03. Thuyết Giáng Linh và Thông Thiên Học — CHƯƠNG III—VIỆC VẬN DỤNG THÂN THỂ CỦA ĐỒNG TỬ

Chapter III—UTILIZATION OF THE MEDIUM’S BODY

What Mediumship Is—Đồng cốt là gì

It seems obvious that the easiest course for a dead man who wishes to communicate with the physical plane is to utilize a physical body, if he is able to find one which it is within his power to manage. This method does not involve the learning of unfamiliar and difficult processes, as materialization does; he simply enters into the body provided for him and uses it precisely as he was in the habit of using his own. One of the characteristics of a medium is that his principles are readily separable, arid therefore he is able and usually willing thus to yield up his body for the temporary use of another when required. Such resignation of his vehicle may be either partial or total; that is to say, the medium may retain his consciousness as usual, and yet permit his hand to be employed by another for the purposes of automatic writing; or in some cases his vocal organs may also be thus employed by another while he is still in possession of his body, and understands fully what is being said. On the other hand he may retire from his body just as he would do in deep sleep, allowing the dead man to enter and make the fullest possible use of the deserted tenement. In this latter case the medium himself is quite unconscious of all that is said or done; or at least, if he is able to observe to some extent by means of his astral senses, he does not usually retain any recollection of it when he resumes control of his physical brain.

Hiển nhiên con đường dễ dàng nhất cho một người đã chết nếu muốn truyền thông với cõi hồng trần là sử dụng một thể xác, nếu người ấy tìm được một thể mà mình có thể điều khiển. Phương pháp này không đòi học những quy trình lạ lẫm, khó nhọc như hiện hình; người ấy đơn giản nhập vào thể xác đã được dọn sẵn và dùng nó y như thói quen đã dùng thể xác của mình. Một trong những đặc điểm của đồng tử là các nguyên khí của người ấy dễ tách rời, nên người ấy có khả năng và thường sẵn lòng trao thân xác mình cho người khác sử dụng tạm thời khi cần. Sự nhượng thân này có thể là bộ phận hoặc toàn phần; nghĩa là, đồng tử có thể vẫn giữ tâm thức như thường, nhưng cho phép bàn tay mình được một người khác điều khiển để viết tự động; hoặc trong một số trường hợp, cơ quan phát âm của người ấy cũng được người khác dùng đến, trong khi người ấy vẫn còn lưu trong thân và hiểu đầy đủ những gì được nói. Ngược lại, người ấy có thể rút khỏi thể xác như khi chìm vào giấc ngủ sâu, cho phép người đã chết nhập vào và sử dụng trọn vẹn tòa nhà bị bỏ trống. Trong trường hợp sau, chính đồng tử hoàn toàn không hay biết gì những gì được nói hay làm; hoặc nếu người ấy có thể quan sát phần nào bằng các giác quan cảm dục, thì thường cũng không lưu giữ được ký ức về những điều ấy khi trở lại điều khiển bộ não hồng trần.

Trance-Speaking—Nói trong xuất thần

A certain type of spiritualism—one which has a large number of adherents—is almost entirely occupied with this phase of mediumship. There are many groups to whom spiritualism is a religion, and they attend a Sunday evening meeting and listen to a trance-address just as people of other denominations go to church and hear a sermon. Nor does the average trance-address in any way differ from the average sermon in intellec­tual ability; its tone is commonly vaguer, though somewhat more charitable; but its exhortations follow the same general lines. Broadly speaking, there is never anything new in either of them, and they both continue to offer us the advice which our copy-book headings used to give us at school—”Be good and you will be happy,” “Evil communications corrupt good manners,” and so on. But the reason that these maxims are eternally repeated is simply that they are eternally true; and if people who pay no attention to them when they find them in a copy-book will believe them and act upon them when they are spoken by a dead man or rapped out through a table, then it is emphatically well that they should have their pabulum in the form in which they can assimilate it.

Một dạng thần linh học—có rất đông người theo—hầu như hoàn toàn bận bịu với hình thái đồng cốt này. Có nhiều nhóm xem thần linh học là một tôn giáo, và họ đến dự buổi tối Chủ nhật, nghe một bài thuyết trình trong xuất thần, cũng như người của các hệ phái khác đi nhà thờ nghe giảng. Và bài thuyết trình trong xuất thần trung bình chẳng khác gì một bài giảng đạo trung bình về phương diện năng lực trí tuệ; giọng điệu của nó thường mơ hồ hơn, dẫu có phần khoan hòa hơn; nhưng những lời khuyên răn vẫn đi theo cùng lối mòn. Nói rộng ra, trong cả hai thứ ấy chẳng có gì mới, và cả hai đều tiếp tục ban cho chúng ta lời khuyên mà ngày xưa các “đầu đề” trong vở tập chép ở trường vẫn ban: “Hãy sống tốt và bạn sẽ hạnh phúc”, “Gần mực thì đen gần đèn thì rạng”, v.v. Nhưng lý do khiến những châm ngôn ấy được lặp đi lặp lại muôn đời đơn giản là vì chúng muôn đời đúng; và nếu những người không thèm để ý đến chúng khi thấy trong vở tập chép lại chịu tin và làm theo khi chúng được nói bởi người đã chết hay gõ trên mặt bàn, thì rõ ràng tốt nhất là họ nên nhận phần “lương thực tinh thần” của mình ở hình thức mà họ có thể tiêu hóa.

Trance-speaking of the ordinary type is naturally less convincing as a phenomenon than many others, for it is undeniable that a slight acquaintance with the histrionic art would enable a person of average intelligence to simulate the trance-condition and deliver a mediocre sermon. I have heard some cases in which the change of voice and manner was so entire as to be of itself convincing; I have seen cases where speech in a language unknown to the medium, or reference to matters entirely outside his knowledge, assured one of the genuineness of the phenomenon. But on the other hand I have heard many a trance address in which all the vulgarities, the solecisms in grammar and the hideous mispronunciations of an illiterate medium were so closely reproduced that it was difficult indeed to believe that the man was not shamming. Such cases as this last have no evidential value, yet even in them I have learnt that it is well to be charitable, and to allow the medium as far as possible the benefit of the doubt; for I know, first, that a medium attracts round him dead men of his own type, not differing much from his level of advance­ment or culture; and secondly, that any communi­cation which comes through a medium is inevitably coloured to a large extent by that medium’s personality, and might easily be expressed in his style and by means of such language as he would normally use.

Nói trong xuất thần theo dạng thông thường tự nhiên kém thuyết phục hơn nhiều hiện tượng khác, vì không thể chối cãi rằng chỉ cần một chút làm quen với nghệ thuật diễn xuất là một người có trí tuệ trung bình cũng có thể giả trang trạng thái xuất thần và đọc một bài thuyết giảng xoàng xĩnh. Tôi đã nghe một số trường hợp trong đó sự thay đổi giọng nói và phong thái hoàn toàn đến mức tự nó đã đủ thuyết phục; tôi cũng đã thấy những trường hợp trong đó lời nói bằng một ngôn ngữ mà đồng tử không biết, hoặc ám chỉ đến những điều hoàn toàn ngoài phạm vi hiểu biết của người ấy, khiến ta chắc chắn về tính chân thực của hiện tượng. Nhưng mặt khác, tôi cũng nghe không ít bài xuất thần trong đó mọi kiểu thô thiển, sai ngữ pháp và phát âm khủng khiếp của một đồng tử thất học lại được tái hiện sát đến mức thật khó mà tin người ấy không hề giả vờ. Những trường hợp sau này không có giá trị làm bằng chứng; vậy mà ngay trong đó tôi cũng học được rằng tốt hơn hết là nên khoan dung, và ban cho đồng tử, trong khả năng có thể, “lợi ích của sự hoài nghi”; vì tôi biết, thứ nhất, đồng tử sẽ thu hút quanh mình những người đã chết có kiểu mẫu giống chính họ, không khác là bao về mức độ tiến hóa hay văn hóa; và thứ hai, bất cứ truyền đạt nào đi qua đồng tử tất yếu sẽ bị nhuộm màu ở một mức độ lớn bởi phàm ngã của người ấy, và rất dễ được diễn đạt theo phong cách, bằng thứ ngôn ngữ mà người ấy thường dùng.

Automatic Writing—Viết tự động

The same remarks apply in the case of automatic writing. Sometimes the dead man controls the medium’s organism sufficiently to write clearly, characteristically, unmistakably; but more often the handwriting is a compromise between his own and that of the medium, and frequently it degenerates into an almost illegible scrawl. Here again I have seen cases which carried their own proof on the face of them, either by the language in which they were written or by internal evidence. Sometimes also curious tricks are attempted which make any theory of fraud exceedingly improbable. For example, I have seen a whole page of writing dashed off in a few minutes, but written backward, so that one had to hold it before a mirror in order to be able to read it. In another case, before a sitting with Mrs. Jencken (better known by her maiden-name of Kate Fox, as the little girl who first discovered in 1847 that raps would answer questions intelligently, and so founded modern spiritualism), her little baby-in-arms, perhaps twelve months old, took a pencil in its tiny hand and wrote—wrote firmly and rapidly a message purporting to come from a dead man. What intelligence guided that baby hand I am not prepared to say, but it certainly could not have been that of its legitimate owner, and it was equally certainly not that of its mother, for she held the child away from her while it wrote.

Những nhận xét tương tự cũng áp dụng cho trường hợp viết tự động. Đôi khi người đã chết điều khiển cơ cấu của đồng tử đủ để viết rõ ràng, đặc trưng, khó lẫn; nhưng phần nhiều bút tích là sự thỏa hiệp giữa chữ của người ấy và chữ của đồng tử, và thường suy thoái thành một lối nguệch ngoạc khó đọc. Ở đây cũng vậy, tôi đã thấy những trường hợp bằng chứng tự hiển lộ ngay trên mặt giấy, hoặc bởi ngôn ngữ được dùng, hoặc bởi chứng cứ nội tại. Thỉnh thoảng cũng có những “tiểu xảo” lạ được thực hiện khiến bất kỳ giả thuyết lừa đảo nào cũng trở nên cực kỳ khó tin. Chẳng hạn, tôi đã thấy cả một trang chữ được viết loằng ngoằng trong vài phút, nhưng viết ngược, khiến người ta phải đưa trước gương mới đọc được. Trong một trường hợp khác, trước một buổi ngồi với Bà Jencken (được biết nhiều hơn dưới tên thời thiếu nữ là Kate Fox, cô bé đầu tiên, vào năm 1847, phát hiện rằng tiếng gõ có thể trả lời thông minh các câu hỏi, và như thế đặt nền cho thần linh học hiện đại), đứa con nhỏ còn bế trên tay của Bà, chừng mười hai tháng tuổi, cầm bút chì trong bàn tay xíu xíu và viết —viết chắc và nhanh một thông điệp cho biết là đến từ một người đã chết. Bàn tay bé bỏng ấy được trí thông minh nào dẫn dắt, tôi không dám nói; nhưng quyết chắc không thể là của chính chủ nhân hợp pháp của nó, và cũng chắc chắn không phải của mẹ nó, vì Bà giữ đứa bé khỏi xa mình trong lúc nó viết.

The Private Archangel—Vị “Tổng Thiên Thần” riêng tư

Frequently people who are not mediums in any other sense of the word appear to be open to influence along this line. A large number of persons are in the habit of receiving private communications written through their own hands; and the vast majority of them attach quite undue importance to them. Again and again I have been assured by worthy ladies that the whole Theosophical teaching contained nothing new for them, since it had all been previously revealed to them by their own special private teacher, who was of course a person of entirely superhuman glory, knowledge and power—an Archangel at least! When I come to investi­gate I usually find the Archangel to be some worthy departed gentleman who has either been taught, or has discovered for himself, some portion of the facts with regard to astral life and evolution, and is deeply impressed with the idea that if he can only make this known to the world at large it will necessarily effect a radical change and reform in the entire life of humanity. So he seeks and finds some impressible lady, and urges upon her the conviction that she is a chosen vessel for the regeneration of mankind, that she has a mighty work to do to which her life must be devoted, that future ages will bless her name, and so on.

Nhiều khi những người không phải đồng tử theo bất kỳ nghĩa nào khác lại tỏ ra dễ bị ảnh hưởng theo đường này. Có rất nhiều người thường xuyên nhận các thông điệp riêng tư được viết qua chính tay họ; và tuyệt đại đa số trong họ gán cho chúng một tầm quan trọng quá đáng. Hết lần này đến lần khác, tôi được những bà đáng kính quả quyết rằng toàn bộ giáo lý Thông Thiên Học chẳng có gì mới đối với họ, vì mọi điều đã từng được mặc khải trước đó cho họ bởi vị “giáo sư” riêng của họ—hẳn nhiên là một nhân vật có vinh quang, tri thức và quyền năng siêu phàm—ít nhất cũng là một Tổng Thiên Thần! Khi tôi điều tra thì thường thấy vị “Tổng Thiên Thần” ấy chỉ là một quý ông quá cố đáng kính, người hoặc đã được dạy, hoặc tự mình khám phá ra một phần nào các sự kiện liên quan đến đời sống cảm dục và tiến hóa, và giờ bị ám ảnh sâu sắc với ý tưởng rằng nếu ông có thể làm điều này được biết đến rộng rãi cho thế gian, thì hẳn nhiên nó sẽ gây nên một cuộc đổi thay căn để trong toàn bộ đời sống nhân loại. Thế là ông tìm và gặp một quý bà dễ cảm ứng, và gieo vào bà niềm xác tín rằng bà là một khí cụ được chọn đặc biệt để canh tân nhân quần, rằng bà có một công việc vĩ đại để làm mà đời bà phải hiến trọn, rằng các thế hệ tương lai sẽ chúc phúc danh bà, v.v.

In all this the worthy gentleman is usually quite serious; he has now realized a few of the elementary facts of life, and he cannot but feel what a difference it would have made in his conduct and his attitude if he had realized them while still on the physical plane. He rightly concludes that if he could induce the whole world really to believe this, a great change would ensue; but he forgets that practically all that he has to say has been taught in the world for thousands of years, and that while he was in earth-life he paid no more attention to it than others are now likely to pay to his lucubrations. It is the old story over again: “If they hear not Moses and the prophets, neither will they be persuaded though one rose from the dead”.

Trong tất cả những điều ấy, vị quý ông thường hết sức nghiêm túc; ông nay đã nhận ra vài sự kiện sơ đẳng của đời sống, và không thể không cảm thấy khác biệt biết bao nơi ứng xử và thái độ của mình nếu như ông đã nhận ra điều ấy ngay khi còn ở cõi hồng trần. Ông kết luận đúng rằng nếu ông có thể khiến cả thế giới thực sự tin điều này, một sự thay đổi lớn sẽ xảy ra; nhưng ông quên rằng hầu như tất cả những gì ông nói đã được dạy trên thế gian từ cả ngàn năm, và khi còn ở trần gian chính ông cũng chẳng để tâm gì đến chúng, không hơn gì mức người khác lúc này sắp để tâm tới những biện luận dài dòng của ông. Đó lại là câu chuyện cũ: “Nếu họ không nghe Môi-se và các tiên tri, thì dẫu có người từ cõi chết sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”.

Of course a little common sense and a little acquaintance with the literature of this subject would save these worthy ladies from their delusion of a mission from on high; but self-conceit is subtle and deeply-rooted, and the idea of being specially chosen out of all the world for a divine inspiration is, I suppose, pleasurable to a certain type of people. Usually the communications are infinitely far from “containing all the Theosophical teaching”; they contain perhaps a few fragments of it, or more often a few nebulous generalizations tending some­what in the Theosophical direction.

Dĩ nhiên, chỉ một chút lương tri và một chút quen thuộc với văn liệu về đề tài này cũng đủ cứu các quý bà đáng kính khỏi ảo tưởng về một sứ mệnh đến từ nơi cao cả; nhưng tính tự phụ thì tinh vi và bén rễ sâu, và ý nghĩ được chọn riêng trong cả thế gian để nhận linh hứng thiêng liêng, tôi đoán, là điều làm khoái trá một loại người nhất định. Thông thường, các thông điệp ấy còn lâu mới “chứa đựng toàn bộ giáo huấn của Thông Thiên Học”; chúng chứa đựng may ra vài mảnh vụn, hay thường hơn là vài tổng quát mơ hồ có khuynh hướng nào đó theo hướng Thông Thiên Học.

Occasionally also the instructor is a living man in the astral body—usually an Oriental; and in that case it is perfectly natural that his information should have a Theosophical flavour. It must be recollected that Theosophy is in no sense new, but is the oldest teaching in the world, and that the broad outlines of its system are perfectly well known everywhere outside of the limits of the extraordinary cloud of ignorance on philosophical subjects which Christianity appears to bring in its train. It is therefore small wonder that any glimpse of a wider and more sensible theory should seem to have something of Theosophy about it; but naturally it will rarely be found to have either the precision or the fullness of the scheme as given to us by the Masters of Wisdom through Their pupil Madame Blavatsky.

Đôi khi “giáo sư” là một người còn sống trong thể cảm dục—thường là một người phương Đông; và trong trường hợp đó, rất tự nhiên là thông tin của ông mang hương vị Thông Thiên Học. Phải ghi nhớ rằng Thông Thiên Học không hề mới, mà là giáo lý cổ xưa nhất trên thế giới, và những nét đại cương của hệ thống ấy vốn đã được biết rất rõ ở khắp nơi bên ngoài phạm vi của đám mây mù kỳ lạ về vô minh triết học mà có vẻ như Cơ Đốc giáo mang theo sau nó. Do vậy, chẳng có gì lạ khi bất kỳ cái nhìn loáng qua nào về một lý thuyết rộng rãi và hợp lý hơn dường như mang đôi chút màu sắc Thông Thiên Học; nhưng lẽ dĩ nhiên hiếm khi nó có được độ chính xác hay đầy đặn như đồ án được ban cho chúng ta bởi các Chân sư Minh triết qua môn sinh của Các Ngài là Bà Blavatsky.

It appears to make the process of writing through the hand of the medium even easier for the dead man when that hand is rested upon the little board called planchette. This form of manifestation, however, does not always belong to our present category. Sometimes it seems that the hand of the medium moves the planchette, though it is not by his intelligence that it is directed, for it often writes in languages or about matters of which he is ignorant. But on other occasions it appears to move rather under his hand than with it, suggest­ing that it is charged with the vital force from his hand, just as the hat or the table was in the experi­ments previously described. In that case the movement of the board would probably be directed by another partially materialized hand, and so the phenomenon would belong to our third class.

Dường như việc đặt bàn tay của đồng tử lên bảng nhỏ gọi là planchette làm cho quá trình viết qua tay càng dễ dàng hơn đối với người đã chết. Tuy nhiên, dạng biểu hiện này không phải lúc nào cũng thuộc phân loại hiện tại của chúng ta. Có khi bàn tay của đồng tử đẩy bảng planchette, dẫu không phải trí tuệ của người ấy điều khiển hướng đi, vì nó thường viết bằng các ngôn ngữ hoặc về những điều người ấy không biết. Nhưng có khi bảng dường như chuyển động dưới tay người ấy hơn là với tay, gợi ý rằng nó được nạp sinh lực từ tay, giống như chiếc mũ hoặc chiếc bàn trong các thí nghiệm đã mô tả. Khi ấy, chuyển động của bảng rất có thể do một bàn tay khác, hiện hình từng phần, điều khiển, và như vậy hiện tượng sẽ thuộc về loại thứ ba của chúng ta.

Drawing Or Painting—Vẽ hoặc họa

The phenomenon of automatic drawing or painting is of exactly the same nature as that of writing, though it is not nearly so common, because the art of drawing is much less widely diffused than is that of writing. Still it sometimes happens that a dead man has a talent for rapid drawing, and can quickly produce a pretty little landscape or a passable portrait through the hand of a readily-impressible medium. There are certain mediums who make a speciality of this obtaining of portraits of the dead, and they apparently find that it pays them exceedingly well. I have myself seen passable work produced in this way, though not equal to that done directly by the hand of the dead man, or by precipitation. There are also cases in which such portraits are drawn by a living person who is himself clairvoyant; but that is obviously not an example of mediumship at all, and so does not come into our present category.

Hiện tượng vẽ hoặc họa tự động có cùng bản chất với viết tự động, mặc dù hiếm gặp hơn nhiều, vì nghệ thuật vẽ không phổ biến như viết. Tuy thế đôi khi có người đã chết có năng khiếu ký họa nhanh, và có thể mau chóng tạo một bức phong cảnh xinh xắn hoặc một bức chân dung tạm ổn qua bàn tay của một đồng tử dễ bị ấn tượng. Có những đồng tử chuyên “lấy” chân dung người chết, và có vẻ công việc ấy đem lại cho họ nguồn thu rất hậu. Bản thân tôi đã thấy những tác phẩm tạm chấp nhận được theo lối này, dù không bằng thứ do chính tay người chết làm trực tiếp hoặc bằng phương pháp ngưng tụ. Cũng có những trường hợp mà chân dung được vẽ bởi một người sống vốn có thông nhãn; nhưng rõ ràng đó không phải là một ví dụ của đồng cốt, nên không thuộc phạm trù hiện tại của chúng ta.

It must be remembered that for the production of a portrait of a dead person by any of these methods it is not in the least necessary that he should be present, though of course he may be. But when surviving friends come to a seance expecting and earnestly hoping for a portrait of some dead man, their thought of him, so strongly tinged with desire, makes an effective image of him in astral matter, and this is naturally clearly visible to any other dead man, so that the portrait can be drawn quite easily from it. It is, however, also true that this same strong thought about the dead man is certain to attract his attention, and he is therefore likely to come and see what is being done. So it is always possible that he may be present, but the portrait is not proof of it.

Cần ghi nhớ rằng để tạo ra chân dung một người đã chết bằng bất kỳ phương pháp nào trong số này, hoàn toàn không nhất thiết người ấy phải có mặt, dù dĩ nhiên người ấy có thể có mặt. Nhưng khi những người còn sống đến dự buổi gọi hồn với mong đợi và khát khao mãnh liệt có được chân dung của một người đã chết nào đó, thì tư tưởng về người ấy, nhuốm đậm sắc thái dục vọng, sẽ hình thành một hình ảnh hiệu quả về người ấy trong chất liệu cảm dục; hình ảnh này tự nhiên hiện rõ trước mắt bất kỳ người chết nào khác, đến nỗi bức chân dung có thể dễ dàng được vẽ lại từ đó. Tuy nhiên, cũng đúng là chính tư tưởng mạnh mẽ ấy về người chết chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của người ấy, và vì vậy người ấy có thể đến xem chuyện gì đang diễn ra. Do đó luôn có khả năng người ấy hiện diện, nhưng bức chân dung tự nó không chứng minh điều đó.

Personation—Nhập tướng

I am employing this term in a technical sense which is well known to those who have studied these phenomena. I am aware that it has also been employed to describe those cases in which a dishonest medium has presented himself before his audience as a “spirit-form”, but I am dealing with occurrences of a type quite different from that. All who have seen good examples of trance-speaking will have noticed how the entire ex­pression of the medium’s face changes, and how he adopts all kinds of little tricks of manner and speech, which are really those of the man who is speaking through his organism.

Tôi dùng thuật ngữ này theo một nghĩa kỹ thuật vốn quen thuộc với những ai đã nghiên cứu các hiện tượng này. Tôi biết rằng nó cũng từng được dùng để mô tả những trường hợp một đồng tử bất lương tự mình xuất hiện trước khán giả như một “hình dạng linh hồn”, nhưng ở đây tôi bàn về những sự cố hoàn toàn khác. Tất cả những ai từng thấy các ví dụ tốt về nói trong xuất thần hẳn đều nhận ra gương mặt đồng tử đổi khác toàn diện như thế nào, và người ấy tiếp nhận đủ loại tiểu xảo về cử chỉ, giọng điệu ra sao—thật ra chính là những thói quen của người đang nói qua cơ cấu của đồng tử.

There are instances in which this process of change and adaptation goes much further than this—in which a distinct temporary alteration actually takes place in the features of the medium. Some­times this change is only apparent and not real, the fact being that the earnest effort of the ensouling personality to express himself through the medium acts mesmerically upon his friend, and deludes him into thinking that he really sees the features of the dead man before him. When that is so the phenomenon is of course purely subjective, and a photo­graph taken of the medium at that moment would show his face just as it always is.

Có những trường hợp quá trình thay đổi và thích nghi đi xa hơn thế nữa—trong đó thực sự xảy ra một biến đổi tạm thời ở các đường nét của đồng tử. Đôi khi sự đổi khác này chỉ là bề ngoài chứ không thật, do nỗ lực thành tâm của phàm ngã đang phú linh muốn biểu đạt chính mình qua đồng tử đã tác động theo lối thôi miên lên người bạn, khiến người bạn ngộ nhận rằng mình thật sự nhìn thấy dung mạo của người đã chết trước mắt. Khi như thế, hiện tượng dĩ nhiên hoàn toàn chủ quan, và một bức ảnh chụp đồng tử vào khoảnh khắc ấy sẽ cho thấy gương mặt của người ấy y như thường.

Sometimes, however, the change is real and can be shown to be so by means of the camera. When this is so, there are still two methods by which the effect may be produced. I have seen at least one case of apparent change of feature in which what really took place may best be described as the partial materialization of a mask; that is to say, such parts of the medium’s face as corresponded fairly well with that to be represented were left untouched, whereas other parts which were entirely unsuitable were covered with a thin mask of materi­alized matter which made them up into an almost perfect imitation, though slightly larger than the original. But I have also seen other cases in which the face to be represented was much smaller than that of the medium, and the exact imitation secured undoubtedly involved an alteration in the form of the medium’s features. This will naturally seem an absolute impossibility to one who has not made a special study of these things, for the majority of us little recognize the extreme fluidity and impermanence of the physical body, and have no concep­tion how readily it may be modified under certain conditions.

Tuy nhiên, đôi khi sự thay đổi là thật và có thể chứng minh bằng máy ảnh. Khi như vậy, vẫn có hai phương thức để tạo hiệu quả. Tôi đã thấy ít nhất một trường hợp đổi khác trên diện mạo mà điều thực sự xảy ra có thể mô tả tốt nhất như là một sự hiện hình từng phần của một chiếc mặt nạ; nghĩa là những phần nào trên gương mặt đồng tử vốn tương đối tương ứng với gương mặt cần thể hiện thì được giữ nguyên, còn những phần hoàn toàn không thích hợp sẽ được phủ bằng một lớp mỏng chất liệu hiện hình, “hóa trang” chúng thành một bản mô phỏng gần như hoàn hảo, dẫu nhỉnh hơn nguyên bản đôi chút. Nhưng tôi cũng đã thấy những trường hợp khác trong đó gương mặt cần thể hiện nhỏ hơn rất nhiều so với mặt của đồng tử, và việc đạt được bản sao y hệt hiển nhiên đòi hỏi phải thay đổi hình dạng các đường nét của đồng tử. Điều này tự nhiên sẽ có vẻ hoàn toàn bất khả đối với người chưa nghiên cứu đặc biệt về các vấn đề này, vì phần đông chúng ta ít khi nhận ra mức độ linh động và vô thường đến cực độ của thể xác, và không hề hình dung được nó có thể được biến cải dễ dàng ra sao trong những điều kiện nhất định.

Impressibility Of The Physical Body—Tính dễ cảm ứng của thể xác

There is plenty of evidence to show this, though the circumstances which call into operation forces capable of producing such a result are fortunately rare. In Isis Unveiled, vol. i, p. 368, Madame Blavatsky gives us a series of ghastly examples of the way in which the thought or feeling of a mother can change the physical body of her unborn child. Cornelius Gemma tells of a child that was born with his forehead wounded and running with blood, the result of his father’s threats towards his mother with a drawn sword which he directed towards her fore­head. In Van Helmont’s De Injectis Materialibus it is reported that the wife of a tailor at Mechlin saw a soldier’s hand cut off in a quarrel, which so impressed her that her child was born with only one hand, the other arm bleeding. The wife of a merchant of Antwerp, seeing a soldier who had just lost his arm, brought forth a daughter with one arm struck off and bleeding. Another woman witnessed the beheading of thirteen men by order of the Duc d’Alva. In her case also the child, quite perfect in other respects, was born without a head and with bleeding neck.

Có vô vàn bằng cớ cho thấy điều này, tuy những hoàn cảnh triệu hoạt các lực có thể tạo ra kết quả như vậy, may thay, là hiếm. Trong Isis Vén Màn , tập i, tr. 368, Bà Blavatsky đưa cho chúng ta một loạt ví dụ rùng rợn về cách tư tưởng hay cảm xúc của người mẹ có thể làm thay đổi thân thể vật chất của đứa trẻ chưa ra đời. Cornelius Gemma kể về một đứa trẻ sinh ra với vầng trán bị thương và máu chảy ròng, là kết quả từ việc người cha đã dọa nạt mẹ nó bằng một thanh gươm trần chĩa thẳng vào trán bà. Trong tác phẩm của Van Helmont, De Injectis Materialibus , có thuật lại chuyện vợ của một người thợ may ở Mechlin thấy một bàn tay của người lính bị chém lìa trong một vụ cãi vã, điều đó đã in ấn tượng mạnh nơi bà đến nỗi đứa con bà sinh ra chỉ có một bàn tay, cánh tay kia thì rỉ máu. Vợ của một thương gia ở Antwerp, khi thấy một người lính vừa mất cánh tay, đã sinh một con gái với một cánh tay bị chặt đứt và đang chảy máu. Một phụ nữ khác chứng kiến việc chém đầu mười ba người theo lệnh của Công tước d’Alva. Trong trường hợp của bà này, đứa trẻ tuy hoàn hảo ở mọi phương diện khác, lại sinh ra không có đầu và cổ thì rỉ máu.

The whole question of the appearance of stigmata on the human body, which seems so thoroughly well authenticated, is only another instance of the influence of mind upon physical matter; for just as the mind of the mother acts upon the foetus, so do the minds of various saints, or of women like Catherine Emmerich, act upon their own organism. On p. 384 of The Night Side of Nature we find another rather horrible example of the action of violent emotion upon the physical body.

Toàn bộ vấn đề về sự xuất hiện của các dấu thánh trên thân thể con người, vốn xem ra được xác nhận rất đầy đủ, chỉ là thêm một trường hợp về ảnh hưởng của thể trí lên vật chất hồng trần; bởi cũng như thể trí của người mẹ tác động lên bào thai, thì thể trí của các vị thánh khác nhau, hoặc của những người như Catherine Emmerich, cũng tác động lên chính cơ thể của họ. Ở tr. 384 của Mặt Tối của Thiên Nhiên chúng ta thấy một ví dụ khá kinh hoàng khác về tác động của cảm xúc mãnh liệt lên thân thể vật chất.

A letter from Moscow, addressed to Dr. Kerner in consequence of reading the account of the Nun of Dulmen, relates a still more extraordinary case. At the time of the French invasion, a Cossack having pursued a Frenchman into a cul de sac, an alley without an outlet, there ensued a terrible conflict between them, in which the latter was severely wounded. A person who had taken refuge in this close, and could not get away, was so dreadfully frightened that when he reached home there broke out on his body the very same wounds that the Cossack had inflicted on his enemy.

Một lá thư từ Moscow, gửi Ông Kerner do đọc được tường thuật về nữ tu sĩ ở Dulmen, kể lại một trường hợp còn lạ lùng hơn nữa. Vào thời kỳ quân Pháp xâm lược, một người Cossack đuổi theo một người Pháp vào một hẻm cụt, một lối đi không có lối ra, đã xảy ra một trận xung đột kinh khủng giữa họ, trong đó người sau bị thương nặng. Một người đã trú ẩn trong lối đi chật hẹp này, không thể chạy thoát, bị kinh hoàng đến mức khi về tới nhà, trên thân thể ông phát ra đúng những vết thương mà người Cossack đã gây cho kẻ thù của mình.

We shall have to refer to this question when dealing with materializations; but in the meantime, and as far as personation is concerned, I can myself testify that it is possible for the physical features of a medium to be completely changed for a time into the exact resemblance of those of the dead man who is speaking through him. This phenomenon is not common, so far as I have seen or heard, and we may presume that the reason for its rarity is that ordinary materialization would probably be easier to produce. The personation, however, took place in full daylight on each occasion when I witnessed it; whereas materialization is usually performed by artificial light, and there must not be too much even of that, for reasons which will be explained when we come to deal with that side of the question.

Chúng ta sẽ phải trở lại vấn đề này khi đề cập đến các hiện hình; nhưng trong lúc này, xét riêng về sự giả dạng, chính tôi có thể chứng thực rằng có thể các nét diện mạo của một đồng tử bị thay đổi hoàn toàn trong một thời gian, thành giống hệt khuôn mặt của người đã chết đang nói qua thân thể y. Hiện tượng này không phổ biến, theo như tôi đã thấy hoặc nghe, và chúng ta có thể suy đoán rằng lý do hiếm hoi của nó là bởi việc hiện hình thông thường có lẽ dễ tạo ra hơn. Tuy nhiên, sự giả dạng đã diễn ra giữa ban ngày trong mỗi lần tôi chứng kiến; trong khi việc hiện hình thường được thực hiện dưới ánh sáng nhân tạo, và ánh sáng đó cũng không được quá nhiều, vì những lý do sẽ được giải thích khi chúng ta đi vào mặt này của vấn đề.

Using Force Thbough The Medium—Dùng Mãnh Lực thông qua Đồng tử

Speaking, writing and drawing are by no means the only actions performed through the body of the medium. Sometimes it is used for more extensive and even violent activities. M. Flammarion records a striking case of the kind (After Death, p. 100) in which the “spirit” took possession of the medium in order to attempt to revenge himself. The case first appeared in Luce e Ombra (Rome, 1920), and the Revue Spirite (1921, p. 214), and was witnessed by M. Bozzano, the writer. Though the incident occurred in 1904, M. Bozzano felt that he could not publish an account of it before the death of the chief person concerned. He writes:

Nói, viết và vẽ chưa phải là những hành động duy nhất được thực hiện thông qua thân thể của đồng tử. Đôi khi thân thể ấy còn bị dùng cho những hoạt động rộng hơn, thậm chí kịch liệt. Ông Flammarion ghi lại một trường hợp nổi bật thuộc loại này ( Sau Khi Chết, tr. 100), trong đó “vong linh” đã chiếm hữu đồng tử để mưu toan báo thù. Trường hợp này xuất hiện đầu tiên trong Luce e Ombra (Rome, 1920), và Revue Spirite (1921, tr. 214), và đã được Ông Bozzano, người viết, chứng kiến. Dù sự cố xảy ra năm 1904, Ông Bozzano cảm thấy không thể công bố tường thuật trước khi nhân vật chính liên quan qua đời. Ông viết:

Today I can speak of it in the general interest of metaphysical research, omitting, however, the name of the person chiefly concerned.

Hôm nay tôi có thể nói về việc này vì lợi ích chung của nghiên cứu siêu hình, tuy nhiên bỏ qua tên của người liên quan chính.

Seance held on April 5, 1904.—The following were present: Dr. Guiseppe Venzano, Ernesto Bozzano, the Cavaliere Carlo Perefcti, Signore X—, Signora Guidetta Peretti, and the medium L. P. The seance was begun at ten o’clock in the evening.

Buổi gọi hồn tổ chức ngày 5 tháng 4, 1904 .—Những người có mặt gồm: Bác sĩ Guiseppe Venzano, Ernesto Bozzano, Kỵ sĩ Carlo Perefcti, Ông X—, Bà Guidetta Peretti, và đồng tử L. P. Buổi gọi hồn bắt đầu lúc mười giờ tối.

From the beginning we noted that the medium was troubled, for some unknown reason. The spirit-guide Luigi, the medium’s father, did not manifest himself, and L. P. gazed with terror toward the left corner of the room. Shortly afterward he freed himself from his “spirit-controls”, rose to his feet, and began a singularly realistic and impressive struggle against some invisible enemy. Soon he uttered cries of terror, drew back, threw himself to the floor, gazed toward the corner as though terrified, then fled to the other corner of the room, shouting: “Back! Go away. No, I don’t want to. Help me! Save me!” Not knowing what to do, the witnesses of these scenes concentrated their thoughts with intensity upon Luigi, the spirit-guide, and called upon him to aid. The expedient proved effective, for little by little the medium grew calmer, gazed with less anxiety toward the corner of the apartment; then his eyes took on the expres­sion of someone who looks at a distant spectacle, then a spectacle still more distant. At last he gave vent to a long sigh of relief and murmured: “He’s gone! What a bestial face!”

Ngay từ đầu, chúng tôi nhận thấy đồng tử bối rối vì một lý do không rõ. Vị vong linh hướng dẫn Luigi, cha của đồng tử, không hiện diện, và L. P. nhìn với vẻ kinh hãi về góc bên trái của căn phòng. Chẳng bao lâu sau, y thoát khỏi những “vong linh kiểm soát”, đứng bật dậy, và bắt đầu một cuộc vật lộn hết sức sống động và ấn tượng với một kẻ thù vô hình nào đó. Chẳng mấy chốc y thét lên vì kinh hoàng, lùi lại, phóng mình xuống sàn, nhìn về góc phòng như thể khiếp đảm, rồi bỏ chạy sang góc kia của căn phòng, vừa chạy vừa kêu: “Lùi lại! Đi đi. Không, tôi không muốn. Cứu tôi! Cứu tôi với!” Không biết phải làm gì, các nhân chứng của những cảnh tượng ấy tập trung tư tưởng mãnh liệt hướng về Luigi, vị vong linh hướng dẫn, và kêu gọi Ngài trợ giúp. Biện pháp đó tỏ ra hiệu quả, vì dần dần đồng tử bình tĩnh lại, nhìn về phía góc căn phòng với ít lo lắng hơn; rồi mắt y mang vẻ của một người đang nhìn một quang cảnh xa xa, rồi lại là một quang cảnh còn xa hơn nữa. Cuối cùng y thở hắt một hơi dài nhẹ nhõm và thì thầm: “Hắn đi rồi! Thật là một gương mặt thú tính!”

Soon afterwards, the spirit-guide Luigi manifested himself. Expressing himself through the medium, he told us that in the room in which the seance was being held there was a spirit of the basest nature, against which it was impossible for him to struggle; that the intruder bore an implacable hatred for one of the persons of the group. Then the medium exclaimed in a frightened voice: “There he is again! I can’t defend you any longer. Stop the…”

Chẳng bao lâu, vị vong linh hướng dẫn Luigi hiện diện. Thông qua đồng tử mà nói, Ngài cho chúng tôi biết rằng trong căn phòng nơi đang cử hành buổi gọi hồn có một vong linh thuộc bản chất thấp hèn nhất, mà Ngài không thể đấu lại; rằng kẻ xâm nhập ôm mối hận thù không đội trời chung với một người trong nhóm. Rồi đồng tử kêu lên bằng giọng sợ hãi: “Hắn lại đây nữa rồi! Tôi không thể bảo vệ anh lâu hơn. Dừng…”

It is certain that Luigi wished to say, “stop the seance”, but it was already too late. The evil spirit had taken possession of our medium. He shouted; his eyes shot glances of fury; his hands, lifted as though to seize something, moved like the claws of a wild beast, eager to clutch his prey. And the prey was Signore X—, at whom the medium’s furious looks were cast. A rattling and a sort of concentrated roaring issued from our medium’s foam-covered lips, and suddenly these words burst from him: “I’ve found you again at last, you coward! I was a Royal Marine. Don’t you remember the quarrel in Oporto? You killed me there. But today I’ll have my revenge and strangle you.”

Hẳn nhiên Luigi muốn nói “dừng buổi gọi hồn”, nhưng đã quá muộn. Vong linh ác đã chiếm hữu đồng tử của chúng tôi. Y gào thét; mắt bắn ra những tia nhìn căm hờn; đôi tay giơ lên như muốn chụp lấy thứ gì đó, cử động như vuốt của một dã thú khao khát tóm gọn con mồi. Và con mồi ấy là Ông X—, người mà những tia nhìn giận dữ của đồng tử chĩa vào. Từ đôi môi phủ bọt của đồng tử phát ra những tiếng khò khè và một thứ gầm rú dồn nén, và đột nhiên những lời này bật ra: “Cuối cùng ta cũng tìm lại được mi, đồ hèn! Ta là lính Thuỷ quân Hoàng gia. Mi không nhớ cuộc cãi vã ở Oporto sao? Mi đã giết ta ở đó. Nhưng hôm nay ta sẽ báo thù và bóp cổ mi.”

These distracted words were uttered as the hands of the medium, L. P., seized the victim’s throat, and tightened on it like steel pincers. It was a fearful sight. The whole of Signore X—’s tongue hung from his wide-open mouth, his eyes bulged. We had gone to the unfortunate man’s assistance. Uniting our efforts with all the energy which this desperate situation lent us, we succeeded, after a terrible hand-to-hand struggle, in freeing him from the desperate grip. At once we pulled him away, and thrust him outside, locking the door. We barred the medium’s access to the door; exasperated, he tried to break through this barrier and run after his enemy. He roared like a tiger. It took all four of us to hold him. At last, he suffered a total collapse and sank down upon the floor.

Những lời mê sảng đó được thốt ra khi hai tay của đồng tử, L. P., chộp lấy cổ họng nạn nhân và siết chặt như gọng kìm thép. Cảnh tượng thật kinh hoàng. Cả lưỡi của Ông X— thè hẳn ra khỏi cái miệng há to, mắt thì lồi ra. Chúng tôi đã lao đến trợ giúp người đàn ông bất hạnh. Hợp lực với tất cả sức mạnh mà tình thế tuyệt vọng này đem lại, sau một cuộc vật lộn tay đôi dữ dội, chúng tôi đã thoát được cho ông khỏi cú siết điên cuồng. Lập tức chúng tôi kéo ông đi và đẩy ra ngoài, khóa cửa lại. Chúng tôi chặn đồng tử khỏi cửa; y uất ức, cố phá vỡ hàng rào người để lao theo kẻ thù. Y gầm như hổ. Phải bốn người chúng tôi mới giữ nổi y. Sau cùng, y kiệt sức hoàn toàn và gục xuống sàn.

On the following day we prepared to clear up this affair—to seek information which might enable us to confirm what “the Oporto spirit” had said. We were, in fact, already quite certain of the truth of the accusation, for it was noteworthy that Signore X— had not protested in the least while the serious charge of homicide had been hurled at him.

Ngày hôm sau, chúng tôi chuẩn bị làm sáng tỏ vụ việc này—tìm kiếm thông tin có thể cho phép xác nhận những gì “vong linh Oporto” đã nói. Thực tế, chúng tôi đã khá chắc chắn về sự thật của cáo buộc, vì điều đáng lưu ý là Ông X— không hề phản đối dù chỉ một chút khi lời buộc tội nghiêm trọng về tội giết người nhắm vào mình.

The words uttered by the furious spirit served me as a means for arriving at the truth. He had said, “I was a Royal Marine”. And I knew vaguely that Signore X— had, himself, in his youth, been an officer of marines; that he had witnessed the battle of Lissa, and that after resigning his commission he had devoted himself to commercial enterprises. With these facts as a basis, I proceeded to ask a retired vice-admiral for other details; he, too, had fought at Lissa. As for Dr. Venzano, he questioned a relative of Signore X—, with whom the latter had broken off all relations years before. Between us we gathered separate bits of information which tallied amazingly, and which, brought together, led us to these conclusions:

Những lời do vong linh phẫn nộ thốt ra đã giúp tôi lần ra sự thật. Hắn đã nói, “Ta là lính Thuỷ quân Hoàng gia”. Và tôi lờ mờ biết rằng chính Ông X— hồi trẻ từng là một sĩ quan thuỷ quân; rằng ông đã chứng kiến trận Lissa, và sau khi từ chức thì dấn thân vào các hoạt động thương mại. Dựa trên những dữ kiện ấy, tôi tiến hành hỏi một vị phó đô đốc đã về hưu về các chi tiết khác; ông này cũng từng chiến đấu ở Lissa. Còn Bác sĩ Venzano thì hỏi một người bà con của Ông X—, người mà ông đã cắt đứt mọi liên hệ từ nhiều năm trước. Giữa chúng tôi, chúng tôi thu thập được những mảnh thông tin riêng rẽ trùng khớp đáng kinh ngạc, và khi ghép lại, đã dẫn đến những kết luận sau:

Signore X— had indeed served with the Royal Marines. One day, being upon a battle-ship on a training cruise, he had landed for some hours at Oporto, Portugal. During his stay, while he was walking in the city, he heard a noise of drunken, furious voices coming from an inn. He perceived that the language was Italian, and, realizing that it was a quarrel between men of his vessel, he went into the room, recognized his men, and commanded them to return to their ship. One of the drinkers, more intoxicated than the others, answered him back, and even went so far as to threaten his superior officer. Angered by his attitude, the officer drew his sword and plunged it into the insolent fellow’s breast; the latter died soon afterward. As a result of this adventure, the officer was court-martialled, was sentenced to six months’ imprisonment, and, on the expiration of his term, was asked to resign his commission.

Ông X— quả thật đã phục vụ trong Thuỷ quân Hoàng gia. Một ngày kia, khi đang ở trên một chiến hạm trong chuyến hải hành huấn luyện, ông đã lên bờ vài giờ tại Oporto, Bồ Đào Nha. Trong thời gian ở đó, khi đang đi trong thành phố, ông nghe tiếng la lối say xỉn, giận dữ phát ra từ một quán trọ. Ông nhận ra đó là tiếng Ý và hiểu rằng đó là một cuộc ẩu đả giữa những người thuộc tàu mình, bèn bước vào phòng, nhận ra người của mình và ra lệnh họ quay về tàu. Một trong những kẻ bợm nhậu, say hơn những người khác, đã cự lại và thậm chí dám đe dọa thượng cấp của mình. Bực tức trước thái độ đó, viên sĩ quan rút gươm đâm vào ngực tên hỗn láo; người này chết không lâu sau đó. Hậu quả của sự việc, viên sĩ quan bị toà án quân sự xét xử, bị kết án sáu tháng tù, và khi mãn hạn, được yêu cầu từ chức.

Those are the facts; it follows from them that the disturbing spirit had not lied. He had exactly stated his rank as a Royal Italian Marine. He had remembered that Signore X— had killed him. He had, moreover—and this was a particularly remarkable statement—indicated the place where he had died, the setting for the drama, Oporto.

Đó là sự thật; từ đó suy ra rằng vong linh quấy nhiễu đã không nói dối. Hắn đã nêu đúng cấp bậc của mình là lính Thuỷ quân Hoàng gia Italia. Hắn đã nhớ rằng Ông X— đã giết hắn. Hơn nữa—và đây là một chi tiết đặc biệt đáng chú ý—hắn đã chỉ ra nơi hắn chết, bối cảnh của bi kịch: Oporto.

A painstaking enquiry confirmed the authenticity of all this. By what hypothesis could one explain occur­rences so strikingly in agreement—those which were revealed to us at the seance of April 5, 1904, and those which had taken place in Portugal many years before?

Một cuộc điều tra công phu đã xác nhận tính xác thực của tất cả điều này. Bằng giả thuyết nào có thể giải thích những sự kiện kỳ lạ trùng khớp đến vậy—những điều được tiết lộ cho chúng tôi trong buổi gọi hồn ngày 5 tháng 4 năm 1904, và những điều đã xảy ra tại Bồ Đào Nha nhiều năm trước?

Leave a Comment

Scroll to Top