Chapter IX—VISIBLE MATERIALIZATIONS
Intangible Forms—Những Hình Tướng Phi Tiếp Xúc
We must consider now materializations of our second and third types—those which are visible, but not tangible, and in many cases manifestly diaphanous; and the full materializations, which seem in all respects indistinguishable for the time from persons still in the physical body. The second type is not uncommon, and though such materializations usually avoid coming within reach of the sitters I was on one occasion especially asked by a direct voice to pass my hand gently through a form of this nature. I can only say that my sense of touch detected absolutely nothing, though a distinctly visible, but semi-transparent form stood in front of me, smiling at my futile efforts. When I closed my eyes, I could not tell whether my hand was inside or outside the body which looked so perfect and so living. Forms of this nature are probably easier to construct than the more solid kind, for I have once or twice had startling evidence that one which appeared entirely solid was in reality so only in part. A hand which is strong enough to give a vigorous grasp is often joined to an arm which does not exist as far as the sense of touch is concerned, though appearing to the eye just as solid as the hand. Materializations of this second type are described by Sir William Crookes as follows, at p. 94 of his Researches. | Giờ chúng ta phải xét đến các hiện hình thuộc kiểu thứ hai và thứ ba—những hiện hình nhìn thấy được, nhưng không chạm được, và trong nhiều trường hợp rõ ràng là bán trong suốt; và những hiện hình hoàn toàn, dường như trên mọi phương diện không thể phân biệt trong thời gian đó với những người còn ở trong thể xác. Kiểu thứ hai không hiếm, và tuy những hiện hình như vậy thường tránh đến trong tầm tay của người ngồi, có một lần tôi được một tiếng nói trực tiếp yêu cầu đặc biệt đưa tay nhẹ nhàng xuyên qua một hình tướng thuộc loại này. Tôi chỉ có thể nói rằng xúc giác của tôi không hề ghi nhận được điều gì, dẫu trước mặt tôi là một hình tướng hiện rõ ràng, nhưng bán trong, đang mỉm cười trước nỗ lực vô ích của tôi. Khi tôi nhắm mắt lại, tôi không thể biết được tay mình đang ở trong hay ở ngoài “thân thể” trông hoàn hảo và sống động đến thế. Những hình tướng dạng này có lẽ dễ cấu tạo hơn loại đặc rắn hơn, vì tôi đã một hai lần có bằng chứng gây sửng sốt rằng một hình tướng trông hoàn toàn đặc rắn thực ra chỉ đặc một phần. Một bàn tay đủ mạnh để siết chặt đầy lực thường nối vào một cánh tay không tồn tại nếu xét theo xúc giác, dù nhìn bằng mắt nó đặc không khác gì bàn tay. Những hiện hình kiểu thứ hai này được Ngài William Crookes mô tả như sau, ở tr. 94 cuốn Researches của Ông. |
In the dusk of the evening during a seance with Mr. Home at my house, the curtains of the window about eight feet from Mr. Home were seen to move. A dark, shadowy, semi-transparent form like that of a man was then seen by all present standing near the window, waving the curtain with his hand. As we looked the form faded away and the curtain ceased to move. The following is a still more striking instance. As in the former case Mr. Home was the medium. A phantom form came from a corner of the room, took an accordion in his hand, and then glided about the room placing the instrument. The form was visible to all present for many minutes, Mr. Home also being seen at the same time. Coming rather close to a lady who was sitting apart from the rest of the company, she gave a slight cry, upon which it vanished. | Trong bóng chạng vạng của buổi tối, trong một buổi gọi hồn với Ông Home tại nhà tôi, các rèm cửa sổ cách Ông Home chừng tám bộ được thấy chuyển động. Một hình tướng tối, như cái bóng, bán trong suốt, giống hình người, được mọi người có mặt thấy đang đứng gần cửa sổ, vẫy rèm bằng tay. Khi chúng tôi nhìn, hình tướng mờ dần và rèm ngừng đung đưa. Trường hợp sau đây còn ấn tượng hơn nữa. Cũng như trước, Ông Home làm đồng tử. Một hình bóng xuất hiện từ một góc phòng, cầm một chiếc đàn accordion trong tay, rồi lướt quanh phòng chơi nhạc. Hình tướng hiện rõ trước mắt tất cả mọi người trong nhiều phút, đồng thời Ông Home cũng được thấy. Khi lại gần một bà ngồi tách khỏi đám đông, Bà bật khẽ một tiếng, và ngay tức khắc hình bóng tan biến. |
Mattes From The Medium—Chất Liệu Từ Nơi Đồng Tử
When materialization is performed for any reason by a living person thoroughly trained in the resources of the astral plane—one of the pupils of an Adept, for instance—he condenses the surrounding ether into the solid form, and builds in that way so much of a body as may be necessary without in any way interfering with any one else. But at a seance this is not usually done, and the simpler expedient is adopted of withdrawing a large amount of matter from the body of the medium. This matter may under favourable conditions be seen pouring out from his side in great wreaths of mist; in Mr. W. Eglinton’s remarkable book, ‘Twixt Two Worlds, there will be found three interesting illustrations showing successive stages of the development of this mist, from its first faint appearance until the entranced medium is almost entirely hidden by wreaths like those of thick, heavy smoke. | Khi hiện hình vì bất kỳ lý do nào được một người sống thực hiện—người đã được huấn luyện thuần thục các nguồn lực của cõi cảm dục—chẳng hạn một môn đồ của một Chân sư—y sẽ làm đặc dĩ thái chung quanh thành hình thể rắn, và xây dựng theo cách đó phần thân thể cần thiết mà không hề gây ảnh hưởng đến bất kỳ ai khác. Nhưng trong một buổi gọi hồn, điều này thường không được làm, và người ta chọn biện pháp đơn giản hơn là rút một lượng lớn chất liệu từ chính thể của đồng tử. Trong điều kiện thuận lợi, có thể thấy chất này tuôn ra từ phía sườn của đồng tử thành những dải sương mù lớn; trong cuốn sách đáng chú ý của Ông W. Eglinton, ‘ Twixt Two Worlds , có ba minh họa thú vị cho thấy những giai đoạn kế tiếp của sự hình thành làn sương này, từ lúc nó mới lờ mờ xuất hiện cho đến khi đồng tử nhập định hầu như bị che phủ hoàn toàn bởi những làn như khói dày và nặng. |
This mist rapidly condenses into a form—sometimes apparently into an exact double of the medium in the first place. I remember at a seance with the well-known medium, Mr. Cecil Husk, after a period of silent waiting, a brilliant light suddenly blazed out, showing everything in the room quite clearly. The medium was crushed together in his chair—shrunk into himself in a most extraordinary way, apparently in a deep trance, and breathing stertorously; but just in front of him stood an exact duplicate of himself, alert and living, holding out in front of him in the palm of his hand an egg-shaped body, which was the source of the brilliant light. He stood thus for a few moments, and then in an instant the light went out, and the form addressed us in the well-known tones of one of the regular “guides”—showing how entirely he built himself out of the substance of the medium. | Làn sương này nhanh chóng cô đặc thành một hình tướng—đôi khi thoạt tiên dường như thành một bản sao y hệt của đồng tử. Tôi nhớ tại một buổi gọi hồn với đồng tử nổi tiếng, Ông Cecil Husk, sau một thời gian im lặng chờ đợi, một luồng sáng rực rỡ bất ngờ bùng lên, soi rõ mọi thứ trong phòng. Đồng tử bị ép tụ lại trong ghế—co rút lại theo một cách lạ lùng chưa từng—dường như đang nhập định sâu và thở khò khè; nhưng ngay trước mặt Ông lại đứng một bản sao y hệt của chính Ông, tỉnh táo và sống động, đưa ra trước mặt trên lòng bàn tay một vật hình trứng, đó là nguồn của luồng sáng rực rỡ. Ông đứng như vậy vài khoảnh khắc, rồi trong chốc lát ánh sáng tắt, và hình tướng cất tiếng nói với chúng tôi bằng chất giọng quen thuộc của một trong các “vị hướng dẫn” thường xuyên—cho thấy rõ ràng Ông ta đã tự xây mình hoàn toàn bằng chất liệu của đồng tử. |
There is no sort of doubt that it is not only etheric matter which is thus temporarily withdrawn from the medium’s body, but also often dense solid and liquid matter, however difficult it may be for us to realize the possibility of such a transference. I have myself seen cases in which this phenomenon undoubtedly took place, and was evidenced by a considerable loss of weight in the medium’s physical body, and also by a most curious and ghastly appearance of having shrivelled up and shrunk together, so that his tiny wizened-face was disappearing into the collar of his coat as he sat. The “guides” directing a seance rarely allow their medium to be seen when he is in this condition, and wisely, for it is indeed a terrible and unwholesome sight, so uncanny, so utterly inhuman that it would inevitably seriously frighten any nervous person. | Không còn nghi ngờ gì rằng không chỉ có chất liệu dĩ thái mới tạm thời bị rút khỏi thể của đồng tử theo cách ấy, mà thường cả chất rắn đậm đặc và chất lỏng nữa, dẫu đối với chúng ta việc một sự chuyển dịch như vậy có thể xảy ra nghe thật khó tin. Bản thân tôi đã thấy những trường hợp hiện tượng này chắc chắn diễn ra, được biểu hiện bằng sự sụt giảm đáng kể về trọng lượng của thể xác đồng tử, và cả bằng một vẻ ngoài rất lạ lùng và rợn người là như thể bị teo tóp và co rút lại, đến nỗi gương mặt nhỏ thô đét của Ông ta như đang biến mất vào trong cổ áo khi ngồi. Những “vị hướng dẫn” chỉ đạo một buổi gọi hồn hiếm khi cho phép đồng tử của họ được thấy khi ở trong trạng thái này, và khôn ngoan thay, vì đó thực là một cảnh tượng đáng sợ và không lành, quá dị thường, quá phi nhân đến mức hẳn sẽ khiến bất kỳ người yếu bóng vía nào kinh hãi thực sự. |
In that manual of materializations, People from the Other World (p. 243), Colonel Olcott describes the manner in which he carefully weighed the materialized form which called itself Honto. At his first attempt this Red Indian girl weighed eighty-eight pounds, but at the Colonel’s request she promptly reduced herself to fifty-eight pounds, and then again increased to sixty-five, all within ten minutes, and without changing her dress. Nearly all this mass of physical matter must have been withdrawn from the body of the medium, who must consequently have lost proportionately. | Trong cẩm nang về các sự hiện hình, Những Người từ Thế Giới Bên Kia (tr. 243), Đại tá Olcott mô tả cách ông cẩn trọng cân đo hình thể hiện hình tự xưng là Honto. Lần thử đầu, cô gái Da Đỏ này nặng tám mươi tám pao, nhưng theo yêu cầu của Đại tá, cô lập tức hạ cân nặng của mình xuống còn năm mươi tám pao, rồi lại tăng lên sáu mươi lăm, tất cả trong vòng mười phút, và không thay đổi y phục. Gần như toàn bộ khối chất hồng trần này hẳn đã được rút ra khỏi thân thể của đồng tử, người vì thế phải mất đi một phần tương ứng. |
On p. 487 of the same book the Colonel tells us how he tested in the same way the materialized form of Katie Brink, who weighed at first seventy-seven pounds, and then reduced herself to fifty-nine and fifty-two, without affecting her outward appearance in any way. In this case we are confronted with the astonishing phenomenon of the total disappearance of the medium during the materialization, though the Colonel had secured her with sewing cotton, sealed with his own seal, in a peculiar and ingenious way which would absolutely prevent her from leaving her chair in any ordinary way without breaking the cotton. Nevertheless, when he was permitted during the seance to enter the cabinet, that chair was empty; and there was not only nothing to be seen, but also nothing to be felt, when he passed his hands all round the chair. Yet when the seance was over, the medium was found seated as before, half-fainting and utterly exhausted, but with cotton and seal intact! Most wonderful, truly; yet not unique; see Un Cas de Dématerialisation, by M. A. Aksakow. | Ở tr. 487 của cùng cuốn sách, Đại tá kể cho chúng ta cách ông thử nghiệm theo cùng một cách đối với hình thể hiện hình của Katie Brink, người lúc đầu nặng bảy mươi bảy pao, rồi giảm xuống năm mươi chín và năm mươi hai, mà không hề ảnh hưởng chút nào đến vẻ bề ngoài. Trong trường hợp này, chúng ta đối diện với hiện tượng kinh ngạc là sự biến mất hoàn toàn của đồng tử trong khi hiện hình, tuy Đại tá đã buộc cô ấy bằng chỉ khâu, niêm phong bằng chính ấn của ông, theo một cách đặc biệt và khéo léo đến mức chắc chắn tuyệt đối ngăn cô rời ghế theo bất kỳ cách thông thường nào mà không làm đứt chỉ. Thế nhưng, khi trong buổi gọi hồn ông được phép bước vào buồng, chiếc ghế ấy trống không; và không chỉ không nhìn thấy gì, mà cũng không sờ thấy gì khi ông đưa tay lần quanh chiếc ghế. Vậy mà khi buổi gọi hồn kết thúc, đồng tử lại được thấy ngồi như trước, nửa ngất xỉu và kiệt lực hoàn toàn, nhưng chỉ và ấn vẫn nguyên vẹn! Quả là kỳ diệu lắm thay; nhưng không phải là độc nhất; xem Một Trường Hợp Phi vật chất hóa , của Ông A. Aksakow. |
This matter does not always flow out through the side only; sometimes it appears to ooze out from the whole surface of the body, drawn out by the powerful attraction or suction set up by the guides. Its flowing forth is thus described by Madame E. d’Espérance: | Chất liệu này không phải lúc nào cũng tuôn chảy ra chỉ từ phía bên hông; đôi khi nó dường như rịn ra từ toàn bộ bề mặt cơ thể, được kéo ra bởi lực hấp dẫn hay sự hút mạnh mẽ do các vị hướng dẫn thiết lập. Sự tuôn chảy của nó được Bà E. d’Espérance mô tả như sau: |
Then began a strange sensation, which I had sometimes felt at séances. Frequently I have heard it described by others as of cobwebs being passed over the face, but to me, who watched it curiously, it seemed that I could feel fine threads being drawn out of the pores of my skin. Shadowland (p. 229). | Rồi bắt đầu một cảm giác lạ lùng, mà đôi khi tôi đã cảm thấy trong các buổi gọi hồn. Thường tôi nghe người khác mô tả như thể mạng nhện lướt qua mặt, nhưng với tôi, người quan sát nó một cách tò mò, thì dường như tôi có thể cảm được những sợi mảnh đang được kéo ra từ các lỗ chân lông trên da mình. Vùng Bóng Mờ (tr. 229). |
Madame D’espérance—Madame D’espérance
Many mediums have written autobiographies, but I have met with none which impressed me so favourably as this of Madame d’Espérance. It is not only that it has about it an attractive ring of earnestness and truthfulness, but that the author seems far more closely and intelligently observant than most mediums have been, and more anxious to understand the real nature of the phenomena which occur in her presence. | Nhiều đồng tử đã viết tự truyện, nhưng tôi chưa gặp cuốn nào gây ấn tượng thuận lợi cho tôi như của Bà d’Espérance. Không chỉ vì nó có âm hưởng cuốn hút của sự mực thước và chân thành, mà còn vì tác giả dường như quan sát gần gũi và sáng suốt hơn đa số đồng tử, và khao khát hơn trong việc hiểu rõ bản chất thực sự của những hiện tượng xảy ra khi có sự hiện diện của Bà. |
She takes a rational view of her abnormal faculty, and sets herself to study it with an earnest and loyal desire to arrive at the truth about it all. While heartily admiring the lady’s courage and determination, one cannot but regret that it did not fall in her way to study Theosophical literature, which would have told her in the beginning every detail that she has slowly and in many cases painfully discovered, at the cost of much unnecessary suffering and anxiety. Her book begins with the pathetic story of a much-misunderstood childhood, and goes on to describe the years of mental struggle during which the medium slowly freed herself from the trammels of the narrowest orthodoxy. When her mediumship was fully developed it certainly seems to have been of a wonderful and varied character, and some of the instances given might well appear incredible to any one ignorant of the subject. I have myself, however, seen phenomena of the same nature as all those which she describes, and consequently I find no difficulty in admitting the possibility of all the strange occurrences which she relates. | Bà có cái nhìn duy lý về năng lực bất thường của mình, và tự đặt ra việc nghiên cứu nó bằng một ước muốn nghiêm cẩn và trung thành nhằm đạt đến sự thật về tất cả điều đó. Trong khi chân thành khâm phục lòng can đảm và quyết tâm của vị phu nhân, người ta không khỏi tiếc rằng Bà đã không có dịp nghiên cứu văn liệu Thông Thiên Học, vốn ngay từ đầu đã có thể cho Bà biết từng chi tiết mà Bà đã chậm rãi và trong nhiều trường hợp phải nhọc nhằn mới khám phá ra, với cái giá là bao khổ sở và lo âu không cần thiết. Sách của Bà bắt đầu bằng câu chuyện cảm động về một thời thơ ấu bị hiểu lầm nhiều, rồi tiếp tục mô tả những năm tháng đấu tranh trí não trong đó đồng tử chậm rãi tự giải phóng mình khỏi những ràng buộc của loại chính thống chật hẹp nhất. Khi khả năng đồng tử của Bà phát triển đầy đủ thì hẳn đã trở nên kỳ diệu và phong phú, và một số trường hợp nêu ra có thể dễ dàng bị xem là không thể tin đối với bất kỳ ai chưa thông hiểu chủ đề này. Tuy nhiên, chính tôi đã từng thấy các hiện tượng cùng loại với tất cả những điều Bà mô tả, và do đó tôi không khó khăn gì khi thừa nhận khả năng của mọi sự việc lạ lùng mà Bà thuật lại. |
She realizes strongly and describes forcefully the exceedingly intimate relation which exists between the medium and the body materialized out of his vehicles. We are so entirely accustomed to identify ourselves with our bodies that it is a new and uncanny and almost a horrible sensation to find the body going through vivid and extraordinary experiences in which nevertheless its true owner has no part whatever. On p. 345 of her book above quoted she gives us a realistic description of the strangely unnatural situation in which a materializing medium must so often be placed; and I think that no one can read it without understanding how thoroughly undesirable, how utterly unhealthy on all planes and from all points of view such an experience must be. | Bà nhận thức mạnh mẽ và diễn tả đầy thuyết phục mối liên hệ cực kỳ mật thiết tồn tại giữa đồng tử và thân thể được kết tụ hiện hình ra từ các vận cụ của y. Chúng ta vốn quen hoàn toàn với việc đồng hóa mình với thân xác đến nỗi đó là một cảm giác mới mẻ, rờn rợn và gần như kinh hoàng khi thấy thân thể trải qua những kinh nghiệm sống động và dị thường trong đó, dẫu vậy, chủ nhân chân chính của nó lại hoàn toàn không dự phần. Ở tr. 345 của cuốn sách đã dẫn, Bà cho chúng ta một bức họa hiện thực về tình thế lạ kỳ và phi tự nhiên mà một đồng tử hiện hình thường phải rơi vào; và tôi nghĩ rằng không ai có thể đọc nó mà không hiểu được là trải nghiệm ấy bất hảo đến mức nào, bất lợi cho sức khỏe đến mức nào trên mọi cõi và từ mọi góc nhìn. |
“Anna Or I?”—“Anna hay Tôi?”
Now comes another figure, shorter, slenderer, and with outstretched arms. Somebody rises up at the far end of the circle and comes forward, and the two are clasped in each other’s arms. Then inarticulate cries of “Anna! O Anna! My child! My loved one!” | Giờ xuất hiện một dáng nữa, thấp hơn, mảnh mai hơn, và với đôi tay dang rộng. Ai đó đứng dậy ở đầu vòng tròn phía xa và bước tới, và hai người ôm chặt lấy nhau. Rồi những tiếng kêu không thành lời: “Anna! Ôi Anna! Con của mẹ! Người yêu dấu của ta!” |
Then somebody else gets up and puts her arms round the figure; then sobs, cries, and blessings get mixed up. I feel my body swayed to and fro, and all gets dark before my eyes. I feel somebody’s arms around me, although I sit on my chair alone. I feel somebody’s heart beating against my breast. I feel that something is happening. No one is near me except the two children. No one is taking any notice of me. All eyes and thoughts seem concentrated on the white slender figure standing there with the arms of the two black-robed women around it. | Rồi một người khác đứng lên và choàng tay quanh hình dáng ấy; và rồi tiếng nức nở, tiếng khóc, và những lời chúc phúc trộn lẫn. Tôi cảm thấy thân mình bị đong đưa tới lui, và mọi thứ tối sầm trước mắt. Tôi cảm thấy vòng tay của ai đó quanh tôi, mặc dù tôi ngồi một mình trên ghế. Tôi cảm thấy trái tim ai đó đang đập vào ngực mình. Tôi cảm thấy có điều gì đang diễn ra. Chẳng ai ở gần tôi ngoại trừ hai đứa trẻ. Chẳng ai để ý đến tôi. Mọi ánh mắt và ý nghĩ dường như tập trung vào dáng hình mảnh mai trắng muốt đang đứng kia với vòng tay của hai người phụ nữ khoác áo đen ôm lấy. |
It must be my own heart I feel beating so distinctly. Yet those arms round me? Surely never did I feel a touch so plainly. I begin to wonder which is I. Am I the white figure, or am I that on the chair? Are they my hands round the old lady’s neck, or are these mine that are lying on the knees of me, or on the knees of the figure, if it be not I, on the chair? | Hẳn là chính tim tôi mà tôi cảm thấy đập rõ đến vậy. Thế nhưng những cánh tay kia ôm lấy tôi? Chắc chắn chưa bao giờ tôi cảm thấy xúc chạm nào rõ ràng đến thế. Tôi bắt đầu tự hỏi đâu là tôi. Tôi là dáng hình trắng ấy, hay tôi là kẻ đang ngồi trên ghế? Đó có phải là tay tôi đang ôm cổ bà lão, hay đây mới là tay tôi, đang đặt trên đầu gối tôi, hay trên đầu gối của dáng hình kia, nếu đó không phải là tôi, đang ngồi trên ghế? |
Certainly they are my lips that are being kissed. It is my face that is wet with the tears which these good women are shedding so plentifully. Yet how can it be? It is a horrible feeling, thus losing hold of one’s identity. I long to put out one of these hands that are lying so helplessly, and touch some one just to know if I am myself or only a dream—if “Anna” be I, and I am lost, as it were, in her identity. | Chắc chắn đó là môi tôi đang được hôn. Chính mặt tôi ướt đẫm vì những giọt lệ mà các bà tốt bụng này đang tuôn rơi thật dồi dào. Vậy mà sao có thể như thế? Thật là một cảm giác kinh hoàng, như thế mất chỗ bấu víu vào căn tính của chính mình. Tôi ước ao đưa một trong hai bàn tay đang nằm bất lực này ra, chạm vào ai đó chỉ để biết liệu tôi có còn là chính mình hay chỉ là một giấc mơ—liệu “Anna” có phải là tôi, và tôi như bị tan biến trong căn tính của cô ấy. |
I feel the old Lady’s trembling arms, the kisses, the tears, the blessings and caresses of the sister, and I wonder in the agony of suspense and bewilderment, how long can it last? How long will there be two of us? Which will it be in the end? Shall I be “Anna” or “Anna” be I? | Tôi cảm thấy vòng tay run rẩy của bà lão, những nụ hôn, những giọt lệ, những lời chúc phúc và vuốt ve của người chị, và tôi tự hỏi trong nỗi dày vò của chờ đợi và bối rối, nó có thể kéo dài bao lâu? Còn bao lâu nữa sẽ có hai chúng tôi? Rốt cuộc rồi sẽ là ai? Tôi sẽ thành “Anna” hay “Anna” sẽ là tôi? |
Then I feel two little hands slip themselves into my nerveless hands, and they give me a fresh hold of myself, as it were, and with a feeling of exultation I find I am myself, and that little Jonte, tired of being hidden behind the three figures, feels lonely and grasps my hands for company and comfort. | Rồi tôi cảm thấy hai bàn tay bé nhỏ lách vào đôi tay bủn rủn của mình, và chúng như trao cho tôi một điểm bấu víu mới vào chính mình, và với một cảm giác hân hoan tôi nhận ra tôi vẫn là tôi, và cậu bé Jonte nhỏ xíu, chán bị trốn sau ba dáng hình, thấy cô đơn và nắm tay tôi để tìm bạn đồng hành và an ủi. |
How glad I am of the touch, even from the hand of a child! My doubts as to who I am are gone. While I am feeling thus the white figure of “Anna” disappears in the cabinet, and the two ladies return to their seats, excited and tearful, but overcome with happiness. | Ôi tôi mừng biết bao với cái chạm ấy, dẫu từ bàn tay của một đứa trẻ! Mối nghi ngờ tôi là ai đã tan biến. Trong lúc tôi đang cảm thấy như thế thì dáng trắng “Anna” biến vào trong buồng, và hai bà trở về chỗ ngồi, xúc động và rơi lệ, nhưng tràn ngập hạnh phúc. |
There was a great deal more to happen that night, but somehow I felt weak and indifferent to all around me, and not inclined to be interested in what occurred. Strange and remarkable incidents took place, but for the moment my life seemed dragged out of me and I longed for solitude and rest. | Đêm ấy còn nhiều việc phải xảy ra nữa, nhưng bằng cách nào đó tôi thấy yếu ớt và dửng dưng với mọi thứ xung quanh, và không có hứng thú với những gì diễn ra. Những sự kiện lạ lùng và đáng chú ý đã xảy đến, nhưng trong khoảnh khắc ấy dường như sự sống bị rút khỏi tôi và tôi khao khát cô tịch và nghỉ ngơi. |
This feeling of lassitude and of having the life dragged out of them is naturally terribly common among mediums. Sir William Crookes remarks on p. 41 of his Researches: | Cảm giác uể oải và như bị rút cạn sự sống này tự nhiên là vô cùng phổ biến ở các đồng tử. Ngài William Crookes nhận xét ở tr. 41 của Nghiên cứu: |
After witnessing the painful state of nervous and bodily prostration in which some of these experiments have left Mr. Home—after seeing him lying in an almost fainting condition on the floor, pale and speechless—I could scarcely doubt that the evolution of psychic force is accompanied by a corresponding drain on vital force. | Sau khi chứng kiến tình trạng suy sụp đau đớn về thần kinh và thể xác mà một số thí nghiệm này đã gây cho Ông Home—sau khi thấy ông nằm trên sàn trong trạng thái gần như ngất lịm, tái nhợt và không thể nói—tôi hầu như không thể nghi ngờ rằng sự phát lộ lực tâm linh đi kèm với một sự tiêu hao tương ứng vào sinh lực. |
This entirely agrees with my own experience; I have frequently seen a medium absolutely prostrate after a seance, and I fear that many of them fancy themselves compelled to resort to alcoholic stimulants in order to recover from the terrible drain upon their strength. So much of their vitality necessarily goes into the materialized form, and the disturbance to the system is so serious, that after the seance is over, they are in a condition closely resembling the shock which follows a surgical operation. And no wonder; for that would indeed be a terrible surgical operation which removed forty to eighty pounds of matter from the body, and then restored it again. | Điều này hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm của riêng tôi; tôi đã nhiều lần thấy một đồng tử kiệt lực hoàn toàn sau một buổi gọi hồn, và tôi e rằng nhiều người trong số họ tự cho là bị buộc phải nhờ đến các chất kích thích có cồn để phục hồi sau sự tiêu hao khủng khiếp đối với sức lực của mình. Rất nhiều sinh lực của họ tất yếu đi vào hình thể hiện hình, và sự xáo trộn đối với hệ thống thân thể nghiêm trọng đến mức, sau khi buổi gọi hồn kết thúc, họ ở trong tình trạng rất giống cú sốc sau một ca phẫu thuật. Và thật chẳng có gì lạ; vì đó hẳn sẽ là một cuộc “phẫu thuật” ghê gớm nếu người ta lấy ra khỏi thân thể bốn mươi đến tám mươi pao vật chất, rồi lại hoàn nguyên nó trở lại như cũ. |
On the curious connection between the medium and the materialized form, Madame d’Espérance writes as follows as to the relation between herself and Yolande: | Về mối liên hệ lạ lùng giữa đồng tử và hình thể hiện hình, Bà d’Espérance viết như sau về mối quan hệ giữa chính Bà và Yolande: |
An Intimate Relation—Một Mối Liên Hệ Mật Thiết
There seemed to exist a strange link between us. I could do nothing to ensure her appearance amongst us. She came and went, so far as I am aware, entirely independent of my will, but when she had come, she was, I found, dependent on me for her brief material existence. I seemed to lose, not my individuality, but my strength and power of exertion, and though I did not then know it, a great portion of my material substance. I felt that in some way I was changed, but the effort to think logically in some mysterious way affected Yolande, and made her weak. (Shadowland, p. 271.) | Dường như có một sợi dây lạ lùng tồn tại giữa chúng tôi. Tôi không thể làm gì để bảo đảm cô ấy xuất hiện giữa chúng tôi. Cô đến rồi đi, theo như tôi biết, hoàn toàn độc lập với ý chí của tôi, nhưng khi cô đã đến, tôi thấy rằng cô lệ thuộc vào tôi cho sự tồn tại vật chất ngắn ngủi của cô. Tôi dường như mất đi, không phải căn tính, mà là sức mạnh và năng lực hoạt động, và dù lúc đó tôi chưa biết, thì còn là một phần lớn chất liệu hồng trần của tôi nữa. Tôi cảm thấy bằng cách nào đó tôi đã bị thay đổi, nhưng nỗ lực tư duy mạch lạc lại bằng một cách huyền bí nào đó tác động đến Yolande, và khiến cô yếu đi. ( Vùng Bóng Mờ , tr. 271.) |
The medium is conscious of her own individuality in the background all the time; but any attempt to assert it, or to think connectedly, immediately weakens the form, or brings it back to the cabinet. And this is natural, for to think logically means to set up chemical action—to produce oxidation of the phosphorus of the brain; whereas it is only under conditions of perfect passivity in the physical vehicle that so much matter can be spared from it without danger to life. As a matter of fact, there is always a possibility of such danger; and in case of sudden shock or disturbance it may come terribly near realization. It is for that reason that the attempt of the ignorant and boastful sceptic to seize the “spirit form” is so criminal as well as so brainless an action; and the person whose colossal stupidity leads him to commit such an atrocity runs a serious risk of occupying the position of defendant in a trial for murder. Beings at that level of intelligence ought not to be permitted to take part in experiments of a delicate nature. What harm may be done by this dangerous variety of the genus blockhead is shown by the following extract from the experiences of Madame d’Espérance, given upon p. 298 of her book: | Đồng tử ý thức về căn tính riêng của mình ở hậu trường suốt thời gian; nhưng bất kỳ nỗ lực nào nhằm khẳng định nó, hay tư duy có mạch lạc, lập tức làm yếu hình thể, hoặc kéo nó trở lại buồng. Và điều này là tự nhiên, vì tư duy mạch lạc có nghĩa là khởi phát phản ứng hóa học—tạo ra quá trình oxy hóa phốt pho của bộ não; trong khi chỉ trong điều kiện thụ động hoàn toàn nơi vận cụ hồng trần thì mới có thể tách bấy nhiêu chất liệu ra khỏi nó mà không nguy hiểm đến sự sống. Thực tế, luôn luôn có khả năng nguy hiểm như vậy; và trong trường hợp bị sốc hay rối loạn đột ngột, điều đó có thể tiến rất gần đến sự hiện thực khủng khiếp. Chính vì lẽ đó mà việc kẻ hoài nghi ngu dốt và khoác lác tìm cách chộp lấy “hình thể linh hồn” là hành động vừa tội lỗi vừa ngu xuẩn; và người có sự ngu ngốc khổng lồ đến mức dám gây ra một tội ác như vậy thì có nguy cơ nghiêm trọng phải ngồi ghế bị cáo trong một phiên tòa xử tội giết người. Những kẻ ở mức trí năng đó không nên được phép tham dự các thí nghiệm tế nhị. Tác hại mà loại đầu gỗ nguy hiểm này có thể gây ra được bày tỏ qua đoạn trích sau đây từ những trải nghiệm của Bà d’Espérance, ghi ở tr. 298 trong sách của Bà: |
A Scandalous Outrage—Một Sự Sỉ Nhục Tai Tiếng
I do not know how long the seance had proceeded, but I knew that Yolande had taken her pitcher on her shoulder and was outside the cabinet. What actually occurred I had to learn afterwards. All I knew was a horrible excruciating sensation of being doubled up and squeezed together, as I can imagine a hollow guttapercha doll would feel, if it had sensation, when violently embraced by its baby owner. A sense of terror and agonizing pain came over me, as though I were losing hold of life and was falling into some fearful abyss, yet knowing nothing, seeing nothing, hearing nothing, except the echo of a scream which I heard as at a distance. I felt I was sinking down, I knew not where. I tried to save myself, to grasp at something, but missed it; and then came a blank from which I awakened with a shuddering horror and sense of being bruised to death. | Tôi không biết buổi gọi hồn đã tiến hành bao lâu, nhưng tôi biết rằng Yolande đã vác chiếc bình của cô lên vai và đang ở ngoài buồng. Những gì thực sự xảy ra tôi phải nghe kể lại sau đó. Tất cả những gì tôi biết là một cảm giác kinh khủng dữ dội như bị gập đôi và bóp chặt lại, như tôi có thể hình dung một con búp bê bằng cao su gutta-percha rỗng ruột sẽ cảm thấy thế nào, nếu nó có cảm giác, khi bị chủ nhân bé bỏng ôm ghì một cách thô bạo. Một cảm thức kinh hoàng và đau đớn tột độ ập đến, như thể tôi sắp mất chỗ bấu víu vào sự sống và đang rơi vào một vực thẳm đáng sợ nào đó, mà lại chẳng biết gì, chẳng thấy gì, chẳng nghe gì, ngoại trừ tiếng vọng của một tiếng thét mà tôi nghe như từ xa vọng lại. Tôi cảm thấy mình đang chìm xuống, tôi chẳng biết xuống đâu. Tôi cố tự cứu, cố chụp lấy thứ gì đó, nhưng hụt; rồi đến một khoảng trống, từ đó tôi choàng tỉnh với nỗi kinh hãi run rẩy và cảm giác như bị bầm dập đến chết. |
My senses seemed to have been scattered to the winds, and only little by little could I gather them sufficiently together to understand in a slight degree what had happened. Yolande had been seized, and the man who had seized her declared it was I. | Các giác quan của tôi dường như bị gió cuốn đi tứ tán, và chỉ dần dần từng chút một tôi mới gom lại đủ để hiểu phần nào những gì đã xảy ra. Yolande đã bị chộp, và người đã chộp cô quả quyết đó là tôi. |
This is what I was told. The statement was so extraordinary that if it had not been for my utter prostration I could have laughed, but I was unable to think or even move. I felt as though very little life remained in me, and that little was a torment. The haemorrhage of the lungs, which my residence in the south of France had apparently cured, broke out again and the blood almost suffocated me. A severe prolonged illness was the result; and our departure from England was delayed for some weeks, as I could not be moved. | Đó là điều tôi được kể. Lời khẳng định quá ư khác thường đến mức nếu không vì sự suy sụp hoàn toàn, có lẽ tôi đã bật cười, nhưng tôi không thể nghĩ, thậm chí không thể cử động. Tôi thấy như thể còn rất ít sự sống sót lại trong tôi, và cái ít ỏi ấy là một cực hình. Chứng xuất huyết phổi, mà thời gian tôi ở miền nam nước Pháp dường như đã chữa khỏi, bùng phát trở lại và máu gần như làm tôi nghẹt thở. Một cơn bệnh nặng kéo dài là kết quả; và chuyến khởi hành của chúng tôi từ Anh bị hoãn vài tuần, vì tôi không thể di chuyển. |
No wonder that the “guides” take every precaution in their power to save their medium from such brutality. Even they themselves may suffer through the temporary vehicle which they have assumed, trusting themselves to the honour and good-feeling of those who are present on the physical plane. Mr. R. D. Owen, in The Debatable Land (p. 273), thus refers to this matter: | Không lạ gì khi các “vị hướng dẫn” làm mọi điều phòng ngừa có thể để cứu đồng tử của họ khỏi sự thô bạo như vậy. Ngay chính Các Ngài cũng có thể chịu tổn hại qua vận cụ tạm thời mà Các Ngài khoác lấy, phó mặc mình cho danh dự và lòng tốt của những người có mặt trên cõi hồng trần. Ông R. D. Owen, trong Miền Đất Gây Tranh Luận (tr. 273), đề cập đến vấn đề này như sau: |
Two highly intelligent friends of mine, now deceased, Dr. A. D. Wilson and Professor James Mapes, both formerly of New York, each on one occasion firmly grasped what seemed a luminous hand. In both cases the result was the same. What was laid hold of melted entirely away—so each told me—in his grasp. I have had communications to the effect that the spirit thus manifesting its presence suffers when this is done, and that a spirit would have great reluctance in appearing, in bodily form, to any one whom it could not trust to refrain from interference with the phenomena, except by its express permission. In my experiments I have always governed myself accordingly, and I ascribe my success in part to this continence. | Hai người bạn rất thông tuệ của tôi, nay đã quá cố, Bác sĩ A. D. Wilson và Giáo sư James Mapes, trước đây đều ở New York, mỗi người trong một dịp đã nắm chặt cái có vẻ là một bàn tay phát quang. Cả hai trường hợp kết quả đều như nhau. Cái bị nắm lấy—mỗi người nói với tôi—đã tan chảy hoàn toàn trong tay ông ta. Tôi đã nhận được những thông tri cho rằng linh thể bộc lộ sự hiện diện theo cách ấy sẽ chịu đau đớn khi điều này xảy ra, và rằng một linh thể sẽ rất ngần ngại xuất hiện, dưới hình thể hồng trần, trước bất kỳ ai mà nó không thể tin tưởng sẽ kiềm chế can thiệp vào hiện tượng, trừ khi có sự cho phép minh nhiên của nó. Trong các thí nghiệm của tôi, tôi luôn tự răn mình như vậy, và tôi cho rằng một phần thành công của mình là nhờ sự tiết chế này. |
I do not know whether the “spirit” would suffer in such a case as this, though it certainly does when a materialized form is struck or wounded. For that reason a sword constantly waved round a man who is haunted is supposed to be a protection (and indeed often really is so, as has been seen in some of the narratives previously quoted), and the sword was also an important part of the outfit of the mediaeval magician. | Tôi không biết liệu “linh thể” có chịu đau trong một trường hợp như thế này hay không, dù chắc chắn là có khi hình thể hiện hình bị đánh hay bị thương. Vì lẽ đó mà một thanh kiếm vung liên tục quanh một người bị ám được cho là một sự bảo hộ (và thực sự thường đúng như vậy, như đã thấy trong một số tường thuật trích dẫn trước đây), và thanh kiếm cũng là một phần quan trọng trong trang bị của nhà huyền thuật thời trung cổ. |
No physical weapon could affect the astral body in the slightest degree; a sword might be passed through it again and again without the owner being even aware of it; but as soon as there is any materialization (and wherever physical phenomena occur there must be some materialization, however little) physical weapons may act through it upon the astral body and produce sensation, much as was the case with the more permanent physical body during life. But undoubtedly the medium may be seriously injured by any unauthorized interference with the materialized form, as is seen by Madame d’Espérance’s story. | Không một vũ khí hồng trần nào có thể tác động đến thể cảm dục dù chỉ chút ít; một thanh kiếm có thể xuyên qua nó hết lần này đến lần khác mà chủ thể còn chẳng hề hay biết; nhưng ngay khi có bất kỳ sự hiện hình nào (và ở đâu có hiện tượng hồng trần thì ở đó hẳn phải có một phần hiện hình, dù ít đến đâu) thì vũ khí hồng trần có thể qua đó mà tác động lên thể cảm dục và gây cảm giác, gần như trường hợp với thể hồng trần bền vững hơn trong cuộc sống. Nhưng không nghi ngờ gì, đồng tử có thể bị tổn thương nghiêm trọng bởi bất kỳ sự can thiệp trái phép nào vào hình thể hiện hình, như đã thấy qua câu chuyện của Bà d’Espérance. |
I most heartily endorse the sentiments expressed above by Mr. Owen, and I have always been governed by them in my own investigations. There are some persons who enter upon an enquiry of this kind with the fixed conviction that they are going to be deceived, and (with some idea that they can obviate a result so humbling to their self-conceit) they endeavour to invent all kinds of complicated contrivances, which they think will render fraud impossible. It is quite true that in many cases phenomena do not take place under the conditions which they prescribe, for naturally the dead man is not especially disposed to go out of his way to take a great deal of trouble for a person who meets him from the beginning with unfounded suspicion expressed in terms of egregious self-confidence. Often also the conditions prescribed by the ignoramus are really such as to render phenomena impossible. | Tôi hết lòng tán đồng những cảm nghĩ mà Ông Owen bày tỏ ở trên, và tôi luôn tự đặt mình dưới sự hướng dẫn của chúng trong các cuộc khảo cứu của chính mình. Có người bước vào một cuộc điều tra như thế này với niềm tin cố định rằng họ sắp bị lừa dối, và (với ý nghĩ nào đó rằng họ có thể ngăn chặn một kết cục hạ nhục lòng tự cao của mình) họ tìm cách bày ra đủ loại thiết bị phức tạp, mà họ nghĩ sẽ khiến cho gian lận trở nên bất khả. Hoàn toàn đúng là trong nhiều trường hợp các hiện tượng không diễn ra dưới những điều kiện mà họ áp đặt, bởi tự nhiên là người đã chết không đặc biệt sẵn lòng đi ra ngoài lề để bận tâm nhiều cho kẻ ngay từ đầu đã tiếp cận y bằng sự ngờ vực vô căn cứ được diễn tả bằng giọng điệu tự tin quá lố. Cũng thường khi những điều kiện do kẻ ngu dốt đặt ra thực sự là những điều kiện khiến cho hiện tượng trở thành bất khả. |
Dr. Alfred R. Wallace once very truly remarked: | Bác sĩ Alfred R. Wallace đã có lần nhận xét rất xác đáng: |
Scientific men almost invariably assume that, in this enquiry, they should be permitted at the very outset to impose conditions; and if under such conditions nothing happens, they consider it a proof of imposture or delusion. But they well know that in all other branches of research, Nature, not they, determines the essential conditions without a compliance with which no experiment will succeed. These conditions have to be learnt by a patient questioning of Nature, and they are different for each branch of science. How much more may they be expected to differ in an enquiry which deals with subtle forces, of the nature of which the physicist is wholly and absolutely ignorant! | Giới khoa học hầu như luôn mặc nhiên cho rằng, trong cuộc điều tra này, họ phải được phép áp đặt các điều kiện ngay từ lúc khởi đầu; và nếu dưới những điều kiện như thế không có gì xảy ra, họ coi đó là bằng chứng của trò lừa hay hoang tưởng. Nhưng họ biết rất rõ rằng trong mọi nhánh nghiên cứu khác, Chính Tự Nhiên, chứ không phải họ, mới định đoạt các điều kiện tất yếu, mà nếu không thuận theo thì không thí nghiệm nào thành công. Những điều kiện đó phải được học bằng cách kiên nhẫn chất vấn Tự Nhiên, và chúng khác nhau theo từng ngành khoa học. Trong một cuộc điều tra đề cập đến những lực vi tế, mà nhà vật lý hoàn toàn và tuyệt đối không biết gì về bản chất của chúng, thì hẳn càng phải khác biết bao! |
In just the same way, a man might easily render electrical experiments impossible, if he chose to regard the insulating arrangements as suspicious, and insisted upon seeing the same results produced when the wires were uninsulated; and then, when it was gently explained to him that insulation was a necessary condition, he might raise the same old parrot-cry of fraud, and declare that these pretended electrical marvels could never be worked under his conditions! Instances of the extent to which folly and cruelty can go in this direction are given with full illustrations in Colonel Olcott’s People from the Other World (pp. 36-40). | Tương tự như vậy, một người hoàn toàn có thể khiến các thí nghiệm điện học trở nên bất khả, nếu y chọn xem các bộ phận cách điện là đáng ngờ, và khăng khăng đòi thấy cùng kết quả khi dây dẫn không được cách điện; rồi khi người ta nhẹ nhàng giải thích rằng cách điện là điều kiện tất yếu, y có thể lại giương lên điệp khúc vẹt xưa cũ về trò gian lận, và khẳng định rằng những điều kỳ diệu điện học bịp bợm này chẳng bao giờ vận hành được dưới các điều kiện của hắn ! Những ví dụ về mức độ mà sự ngu xuẩn và độc ác có thể đạt tới theo hướng này được đưa ra cùng nhiều hình minh họa trong cuốn Những Người từ Thế Giới Bên Kia của Đại tá Olcott (tr. 36-40). |
I have myself always adopted the plan of giving the dead man credit for honest intention until I saw evidence to the contrary; I have allowed him to arrange his own conditions, and to show exactly what he chose, endeavouring first of all to establish friendly relations; and I have invariably found that as soon as he gained confidence in me, be would gladly describe the limits of his power, so far as he knew them, and would frequently himself suggest tests of various kinds to show to others the genuineness of the phenomena. | Về phần mình, tôi luôn chọn cách ghi nhận thiện ý của người đã khuất cho đến khi thấy bằng chứng ngược lại; tôi để y tự sắp đặt điều kiện, và bộc lộ chính xác những gì y muốn, nỗ lực trước hết là thiết lập mối quan hệ thân thiện; và tôi luôn nhận thấy rằng ngay khi y có lòng tin ở tôi, y sẵn lòng mô tả giới hạn quyền năng của mình, trong chừng mực y biết, và y thường tự gợi ý các phép thử khác nhau để cho người khác thấy sự chân thực của hiện tượng. |
Attempts have been made to cheat me on several occasions; and when I saw this to be the action of the medium, I held my peace, but troubled that medium no further. On the other hand, I have also seen cases of deceit where I felt convinced that the medium’s intentions were perfectly honest, and that the deception lay entirely with the unseen actors in the drama. I have known the medium’s physical body, when in a condition of trance, to be wrapped up in materialized gauzy drapery, and passed off as “a spirit form”—apparently for no other reason than to save the operators the trouble of producing a genuine materialization, or possibly because in some way or other the power to produce the real manifestation was lacking. In this case the medium, on hearing what had happened after recovery from his trance, protested most earnestly and with every appearance of real sincerity that he had had no conception of what was being done; and, having many times before seen unmistakably genuine manifestations through him, I believed him. Exactly the same story was told to me by a well-known medium with regard to an “exposure” of him which was triumphantly trumpeted abroad in many newspapers; and it is at least perfectly possible that the statement may have been equally true in that case also. My experience therefore warrants me in saying that even when a clear case of fraud is discovered, it is not always safe to blame the medium for it. On the other hand, I have known a medium come to give a seance with half-a-yard of muslin hanging out of her pocket, and I have recognized the aforesaid muslin appearing as spirit drapery at a later stage of the proceedings—in its original form, I mean, for even in cases of genuine materialization of drapery it is frequently formed from the material of the clothes of the medium. Once more we may turn to Madame d’Espérance for an instance showing this to be the case. | Đã có vài lần người ta tìm cách lừa tôi; và khi tôi nhận ra đó là hành vi của đồng tử, tôi im lặng, nhưng không phiền đến đồng tử ấy nữa. Ngược lại, tôi cũng đã thấy những trường hợp dối trá mà tôi tin chắc rằng ý định của đồng tử hoàn toàn ngay thẳng, và sự lừa dối nằm trọn ở các diễn viên vô hình của vở kịch. Tôi đã biết việc thân thể hồng trần của đồng tử, khi ở trạng thái xuất thần, được quấn trong vải voan hiện hình, rồi được tung ra như “một hình thể linh hồn”—hiển nhiên chẳng vì lý do nào khác hơn là để tiết kiệm cho những người điều khiển khỏi công khó tạo ra một hiện hình đích thực, hoặc có lẽ vì bằng cách nào đó họ thiếu năng lực tạo ra một biểu hiện thật sự. Trong trường hợp này, khi nghe kể lại những gì đã xảy ra sau khi tỉnh khỏi cơn xuất thần, đồng tử đã phản đối hết sức, với mọi biểu hiện của sự chân thành thực sự, rằng y hoàn toàn không hay biết điều gì đang được làm; và vì đã nhiều lần trước đó thấy những biểu hiện đích thực không thể lẫn lộn qua y, tôi tin y. Câu chuyện y hệt cũng được một đồng tử nổi tiếng kể với tôi liên quan đến một “vụ lột mặt nạ” y, vốn đã được rêu rao đắc thắng trên nhiều tờ báo; và ít nhất cũng hoàn toàn có thể rằng lời xác nhận ấy cũng đúng trong trường hợp đó. Kinh nghiệm của tôi vì thế cho phép tôi nói rằng ngay cả khi phát hiện một vụ gian lận rõ ràng, thì cũng không phải lúc nào quy lỗi cho đồng tử là an toàn. Mặt khác, tôi từng thấy một đồng tử đến cho buổi gọi hồn với nửa thước vải muslin thò ra khỏi túi, và tôi đã nhận ra chính miếng vải ấy sau đó xuất hiện như vải phủ của linh thể ở một giai đoạn muộn hơn của buổi—ý tôi là trong hình dạng nguyên thủy của nó, vì ngay cả trong những trường hợp vải phủ hiện hình thật sự, nó thường được tạo thành từ chất liệu của y phục đồng tử. Một lần nữa, chúng ta có thể trở lại với Bà d’Espérance để có một ví dụ cho thấy điều này là sự thật. |
“Spirit” Drapery—Vải “Linh”
It was at one of those seances in Christiania that a sitter “abstracted” a piece of drapery which clothed one of the spirit-forms. Later I discovered that a large square piece of material was missing from my skirt, partly cut, partly torn out. My dress was of a heavy dark woollen material. The “abstracted” piece of drapery was found to be of the same shape as that missing from my skirt, but several times larger, and white in colour, the texture fine and thin as gossamer. | Đó là trong một buổi gọi hồn ở Christiania khi một người dự ngồi “tuồn” đi một mảnh vải phủ khoác trên một trong các linh thể. Sau đó tôi phát hiện một tấm vải vuông lớn bị mất khỏi váy tôi, một phần bị cắt, một phần bị xé đi. Váy của tôi là chất liệu len dày tối màu. Mảnh vải “bị tuồn” được phát hiện có hình dạng giống với mảnh bị mất khỏi váy tôi, nhưng lớn hơn vài lần, và có màu trắng, kết cấu mịn và mỏng như tơ nhện. |
Something of the kind had happened once before in England, when some one had begged the little Ninia for a piece of her abundant clothing. She complied, unwillingly, it seemed, and the reason for her unwillingness was explained when, after the seance, I found a hole in a new dress which I had put on for the first time. This being nearly black, I had attributed the mishap more to an accident on the part of Ninia than to any psychological cause. Now that it happened a second time, I began to understand that it was no accident, and that my dress, or the clothing of the persons in the seance, was the foundation of, or the stores from which the dazzling raiment of the spirit form was drawn. (Shadowland, p. 337.) | Một chuyện như thế đã từng xảy ra trước đó ở Anh, khi ai đó đã nài nỉ cô bé Ninia xin một mẩu từ lớp y phục dồi dào của cô. Cô miễn cưỡng chiều theo, như có vẻ vậy, và lý do cho sự miễn cưỡng của cô được giải thích khi, sau buổi gọi hồn, tôi thấy một lỗ thủng trên chiếc váy mới mà tôi mặc lần đầu. Vì chiếc váy này gần như đen, tôi đã quy sự cố phần nhiều là do bất cẩn của Ninia hơn là do nguyên nhân tâm linh. Nay điều đó xảy ra lần thứ hai, tôi bắt đầu hiểu rằng đó không phải là tai nạn, và rằng chiếc váy của tôi, hoặc y phục của những người dự trong buổi gọi hồn, là nền tảng, hay kho chứa, từ đó xiêm y rực rỡ của hình thể linh hồn được kéo ra. ( Vùng Bóng Mờ, tr. 337.) |
There are various types of this materialized drapery—some quite coarse and some exceedingly fine—finer indeed than even the production of Eastern looms. Sometimes the manifesting entity will encourage a favoured sitter to feel this drapery or even to cut a piece from it. I have had such pieces given to me on several occasions; some of them lasted for years, and appear to be permanent, while others faded away in the course of an hour or so, and one within ten minutes. Though light and filmy white drapery seems to be the regular fashion among materialized forms, I have also seen them show themselves in the ordinary garb of civilization, and sometimes in a uniform or some special dress characteristic of their position during life. | Có nhiều kiểu vải phủ hiện hình—có loại khá thô và có loại tinh xảo cực độ—thậm chí tinh xảo hơn cả sản phẩm của các khung cửi phương Đông. Đôi khi thực thể đang hiện ra sẽ khuyến khích một người dự được ưu ái chạm vào tấm vải này hoặc thậm chí cắt một mẩu từ nó. Tôi đã được tặng những mảnh như vậy trong vài dịp; một số tồn tại suốt nhiều năm và dường như là bền vững, trong khi những mảnh khác phai đi trong vòng một giờ hay lâu hơn, và có mảnh trong vòng mười phút. Tuy vải trắng nhẹ và mỏng như sương có vẻ là thời trang thường thấy nơi các hình thể hiện hình, tôi cũng đã thấy họ hiện ra trong y phục thường nhật của văn minh, và đôi khi trong một bộ quân phục hay một y phục đặc thù nào đó đặc trưng cho vị thế của họ khi còn sống. |
Materialization In Full View—Hiện Hình Ngay Trước Mắt
The following very good account of the materialization and dematerialization of a form is given in Shadowland (p. 254), and was written by a member who had frequently formed part of that circle: | Bản tường thuật rất hay sau đây về sự hiện hình và phi vật chất hóa của một hình thể được đưa trong Vùng Bóng Mờ (tr. 254), do một thành viên từng thường xuyên tham dự vòng tròn đó viết: |
First a filmy, cloudy patch of something white is observed on the floor in front of the cabinet. It then gradually expands, visibly extending itself as if it were an animated patch of muslin, lying fold upon fold, on the floor, until extending about two and a half by three feet and having a depth of a few inches—perhaps six or more. Presently it begins to rise slowly in or near the centre, as if a human head were underneath it, while the cloudy film on the floor begins to look more like muslin falling into folds about the portion so mysteriously rising. By the time it has attained two or more feet, it looks as if a child were under it and moving its arms about in all directions as if manipulating something underneath. | Đầu tiên, một mảng mơ hồ, mây mù của thứ gì đó màu trắng được thấy trên sàn trước buồng. Rồi nó dần dần nở ra, rõ ràng tự trải rộng như thể đó là một mảng vải muslin có sinh khí, nằm chồng nếp này lên nếp khác trên sàn, cho đến khi trải rộng khoảng hai rưỡi trên ba bộ Anh và có bề dày vài insơ—có lẽ sáu hoặc hơn. Ngay sau đó nó bắt đầu từ từ trồi lên ở giữa hoặc gần giữa, như thể có một cái đầu người bên dưới, trong khi lớp màn mây trên sàn bắt đầu trông giống vải muslin rơi thành nếp quanh phần đang bí ẩn trồi lên. Khi nó đạt đến độ cao hai bộ hoặc hơn, trông như thể có một đứa trẻ bên dưới và đang đưa tay chuyển động khắp các hướng như thể đang thao tác thứ gì đó phía dưới. |
It continues rising, oftentimes sinking somewhat to rise again higher than before, until it attains a height of about five feet, when its form can be seen as if arranging the folds of drapery about its figure. | Nó tiếp tục trồi lên, thường lún xuống chút ít rồi lại trồi lên cao hơn trước, cho đến khi đạt độ cao khoảng năm bộ, khi dáng hình của nó có thể được thấy như thể đang sắp xếp những nếp vải phủ quanh thân mình. |
Presently the arms rise considerably above the head and open outwards through a mass of cloud-like spirit drapery, and Yolande stands before us unveiled, graceful and beautiful, nearly five feet in height, having a turban-like head dress, from beneath which her long black hair hangs over her shoulders and down her back. | Rồi đôi tay vươn cao hơn hẳn lên khỏi đầu và mở ra xuyên qua một khối vải phủ như mây, và Yolande đứng trước chúng tôi, không còn che mạng, duyên dáng và xinh đẹp, cao gần năm bộ, đội một khăn đội đầu kiểu khăn xếp, từ dưới đó mái tóc đen dài xõa qua vai và xuống lưng. |
Her body-dress, of Eastern form, displays every limb and contour of the body, while the superfluous white veil-like drapery is wrapped round her for convenience, or thrown down on the carpet out of the way till required again. | Y phục thân người của cô, kiểu phương Đông, phô bày mọi chi và đường nét của thân thể, trong khi tấm vải phủ trắng mỏng thừa ra được quấn quanh để tiện lợi, hoặc ném xuống thảm tránh vướng cho đến khi cần lại. |
All this occupies from ten to fifteen minutes to accomplish. | Tất cả điều này mất từ mười đến mười lăm phút để hoàn tất. |
When she disappears or dematerializes it is as follows. Stepping forward to show herself and be identified by any strangers then present, she slowly and deliberately opens out the veil-like superfluous drapery; expanding it, she places it over her head, and spreads it round her like a great bridal veil, and then immediately but slowly sinks down, becoming less bulky as she collapses, dematerializing her body beneath the cloud-like drapery until it has little or no resemblance to Yolande. Then she further collapses until she has no resemblance to human form, and more rapidly sinks down to fifteen or twelve inches. Then suddenly the form falls into a heaped patch of drapery—literally Yolande’s left-off clothing, which slowly but visibly melts into nothingness. | Khi cô biến đi hay phi vật chất hóa thì như sau. Bước lên phía trước để cho mình được thấy và để người lạ có mặt nhận diện, cô chậm rãi và cố ý mở tấm vải mỏng dư thừa; trải rộng nó, cô phủ nó lên đầu, và xòe nó quanh mình như một tấm khăn voan cô dâu lớn, rồi ngay lập tức nhưng chậm rãi lún xuống, trở nên kém đồ sộ khi cô co rút lại, phi vật chất hóa thân thể mình bên dưới lớp vải như mây cho đến khi nó còn ít hoặc không còn chút giống Yolande. Rồi cô co rút thêm nữa cho đến khi không còn giống hình người, và nhanh hơn lún xuống còn mười lăm hay mười hai insơ. Rồi đột ngột hình thể đổ sụp thành một đống vải phủ—nói đúng ra là y phục bỏ lại của Yolande, và đống ấy chậm rãi nhưng rõ ràng tan biến thành hư vô. |
The dematerializing of Yolande’s body occupies from two to five minutes, while the disappearance of the drapery occupies from half a minute to two minutes. On one occasion, however, she did not dematerialize this drapery or veil, but left the whole lying on the carpet in a heap, until another spirit came out of the cabinet to look at it for a moment, as if moralizing on poor Yolande’s disappearance. This taller spirit also disappeared and was replaced by the little, brisk, vivacious child-form of Ninia, the Spanish girl, who likewise came to look at Yolande’s remains; and, curiously picking up the loft-off garments, proceeded to wrap them round her own little body, which was already well clothed with drapery. | Việc phi vật chất hóa thân thể của Yolande chiếm từ hai đến năm phút, trong khi sự biến mất của vải phủ chiếm từ nửa phút đến hai phút. Tuy nhiên, có một lần cô không phi vật chất hóa tấm vải phủ này mà để nguyên cả tấm nằm trên thảm thành một đống, cho đến khi một linh thể khác bước ra khỏi buồng ngó qua nó một lúc, như thể đang chiêm nghiệm về sự biến mất của Yolande tội nghiệp. Linh thể cao hơn này cũng biến mất và được thay thế bởi hình dáng nhỏ bé, nhanh nhẹn, hoạt bát của Ninia, cô gái người Tây Ban Nha, cô cũng bước ra nhìn “tàn tích” của Yolande; và, lạ lùng thay, nhặt những áo quần bỏ lại, cô bèn quấn chúng quanh thân mình nhỏ xíu, vốn đã được phủ vải khá đầy đủ. |
I have myself seen both these processes, almost exactly as described above. In my case the form was that of an unusually tall man, and he did not begin by forming drapery, but appeared as a patch of cloudy light on the floor, which rose and increased until it looked somewhat like the stump of a tree. It grew on until it was a vague pillar of cloud towering above our heads, and then gradually condensed into a definite and well-known form, which stepped forward, shook me warmly by the hand, and spoke in a full clear voice, exactly as any other friend might have done. After talking to us for about five minutes and answering several questions, he again shook hands with us and announced that he must go. Bidding us good-bye, he immediately became indistinct in outline, and relapsed into the pillar of cloud, which sank down fairly rapidly into the small cloudy mass of light upon the floor, which then flickered and vanished. | Về phần mình, tôi đã thấy cả hai quá trình này, gần như đúng như mô tả trên. Trong trường hợp của tôi, hình thể là một người đàn ông cao bất thường, và ông không bắt đầu bằng việc tạo vải phủ, mà xuất hiện như một đám sáng mờ trên sàn, trồi lên và lớn dần cho đến khi trông giống như gốc một thân cây. Nó tiếp tục lớn cho đến khi thành một cột mây mơ hồ cao vượt lên trên đầu chúng tôi, rồi dần dần ngưng đặc thành một hình thể rõ ràng và quen thuộc, bước tới, nắm chặt tay tôi thân mật, và nói bằng một giọng vang đầy và rõ, đúng như một người bạn nào khác có thể làm. Sau khi trò chuyện với chúng tôi chừng năm phút và trả lời vài câu hỏi, ông lại bắt tay chúng tôi và nói rằng ông phải đi. Chào tạm biệt, ông lập tức trở nên mờ nét, và trở lại thành cột mây, cột ấy khá nhanh lún xuống thành một đám sáng mờ nhỏ trên sàn, rồi chớp lên và tắt hẳn. |
I have seen three materialized forms together—one of them an Arab six inches taller than the medium, another a European of ordinary medium height, and the third a little girl of dark complexion, claiming to be a Red Indian—while the medium was securely locked up inside a wire cage of his own invention, which was secured by two keys (both in my pocket) and a letter-lock which could only be operated from the outside. Later in the same evening we were requested to unlock this cage, and the two forms first described brought out the entranced medium between them, one supporting him by each arm. We were allowed to touch both the medium and the materialized forms, and were much struck to find the latter distinctly firmer and more definite than the former. They did not in this case return him to his cage, but laid him upon a sofa in full view of us all, cautioned us that he would be exceedingly exhausted when he woke, and then incontinently vanished into thin air before our eyes. All this took place in a dim light, the two gas-jets in the room being both turned very low, but there was all the time quite sufficient illumination to enable us to recognize clearly the features both of the medium and of our dead visitors, and to follow their movements with absolute certainty. | Tôi đã thấy ba hình thể hiện hình cùng lúc—một trong số đó là một người Ả Rập cao hơn đồng tử sáu insơ, một người châu Âu cao vừa phải, và người thứ ba là một bé gái nước da ngăm, tự xưng là người Da Đỏ—trong khi đồng tử bị khóa chặt trong một cái lồng dây thép do chính y phát minh, được khóa bằng hai chìa (cả hai đều ở trong túi tôi) và một ổ khóa chữ chỉ có thể vận hành từ bên ngoài. Về sau trong cùng buổi tối, chúng tôi được yêu cầu mở cái lồng này, và hai hình thể mô tả trước đã dìu đồng tử đang xuất thần ra giữa, mỗi người đỡ một bên tay. Chúng tôi được phép chạm vào cả đồng tử lẫn các hình thể hiện hình, và thấy hết sức ấn tượng khi phát hiện các hình thể hiện hình đó rõ ràng rắn chắc và xác quyết hơn đồng tử. Trong trường hợp này họ không đưa y trở lại lồng, mà đặt y lên ghế trường kỷ để tất cả chúng tôi đều nhìn thấy, căn dặn rằng y sẽ vô cùng kiệt sức khi tỉnh dậy, rồi lập tức tan vào không khí ngay trước mắt chúng tôi. Tất cả diễn ra trong ánh sáng lờ mờ, hai béc đèn gas trong phòng đều được vặn rất thấp, nhưng suốt thời gian ấy vẫn có đủ ánh sáng để chúng tôi nhận ra rõ ràng diện mạo của cả đồng tử lẫn những vị khách đã khuất, và theo dõi chuyển động của họ với sự chắc chắn tuyệt đối. |
It is only when the conditions are favourable that one may hope to find the materialized forms able to move about the room as freely as in the cases above described. More generally the materialized form is strictly confined to the immediate neighbourhood of the medium, and is subject to an attraction which is constantly drawing it back to the body from which it came, so that if kept away from the medium too long the figure collapses, and the matter which composed it, returning to the etheric condition, rushes back instantly to its source. It is excessively dangerous to the medium’s health, or even to his life, to prevent this return in any way; and it was no doubt precisely this that caused such terrible suffering in the case of poor Madame d’Espérance, above quoted. It would seem from her own account as though the majority of her etheric matter, and probably a great deal of the denser also, was with Yolande rather than in the cabinet; and since the form of Yolande was so unwarrantably detained it is probable that what was left in her body would rush into Yolande’s, and so it would in one sense be true that she was found outside the cabinet and in the hands of the ignorant vulgarian who had seized the materialized form. All this makes it increasingly obvious that no one who has not sufficient education to comprehend a little of the conditions ought ever to be permitted to take part in a seance. | Chỉ khi các điều kiện thuận lợi thì người ta mới hy vọng thấy các hình thể hiện hình có thể đi lại trong phòng tự do như trong những trường hợp mô tả ở trên. Thông thường hơn, hình thể hiện hình bị giới hạn nghiêm ngặt trong vùng lân cận ngay sát đồng tử, và chịu một sự hấp dẫn liên tục kéo nó trở lại thân thể mà từ đó nó đến, đến nỗi nếu bị giữ xa đồng tử quá lâu, hình dáng ấy sẽ sụp đổ, và chất liệu cấu thành nó, trở về trạng thái dĩ thái, lập tức lao nhanh về nguồn. Ngăn cản sự quay về này theo bất kỳ cách nào đều cực kỳ nguy hiểm cho sức khỏe, thậm chí cho tính mạng của đồng tử; và chắc chắn chính điều đó đã gây nên nỗi thống khổ khủng khiếp trong trường hợp của Bà d’Espérance tội nghiệp, đã dẫn ở trên. Có vẻ như theo tường thuật của chính Bà thì phần lớn chất dĩ thái của Bà, và có lẽ cả một phần lớn chất đậm đặc hơn nữa, ở với Yolande hơn là trong buồng; và vì hình thể của Yolande đã bị giam giữ không chính đáng nên rất có khả năng phần còn lại trong thân thể Bà sẽ lao vào thân của Yolande, và như vậy theo một nghĩa nào đó là đúng khi Bà được tìm thấy bên ngoài buồng và trong tay của tay phàm phu ngu dốt đã chộp lấy hình thể hiện hình. Tất cả điều này càng làm rõ ràng hơn rằng bất kỳ ai không có đủ học vấn để thấu hiểu đôi chút về các điều kiện thì không bao giờ nên được phép tham gia một buổi gọi hồn. |
Another reason for great care in the selection of sitters is that in the case of materialization matter is borrowed to some extent from all of them as well as from the medium. There is no doubt, therefore, a considerable intermixture of such matter, and undesirable qualities or vices of any kind in any one of the sitters are distinctly liable to react upon the others, and most of all upon the medium, who is almost certain to be the most sensitive person present—from whom, in any case, the heaviest contribution will be drawn. Yet again we may obtain an example of this from Madame d’Espérance’s invaluable book. On p. 307 she writes: | Một lý do khác để hết sức cẩn trọng trong việc tuyển chọn người dự là trong trường hợp hiện hình, chất liệu được “mượn” ở một mức nào đó từ tất cả những người dự cũng như từ đồng tử. Do đó, chắc chắn có một sự pha trộn đáng kể của loại chất liệu như vậy, và những phẩm chất hay thói xấu không mong muốn thuộc bất kỳ loại nào ở bất kỳ ai trong số người dự đều có khả năng tác động ngược trở lại lên những người khác, và hơn hết là lên đồng tử, người gần như chắc chắn là người nhạy cảm nhất có mặt—và dù sao đi nữa cũng là người mà từ đó sẽ rút ra phần đóng góp nặng nhất. Lại một lần nữa, chúng ta có thể lấy một ví dụ về điều này từ cuốn sách vô giá của Bà d’Espérance. Ở tr. 307 Bà viết: |
Evil Effect Of Tobacco—Tác Hại của Thuốc Lá
From the very beginning of our experiments in this line I had always more or less suffered from nausea and vomiting after a seance for materialization, and I had grown to accept this as a natural consequence and not to be avoided. This had always been the case, except when surrounded only by the members of our home circle or children. During the course of seances for photography this unpleasantness increased so much that I was usually prostrate for a day, or sometimes two, after a sitting, and, as the symptoms were those of nicotine poisoning, experiments were made and it was discovered that none of these uncomfortable sensations were felt when seances were held with non-smokers. Again, when sick persons were in the circle, I invariably found myself feeling more or less unwell afterwards. With persons accustomed to the use of alcohol the discomfort was almost as marked as with smokers. | Ngay từ đầu của các thí nghiệm theo hướng này, tôi đã luôn ít nhiều chịu đựng cảm giác buồn nôn và nôn mửa sau một buổi gọi hồn để hiện hình, và tôi đã chấp nhận điều đó như hệ quả tự nhiên và không thể tránh. Điều này luôn xảy ra, trừ khi xung quanh tôi chỉ là các thành viên trong vòng tròn ở nhà hoặc trẻ em. Trong quá trình các buổi gọi hồn để chụp ảnh, sự khó chịu này tăng lên đến mức tôi thường kiệt lực trong một ngày, đôi khi hai, sau mỗi buổi, và vì các triệu chứng là của ngộ độc nicotine, nên người ta đã làm thí nghiệm và phát hiện rằng không thấy bất kỳ cảm giác khó chịu nào trong các buổi gọi hồn chỉ có những người không hút thuốc. Lại nữa, khi có người bệnh trong vòng tròn, tôi luôn thấy mình ít nhiều khó ở sau đó. Với những người quen dùng rượu, sự khó chịu gần như rõ rệt như với người hút thuốc. |
These seances were to me fruitful in many respects; I learned that many habits, which are common to the generality of mankind and sanctioned by custom, are deleterious to the results of a seance, or, at any rate, to the health of a medium. | Những buổi gọi hồn này đối với tôi phong phú theo nhiều phương diện; tôi học được rằng nhiều thói quen, vốn phổ biến trong số đông nhân loại và được tập quán cho phép, là có hại đối với kết quả của một buổi gọi hồn, hoặc ít nhất là đối với sức khỏe của đồng tử. |
A “guide” who has been working for some years, and has learnt to know fairly well the possibilities of the plane, has often interesting phenomena connected with materialization which he is willing to exhibit to special friends when the power is strong. One such exhibition was sometimes given by him who calls himself “John King” many years ago, and may perhaps be given by him still. He would sometimes take one of the painted luminous slates and lay his hand upon it. A fine, strong, muscular, well-shaped hand it was, and its outline of course stood forth perfectly distinctly against the faintly luminous background. Then as we watched it, he would cause that hand to diminish visibly until it was a miniature about the size of a small baby’s hand, though still perfect in its resemblance to his own. Then slowly and steadily under our eyes it would grow again until it became gigantic, and covered the whole slate, and would finally return by degrees to its normal size. Now of course this manifestation might easily have been a mere case of mesmeric influence if only one person had seen it; but since every one in the circle saw precisely the same, and there was nothing to indicate that any attempt at mesmerism was being made, it seemed on the whole more probable that it was really an exhibition of augmentation and diminution in the materialized hand—a result which could readily be brought about by any one who understood how to manipulate the matter. | Một “vị hướng dẫn” đã làm việc nhiều năm, và đã học để biết khá rõ những khả năng của cõi giới, thường có những hiện tượng thú vị liên quan đến hiện hình mà y sẵn lòng trình diễn cho bằng hữu đặc biệt khi năng lực mạnh. Một cuộc trình diễn như vậy đôi khi được thực hiện bởi vị tự xưng là “John King” nhiều năm về trước, và có lẽ đến nay vẫn còn. Đôi khi y lấy một trong những tấm bảng sơn phát quang và đặt tay mình lên đó. Một bàn tay đẹp, mạnh mẽ, rắn chắc, cân đối, và đường viền của nó dĩ nhiên nổi bật hoàn toàn rõ rệt trên nền ánh sáng mờ. Rồi, khi chúng tôi đang quan sát, y khiến bàn tay ấy thu nhỏ trông thấy cho đến khi nó thành hình tí hon cỡ bàn tay của một em bé nhỏ, dù vẫn hoàn toàn giống với tay của chính y. Rồi chậm rãi và đều đặn ngay trước mắt chúng tôi, nó lại lớn trở lại cho đến khi trở nên khổng lồ, phủ kín cả tấm bảng, và cuối cùng dần trở về kích thước bình thường. Tất nhiên, biểu hiện này có thể dễ dàng chỉ là một trường hợp chịu ảnh hưởng thôi miên nếu chỉ có một người thấy; nhưng vì mọi người trong vòng tròn đều thấy chính xác như nhau, và không có gì cho thấy đang có nỗ lực thôi miên, nên có vẻ hợp lý hơn khi cho rằng đó thực sự là một cuộc trình diễn về sự phóng đại và thu nhỏ nơi bàn tay hiện hình—một kết quả mà bất cứ ai hiểu cách thao tác chất liệu đều có thể đưa đến một cách dễ dàng. |
A Dead Man’s Joke—Trò Đùa của Người Chết
Occasionally the materialization takes some other shape than the human. One such case which I recollect vividly shows that our departed friends by no means lose their sense of humour when they pass over into astral life. At a certain seance we were much annoyed by the presence of a man of the boastful sceptic genus. He swaggered in the usual blatant way, and showed his entire ignorance by every word he uttered in the loud, coarse voice which constantly reiterated that he knew that all these things were nonsense, and that we might be sure that nothing would happen so long as he was there. | Đôi khi sự hiện hình mang dạng khác hơn hình người. Một trường hợp như thế mà tôi nhớ rất rõ cho thấy những người bạn đã khuất của chúng ta tuyệt nhiên không đánh mất óc khôi hài khi họ bước sang đời sống cảm dục. Trong một buổi gọi hồn nọ, chúng tôi vô cùng bực mình vì có một người thuộc giống hoài nghi khoác lác. Y vênh vang theo kiểu ồn ào thường thấy, và bộc lộ sự ngu dốt hoàn toàn qua từng lời y thốt ra bằng giọng to, thô lỗ, liên tục lặp rằng y biết tất cả những điều này là chuyện tào lao, và rằng chúng tôi có thể chắc rằng chẳng gì xảy ra chừng nào y còn ở đó. |
This went on for some time as we sat round the table, and at last the medium, who was a mild, inoffensive sort of man, quietly advised him to moderate his tone, as on several occasions the “spirits” had been known to treat rather roughly persons who talked in that manner. The sceptic, however, only became coarser and more offensive in his remarks, defying any spirit that ever existed to frighten him, or even to dare to show itself in his presence. We had now been sitting for a good while in the darkness, and nothing whatever had happened beyond a few brief words from one of the “guides” at the commencement of the seance, which had informed us that they were storing up power. As the time passed on we all became somewhat wearied, and I at least began to think that perhaps our sceptic really was so inharmonious an influence that it would be impossible to obtain any good results—wherein, however, it seems that I was wrong. | Điều này kéo dài một lúc trong khi chúng tôi ngồi quanh bàn, và cuối cùng đồng tử, một người thuộc kiểu hiền lành, không xâm phạm ai, nhẹ nhàng khuyên y hạ giọng, vì trong vài dịp “các linh” đã từng đối xử hơi thô bạo với những người nói theo cách đó. Tuy nhiên, kẻ hoài nghi chỉ càng trở nên thô bỉ và xúc phạm hơn trong lời lẽ, thách thức bất kỳ linh nào từng tồn tại dám làm y sợ, hoặc thậm chí dám hiện ra trước mặt y. Chúng tôi đã ngồi khá lâu trong bóng tối, và chẳng có gì xảy ra ngoài vài lời ngắn của một “vị hướng dẫn” vào đầu buổi, cho biết rằng Các Ngài đang tích lũy năng lực. Thời gian trôi qua tất cả chúng tôi đều có phần mỏi mệt, và ít nhất tôi bắt đầu nghĩ rằng có lẽ tên hoài nghi của chúng tôi thực sự là một ảnh hưởng bất hòa đến mức không thể đạt kết quả tốt—tuy nhiên, xem ra tôi đã lầm. |
To make clear what did happen I must say a few words as to the room in which the seance was being held. It was a tiny apartment at the back of the house on the second floor, opening out of a much larger front room by great folding-doors which reached up to the ceiling. We were seated round a large circular table, so much out of proportion to the room that the backs of our chairs were all but touching the walls and the big door as we sat round it. There was another door in the corner of the room leading to a flight of stairs; that was locked, the key being in the lock on the inside, and the great doors were also secured by a bolt on our side. We sat, as I say, with practically no manifestations for about three-quarters of an hour, and I at least was heartily tired of the whole thing. | Để làm rõ điều đã xảy ra, tôi phải nói qua về căn phòng nơi buổi gọi hồn được tổ chức. Đó là một gian nhỏ ở phía sau nhà trên tầng hai, thông với một phòng trước lớn hơn nhiều bằng cặp cửa gấp lớn cao đến trần. Chúng tôi ngồi quanh một chiếc bàn tròn lớn, quá cỡ so với căn phòng đến nỗi lưng ghế của chúng tôi hầu như chạm vào tường và cánh cửa lớn khi ngồi quanh bàn. Có một cửa khác ở góc phòng dẫn ra một nhánh cầu thang; cửa đó đã khóa, chìa còn cắm ở ổ khóa phía trong, và cặp cửa lớn cũng được chốt bên phía chúng tôi. Như tôi nói, chúng tôi ngồi đó, hầu như không có hiện tượng gì trong khoảng ba phần tư giờ, và ít nhất là tôi đã chán ngấy tất cả. |
Suddenly in the adjoining room we heard extraordinarily ponderous footsteps, as of some mighty giant; and even as we raised our heads to listen the great doors burst violently open, crashing into the backs of the chairs on that side, driving them and their occupants against the table, and so pushing the table itself against those on the opposite side. A pale, rather ghastly luminosity shone in through the opened door, and by its light we saw—we all saw—an enormous elephant stepping straight in upon us, dashing the chairs together with his stride! A gigantic elephant in a room of that size is not exactly a pleasant neighbour; nobody stopped to think of the impossibility of the thing—nobody waited to see what would happen next; the great beast was on the top of us, as it were, and the man nearest to the back door tore it open, and before we had time for a second thought we were all rushing madly down those stairs. | Bỗng nhiên, ở phòng bên cạnh, chúng tôi nghe những bước chân nặng một cách khác thường, như của một gã khổng lồ; và ngay khi chúng tôi ngẩng đầu lắng nghe, cặp cửa lớn bật tung dữ dội, đập sầm vào lưng những chiếc ghế bên đó, đẩy ghế và người ngồi dồn vào bàn, và vì thế đẩy bàn vào những người ở phía đối diện. Một thứ ánh sáng nhợt nhạt, hơi rờn rợn hắt vào qua cánh cửa mở, và trong ánh sáng ấy, chúng tôi nhìn thấy—tất cả chúng tôi đều thấy—một con voi khổng lồ sừng sững bước thẳng vào phía chúng tôi, với những bước đi đập ghế vào nhau! Một con voi khổng lồ trong một căn phòng cỡ ấy chẳng phải là người láng giềng dễ chịu; chẳng ai kịp nghĩ đến tính bất khả của chuyện này—chẳng ai chờ xem điều gì sẽ xảy ra tiếp; con quái thú như chồm lên ngay trên đầu chúng tôi, và người ngồi gần cửa sau nhất đã xé tung nó, và trước khi chúng tôi kịp có ý nghĩ thứ hai, tất cả chúng tôi đã ùa chạy điên cuồng xuống cầu thang. |
A roar of Homeric laughter followed us, and in a moment we realized the absurdity of the situation, and some of us ran back, and struck a light. No one was there, and both the rooms were empty; there was no way out of either of them but the doors which opened side by side upon the head of the stair, which had been within our sight all the time; there was no place to which anybody could have escaped, if any one could have been playing a trick upon us; not a trace of an elephant, and nothing to show for our fright, except the bolt torn off the folding-door with the force of the bursting open, and three broken chairs to testify to the speed of our departure! We gathered again in our room, and gave way (now it was over) to unrestrained mirth—all but our sceptic, who had rushed straight out of the house; and he was so terrified that he would not even return into the hall below for his coat and hat, and they had to be carried out into the street for him. I have never seen him since, but I have sometimes wondered exactly how he explained to himself afterwards the deception which he must have supposed to be practised upon him. | Một tràng cười lớn vang dội như sử thi đuổi theo chúng tôi, và trong khoảnh khắc chúng tôi chợt nhận ra sự lố bịch của tình thế, và một số chúng tôi chạy trở lại, thắp đèn. Chẳng có ai ở đó, cả hai phòng đều trống; không có lối nào ra khỏi hai phòng đó ngoại trừ cánh cửa mở cạnh nhau ra đầu cầu thang, vốn vẫn trong tầm mắt chúng tôi suốt thời gian; không có nơi nào để ai có thể tẩu thoát, nếu có ai đang giở trò với chúng tôi; không một dấu vết của con voi, và chẳng có gì để chứng minh nỗi khiếp hãi của chúng tôi, ngoài chiếc chốt bị giật bứt khỏi cánh cửa gấp bởi lực bật tung, và ba chiếc ghế gãy xác nhận tốc độ tháo chạy của chúng tôi! Chúng tôi lại tụ về trong phòng, và (giờ thì đã qua) cười thoải mái hết cỡ—trừ kẻ hoài nghi, kẻ đã lao thẳng ra khỏi nhà; và y khiếp đảm đến mức còn chẳng dám trở vào sảnh dưới nhà để lấy áo khoác và mũ, và người ta phải mang ra tận đường cho y. Từ đó đến nay tôi chưa từng gặp lại y, nhưng đôi khi tôi tự hỏi rốt cuộc y đã tự giải thích cho mình thế nào về sự dối lừa mà y hẳn cho là đã diễn ra với y. |
In this case the guides controlling the seance evidently thought it desirable to administer a salutory lesson; but this is rarely done, as it is not usually considered worth while to waste so large an amount of energy over so unworthy an object as the conceited and blatant sceptic. It is one of the rules of the higher life that force should be economized, and employed only where there is at least reasonable hope that good can be done. We have an instance of the application of this rule in the life of our Great Exemplar, for is it not recorded that when Christ visited His own country “He did not many mighty works there because of their unbelief”?* His power could unquestionably have broken down their obstinate scepticism; but it is His Will to knock at the door of the human heart, not to force Himself upon those who are as yet unready to profit by His ministrations. | Trong trường hợp này, các vị hướng dẫn điều khiển buổi gọi hồn hiển nhiên thấy cần phải ban cho một bài học cảnh tỉnh; nhưng điều đó hiếm khi được làm, vì thường không được coi là đáng để lãng phí một lượng năng lực lớn như vậy vào đối tượng tầm thường như kẻ hoài nghi tự phụ ầm ĩ. Một trong những quy luật của đời sống cao hơn là năng lực cần được tiết kiệm, và chỉ sử dụng nơi nào ít nhất có hy vọng hợp lý rằng có thể gây ích. Chúng ta có một ví dụ về việc áp dụng quy luật này trong đời sống của Đấng Gương Mẫu Vĩ Đại của chúng ta, vì chẳng phải đã ghi rằng khi Đức Christ thăm quê hương của Ngài, “Ngài đã không làm nhiều phép lạ ở đó vì sự vô tín của họ” sao?* Quyền năng của Ngài chắc chắn có thể đánh tan sự hoài nghi cố chấp của họ; nhưng Ý Chí của Ngài là gõ cửa trái tim con người, chứ không ép mình lên những ai còn chưa sẵn sàng để thọ ích từ tác vụ của Ngài. |
__________ | __________ |
Matthew, xiii, 58. | Ma-thi-ơ, xiii, 58. |