12. Thuyết Giáng Linh và Thông Thiên Học — CHƯƠNG XII—

Chapter XII—Chương XII

CONCLUSION—KẾT LUẬN

I have tried to describe the life on the other side of death just as it is, just as it is seen to be by those who, taking part in it (as we all do every night of our earthly lives) have unfolded within themselves the power to remember clearly what they see and do, so that to them it is familiar, simple, straight­forward—part of their everyday existence. And I have gathered together from many sources a large number of illustrative cases, a vast amount of con­current testimony to show you that the account I give is not a dream or a hallucination, but a plain statement of the facts as commonly experienced.

Tôi đã cố gắng mô tả đời sống ở bên kia cái chết đúng như nó là, đúng như nó được thấy bởi những ai tham dự vào đó (như tất cả chúng ta đều làm mỗi đêm trong đời sống trần gian), và đã khai mở trong chính mình năng lực nhớ rõ những gì mình thấy và làm, để đối với họ nó là điều quen thuộc, giản dị, thẳng băng—một phần của đời sống thường nhật. Và tôi đã gom lại từ nhiều nguồn vô số trường hợp minh họa, một khối lượng lớn lời chứng đồng quy để chỉ cho bạn thấy rằng tường thuật mà tôi đưa ra không phải là một giấc mơ hay một ảo giác, mà là một trình bày thẳng thắn về những sự kiện như người ta thường nghiệm qua.

For those who are able to accept this, all fear of death should be eradicated, all grief for those whom we call the dead should automatically cease. Yet so strong is this ingrained habit of mourning, so firmly implanted within us is this hereditary, though baseless, sense of separation, that even those who intellectually grasp the truth, who fully believe all that is written herein, may at times find themselves slipping back under its influence into that old and harmful attitude of despondency, of longing, of never-fading regret.

Với những ai có thể chấp nhận điều này, mọi sợ hãi cái chết nên bị nhổ sạch, mọi sầu khổ vì những người mà chúng ta gọi là kẻ chết nên tự động chấm dứt. Thế nhưng thói quen khóc than đã ăn sâu quá mạnh, cảm thức di truyền về chia lìa ấy—dù vô căn cứ—đã được cắm chặt trong chúng ta đến mức ngay cả những người nắm bắt chân lý bằng trí tuệ, những người hoàn toàn tin vào mọi điều được viết ở đây, đôi lúc vẫn thấy mình trượt ngược trở lại dưới ảnh hưởng của nó, vào thái độ cũ kỹ mà tai hại của u sầu, khắc khoải, và nuối tiếc không phai.

So sad is this, so injurious both to the living and the dead, that I feel it my duty to close this book with a final and urgent appeal to my readers to raise themselves once and forever above the possibility of any such relapse, to take their stand firmly in God’s sunlight, and never for a moment allow it to be obscured by man-made clouds of doubt or fear. To the man, then, whose sky is dark because one whom he loves deeply has left this physical world, I would address myself thus:

Điều đó thật đáng buồn biết bao, thật tổn hại cả cho người sống lẫn kẻ chết, đến nỗi tôi cảm thấy bổn phận phải kết thúc cuốn sách này bằng một lời khẩn thiết tối hậu gửi đến độc giả: hãy tự mình nâng dậy, một lần cho mãi mãi, vượt khỏi mọi khả năng tái rơi vào trạng thái ấy; hãy đứng vững trong ánh dương của Thượng đế, và đừng để nó bị che khuất dù chỉ một chốc bởi những đám mây do con người dựng nên của hoài nghi hay sợ hãi. Vậy nên, với người mà trời mây u tối vì kẻ y yêu sâu đậm đã rời bỏ thế giới hồng trần này, tôi xin ngỏ lời như sau:

An Earnest Appeal—Lời Kêu Gọi Khẩn Thiết

My brother, you have lost by death one whom you loved dearly—one who perhaps was all the world to you; and so to you that world seems empty, and life no longer worth the living. You feel that joy has left you for ever—that existence can be for you henceforth nothing but hopeless sadness—naught but one aching longing for “the touch of a vanished hand and the sound of a voice that is still”. You are thinking chiefly of yourself and your intolerable loss; but there is also another sorrow. Your grief is aggravated by your un­certainty as to the present condition of your be­loved; you feel that he has gone you know not where. You hope earnestly that all is well with him, but when you look upward all is void; when you cry, there is no answer. And so despair and doubt overwhelm you, and make a cloud that hides from you the Sun which never sets.

Huynh đệ của tôi, bạn đã mất bởi cái chết một người mà bạn yêu thiết—một người có lẽ từng là cả thế giới đối với bạn; và thế nên với bạn, thế giới đó dường như rỗng không, và đời sống không còn đáng sống nữa. Bạn cảm thấy niềm vui đã rời bỏ bạn mãi mãi—rằng từ nay sự sống đối với bạn chỉ còn là nỗi buồn vô vọng—chẳng là gì ngoài một khắc khoải nhức nhối vì “bàn tay đã khuất chạm khẽ” và “âm thanh của một giọng nói nay đã im lặng”. Bạn đang nghĩ chủ yếu về chính mình và mất mát không sao chịu nổi của bạn; nhưng còn có một nỗi buồn khác nữa. Sầu khổ của bạn bị tăng nặng bởi sự bất định về tình trạng hiện tại của người thương; bạn cảm thấy y đã đi đâu, bạn không biết. Bạn chân thành hy vọng mọi sự đều tốt đẹp với y, nhưng khi ngước nhìn lên chỉ thấy trống không; khi bạn kêu gào, chẳng có câu đáp lời. Và thế là tuyệt vọng và hoài nghi trùm lấp bạn, tạo nên một đám mây che khuất Mặt Trời chẳng bao giờ lặn.

Your feeling is most natural; I who write under­stand it perfectly, and my heart is full of sympathy for all those who are afflicted as you are. But I hope that I can do more than sympathize; I hope that I can bring you help and relief. Such help and relief have come to thousands who were in your sad case. Why should they not come to you also?

Cảm xúc của bạn là điều tự nhiên nhất; tôi, người đang viết dòng này, hiểu rõ nó, và trái tim tôi tràn đầy cảm thông với tất cả những ai đau khổ như bạn. Nhưng tôi hy vọng mình có thể làm hơn cả việc cảm thông; tôi hy vọng có thể mang đến cho bạn sự trợ giúp và niềm khuây khỏa. Trợ giúp và khuây khỏa như thế đã đến với hàng ngàn người vốn ở trong cảnh ngộ buồn bã của bạn. Tại sao chúng lại không đến với bạn?

You say: “How can there be relief or hope for me?”

Bạn nói: “Làm sao có thể có khuây khỏa hay hy vọng cho tôi?”

There is the hope of relief for you because your sorrow is founded on misapprehension; you are grieving for something which has not really happened. When you understand the facts you will cease to grieve.

Có hy vọng và khuây khỏa cho bạn vì nỗi sầu của bạn đặt nền trên sự hiểu lầm; bạn đang đau buồn vì một điều vốn thực ra chưa hề xảy ra . Khi bạn hiểu các sự kiện , bạn sẽ thôi không còn sầu khổ.

You answer: “My loss is a fact. How can you help me—unless, indeed, you give me back my dead?”

Bạn đáp: “Mất mát của tôi là một sự kiện . Ông giúp được gì cho tôi—trừ phi, thật vậy, ông trả lại cho tôi người đã khuất?”

I understand your feeling perfectly; yet bear with me for awhile, and try to grasp three main propositions which I am about to put before you—at first merely as broad statements, and then in convincing detail.

Tôi hiểu trọn vẹn cảm xúc của bạn; tuy vậy, xin bạn nhẫn nại đôi chút và cố nắm bắt ba mệnh đề chính mà tôi sắp trình bày—ban đầu như những mệnh đề khái quát, rồi sau đó là những chi tiết thuyết phục.

Your loss is only an apparent fact—apparent from your point of view. I want to bring you to another view-point. Your suffering is the result of a great delusion—of ignorance of Nature’s law; let me help you on the road towards knowledge by explaining a few simple truths which you can study further at your leisure.

Mất mát của bạn chỉ là một sự kiện bề ngoài —bề ngoài từ lập trường của bạn. Tôi muốn đưa bạn đến một điểm nhìn khác. Khổ đau của bạn là kết quả của một ảo tưởng lớn—là do không biết định luật của Tự Nhiên; hãy để tôi giúp bạn đi trên con đường hướng đến tri thức bằng cách giải thích vài chân lý đơn giản mà bạn có thể thong thả học hỏi thêm.

You need be under no uneasiness or un­certainty with regard to the condition of your loved one, for the life after death is no longer a mystery. The world beyond the grave exists under the same natural laws as this which we know, and has been explored and examined with scientific accuracy.

Bạn không cần phải bồn chồn hay bất định gì về tình trạng của người thân yêu, vì đời sống sau khi chết không còn là điều huyền bí nữa. Thế giới bên kia nấm mồ tồn tại theo những định luật tự nhiên giống hệt như thế giới chúng ta quen biết, và đã được thám sát, khảo cứu với độ chính xác của khoa học.

You must not mourn, for your mourning does harm to your loved one. If you can once open your mind to the truth, you will mourn no more.

Bạn không nên than khóc, vì sự than khóc của bạn gây hại cho người thương. Nếu một lần bạn mở tâm trí mình ra với chân lý, bạn sẽ không còn than khóc.

Before you can understand your lost friend’s condition you must understand your own. Try to grasp the fact that you are an immortal being, immortal because you are divine in essence—because you are a spark from God’s own Fire; that you lived for ages before you put on this vesture which you call a body, and that you will live for ages after it has crumbled into dust. “God made man to be an image of His own eternity.” This is not a guess or a pious belief, it is a definite scientific fact, capable of proof, as you may see from the literature of the subject if you will take the trouble to read it. What you have been considering as your life is in truth only one day of your real life as a soul, and the same is true of your beloved; therefore, he is not dead—it is only his body that is cast aside.

Trước khi bạn có thể hiểu tình trạng của người bạn đã mất, bạn phải hiểu chính mình. Hãy cố nắm bắt sự thật rằng bạn là một hữu thể bất tử, bất tử vì về bản thể bạn là thiêng liêng—vì bạn là một tia lửa từ Lửa của Chính Thượng đế; rằng bạn đã sống suốt nhiều thời đại trước khi khoác lên mình tấm áo mà bạn gọi là thân xác này, và rằng bạn sẽ còn sống suốt nhiều thời đại sau khi nó đã tan thành bụi đất. “Thượng đế đã dựng nên con người để làm ảnh tượng của sự vĩnh hằng riêng của Ngài.” Đây không phải là một phỏng đoán hay một niềm tin sùng kính, mà là một sự thật khoa học xác quyết, có thể chứng minh, như bạn có thể thấy từ các trước tác liên quan nếu chịu khó đọc. Điều mà bạn vẫn xem là đời sống của mình thực ra chỉ là một ngày của đời sống thật của bạn như một linh hồn, và điều đó cũng đúng với người thân yêu của bạn; bởi vậy, y không hề chết—chỉ có thân xác của y là bị trút bỏ.

Yet you must not, therefore, think of him as a mere bodiless breath, as in any way less himself than he was before. As St. Paul said long ago: “There is a natural body, and there is a spiritual body.” People misunderstand that remark, because they think of these bodies as successive, and do not realize that we all of us possess both of them even now. You, as you read this, have both a “natural” or physical body, which you can see, and another inner body, which you cannot see, that which St. Paul called the “spiritual”. And when you lay aside the physical, you still retain the other finer vehicle; you are clothed in your “spiritual body”. If we symbolize the physical body as an overcoat or cloak, we may think of this spiritual body as the ordinary house-coat which the man wears underneath that outer garment.

Tuy vậy, đừng vì thế mà nghĩ về y như một hơi thở không thân thể, như theo bất kỳ cách nào đó mà y kém là chính mình hơn trước. Như Thánh Phao-lô đã nói từ lâu: “Có thân thể tự nhiên, và có thân thể tinh thần.” Người ta hiểu lầm lời nói đó, vì họ nghĩ về những thân thể này như là kế tiếp nhau, và không nhận ra rằng tất cả chúng ta hiện nay đều đang sở hữu cả hai. Bạn, trong khi đọc điều này, vừa có một thân thể “tự nhiên” hay thân xác mà bạn có thể nhìn thấy, vừa có một thân thể bên trong khác mà bạn không thấy được, điều mà Thánh Phao-lô gọi là “thể tinh thần”. Và khi bạn đặt thân xác sang một bên, bạn vẫn còn giữ vận cụ tinh tế kia; bạn khoác trên mình “thể tinh thần” của bạn. Nếu ví thân xác như một chiếc áo khoác ngoài, ta có thể xem “thể tinh thần” này như chiếc áo mặc nhà thường nhật mà người ta khoác bên dưới tấm áo ngoài.

If that idea is by this time clear to you, let us advance another step. It is not only at what you call death that you doff that overcoat of dense matter; every night when you go to sleep you slip it off for awhile, and roam about the world in your spiritual body—invisible as far as this dense world is concern­ed, but clearly visible to those friends who happen to be using their spiritual bodies at the same time. For each body sees only that which is on its own level; your physical body sees only other physical bodies, your spiritual body sees only other spiritual bodies. When you resume your overcoat—that is to say, when you come back to your denser body. and wake up (or down) to this lower world—it occasionally happens that you have some recollec­tion, though usually considerably distorted, of what you have seen when you were away elsewhere; and then you call it a vivid dream. Sleep, then, may be described as a kind of temporary death, the difference being that you do not withdraw yourself so entirely from your overcoat as to be unable to resume it. It follows that when you sleep, you enter the same condition as that into which your beloved has passed. What that condition is I will now proceed to explain.

Nếu đến đây ý niệm đó đã rõ đối với bạn, chúng ta hãy bước thêm một bước nữa. Không chỉ vào lúc bạn gọi là chết bạn mới cởi chiếc áo khoác của chất liệu đậm đặc ấy; mỗi đêm khi bạn đi ngủ bạn đều tạm trút nó xuống, và dạo bước khắp thế giới trong thể tinh thần của mình—vô hình đối với thế giới đậm đặc này, nhưng lại hiện rõ với những bạn bè đang sử dụng thể tinh thần của họ cùng lúc. Vì mỗi thể chỉ nhìn thấy cái gì ở trên cấp độ của chính nó; thân xác của bạn chỉ thấy những thân xác khác, còn thể tinh thần của bạn chỉ thấy những thể tinh thần khác. Khi bạn mặc lại chiếc áo khoác—tức là khi bạn trở về với thân thể đậm đặc hơn của mình và thức dậy (hay “tụt xuống”) thế giới thấp này—đôi khi sẽ xảy ra là bạn có một ít hồi ức, dẫu thường bị bóp méo đáng kể, về những điều bạn đã thấy khi rời xa nơi khác; và bạn gọi đó là một giấc mơ sống động. Vậy thì, giấc ngủ có thể được mô tả như một thứ cái chết tạm thời, chỉ khác ở chỗ bạn không rút mình ra khỏi chiếc áo khoác đến mức không thể khoác lại nó. Do đó, khi bạn ngủ, bạn nhập vào cùng một tình trạng như tình trạng mà người thương của bạn đã bước vào. Tình trạng ấy là gì, giờ tôi sẽ giải thích.

Many theories have been current as to the life after death—most of them based upon misunderstandings of ancient scriptures. At one time the horrible dogma of what was called everlasting punishment was almost universally accepted in Europe, though none but the hopelessly ignorant believe it now. It was based upon a mistranslation of certain words attributed to Christ, and it was maintained by the mediaeval monks as a convenient bogey with which to frighten the ignorant masses into well-doing. As the world advanced in civiliza­tion, men began to see that such a tenet was not only blasphemous, but ridiculous. Modern religionists have, therefore, replaced it by somewhat saner suggestions; but they are usually quite vague and far from the simplicity of the truth.

Nhiều thuyết đã lưu hành về đời sống sau khi chết—phần lớn dựa trên những sự hiểu sai các thánh thư cổ. Có thời, giáo điều khủng khiếp gọi là hình phạt đời đời hầu như được chấp nhận rộng khắp ở Âu châu, dẫu nay chỉ còn những kẻ vô minh cùng cực mới tin. Nó dựa trên một sự dịch sai vài lời được gán cho Đức Christ, và đã được các tu sĩ thời trung cổ duy trì như một con ngáo ộp tiện lợi để dọa đám đông thất học phải ăn ở cho phải. Khi thế giới tiến bộ trong văn minh, con người bắt đầu thấy rằng tín điều như thế không chỉ là phạm thượng mà còn lố bịch. Các tôn giáo hiện đại vì vậy đã thay thế nó bằng những đề nghị có phần tỉnh táo hơn; nhưng chúng thường rất mơ hồ và cách xa sự giản dị của chân lý.

All the Churches have complicated their doctrines because they insisted upon starting with an absurd and unfounded dogma of a cruel and angry Deity who wished to injure His people. They import this dreadful idea from primitive Judaism, instead of accepting the teaching of Christ that God is a loving Father. People who have grasped the fundamental fact that God is Love, and that His universe is governed by wise eternal laws, have begun to realize that those laws must be obeyed in the world beyond the grave just as much as in this. But even yet beliefs are vague. We are told of a far-away heaven, of a day of judgement in the remote future, but little information is given us as to what happens here and now. Those who teach do not even pretend to have any personal experience of after-death conditions. They tell us not what they themselves know, but only what they have heard from others. How can that satisfy us?

Mọi Giáo hội đều làm phức tạp các giáo điều của mình bởi vì họ khăng khăng khởi đi từ một giáo điều vô lý và vô căn: một Thần linh tàn nhẫn và giận dữ muốn làm hại dân Ngài. Họ mang theo ý niệm đáng sợ này từ Do Thái giáo nguyên sơ, thay vì chấp nhận giáo huấn của Đức Christ rằng Thượng đế là một Người Cha đầy Tình Thương. Những ai đã nắm bắt sự thật căn bản rằng Thượng đế là Tình Thương, và vũ trụ của Ngài được cai quản bởi những định luật vĩnh cửu, khôn ngoan, đã bắt đầu nhận ra rằng những định luật ấy phải được tuân theo ở thế giới bên kia nấm mồ cũng như ở đây. Nhưng cho đến giờ những niềm tin vẫn mơ hồ. Người ta nói với chúng ta về một thiên đường xa xăm, về một ngày phán xét trong tương lai xa, nhưng rất ít thông tin được đưa ra về những gì xảy ra ngay bây giờ, tại đây. Những người giảng dạy thậm chí không hề giả vờ có bất kỳ kinh nghiệm cá nhân nào về các điều kiện hậu tử. Họ không nói với chúng ta điều họ tự biết, mà chỉ điều họ nghe từ kẻ khác. Làm sao như thế có thể khiến chúng ta thỏa mãn?

The truth is that the day of blind belief is past; the era of scientific knowledge is with us, and we can no longer accept ideas unsustained by reason and common-sense. There is no reason why scientific methods should not be applied to the elucidation of problems which in earlier days were left entirely to religion; indeed, such methods have been applied by the Theosophical Society and the Society for Psychical Research; and it is the result of those investigations, made in a scientific spirit, that I wish to place before you now.

Sự thật là thời của niềm tin mù quáng đã qua; kỷ nguyên của tri thức khoa học đang ở cùng chúng ta, và chúng ta không còn có thể chấp nhận những ý tưởng không được nâng đỡ bởi lý trí và lẽ thường. Không có lý do gì các phương pháp khoa học lại không được áp dụng để làm sáng tỏ những vấn đề mà trong thời trước từng được phó mặc hoàn toàn cho tôn giáo; thật vậy, những phương pháp như thế đã được áp dụng bởi Hội Thông Thiên Học và Hội Nghiên cứu Tâm Linh; và chính kết quả của những khảo cứu ấy, được tiến hành với tinh thần khoa học, là điều tôi muốn trình bày với bạn bây giờ.

Let us consider the life which the dead are leading. In it there are many and great variations, but at least it is almost always happier than the earth-life. As an old scripture puts it: “The souls of the righteous are in the hand of God, and there shall no torment touch them. In the sight of the unwise they seem to die, and their departure is taken for misery, and their going from us to be utter destruction; but they are in peace.”* We must disabuse ourselves of antiquated theories; the dead man does not leap suddenly into an impossible heaven, nor does he fall into a still more impossible hell. There is indeed no hell in the old wicked sense of the word; and there is no hell anywhere in any sense except such as a man makes for himself. Try to understand clearly that death makes no change in the man; he does not suddenly become a great saint or angel, nor is he suddenly endowed with all the wisdom of the ages; he is just the same man the day after his death as he was the day before it, with the same emotions, the same dis­position, the same intellectual development. The only difference is that he has lost the physical body.

Chúng ta hãy xét đời sống mà những người đã khuất đang sống. Trong đó có nhiều biến thiên lớn, nhưng ít nhất nó hầu như luôn hạnh phúc hơn đời sống trần gian. Như một thánh thư xưa nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thượng đế, và không hình khổ nào chạm đến họ. Trước mắt kẻ dại dột, họ dường như chết, và cuộc ra đi của họ bị cho là khổ sở, và việc rời xa chúng ta tưởng như hủy diệt hoàn toàn; nhưng họ được bình an.”* Chúng ta phải gạt bỏ những thuyết cũ kỹ; người đã khuất không đột ngột nhảy vào một thiên đường bất khả, cũng không rơi vào một địa ngục càng bất khả hơn. Quả thật chẳng có địa ngục theo nghĩa độc ác xưa kia của từ ấy; chẳng có địa ngục nào ở đâu theo bất cứ nghĩa nào, ngoại trừ cái mà con người tự tạo cho mình. Hãy cố hiểu cho tỏ rằng cái chết không làm thay đổi con người; y không đột nhiên trở thành một đại thánh hay thiên sứ, cũng không bất thần được ban cho tất cả minh triết của muôn đời; y là cùng một con người như ngày hôm sau khi chết y vốn là vào ngày hôm trước, với những xúc cảm y như, với khí chất y như, với trình độ trí tuệ y như. Khác biệt duy nhất là y đã mất thân xác.

__________

__________

*Wisdom of Solomon, iii, 1.

*Khôn Ngoan của Salômôn, iii, 1.

In this spiritual world no money is necessary, food and shelter are no longer needed, for its glory and its beauty are free to all its inhab­itants without money and without price. In its rarefied matter, in the spiritual body, a man can move hither and thither as he will; if he loves the beauteous landscape of forest and sea and sky, he may visit at his pleasure all earth’s fairest spots; if he loves art he may spend the whole of his time in the contemplation of the masterpieces of all the greatest painters, and may himself produce masterpieces by the exercise of the wonderful magic of his thought-power; if he be a musician, he may pass from one to the other of the world’s chiefest orchestras, he may spend his time in listening to the most celebrated performers, or with the willing aid of the great Angels of music he may himself give forth such strains as are never heard on earth.

Trong thế giới tinh thần này, tiền bạc không cần thiết, lương thực và chỗ ở không còn cần nữa, vì vinh quang và vẻ đẹp của nó đều tự do cho mọi cư dân, không cần tiền cũng chẳng phải mua. Trong chất liệu loãng nhẹ của nó, trong thể tinh thần, con người có thể di chuyển chỗ này chỗ kia theo ý muốn; nếu y yêu những phong cảnh tuyệt mỹ của rừng, biển và trời, y có thể tùy nghi viếng thăm mọi nơi đẹp nhất trên trái đất; nếu y yêu nghệ thuật, y có thể dành trọn thời gian cho sự chiêm ngưỡng các kiệt tác của mọi danh họa vĩ đại, và chính y cũng có thể tạo nên kiệt tác bằng cách vận dụng phép màu nhiệm lạ lùng của năng lực tư tưởng; nếu y là một nhạc sĩ, y có thể đi từ dàn nhạc trứ danh này sang dàn nhạc trứ danh khác của thế giới, có thể dành thời gian lắng nghe những nghệ sĩ trứ danh nhất biểu diễn, hoặc, với sự trợ lực sẵn lòng của các thiên thần của âm nhạc, chính y có thể trổi lên những khúc điệu chưa từng được nghe trên trần thế.

Whatever has been his particular delight on earth—his hobby, as we should say—he has now the fullest liberty to devote himself to it entirely and to follow it out to the utmost, provided only that its enjoyment is that of the intellect or of the higher emotions—that its gratification does not necessitate the possession of a physical body. Thus it will be seen at once that all rational and decent men are infinitely happier after death than before it, for they have ample time not only for pleasure, but for really satisfactory progress along the lines which interest them most.

Bất cứ điều gì từng là thú vui riêng biệt của y trên đời—như chúng ta vẫn nói, sở thích—thì giờ đây y được tự do trọn vẹn để tận hiến cho nó hoàn toàn và lần theo nó đến tận cùng, miễn là sự thưởng thức ấy thuộc về trí tuệ hay các cảm xúc cao thượng—tức việc thỏa mãn nó không cần đến một thân xác. Do đó có thể thấy ngay rằng mọi người có lý trí và phẩm hạnh đều hạnh phúc vô ngần sau khi chết hơn trước đó, vì họ có dư dả thời gian không chỉ cho niềm vui, mà còn cho tiến bộ thật sự thỏa đáng dọc theo những đường hướng khiến họ quan tâm nhất.

Are there then none in that world who are unhappy? Yes, for that life is necessarily a sequel to this, and the man is in every respect the same man as he was before he left his body. If his enjoyments in this world were low and coarse, he will find himself unable in that world to gratify his desires. A drunkard will suffer from unquenchable thirst, having no longer a body through which it can be assuaged; the glutton will miss the pleasures of the table; the miser will no longer find gold for his gathering. The man who has yielded himself during earth-life to unworthy passions will find them still gnawing at his vitals. The sensualist still palpitates with cravings that can never now be satisfied; the jealous man is still torn by his jealousy, all the more that he can no longer interfere with the action of its object. Such people as these unquestionably do suffer—but only such as these, only those whose proclivities and passions have been coarse and physical in their nature. And even they have their fate absolutely in their own hands. They have but to conquer these incli­nations, and they are at once free from the suffering which such longings entail. Remember always that there is no such thing as punishment; there is only the natural result of a definite cause; so that you have only to remove the cause and the effect ceases—not always immediately, but as soon as the energy of the cause is exhausted.

Vậy có ai trong thế giới ấy bất hạnh chăng? Có, vì đời sống đó tất yếu là sự tiếp nối của đời này, và con người, ở mọi phương diện, vẫn là cùng một con người như trước khi y rời thân xác. Nếu các thú vui của y ở thế gian thấp hèn và thô lậu, y sẽ thấy mình bất lực trong thế giới kia để thỏa mãn các dục vọng. Kẻ nghiện rượu sẽ chịu đựng một cơn khát không nguôi vì y không còn một thân thể qua đó có thể giải tỏa; kẻ phàm ăn sẽ thiếu vắng lạc thú ở bàn tiệc; kẻ bủn xỉn sẽ chẳng còn tìm được vàng để tích cóp. Kẻ đã buông thân mình cho những dục vọng bất xứng trong đời trần sẽ thấy chúng vẫn còn đang gặm nhấm tận cốt tủy. Kẻ trụy lạc vẫn sôi sục những thèm khát nay không sao thỏa mãn; kẻ ghen tuông vẫn bị xâu xé vì ghen, càng dữ dội hơn bởi y không còn có thể can thiệp vào hành động của đối tượng ghen tuông. Những hạng người như thế chắc chắn là chịu khổ—nhưng chỉ những hạng người như thế, chỉ những ai có khuynh hướng và đam mê thô lậu, mang bản chất trần tục. Và ngay cả họ cũng hoàn toàn nắm số phận trong tay mình. Họ chỉ cần chế ngự những khuynh hướng ấy, là lập tức được giải thoát khỏi nỗi khổ do những thèm muốn ấy kéo theo. Luôn luôn hãy nhớ rằng không hề có cái gọi là trừng phạt; chỉ có hậu quả tự nhiên của một nguyên nhân xác định; thế nên bạn chỉ cần loại bỏ nguyên nhân thì hệ quả sẽ chấm dứt—không phải lúc nào cũng tức thời, nhưng ngay khi năng lượng của nguyên nhân đã kiệt.

“Do the dead then see us?” it may be asked; “do they hear what we say?” Undoubtedly they see us in the sense that they are always conscious of our presence, that they know whether we are happy or miserable; but they do not hear the words that we say, nor are they conscious in detail of our physical actions. A moment’s thought will show us what are the limits of their power to see. They are inhabiting what we have called the “spiritual body”—a body which exists in ourselves, and is, as far as appearance goes, an exact duplicate of the physical body; but while we are awake our consciousness is focussed exclusively in the latter. We have already said that just as only physical matter appeals to the physical body, so only the matter of the spiritual world is discernible by that higher body. Therefore, what the dead man can see of us is only our spiritual body, which, however, he has no difficulty in recognizing.

“Vậy những người chết có thấy chúng ta không?” có thể có người hỏi; “họ có nghe điều chúng ta nói không?” Hẳn nhiên họ thấy chúng ta theo nghĩa rằng họ luôn ý thức sự hiện diện của chúng ta, rằng họ biết chúng ta vui hay buồn; nhưng họ không nghe những lời chúng ta nói, cũng không ý thức chi tiết về các hành động hồng trần của chúng ta. Chỉ cần một thoáng nghĩ là thấy được giới hạn của khả năng thấy của họ. Họ đang cư ngụ trong điều mà chúng ta gọi là “thể tinh thần”—một thể hiện hữu trong chính chúng ta, và, xét về diện mạo, là bản sao y hệt thân xác; nhưng khi chúng ta thức, tâm thức của ta tập trung độc nhất vào thân xác. Chúng ta đã nói rằng cũng như chỉ có vật chất hồng trần mới tác động lên thân xác, thì chỉ có chất liệu của thế giới tinh thần mới được thể cao hơn kia nhận biết. Vậy nên, điều người đã khuất thấy ở chúng ta chỉ là thể tinh thần của ta, dẫu vậy, họ không gặp khó khăn gì trong việc nhận ra ta.

When we are what we call asleep, our conscious­ness is using that vehicle, and so to the dead man we are awake; but when we transfer our conscious­ness to the physical body, it seems to the dead man that we fall asleep, because though he still sees us, we are no longer paying any attention to him to able to communicate with him. When a living-friend falls asleep we are quite aware of his presence, but for the moment we cannot communicate with him unless we arouse him. Precisely similar is the condition of the living man (while he is awake) in the eyes of the dead. Because we cannot usually remember in our waking consciousness what we have seen during sleep, we are under the delusion that we have lost our dead; but they are never under the delusion that they have lost us, because they can see us all the time. To them the only differ­ence is that we are with them during the night and away from them during the day; whereas, when they were on earth with us, exactly the reverse was the case.

Khi chúng ta ở trong điều ta gọi là giấc ngủ, tâm thức của ta đang sử dụng vận cụ ấy, và vì thế đối với người đã khuất thì ta đang thức; nhưng khi ta chuyển tâm thức về thân xác, đối với người đã khuất dường như ta chìm vào giấc ngủ, bởi tuy họ vẫn thấy ta, chúng ta không còn chú tâm đến họ hay có thể giao tiếp với họ nữa. Khi một bạn sống của ta ngủ thiếp, chúng ta hoàn toàn biết sự hiện diện của bạn ấy, nhưng lúc đó ta không thể giao tiếp với bạn ấy trừ phi đánh thức bạn. Tình trạng của người đang sống (khi họ thức) dưới mắt người đã khuất cũng giống hệt như vậy. Bởi vì chúng ta thường không nhớ được trong ý thức lúc thức những gì đã thấy trong giấc ngủ, chúng ta lầm tưởng rằng đã mất người thân; nhưng họ thì chẳng bao giờ lầm rằng họ đã mất chúng ta, vì họ có thể thấy chúng ta mọi lúc. Với họ, khác biệt duy nhất là chúng ta ở cùng họ vào ban đêm và rời xa họ vào ban ngày; trong khi khi họ còn trên trần với ta thì tình trạng lại y như ngược lại.

All life is evolving, for evolution is God’s law; and man grows slowly and steadily along with the rest. What is commonly called man’s life is, in reality, only one day of his true and longer life. Just as in this ordinary life man rises each morning, puts on his clothes, and goes forth to do his daily work, and then when night descends he lays aside those clothes and takes his rest, and then again on the following morning rises afresh to take up his work at the point where he left it—just so when the man comes into the physical life he puts upon him the vesture of the physical body, and when his work-time is over he lays aside that vesture again in what you call death, and passes into the more restful condition which I have described; and when that rest is over he puts upon himself once more the garment of the body, and goes forth yet again to begin a new day of physical life, taking up his evolution at the point where he left it. And this long life of his lasts until he attains that goal of divinity which God means him to attain.

Mọi sự sống đều đang thăng thượng tiến hóa, vì tiến hóa là định luật của Thượng đế; và con người lớn lên chậm rãi mà vững bền cùng với muôn loài. Cái thường được gọi là đời người thực ra chỉ là một ngày trong đời thật và dài hơn của y. Cũng như trong đời thường, mỗi buổi sáng con người thức dậy, khoác áo, bước ra làm công việc hằng ngày, rồi khi đêm xuống thì cởi áo ra nghỉ ngơi, và sáng hôm sau lại thức dậy để nối lại công việc ngay điểm vừa bỏ dở—thì cũng vậy, khi con người đến với đời sống hồng trần, y khoác lên mình tấm áo là thân xác, và khi thời gian lao tác kết thúc, y lại trút tấm áo ấy xuống trong điều mà bạn gọi là cái chết, và sang tình trạng an nghỉ hơn mà tôi đã mô tả; và khi kỳ nghỉ ấy chấm dứt, y khoác lên mình một lần nữa chiếc áo của thân xác, và lại bước ra khởi đầu một ngày mới của đời sống trần gian, tiếp tục tiến hóa của mình ở đúng điểm vừa bỏ dở. Và đời sống dài lâu ấy của y kéo dài cho đến khi y đạt đến đích của thần tính mà Thượng đế định cho y đạt tới.

One of the saddest cases of apparent loss is when a child passes away from this physical world and its parents are left to watch its empty place, to miss its loving prattle. What then happens to children in this strange new spiritual world? Of all those who enter it, they are perhaps the happiest and the most entirely and immediately at home. Remember that they do not lose the parents, the brothers, the sisters, the playmates whom they love; it is simply that they have them as companions during what we call the night instead of the day; so that they have no feeling of loss or separation.

Một trong những trường hợp mất mát bề ngoài buồn thảm nhất là khi một đứa trẻ rời thế giới hồng trần và cha mẹ nó còn ở lại nhìn chỗ trống của con, nhớ tiếng ríu rít yêu thương của con. Điều gì sẽ xảy ra cho trẻ thơ trong thế giới tinh thần mới lạ ấy? Trong tất cả những ai bước vào đó, có lẽ chúng là hạnh phúc nhất và là những người hoàn toàn, lập tức thấy như ở nhà nhiều nhất. Hãy nhớ rằng chúng chẳng hề mất cha mẹ, anh chị em, bạn chơi mà chúng yêu; chỉ là chúng có họ làm bạn vào điều mà chúng ta gọi là ban đêm thay vì ban ngày ; vì vậy chúng không hề có cảm giác mất mát hay chia lìa.

During our day they are never left alone, for there as here, children gather together and play together—play in Elysian fields full of rare delights. We know how here a child enjoys “making believe”, pretending to be this character or that in history—playing the principal parts in all sorts of wonderful fairy stories or tales of adventure. In the finer matter of that higher world thoughts take to themselves visible form, and so the child who imagines himself a certain hero promptly takes on temporarily the actual appearance of that hero. If he wishes for an enchanted castle, his thought can build that enchanted castle. If he desires an army to command, at once that army is there. And so among the dead the hosts of children are always full of joy—indeed, often even riotously happy.

Trong ban ngày của chúng ta, chúng không bao giờ bị bỏ mặc một mình, vì ở đó cũng như ở đây, trẻ con tụ lại với nhau và chơi đùa cùng nhau—chơi trong những cánh đồng Elysium đầy ắp thú vui hiếm có. Chúng ta biết ở đây một đứa trẻ thích thú thế nào khi “giả bộ”, tưởng tượng mình là nhân vật này hay nhân vật kia trong lịch sử—đóng vai chính trong đủ loại truyện cổ tích hay chuyện phiêu lưu kỳ diệu. Trong chất liệu tinh tế của thế giới cao ấy, tư tưởng mang lấy hình dạng hữu hình, nên đứa trẻ hình dung mình là một anh hùng nào đấy sẽ lập tức tạm thời mang diện mạo thực sự của anh hùng ấy. Nếu nó muốn một tòa lâu đài huyền phép, tư tưởng của nó có thể dựng nên tòa lâu đài huyền phép đó. Nếu nó muốn một đạo quân để chỉ huy, lập tức đạo quân ấy hiện ra. Và như thế, giữa những người đã khuất, đoàn lũ trẻ thơ luôn luôn đầy ắp niềm vui—thậm chí thường là hân hoan rộn rã.

If you have been able to assimilate what I have already said, you will now understand that, however natural it may be for us to feel sorrow at the death of our relatives, that sorrow is an error and an evil, and we ought to overcome it. There is no need to sorrow for them, for they have passed into a far wider and happier life. If we sorrow for our own fancied separation from them, we are, in the first place, weeping over an illusion, for in truth they are not separated from us; and, secondly, we are acting selfishly, because we are thinking more of our own apparent loss than of their great and real gain. We must strive to be utterly unselfish, as indeed all love should be. We must think of them and not of ourselves—not of what we wish or we feel, but solely of what is best for them and most helpful to their progress.

Nếu bạn đã có thể tiêu hóa những điều tôi nói, giờ bạn sẽ hiểu rằng, cho dù tự nhiên đến đâu khi chúng ta cảm thấy sầu khổ trước cái chết của thân quyến, thì nỗi sầu ấy là một lầm lỗi và một điều ác, và chúng ta nên vượt thắng nó. Không cần buồn cho họ , vì họ đã bước vào một đời sống rộng lớn và hạnh phúc hơn nhiều. Nếu chúng ta sầu khổ vì tưởng mình chia lìa họ, thì trước hết, chúng ta đang khóc vì một ảo ảnh, bởi sự thật là họ không hề bị tách lìa khỏi chúng ta; và thứ đến, chúng ta đang hành xử ích kỷ, vì chúng ta nghĩ nhiều hơn về mất mát bề ngoài của mình hơn là lợi lạc lớn lao và thật sự của họ. Chúng ta phải nỗ lực hoàn toàn vô ngã, như lẽ ra mọi tình yêu đều phải vậy. Chúng ta phải nghĩ về họ chứ không nghĩ đến mình—không phải điều ta muốn hay ta cảm, mà chỉ điều gì tốt nhất cho họ và hữu ích nhất cho tiến bộ của họ.

If we mourn, if we yield to gloom and depression, we throw out from ourselves a heavy cloud which darkens the sky for them. Their very affection for us, their very sympathy for us, lay them open to this direful influence. We can use the power which that affection gives us to help them instead of hindering them, if we only will; but to do that requires courage and self-sacrifice. We must forget ourselves utterly in our earnest and loving desire to be of the greatest possible assistance to our dead. Every thought, every feeling of ours influences them; let us then take care that there shall be no thought which is not broad and helpful, ennobling and purifying.

Nếu chúng ta than khóc, nếu chúng ta buông mình cho u ám và phiền não, chúng ta phát ra từ chính mình một đám mây nặng trĩu che tối bầu trời của họ. Chính tình yêu họ dành cho ta, chính sự đồng cảm của họ đối với ta, mở họ ra trước ảnh hưởng khủng khiếp ấy. Chúng ta có thể dùng quyền năng mà tình yêu ấy ban cho để giúp họ thay vì cản trở họ, nếu chúng ta thật tâm muốn; nhưng để làm vậy cần có can đảm và sự hy sinh. Chúng ta phải quên mình hoàn toàn trong ước muốn khẩn thiết và đầy yêu thương để trở nên sự trợ lực lớn nhất có thể cho người đã khuất. Mọi tư tưởng, mọi cảm xúc của chúng ta đều ảnh hưởng đến họ; vậy hãy cẩn trọng để chẳng có một tư tưởng nào mà không quảng đại và hữu ích, không cao thượng và thanh lọc.

If it is probable that they may be feeling some anxiety about us, let us be persistently cheerful, that we may assure them that they have no need to feel trouble on our account. If, during physical life, they have been without detailed and accurate information as to the life after death, let us endeav­our at once to assimilate such information ourselves, and to pass it on in our nightly conversations with them. Since our thoughts and feelings are so readily mirrored in theirs, let us see to it that those thoughts and feelings are always elevating and encouraging. “If ye know these things, happy are ye if ye do them.”*

Nếu có khả năng rằng họ đang lo lắng về chúng ta, hãy bền bĩ vui tươi, để chúng ta có thể trấn an họ rằng chẳng cần phải bận lòng vì chúng ta. Nếu trong đời sống hồng trần, họ thiếu thông tin chi tiết và xác thực về đời sống sau khi chết, hãy nỗ lực ngay để chúng ta tự hấp thu những hiểu biết như thế, và truyền đạt chúng trong những cuộc đàm thoại ban đêm với họ. Vì tư tưởng và cảm xúc của chúng ta rất dễ phản chiếu trong họ, hãy đảm bảo rằng những tư tưởng và cảm xúc ấy luôn cao vời và khích lệ. “Nếu các ngươi biết những điều ấy, phúc cho các ngươi, miễn là các ngươi làm theo.”*

__________

__________

*St. John, xiii, 17.

* Thánh Gioan, xiii, 17.

Not only should we abstain from mourning; we should go further than that; we should earnestly try to develop within ourselves positive joyousness. It is the duty of every man to be happy, that he may radiate happiness on others; and most especial­ly is that true of those who have dear friends who have recently passed over into the higher life. The best anodyne for sorrow is active work for others; and that also is the surest way to peace and joy.

Chẳng những chúng ta nên kiêng than khóc; chúng ta còn nên tiến xa hơn; chúng ta nên cố gắng chân thành phát triển trong mình niềm hoan lạc tích cực. Bổn phận của mỗi người là hạnh phúc, để có thể tỏa chiếu hạnh phúc đến kẻ khác; và điều ấy càng đúng hơn với những ai có bạn thân mới đây vừa bước qua cõi sống cao hơn. Phương dược xoa dịu tốt nhất cho sầu khổ là công việc tích cực vì người khác; và đó cũng là con đường chắc chắn nhất dẫn đến bình an và hoan lạc.

That great truth we can impress upon these friends of ours, if they do not already know it; for the opportunities for helpful work are greater far in the astral world than in the physical. Among the vast hosts of those whom we call the dead there are many who are bewildered by their surroundings, many who through erroneous religious teaching on earth are in a state of painful uncertainty and even acute terror, many who are causing themselves unnecessary suffering by perpetuating earthly desires and passions in that higher life where there is no assuagement for them. What occupation can be nobler and happier than to help these poor souls from darkness to light, to relieve their sufferings, to explain these things that puzzle them, and to guide their feet into the way of peace?

Chân lý lớn lao ấy chúng ta có thể in sâu nơi những người bạn này, nếu họ chưa biết; vì cơ hội để làm việc ích lợi ở cõi cảm dục lớn lao hơn rất nhiều so với cõi hồng trần. Giữa đoàn lũ mênh mông những người mà chúng ta gọi là kẻ chết, có nhiều người hoang mang vì hoàn cảnh chung quanh, nhiều người do giáo huấn tôn giáo sai lạc ở trần gian mà rơi vào tình trạng bất định đau đớn, thậm chí kinh sợ tột độ, nhiều người tự gây cho mình nỗi khổ không cần thiết bằng cách kéo dài những dục vọng và đam mê trần tục trong đời sống cao hơn nơi không còn có gì để thỏa mãn chúng. Có công việc nào cao quý và hạnh phúc hơn việc giúp những linh hồn tội nghiệp ấy đi từ tối tăm đến ánh sáng, xoa dịu nỗi khổ của họ, giải thích những điều làm họ bối rối, và dẫn bước họ vào con đường bình an?

Into the splendid corps of Invisible Helpers who are ceaselessly engaged in this benevolent activity we can introduce our newly-arrived friends, thus assuring them of happy and useful work during the whole of their stay in this wonderful astral world which God has provided for the training and enjoyment of His people, even though it be but a stage on the way to that still higher realm whose glories eye hath not seen, neither hath it entered into the heart of man to conceive it.

Vào đoàn thể lừng lẫy gồm Những Người Trợ Giúp Vô Hình, những vị không ngừng dấn thân trong hoạt động nhân ái này, chúng ta có thể giới thiệu những người bạn vừa mới tới, nhờ đó bảo đảm cho họ một công việc hạnh phúc và hữu ích suốt cả thời gian lưu trú trong cõi cảm dục kỳ diệu này—cõi mà Thượng đế đã an bài cho việc rèn luyện và hưởng vui của dân Ngài, dẫu nó chỉ là một chặng trên đường đi tới cảnh giới cao hơn nữa—nơi vinh quang mắt chưa hề thấy, lòng người chưa hề nghĩ đến.

Try to comprehend the unity of all; there is one God, and all are one in Him. If we can but bring home to ourselves the unity of that Eternal Love, there will be no more sorrow for us; for we shall realize, not for ourselves alone, but also for those whom we love, that whether we live or die, we are the Lord’s, and that in Him we live and move and have our being, whether it be in this world or in the world to come. The attitude of mourning is a faithless attitude, an ignorant attitude. The more we know, the more fully we shall trust, for we shall feel with utter certainty that we and our dead alike are in the hands of perfect Power and perfect Wisdom, directed by perfect Love.

Hãy cố thấu hiểu sự hợp nhất của muôn loài; chỉ có một Thượng đế, và tất cả đều là một trong Ngài. Nếu chúng ta có thể khắc ghi vào lòng mình sự hợp nhất của Tình Thương Vĩnh Cửu ấy, sẽ không còn sầu khổ cho chúng ta nữa; vì chúng ta sẽ nhận ra, không chỉ cho chính mình, mà cả cho những người ta yêu, rằng dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa, và rằng trong Ngài chúng ta sống, cử động và hiện hữu, dù là ở thế giới này hay ở thế giới sẽ đến. Thái độ than khóc là một thái độ vô tín, một thái độ vô minh. Càng biết nhiều, chúng ta sẽ càng tin cậy trọn vẹn hơn, vì chúng ta sẽ cảm nhận với sự chắc chắn tuyệt đối rằng cả chúng ta lẫn người đã khuất đều ở trong tay Quyền Năng trọn hảo và Minh Triết trọn hảo, được điều hướng bởi Tình Thương trọn hảo.

__________

__________

All taint of grief and mourning we firmly lay aside,

Mọi vết dấu của ưu sầu và than khóc, ta vững vàng gạt sang bên,

Our seeming loss forgetting, since they are glorified.

Quên đi mất mát bề ngoài, vì họ đã được vinh hiển nên.

We know they stand before us and love us as of old;

Ta biết họ đứng trước mặt ta và yêu thương như thuở nào;

God grant we may not fail them, nor let our love grow cold!

Xin Thượng đế cho ta chớ phụ họ, chớ để tình yêu phai nhạt nào!

With heart and soul we trust Thee; Thy love no tongue can tell;

Bằng cả tâm hồn, ta tin cậy nơi Ngài; tình yêu Ngài không môi lưỡi nào kể xiết;

Thou art the All-Commander, Who doest all things well.

Ngài là Đấng Toàn Chỉ Huy, Đấng làm mọi sự đều tốt đẹp hoàn thiện.

__________

__________

Peace To All Beings

Bình an đến với muôn loài

Ode To The Living Dead

Khúc Tụng Ca Gửi Những Người Chết-Vẫn-Sống

Loved ones! though our waking vision

Những người thân yêu! dẫu nhãn quan khi thức tỉnh

Know your forms no more,

Chẳng còn thấy hình dung của các bạn nữa rồi,

Earth’s illusion shall not hold us;

Ảo ảnh cõi trần chẳng thể cầm tù chúng ta mãi;

Well we know your loves enfold us

Ta biết chắc tình yêu các bạn ôm ấp ta mãi mãi

Even as before.

Như thuở xa xôi.

Death? ‘Tis but a stepping forward —

Chết ư? Chỉ là một bước chân tiến tới—

No divorce at all;

Chẳng hề chia ly;

Swifter than of old the meeting,

Cuộc gặp gỡ mau hơn xưa gấp bội,

Warmer, heartier the greeting

Nồng ấm hơn, niềm chào đón phấn khởi

When you hear our call.

Khi các bạn nghe ta gọi tức thì.

And at night, when softest slumber

Và đêm về, khi giấc miên man êm ái

Seals these earthly eyes,

Khép lại đôi mắt hồng trần,

Lo, a new day dawneth brightly;

Kìa, một ngày mới bừng rạng rỡ;

From our fetters slipping lightly

Ta nhẹ nhàng tuột khỏi xiềng xích, bay tự do

To your world we rise;

Lên thế giới của các bạn—hân hoan.

There to work and there to wander

Nơi đó ta làm việc và rong ruổi

In the sweet old way —

Theo lối cũ ngọt lành—

Drink of upper springs and nether,

Uống nguồn suối trên cao và dưới thấp,

Learn what Love hath knit together

Học điều Tình Yêu đã kết dệt mầu nhiệm

Standeth fast for aye.

Đứng vững muôn vàn năm.

Praise and glory for this knowledge

Xin dâng ngợi khen và vinh hiển vì tri thức này

To the One in Three;

Cho Ba Ngôi uy linh;

For the sting from death is taken,

Vì nọc độc của chết đã bị lấy đi,

Nevermore are we forsaken

Từ nay chúng ta chẳng bao giờ bị bỏ rơi

Through eternity.

Qua cõi vĩnh sinh.

D. W. M. Burn

D. W. M. Burn

Leave a Comment

Scroll to Top