. The fir-tree that has been already planted in the garden gives its own portent.” This script was signed with a scrawl and three drawings representing a sword, a suspended bugle and a pair of scissors.

Ngày 28 tháng Tám, 1901, bản viết của Bà Verrall có một đoạn Latin, được dịch như sau: “Hãy đóng ấn. Cây thông đã được trồng trong vườn tự nó đưa ra điềm báo.” Bản viết này được ký bằng một nét ngoằn ngoèo và ba hình vẽ tượng trưng cho một thanh gươm, một kèn hiệu treo lơ lửng và một cái kéo.

On the same day Mrs. Forbes’s script purporting to come from her son (who had been killed in the South African War) said that he was looking for a sensitive who wrote automatically, in order that he might obtain corroboration for her own writing. This script was apparently produced earlier in the day than Mrs. Verrall’s script above mentioned.

Cùng ngày hôm đó, bản viết của Bà Forbes, được cho là đến từ con trai bà (người đã tử trận trong Chiến tranh Nam Phi), nói rằng y đang tìm một người mẫn cảm biết viết tự động, để y có thể nhận được sự kiểm chứng cho bản viết của bà. Bản viết này dường như được tạo ra sớm hơn trong ngày so với bản viết của Bà Verrall nói trên.

The interest of the incident lies in the fact that a suspended bugle surmounted by a crown was the badge of Talbot Forbes’s regiment. Further, Mrs. Forbes has in her garden four or five small fir-trees grown from seed sent her from abroad by her son; these she calls Talbot’s trees. These facts were totally unknown to Mrs. Verrall. As bearing on the question of chance coincidence, it is to be remarked that on no other occasion has a bugle appeared in Mrs. Verrall’s script, nor has there been any other allusion to a planted fir-tree (p. 172).

Điều thú vị của sự kiện nằm ở chỗ một chiếc kèn hiệu treo, phía trên đội vương miện, là phù hiệu của trung đoàn Talbot Forbes. Thêm nữa, trong vườn của Bà Forbes có bốn hay năm cây thông nhỏ được trồng từ hạt giống do con trai bà gửi từ nước ngoài về; bà gọi chúng là “những cây của Talbot”. Những điều này hoàn toàn không ai báo cho Bà Verrall biết. Xét đến khả năng trùng hợp ngẫu nhiên, cần lưu ý rằng chưa từng có lần nào khác một chiếc kèn hiệu xuất hiện trong bản viết của Bà Verrall, cũng chưa từng có ám chỉ nào khác về một cây thông đã trồng (tr. 172).

Sir Oliver Lodge has expressed a favourable opinion of the evidential value of a number of cross-correspondences between Mrs. Forbes, Mrs. Piper, Mrs. Thompson and Mrs. Verrall. Many of these tests came from a soi-disant Frederick Myers. Sir Oliver said that the scholarship in some cases singularly corresponds with that of F. W. H. Myers when living, and surpasses the unaided information of any of the receivers. Mr. J. A. Hill, on p. 204 of the book above-mentioned, adds:

Ngài Oliver Lodge đã bày tỏ ý kiến thuận lợi về giá trị bằng chứng của một số tương ứng chéo giữa Bà Forbes, Bà Piper, Bà Thompson và Bà Verrall. Nhiều phép thử trong số này đến từ một người tự xưng là Frederick Myers. Ngài Oliver nói rằng học vấn trong một số trường hợp đặc biệt tương ứng với học vấn của F. W. H. Myers khi còn sống, và vượt quá khả năng thông tin không trợ giúp của bất kỳ người nhận nào. Ông J. A. Hill, ở tr. 204 của cuốn sách vừa nêu, bổ sung:

Some of the communications are strikingly appropriate to and characteristic of Mr. Myers, in many subtle ways; and this psychological kind of evidence, made up of many strokes, some bold, some faint, but all tending to bring out the lineaments of this one personality—this psychological evidence, I say, even apart from anything else, is as impressive as isolated correct facts about the communi­cator’s past life, which is the kind of evidence most sought for hitherto. And, adding to this evidence the cross-correspondences, which are also in some instances of characteristic kind—e.g., the anagrams characteristic of Dr. Hodgson, and the Dante, Tennyson, and Browning incidents suggestive of Mr. Myers, there results a body of recent evidence stronger perhaps than anything that has previously been published by qualified investigators, in favour of communication from disembodied human beings.

Một số thông điệp đặc biệt thích đáng với và đặc trưng cho Ông Myers, theo nhiều cách tinh tế; và loại bằng chứng tâm lý này, được tạo nên bởi nhiều nét vẽ, nét đậm nét mờ, nhưng tất cả đều hướng tới việc khắc họa những đường nét của một phàm ngã này—bằng chứng tâm lý này, tôi nói, ngay cả tách riêng khỏi những thứ khác, cũng ấn tượng không kém những dữ kiện đúng rời rạc về đời sống quá khứ của người truyền thông điệp, là kiểu bằng chứng vốn được truy cầu nhiều nhất từ trước đến nay. Và, cộng thêm vào bằng chứng này các tương ứng chéo, vốn trong một số trường hợp cũng có tính chất đặc trưng— ví dụ, những chữ đố anagram đặc trưng của Bác sĩ Hodgson, và các tình tiết về Dante, Tennyson, và Browning gợi nhắc đến Ông Myers, thì kết quả là một khối bằng chứng gần đây có lẽ mạnh mẽ hơn bất cứ thứ gì trước đây đã được công bố bởi những nhà điều tra có thẩm quyền, ủng hộ cho khả năng truyền thông từ các con người đã rời khỏi xác phàm.

Referring to the telepathic theory as to the cause of these and similar occurrences, Mr. Hill writes (p. 203):

Khi đề cập đến thuyết viễn cảm như nguyên nhân của những việc này và những việc tương tự, Ông Hill viết (tr. 203):

If telepathy from the living is to explain all, we shall have to believe that it can occur in a very definite and continuous way between people who do not know each other, as in the earlier script of Mrs. Holland and in some of the trance-speech of Mrs. Thompson. We shall also have to assume a very complicated system of telepathic cross-firing among the automatists concerned, the cross-firing, moreover, occurring at subliminal depths, leaving the normal personalities quite ignorant of all this remark­able activity. I confess that I am unable to accept this. To quote Mr. Lang… “there is a point at which the explanations of common sense arouse scepticism”. And I do not think that a telepathic theory of this extended kind can be called an explanation of common sense. If it were presented on its own merits, and not as a refuge from “spirits”, it would be described, by common-sense people, as a piece of uncommon nonsense.

Nếu viễn cảm từ người sống phải giải thích tất cả, chúng ta sẽ phải tin rằng nó có thể xảy ra theo một cách rất xác định và liên tục giữa những người không hề quen biết nhau, như trong các bản viết sớm của Bà Holland và trong một số lời nói khi xuất thần của Bà Thompson. Chúng ta cũng sẽ phải giả định một hệ thống bắn chéo viễn cảm hết sức phức tạp giữa các người viết tự động có liên quan, hơn nữa các phát bắn chéo ấy xảy ra ở những tầng sâu tiềm thức, để cho các phàm ngã bình thường hoàn toàn không hay biết gì về hoạt động kỳ lạ này. Tôi thú thật tôi không thể chấp nhận điều đó. Trích lời Ông Lang… “có một điểm mà các lối giải thích theo lẽ thường lại khơi dậy hoài nghi”. Và tôi không nghĩ rằng một thuyết viễn cảm mở rộng kiểu này có thể được gọi là một giải thích theo lẽ thường. Nếu nó được trình bày dựa trên giá trị tự thân của nó, chứ không phải như một nơi trú ẩn khỏi “các vong linh”, nó sẽ bị những người theo lẽ thường mô tả là một mớ vô lý khác thường.

The Two Drowned Sailors—Hai Thủy Thủ Chết Đuối

What amounts practically to a cross-reference, though it was apparently not intentional, is related by Mr. W. Britton Harvey, Editor of The Harbinger of Light, Melbourne, in his booklet They All Come Back! One evening in a circle in his home the intelligence controlling the medium gave his name as Walter Robinson, and stated that Fred Field was with him, and added that they had both been drowned at sea. Mr. Harvey had known a Walter Robinson, and had learnt that he had been drowned, but he had never even heard of Fred Field.

Một điều về thực chất tương đương với tham chiếu chéo, dù có vẻ không chủ ý, được Ông W. Britton Harvey, Chủ bút Sứ Giả của Ánh Sáng , Melbourne, thuật lại trong tập sách nhỏ Họ Đều Trở Về! Một buổi tối, trong một vòng cầu cơ tại nhà mình, vị trí tuệ điều khiển đồng tử cho biết tên là Walter Robinson, và nói rằng Fred Field đang ở cùng y, và thêm rằng cả hai đều đã chết đuối ngoài biển. Ông Harvey từng biết một Walter Robinson, và được biết rằng anh này đã chết đuối, nhưng Ông chưa từng nghe cái tên Fred Field.

More than a year later an acquaintance happened to tell Mr. Harvey that some years before, in a sitting with a Melbourne medium, he had been greeted by Walter Robinson and Fred Field, who declared they had been drowned. I will complete the story in Mr. Harvey’s own words:

Hơn một năm sau, một người quen tình cờ nói với Ông Harvey rằng vài năm trước, trong một buổi ngồi với một đồng tử ở Melbourne, Ông đã được Walter Robinson và Fred Field chào, những người nói rằng họ đã chết đuối. Tôi sẽ hoàn tất câu chuyện bằng lời của chính Ông Harvey:

“I knew Walter and Fred well,” continued my informant, “but I had never heard of their deaths. They were shipmates of mine at one time, and it was not for nine months after they had purported to speak to me that I found out that they had been drowned.” I then learnt for the first time that this casual acquaintance used to live a few miles from the town in which I resided in the Old Country. At that time he went to sea, and that was how he got to know Walter Robinson and Fred Field. I had not mentioned either of these names to him previously. In fact, this was the first chat we had had together, and this will account for my not knowing before that he once resided so close to me in England (p. 15).

“Tôi biết Walter và Fred rất rõ,” người đưa tin của tôi tiếp tục, “nhưng tôi chưa từng nghe về cái chết của họ. Họ từng là bạn tàu của tôi một thời, và mãi chín tháng sau khi họ tỏ ý nói chuyện với tôi tôi mới phát hiện ra rằng họ đã chết đuối.” Rồi lần đầu tiên tôi được biết người quen tình cờ này từng sống cách thị trấn nơi tôi cư trú ở Cựu Quốc vài dặm. Vào thời điểm đó ông đi biển, và đó là cách ông quen Walter Robinson và Fred Field. Tôi chưa từng nhắc đến bất kỳ cái tên nào trong hai cái tên này với ông trước đó. Thực ra, đây là lần trò chuyện đầu tiên của chúng tôi, và điều này sẽ giải thích vì sao tôi không biết trước rằng ông từng cư trú gần tôi như thế ở Anh (tr. 15).

The Book Tests—Các Phép Thử Bằng Sách

In 1922 the Rev. Charles Drayton Thomas put forth a book entitled Some New Evidence for Human Survival. In this he opens up on a large scale a method of investigation but slightly touched upon hitherto, in the form of book and newspaper tests. These tests are stated to come from his father, the Rev. John Drayton Thomas (who died some years ago) acting through Mrs. Leonard, with the assistance of a control who calls herself Feda.

Năm 1922 Mục sư Charles Drayton Thomas xuất bản một cuốn sách nhan đề Một Số Chứng Cứ Mới về Sự Sống Sót của Con Người . Trong đó Ông mở ra trên quy mô lớn một phương pháp điều tra trước nay mới chỉ chạm đến đôi chút, dưới dạng các phép thử bằng sách và báo chí. Những phép thử này được cho là đến từ thân phụ của Ông, Mục sư John Drayton Thomas (đã qua đời vài năm trước) hành động thông qua Bà Leonard, với sự trợ giúp của một vị điều khiển tự xưng là Feda.

The general method of book-tests, of which some hundreds are related, is for the “spirit” to go into Mr. Thomas’s library (some distance from the house where the sittings are held), select a book, observe some ideas on a certain page or pages in that book, and then announce them. Several of these observations are written down on one occasion; they are afterwards verified, and have been found to be for the most part correct.

Phương pháp chung của các phép thử bằng sách, trong đó có hàng trăm trường hợp được thuật lại, là “vong linh” đến thư viện của Ông Thomas (cách xa ngôi nhà nơi tổ chức ngồi chuyện), chọn một cuốn sách, ghi nhận một số ý tưởng ở một trang hay vài trang nhất định trong cuốn sách đó, rồi công bố chúng. Một vài nhận xét như thế được ghi ra trong một lần; về sau chúng được kiểm chứng, và phần lớn tỏ ra là đúng.

The operators have apparently certain difficulties in seeing the actual print of the book, but in some manner not easy to comprehend they can grasp the idea involved in the printed words. They cannot apparently see the numbers printed on the pages, but they can count the pages from the beginning of the printed matter, and so indicate exactly those to which they wish to refer. Some of the tests are taken from books on the shelves, but others with equal success were performed with books belonging to other people, made up into carefully sealed parcels, the contents of which were quite unknown to the experimenters until the parcels were opened in order to verify the test messages.

Dường như các vị điều phối gặp một số khó khăn trong việc nhìn thấy con chữ in trên sách, nhưng bằng cách nào đó không dễ hiểu, họ có thể nắm bắt ý tưởng hàm trong các từ in. Họ có vẻ không thấy được các con số in trên trang, nhưng họ có thể đếm các trang từ khi phần chữ in bắt đầu, và do đó chỉ ra chính xác những trang mà họ muốn tham chiếu. Một số phép thử lấy từ các cuốn sách trên kệ, nhưng số khác cũng thành công tương đương được thực hiện với những cuốn sách thuộc sở hữu của người khác, được gói thành các kiện niêm kín cẩn thận, nội dung hoàn toàn vô tri đối với các nhà thực nghiệm cho đến khi các kiện được mở ra nhằm kiểm chứng các thông điệp thử nghiệm.

I will give two typical examples of book-tests from the many recorded by Mr. Thomas, which range variously over description, humour, topics of the day, philosophy and religion.

Tôi sẽ đưa hai ví dụ điển hình về các phép thử bằng sách từ nhiều trường hợp do Ông Thomas ghi chép, trải rộng từ mô tả, hài hước, các đề tài thời sự, triết học đến tôn giáo.

In your study, close to the door, the lowest shelf, take the sixth book from the left, and page 149; three-quarters down is a word conveying the meaning of falling back or stumbling.

Trong phòng làm việc của Ông, gần cửa, kệ thấp nhất, lấy cuốn sách thứ sáu tính từ bên trái, và trang 149; cách ba phần tư trang là một từ chuyển tải nghĩa là ngã lùi lại hay vấp ngã.

Rather more than half-way down the page was the following sentence:

Hơn nửa trang xuống dưới một chút có câu sau:

… to whom a crucified Messiah was an insuperable stumbling-block.

… đối với họ một Đấng Messiah bị đóng đinh là một chướng ngại không thể vượt qua.

Very low down on the page he seemed to get some­thing about great noise, not a sharp, thin sound, but a heavy one, more of a roaring noise.

Rất sát cuối trang, dường như có gì đó về tiếng động lớn, không phải âm sắc mỏng, sắc, mà là âm nặng, thiên về tiếng gầm hơn.

Close to the bottom of this page was the sentence:

Ngay gần cuối trang này có câu:

I chanced to come that time along the coast, and heard the guns for two or three days and nights success­ively, (pp. 15-17.)

Tôi tình cờ đi dọc bờ biển khi ấy, và nghe tiếng đại bác suốt hai hay ba ngày đêm liền, (tr. 15-17.)

Mr. Drayton Thomas says that these book-tests were given, so it was claimed by the “spirit friends,” not so much as a proof of identity, as illustrating the ability of a spirit to obtain infor­mation unknown to the sitter or medium, and yet capable of easy verification.

Ông Drayton Thomas nói rằng các phép thử bằng sách này được đưa ra, theo lời “những người bạn trong cõi vô hình”, không hẳn như một bằng chứng nhận dạng, mà là để minh họa khả năng của một vong linh có thể thu thập thông tin không ai trong người dự hay đồng tử biết, nhưng lại dễ dàng kiểm chứng được.

In Chapter XII Mr. Thomas gives a series of book-tests which were communicated for Lady Glenconnor, who has also herself written about them in The Earthen Vessel. The messages were transmitted from the late Hon. Edward Wyndham Tennant through the same medium, the late Rev. John Drayton Thomas and Feda communicating. This time they used the books in the libraries at Lady Glenconnor’s house in Scotland, at her town house, and also at Wilsford Manor.

Trong Chương XII Ông Thomas đưa ra một loạt phép thử bằng sách được truyền cho Phu nhân Glenconnor, người cũng tự mình viết về chúng trên Chiếc Bình Đất . Các thông điệp được truyền từ Ngài Edward Wyndham Tennant quá cố qua cùng một đồng tử, Mục sư John Drayton Thomas quá cố và Feda là người truyền đạt. Lần này họ dùng các cuốn sách trong thư viện tại nhà của Phu nhân Glenconnor ở Scotland, tại nhà ở thành phố của bà, và cả tại Trang viên Wilsford.

Summing up the results of two years’ work the author finds that out of 209 book tests spontaneously given 147 were good, 26 indefinite, and 36 apparent failures (p. 98).

Tổng kết kết quả của hai năm làm việc, tác giả nhận thấy trong số 209 phép thử bằng sách được đưa ra một cách tự phát có 147 là tốt, 26 không rõ ràng, và 36 có vẻ thất bại (tr. 98).

A Test By Madame Blavatsky—Một Phép Thử Của Bà Blavatsky

Before closing this subject of book-tests, let me recount one such example also from the record of Madame Blavatsky. Her life was full of incidents showing remarkable powers in many directions; of these one may read especially in The Occult World and Incidents in the Life of Madame Blavatsky, by A. P. Sinnett, and in Old Diary Leaves, by Col. H. S. Olcott. Mr. G. Baseden Butt has recently written a careful and thoughtful account of her life in his volume entitled Madame Blavatsky. From that I take the following “test” related by Countess Wachtmeister (p. 153):

Trước khi khép lại chủ đề các phép thử bằng sách, hãy để tôi thuật lại một ví dụ như thế cũng từ ghi chép về Bà Blavatsky. Đời bà đầy những sự kiện cho thấy những năng lực đáng kinh ngạc trên nhiều phương diện; có thể đọc về những điều đó đặc biệt trong Thế Giới Huyền BíNhững Tình tiết trong Đời Bà Blavatsky của A. P. Sinnett, và trong Những Trang Nhật Ký Cũ của Đại tá H. S. Olcott. Ông G. Baseden Butt gần đây đã viết một bản tường thuật công phu và thâm trầm về đời bà trong tập sách nhan đề Madame Blavatsky . Từ đó tôi trích “phép thử” sau, do Bá tước phu nhân Wachtmeister kể lại (tr. 153):

An experience related by the Countess Wachtmeister cannot be explained save on the assumption that the Masters really exist and were able to communicate with her. In the autumn of 1885, before she had met Madame Blavatsky, and before she knew that she was likely to meet her, the Countess was making preparations to leave her home in Sweden in order to spend the winter with some friends in Italy, intending to visit Madame Gebhard at Elberfeld en route. While she was laying aside the articles she intended to take with her, the Countess, who was clair­voyant and clairaudient, heard a voice saying: “Take that book, it will be useful to you on your journey.” The book referred to was a manuscript collection of notes on the Tarot and passages in the Kabbalah compiled by a friend. Countess Wachtmeister could conceive of no purpose for which this book might be required, but, obedient to her clairaudient injunction, she laid it in the bottom of one of her travelling trunks. At Elberfeld, Madame Gebhard persuaded the Countess to go to Würzburg and spend the winter with Madame Blavatsky there instead of going to Italy. When the Countess arrived at Würzburg, and was going into the dining-room to take some tea, Madame Blavatsky said abruptly, as if the matter had been dwelling on her mind:

Một trải nghiệm do Bá tước phu nhân Wachtmeister thuật lại không thể giải thích được trừ phi giả định rằng các Chân sư thật sự hiện hữu và đã có thể giao tiếp với bà. Mùa thu năm 1885, trước khi bà gặp Bà Blavatsky, và trước khi bà biết mình có thể sẽ gặp bà, Bá tước phu nhân chuẩn bị rời nhà ở Thụy Điển để sang Ý tránh đông cùng vài người bạn, định ghé thăm Bà Gebhard ở Elberfeld trên đường đi . Trong lúc đang để riêng các món đồ định mang theo, Bá tước phu nhân, người có thông nhãn và thông nhĩ, nghe một giọng nói: “Hãy mang cuốn sách kia theo, nó sẽ hữu ích cho cô trên đường đi.” Cuốn sách được nói tới là một tập bản thảo gồm các ghi chú về Tarot và những đoạn trong Kabbalah do một người bạn biên soạn. Bá tước phu nhân Wachtmeister không thể hình dung mục đích gì mà cuốn sách này có thể được cần đến, nhưng, vâng theo lời chỉ dẫn qua thông nhĩ, bà đặt nó dưới đáy một trong những rương hành lý. Ở Elberfeld, Bà Gebhard thuyết phục Bá tước phu nhân đến Würzburg và dành mùa đông ở đó với Bà Blavatsky thay vì sang Ý. Khi Bá tước phu nhân tới Würzburg, và đang đi vào phòng ăn để dùng trà, Bà Blavatsky bất ngờ nói, như thể điều ấy đã canh cánh trong tâm trí bà:

“Master says you have a book for me of which I am much in need.”

“Chân sư nói cô có một cuốn sách cho tôi mà tôi đang rất cần.”

The Countess Wachtmeister denied that any books were with her, but Madame Blavatsky bade her think again, as Master said that her visitor had been told in Sweden to bring a book on the Tarot and the Kabbalah. “Then,” adds the Countess, “I recollected the circum­stances I have related above. From the time I had placed the volume in the bottom of my box it had been out of my sight and out of my mind. Now, when I hurried to the bedroom, unlocked the trunk, and dived to the bottom, I found it in the same corner I had left it when packing the box in Sweden, undisturbed from that moment to this. But that was not all. When I returned to the dining-room with it in my hand, Madame Blavatsky made a gesture and cried: ‘Stay, do not open it yet. Now turn to page ten, and on the sixth line you will find the words…’ And she quoted a passage.

Bá tước phu nhân Wachtmeister nói rằng bà không mang theo sách nào, nhưng Bà Blavatsky bảo bà nghĩ lại, vì Chân sư nói rằng vị khách của bà đã được bảo ở Thụy Điển mang một cuốn sách về Tarot và Kabbalah. “Rồi,” Bá tước phu nhân thêm, “tôi chợt nhớ lại những điều tôi vừa kể ở trên. Từ lúc tôi đặt cuốn sách xuống đáy rương, nó đã khuất khỏi mắt tôi và khỏi tâm trí tôi. Bấy giờ, khi tôi vội về phòng ngủ, mở khóa rương, và thọc tay xuống đáy, tôi thấy nó nằm đúng ở góc tôi đã đặt khi sắp đồ ở Thụy Điển, không hề bị động đến từ khoảnh khắc đó đến nay. Nhưng đó chưa phải hết. Khi tôi trở lại phòng ăn với cuốn sách trên tay, Bà Blavatsky ra hiệu và kêu: ‘Khoan, đừng mở ra vội. Giờ hãy mở trang mười, và ở dòng thứ sáu cô sẽ thấy những chữ…’ Và bà trích một đoạn.

I opened the book, which, let it be remembered, was no printed volume of which there might be a copy in H. P. B.’s possession, but a manuscript album in which, as I have said, had been written notes and excerpts by a friend of mine for my own use, yet on the page and at the line she had indicated I found the very words she had uttered.

Tôi mở sách, nhớ rằng đây không phải sách in mà có thể có một bản trong tay H. P. B., mà là một tập bút ký chép tay mà, như tôi đã nói, gồm những ghi chú và trích đoạn do một người bạn của tôi viết cho tôi dùng, vậy mà ngay đúng trang và dòng bà chỉ, tôi tìm thấy những từ mà bà vừa nói.

When I handed her the book I ventured to ask her why she wanted it.

Khi tôi trao sách cho bà, tôi mạo muội hỏi vì sao bà muốn nó.

‘O,’ she replied, ‘for The Secret Doctrine.’ “

‘Ồ,’ bà đáp, ‘cho Giáo Lý Bí Nhiệm. ’ “

Surely this incident establishes at one and the same time the existence of the Masters and the reality of Madame Blavatsky’s power of clairvoyance.

Hẳn sự kiện này đồng thời xác lập cả sự hiện hữu của các Chân sư lẫn thực tại năng lực thông nhãn của Bà Blavatsky.

The Newspaper Tests—Các Phép Thử Bằng Báo Chí

Satisfactory as the book-tests are, what are known as the newspaper-tests are still more effective. These messages, instead of relating to books existing in libraries, in closed parcels or even in locked iron boxes, refer to tomorrow’s paper. Various newspapers were used, but chiefly the London Times, and the communications related therefore to what had not yet been printed; enquiries at the office of the paper resulted in the information that at the time of the sitting the type-matter had not yet been assembled, and pro­bably some of it had not even been set up. Respecting these tests Mr. Thomas says also:

Dù các phép thử bằng sách là thỏa đáng, thì cái gọi là các phép thử bằng báo chí còn hiệu quả hơn nữa. Những thông điệp này, thay vì liên quan đến các sách có trong thư viện, trong các gói kín hay thậm chí trong những hộp sắt khóa chặt, lại liên quan đến tờ báo của ngày mai . Nhiều tờ báo được sử dụng, nhưng chủ yếu là Times Luân Đôn, và vì thế các thông điệp liên hệ đến những gì còn chưa in; các cuộc hỏi tại tòa soạn cho biết rằng vào lúc buổi ngồi chuyện diễn ra, phần chữ in vẫn chưa được dàn trang, và có lẽ một phần trong số đó còn chưa được sắp chữ. Về các phép thử này Ông Thomas cũng nói:

It is important to realize that a copy of these notes was made the same evening, and posted in London so that it would be delivered early the following morning. It was sent to the Secretary of the Society of Psychical Research in accordance with my invariable custom, a practice adopted many months previously, when I realized that the tests from the papers of the day after the sitting were becoming a regular feature of conversations with my father through Mrs. Leonard and Feda. (p. 133.)

Điều quan trọng là hiểu rằng một bản sao các ghi chú này đã được thực hiện ngay tối hôm đó, và gửi bưu điện tại Luân Đôn để có thể phát đến nơi vào sớm hôm sau. Nó được gửi cho Thư ký Hội Nghiên cứu Thông linh theo đúng thông lệ bất biến của tôi, một thực hành đã được áp dụng từ nhiều tháng trước, khi tôi nhận ra rằng các phép thử dựa trên các báo của ngày hôm sau buổi ngồi chuyện đang trở thành một đặc điểm thường xuyên trong các cuộc đối thoại với cha tôi qua Bà Leonard và Feda. (tr. 133.)

There is generally a certain vagueness about these tests, as in the book-tests, but that the communi­cating intelligences do make a connection between words in the newspaper and names or facts familiar to the enquirers is certain. For example, they say (p. 131) “On page 1, column 2, near the top, there is the name of a minister with whom your father was friendly at Leek.” The name Perks was found in the place indicated, and he had known a minister of that name at Leek.

Nói chung các phép thử này có một mức độ mơ hồ nhất định, như trong các phép thử bằng sách, nhưng việc các trí tuệ truyền thông điệp quả có tạo được mối liên kết giữa các từ trên tờ báo và các tên hay sự kiện quen thuộc với người hỏi là điều chắc chắn. Ví dụ, họ nói (tr. 131) “Trên trang 1, cột 2, gần đầu, có tên một mục sư từng thân với cha Ông ở Leek.” Tên Perks được tìm thấy đúng vị trí chỉ ra, và ông từng biết một mục sư mang tên đó ở Leek.

There are many carious approximations in these tests. For example, it was announced that in a certain column, one-quarter down, would appear Mr. Thomas’ father’s name, his own, his mother’s, and that of an aunt. In the position indicated the names John and Charles appeared. These were correct, but instead of Emily and Sarah (the names of an aunt and Mr. Thomas’ mother) were the words Emile Sauret! Similarly in the place stated to contain the maiden name of the mother “or one very like it” was the word Dorothea, while her name was Dore.

Có nhiều sự xấp xỉ kỳ lạ trong các phép thử này. Ví dụ, đã được báo trước rằng ở một cột nhất định, cách đầu cột một phần tư, sẽ xuất hiện tên của cha Ông Thomas, tên của chính Ông, tên Mẹ Ông, và tên một người cô. Ở vị trí chỉ ra, có tên John và Charles. Những tên này là đúng, nhưng thay vì Emily và Sarah (tên người cô và tên Mẹ của Ông Thomas) lại là các chữ Emile Sauret! Tương tự, ở nơi được nói là chứa họ thời con gái của Mẹ “hoặc một tên rất giống”, lại có chữ Dorothea, trong khi tên Mẹ là Dore.

Notwithstanding this vagueness these messages do present a valuable addition to the evidence for the existence of intelligence beyond that of the sitters, and this record is especially useful because Mr. Thomas sent his tests to the Secretary of the Society for Psychical Research before the news­papers were printed.

Dẫu có tính mơ hồ như vậy, các thông điệp này quả thực cung cấp một bổ sung quý cho bằng chứng về sự tồn tại của trí tuệ vượt lên trên trí tuệ của người dự, và bản ghi chép này đặc biệt hữu dụng bởi Ông Thomas đã gửi các phép thử của mình cho Thư ký Hội Nghiên cứu Thông linh trước khi các tờ báo được in.

In twelve such sittings, containing 104 tests, Mr. Thomas finds that there were 73 successes, 12 inconclusive items, and 19 failures, and in another set of trials there were 51 successes out of 53 tests (p. 153). Many tests were also received for persons other than the sitters, and relating to facts entirely unknown to them.

Trong mười hai buổi như thế, gồm 104 phép thử, Ông Thomas thấy rằng có 73 thành công, 12 hạng mục không ngã ngũ, và 19 thất bại, và trong một loạt thử nghiệm khác có 51 thành công trên 53 phép thử (tr. 153). Nhiều phép thử cũng được nhận cho những người không phải người dự, và liên quan đến các sự kiện hoàn toàn xa lạ với họ.

The Source Of The Messages—Nguồn Gốc Các Thông Điệp

In studying the probable source of these messages, Mr. Drayton Thomas feels assured that they do come from his deceased father, for all his sittings abound in references to his doings and surroundings which would normally be unknown to Mrs. Leonard, also with references to his father’s earth-life, and besides “they include a wide range of elusive touches which are unproducible in cold print, but in which I see my father’s personality ringing true to that which I knew so well during his life on earth” (p. 190). We must, of course, consider that the medium of Feda might read his mind, but as to this he says: “Up to the present all my experiments with Feda have failed to find in her any trace of ability to explore my thought or reproduce my memories; the evidence all points the other way.” (p. 192.)

Khi nghiên cứu nguồn khả dĩ của các thông điệp này, Ông Drayton Thomas tin chắc rằng chúng quả đến từ người cha đã khuất của Ông, vì tất cả các buổi ngồi chuyện của Ông đều đầy rẫy những tham chiếu đến các việc làm và hoàn cảnh quanh Ông vốn bình thường Bà Leonard không biết, cũng như nhiều tham chiếu đến đời sống trần thế của người cha, và ngoài ra “chúng bao gồm một phổ rộng các nét chấm phá khó nắm, không thể hiện ra một cách lạnh lùng trên trang in, nhưng trong đó tôi thấy phàm ngã của cha tôi ngân lên đúng với điều mà tôi từng biết rất rõ suốt đời ông trên cõi trần” (tr. 190). Dĩ nhiên chúng ta phải xét đến khả năng Feda, với tư cách đồng tử điều khiển, có thể đọc tâm Ông, nhưng về điều này Ông nói: “Cho đến nay mọi thí nghiệm của tôi với Feda đều không tìm thấy nơi bà chút dấu vết khả năng thám sát tư tưởng của tôi hoặc tái hiện ký ức của tôi; bằng chứng tất cả chỉ theo hướng ngược lại.” (tr. 192.)

He mentions also that it is a curious experience, after having received correct references through pages of books scattered about his library to hear the control struggling to spell out a name which he himself knows to be that which is required for completing some explicit description, and to find that such efforts usually fail to pass beyond the initial letter of the required name, and that his own concentration upon the name appears to make things not one whit easier. He concludes: “That my father links his former memories with matter discovered in preparation for the morrow’s press is the only explanation logically fitting with the facts.” (p. 194.)

Ông cũng nói rằng thật là một trải nghiệm lạ lùng, sau khi đã nhận những tham chiếu đúng qua các trang sách nằm rải rác khắp thư viện, lại nghe vị điều khiển chật vật đánh vần một cái tên mà chính Ông biết là điều cần để hoàn tất một mô tả rõ ràng nào đó, và thấy rằng những nỗ lực như thế thường không vượt quá chữ cái đầu của cái tên cần thiết, và sự tập trung của riêng Ông vào cái tên dường như chẳng khiến mọi việc dễ dàng hơn chút nào. Ông kết luận: “Rằng cha tôi liên kết những ký ức xưa của ông với những điều được phát hiện trong quá trình chuẩn bị cho trang in ngày mai là lối giải thích duy nhất phù hợp một cách hợp lý với các sự kiện.” (tr. 194.)

As to the views of the “spirits” themselves upon the way in which they obtain the newspaper tests, Mr. Thomas received the following communication:

Về các quan điểm của chính “các vong linh” đối với cách họ đạt được các phép thử bằng báo chí, Ông Thomas nhận được thông điệp sau:

These tests have been devised by others in a more advanced sphere than mine, and I have caught their ideas. This may be done even when we do not realize whence the thought originates, much as when minds on earth receive inspiration. We can visit these higher helpers, and, even when away from them, may be very conscious of their assistance. I am not yet aware exactly how one obtains these tests, and have wondered whether the higher guides exert some influence whereby a suitable advertisement comes into position on the convenient date; I have thought of this, but do not know. These tests will be better than the book-tests, because more definite, and their object will be to prove that we can obtain information from other quarters than the mind or surroundings of the sitter; it will be useless to invoke “the subconscious mind” as an explanation here. I was taken to the Times office, and did not find the way there by myself; helpers are plentiful when we are engaged on work of this kind. (p. 201.)

Các phép thử này đã được nghĩ ra bởi những vị ở một cảnh giới tiến hóa cao hơn của tôi, và tôi đã nắm bắt được ý tưởng của họ. Điều này có thể được thực hiện ngay cả khi chúng tôi không nhận ra tư tưởng khởi nguyên từ đâu, tựa như khi những tâm trí nơi cõi trần nhận được cảm hứng. Chúng tôi có thể thăm các vị trợ giúp cao hơn ấy, và ngay cả khi rời họ, vẫn có thể rất ý thức về sự trợ giúp của các vị. Tôi vẫn chưa biết chính xác cách người ta thu được các phép thử này, và đã băn khoăn không biết liệu các vị hướng dẫn cao hơn có tác động nào đó nhờ đó một mẩu quảng cáo thích hợp được đặt đúng vào ngày thuận tiện không; tôi có nghĩ đến điều này, nhưng không biết. Những phép thử này sẽ tốt hơn phép thử bằng sách, vì xác định hơn, và mục đích của chúng là chứng minh rằng chúng tôi có thể thu nhận thông tin từ những nguồn khác ngoài tâm trí hay hoàn cảnh của người dự; ở đây viện dẫn “tâm trí tiềm thức” làm lời giải thích sẽ vô dụng. Tôi đã được đưa đến tòa soạn Times , và không tự tìm đường đến đó; người trợ giúp thì nhiều khi chúng tôi làm việc loại này. (tr. 201.)

In another communication given later, in reply to the question: “Do you now understand what it actually is that you operate upon at the Times office?”‘ the father said:

Trong một thông điệp khác về sau, để trả lời câu hỏi: “Giờ đây ông có hiểu thực ra là ông tác động vào cái gì tại tòa soạn Times không?”, người cha nói:

It is still a puzzle. On one occasion I thought I saw the complete page set up; it certainly appeared to be so, and I noticed certain items in it which I believe proved correct. But on returning to the office a little while after—for I frequently go twice to make sure of the tests—I found that the page was not yet set up, and this astonished me and was most perplexing. (p. 207.)

Nó vẫn là một điều bí ẩn. Có lần tôi tưởng mình đã thấy một trang hoàn chỉnh đã được dàn; dường như quả là như thế, và tôi chú ý đến một vài mẩu trong đó mà tôi tin là đã được chứng thực. Nhưng khi trở lại tòa soạn một lát sau—vì tôi thường đi hai lần để chắc ăn các phép thử—tôi thấy rằng trang ấy vẫn chưa được dàn, điều này làm tôi rất ngạc nhiên và vô cùng bối rối. (tr. 207.)

In other communications the deceased clergyman speculates variously upon the possible methods by which future events may be known, but apparently in that world as in this the mystery of time is not yet solved.

Trong những thông điệp khác, vị mục sư quá cố suy ngẫm theo nhiều cách về những phương thức khả hữu mà qua đó các sự kiện tương lai có thể được biết trước, nhưng dường như ở thế giới ấy cũng như ở thế giới này, huyền nhiệm của thời gian vẫn chưa được giải quyết.

Leave a Comment

Scroll to Top