03. Lịch Sử Huyền Bí của Borobudur—Một cuộc xâm nhập của Arya

An Aryan Invasion

The inhabitants of Java are a very mixed race—in fact, a conglomeration of races, but all having on the whole a preponderance of Atlantean blood. They were therefore in those earlier days under the jurisdiction of the Lord Chakshusha Manu; but He, being highly dissatisfied with the conditions then existing here, arranged with the Lord Vaivasvata Manu to send down a series of waves of Aryan immigration into the country in the hope of bringing about an improvement. The earliest of these waves with which my [7] investigations have brought me into contact was somewhere about 1200 B.C., though I think that there had been previous efforts; but neither of them nor of this inflow does any definite tradition now remain among the royal archives.

Cư dân Java là một giống pha trộn—thực ra là một tập hợp của nhiều chủng, nhưng nói chung đều mang tỷ lệ máu Atlantis trội hơn. Bởi vậy, trong những ngày đầu ấy họ thuộc quyền trông coi của Đức Manu Chakshusha; nhưng Ngài, vốn hết sức bất bình với các điều kiện đang tồn tại nơi đây, đã sắp đặt với Đức Manu Vaivasvata để gửi xuống xứ sở này một loạt làn sóng di dân Arya với hy vọng đem lại sự cải thiện. Làn sóng sớm nhất trong số ấy mà [7] khảo cứu của tôi đã bắt gặp là vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, dù tôi cho rằng đã có những nỗ lực trước đó; nhưng cả về những đợt trước lẫn về luồng di nhập này, trong các văn khố hoàng gia hiện chẳng còn truyền tích xác định nào.

These Hindu invaders seem to have come first as peaceful traders, settling on the coast and gradually forming themselves into small independent commercial States; but in process of time their power greatly increased, and they eventually became the dominant section of the mixed community, so that they were able to impose their laws and their ideals upon the earlier inhabitants. Their religion was Hinduism, though not perhaps of the purest type; but it was at least an enormous improvement upon what had preceded it here. One would have expected those of the older faith to welcome with enthusiasm any theory that would deliver them from its horrors; but as a matter of fact they do not seem to have taken kindly to the complicated ceremonies offered to them, and though under the new regime the foul and ghastly ancient rites were [8] strictly forbidden, they were still extensively practised in secret. The new government suspected this, but feared to make a really determined effort to enforce its unpopular decrees; so the sacrifices were by no means eliminated, though they had to be offered surreptitiously.

Những người Ấn xâm nhập này dường như đến trước hết như các nhà buôn hiếu hòa, định cư dọc bờ biển và dần dần kết thành các tiểu quốc thương nghiệp độc lập; nhưng theo thời gian, quyền lực của họ tăng lên rất nhiều, và rốt cuộc họ trở thành thành phần thống trị trong cộng đồng pha tạp, đến mức có thể áp đặt luật lệ và lý tưởng của mình lên cư dân trước đó. Tôn giáo của họ là Ấn giáo, dù có lẽ không phải ở dạng thuần nhất; nhưng dẫu sao nó cũng là một tiến bộ to lớn so với những gì từng tồn tại ở đây. Người ta sẽ kỳ vọng những tín đồ của cổ giáo sẽ hoan hỷ tiếp nhận bất cứ học thuyết nào có thể giải thoát họ khỏi các điều kinh khủng; nhưng thực tế là họ không mấy dễ chịu với những nghi lễ phức tạp được đưa ra cho mình, và tuy dưới chế độ mới, những nghi lễ ghê tởm và gớm ghiếc xưa kia [8] bị nghiêm cấm, chúng vẫn được thực hành rộng rãi trong bí mật. Chính quyền mới nghi ngờ điều này, nhưng e sợ không dám thực sự mạnh tay để cưỡng hành những sắc lệnh vốn không được lòng dân; vì thế các hiến tế không hề bị diệt trừ, dù chúng phải tiến hành lén lút.

Superstition always dies hard, and the more cruel and loathsome it is, the more tenaciously do its votaries cling to it. Hinduism remained the official religion of the country, but more and more as the centuries rolled on did the old devil-worship reassert itself, until its votaries scarcely troubled to conceal their nefarious practices, and the actual condition of the common people was very little better than before the invasion.

Mê tín bao giờ cũng khó tàn lụi, và càng tàn nhẫn, gớm ghê bao nhiêu thì tín đồ của nó càng bám víu bấy nhiêu. Ấn giáo vẫn là quốc giáo, nhưng càng về sau theo dòng thế kỷ, tà thờ quấy quỷ xưa cũ lại càng ngóc đầu trỗi dậy, cho đến khi các tín đồ của nó hầu như chẳng buồn che giấu các hành vi đen tối nữa, và tình cảnh thực sự của dân đen cũng chẳng khá hơn bao nhiêu so với trước cuộc xâm nhập.

This being so, the Lord Vaivasvata decided to make another effort, so He inspired the celebrated Indian ruler Ring Ranishka of Northwest India to send down an expedition to Java in the year 78 A.D. The leader of this new enterprise is known in the tradition of the country as Aji Saka, or sometimes Sakāji, and his name is still reverenced by all the well-read Javanese. [9]

Như vậy, Đức Vaivasvata quyết định nỗ lực thêm lần nữa, nên Ngài đã linh cảm cho vị quân vương Ấn Độ lừng danh ở Tây Bắc Ấn là Ring Ranishka phái một đoàn viễn chinh xuống Java vào năm 78 sau Công nguyên. Người lãnh đạo cuộc viễn chinh mới này được truyền thống xứ sở gọi là Aji Saka, đôi khi là Sakāji, và danh xưng của ông đến nay vẫn được mọi người Javanese học rộng kính trọng. [9]

He is credited by them with the final extirpation of cannibalism, the introduction (or perhaps rather the reassertion) of Hindu law and culture, of the caste system, of vegetarianism, of the Hindu epos and the Javanese script, which seems to be derived from the Deνanāgari.

Ông được họ ghi công là đã tận diệt nạn ăn thịt người, du nhập (hay có lẽ là tái khẳng định) luật pháp và văn minh Ấn giáo, chế độ đẳng cấp, phép ăn chay, các trường ca Ấn giáo và cả chữ viết Java, vốn dường như xuất tự Devanāgari.

He (since he was an orthodox Hindu), or more probably some of his officers, set up schools of Buddhism in both of its forms, the Hīnayāna and the Mahāyāna. The former seems to have prevailed for some time, but under the rule of the Shailendra Kings in the eighth century the latter school came into prominence, and eventually almost entirely superseded the Hīnayāna form. Buddhism was quickly and widely adopted in the Island, but its followers and those of the Brahmanical religion seem to have lived side by side in perfect amity and tolerance.

Ông (vì là một tín đồ Ấn giáo chính thống), hoặc rất có thể là một số thuộc viên của ông, đã lập nên các trường Phật giáo ở cả hai hình thái, Hīnayāna và Mahāyāna. Hình thái thứ nhất dường như đã thịnh hành một thời, nhưng dưới triều Shailendra ở thế kỷ thứ tám, phái Mahāyāna lên ngôi, và cuối cùng hầu như hoàn toàn thay thế hình thái Hīnayāna. Phật giáo nhanh chóng được tiếp nhận rộng rãi trên đảo, nhưng tín đồ của đạo này và của Bà-la-môn giáo dường như sống cạnh nhau trong hòa thuận và khoan dung tuyệt hảo.

Leave a Comment

Scroll to Top