06. Thuyết Giáng Linh và Thông Thiên Học — CHƯƠNG VI—HIỆN HÌNH MỘT PHẦN

Chapter VI—PARTIAL MATERIALIZATION

Varieties Op Materialization—Các Dạng của Sự Hiện Hình

All the most interesting phenomena of the seance room are connected in some way or other with materialization—that is to say, with the building of physical matter round some astral form, in order that through it the ego inhabiting that astral form may be able to produce results upon the physical plane. But of this materialization there are three varieties. Let me here quote a passage from my own little book upon The Astral Plane, p. 118:

Tất cả những hiện tượng thú vị nhất trong phòng gọi hồn đều liên quan theo cách này hay cách khác đến hiện hình—tức là, xây dựng chất liệu hồng trần quanh một hình thể cảm dục nào đó, để qua đó chân ngã cư ngụ trong hình thể cảm dục ấy có thể tạo ra kết quả trên cõi hồng trần. Nhưng hiện hình có ba dạng. Ở đây, cho phép tôi trích một đoạn từ cuốn sách nhỏ của chính tôi về Cõi Cảm Dục , tr. 118:

The habitues of seances will no doubt have noticed that materializations are of three kinds: First, those which are tangible but not visible; second, those which are visible but not tangible; and third, those which are both visible and tangible. To the first kind, which is much the most common, belong the invisible spirit hands which so frequently stroke the faces of the sitters or carry small objects about the room, and the vocal organs from which the “direct voice” proceeds. In this case an order of matter is being used which can neither reflect nor obstruct light, but is capable under certain conditions of setting up vibrations in the atmosphere which affect us as sound. A variation of this class is that kind of partial materialization which, though incapable of reflecting any light that we can see, is yet able to affect some of the ultra-violet rays, and can therefore make a more or less definite impression upon the camera, and so provide us with what are known as “spirit photographs.”

Những người thường xuyên lui tới các buổi gọi hồn hẳn đã nhận ra rằng hiện hình có ba loại: Thứ nhất, những hiện hình có thể sờ nắm được nhưng không thấy được; thứ hai, những hiện hình thấy được nhưng không sờ nắm được; và thứ ba, những hiện hình vừa thấy được vừa sờ nắm được. Thuộc loại thứ nhất, vốn phổ biến nhất, là những bàn tay vô hình của vong linh, thứ thường vuốt ve khuôn mặt người dự hoặc mang những vật nhỏ đi khắp phòng, và là cơ quan phát âm mà từ đó “tiếng nói trực tiếp” phát ra. Trong trường hợp này, một cấp độ chất liệu đang được sử dụng vốn không thể phản chiếu cũng không thể cản ánh sáng, nhưng có khả năng, trong những điều kiện nhất định, thiết lập những dao động trong không khí khiến chúng ta cảm thụ thành âm thanh. Một biến thể của hạng này là kiểu hiện hình một phần đó, tuy không có khả năng phản chiếu bất kỳ ánh sáng nào mà chúng ta có thể thấy, nhưng lại có thể tác động lên một số tia tử ngoại, và vì thế có thể để lại một ấn tượng ít nhiều rõ nét trên máy ảnh, nhờ đó cung cấp cho chúng ta cái gọi là “ảnh linh hồn”.

When there is not sufficient power available to produce a perfect materialization we sometimes get the vaporous-looking form which constitutes our second class, and in such a case the “spirits” usually warn their sitters that the forms which appear must not be touched. In the rarer case of a full materialization there is sufficient power to hold together, at least for a few moments, a form which can be both seen and touched.

Khi không có đủ năng lực để tạo ra một hiện hình hoàn chỉnh, đôi khi chúng ta nhận được một hình thể trông như hơi sương, cấu thành hạng thứ hai của chúng ta, và trong trường hợp như vậy “các vong linh” thường cảnh báo người ngồi rằng các hình hiện ra không được chạm vào. Trong trường hợp hiếm hơn về một hiện hình toàn phần có đủ năng lực để giữ một hình thể kết tụ—ít nhất trong vài khoảnh khắc—vừa thấy được vừa sờ nắm được.

Nearly all the phenomena coming under this third subdivision of ours are effected by means of the first of these types of materialization, for the hands which cause the raps or tilts, which move objects about the room or raise them from the ground, are not usually visible, though to be able to act thus upon physical matter they must themselves be physical. Occasionally, but comparatively rarely, they may be seen at their work, thus explaining to us how that work is done in the far more numerous instances in which the mechanism is invisible to us. Such a case is given to us by Sir William Crookes, F.R.S., in his interesting book Researches in the Phenomena of Spiritualism, p. 93:

Gần như tất cả hiện tượng thuộc phân mục thứ ba của chúng ta đều được thực hiện bằng phương tiện của loại hiện hình thứ nhất nói trên, vì những bàn tay gây ra tiếng gõ hay các cú nghiêng, di chuyển các vật trong phòng hay nâng chúng lên khỏi mặt đất, thường không nhìn thấy, dù rằng để có thể tác động lên vật chất hồng trần theo cách ấy thì bản thân chúng phải là vật chất hồng trần. Thỉnh thoảng, nhưng tương đối hiếm, chúng có thể được nhìn thấy khi đang làm việc, nhờ đó giải thích cho chúng ta cách công việc ấy được thực hiện trong những trường hợp nhiều hơn rất nhiều mà cơ chế vô hình đối với chúng ta. Một trường hợp như vậy được Ngài William Crookes, F.R.S., đưa ra trong cuốn sách thú vị Nghiên cứu về các Hiện tượng Thần linh học , tr. 93:

A Luminous Hand—Một Bàn Tay Phát Quang

I was sitting next to the medium, Miss Fox, the only other persons present being my wife and a lady relative, and I was holding the medium’s two hands in one of mine, whilst her feet were resting on my feet. Paper was on the table before us, and my disengaged hand was holding a pencil. A luminous hand came down, from the upper part of the room, and after hovering near me for a few seconds, took the pencil from my hand, rapidly wrote on a sheet of paper, threw the pencil down, and then rose up over our heads, gradually fading into darkness.

Tôi ngồi cạnh đồng tử, Cô Fox, những người khác hiện diện hôm đó chỉ có vợ tôi và một người bà con là phụ nữ, và tôi đang giữ hai tay của đồng tử trong một tay của tôi, trong khi hai chân cô đặt trên chân tôi. Trên bàn trước mặt chúng tôi có giấy, và bàn tay rảnh của tôi cầm một cây bút chì. Một bàn tay phát quang từ phần trên của căn phòng hạ xuống, và sau khi lơ lửng gần tôi vài giây, đã lấy cây bút chì khỏi tay tôi, nhanh chóng viết lên một tờ giấy, ném cây bút chì xuống, rồi bay lên trên đầu chúng tôi, dần dần tan vào bóng tối.

The raps and the tilts are too well known to need description, but cases in which heavy objects are raised and suspended without the contact of visible hands are somewhat less commonly seen, so it may perhaps be well to cite one or two of them. In the book just quoted, on p. 89, Sir William Crookes tells us:

Những tiếng gõ và những cú nghiêng quá quen thuộc nên không cần mô tả, nhưng những trường hợp trong đó các vật nặng được nâng lên và treo lơ lửng mà không có sự chạm vào của những bàn tay thấy được thì ít gặp hơn, nên có lẽ nên trích dẫn một hai trường hợp. Trong cuốn sách vừa dẫn, tr. 89, Ngài William Crookes cho biết:

On five separate occasions, a heavy dining-table rose between a few inches and a foot and a half off the floor, under special circumstances, which rendered trickery impossible. On another occasion a heavy table rose from the floor in full light, while I was holding the medium’s hands and feet. On another occasion the table rose from the floor, not only when no person was touching it, but under conditions which I had prearranged so as to assure unquestionable proof of the fact.

Trong năm dịp riêng biệt, một chiếc bàn ăn nặng đã nâng lên cao cách mặt sàn từ vài inch đến một foot rưỡi, trong những hoàn cảnh đặc biệt khiến mọi trò lừa bịp trở thành bất khả. Lần khác, một chiếc bàn nặng được nâng khỏi sàn trong ánh sáng đầy đủ, trong khi tôi đang giữ tay và chân của đồng tử. Lần khác nữa, chiếc bàn nâng khỏi sàn, không những khi không có ai chạm vào nó, mà còn trong những điều kiện do tôi sắp đặt trước để đảm bảo bằng chứng không thể chối cãi về sự kiện.

It will be seen, therefore, that the similar experi­ence of my own, which I have described a few pages back, is by no means unique. Mr. Robert Dale Owen, in his Footfalls on the Boundary of Another World, p. 74, gives a remarkable case of similar nature:

Như vậy có thể thấy, trải nghiệm tương tự của chính tôi, mà tôi đã mô tả cách đây vài trang, hoàn toàn không phải là độc nhất vô nhị. Ông Robert Dale Owen, trong Những Bước Chân Trên Ranh Giới Một Thế Giới Khác , tr. 74, đưa ra một trường hợp đáng chú ý có tính chất tương tự:

Cases Of Levitation—Những Trường Hợp Thăng Không

In the dining-room of a French nobleman, the Count d’Ourches, residing near Paris, I saw, on the first day of October, 1858, in broad daylight, at the close of déjèuner à la fourchette, a dining-table seating seven persons, with fruit and wine on it, rise and settle down, as already described, while all the guests were standing round it, and not one of them touching it at all. All present saw the same thing. Mr. Kyd, son of the late General Kyd, of the British army, and his lady told me (in Paris, in April, 1859) that in December of the year 1857, during an evening visit to a friend, who resided at No. 28 Rue de la Ferme des Mathurins, at Paris, Mrs. Kyd, seated in an armchair, suddenly felt it move, as if someone had laid hold of it from beneath. Then slowly and gradually it rose into the air, and remained there suspended for the space of about thirty seconds, the lady’s feet being four or five feet from the ground; then it settled down gently and gradually, so that there was no shock when it reached the carpet. No one was touching the chair when it rose, nor did anyone approach it while in the air, except Mr. Kyd, who, fearing an accident, advanced and touched Mrs. Kyd. The room was at the time brightly lighted, as a French salon usually is; and of the eight or nine persons present all saw the same thing in the same way. I took notes of the above, as Mr. and Mrs. Kyd narrated to me the occur­rence; and they kindly permitted, as a voucher for its truth, the use of their names.

Trong phòng ăn của một vị quý tộc Pháp, Bá tước d’Ourches, sống gần Paris, vào ngày mồng một tháng Mười, 1858, giữa ban ngày, vào lúc kết thúc bữa trưa dùng nĩa , tôi thấy một chiếc bàn ăn đủ chỗ cho bảy người, trên đó có trái cây và rượu, nâng lên rồi hạ xuống, như đã mô tả, trong khi tất cả các vị khách đứng quanh bàn, và không một ai chạm vào nó cả. Tất cả những người có mặt đều thấy cùng một sự việc. Ông Kyd, con trai cố Tướng Kyd của quân đội Anh, và phu nhân của Ông kể cho tôi (ở Paris, tháng Tư, 1859) rằng vào tháng Mười Hai năm 1857, trong một buổi đến thăm buổi tối một người bạn, cư trú tại số 28 Rue de la Ferme des Mathurins ở Paris, Bà Kyd, đang ngồi trên một ghế bành, bỗng cảm thấy nó chuyển động, như thể có ai đó nắm lấy nó từ bên dưới. Rồi chậm rãi và dần dần nó nâng lên không trung, và ở lơ lửng như thế chừng ba mươi giây, hai bàn chân của bà cách mặt đất khoảng bốn hay năm foot; rồi nó hạ xuống êm ái và từ tốn, nên không có một cú chấn khi chạm thảm. Không ai chạm vào chiếc ghế khi nó nâng lên, cũng không ai đến gần nó khi nó đang ở trên không, trừ Ông Kyd, người vì lo xảy ra tai nạn đã tiến lại và chạm tay vào Bà Kyd. Căn phòng lúc đó được thắp sáng rực rỡ, như một salon Pháp thường thế; và trong số tám hay chín người có mặt, tất cả đều thấy cùng một sự việc theo cùng một cách. Tôi đã ghi chú những điều nói trên khi Ông và Bà Kyd thuật lại cho tôi sự cố; và họ đã tử tế cho phép dùng tên họ như một bảo chứng cho tính xác thực của câu chuyện.

People have not infrequently been lifted in this way in their chairs, though rarely, I fancy, to the height of five feet. Sir William Crookes saw several instances of the same phenomenon, and thus describes them in his Researches, p. 89.

Người ta không hiếm khi bị nâng lên như vậy khi đang ngồi trên ghế, dù tôi đoán là hiếm khi đạt tới độ cao năm feet. Ngài William Crookes đã thấy vài trường hợp của cùng hiện tượng, và mô tả chúng như sau trong Researches, tr. 89.

On one occasion I witnessed a chair, with a lady sitting in it, rise several inches from the ground. On another occasion, to avoid the suspicion of this being in some way performed by herself, the lady knelt on the chair in such a manner that its four feet were visible to us. It then rose about three inches, remaining suspended for about ten seconds, and then slowly descended. Another time two children, on separate occasions, rose from the floor with their chairs, in full daylight, under (to me) the most satisfactory conditions; for I was kneeling and keeping close watch upon the feet of the chair, and observing that no one might touch them.

Trong một lần, tôi chứng kiến một chiếc ghế, trên đó có một quý bà đang ngồi, nâng lên khỏi mặt đất vài inch. Lần khác, để tránh nghi ngờ rằng việc này do bà ấy tự thực hiện theo cách nào đó, vị phu nhân quỳ trên ghế theo cách mà bốn chân ghế đều hiện rõ trước mắt chúng tôi. Rồi chiếc ghế nâng lên khoảng ba inch, lơ lửng chừng mười giây, rồi chầm chậm hạ xuống. Một lần nữa, hai đứa trẻ, vào hai dịp riêng nhau, đã nâng lên khỏi sàn cùng với ghế của chúng trong ánh sáng ban ngày, dưới những điều kiện (đối với tôi) hoàn toàn thỏa đáng; vì tôi đang quỳ và theo dõi sát sao các chân ghế, quan sát để chắc rằng không ai chạm vào chúng.

The most striking cases of levitation which I have witnessed have been with Mr. Home. On three separate occasions have I seen him raised completely from the floor of the room. Once sitting in an easy chair, once kneeling on his chair, and once standing up. On each occasion I had full opportunity of watching the occurrence as it was taking place.

Những trường hợp thăng không ấn tượng nhất mà tôi từng chứng kiến là với Ông Home. Trong ba dịp riêng rẽ, tôi đã thấy ông được nâng hẳn lên khỏi sàn phòng. Một lần khi đang ngồi trong ghế bành êm, một lần khi đang quỳ trên ghế, và một lần khi đang đứng. Mỗi lần như vậy tôi đều có đầy đủ cơ hội quan sát sự kiện ngay khi nó diễn ra.

There are at least a hundred recorded instances of Mr. Home’s rising from the ground, in the presence of as many separate persons, and I have heard from the lips of the three witnesses to the most striking occurrence of this kind—the Earl of Dunraven, Lord Lindsay and Captain C. Wynne—their own most minute accounts of what took place. To reject the recorded evidence on this subject is to reject all human testimony whatever; for no fact in sacred or profane history is supported by a stronger array of proofs.

Có ít nhất một trăm trường hợp được ghi chép lại về việc Ông Home được nâng khỏi mặt đất trước sự hiện diện của cũng ngần ấy người khác nhau, và tôi đã nghe từ chính miệng ba nhân chứng của sự kiện nổi bật nhất thuộc loại này—Bá tước Dunraven, Huân tước Lindsay và Đại úy C. Wynne—những tường thuật tỉ mỉ nhất của họ về những gì đã xảy ra. Bác bỏ các bằng chứng được ghi chép về đề tài này là bác bỏ mọi lời chứng của loài người nói chung; vì không có sự kiện nào trong lịch sử thiêng liêng hay thế tục lại được hậu thuẫn bởi một loạt chứng cứ mạnh mẽ hơn thế.

Colonel Olcott, in his People from the Other World, also mentions having heard this account from the lips of one of the witnesses. He gives us, too, some striking instances of levitation upon the part of the Eddy brothers.

Đại tá Olcott, trong People from the Other World , cũng kể rằng mình đã nghe tường thuật này từ chính miệng một trong các nhân chứng. Ông cũng đưa ra cho chúng ta vài trường hợp thăng không ấn tượng do anh em nhà Eddy thực hiện.

I have myself on three occasions been present when the medium, seated in a heavy armchair, was lifted clear over our heads as we sat round the table, and placed in the centre of it. On two of these occasions I was myself holding one of the medium’s hands, and continued to hold it during his aerial excursion, while a trustworthy friend held the other. Although this took place in darkness, we were certain that no one from the physical plane lifted that chair; though as a matter of fact we did not need that assurance, for there was no one in the room at all capable of such a feat of herculean strength. The moment that the medium and his big chair were safely landed on the table, raps called for a light by the prearranged signal, so that we might see what had been done, our dead friends being evidently rather proud of their achievement.

Bản thân tôi, trong ba dịp, đã có mặt khi đồng tử, ngồi trong một chiếc ghế bành nặng, được nâng vượt qua khỏi đầu chúng tôi khi chúng tôi ngồi quanh bàn, và đặt giữa bàn. Trong hai dịp ấy, chính tôi nắm một tay đồng tử và vẫn tiếp tục nắm trong suốt chuyến “du hành trên không” của ông, trong khi một người bạn đáng tin cậy nắm tay kia. Dù việc này diễn ra trong bóng tối, chúng tôi chắc chắn rằng không ai ở cõi hồng trần đã nhấc chiếc ghế ấy; và thực ra chúng tôi cũng chẳng cần đến sự xác quyết đó, vì trong phòng tuyệt đối không có ai đủ sức mạnh kiểu “Héc-quyn” để làm được trò ấy. Ngay khi đồng tử và chiếc ghế to của ông được đặt an toàn lên bàn, các tiếng gõ liền gọi bật đèn theo tín hiệu đã định trước, để chúng tôi có thể thấy điều vừa được làm, những người bạn đã khuất của chúng tôi hiển nhiên khá tự hào về kỳ công của họ.

Lifted То The Ceiling—Được Nâng Lên Tận Trần Nhà

I myself was once lifted at a seance in rather an unusual way—at least I have not heard of any other case exactly similar. It was at one of the earliest of the public seances which I attended, and many people entirely unknown to me were present. Some ladies on the opposite side of the table cried out that a hand was patting and caressing them, but this in absolute darkness did not seem to be entirely convincing; so that when their exclamations of delight and gratitude to the dear spirit” were becoming a little monotonous I asked quietly: “Will the spirit be so kind as to come across and touch me?” I had hardly expected any re­sponse, but the “spirit” took me promptly at my word; my hand was instantly seized in a strong grasp, and pulled upwards so that I was compelled to rise from my chair. Even when I stood upright, the upward pull still continued, so I hastily stepped on to the seat of my chair. Still the steady irresistible pull, and a moment later I was hanging in the air by one hand, and still ascending. My knuckles touched the smooth, cold surface of the plastered ceiling—the room was a lofty one —and then, apparently through the ceiling, another hand patted mine softly, and I felt myself sinking. Directly afterwards my feet touched the chair, and only then the firm grasp loosened, giving me a final hearty hand-shake as it left me. I climbed down from my chair, convinced that “the clasp of a vanished hand” might sometimes be a fairly strong one.

Chính tôi đã có lần được nâng lên trong một buổi gọi hồn theo cách khá khác thường—ít nhất tôi chưa nghe trường hợp nào giống hệt. Đó là tại một trong những buổi công khai sớm nhất mà tôi tham dự, và có nhiều người hoàn toàn xa lạ với tôi hiện diện. Vài quý bà phía đối diện bàn kêu lên rằng có một bàn tay đang vỗ về và âu yếm họ, nhưng điều đó trong bóng tối hoàn toàn không thật thuyết phục; thành ra khi những tiếng kêu thích thú và bày tỏ lòng biết ơn của họ với vong linh thân mến” trở nên hơi đơn điệu, tôi bình thản hỏi: “Vong linh có lòng tốt bước sang chạm vào tôi chăng?” Tôi hầu như chẳng trông đợi hồi đáp, nhưng “vong linh” lập tức làm đúng lời tôi nói; tay tôi ngay tức khắc bị nắm chặt mạnh mẽ, và bị kéo lên khiến tôi buộc phải đứng khỏi ghế. Ngay cả khi tôi đã đứng thẳng, lực kéo lên vẫn tiếp tục, nên tôi vội bước lên ngồi trên mặt ghế. Lực kéo vẫn đều đặn, không cưỡng nổi, và một khoảnh khắc sau tôi đang treo lơ lửng bằng một tay, vẫn còn đang được kéo lên. Đốt ngón tay tôi chạm vào bề mặt trát vữa trơn lạnh của trần nhà—phòng ấy trần cao—rồi, dường như xuyên qua trần, một bàn tay khác khẽ vỗ tay tôi, và tôi cảm thấy mình đang hạ xuống. Ngay sau đó chân tôi chạm ghế, và chỉ lúc ấy bàn tay đang nắm chặt mới nới lỏng, tặng tôi một cái bắt tay nồng hậu sau cùng rồi rời đi. Tôi bước xuống khỏi ghế, tin chắc rằng “vòng tay của một bàn tay đã khuất” đôi khi có thể khá mạnh.

When I told this story to sceptics afterwards I was always met with one of two explanations. First, that there was a trap-door in that ceiling, and that some mechanical device was employed; second­ly, that the medium was standing on the table in the darkness, and lifted me himself. To the first suggestion I reply that the ceiling was plain, smooth, whitewashed plaster, with never a crack in it, for I climbed again upon my chair in full light after­wards to examine it; and though it was some distance beyond my reach, it would have been utterly impossible to miss seeing a crack if one had been there. Besides, my request could not have been foreseen, and arrangements made to grant it in so striking a manner. As to the second hypothesis, the medium was a small, spare man, and I weigh over thirteen stone; perhaps the sceptic who suggests this will himself stand upon the edge of a circular dining-table with one central support, and then with one hand lift a much heavier man than himself straight up above his own head, holding him suspended merely by one of his hands all the while.

Khi tôi kể câu chuyện này cho những người hoài nghi sau đó, tôi luôn gặp một trong hai lời giải thích. Thứ nhất, rằng có một cửa sập trên trần, và có dùng một cơ cấu cơ khí nào đó; thứ hai, rằng đồng tử đứng trên bàn trong bóng tối và tự mình nhấc tôi lên. Với gợi ý thứ nhất, tôi trả lời rằng trần nhà phẳng, trơn, quét vôi trắng, không một vết nứt, vì sau đó tôi đã trèo lên ghế trong ánh sáng đầy đủ để xem xét; và dù nó ở ngoài tầm với của tôi một quãng, thì hoàn toàn không thể không thấy một vết nứt nếu có. Hơn nữa, yêu cầu của tôi không thể được đoán trước, và cũng không thể sắp đặt sẵn để đáp ứng nó theo cách ngoạn mục như vậy. Còn về giả thuyết thứ hai, đồng tử là một người nhỏ con, gầy gò, còn tôi thì nặng hơn mười ba thạch; có lẽ chính người hoài nghi đưa ra giả thuyết ấy sẽ tự mình đứng lên mép một bàn ăn tròn có một trụ ở giữa, rồi chỉ bằng một tay mà nâng một người nặng hơn mình nhiều lên thẳng trên đầu mình, giữ người ấy lơ lửng chỉ bằng một bàn tay suốt thời gian đó.

Тruе Levitation—Sự Thăng Không Chân Thực

The probabilities are that all the cases of lifting which I have quoted or described were performed by materialized hands, just as in this last experience of my own. There is quite another method of levitation which is occasionally practiced in Oriental countries—a much more occult and scientific method, dependent for its success upon the knowledge and use of a power of repulsion which balances the action of gravitation. I have also seen that, and indeed every student of practical magic is familiar with its employment; but it does not seem to me at all probable that this power was called into requisition in any of the above cases.

Nhiều khả năng là mọi trường hợp nâng người mà tôi đã dẫn hoặc mô tả đều được thực hiện bởi các bàn tay hiện hình, đúng như trong trải nghiệm sau cùng của chính tôi. Có một phương pháp thăng không hoàn toàn khác, đôi khi được thực hành ở các xứ phương Đông—một phương pháp huyền bí và khoa học hơn nhiều, thành công của nó tùy thuộc vào kiến thức và sử dụng một quyền năng đẩy, hãm lại tác dụng của sức hấp dẫn. Tôi cũng đã thấy điều đó, và thực ra mọi đạo sinh thực hành huyền thuật đều quen với cách vận dụng ấy; nhưng theo tôi, hoàn toàn không có khả năng quyền năng đó đã được đem ra sử dụng trong bất kỳ trường hợp nào ở trên.

Gravitation is in fact a force of a magnetic nature, and may be reversed and changed into repulsion, just as ordinary magnetism can be. Such a reversal of this peculiar type of magnetism can be produced at will by one who has learnt its secret, but it has also frequently been produced unintentionally by ecstatics of various types. It is related, for example, both of St. Teresa and of St. Joseph of Cupertino that they were often thus levitated while engaged in meditation. But I fancy that those who are levitated at a spiritualistic seance are generally simply upborne by the materialized hands of the dead.

Sức hấp dẫn thực chất là một mãnh lực thuộc bản chất từ tính, và có thể bị đảo chiều thành đẩy, cũng như từ tính thông thường vậy. Sự đảo chiều của dạng từ tính đặc thù này có thể được tạo ra theo ý muốn bởi người đã học được bí mật của nó, nhưng nó cũng thường xuyên được tạo ra một cách vô tình bởi những người xuất thần thuộc nhiều loại khác nhau. Chẳng hạn, người ta thuật lại rằng cả Thánh Teresa lẫn Thánh Joseph thành Cupertino thường được thăng không như thế khi đang tham thiền. Nhưng tôi đoán rằng những ai được nâng lên trong một buổi gọi hồn thì nói chung chỉ đơn giản được đỡ lên bởi các bàn tay hiện hình của người đã khuất.

These same materialized hands manage all the smaller business of the seance; they wind up the perennial musical box and wave it over the heads of the sitters; they play (sometimes quite sweetly) upon that curious kind of miniature zither which is usually euphoniously termed “fairy bells”; they sprinkle water or perfume sometimes; they bring flowers and fruits and even lumps of sugar, which I have known them deftly to insert into the mouths of their friends.

Chính những bàn tay hiện hình ấy lo liệu mọi công việc nhỏ trong buổi gọi hồn; chúng lên dây hộp nhạc vĩnh cửu và vẫy nó trên đầu những người dự; chúng chơi (đôi khi khá du dương) trên loại đàn tam thập tí hon kỳ lạ thường được gọi bằng cái tên êm tai là “chuông tiên”; đôi khi chúng rảy nước hoặc hương thơm; chúng mang hoa quả và thậm chí cả những cục đường, mà tôi biết chúng khéo léo đút vào miệng bạn hữu của mình.

It is usually they also that are employed in slate-writing, though this may sometimes be managed still more rapidly by means of precipitation, to which we shall make reference presently. But generally the fragment of pencil enclosed between the slates is guided by a hand, of which only just the tiny points sufficient to grasp it are materialized.

Thường cũng chính chúng được dùng trong việc viết trên bảng đá, dù đôi khi điều này còn có thể được thực hiện nhanh hơn nữa bằng phương pháp ngưng tụ, mà chúng ta sẽ nói đến sau. Nhưng thông thường, mẩu bút chì kẹp giữa hai tấm bảng được dẫn dắt bởi một bàn tay, trong đó chỉ những đầu ngón nhỏ xíu đủ để kẹp bút là được hiện hình.

A Slate-Writing Seance—Một Buổi Gọi Hồn Viết Trên Bảng Đá

One well-known medium in London used to carry this slate-writing to a high degree of perfection some fifty years ago. It was the finest possible performance to which to take the bigoted sceptic, who boasted that nothing ever happened or would happen while he was present. One made an appointment with the medium for, say, eleven o’clock on a bright summer morning; one took the sceptic into a stationer’s shop on the way and made him buy two ordinary school slates, put a tiny crumb of slate-pencil between them (or sometimes two or three fragments of different colours) and then have them packed up in brown paper and strongly tied. One then purchased a stick of the best sealing wax and requested the sceptic to seal the string with his own seal in as many places as he wished—the more the better—and on no account whatever to allow that parcel to go out of his hands.

Một đồng tử nổi tiếng ở Luân Đôn đã đưa kỹ thuật viết trên bảng đá này lên trình độ rất cao cách đây chừng năm mươi năm. Đó là tiết mục tuyệt vời nhất để đưa người hoài nghi cố chấp đến xem, kẻ khoe khoang rằng chẳng có gì từng xảy ra hay sẽ xảy ra khi ông ta có mặt. Người ta hẹn với đồng tử vào, giả sử, mười một giờ sáng một ngày hè rực rỡ; người ta đưa kẻ hoài nghi vào một cửa hàng văn phòng phẩm trên đường đi và bảo ông ta mua hai tấm bảng đá học sinh loại thường, kẹp một mảnh vụn bút chì bảng đá bé xíu giữa chúng (hoặc đôi khi hai hay ba mảnh vụn khác màu), rồi bọc chúng vào giấy nâu và buộc chặt. Rồi người ta mua một thỏi sáp niêm phong tốt nhất và yêu cầu kẻ hoài nghi niêm phong dây buộc bằng con dấu của chính mình ở càng nhiều chỗ càng tốt—càng nhiều càng hay—và tuyệt đối không để gói đồ đó rời khỏi tay mình.

Then we proceeded to the medium’s house and commenced the seance, cautioning the sceptic to sit upon his parcel in order to make sure that no one tampered with his slates. The medium com­menced operations with slates of his own, which were always lying upon the table for examination before the seance began; and the sceptic had usually elaborate theories about these, as to how messages had already been written upon them, and washed out with alcohol so that they would presently reappear; or else that of course they would presently be dropped out of sight and others substituted for them by sleight-of-hand. It was best as a rule to let him talk, and take no notice, knowing that one could afford to bide one’s time.

Sau đó chúng tôi đi đến nhà đồng tử và bắt đầu buổi gọi hồn, dặn kẻ hoài nghi ngồi ngay lên gói của mình để chắc rằng không ai can thiệp vào các tấm bảng của ông. Đồng tử bắt đầu thao tác với những tấm bảng của riêng ông, vốn luôn đặt sẵn trên bàn cho xem xét trước khi buổi gọi hồn bắt đầu; và kẻ hoài nghi thường có những lý thuyết công phu về chúng, như việc thông điệp đã được viết sẵn lên đó, rồi rửa bằng cồn để lát nữa sẽ hiện ra; hoặc tất nhiên lát nữa chúng sẽ bị thả khuất tầm mắt và được thay bằng tấm khác bằng ảo thuật. Thông thường tốt nhất là để ông ta nói, và không để tâm, vì biết rằng người ta có thể thong thả chờ thời.

The medium usually held a single slate pressed with one hand against the under surface of the table—a little plain wooden table with no drawers, and obviously no contrivance of any sort about it—not even a cloth upon it. Under these conditions answers were written to any simple question, or any sentence dictated was faithfully taken down. Here the sceptic usually interposed by requesting that a sentence might be written in Sanskrit or Chinese or the Cherokee dialect, and was hugely triumphant if the controlling “spirit” confessed that he did not happen to know these languages. Occasionally he fetched somebody who did know them, and then the sceptic was somewhat staggered, though he still clung to the idea that somehow or other the whole thing was a fraud.

Đồng tử thường cầm một tấm bảng đơn, ép bằng một tay vào mặt dưới của bàn—một chiếc bàn gỗ trơn đơn sơ không ngăn kéo, hiển nhiên không có cơ cấu gì—thậm chí không trải khăn. Trong những điều kiện như vậy, các câu trả lời được viết ra cho bất kỳ câu hỏi đơn giản nào, hoặc bất cứ câu văn nào đọc chính tả cũng được ghi lại trung thực. Lúc này, kẻ hoài nghi thường chen vào yêu cầu viết một câu bằng tiếng Sanskrit hay tiếng Trung Hoa hoặc phương ngữ Cherokee, và lấy làm đắc thắng lớn nếu “vong linh chủ trì” thú nhận rằng y không biết những ngôn ngữ ấy. Thỉnh thoảng y gọi đến ai đó biết chúng, và khi ấy kẻ hoài nghi có phần choáng váng, dù ông ta vẫn bám chặt ý nghĩ rằng dù thế nào đi nữa thì tất cả đều là bịp bợm.

Presently, however, when the seance got into full swing, one insinuatingly asked the directing entities whether they could write upon our own slates; and though I have once or twice been told that they feared the power was not sufficient, in three cases out of four the reply was in the affirmative. Then one turned to the sceptic and requested him to produce his parcel, asking him to examine the seals so as to be perfectly certain that it had not been touched. He was then courteously requested to hold the sealed parcel in his own hands above the table, the medium perhaps taking hold of one corner of it, or perhaps merely laying his hand lightly upon it. Then the sceptic was further requested to formulate a mental question, but on no account to give any indication as to its nature. He did this, and it was generally an interesting study to watch the expression of his face when he heard the sound of rapid writing going on in the parcel between his hands. In a few moments three quick taps signified that the message was finished, and the medium removed his hand, gravely asking the sceptic to examine his seals and make sure that they were intact.

Tuy nhiên, rồi đến lúc buổi gọi hồn vào nhịp hoàn chỉnh, người ta khéo léo hỏi các thực thể điều hành xem họ có thể viết trên chính các tấm bảng của chúng ta không; và dù đã một đôi lần tôi được bảo rằng họ e là năng lực không đủ, thì cứ bốn lần có đến ba lần câu trả lời là khẳng định. Khi đó người ta quay sang kẻ hoài nghi và yêu cầu ông ta đưa gói đồ của mình, mời ông kiểm tra các con dấu để hoàn toàn chắc chắn rằng nó chưa hề bị đụng đến. Sau đó, ông ta được lịch sự yêu cầu cầm gói niêm phong trong chính tay mình trên mặt bàn, đồng tử có thể nắm một góc của nó, hoặc có thể chỉ đặt nhẹ bàn tay lên đó. Rồi kẻ hoài nghi được yêu cầu thêm là hãy hình thành một câu hỏi trong trí, nhưng tuyệt đối không được để lộ bất kỳ dấu hiệu nào về nội dung. Ông ta làm thế, và thường rất thú vị khi quan sát nét mặt của ông khi nghe tiếng viết nhanh vang lên trong gói, giữa hai tay ông. Chỉ trong ít phút, ba tiếng gõ nhanh báo hiệu thông điệp đã xong, đồng tử nhấc tay ra, trịnh trọng yêu cầu kẻ hoài nghi kiểm tra các con dấu và chắc chắn rằng chúng còn nguyên vẹn.

He then cut his parcel open, and found the inside surfaces of his new slates covered with fine writing on the subject of his mental question. Usually for the time he was speechless, and went home to think it over; but by the end of the week he had generally made up his mind that we had been in some inexplicable way deceived or hallucinated, and that “of course we did not really see what we thought we saw.” Nevertheless it was a hard nut to crack, and his frequent references later to “that clever but ridiculous performance” showed that it remained in his mind, and had perhaps done him more good than he was willing to own.

Ông ta liền mở gói, và thấy bề mặt bên trong của các tấm bảng mới phủ kín những dòng chữ viết đẹp nói về câu hỏi trong trí ông. Thường thì trong lúc đó ông ta cứng họng, và về nhà để suy nghĩ; nhưng đến cuối tuần, nói chung ông ta đã quyết rằng chúng tôi bằng cách nào đó khó giải thích đã bị lừa dối hoặc ru ngủ, và rằng “tất nhiên chúng ta đã không thực sự thấy điều mình tưởng là thấy.” Tuy nhiên, đó là một “hạt cứng” khó cắn, và việc ông ta thường xuyên nhắc sau này về “tiết mục khéo léo mà lố bịch ấy” cho thấy nó vẫn ám ảnh trong tâm trí ông, và có lẽ đã đem lại cho ông nhiều điều tốt hơn mức ông sẵn lòng thừa nhận.

The answers given in this way sometimes displayed considerable intelligence and knowledge. It appeared to me, however, that they were often considerably modified by decided opinions on the part of the questioner—whether from a friendly desire to please him, or because the ideas were largely a re­flection of those in his own mind, there was not sufficient evidence to show. For example, I remember myself receiving a perfectly definite statement regarding the existence of certain persons in whom I was deeply interested; the communicating entity not only positively asserted this existence, but adopted towards them precisely my own attitude. Yet I afterwards discovered that only a week previously what professed to be the same entity had, in writing answers for another person, totally denied that any such personages existed at all! It may have been that here we had to deal with two entirely different communicating entities, one masquerading for some reason or other under the name and title of the other; but it is at least significant that in each case the opinion expressed agreed precisely with that of the questioner. On the other hand, I am bound to admit that in many cases the answers given were not at all what any of us expected, and contained information which could by no possibility have been known to any of those present.

Những câu trả lời được đưa ra theo cách này đôi lúc biểu lộ trí tuệ và hiểu biết đáng kể. Tuy nhiên, theo tôi thấy, chúng thường bị điều chỉnh khá nhiều bởi những quan kiến quả quyết của người nêu câu hỏi—không rõ là do thiện ý muốn làm ông ta vui lòng, hay vì các ý tưởng phần lớn là sự phản chiếu từ chính tâm trí ông ta, thì không có đủ bằng chứng để xác định. Chẳng hạn, tôi nhớ có lần tự mình nhận được một lời khẳng định hoàn toàn dứt khoát về sự tồn tại của vài người mà tôi hết sức quan tâm; thực thể truyền thông không những khẳng định tích cực về sự tồn tại đó, mà còn bộc lộ với họ đúng y thái độ của chính tôi. Thế nhưng sau đó tôi phát hiện rằng chỉ một tuần trước đó, cái được cho là cùng một thực thể ấy, khi viết trả lời cho một người khác, đã hoàn toàn phủ nhận rằng có tồn tại bất kỳ nhân vật nào như thế! Ở đây có thể là chúng ta đang đối mặt với hai thực thể truyền thông hoàn toàn khác nhau, một vị nào đó vì lý do gì đã mượn danh và tước hiệu của vị kia; nhưng ít nhất điều đáng chú ý là trong mỗi trường hợp, ý kiến được bày tỏ lại trùng khít với ý kiến của người hỏi. Mặt khác, tôi buộc phải thừa nhận rằng trong nhiều trường hợp, các câu trả lời đưa ra hoàn toàn không như bất kỳ ai trong chúng tôi trông đợi, và chứa những thông tin mà không người nào hiện diện có thể biết được.

It is not difficult to see why this slate-writing should be one of the easiest forms of conveying a message, and indeed the only kind of writing that can readily be performed in full daylight. For the fact is that it never is performed in daylight, even though the surrounding conditions are so absolutely satisfactory to us. Between the two slates or between the slate and the table there is always the darkness which makes materialization easy. When a physical body is slowly grown and built together in the ordinary way, when it is thoroughly permeated by the vital principle and definitely energized by the spirit, it becomes a relatively permanent organism, and can withstand the impact of vibrations from without, within certain limits.

Không khó để hiểu vì sao viết trên bảng đá lại là một trong những hình thức dễ nhất để truyền một thông điệp, và thực ra là loại chữ viết duy nhất có thể dễ dàng thực hiện trong ánh sáng ban ngày. Vì sự thật là nó không bao giờ được thực hiện trong ánh sáng ban ngày, dù các điều kiện xung quanh có vẻ hoàn toàn thỏa đáng với chúng ta. Giữa hai tấm bảng, hoặc giữa tấm bảng và mặt bàn, luôn có bóng tối—thứ khiến việc hiện hình trở nên dễ dàng. Khi một thân thể hồng trần được tăng trưởng từ từ và kết cấu theo cách thông thường, khi nó được thấm nhuần triệt để bằng nguyên lý sinh lực và được tinh thần tiếp năng lực rõ ràng, nó trở thành một cơ thể tương đối bền vững, và trong những giới hạn nhất định có thể chịu được va đập của các rung động từ bên ngoài.

We must remember that materialization is a mere imitation of this—a mere concourse of fortuitous atoms, temporarily put together in opposition to the ordinary laws and arrangements of nature. It therefore needs to be constantly held together with care and difficulty, and any violent vibration strik­ing it from without readily breaks it up. It must also be remembered that the matter employed in materialization is almost all withdrawn from the body of the medium, and is therefore subject to a strong attraction which is constantly drawing it back to him. The strong and rapid vibrations of ordinary light will therefore dissolve a materializa­tion almost instantaneously, except under excep­tional circumstances.

Chúng ta phải ghi nhớ rằng hiện hình chỉ là một sự mô phỏng của điều ấy—một sự hội tụ tình cờ của các nguyên tử, được lắp ghép tạm thời trái với những định luật và trật tự thông thường của tự nhiên. Do đó, nó cần phải được giữ kết hợp thường xuyên với sự cẩn trọng và khó nhọc, và bất kỳ rung động mãnh liệt nào đánh vào nó từ bên ngoài cũng dễ dàng làm nó tan rã. Cũng cần nhớ rằng chất liệu dùng trong hiện hình hầu như đều được rút ra từ thân thể của đồng tử, nên nó chịu một hấp lực mạnh không ngừng kéo nó quay trở về với ông ta. Các rung động mạnh và nhanh của ánh sáng thường sẽ làm tan một hiện hình gần như tức khắc, trừ khi có những hoàn cảnh ngoại lệ.

It can be maintained for some time in presence of a faint light, such as that given by gas turned low, or by what is called a “luminous slate”, which is usually a piece of wood or cardboard coated with luminous paint, and exposed to the sun during the day, so that at night it may give out a faint phosphorescent radiance. It is, however, among the resources of the astral plane to produce a soft light the effect of which seems to be far less violent; and in this it is sometimes possible for the hand which writes to maintain its corporeal existence for a considerable period, as is evidenced by the follow­ing extract from a description of a seance held with Kate Fox by Mr. Livermore on August 18, 1861.

Hiện hình có thể được duy trì một thời gian nào đó trong sự hiện diện của ánh sáng mờ, như ánh sáng đèn gas vặn nhỏ, hoặc bằng cái gọi là “bảng phát quang”, thường là một miếng gỗ hay bìa cứng phủ sơn dạ quang, phơi dưới nắng ban ngày, để ban đêm phát ra một ánh phốt pho mờ nhạt. Tuy nhiên, trong các tài nguyên của cõi cảm dục có thể tạo ra một thứ ánh sáng dịu mà tác dụng dường như ít dữ dội hơn nhiều; và trong thứ ánh sáng này đôi khi bàn tay viết có thể duy trì sự tồn tại vật thể của mình một thời gian đáng kể, điều này được chứng minh bởi đoạn trích sau đây từ mô tả một buổi gọi hồn với Kate Fox do Ông Livermore thực hiện ngày 18 tháng 8 năm 1861.

An Hour’s Writing—Một Giờ Viết Liên Tục

The cards became the center of a circle of light a foot in diameter. Carefully watching this phenomenon, I saw the hand holding my pencil over one of the cards. This hand moved quietly across from left to light, and when one line was finished, moved back to commence another. At first it was a perfectly shaped hand, afterwards it became a dark substance, smaller than the human hand, but still apparently holding the pencil, the writing going on at intervals, and the whole remaining visible for nearly an hour. I can conceive of no better evidence for the reality of spirit-writing. Every possible precaution against decep­tion had been taken. I held both hands of the medium throughout the whole time. I have the cards still, minutely written on both sides; the sentiments there expressed being of the most elevated character, pure and spiritual. (The Debatable Land, p. 301.)

Những tấm thiếp trở thành tâm điểm của một vòng sáng đường kính chừng một foot. Theo dõi cẩn thận hiện tượng này, tôi thấy một bàn tay cầm bút chì của tôi trên một trong những tấm thiếp. Bàn tay ấy di chuyển êm ái từ trái sang phải, và khi một dòng vừa xong, nó lại di chuyển ngược lại để bắt đầu dòng khác. Ban đầu đó là một bàn tay có hình dạng hoàn hảo, sau đó nó trở thành một chất tối, nhỏ hơn bàn tay người, nhưng dường như vẫn cầm bút, chữ viết tiếp tục theo từng chặng, và toàn bộ vẫn nhìn thấy được gần một giờ. Tôi không thể nghĩ ra bằng chứng nào tốt hơn cho thực tại của việc viết của vong linh. Mọi biện pháp đề phòng khả năng lừa dối đều đã được thực hiện. Tôi nắm cả hai tay của đồng tử trong suốt thời gian đó. Tôi vẫn còn giữ các tấm thiếp, được viết chi chít ở cả hai mặt; những tâm ý bày tỏ ở đó có phẩm cách cao nhất, thanh cao và tinh thần. (The Debatable Land , tr. 301.)

This account gives us an example of the difficulty, even under these exceptionally favourable condi­tions, of maintaining a materialization for so long a period. It seems to have been impossible to preserve the shape of the hand, but something visible which could still hold and guide the pencil was somehow kept together until the necessary work was finished.

Bản tường thuật này cho chúng ta một ví dụ về khó khăn, ngay cả trong những điều kiện thuận lợi ngoại lệ như thế, để duy trì một hiện hình trong một thời gian dài đến vậy. Có vẻ như không thể giữ nguyên hình dạng của bàn tay, nhưng một thứ gì đó hữu hình vẫn có thể cầm và điều khiển bút chì đã được giữ kết hợp theo cách nào đó cho đến khi công việc cần thiết hoàn tất.

It seems probable that the working of the little board called planchette is sometimes accomplished by means of a partial materialization, for I have seen cases in which it distinctly moved underneath the fingers which were resting upon it, and was in no way moved by them. When it is clearly the hand which moves the board, this phenomenon of course belongs to our first class, in which the body of the medium is utilized, though that medium may be entirely unconscious of what is being done.

Dường như có thể việc vận hành cái bảng nhỏ gọi là bảng viết tự động đôi khi được thực hiện bằng một hiện hình bán phần, vì tôi đã thấy những trường hợp trong đó nó rõ ràng di chuyển ở bên dưới các ngón tay đang đặt lên nó, và hoàn toàn không do những ngón tay ấy đẩy. Khi rõ ràng chính bàn tay di chuyển bảng, thì hiện tượng này dĩ nhiên thuộc loại thứ nhất của chúng ta, trong đó thân thể của đồng tử được tận dụng, dù đồng tử có thể hoàn toàn vô thức về điều đang xảy ra.

Direct Painting—Họa Phẩm Trực Tiếp

I have also seen some good specimens of painting which were probably executed in the same manner as the writing above described. I say probably, because as they were executed in darkness, it is impossible to be absolutely sure; they may have been precipitations, although as that is a more difficult process, I do not think that it is likely to have been employed. There have been mediums who have made a specialty of this production of pictures, and it is certainly a very pleasing exhibi­tion of astral power. I have twice seen a little landscape, perhaps eight inches by five, produced in total darkness on a marked piece of paper in from fifteen to twenty minutes. The execution was fair, the colours were natural and harmonious, and some of the paint was still wet when the lights were turned up. I am perfectly sure that the sheet of paper employed was in each case that which I brought with me. In one instance, just before the lights were turned down, I tore a curiously jagged fragment off one of the corners of the piece and kept it in my own possession until the picture was completed, and found when the lights were turned up that it fitted exactly into the tear in the sheet upon which the landscape was drawn.

Tôi cũng đã thấy vài mẫu hội họa khá tốt nhiều khả năng được thực hiện theo cùng cách như việc viết nói trên. Tôi nói “nhiều khả năng”, vì do chúng được thực hiện trong bóng tối, nên không thể chắc chắn tuyệt đối; chúng có thể là các bức vẽ do ngưng tụ, dù vì đó là một quy trình khó hơn, tôi không cho rằng nó đã được sử dụng. Đã có những đồng tử chuyên biệt về việc tạo tác các bức tranh như thế này, và đó chắc chắn là một màn biểu diễn rất dễ chịu của uy lực cảm dục. Tôi đã hai lần thấy một bức phong cảnh nhỏ, cỡ chừng tám inch x năm inch, được vẽ trong bóng tối hoàn toàn trên một tờ giấy đã đánh dấu, trong khoảng mười lăm đến hai mươi phút. Lối vẽ tạm ổn, màu sắc tự nhiên và hài hòa, và một phần sơn vẫn còn ướt khi bật đèn. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng tờ giấy dùng mỗi lần đều là tờ tôi đem theo. Trong một trường hợp, ngay trước khi tắt đèn, tôi xé một mẩu răng cưa kỳ lạ ở một góc tờ giấy và giữ nó bên mình cho đến khi bức tranh hoàn tất, và khi bật đèn thì thấy mẩu giấy ấy khít chính xác với vết rách trên tờ giấy có bức phong cảnh.

On neither of these occasions was the landscape one which I recognized, though at the house of the same medium I have seen well-executed paintings of scenes with which I was familiar, which I was told had been produced in exactly the same manner. In both of these cases a box of water-colours, a palette and brushes were provided, and after the seance they bore signs of having been used. I have also on another occasion, and with a different medium, seen a much larger drawing in coloured chalks produced in darkness in even less time, but in this case the execution, though bold and dashing, was certainly crude and erratic. The subject in this case was a lady’s head, and the likeness was recognizable, though not flattering. On all these occasions it was absolutely certain that the medium was in no way concerned in the production of the pictures, his hands being held during the whole time, and the outline of his form being sufficiently visible in two of the cases to prevent him from moving without instant detection.

Trong cả hai dịp ấy, phong cảnh không phải là nơi tôi nhận ra, dù tại nhà của cùng đồng tử đó tôi đã thấy những bức vẽ đẹp về các cảnh mà tôi quen thuộc, và được cho biết là đã được tạo ra theo đúng cùng cách thức. Trong cả hai trường hợp, một hộp màu nước, bảng trộn màu và cọ được chuẩn bị, và sau buổi gọi hồn chúng đều mang dấu hiệu đã được dùng. Ngoài ra, trong một dịp khác, với một đồng tử khác, tôi đã thấy một bức vẽ lớn hơn nhiều bằng phấn màu được thực hiện trong bóng tối trong thời gian còn ngắn hơn, nhưng trong trường hợp này, bút pháp tuy táo bạo, phóng khoáng, song chắc chắn là thô và thất thường. Đề tài lần đó là một bức chân dung đầu một quý bà, và diện mạo có thể nhận ra, dù không nịnh mắt. Trong tất cả những dịp này, hoàn toàn chắc chắn rằng đồng tử không hề dính dáng gì đến việc làm ra các bức tranh, vì tay ông được giữ trong suốt thời gian, và đường viền thân hình ông đủ nhìn thấy trong hai trường hợp để khiến ông không thể cử động mà không bị phát hiện ngay.

Musical Performances—Các Trình Diễn Âm Nhạc

A man who has attained facility during life in the management of any kind of instrument does not lose his power when he drops his physical body. I have heard both a violin and a flute played fairly well by invisible hands, when there was light enough to see that the instruments were not being touched by any of the persons present in the physical body. I have also many times seen a concertina played in the same way, sometimes while I myself held the other end of the instrument. Many times also a piano has been played in my presence by invisible hands, and it seemed to make no difference whether the lid enclosing the keyboard was open or shut. Sometimes, before beginning to play, the dead man would dash back the lid, and then we could see the keys depressed as the playing went on precisely as though we ourselves had been operating upon the instrument. If during the performance we closed the piano, the playing usually went on just as if it had remained open. On two occasions I have heard the wires of a piano played without moving the keys, just as the strings of a harp might be.

Một người trong đời đã thuần thục việc điều khiển bất kỳ loại nhạc cụ nào thì không mất năng lực ấy khi lìa bỏ thể xác. Tôi đã nghe cả vĩ cầm và sáo được chơi khá ổn bởi những bàn tay vô hình, khi ánh sáng đủ để thấy rằng các nhạc cụ không bị bất kỳ ai hiện diện trong thân xác chạm vào. Tôi cũng nhiều lần thấy một đàn concertina được chơi theo cách ấy, đôi khi trong khi chính tôi giữ đầu kia của nhạc cụ. Cũng nhiều lần, một cây dương cầm đã được chơi trước mặt tôi bởi những bàn tay vô hình, và xem ra việc nắp che bàn phím mở hay đóng cũng chẳng tạo khác biệt. Đôi khi, trước khi bắt đầu chơi, người đã khuất hất nắp lên, và rồi chúng tôi có thể thấy các phím lún xuống khi bản nhạc vang lên, chính xác như thể tự tay chúng tôi đang chơi nhạc cụ. Nếu trong lúc biểu diễn chúng tôi đóng nắp dương cầm lại, bản nhạc thường vẫn tiếp diễn như thể nắp còn mở. Có hai dịp tôi nghe các dây đàn của dương cầm được chơi mà không cần bấm phím, đúng như người ta có thể gảy dây đàn hạc vậy.

Another instance of a man who after death retained his power to operate a machine to which he had been accustomed during life is given by Sir William Crookes on p. 95 of his book. The operator was not exactly using his instrument, but he undoubtedly showed that he still possessed the power to do so, had the instrument been there. The story is as follows:

Một ví dụ khác về một người sau khi chết vẫn giữ năng lực vận hành một cỗ máy mà y từng quen dùng khi còn sống được Ngài William Crookes thuật lại ở tr. 95 trong sách của ông. Người vận hành không hẳn là đang dùng nhạc cụ của mình, nhưng y đã không chút nghi ngờ cho thấy rằng y vẫn có năng lực làm thế, nếu nhạc cụ có mặt. Câu chuyện như sau:

The Telegraph Operator—Người Điện Báo

During a seance with Mr. Home, a small lath, which I have before mentioned, moved across the table to me, in the light, and delivered a message to me by tapping my hand; I repeating the alphabet, and the lath tapping me at the right letters. The other end of the lath was resting on the table, some distance from Mr. Home’s hands.

Trong một buổi gọi hồn với Ông Home, một thanh gỗ nhỏ, mà tôi đã nhắc đến trước đó, di chuyển qua bàn đến chỗ tôi, trong ánh sáng, và truyền một thông điệp cho tôi bằng cách gõ vào tay tôi; tôi đánh vần bảng chữ cái, và thanh gỗ gõ vào tay tôi đúng các chữ cái. Đầu kia của thanh gỗ đặt trên bàn, cách khá xa tay của Ông Home.

The taps were so sharp and clear, and the lath was evidently so well under control of the invisible power which was governing its movements, that I said: “Can the intelligence governing the motion of this lath change the character of the movements, and give me a telegraphic message through the Morse alphabet by taps on my hand?” (I have every reason to believe that the Morse code was quite unknown to any other person present, and it was only imperfectly known to me.) Immediately I said this, the character of the taps changed, and the message was continued in the way I had requested. The letters were given too rapidly for me to do more than catch a word here and there, and consequently I lost the message; but I heard sufficient to convince me that there was a good Morse operator at the other end of the line, wherever that might be.

Các tiếng gõ rõ ràng, dứt khoát, và thanh gỗ hiển nhiên ở dưới sự kiểm soát rất tốt của quyền năng vô hình đang điều khiển chuyển động của nó, đến mức tôi nói: “Liệu trí tuệ đang điều khiển chuyển động của thanh gỗ này có thể thay đổi tính chất chuyển động, và gửi cho tôi một thông điệp điện báo theo bảng chữ Morse bằng các tiếng gõ vào tay tôi chăng?” (Tôi có đủ lý do để tin rằng bảng mã Morse hoàn toàn xa lạ với bất kỳ ai khác có mặt, và tôi thì cũng chỉ biết chắp vá.) Ngay khi tôi nói vậy, tính chất của các tiếng gõ thay đổi, và thông điệp tiếp tục theo cách tôi đã yêu cầu. Các chữ được gửi quá nhanh khiến tôi chỉ kịp chộp lấy một từ chỗ này chỗ kia, và vì thế tôi đã bỏ lỡ thông điệp; nhưng tôi nghe đủ để tin chắc rằng ở đầu dây bên kia, dù ở đâu đi nữa, là một người điện báo Morse giỏi.

The Direct Voice—Giọng Nói Trực Tiếp

In the case of the flute above mentioned it is obvious that the performer must have materialized not only finger-tips to press the keys, but also a mouth with which to blow. It is by no means uncommon at a seance for the dead man to construct vocal organs sufficiently to produce intelligible sound, though this appears to be (as indeed one would naturally suppose) a much more difficult feat than the production of a hand. Often the construction of such organs seems to be imperfect, and the resulting voice is a hoarse whistling whisper. I think almost invariably the first attempts of an unaccustomed ghost to materialize a voice go no further than the softest of whispers; but on the other hand the “spirit guide” of a regular medium, having practiced the art of materializing organs and speaking through them many hundreds of times, often possesses a perfectly natural and characteristic voice.

Trong trường hợp cây sáo nói trên, hiển nhiên người biểu diễn phải hiện hình không chỉ các đầu ngón tay để bấm phím, mà còn cả một cái miệng để thổi. Tại một buổi gọi hồn, việc người đã khuất cấu tạo các cơ quan phát âm đủ để tạo ra âm thanh rõ ràng hoàn toàn không hiếm, dù điều này xem ra (như tự nhiên ta vẫn nghĩ) là một kỳ công khó hơn nhiều so với việc tạo ra một bàn tay. Thường thì việc cấu tạo các cơ quan như vậy có vẻ không hoàn chỉnh, và giọng nói kết quả chỉ là một tiếng thì thào rè rè như huýt gió. Theo tôi, hầu như luôn luôn, nỗ lực đầu tiên của một hồn ma chưa quen việc hiện hình giọng nói sẽ không đi xa hơn mức thì thào khẽ nhất; nhưng mặt khác, “vong linh hướng dẫn” của một đồng tử chuyên nghiệp, sau khi luyện tập nghệ thuật hiện hình các cơ quan và nói qua chúng hàng trăm lần, thường có một giọng nói hoàn toàn tự nhiên và đặc trưng.

All those who have been in the habit of attending the seances of certain well-known mediums during the last half-century must be familiar with the round, sonorous voice of the director who elects to be known by the name of “John King”, and the hearty, friendly manner in which he greets those whom he has come to know and trust. I well remember an occasion when, having invited a medium down to my cottage in the country, we were walking together across a wheat-field, and a well-known “spirit-voice” joined in our conversa­tion in the most natural way in the world, just exactly as if a third person had been walking with us.

Tất cả những ai quen lui tới các buổi gọi hồn của một số đồng tử nổi tiếng trong nửa thế kỷ qua hẳn đều quen thuộc với giọng tròn và ngân vang của vị điều phối chọn lấy tên “John King”, và phong thái thân thiện, chân tình trong cách ông chào đón những người mà ông đã quen biết và tin cậy. Tôi còn nhớ rất rõ một lần, sau khi mời một đồng tử về căn nhà nhỏ của tôi ở nông thôn, chúng tôi đang cùng nhau đi băng qua một cánh đồng lúa mì, thì một “giọng vong linh” quen thuộc hòa vào câu chuyện của chúng tôi theo cách tự nhiên nhất thế gian, đúng y như thể có một người thứ ba đang cùng đi với chúng tôi vậy.

I am quite aware that the ordinary explanation of a “spirit-voice” is that it is an effort of ventriloquism on the part of the medium, but when one recognizes the voice as one well known in earth-life that explanation seems a trifle unsatisfactory. Also it seems to me to fail to account for the fact that on one occasion, at a seance in my own house, the unseen performers treated us to a song in which all four parts were distinctly audible, two of them being taken by very good female voices—and that although the medium was of the male sex (and in a deep trance anyhow) and none but men (trusted friends of my own) were physically present in the room.

Tôi hoàn toàn ý thức rằng lời giải thích thông thường về một “giọng vong linh” là đó là một màn nói tiếng bụng của đồng tử, nhưng khi người ta nhận ra giọng nói đó là một giọng rất quen thuộc trong đời sống trần gian thì lời giải thích ấy xem ra hơi thiếu thỏa đáng. Hơn nữa, theo tôi, nó cũng không giải thích được thực tế rằng có một lần, tại một buổi gọi hồn ở chính nhà tôi, những người biểu diễn vô hình đã đãi chúng tôi một bản hợp xướng trong đó cả bốn bè đều nghe rất rõ, trong đó có hai bè do các giọng nữ rất tốt đảm nhiệm—mặc dù đồng tử là nam giới (và dù sao cũng đang ở trong xuất thần sâu) và trong phòng chỉ có nam giới (những người bạn tôi tin cậy) hiện diện về mặt thể chất.

Under this head of partial materialization we must also include what are sometimes called “spirit photographs”; for whatever can be photographed must of course be physical matter, capable of reflecting some of the rays of light which can act upon the sensitized plate of the camera. It does not at all follow that it need be composed of matter visible to us, for the camera is sensitive to a large range of actinic ultra-violet rays which produce no impression whatever upon our eyes as at present constituted.

Trong mục hiện hình bán phần này, chúng ta cũng phải bao gồm cái đôi khi được gọi là “ảnh vong linh”; vì bất cứ thứ gì có thể chụp ảnh được ắt dĩ nhiên là vật chất hồng trần, có khả năng phản xạ một số tia sáng tác động lên bản kính nhạy sáng của máy ảnh. Hoàn toàn không nhất thiết nó phải cấu thành từ chất liệu hữu hình với chúng ta, vì máy ảnh nhạy với một dải rộng các tia tử ngoại có tính quang hóa vốn không hề gây ấn tượng với đôi mắt của chúng ta như hiện đang cấu tạo.

I know enough of photography to realize how easily a so-called “spirit-photograph” could be produced by trickery, but I also know that there are a great many which were as a matter of fact not so produced. I have seen a large number of those which were taken under test conditions for Mr. W. T. Stead when he was investigating this curious form of mediumship, and I have also been favoured with a sight of several of those taken by and for our late Vice-President, Mr. A. P. Sinnett.

Tôi hiểu nhiếp ảnh đủ để nhận ra một “ảnh vong linh” gọi là có thể dễ dàng được tạo ra bằng trò bịp, nhưng tôi cũng biết có rất nhiều bức trên thực tế không được tạo ra như vậy. Tôi đã xem nhiều bức được chụp trong các điều kiện kiểm soát cho Ông W. T. Stead khi ông đang khảo sát dạng đồng cốt kỳ lạ này, và tôi cũng đã may mắn được xem vài bức do và cho cố Phó Chủ tịch của chúng ta, Ông A. P. Sinnett, chụp.

Interesting Photographs—Những Bức Ảnh Thú Vị

A good typical case of this photography of the partially materialized dead was related to me by a veteran army officer. It seems that he had lost (as we usually call it) three daughters by death, within a comparatively short space of time. One day in a large city, hundreds of miles from home, he saw an advertisement of a photographer who professed to be able to produce portraits of the dead, so he turned into his studio then and there, and asked to be taken. He gave no indication of what he expected, or indeed that he expected anything at all beyond his own portrait; and he asserts that it was absolutely impossible that he could have been, in any way known to the photographer. Yet when he called for the portraits three floating faces appeared grouped about his own, fainter than his, but unmistakably recognizable. He showed me the photograph, and also the portraits of his daughters taken during their physical life; they were unquestionably the same young ladies as those in the picture taken after their death.

Một trường hợp tiêu biểu hay về việc chụp ảnh người đã khuất hiện hình bán phần được kể lại với tôi bởi một sĩ quan quân đội kỳ cựu. Dường như ông đã “mất” (như ta thường nói) ba cô con gái do cái chết, trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Một ngày, tại một thành phố lớn cách nhà hàng trăm dặm, ông thấy một quảng cáo của một nhiếp ảnh gia tự nhận có thể chụp chân dung người đã khuất, thế là ông bước vào phòng chụp ngay lúc ấy, và xin được chụp. Ông không đưa ra bất kỳ dấu hiệu nào về điều mình mong đợi, hay thực ra rằng ông mong đợi điều gì khác ngoài chân dung của chính mình; và ông quả quyết rằng hoàn toàn không thể có chuyện ông bị nhiếp ảnh gia biết đến theo bất cứ cách nào. Thế mà khi ông đến lấy ảnh, ba gương mặt lơ lửng xuất hiện tụ lại quanh ảnh ông, mờ hơn ảnh ông, nhưng nhận ra không thể lầm lẫn. Ông cho tôi xem bức ảnh, cùng với các chân dung của các con gái ông chụp khi còn sống; không thể nghi ngờ đó chính là những cô gái giống hệt với các khuôn mặt trong bức ảnh chụp sau khi họ qua đời.

In Photographing the Invisible Dr. James Coates gives us a number of examples of photographs on which appear psychic “extras,” as they are some­times called. Many of these were produced under conditions which precluded any sort of preparation of the plates, and were developed in the presence of reliable witnesses. A curious example on the photograph of a Chinese man is recounted by Mr. Edward Wyllie, a well-known American “spirit-photographer”. (pp. 167-8.)

Trong Photographing the Invisible , Bác sĩ James Coates đưa ra cho chúng ta một số ví dụ về những bức ảnh có “ảnh phụ” tâm linh, như đôi khi người ta gọi. Nhiều bức trong số này được tạo ra dưới các điều kiện loại trừ mọi sự chuẩn bị trước cho bản kính, và được tráng rửa trước sự chứng kiến của các nhân chứng đáng tin cậy. Một ví dụ kỳ lạ trên tấm ảnh của một người Trung Hoa được thuật lại bởi Ông Edward Wyllie, một “nhiếp ảnh gia vong linh” nổi tiếng người Mỹ. (tr. 167-168.)

I had been giving tests to some gentlemen in Los Angeles in connection with the Psychic Research Society. Some were convinced of the fact of psychic photography, and others were not. It was suggested by one member it would be a good thing if I could obtain “extras” on the plate of someone wholly ignorant of both the subject and of spiritualism. Then it could not be said that their know­ledge or attitude had anything to do with the results. It was not easy to get someone with the qualifications desired. When one day “Charlie,” a Chinese laundryman, called for my clothes, it struck me to ask him: “Charlie, like to have your picture taken?” “No,” he replied. “No likee that.” He knew that I was a photographer, but had a dislike, I think, to photography, as most Chinese have. I tried to persuade him after he had called two or three times. I showed him that there could be no harm in it, and I would take a “glass” (as negatives are called) for nothing, and print him some nice pictures of himself. Charlie wanted to go home and change his clothes, but I knew it would not do to let him slip, and got him to sit. He was very much scared. I made his mind easy and asked him to come in a few days, and I would give him the pictures. When I developed the negative there were two “extras “on it—a Chinese boy and some Chinese writing. When Charlie came round I showed him the print, and he said: “That my boy; where you catchee him? “I asked him if it was not one of his cousins in the city. He said, “No, that my boy. He not here; where you catchee him?” I asked him where his boy was, and he said, “That my boy. He’s in China. Not seen him for three years.”

Tôi từng làm các thử nghiệm cho một số quý ông ở Los Angeles trong mối liên hệ với Hội Nghiên Cứu Tâm linh. Một số bị thuyết phục về tính thực của nhiếp ảnh tâm linh, số khác thì không. Một thành viên đề nghị rằng sẽ hay nếu tôi có thể thu được “ảnh phụ” trên tấm kính của một người hoàn toàn không biết cả về chủ đề lẫn về thuyết gọi hồn. Khi đó sẽ không thể nói rằng sự hiểu biết hay thái độ của họ có can dự gì vào kết quả. Không dễ để tìm được người có đủ các điều kiện mong muốn. Một hôm, “Charlie”, một người giặt ủi Trung Hoa, đến lấy quần áo của tôi, tôi chợt nảy ý hỏi anh ta: “Charlie, muốn chụp hình không?” “Không,” anh trả lời. “Không thích cái đó.” Anh biết tôi là nhiếp ảnh gia, nhưng tôi nghĩ anh không thích nhiếp ảnh, như đa phần người Trung Hoa. Tôi tìm cách thuyết phục anh sau khi anh ghé hai ba lần. Tôi cho anh thấy chẳng hại gì, và tôi sẽ chụp một “tấm kính” (cách gọi bản kính âm) miễn phí, và in cho anh vài tấm ảnh đẹp của chính anh. Charlie muốn về nhà thay áo quần, nhưng tôi biết không thể để anh tuột mất, và khiến anh ngồi vào chụp. Anh rất sợ. Tôi trấn an anh và dặn vài hôm nữa quay lại, tôi sẽ đưa ảnh cho. Khi tôi tráng rửa bản kính, có hai “ảnh phụ” trên đó—một cậu bé Trung Hoa và vài dòng chữ Trung Hoa. Khi Charlie đến, tôi cho anh xem ảnh in, và anh nói: “Đó con trai tôi; ông bắt nó ở đâu vậy?” Tôi hỏi có phải đó là một trong các anh em họ của anh trong thành phố không. Anh nói, “Không, đó con trai tôi. Nó không ở đây; ông bắt nó ở đâu?” Tôi hỏi con trai anh ở đâu, và anh nói, “Đó con trai tôi. Nó đang ở Trung Hoa. Không gặp nó đã ba năm.”

Charlie would not believe that I had not by some magic got his “boy here”. Charlie then brought other Chinamen—friends of his own—to see the picture, and they all recognised the youngster. Charlie did not know that his son was dead. As far as he knew, he was alive and well.

Charlie không chịu tin rằng tôi không bằng một phép thuật nào đó đã “đem con trai anh đến đây”. Rồi Charlie đưa những người Trung Hoa khác—bạn bè của anh—đến xem tấm ảnh, và tất cả đều nhận ra cậu bé. Charlie không biết con trai mình đã chết. Theo như anh biết, nó vẫn sống và khỏe.

Mr. Wyllie also had remarkable success in obtain­ing the same sort of psychic impressions upon photographs of letters and locks of hair. Dr. Coates relates (p. 197 et seq.) that before Mr. Wyllie was induced to visit Scotland, a test of his photography was proposed in The Two Worlds (1st Jan., 1909). In consequence about forty people sent locks of hair to be photographed. All got some “extras,” some of which were identifiable portraits of depart­ed friends.

Ông Wyllie cũng rất thành công trong việc thu được cùng loại ấn tượng tâm linh trên ảnh chụp thư từ và tóc. Bác sĩ Coates thuật lại (tr. 197 và tiếp theo ) rằng trước khi Ông Wyllie được mời thăm Scotland, một cuộc thử nghiệm nhiếp ảnh của ông đã được đề xuất trên The Two Worlds (1/1/1909). Hệ quả là khoảng bốn mươi người gửi lọn tóc để chụp ảnh. Tất cả đều có “ảnh phụ”, trong đó một số là các chân dung nhận diện được của bằng hữu đã khuất.

Among the experimenters were Mrs. A. S. Hunter, widow of Dr. Archibald Hunter of Bridge of Allan, and Mme. A. L. Pogosky, also a widow, director of the Russian Peasant Industries in London. The photograph of Mme. Pogosky’s card had two psychic faces upon it—one of Dr. Hunter, and the other that of the deceased wife of Mr. Auld, a friend of Dr. Coates’. Mrs. Hunter’s photograph showed, in addition to the letter and lock of hair which she had sent, three forms, identified as an old schoolfellow, and a niece and nephew, all dead. Referring to the picture of Mrs. Auld, Dr. Coates remarks:

Trong số những người thử nghiệm có Bà A. S. Hunter, quả phụ của Bác sĩ Archibald Hunter ở Bridge of Allan, và Bà A. L. Pogosky, cũng là quả phụ, giám đốc ngành Công nghiệp Nông dân Nga ở Luân Đôn. Bức ảnh chụp tấm thiếp của Bà Pogosky có hai gương mặt tâm linh trên đó—một của Bác sĩ Hunter, và một của người vợ đã khuất của Ông Auld, một người bạn của Bác sĩ Coates. Ảnh của Bà Hunter cho thấy, ngoài lá thư và lọn tóc bà gửi, còn có ba hình, được nhận diện là một bạn học cũ, và một cháu gái cùng một cháu trai, tất cả đều đã mất. Nói về bức ảnh của Bà Auld, Bác sĩ Coates nhận xét:

Here we have an identified portrait of a lady, taken by a stranger six thousand miles away, wholly ignorant of Mr. Auld or ourselves. I had not written this medium (Mr. Wyllie) till the 17th of March, 1909, nearly two months after this picture was obtained, and of its existence none in Rothesay were aware till… nearly fourteen months afterwards. Truly truth is stranger than fiction.

Ở đây chúng ta có một chân dung đã được nhận diện của một quý bà, do một người xa lạ chụp cách sáu ngàn dặm, hoàn toàn không hay biết về Ông Auld hay về chúng tôi. Tôi chưa từng viết cho đồng tử này (Ông Wyllie) cho đến ngày 17 tháng Ba, 1909, gần hai tháng sau khi bức ảnh này được chụp, và ở Rothesay không ai biết về sự tồn tại của nó cho đến… gần mười bốn tháng sau. Thật đúng là sự thật còn lạ lùng hơn hư cấu.

Later Mr. Wyllie visited Dr. and Mrs. Coates in Scotland, and took many “spirit” photographs there. When he was packing up his things preparatory to taking his departure Mrs. Coates (who was herself psychic) had a sudden impulse to ask for a sitting. Mr. Wyllie had packed away his favourite camera, but there were still in the room a Kodak camera and some plates purchased locally, that is, in Rothesay. One of the plates was exposed on Mrs. Coates, and when developed showed also a good likeness of her grandmother (p. 223),

Sau đó Ông Wyllie thăm Bác sĩ và Bà Coates ở Scotland, và chụp nhiều ảnh “vong linh” tại đó. Khi ông đang thu xếp hành lý chuẩn bị lên đường, Bà Coates (bà vốn có năng lực tâm linh) bỗng có thôi thúc xin một buổi chụp. Ông Wyllie đã cất đi chiếc máy ảnh ưa thích, nhưng trong phòng vẫn còn một máy Kodak và vài bản kính mua tại địa phương, tức ở Rothesay. Một trong các bản kính được chụp cho Bà Coates, và khi tráng rửa đã cho thấy thêm một hình ảnh rõ nét của bà ngoại bà (tr. 223),

That Mr. Wyllie’s “extras” could be produced under test conditions was proved by the report of a test committee, appointed by the Glasgow Association of Spiritualists. They stipulated that they should provide the camera and plates; the former belonged to one of the committee, the latter, eight in number, were bought at the nearest chemist’s twenty minutes before the meeting, and were put into slides in the chemist’s dark room. After the plates were exposed they were immediate­ly placed in the camera bag and taken away by the committee and developed. Under these test conditions several of the plates showed psychic impressions. (pp. 253-6.)

Việc “ảnh phụ” của Ông Wyllie có thể được tạo ra dưới các điều kiện kiểm soát đã được chứng minh bằng báo cáo của một ủy ban thử nghiệm do Hội Những Người Thông linh Glasgow bổ nhiệm. Họ đặt điều kiện rằng chính họ sẽ cung cấp máy ảnh và bản kính; máy ảnh thuộc một ủy viên, còn bản kính, số tám chiếc, được mua tại hiệu thuốc gần nhất hai mươi phút trước buổi họp, và được lắp vào các khung trượt trong phòng tối của hiệu thuốc. Sau khi các bản kính được phơi sáng, chúng lập tức được đặt vào túi máy ảnh và mang đi bởi ủy ban để tráng rửa. Dưới các điều kiện thử nghiệm này, vài bản kính cho thấy các ấn tượng tâm linh. (tr. 253-256.)

Leave a Comment

Scroll to Top