11. Thuyết Giáng Linh và Thông Thiên Học — CHƯƠNG XI—THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI THẦN LINH HỌC

Chapter XI—OUR ATTITUDE TOWARDS SPIRITUALISM

Much In Common—Nhiều Điểm Chung

“but,” some spiritualists have said to me, “we always thought that you Theosophists supposed all our phenomena to be the work of elementals, or fairies, or devils or something of that sort!” No Theosophist who knows anything about it has ever made any such foolish assertion. What may have been said is that some part of the phenomena were occasionally produced by agencies other than dead men or women; and that is perfectly true. It has often seemed to me that there has frequently been a good deal of entirely unnecessary mistrust and misconception between Theosophists and spiritualists. Various spiritualistic organs have frequently abused Theosophy in no measured terms, and there is no doubt that on our side also both speakers and writers have often referred to spiritualism with much scorn, but with little knowledge. But I hope that with more knowledge each of the other we shall come to respect one another more as we understand one another better, for we each have our part to fill in the great work of the future. It would indeed be foolish of us to quarrel, for we have more in common with each other than either of us has with any of the other shades of opinion.

“nhưng,” một số nhà thần linh học đã nói với tôi, “chúng tôi vẫn nghĩ rằng các ông những người Thông Thiên Học cho rằng mọi hiện tượng của chúng tôi đều là việc làm của các hành khí, hay tiên, hay ác ma hay gì đó tương tự!” Không một người Thông Thiên Học nào hiểu biết đôi chút về vấn đề này từng phát biểu một khẳng định dại dột như vậy. Điều có thể đã được nói là một phần các hiện tượng đôi khi được tạo bởi những tác nhân khác ngoài những người nam hay nữ đã chết; và điều đó hoàn toàn đúng. Tôi thường thấy rằng đã có rất nhiều ngờ vực và hiểu lầm hoàn toàn không cần thiết giữa những người Thông Thiên Học và các nhà thần linh học. Nhiều tạp chí thần linh học đã thường xuyên mạt sát Thông Thiên Học bằng những lời lẽ chua cay, và không nghi ngờ gì rằng phía chúng ta cũng vậy, cả diễn giả lẫn người viết đã thường nhắc đến thần linh học với nhiều khinh miệt nhưng ít hiểu biết. Nhưng tôi hy vọng rằng với sự hiểu biết nhiều hơn về nhau, chúng ta sẽ đến chỗ tôn trọng nhau hơn khi thấu hiểu nhau hơn, vì chúng ta mỗi bên đều có phần việc phải đảm đương trong công trình lớn của tương lai. Quả là dại dột nếu chúng ta gây gổ, bởi vì chúng ta có nhiều điểm chung với nhau hơn là mỗi bên có với bất kỳ quan điểm nào khác.

Points Of Agreement—Những Điểm Đồng Thuận

We both hold strenuously to the great central idea of man as an immortal and ever-progressive being; we both know that as is his life now, so shall it be after he has cast aside this body, which is his only that he may learn through it; we both hold the Fatherhood of God and the brotherhood of man as fundamental tenets; and we both know that the gains and rewards of this world are but as dross compared with the glorious certainties of the higher life beyond the grave. Let us stand side by side on this common platform, and let us postpone the consideration of our points of difference until we have converted the rest of the world to the belief in these points upon which we agree. Surely that is wise policy, for these are the points of importance; and if the life is lived in accordance with these all the rest will follow.

Chúng ta đều kiên trì nắm lấy đại ý tưởng trung tâm về con người như một hữu thể bất tử và luôn tiến hoá; chúng ta đều biết rằng đời sống của y bây giờ như thế nào thì sau khi y đã cởi bỏ thân thể này—vốn chỉ là của y để y học hỏi qua nó—đời sống của y cũng sẽ như thế; chúng ta đều coi “Thượng đế là Cha” và “nhân loại là anh em” như những tín điều nền tảng; và chúng ta đều biết rằng lợi lộc và phần thưởng thế gian chỉ như cặn bã so với những điều chắc chắn vinh quang của đời sống cao hơn bên kia nấm mồ. Chúng ta hãy đứng kề vai nhau trên nền tảng chung này, và hãy hoãn việc xét đến các điểm dị biệt cho đến khi chúng ta đã làm cho phần còn lại của thế giới tin vào những điểm mà chúng ta đồng ý. Hẳn đó là chủ trương khôn ngoan, vì đó là những điểm quan trọng; và nếu đời sống được sống phù hợp với những điểm ấy thì mọi điều khác sẽ theo sau.

We have a magnificent system of philosophy; our spiritualistic brother does not care for it. Well, if his thought does not run along that line, why should we seek to force it upon him? Perhaps presently he will feel the need of some such system; if he does, then there it is all ready for his study. I believe that in due course I shall return to live again upon this earth; herein some of my spiritual­istic brothers agree with me, and some do not; but, after all, what does that matter? To us this doctrine of reincarnation is luminous and helpful, because it seems to explain so much for which otherwise there is no solution; but if another man does not yet feel the need of it, it is no part of our policy to try to force it upon him.

Chúng ta có một hệ thống triết học tuyệt hảo; người anh em thần linh học của chúng ta không mặn mà với nó. Ừ thì, nếu tư tưởng của Ông không vận hành theo tuyến ấy, tại sao chúng ta phải tìm cách áp đặt nó lên Ông? Có lẽ rồi đây Ông sẽ cảm thấy cần một hệ thống như thế; nếu có, thì nó đã sẵn sàng ở đó cho Ông khảo cứu. Tôi tin rằng theo thời, tôi sẽ trở lại sống trên trần gian này; ở điểm này có vài người anh em thần linh học đồng ý với tôi, và vài người không; nhưng, rốt cuộc, điều đó có nghĩa lý gì? Với chúng ta, học thuyết tái sinh sáng sủa và hữu ích, bởi nó dường như giải thích rất nhiều điều mà nếu không thì chẳng có lời giải; nhưng nếu một người khác chưa cảm thấy cần đến nó, thì không thuộc chủ trương của chúng ta là cố ép buộc Ông chấp nhận.

We hold the idea of continued progress after death by means of further lives upon this earth, after the life on subtler planes is over; the spiritual­ist prefers the idea of passing on to other and higher spheres altogether. We both agree that there is a progress hereafter; let us live so as to make the best use of this existence as a preparation for that, for if we do that we shall surely come out successfully, whichever of us is right as to the place of our future meeting. When all the world is living its highest in the preparation for that life of pro­gress, it will be time enough to begin to argue about where it will be lived.

Chúng ta chủ trương ý tưởng tiến bộ liên tục sau khi chết bằng những đời sống tiếp theo trên trần gian, sau khi đời sống ở các cõi tinh tế hơn đã kết thúc; nhà thần linh học thích quan niệm tiến lên hẳn các cõi cao hơn. Chúng ta đều đồng ý rằng có sự tiến bộ ở đời sau; vậy hãy sống sao cho tận dụng tốt nhất đời sống này như một sự chuẩn bị cho đời sống ấy, vì nếu làm vậy, chắc chắn chúng ta sẽ thành công, bất kể ai trong chúng ta đúng về nơi sẽ gặp nhau trong tương lai. Khi cả thế giới đang sống cao nhất đời sống của mình để chuẩn bị cho đời sống tiến bộ ấy, thì bấy giờ hãy tranh luận về nơi nó sẽ được sống cũng chưa muộn.

Untrained Observation Of Little Value—Quan Sát Chưa Được Huấn Luyện Ít Giá Trị

As to the spiritualistic phenomena, we have no quarrel whatever with them; we know well that they take place, and we know that they have had great value as demonstrating the reality of superphysical life to many a sceptical mind. There are many men who seem constitutionally incapable of profiting by the experience of others; they must go and see everything for themselves, not realizing that, even if they do see, their untrained observa­tions will be of little value. On this point Mr. Fullerton has well said:

Còn về các hiện tượng thần linh học, chúng ta hoàn toàn không có tranh chấp gì với chúng; chúng ta biết rõ rằng chúng xảy ra, và chúng ta biết rằng chúng đã có giá trị lớn trong việc chứng minh thực tại của đời sống siêu vật lý đối với biết bao tâm trí hoài nghi. Có nhiều người dường như bẩm tính không thể hưởng lợi từ kinh nghiệm của kẻ khác; họ phải tự mình đi xem mọi thứ, không nhận ra rằng, ngay cả khi họ có thấy, thì những quan sát chưa được huấn luyện của họ cũng ít giá trị. Về điểm này Ông Fullerton đã nói rất hay:

To ensure observations with any worth there must be long and careful discipline; natural errors must through repeated experience be guarded against, distinctions and qualifications and illusions be learned. This is true of the physical plane; much more of the astral plane, where phenomena are so different, conditions so unlike, misguidance so multiform. He who assumes that his untutored observation for the first time of the contents and facts of the astral world would better determine them than does the trained faculty of long and accomplished students, presupposes really that he is an exception to universal rule, superior to other men and of different mould. But what is this save a form of vanity, a case of that strange delusion as to personal worth which the smallest observation of human nature might have cured? It is akin to the supposi­tion that his first introduction to an unknown continent, he not being a naturalist, a physicist, or a botanist, would be more conclusive in its results than the protracted researches of scientists long familiar with the region and mutually comparing their investigations. (The Proofs of Theosophy, p. 7.)

Để bảo đảm các quan sát có giá trị, phải có sự kỷ luật lâu dài và cẩn trọng; những sai lầm tự nhiên phải qua kinh nghiệm lặp đi lặp lại mà được phòng ngừa, phải học các phân biệt và giới định và ảo ảnh. Điều này đúng trên cõi hồng trần; càng đúng hơn trên cõi cảm dục, nơi hiện tượng quá khác, điều kiện không giống, sự dẫn sai muôn mặt. Kẻ nào cho rằng những quan sát chưa được rèn luyện lần đầu của mình về những nội dung và sự kiện của thế giới cảm dục sẽ xác định chúng tốt hơn năng lực được rèn luyện của những đạo sinh lâu năm và thiện nghệ, thì thật ra là giả định rằng y là ngoại lệ đối với quy luật phổ quát, vượt trội kẻ khác và được nặn bằng khuôn khác. Nhưng đó là gì nếu không phải là một hình thức hư danh, một trường hợp của ảo tưởng lạ lùng về giá trị cá nhân mà chỉ cần quan sát nhỏ nhất về bản tính con người cũng đủ chữa trị? Nó tương tự như giả định rằng lần đầu y đặt chân lên một lục địa chưa biết, trong khi y không phải là nhà tự nhiên học, nhà vật lý hay nhà thực vật học, sẽ có kết quả thuyết phục hơn những khảo cứu kéo dài của các nhà khoa học vốn lâu quen thuộc với vùng đó và thường so sánh lẫn nhau các cuộc điều tra của mình. ( Những Bằng chứng của Thông Thiên Học , tr. 7.)

If a man must see for himself, and is unable to rest upon the basis of intellectual conviction, by all means let him attend the spiritualistic seance, and learn by experience, as so many others have done. It is not a course that we should advise except to such a man as this, because there are certain serious drawbacks to it from our point of view.

Nếu một người phải tự thấy mới tin, và không thể an tâm dựa trên nền tảng của xác tín trí tuệ, thì cứ để Ông ta đến buổi gọi hồn, và học bằng kinh nghiệm, như bao người khác đã làm. Đó không phải là một đường hướng chúng ta khuyên trừ phi với một người như vậy, vì theo quan điểm của chúng ta có những mặt bất lợi nghiêm trọng nhất định.

Drawbacks—Mặt Bất Lợi

The greatest of these is one at which the sceptic would laugh—the danger of believing too much! For if the sceptic has determination and persever­ance, he will assuredly be convinced sooner or later; and when he is, it is quite likely that the pendulum will swing to the other extreme, and that he will believe too much, instead of too little. He may readily grow to regard all the words of the dead as gospel, all communications which come through the tilts of a table as divinely inspired.

Nghiêm trọng nhất trong những điều này là điều mà kẻ hoài nghi sẽ cười nhạo—nguy cơ tin quá nhiều! Vì nếu kẻ hoài nghi có quyết tâm và bền chí, y hẳn sẽ được thuyết phục sớm hay muộn; và khi y đã tin, con lắc rất có thể sẽ văng sang cực kia, và y sẽ tin quá nhiều, thay vì quá ít. Y có thể dễ dàng đi đến chỗ xem mọi lời của người chết như kinh điển, mọi thông điệp đến qua những lần bàn nghiêng như được linh cảm thiêng liêng.

There is also another danger—that of being uncomfortably haunted. Often there come to a seance most undesirable dead people, men of depraved morals, seeking to gratify vicariously obscene lower passions. And besides these, there are those dead men who are mad with fear, who are clutching desperately at any and every opportunity to seize a physical vehicle, to get back at any cost and by any means into touch with the lower life which they have lost. The “guide” usually protects his medium from such influences, and will not allow such a man to communicate; but he cannot prevent him from attaching himself to other sitters and following them home. The sceptic may think himself strong-minded and non-sensitive, and therefore proof against any such possibility; some day he may be unpleasantly undeceived as to this; but even if that be so, does he wish to run the risk of bringing home an influence to his wife or his daughter? Of course, I fully recognize that this is only a possibility—that a man might attend a score of seances and encounter nothing of this sort; yet these things have happened, and they are happening even now. People driven to the verge of insanity by astral persecution have come to me again and again; and in many cases it was at a seance that they first encountered that ghostly companion. The strong can resist; but who knows whether he is strong until he tries?

Cũng có một nguy hiểm khác—bị ám theo một cách khó chịu. Thường có những người chết hết sức bất hảo đến buổi gọi hồn, những kẻ suy đồi đạo đức, tìm cách thoả mãn lây các dục vọng thấp hèn dâm ô. Và ngoài những kẻ ấy, còn có những người chết vì sợ hãi đến phát cuồng, đang bấu víu tuyệt vọng vào bất cứ cơ hội nào để chộp lấy một vận cụ hồng trần, để bằng bất cứ giá nào và bằng mọi cách trở lại tiếp xúc với đời sống thấp mà họ đã đánh mất. “Vị linh hướng” thường bảo hộ đồng tử của mình khỏi những ảnh hưởng như vậy, và không cho phép một người như thế liên lạc; nhưng Ông không thể ngăn y bám vào những người tham dự khác và theo họ về nhà. Kẻ hoài nghi có thể nghĩ mình vững vàng và không nhạy cảm, nên miễn nhiễm với khả năng như vậy; một ngày nào đó y có thể bị tháo gỡ ảo tưởng này một cách khó chịu; nhưng ngay cả nếu là vậy, y có muốn liều mang về nhà một ảnh hưởng đối với vợ hay con gái mình không? Tất nhiên, tôi hoàn toàn thừa nhận rằng đây chỉ là một khả hữu—một người có thể tham dự hai mươi buổi gọi hồn mà không gặp gì thuộc loại này; nhưng những điều ấy đã xảy ra, và hiện vẫn đang xảy ra. Những người bị dồn đến bờ vực điên loạn bởi sự quấy nhiễu ở cõi cảm dục đã tìm đến tôi hết lần này đến lần khác; và trong nhiều trường hợp, chính ở một buổi gọi hồn họ đã gặp người bạn đồng hành ma ám đầu tiên ấy. Kẻ mạnh có thể kháng cự; nhưng ai biết mình mạnh chừng nào cho đến khi thử?

Resolution Needed—Cần Có Quyết Tâm

When, however, this unfortunate thing has already happened to a person—when he already feels himself haunted or obsessed—there is only one thing to be done, and that is to set the mind steadily against it in determined resistance. Realize firmly that the human will is stronger than any evil influence, and that you have a right to your own individuality and the use of your own organs—a right to choose your company astrally as well as on the physical plane. Assert this right persistently, and all will be well with you. Take resolutely to heart the common sense advice given by Miss Freer, in her Essays in Psychical Research:

Tuy nhiên, khi điều bất hạnh này đã xảy ra với một người—khi y đã cảm thấy mình bị ám hay bị nhập—thì chỉ có một việc phải làm, đó là lập tâm chống lại nó bằng sự phản kháng cương quyết. Hãy vững tin rằng ý chí con người mạnh hơn bất cứ ảnh hưởng xấu nào, và rằng bạn có quyền đối với cá tính của chính mình và việc sử dụng các cơ quan của mình—quyền chọn bầu bạn của mình trên cõi cảm dục cũng như trên cõi hồng trần. Hãy khẳng định quyền này một cách bền bỉ, và mọi sự sẽ ổn. Hãy quả quyết ghi tâm lời khuyên lẽ thường do Cô Freer nêu trong Những Luận văn về Nghiên cứu Thần linh học:

If you believe yourself obsessed, if planchette swears, if your table-raps give lying messages, and you fall into trances at unreasonable moments, drop the subject. Get a bicycle, or learn Hebrew, or go on a walking tour, or weed the garden! If you are sane, you can do as you like with your own mind; if you can not, consult the staff of Colney Hatch! Want of self-restraint is either sin or disease.

Nếu bạn tin mình bị ám, nếu bàn viết tự động chửi rủa, nếu những cú gõ bàn đưa ra các thông điệp dối trá, và bạn rơi vào xuất thần vào những lúc vô lý, thì bỏ hẳn đề tài ấy . Hãy sắm một chiếc xe đạp, hoặc học tiếng Do Thái, hoặc đi bộ đường dài, hoặc nhổ cỏ trong vườn! Nếu bạn tỉnh táo, bạn có thể muốn làm gì thì làm với tâm trí của mình; nếu bạn không , hãy đến nhờ nhân viên của Colney Hatch! Thiếu tự chủ hoặc là tội lỗi hoặc là bệnh tật.

Possibility Of Deception—Khả Năng Bị Lừa Dối

Then there is always the possibility of deception—not so much of deception by the medium, or by any one on the physical plane, as by entities behind. I have known many cases in which such deceptions were well-intentioned; but of course they remain deceptions nevertheless. It may happen that one dead man personates another from the best of motives—it may be simply to comfort surviving relations, by taking the place of one who does not care sufficiently, or perhaps is ashamed to come. Sometimes one man will take the place of another who has already passed on to the heaven-world and so is out of reach, in order that his surviving relations may not feel themselves neglected or abandoned. In such a case it is not for us to blame him; his action may be right or it may be wrong, but that is a matter exclusively for his own conscience, and we are not called upon to judge him. I simply note the fact that such cases occur.

Rồi thì luôn có khả năng bị đánh lừa—không phải chủ yếu do đồng tử, hay do bất kỳ ai trên cõi hồng trần, mà là do các thực thể ở phía sau. Tôi đã biết nhiều trường hợp mà sự đánh lừa như thế lại xuất phát từ thiện ý; nhưng dĩ nhiên, dù thế nào nó vẫn là sự đánh lừa. Có thể xảy ra việc một người đã khuất mạo nhận người khác vì những động cơ tốt đẹp nhất—đơn giản là để an ủi những người thân còn sống, bằng cách thế chỗ cho người không đủ quan tâm, hoặc có lẽ hổ thẹn không muốn đến. Đôi khi một người sẽ thế chỗ cho người kia đã sang cõi thượng thiên nên không còn tiếp cận được, để cho những người thân còn sống không cảm thấy mình bị bỏ rơi hay bị lãng quên. Trong trường hợp như vậy, không phải phần việc của chúng ta là trách cứ người ấy; hành động của y có thể đúng hoặc có thể sai, nhưng đó là việc hoàn toàn thuộc về lương tâm riêng của y, và chúng ta không được kêu gọi để phán xét y. Tôi chỉ ghi nhận một sự kiện là những trường hợp như vậy có xảy ra.

It must be remembered that the man who has passed on into the heaven-world has left behind him his astral corpse, which is at the stage of decay of the shade or of the shell, according to the time which has elapsed since he abandoned it. Obviously to utilize and revivify this will be the easier way of personating him, and it is therefore the plan usually adopted.

Cần ghi nhớ rằng người đã đi vào cõi thượng thiên đã bỏ lại phía sau cái xác cảm dục của mình, đang ở giai đoạn phân hủy thành “bóng” hoặc “vỏ”, tùy theo khoảng thời gian từ khi y lìa bỏ nó. Rõ ràng, sử dụng và làm hồi sinh cái ấy sẽ là cách dễ hơn để mạo nhận y, do đó đây là phương án thường được áp dụng.

It is not even in the least necessary that the communicating entity should be human at all; many a joyous and obliging nature-spirit is proud to have the opportunity of playing the part of a being belonging to a superior evolution, and will continue assuring his delighted audience that he is “so happy” as long as they like to listen to him.

Thậm chí hoàn toàn không cần thiết thực thể giao tiếp phải là con người; nhiều tinh linh thiên nhiên vui tươi và hay giúp đỡ hãnh diện khi có cơ hội đóng vai một hữu thể thuộc một nấc tiến hóa cao hơn, và sẽ không ngừng quả quyết với thính chúng đang khoái trá rằng y “rất hạnh phúc” miễn là họ còn thích lắng nghe y.

The entity who poses at a seance as Shakespeare or Julius Caesar, as Mary Queen of Scots or George Washington, is usually of this class, though he is sometimes also a human being of low degree, to whom it is a joy to strut even for a few minutes in such borrowed plumes, to enjoy even for a single evening the respect due to a well-known name. Also, if he has something to say which he considers useful or important, he thinks (and quite rightly) that credulous mortals are more likely to pay attention to it if it be attributed to some distin­guished person. His motives are often estimable, even though we cannot approve of his methods.

Thực thể đóng vai Shakespeare hay Julius Caesar, Mary, Nữ hoàng Scotland hay George Washington trong một buổi gọi hồn thường thuộc hạng này; tuy đôi khi cũng là một con người ở trình độ thấp—đối với y, được làm điệu một vài phút trong “bộ cánh vay mượn” như thế, được hưởng dù chỉ một buổi tối sự tôn kính dành cho một cái tên lừng danh, đã là một niềm vui. Hơn nữa, nếu y có điều gì muốn nói mà y cho là hữu ích hay hệ trọng, y nghĩ (và hoàn toàn đúng) rằng phàm nhân cả tin sẽ chú ý đến nó hơn nếu nó được gán cho một nhân vật lỗi lạc nào đó. Động cơ của y thường đáng trân trọng, dù chúng ta không thể tán thành phương pháp của y.

There is any amount of such personation as this; it is one of the commonest facts which we encounter in our researches. There is a book on Spiritualism, for example, by Judge Edmonds of the Supreme Court of New York, which consists chiefly of com­munications purporting to come from Swedenborg and Bacon, with occasional observations from Washington and Charlemagne; but none of these great people seem to have risen at all to the level of their earthly reputation, and their remarks do not, differ appreci­ably from the deadly dullness of the ordinary trance-address, while many of their statements are of course wildly inaccurate.

Những màn mạo nhận như thế có vô số; đó là một trong những sự kiện phổ biến nhất mà chúng ta gặp trong khảo cứu. Chẳng hạn có một cuốn sách về Thần linh học của Thẩm phán Edmonds thuộc Tối cao Pháp viện New York, phần lớn gồm các thông điệp tự xưng đến từ Swedenborg và Bacon, thỉnh thoảng có nhận xét của Washington và Charlemagne; nhưng dường như chẳng ai trong số những vị vĩ nhân ấy vươn lên ngang tầm danh tiếng trần thế của họ, và lời lẽ của họ cũng chẳng khác bao nhiêu so với sự buồn tẻ chết người của những bài nói xuất thần thông thường, trong khi nhiều phát biểu của họ dĩ nhiên sai lạc trầm trọng.

Another fine example is the list of signatures appended to the prolegomena of The Spirits’ Book, by Allan Kardec, which is as follows: “John the Evangelist, St. Augustine, St. Vincent de Paul, St. Louis, the Spirit of Truth, Socrates, Plato, Fenelon, Franklin, Swedenborg, etc., etc.” One wonders who is covered by the mystic “etc., etc.,” and whether the other names were all that the communicating entity could think of at the moment!

Một ví dụ tiêu biểu khác là danh sách chữ ký đính kèm phần dẫn nhập của Các Linh Hồn ’ Cuốn Sách , của Allan Kardec, như sau: “John nhà Phúc Âm, Thánh Augustine, Thánh Vincent de Paul, Thánh Louis, Thần Khí của Chân Lý, Socrates, Plato, Fenelon, Franklin, Swedenborg, v.v., v.v.” Người ta tự hỏi “v.v., v.v.” huyền bí ấy bao trùm ai, và liệu những cái tên khác có phải chỉ là tất cả những gì thực thể giao tiếp có thể nghĩ ra vào lúc đó!

All such extravagant pretensions as these are so obviously ridiculous that they are easy of detection. But when the man personated is one of ordinary type, it is quite another matter; so that at a seance, unless the sitter is himself a trained clairvoyant of no mean order, he simply cannot tell what it is that he sees, however much he may flatter himself that his discernment is perfect. Let me quote once more what I wrote some years ago in The Astral Plane, p. 108.

Tất cả những sự tự phụ thái quá như thế quá hiển nhiên nực cười nên dễ bị phát hiện. Nhưng khi người bị mạo nhận chỉ là một người bình thường thì lại là chuyện khác; vì thế, trong một buổi gọi hồn, trừ khi người dự vốn là một nhà thông nhãn lão luyện, không phải hạng tầm thường, y hoàn toàn không thể biết mình đang thấy gì, cho dù y có tự tâng bốc mình rằng khả năng phân biện là hoàn hảo đến đâu. Cho phép tôi dẫn lại điều tôi đã viết một vài năm trước trong Cõi Cảm Dục , tr. 108.

A manifesting “spirit” is often exactly what it professes to be, but often also is nothing of the kind; and for the ordinary sitter there is absolutely no means of distinguishing the true from the false, since the extent to which a being having all the resources of the astral plane at his command can delude a person on the physical plane is so great that no reliance can be placed even on what seems the most convincing proof.

Một “vong linh” xuất hiện thường đúng như điều nó tự xưng, nhưng cũng thường hoàn toàn không phải thế; và đối với người dự bình thường thì tuyệt đối không có phương tiện nào để phân biệt thật với giả, vì mức độ mà một hữu thể có trong tay mọi phương tiện của cõi cảm dục có thể đánh lừa một người ở cõi hồng trần lớn đến nỗi không thể đặt chút tin cậy nào ngay cả vào điều có vẻ là bằng chứng thuyết phục nhất.

If something manifests which announces itself as a man’s long-lost brother, he can have no certainty that its claim is a just one. If it tells him of some fact known only to that brother and to himself, he remains unconvinc­ed, for he knows that it might easily have read the information from his own mind, or from his surroundings in the astral light. Even if it goes still further and tells him something connected with his brother, of which he himself is unaware, which he afterwards verifies, he still realizes that even this may have been read from the astral records, or that what he sees before him may be only the shade of his brother, and so possess his memory without in any way being himself. It is not for one moment denied that important communications have sometimes been made at seances by entities who in such cases have been precisely what they said they were; all that is claimed is that it is quite impossible for the ordinary person who visits a seance ever to be certain that he is not being cruelly deceived in one or other of a dozen different ways.

Nếu có cái gì đó hiện hình và tự xưng là người anh em thất lạc bấy lâu của một người, y không thể có sự chắc chắn rằng lời tự xưng ấy là chính đáng. Nếu nó kể cho y một sự việc chỉ người anh em ấy và y biết, y vẫn không bị thuyết phục, vì y biết rằng nó có thể dễ dàng đọc được thông tin từ tâm trí của chính y, hoặc từ hoàn cảnh chung quanh trong ánh sáng cõi cảm dục. Ngay cả nếu nó đi xa hơn nữa và nói cho y điều gì đó liên quan đến người anh em mà chính y chưa hề hay biết, và sau đó y kiểm chứng được, y vẫn nhận ra rằng ngay cả điều ấy cũng có thể đã được đọc từ các bản ghi của cõi cảm dục, hoặc rằng cái y đang thấy trước mặt có thể chỉ là bóng của người anh em mình, nên mang ký ức của người ấy mà chẳng hề là chính người ấy. Không hề phủ nhận rằng đôi khi trong các buổi gọi hồn, những thông điệp quan trọng đã được đưa ra bởi những thực thể trong những trường hợp đó đúng như điều họ nói họ là; điều duy nhất được khẳng định là hoàn toàn không thể nào để người bình thường đến với một buổi gọi hồn có thể chắc chắn rằng mình không bị lừa dối một cách tàn nhẫn theo cách này hay cách khác trong hàng tá cách khác nhau.

Once more, I know that these are possibilities only, and that in the majority of cases the dead man gives his name honestly enough; but the possibilities exist nevertheless, and often materialize themselves into actualities.

Một lần nữa, tôi biết rằng đây chỉ là những khả năng, và trong đa số trường hợp người đã khuất xưng tên mình một cách thành thật; nhưng những khả năng ấy dẫu sao vẫn hiện hữu, và thường hiện hình thành những thực tại.

Harm To The Medium—Tổn hại đối với Đồng tử

Another point is the harm which must to a greater or less extent be done to the medium—not only the extreme physical prostration which I have mentioned, leading sometimes to nervous break-down, and sometimes to excessive use of stimulants in order to avoid that break-down—but also along moral lines. Here I must protest emphatically against the ordinary type of paid seances to which anyone may come on payment of so much per head. It places the unfortunate medium in an utterly false position, and exposes him to a temptation to which no man ought ever intentionally to be exposed. Anyone who knows anything at all about these phenomena knows that they are erratic, that they are dependent upon many causes of which as yet he knows only a few, and that therefore sometimes they can be had and sometimes they cannot. This is the experience of every investigator. Miss Goodrich Freer corroborates it in the preface to her Essays in Psychical Research, p. vi:

Một điểm khác là sự tổn hại—nhiều hay ít—ắt phải giáng lên đồng tử—không chỉ là sự suy kiệt thể xác cực độ mà tôi đã đề cập, đôi khi dẫn đến suy sụp thần kinh, và đôi khi dẫn đến sử dụng quá độ các chất kích thích để tránh sự sụp đổ ấy—mà còn cả trên bình diện đạo đức. Ở đây tôi phải kịch liệt phản đối kiểu buổi gọi hồn thu tiền thông thường mà ai ai cũng có thể dự chỉ cần trả bấy nhiêu tiền mỗi đầu người. Nó đặt người đồng tử bất hạnh vào một vị thế hoàn toàn sai trái, và phơi y ra trước một cám dỗ mà không ai nên cố ý bị đặt vào. Ai biết chút gì về các hiện tượng này đều biết rằng chúng thất thường, rằng chúng tùy thuộc vào nhiều nguyên nhân mà đến nay y mới biết được vài cái, và do đó đôi khi có thể có, đôi khi không thể. Đây là kinh nghiệm của mọi nhà điều tra. Cô Goodrich Freer xác nhận điều này trong lời tựa cho Luận văn về Nghiên cứu Thông linh , tr. vi:

If I know anything, I know that psychic phenomena are not to be commanded, be their origin what it may… He who ordains the services of Angels as well as of men may send His messengers—but not, I think, to produce poltergeist phenomena. The veil of the future may be lifted now and then—but not, I take it, at the bidding of a guinea fee in Bond Street. That we may momentarily transcend time and space, the temporary conditions of our mortality, I cannot doubt; but such phenomena are not to be commanded, nor of everyday occurrence, nor hastily to be assumed.

Nếu tôi biết chút gì, tôi biết rằng các hiện tượng thông linh không thể bị truyền lệnh, bất kể nguồn gốc của chúng là gì… Đấng an bài các lễ phụng sự của cả các Thiên Thần lẫn con người có thể sai các sứ giả của Ngài—nhưng, tôi nghĩ, không phải để tạo ra những hiện tượng quấy nhiễu vật thể. Bức màn của tương lai đôi lúc có thể được vén lên—nhưng, theo tôi, không phải theo lệnh của một khoản thù lao một đồng guinea ở Bond Street. Rằng chúng ta đôi lúc có thể vượt thoát thời gian và không gian—những điều kiện tạm thời của thân phận tử sinh—tôi không nghi ngờ; nhưng những hiện tượng như thế không thể bị truyền lệnh, không xảy ra hằng ngày, và không nên vội vàng giả định.

Now if the medium is in the position of having been paid beforehand for their production, and then he finds that they will not come, what is he to do to satisfy all these people who are sitting round him expecting their money’s worth? It is so easy to deceive them; they lend themselves to it so readily; nay, it is often quite sufficient just to allow them to deceive themselves. It is not fair to put any man in such a position as that; and if the medium some­times falls into cheating, it is surely not he alone who is to blame.

Bây giờ, nếu đồng tử ở trong vị thế đã được trả tiền trước để tạo ra các hiện tượng, và rồi y thấy chúng không đến, y phải làm gì để làm vừa lòng tất cả những người đang ngồi quanh, mong “đáng đồng tiền bát gạo”? Thật quá dễ để lừa họ; họ lại dễ dàng để cho mình bị lừa; hơn nữa, nhiều khi chỉ cần để mặc họ tự lừa mình là đủ. Không công bằng khi đặt bất kỳ ai vào vị thế như thế; và nếu đôi khi đồng tử sa vào gian dối, chắc chắn không chỉ mình y là người đáng trách.

Harm To The Dead—Tổn hại đối với Người chết

Then there is the whole question of possible harm to the dead. I have already admitted that the dead man sometimes wishes to communicate in order to unburden his mind in some way, and when this is the case it is well that he should have the opportun­ity of doing it. But these cases are comparatively rare. If the dead want us they will seek to reach us; but we should invariably let the movement come from their side—we should never seek to draw them back. It may be said, perhaps: “But is it not a natural desire on the part of a mother to see her dead child again?” Surely it would be more natural for the mother to be entirely unselfish, and to think first of what was best for the child, before she considered her personal longings. In many cases communication with the physical plane may do a man but little harm during the earliest stages of his astral life; but it must always be remembered that in every case it intensifies and prolongs his attachment to the lower levels of the plane—that it sets up in him a habit of remaining closely in touch with the earth-life.

Rồi có cả vấn đề tổn hại có thể xảy ra cho người chết. Tôi đã thừa nhận rằng đôi khi người đã khuất muốn giao tiếp để trút bỏ nỗi lòng theo một cách nào đó, và khi điều này xảy ra thì tốt là y có cơ hội làm điều ấy. Nhưng những trường hợp như vậy tương đối hiếm. Nếu người chết cần chúng ta họ sẽ tìm cách vươn tới chúng ta; nhưng chúng ta phải luôn để cho sự chuyển động đến từ phía họ—chúng ta không bao giờ nên tìm cách kéo họ quay lại. Có thể có người nói: “Nhưng chẳng phải mong muốn tự nhiên của một người mẹ là được gặp lại đứa con đã chết của mình sao?” Hẳn nhiên tự nhiên hơn là người mẹ hoàn toàn vô kỷ, nghĩ trước hết đến điều tốt nhất cho đứa con, rồi mới xét đến khát vọng riêng của mình. Trong nhiều trường hợp, giao tiếp với cõi hồng trần có thể không gây nhiều hại cho một người trong giai đoạn sớm của đời sống cảm dục; nhưng phải luôn nhớ rằng trong mọi trường hợp, nó làm tăng và kéo dài sự vướng mắc của y với các tầng thấp của cõi—nó tạo nên nơi y một thói quen ở sát liền với đời sống trần gian.

The Place And Work Op Spiritualism—Vị trí và công việc của Thần linh học

Yet, with all this, spiritualism has assuredly its place and its work, and it has been of incalculable value to many thousands of men and women. The Catholic Church and the Salvation Army are both sections of Christianity, yet they appeal to widely different types of people, and those who are attracted by one would have been little likely to come to the other. So each has its place and its work to do for the broad idea of Christianity. In the same way it seems to me that Theosophy and spiritualism have each their clientele. Those who study the philosophy which we set before them would never have been satisfied with the trance-speaking and the constantly repeated phenomena of the spiritualistic seance; those who desire such phenomena, and those who yearn after what good old Dr. Dee used to call “sermon-stuffe” would never have been happy with us, while they find exactly what they want in spiritualism. For among spiritualists, as among any other body of men, there are several types. There are those who are chiefly interested in the trance-speaking, who make this their religion and take their trance-address followed by a clairvoyant reading of surroundings every Sunday evening, just as mortals who are otherwise disposed go to church or to a Theosophical lecture. Then there is the type whose interest is purely personal—whose one and only idea in connection with the whole affair is the gratification of their private and particular wish to see their own dead relations. There is another type who honestly and unselfishly set themselves to the task of trying to help and develop the degraded, the unevolved and the ignorant among the dead; and there is no doubt that they really achieve a great deal of good with that unpromising class of people. Others there are who are really anxious to learn and understand scientifically the facts of the higher life; and these people, while intensely delighted and interested for a time, usually find presently that beyond a certain point they can get no further; and then perhaps we can do something for them in Theosophy.

Tuy vậy, với tất cả những điều ấy, Thần linh học hẳn nhiên có vị trí và công việc của nó, và nó đã mang giá trị không thể tính kể cho hàng vạn người nam và nữ. Giáo hội Công giáo và Đội Cứu Thế đều là các bộ phận của Kitô giáo, nhưng họ thu hút những kiểu người rất khác nhau, và những ai bị thu hút bởi nơi này thì ít có khả năng đến với nơi kia. Vậy nên, mỗi bên có vị trí và công việc dành cho ý niệm rộng lớn về Kitô giáo. Tương tự, theo tôi, Thông Thiên Học và Thần linh học mỗi bên có một nhóm đối tượng riêng. Những người học triết lý mà chúng ta trình bày sẽ không bao giờ thấy thỏa mãn với những bài nói xuất thần và những hiện tượng lặp đi lặp lại trong các buổi gọi hồn; những ai mong những hiện tượng như thế, và những ai khao khát cái mà ông bác sĩ Dee ngày xưa thường gọi là “tư liệu giảng đạo” sẽ không bao giờ thấy hạnh phúc với chúng ta, trong khi họ lại tìm thấy đúng điều họ muốn nơi Thần linh học. Vì giữa những người theo Thần linh học, cũng như trong bất kỳ cộng đồng người nào khác, có nhiều kiểu người. Có những người chủ yếu quan tâm đến nói xuất thần, biến nó thành “tôn giáo” của họ và nghe một bài nói xuất thần kèm theo một phần đọc thông nhãn về hoàn cảnh chung mỗi tối Chủ nhật, cũng như những phàm nhân có khuynh hướng khác thì đi nhà thờ hay dự một buổi thuyết giảng Thông Thiên Học. Rồi có kiểu người chỉ có mối quan tâm thuần cá nhân—ý niệm duy nhất gắn với toàn bộ việc này là thỏa mãn ước muốn riêng của họ được trông thấy người thân đã khuất của chính mình. Lại có kiểu người chân thành và vô kỷ tự đặt mình vào nhiệm vụ cố gắng giúp đỡ và phát triển những người chết đọa lạc, chưa tiến hóa và vô minh; và chẳng nghi ngờ gì họ thực sự đạt được rất nhiều điều thiện lành với lớp người không mấy hứa hẹn ấy. Lại có những người thực sự nóng lòng muốn học hỏi và thấu hiểu một cách khoa học các sự kiện của đời sống cao hơn; và những người này, dù hết sức hoan hỉ và hứng thú một thời gian, thường sớm nhận ra rằng vượt quá một điểm nào đó họ không thể tiến thêm; và rồi có lẽ chúng ta có thể làm được điều gì đó cho họ trong Thông Thiên Học.

A question which is constantly asked is: “Why do not these dead men who return to us with the knowledge of a higher plane teach us the doctrine of reincarnation?” The answer is perfectly simple; first of all, some of them do teach it. All spiritists of the French school of Allan Kardec hold this doctrine during life, and consequently when they return after death they have still the same story to tell. Those who return in England or America usually say nothing about it, because they have no means of knowing anything more about it now than they knew when they were upon earth. As we explained in an earlier chapter, it is the soul himself in his causal body who passes from life to life, and he has no more knowledge or memory of that wider existence on the astral plane than he had on the physical. So he repeats only what he has known on earth, unless he is so fortunate as to meet with someone who is able to teach him something of this grand truth—an Oriental for example, or a Theosophist.

Một câu hỏi thường được nêu ra là: “Tại sao những người chết trở về với chúng ta, có tri thức về một cõi giới cao hơn, lại không dạy chúng ta giáo lý tái sinh?” Câu trả lời hoàn toàn đơn giản; trước hết, có một số người thật sự dạy điều ấy. Tất cả những người theo Thần linh học thuộc trường phái Pháp của Allan Kardec đều giữ giáo lý này khi còn sống, và do đó khi trở về sau khi chết họ vẫn kể cùng một câu chuyện. Những người trở về ở Anh hay Mỹ thường không nói gì về nó, vì họ không có phương tiện để biết gì về nó bây giờ hơn những gì họ biết khi còn ở thế gian. Như chúng tôi đã giải thích trong một chương trước, chính linh hồn trong thể nguyên nhân mới đi từ đời này sang đời khác, và y không có tri thức hay ký ức nào nhiều hơn về đời sống rộng lớn ấy trên cõi cảm dục so với khi ở cõi hồng trần. Vậy nên y chỉ lặp lại điều y đã biết trên trần, trừ khi may mắn gặp ai đó có thể dạy y phần nào về chân lý vĩ đại này—chẳng hạn một người phương Đông, hoặc một người Thông Thiên Học.

Still, even in spiritualism evidence of reincarna­tion occasionally appears, as, for example, in Claude’s Book, by L. Kelway-Bamber, first published in 1918, wherein the young British officer, communicating from the astral plane, devotes a chapter to a de­scription of the subject; and naturally it is usually of that rapid type of reincarnation of which Monsieur Gabrielle Delanne collected so many examples in the address which he delivered some years ago before one of the spiritualistic societies. Here, for example, is a curious case, extracted from the pages of The Progressive Thinker of December 13th, 1902. It appears in the form of a letter to the editor, signed with the initials S.O., and dated somewhat vaguely from New Mexico.

Dầu vậy, ngay trong Thần linh học, đôi khi bằng chứng về tái sinh vẫn xuất hiện, như chẳng hạn trong Claude ’ Cuốn Sách , của L. Kelway-Bamber, xuất bản lần đầu năm 1918, trong đó chàng sĩ quan trẻ người Anh, giao tiếp từ cõi cảm dục, dành một chương để mô tả đề tài này; và tự nhiên thường là kiểu tái sinh mau chóng mà Ông Gabrielle Delanne đã sưu tập rất nhiều ví dụ trong một bài diễn thuyết ông đọc mấy năm trước trước một hội Thần linh học. Ở đây, chẳng hạn, là một trường hợp lạ, rút từ các trang của Nhà Tư tưởng Tiến bộ ngày 13 tháng 12, 1902. Nó xuất hiện dưới dạng một bức thư gửi tòa soạn, ký tắt S.O., và đề ngày khá mơ hồ từ New Mexico.

A Story Of Reincarnation—Một câu chuyện về Tái sinh

I offer my personal experience as an absolute fact—not as supporting any theory. At the time I passed through the experience (28 years ago), I knew absolutely nothing of mediumship in any phase and probably had never heard the word reincarnation. I was then sixteen years of age and had been married one year.

Tôi xin dâng kinh nghiệm cá nhân của mình như một sự kiện tuyệt đối—không nhằm hỗ trợ bất kỳ học thuyết nào. Vào thời điểm tôi trải qua kinh nghiệm ấy (cách đây 28 năm), tôi hoàn toàn không biết gì về đồng tử ở bất kỳ phương diện nào và có lẽ chưa bao giờ nghe từ “tái sinh”. Lúc đó tôi mười sáu tuổi và đã kết hôn được một năm.

The knowledge that I was to become a mother had just dawned upon me, when in a vague way I became conscious of the almost constant presence of an invisible personality. I seemed to know intuitively that my invisible companion was a woman, and quite a number of years older than myself. By degrees this presence grew stronger. In the third month after she first made her presence felt, I could receive impressionally long messages from her. She manifested the most solicitous care for my health and general welfare, and as time wore on her voice became audible to me, and I enjoyed many hours of conversation with her. She gave her name and nationality, with many details of her personal history. She seemed anxious that I should know and love her for herself, as she expressed it. She made continual efforts to become visible to me, and towards the last succeeded. She was then as true a companion to me as if she had been clothed in an embodi­ment of flesh. I had merely to draw my curtains, shroud­ing the room in quiet tones, to have the presence manifest, both to sight and hearing.

Tri thức rằng mình sắp làm mẹ vừa lóe lên trong tôi, thì một cách mơ hồ tôi trở nên ý thức về sự hiện diện hầu như thường trực của một cá tính vô hình. Tôi dường như biết theo trực giác rằng bạn đồng hành vô hình của tôi là một phụ nữ, và lớn hơn tôi khá nhiều tuổi. Dần dần, sự hiện diện này mạnh lên. Vào tháng thứ ba kể từ khi bà lần đầu cho tôi cảm biết sự hiện diện, tôi có thể nhận các thông điệp dài dưới dạng ấn tượng từ bà. Bà bộc lộ sự chăm sóc ân cần nhất đối với sức khỏe và phúc lợi chung của tôi, và theo thời gian, tiếng nói của bà trở nên nghe được với tôi, và tôi có nhiều giờ trò chuyện với bà. Bà cho biết tên và quốc tịch của mình, kèm nhiều chi tiết về tiểu sử cá nhân. Bà có vẻ nóng lòng muốn tôi biết và yêu bà vì chính bà, như bà nói. Bà nỗ lực liên tục để hiện thân trước mắt tôi, và về sau đã thành công. Khi ấy bà là một người bạn đích thực với tôi như thể bà được khoác trong một thân xác bằng thịt. Tôi chỉ cần kéo rèm, phủ bóng căn phòng bằng những tông màu tĩnh lặng, thì sự hiện diện ấy liền biểu hiện, cả cho thị giác lẫn thính giác.

Two or three weeks before the birth of my baby she informed me that the real purport of her presence was her intention to enter the new form at its birth, in order to complete an earth-experience that had come to an untimely end. I confess I had but a dim conception of her meaning, and was considerably troubled over the matter.

Hai, ba tuần trước khi đứa con của tôi chào đời, bà cho tôi biết rằng ý nghĩa thực sự của sự hiện diện của bà là bà có ý định nhập vào hình hài mới lúc nó sinh ra, để hoàn tất một trải nghiệm trần thế vốn đã bị chấm dứt yểu. Tôi thú thật tôi chỉ mơ hồ hiểu ý bà, và khá bối rối về việc ấy.

On the night before my daughter’s birth, I saw my companion for the last time. She came to me and said: “Our time is at hand; be brave and all will be well with us.”

Đêm trước ngày con gái tôi sinh, tôi thấy người bạn đồng hành lần cuối. Bà đến và nói: “Thời khắc của chúng ta đã đến; hãy can đảm và mọi sự sẽ tốt đẹp cho chúng ta.”

My daughter came, and in appearance was a perfect miniature of my spirit friend, and totally unlike either family to which she belonged, and the first remark of everyone on seeing her would be: “Why, she does not look like a baby at all. She looks at least twenty years old.”

Con gái tôi chào đời, và diện mạo là một phiên bản thu nhỏ hoàn hảo của người bạn linh giới của tôi, hoàn toàn không giống bất kỳ bên họ hàng nào của cháu, và lời nhận xét đầu tiên của mọi người khi nhìn cháu là: “Sao, trông nó chẳng giống em bé chút nào. Nó trông ít nhất cũng hai mươi tuổi.”

I was greatly surprised some years later when I chanced to find in an old work the story of the woman, whose name and history my spirit-friend claimed as her own in her earth-life, and the fragments of her story, as she had given them to me, were in accord with history, except some personal details not likely to have been known to anyone else. All this experience I kept to myself as a profound secret, for, young as I was, I realized what judgement the world would place upon the narrator of such a story.

Vài năm sau tôi vô cùng ngạc nhiên khi tình cờ tìm thấy trong một tác phẩm cũ câu chuyện về người phụ nữ mà người bạn linh giới đã nhận tên và lịch sử của bà ấy là của chính mình trong đời sống trần; và những mảnh chuyện mà bà đã kể cho tôi hài hòa với sử liệu, trừ vài chi tiết cá nhân khó có ai khác biết. Tất cả trải nghiệm này tôi giữ kín như một bí mật sâu xa, vì, dù còn trẻ, tôi hiểu thế gian sẽ phán xét thế nào về người kể một câu chuyện như vậy.

Once when my daughter was in her fifteenth year, the first name of my spirit-friend happened to be mentioned in her presence. She turned to me quickly with a look of surprise on her face and said: “Mamma, didn’t my papa call me by this name?” (Her father died when she was one year old.) I said: “No, dear, you were never called this name.” She replied: “Well, I surely remember it, and somebody somewhere called me by it.”

Một lần, khi con gái tôi mười lăm tuổi, cái tên đầu tiên của người bạn linh giới tình cờ được nhắc đến trước mặt cháu. Cháu quay sang tôi nhanh chóng với vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt và nói: “Mẹ ơi, trước đây ba có gọi con bằng tên này không?” (Cha cháu mất khi cháu được một tuổi.) Tôi nói: “Không, con yêu, con chưa bao giờ được gọi bằng cái tên này.” Cháu đáp: “Vâng, nhưng con nhất định nhớ nó, và ở đâu đó có ai đã gọi con bằng tên ấy.”

In conclusion I will add that in character my daughter is very much like the historic character of the woman whose spirit said she would inhabit the new form.

Kết luận, tôi xin nói thêm rằng về tính cách, con gái tôi rất giống với tính cách lịch sử của người phụ nữ mà linh hồn của bà ấy nói sẽ cư ngụ vào hình hài mới.

These are my facts. I offer no explanation; if they chance to fit anybody’s theory, so much the better for the theory. Theories usually need some facts to prop them up; facts are independent and able to stand on their own feet.

Đó là những sự kiện của tôi. Tôi không đưa ra lời giải thích; nếu tình cờ chúng phù hợp với học thuyết của ai, thì càng tốt cho học thuyết ấy. Các học thuyết thường cần vài sự kiện để chống đỡ; còn sự kiện thì độc lập và có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình.

Madame d’Espérance, who seems to be in so many respects in advance of the majority of mediums, appears to have been taught not only reincarnation but much other Theosophical doctrine by one of her dead friends, as is set forth in her book Shadowland. Perhaps the most striking incident in that very interesting work is the occasion on which the author leaves her body and is shown a remarkable symbolical vision of her life; for in that one experience her eyes are opened to the doctrine of cause arid effect, of evolution and reincarnation, and to the absolute realization of the fundamental unity of all, however dimly and imperfectly it may be expressed. For the law of cause and effect is involved in the statement made by the spirit-friend as to the path of life: “It is the road you have made; you have no other”. Evolution is taught when she is shown “that it is the same life which, circling for ever and ever through form after form, dwelling in the rocks, the sand, the sea, in each blade of grass, each tree, each flower, in all forms of animal existence, culminates in man’s intelligence and perception.”

Bà d’Espérance, người dường như về nhiều phương diện vượt trước đa số đồng tử, hình như đã được một người bạn đã khuất dạy không chỉ tái sinh mà cả nhiều giáo lý Thông Thiên Học khác, như được trình bày trong cuốn Xứ Bóng của bà. Có lẽ sự kiện ấn tượng nhất trong tác phẩm rất thú vị ấy là dịp tác giả lìa xác và được cho thấy một thị kiến biểu tượng kỳ lạ về đời mình; vì trong trải nghiệm ấy, mắt bà mở ra trước giáo lý về nhân và quả, về tiến hóa và tái sinh, và đạt đến sự thể nghiệm tuyệt đối về nhất thể căn bản của vạn hữu, dù nó chỉ được diễn đạt mơ hồ và bất toàn. Bởi luật nhân quả đã được bao hàm trong lời phát biểu của người bạn linh giới về con đường của đời sống: “Đó là con đường con đã tạo; con không có con đường nào khác.” Tiến hóa được dạy khi bà được cho thấy “rằng đó là cùng một sự sống, vòng quanh mãi mãi qua hết hình thể này đến hình thể khác, cư ngụ trong đá, cát, biển, trong mỗi cọng cỏ, mỗi cây, mỗi bông hoa, trong mọi hình thái tồn tại của loài vật, và đạt tột đỉnh trong trí tuệ và tri nhận của con người.”

As to reincarnation she remarks:

Về tái sinh, bà nhận xét:

I could see that the fact of the spirit first taking on itself the form of man did not bring it to its utmost earthly perfection, for there are many degrees of man. In the savage it widens its experience and finds a new field for education, which being exhausted, another step is taken; and so step by step, in an ever onward, progressive, expansive direction the spirit develops, the decay of the forms which the spirit employs being only the evidence that they have fulfilled their mission, and served the purpose for which they were used. They return to their original elements, to be used again and again as a means whereby the spirit can manifest itself, and obtain the development it requires. (p 376).

Tôi có thể thấy rằng việc linh hồn trước hết khoác lấy hình thể con người không khiến nó đạt ngay đến mức hoàn thiện trần thế tột cùng, vì có nhiều bậc độ của con người. Trong người dã man, nó mở rộng kinh nghiệm và tìm một lĩnh vực giáo dục mới, và khi lĩnh vực ấy cạn kiệt, một bước nữa được tiến; cứ thế, từng bước một, trong một hướng đi mãi mãi tiến bước, thăng triển, mở rộng, linh hồn phát triển; sự hư hoại của những hình thể mà linh hồn sử dụng chỉ là bằng chứng rằng chúng đã hoàn tất sứ mệnh, và phục vụ xong mục đích vì đó chúng được dùng. Chúng trở về các nguyên tố ban đầu, để được dùng đi dùng lại như một phương tiện nhờ đó linh hồn có thể tự biểu lộ, và đạt lấy sự phát triển nó cần. (tr. 376).

M. L. Chevreuil’s book Proofs of the Spirit World contains a chapter entitled “Previous Lives”, in which he vigorously supports the truth of reincar­nation. He says:

Cuốn Những Bằng Chứng về Thế Giới Linh của M. L. Chevreuil có một chương nhan đề “Những đời trước”, trong đó ông mạnh mẽ bênh vực chân lý tái sinh. Ông viết:

The soul is an entity distinct from the body; it accompanies the essential part of the human being in the course of the numerous incarnations necessary to our evolution. From the time of Plato the majority of men have lived in the knowledge of this truth, and tomorrow they will dwell in scientific certainty that this ancient philosophy has not deceived them. (p. 56.)

Linh hồn là một thực thể khác biệt với thân xác; nó đồng hành với phần tinh túy của con người trong suốt những lần nhập thể nhiều lần cần thiết cho sự tiến hóa của chúng ta. Từ thời Plato, đa số người đã sống trong tri thức về chân lý này, và ngày mai họ sẽ sống trong sự chắc chắn về khoa học rằng triết học cổ xưa ấy đã không lừa dối họ. (tr. 56.)

He describes at considerable length some of the labours of M. de Rochas upon the regression of memory. M. Chevreuil explains that every subject describes in the same manner his or her going back to the past:

Ông mô tả khá dài về một số công trình của M. de Rochas về quy hồi ký ức. Ông Chevreuil giải thích rằng mọi đối tượng đều mô tả giống nhau cách họ/quay trở về quá khứ:

They are transported back to six months of age, two months, into the body of the mother, where they take the position of the foetus; the regression is continued and they are in space. A brief lethargy, and we are present at a new scene, the death of an old person. It is the beginning of the life which preceded the present incarnation, mani­festing itself backwards, and continuing back to a still older incarnation. (p. 59.)

Họ được đưa về lúc sáu tháng tuổi, hai tháng tuổi, vào trong thân thể của người mẹ, nơi họ giữ vị trí của bào thai; sự quy hồi tiếp tục và họ ở trong không gian. Một thoáng hôn trầm, và chúng ta chứng kiến một cảnh mới: cái chết của một người già. Đó là khởi đầu của đời sống có trước lần nhập thể hiện tại, biểu lộ theo chiều ngược, và tiếp tục ngược về một lần nhập thể còn xa xưa hơn nữa. (tr. 59.)

Considering the mode of the “spirit’s” coming to birth, M. Chevreuil says that the vision described is always the same, that before birth the subject sees himself in space in the form of a ball or as a slightly luminous mist, and sees in the mother’s womb the body in which he is to be incarnated; all agree, he adds, that the spiritual body enters little by little, and that the complete incorporation occurs at about seven years of age.

Xét về cách “linh hồn” đi đến chào đời, ông Chevreuil nói rằng thị kiến được mô tả luôn giống nhau: trước khi sinh, đối tượng thấy mình trong không gian dưới dạng một quả cầu hoặc một làn sương hơi phát sáng, và nhìn thấy trong dạ mẹ thân thể trong đó y sẽ nhập thể; tất cả đều đồng ý, ông thêm, rằng thể tinh thần đi vào từ từ, và sự nhập toàn phần diễn ra vào khoảng bảy tuổi.

Reincarnations In India And Japan—Những lần tái sinh ở Ấn Độ và Nhật Bản

Rao Bahadur Shyam Sundar Lal, C. I. E., a distinguished Minister of the Gwalior and Alwar States, has devoted many years to the study of reincarnation. Among the evidence collected by him is a case which was recounted as follows in The New York Times, September 16th, 1923:

Rao Bahadur Shyam Sundar Lal, C.I.E., một vị đại thần ưu tú của các bang Gwalior và Alwar, đã dành nhiều năm để nghiên cứu tái sinh. Trong số bằng chứng do ông thu thập có một trường hợp được thuật lại như sau trên The New York Times , ngày 16 tháng 9, 1923:

Within the Maharajah of Bharatpur’s extensive territory was found a boy of four years, Prabhu by name, the son of a Brahman called Khairti, who with childish prattle and laughter told with the greatest detail of his supposed former existence. He gave his former name, the year of his other birth, his personal appearance on his earlier visit to this earth, and recounted events, such as famines, which had happened more than fifty years before his last birth. He told of his former wife, his daughters and his sons, giving their names and the money he received on their marriages, and described his former home and neighbours.

Trong lãnh thổ rộng lớn của Quốc vương Bharatpur, người ta tìm thấy một bé trai bốn tuổi, tên là Prabhu, con của một vị Bà la môn tên Khairti, với lời bi bô và tiếng cười trẻ thơ, kể lại với chi tiết tường tận về sự tồn tại trước kia của mình. Em cho biết tên trước kia, năm sinh trong lần đến trần gian trước, ngoại hình của em trong lần trước ấy, và kể lại những biến cố, như nạn đói, đã xảy ra hơn năm mươi năm trước lần sinh vừa rồi. Em kể về vợ trước, các con gái và con trai, nêu tên họ và số tiền em nhận được trong các cuộc hôn nhân của họ, và mô tả ngôi nhà trước kia và những người láng giềng của em.

The child, the savants vouch, had not been tutored and had no means outside of himself to learn of these details, or to know anything of the transmigration of souls. The neighbourhoods he described were visited by the savants, with the child, and in nearly every detail his statements were found to be correct, even to the names of his supposed former children and wife. He had some difficulty in locating his supposed former home, but this, it was claimed, may be accounted for by the fact that it is now a mass of ruins and much different from what it had been.

Các học giả bảo đảm rằng đứa trẻ không hề được dạy dỗ và không có phương tiện nào ngoài bản thân để biết được những chi tiết này, hay biết bất kỳ điều gì về sự luân hồi của các linh hồn. Các khu vực mà em mô tả đã được các học giả, cùng với em, đến thăm, và hầu như mọi chi tiết đều đúng, kể cả tên của những đứa con và người vợ trước kia của em. Em gặp đôi chút khó khăn khi xác định vị trí ngôi nhà trước kia, nhưng điều này, theo họ, có thể giải thích được bởi thực tế là nay nó chỉ còn là một đống đổ nát và rất khác so với xưa.

A somewhat similar account, but coming this time from Japan, appears in Lafcadio Hearn’s Gleanings in Buddha Fields, Chapter X, and is entitled “The Rebirth of Katsugoro”. Mr. Hearn cites it as a good illustration of the common ideas of the people of Japan concerning pre-existence and rebirth. He takes it from a series of documents, very much signed and sealed by various officials, Priests and Daimyos. The full story is translated as follows.

Một tường thuật khá tương tự, nhưng lần này đến từ Nhật Bản, xuất hiện trong Nhặt Nhạnh trong Cánh đồng của Đức Phật của Lafcadio Hearn, Chương X, nhan đề “Sự Tái sinh của Katsugoro”. Ông Hearn dẫn nó như một minh họa hay về những quan niệm phổ biến của dân Nhật liên quan đến tiền sinh và tái sinh. Ông lấy nó từ một loạt tài liệu, có rất nhiều chữ ký và ấn triện của các quan chức, các Tăng và các Daimyo. Toàn bộ câu chuyện được dịch như sau.

Some time in the eleventh month of the past year, when Katsugoro was playing in the rice-field with his elder sister, Fusa, he asked her, —

Vào khoảng tháng mười một của năm vừa qua, khi Katsugoro đang chơi ở ruộng lúa cùng chị gái là Fusa, em hỏi chị, —

“Elder Sister, where did you come from before you were born into our household?”

“Chị Cả, trước khi chị sinh vào nhà mình thì chị từ đâu đến?”

Fusa answered him: —

Fusa trả lời em: —

“How can I know what happened to me before I was born?”

“Làm sao chị biết được chuyện gì đã xảy ra với chị trước khi chị sinh ra?”

Katsugoro looked surprised and exclaimed:

Katsugoro có vẻ ngạc nhiên và thốt lên:

“Then you cannot remember anything that happened before you were born?”

“Thế thì chị chẳng nhớ gì đã xảy ra trước khi chị sinh sao?”

“Do you remember?” asked Fusa.

“Vậy chị có nhớ không?” Fusa hỏi.

“Indeed I do,” replied Katsugoro. “I used to be the son of Kyubei San of Hodokubo, and my name was then Tozo—do you not know all that?”

“Dĩ nhiên là có,” Katsugoro đáp. “Em từng là con trai của Kyubei San ở Hodokubo, và lúc đó tên em là Tozo—chị không biết tất cả chuyện ấy sao?”

“Ah!” said Fusa, “I shall tell father and mother about it.”

“À!” Fusa nói, “Chị sẽ kể cho ba mẹ biết chuyện này.”

But Katsugoro at once began to cry, and said:

Nhưng lập tức Katsugoro bật khóc và nói:

“Please do not tell!—it would not be good to tell father and mother.”

“Xin đừng nói!—nói với ba mẹ thì không hay đâu.”

Fusa made answer, after a little while:—

Sau một lát, Fusa đáp:—

“Well, this time I shall not tell. But the next time that you do anything naughty, then I will tell.”

“Thôi được, lần này chị sẽ không nói. Nhưng lần tới em làm điều gì hư, thì chị sẽ nói.”

After that day whenever a dispute arose between the two, the sister would threaten the brother, saying: “Very well, then—I shall tell that thing to father and mother.” At these words the boy would always yield to his sister. This happened many times; and the parents one day over­heard Fusa making her threat. Thinking Katsugoro must have been doing something wrong, they desired to know what the matter was, and Fusa, being questioned, told them the truth. Then Genzo and his wife, and Tsuya, the grandmother of Katsugoro, thought it a very strange thing. They called Katsugoro, therefore; and tried, first by coaxing, and then by threatening, to make him tell what he had meant by those words.

Sau ngày ấy, mỗi khi nảy sinh tranh chấp giữa hai chị em, cô chị lại dọa cậu em rằng: “Được rồi nhé—chị sẽ kể chuyện đó cho ba mẹ.” Nghe vậy, cậu bé luôn nhường chị. Chuyện đó xảy ra nhiều lần; và một ngày kia cha mẹ tình cờ nghe Fusa buông lời dọa. Nghĩ rằng hẳn Katsugoro đã làm điều gì sai, họ muốn biết chuyện là gì, và Fusa, khi bị hỏi, đã kể thật. Rồi Genzo và vợ ông, cùng bà Tsuya, bà nội của Katsugoro, thấy chuyện thật là lạ lùng. Họ liền gọi Katsugoro; ban đầu dỗ dành, rồi dọa nạt, để buộc em nói rõ ý của những lời em đã nói.

After hesitation, Katsugoro said:—”I will tell you everything. I used to be the son of Kyubei San of Hodokubo, and the name of my mother then was O-Shidzu San. When I was five years old, Kyubei San died; and there came in his place a man called Hanshiro San, who loved me very much. But in the following year, when I was six years old, I died of smallpox. In the third year after that I entered mother’s honorable womb, and was born again.”

Sau khi chần chừ, Katsugoro bảo:—“Con sẽ kể hết. Con từng là con trai của Kyubei San ở Hodokubo, và tên mẹ con khi ấy là O-Shidzu San. Khi con năm tuổi, Kyubei San qua đời; và có một người đàn ông tên là Hanshiro San đến thế chỗ, người rất thương con. Nhưng năm kế tiếp, khi con sáu tuổi, con chết vì đậu mùa. Sau đó ba năm, con vào lại dạ mẹ tôn kính, và sinh ra lần nữa.”

The parents and the grandmother of the boy wondered greatly at hearing this, and they decided to make all possible inquiry as to the man called Hanshiro of Hodokubo. But as they all had to work very hard every day to earn a living, and so could spare but little time for any other matter, they could not at once carry out their intention.

Cha mẹ và bà nội cậu bé vô cùng kinh ngạc khi nghe vậy, và họ quyết định tìm hiểu tất cả những gì có thể về người tên Hanshiro ở Hodokubo. Nhưng vì ai cũng phải làm việc rất vất vả mỗi ngày để kiếm sống, nên khó có thể thu xếp thời gian ngay cho việc khác, thành thử họ chưa thể thực hiện ý định tức thì.

Now, Sei, the mother of Katsugoro, had nightly to suckle her little daughter Tsune, who was four years old;—and Katsugoro therefore slept with his grandmother, Tsuya. Sometimes he used to talk to her in bed; and one night when he was in a very confiding mood, she persuaded him to tell her what happened at the time when he had died. Then he said:—”Until I was four years old I used to remember everything; but since then I have become more and more forgetful; and now I forget many, many things. But I still remember that I died of smallpox; I remember that I was put into a jar; I remember that I was buried on a hill. There was a hole made in the ground; and the people let the jar drop into that hole. It fell pon! I remember that sound well. Then somehow I returned to the house, and I stopped on my own pillow there. In a short time some old man—looking like a grandfather—came and took me away. I do not know who or what he was. As I walked I went through empty air as if flying. I remember it was neither night nor day as we went; it was always like sunset-time. I did not feel either warm or cold or hungry. We went very far, I think; but still I could hear always, faintly, the voices of people talking at home; and the sound of the Nembutsu being said for me. I remember also that when the people at home set offerings of hot rice-cake before the household shrine, I inhaled the vapour of the offerings. Grandmother, never forgot to offer warm food to the honorable dead (Hotoke Same), and do not forget to give to priests—I am sure it is very good to do these things… After that, I only remember that the old man led me by some roundabout way to this place—I remember we passed the road beyond the village. Then we came here, and he pointed to this house, and said to me: ‘Now you must be reborn, for it is three years since you died. You are to be reborn in that house. The person who will become your grandmother is very kind; so it will be well for you to be conceived and born there.’ After saying this, the old man went away. I remained a little time under the kaki-tree before the entrance of this house. Then I was going to enter when I heard talking inside: some one said that because father was now earning so little, mother would have to go to service in Yedo. I thought, “I will not go into that house”; and I stopped three days in the garden. On the third day it was decided that, after all, mother would not have to go to Yedo. The same night I passed into the house through a knot-hole in the sliding-shutters;—and after that I stayed for three days beside the kitchen range. Then I entered mother’s honorable womb… I remember that I was born with­out any pain at all. —Grandmother, you may tell this to father and mother, but please never tell it to anybody else.”

Lúc bấy giờ, Sei, mẹ của Katsugoro, đêm đêm phải cho cô con gái nhỏ Tsune, bốn tuổi, bú;—vì vậy Katsugoro ngủ với bà nội, Tsuya. Đôi khi em trò chuyện với bà trên giường; và một đêm, khi em rất tin cậy, bà dụ em kể chuyện đã xảy ra lúc em chết. Bấy giờ em nói:—“Cho đến bốn tuổi, con còn nhớ hết mọi điều; nhưng từ đó con càng lúc càng quên; và giờ con quên nhiều, nhiều thứ. Nhưng con vẫn nhớ con chết vì đậu mùa; con nhớ con bị bỏ vào một cái chum; con nhớ con được chôn trên một ngọn đồi. Người ta đào một lỗ trên đất; và họ thả cái chum xuống lỗ ấy. Nó rơi pon ! Con nhớ rất rõ âm thanh ấy. Rồi bằng cách nào đó con trở về nhà, và con dừng lại bên chiếc gối của chính mình nơi đó. Chẳng bao lâu có một ông già—trông như một người ông—đến và dẫn con đi. Con không biết ông là ai hay là gì. Khi con bước đi, con đi qua khoảng không như thể đang bay. Con nhớ là khi chúng con đi, chẳng phải ngày cũng chẳng phải đêm; lúc nào cũng như giờ hoàng hôn. Con không cảm thấy ấm hay lạnh, cũng không đói. Chúng con đi rất xa, con nghĩ vậy; nhưng con vẫn luôn nghe thoang thoảng tiếng người nhà nói chuyện; và tiếng niệm Nembutsu cho con. Con cũng nhớ rằng khi người nhà bày cúng bánh nóng trước bàn thờ gia đình, con hít hương hơi của đồ cúng. Bà ơi, đừng bao giờ quên dâng thức ăn nóng cho các vong linh tôn kính (Hotoke-sama), và đừng quên cúng dường cho các sư—con chắc đó là những việc rất nên làm… Sau đó, con chỉ nhớ rằng ông già dẫn con bằng con đường vòng vèo nào đó đến chốn này—con nhớ chúng con đi qua con đường ở ngoài làng. Rồi chúng con đến đây, và ông chỉ vào ngôi nhà này, nói với con: ‘Bây giờ con phải tái sinh, vì đã ba năm kể từ khi con chết. Con sẽ tái sinh trong ngôi nhà ấy. Người sẽ trở thành bà của con là người rất tử tế; vậy sẽ tốt cho con nếu được hoài thai và sinh ra ở đó.’ Nói xong, ông già rời đi. Con ở lại một lát dưới cây hồng trước cổng nhà này. Rồi con định bước vào thì nghe tiếng nói chuyện bên trong: ai đó nói rằng vì cha bây giờ kiếm được quá ít, nên mẹ sẽ phải đi ở đợ tại Yedo. Con nghĩ, “Con sẽ không vào nhà ấy”; và con ở lại ba ngày trong vườn. Ngày thứ ba, cuối cùng người ta quyết định rằng mẹ sẽ không phải đi Yedo nữa. Tối hôm ấy, con đi vào nhà qua một lỗ mắt trên cánh cửa trượt;—và sau đó con ở bên lò bếp ba ngày. Rồi con vào dạ mẹ tôn kính… Con nhớ là con sinh ra mà chẳng thấy đau chút nào. —Bà ơi, bà có thể kể chuyện này cho ba mẹ, nhưng xin đừng kể cho ai khác.”

The grandmother told Genzo and his wife what Katsugoro had related to her; and after that the boy was not afraid to speak freely with his parents on the subject of his former existence, and would often say to them: “I want to go to Hodokubo. Please let me make a visit to the tomb of Kyubei San.” Genzo… asked his mother Tsuya, on the twentieth day of the first month of this year, to take her grandson there.

Bà nội kể cho Genzo và vợ ông điều Katsugoro đã thuật; và sau đó cậu bé không còn e sợ khi chuyện trò cởi mở với cha mẹ về đời sống trước của mình, và thường nói với họ: “Con muốn đi Hodokubo. Xin cho con đi thăm mộ Kyubei San.” Genzo… nhờ mẹ mình là bà Tsuya, vào ngày hai mươi của tháng Giêng năm nay, đưa cháu đến đó.

Tsuya went with Katsugoro to Hodokubo; and when they entered the village she pointed to the nearer dwellings, and asked the boy, “Which house is it?—is it this house or that one?” “No,” answered Katsugoro,—”it is further on—much further,”—and he hurried before her. Reaching a certain dwelling at last, he cried, “This is the house!”—and ran in, without waiting for his grandmother. Tsuya followed him in, and asked the people there what was the name of the owner of the house. “Hanshiro,” one of them answered. She asked the name of Hanshiro’s wife. “Shidzu,” was the reply. Then she asked whether there had ever been a son called Tozo born in that house. “Yes,” was the answer; “but that boy died thirteen years ago, when he was six years old.”

Tsuya đi với Katsugoro đến Hodokubo; và khi họ vào làng, bà chỉ vào những căn nhà gần đó và hỏi cậu bé: “Nhà nào vậy?—nhà này hay nhà kia?” “Không,” Katsugoro trả lời,—“xa hơn nữa—xa hơn nhiều,”—và em vội vã đi trước bà. Cuối cùng đến một căn nhà nào đó, em kêu lên, “Đây là nhà!”—và chạy vào, không đợi bà nội. Tsuya theo vào, và hỏi người trong nhà tên chủ nhà là gì. “Hanshiro,” một người trả lời. Bà hỏi tên vợ của Hanshiro. “Shidzu,” là câu đáp. Rồi bà hỏi trong nhà này đã từng có một con trai tên Tozo sinh ra không. “Có,” là câu trả lời; “nhưng cậu bé ấy đã chết mười ba năm trước, lúc sáu tuổi.”

Then for the first time Tsuya was convinced that Katsugoro had spoken the truth; and she could not help shedding tears. She related to the people of the house all that Katsugoro had told her about his remembrance of his former birth. Then Hanshiro and his wife wondered greatly. They caressed Katsugoro and wept; and they remarked that he was much handsomer now than he had been as Tozo before dying at the age of six. In the meantime, Katsugoro was looking all about; and seeing the roof of a tobacco shop opposite to the house of Hanshiro, he pointed to it, and said: “That used not to be there.” And he also said,—”The tree yonder used not to be there.” All this was true. So from the minds of Hanshiro and his wife every doubt departed.

Lúc đó lần đầu tiên Tsuya tin chắc rằng Katsugoro đã nói thật; và bà không thể không rơi nước mắt. Bà thuật cho gia đình ấy nghe tất cả những điều Katsugoro kể về ký ức của em về lần sinh trước. Rồi Hanshiro và vợ ông vô cùng kinh ngạc. Họ vuốt ve Katsugoro và khóc; và họ nhận xét rằng bây giờ em khôi ngô hơn nhiều so với thời còn là Tozo trước khi chết lúc sáu tuổi. Trong lúc ấy, Katsugoro nhìn quanh khắp nơi; và thấy mái nhà của một tiệm thuốc lá đối diện nhà Hanshiro, em chỉ vào đó và nói: “Hồi trước chỗ đó không có.” Em cũng nói,—“Cái cây đằng kia hồi trước không có.” Tất cả điều này đều đúng. Thế là mọi nghi ngờ tan biến khỏi tâm trí của Hanshiro và vợ ông.

Reincarnations In Burma—Những lần tái sinh ở Miến Điện

Some interesting cases are mentioned by Mr. H. Fielding-Hall in his charming book on Burma, The Soul of a People. He writes:

Vài trường hợp thú vị được Ông H. Fielding-Hall nhắc đến trong cuốn sách duyên dáng của ông về Miến Điện, Linh Hồn của Một Dân Tộc . Ông viết:

A friend of mine once put up for the night at a monastery far away in the forest, near a small village. Talking in the evening round the fire, he remarked that the monastery was very large and fine for so small a village; it was built of the best and straightest teak, which must have been brought from very far away; it must have taken a long time and a great deal of labour to build.

Một người bạn của tôi từng ghé qua một tu viện giữa rừng sâu, gần một ngôi làng nhỏ, để ngủ nhờ qua đêm. Tối đến, đàm đạo quanh bếp lửa, anh nhận xét rằng tu viện ấy rất lớn và đẹp so với một ngôi làng nhỏ như vậy; nó được dựng bằng những thân gỗ tếch tốt nhất, thẳng nhất, hẳn phải chở từ rất xa tới; hẳn mất rất nhiều thời gian và công sức để xây.

In explanation he heard a curious story. It appeared that in the old days there used to be only a bamboo and grass monastery there, such as most jungle villages have; and the then monk was distressed at the smallness of his abode and the little accommodation there was for his school (for a monastery is always a school). So one rainy season he planted with great care a number of teak seedlings round about, and he watered and cared for them.

Để giải thích, anh nghe một câu chuyện lạ. Hóa ra thời trước nơi đây chỉ có một tu viện bằng tre và cỏ, như hầu hết các làng rừng khác có; và vị sư khi đó băn khoăn vì nơi ở của mình chật hẹp và ít chỗ cho trường học (vì tu viện bao giờ cũng là trường học). Vậy là một mùa mưa, ông trồng với tất cả sự chăm chút một số cây tếch non quanh vùng, và ông tưới tắm, chăm nom chúng.

“When they are grown up,” he would say, “these teak-trees shall provide timber for a new and proper building; and I myself will return in another life, and with those trees I will build a monastery more worthy than this.”

“Khi chúng lớn lên,” ông thường nói, “những cây tếch này sẽ cung cấp gỗ để dựng một tòa nhà mới, đúng nghĩa; và chính ta sẽ trở lại trong một đời khác, và với những cây này ta sẽ dựng một tu viện xứng đáng hơn nơi này.”

Teak-trees take a hundred years to reach a mature size, and while the trees were still but saplings the monk died and another monk taught in his stead. And so it went on, and the years rolled by, and from time to time new monasteries of bamboo were built-and rebuilt, and the teak-trees grew bigger and bigger. But the village grew smaller, for the times were troubled, and the village was far away in the forest. So it happened that at last the village found itself without a monk at all; the last monk was dead, and no one came to take his place.

Cây tếch phải một trăm năm mới trưởng thành, và khi chúng vẫn còn là cây non thì vị sư qua đời, và một vị sư khác giảng dạy thay ông. Cứ thế, năm tháng trôi qua, thi thoảng lại có những tu viện tre mới được dựng lên và dựng lại, và cây tếch ngày càng lớn. Nhưng ngôi làng lại nhỏ đi, vì thời thế rối ren, và làng ở xa trong rừng. Thành thử rốt cuộc, làng thấy mình không còn sư ở nữa; vị sư cuối cùng đã mất, và không ai đến thay.

It is a serious thing for a village to have no monk. To begin with, there is no one to teach the lads to read and write and do arithmetic; and there is no one to whom you can give offerings and thereby acquire merit, and there is no one to preach to you and tell you of the sacred teaching. So the village was in a bad way.

Việc một ngôi làng không có sư là chuyện hệ trọng. Trước hết, không có ai dạy bọn trẻ đọc, viết, làm tính; và không có ai để bạn dâng cúng mà nhờ thế tạo công đức, và không có ai để giảng giải và nói với bạn về giáo pháp linh thiêng. Vậy nên làng lâm vào cảnh khó.

Then at last one evening, when the girls were all out at the well drawing water, they were surprised by the arrival of a monk from the forest, weary with a long journey, footsore and hungry. The villagers received him with enthusiasm, and furnished up the old monastery in a hurry for him to sleep. But the curious thing was that the monk seemed to know it all. He knew the monastery and the path to it, and the ways about the village, and the names of the hills and the streams. It seemed as though he must have lived there in the village, and yet no one knew him or recognized his face, though he was but a young man still, and there were villagers who had lived there for seventy years. Next morning the monk came into the village with his begging-bowl, as monks do, and collected his food for the day: and that evening, when the villagers went to see him, he told them he was going to stay. He recalled to them the monk who had planted the teak-trees, and how he had said that when the trees were grown he would return.

Rồi cuối cùng, một buổi chiều, khi các cô gái đang ra giếng gánh nước, họ ngạc nhiên thấy một vị sư từ rừng đi ra, mệt mỏi sau hành trình dài, chân chai và đói lả. Dân làng nồng nhiệt đón tiếp, và vội vã chỉnh trang tu viện cũ cho ngài nghỉ đêm. Nhưng điều lạ lùng là vị sư ấy dường như biết cả mọi thứ. Ngài biết tu viện và đường vào đó, lối lách trong làng, tên các ngọn đồi, các dòng suối. Có vẻ như ngài đã từng sống ở làng ấy, vậy mà chẳng ai biết hay nhận ra mặt ngài, dù ngài hãy còn trẻ, và có những dân làng đã sống ở đó bảy mươi năm. Sáng hôm sau, vị sư đi vào làng với bình bát, như các nhà sư vẫn làm, và khất thực phần ăn trong ngày: và tối hôm ấy, khi dân làng đến thăm, ngài bảo rằng ngài sẽ ở lại. Ngài gợi cho họ nhớ vị sư đã trồng cây tếch, và lời ông đã nói rằng khi cây lớn ông sẽ trở lại.

“I,” said the young monk, “am he who planted these trees. Lo, they are grown up and I have returned, and now we will build a monastery as I said.”

“Ta,” vị sư trẻ nói, “là người đã trồng những cây này. Kìa, chúng đã lớn và ta đã trở lại, và bây giờ chúng ta sẽ dựng một tu viện như ta đã nói.”

When the villagers, doubting, questioned him, and old men came and talked to him of traditions of long-past days, he answered as one who knew all. He told them he had been born and educated far away in the South, and had grown up not knowing who he had been; then he had entered a monastery, and in due time became a Pongyi. The remembrance came to him, he went on, in a dream of how he had planted the trees and had promised to return to that village far away in the forest.

Khi dân làng còn nghi ngờ, họ tra hỏi ngài, và các bô lão đến trò chuyện với ngài về những chuyện truyền lại của những ngày xa xưa, ngài trả lời như người biết tất cả. Ngài kể mình sinh và học ở phương Nam xa xôi, và lớn lên mà không biết mình đã từng là ai; rồi ngài vào tu viện, và đến kỳ thì trở thành một Pongyi. Sự nhớ biết đến với ngài, ngài kể tiếp, trong một giấc mơ về việc ông đã trồng cây và đã hứa sẽ trở lại ngôi làng xa trong rừng ấy.

The very next day he had started, and travelled day after day and week upon week, till at length he had arrived, as they saw. So the villagers were convinced, and they set to work and cut down the great boles, and built the monastery which my friend saw. And the monk lived there all his life, and taught the children, and preached the marvellous teaching of the great Buddha, till at length his time came again and he returned; for of monks it is not said that they die, but that they return…..

Ngay ngày hôm sau ngài lên đường, và đi ngày này qua tuần khác, cho đến khi cuối cùng ngài đến nơi, như mọi người đã thấy. Thế là dân làng tin, và họ bắt tay vào việc, đốn những thân cây lớn, và dựng nên tu viện mà bạn tôi đã thấy. Và vị sư ở đó suốt đời, dạy bọn trẻ, và giảng pháp mầu nhiệm của đức Phật vĩ đại, cho đến khi thời của ngài lại đến và ngài “trở về”; vì về các nhà sư, người ta không nói họ chết, mà nói họ trở về…..

About fifty years ago in a village called Okshitgon were born two children, a boy and a girl. They were born on the same day in neighbouring houses, and they grew up together and played together, and loved each other. In due course they married and started a family, and maintain­ed themselves by cultivating the fields about the village. They were always known as devoted to each other, and they died as they had lived—together. The same death took them on the same day; so they were buried without the village and were forgotten, for the times were serious… Okshitgon was in the midst of one of the most distressed districts, and many of its people fled; and one of them, a man named Maung Kan, went with his young wife to the village of Kabyu and lived there.

Khoảng năm mươi năm trước, trong một ngôi làng tên Okshitgon, có hai đứa trẻ ra đời, một trai và một gái. Chúng sinh cùng ngày, trong hai căn nhà kề cận, và lớn lên cùng nhau, chơi cùng nhau, yêu nhau. Đến thời, chúng kết hôn và lập gia đình, mưu sinh bằng nghề canh tác các cánh đồng quanh làng. Ai cũng biết đôi vợ chồng này gắn bó với nhau, và họ chết như họ đã sống—cùng nhau. Cùng một cái chết đến với cả hai trong cùng một ngày; họ được chôn ngoài làng và rồi bị quên lãng, vì thời cuộc rối ren… Okshitgon nằm giữa một trong những vùng khổ sở nhất, và nhiều người của nó đã bỏ chạy; một người trong đó, một người tên Maung Kan, cùng vợ trẻ đến ở làng Kabyu và sinh sống ở đó.

Now, Maung Kan’s wife had borne to him twin sons. They were born at Okshitgon shortly before their parents had to run away, and they were named, the first Maung Gyi (which means Brother Big-fellow) and the second Maung Ngé (which means Brother Little-fellow). These lads grew up at Kabyu, and soon learnt to talk; and their parents were surprised to hear them calling to each other at play, not as Maung Gyi and Maung Ngé, but as Maung San Nyein and Ma Gywin. The latter is a woman’s name, and the parents remembered that these were the names of the man and wife who had died at Okshitgon about the time the children were born.

Bây giờ, vợ của Maung Kan đã sinh cho ông ta một cặp song sinh trai. Chúng sinh ở Okshitgon trước khi cha mẹ phải bỏ trốn không lâu, và chúng được đặt tên, đứa đầu là Maung Gyi (nghĩa là Anh Cả), đứa hai là Maung Ngé (nghĩa là Em Bé). Hai cậu bé lớn lên ở Kabyu, và sớm biết nói; và cha mẹ ngạc nhiên nghe chúng gọi nhau lúc chơi, không phải là Maung Gyi và Maung Ngé, mà là Maung San Nyein và Ma Gywin. Tên sau là tên phụ nữ, và cha mẹ nhớ rằng đó là tên của người vợ chồng đã chết ở Okshitgon vào khoảng thời điểm hai đứa trẻ được sinh.

So the parents thought that the souls of the man and wife had entered into the children, and they took them to Okshitgon to try them. The children knew everything in Okshitgon; they knew the roads, the houses and the people, and they recognized the clothes they used to wear in the former life: there was no doubt about it. One of them, the younger, remembered how she had borrowed two rupees once from a woman, Ma Thet, unknown to her husband, and left the debt unpaid. Ma Thet was still living, so they asked her, and she recollected that it was true she had lent the money long ago….

Thế là cha mẹ nghĩ rằng linh hồn của đôi vợ chồng kia đã nhập vào hai đứa trẻ, và họ đưa chúng về Okshitgon để “thử”. Hai đứa trẻ biết hết mọi thứ ở Okshitgon; chúng biết đường xá, nhà cửa và người dân, và nhận ra những bộ quần áo chúng từng mặc trong đời trước: không còn nghi ngờ gì nữa. Một đứa, đứa nhỏ hơn, nhớ rằng nó từng vay hai rupee của một người phụ nữ tên Ma Thet, mà chồng không hay, và để lại món nợ chưa trả. Ma Thet vẫn còn sống, nên họ hỏi bà, và bà nhớ lại rằng đúng là ngày xưa bà đã cho vay số tiền ấy….

Shortly afterwards I saw these two children. They were then just over six years old. The elder, into whom the soul of the man entered, is a fat, chubby little fellow, but the younger twin is smaller, and has a curious dreamy look in his face, more like a girl than a boy. They told me much about their former lives. After they died they said they lived for some time without a body at all, wandering in the air and hiding in the trees. Then, after some months they were born again as twin boys. “It used to be so clear,” said the elder boy, “I could remember everything; but it is getting duller and duller, and I cannot now remember as I used to do.”

Sau đó không lâu, tôi gặp hai đứa trẻ này. Khi ấy chúng vừa hơn sáu tuổi. Đứa lớn, vào đó linh hồn người chồng nhập, là một cậu bé mũm mĩm, bầu bĩnh, còn đứa song sinh nhỏ hơn thì bé hơn, và có một vẻ đăm chiêu kỳ lạ trên khuôn mặt, trông giống con gái hơn con trai. Chúng kể cho tôi nghe nhiều điều về đời trước. Sau khi chết, chúng nói, chúng sống một thời gian không có thân xác, lang thang trong không khí và ẩn mình trong các tán cây. Rồi, sau vài tháng, chúng được sinh ra lại thành cặp trai song sinh. “Trước đây rõ ràng lắm,” cậu lớn nói, “tôi có thể nhớ hết; nhưng bây giờ mờ dần, mờ dần, và tôi không còn nhớ như trước nữa.”

Another little boy told me once that the way remembrance came to him was by seeing the silk he used to wear made into curtains, which are given to the monks and used as partitions in their monasteries, and as walls to temporary erections made at festival times. He was taken when some three years old to a feast at the making of the son of a wealthy merchant into a monk. There he recognized in the curtain walling in part of the bamboo building his old dress, and pointed it out at once.*

Một cậu bé khác từng kể tôi nghe rằng cách ký ức trở lại với cậu là khi nhìn thấy tấm lụa cậu từng mặc được may thành rèm, dâng cho các sư và dùng làm vách ngăn trong tu viện, và làm vách cho những kiến trúc tạm thời dựng vào dịp lễ hội. Cậu được dẫn, khi khoảng ba tuổi, đi dự một lễ làm con của một nhà buôn giàu thành sư. Ở đó, cậu nhận ra trong những bức rèm che một phần căn nhà tre bộ y phục cũ của mình, và lập tức chỉ ra.*

__________

__________

*Op. cit., p. 291 et seq.

*Sđd., tr. 291 trở đi.

Most of the examples of reincarnation given above are taken from Oriental countries—not because the great law of rebirth is operative only in those lands, but because for various reasons it is easier to trace its action there. The law is universal, but the interval between lives differs widely. For some it is a matter of many centuries; for others it may be only a few months, or even days. With the Burmese, as we have just seen from Mr. Fielding Hall’s account, very short intervals seem to be the rule, and the Burman evidently has also the peculiarity that he usually takes birth over and over again in the same race before transferring himself to another. These two habits of his are specially convenient for the student of reincarnation who, by researches among that race, can readily convince himself of the truth of the general principle before extending his inquiries into other fields where the investigation is more difficult.

Hầu hết các ví dụ về tái sinh nêu trên được lấy từ các xứ phương Đông—không phải vì đại định luật tái sinh chỉ vận hành tại những vùng đất ấy, mà bởi vì vì nhiều lẽ khác nhau, ở đó ta dễ theo dõi sự tác động của định luật hơn. Định luật là phổ quát, nhưng khoảng cách giữa các kiếp sống khác nhau rất xa. Với một số người, đó là chuyện của nhiều thế kỷ; với kẻ khác, có thể chỉ vài tháng, thậm chí vài ngày. Với người Miến, như chúng ta vừa thấy qua tường thuật của Ông Fielding Hall, những khoảng cách rất ngắn dường như là điều thường thấy, và người Miến hiển nhiên còn có một nét đặc thù là y thường thọ sinh hết lần này đến lần khác trong cùng một giống dân trước khi chuyển mình sang giống dân khác. Hai nếp quen này của họ đặc biệt thuận tiện cho đạo sinh nghiên cứu tái sinh—kẻ mà, nhờ khảo cứu trong giống dân ấy, có thể dễ dàng tự mình xác chứng chân lý của nguyên lý tổng quát trước khi mở rộng việc truy cứu sang những cánh đồng khác, nơi cuộc điều tra khó khăn hơn.

There is plenty of testimony available of quite another kind, for there are a certain number of people who have a clear memory of at least some of their own former births; and it is sometimes possible for those who have lived simultaneously in the past to compare notes, and so obtain some sort of verification of their recollections. I remember once, years ago, when I had given a lecture upon reincarnation to an Indian audience, and asked at the conclusion of it for questions on any point which I had not made quite clear, a highly-cultured Indian gentleman rose, and with the utmost courtesy said:

Có rất nhiều lời chứng thuộc một loại hoàn toàn khác, vì có một số người nhất định có ký ức rõ ràng về chí ít một vài kiếp trước của chính họ; và đôi khi điều cũng có thể là những người đã từng sống đồng thời trong quá khứ có thể đối chiếu các điều ghi nhận, nhờ đó có được một dạng xác minh nào đó cho những hồi ức của họ. Tôi còn nhớ một lần, nhiều năm trước, khi tôi giảng một bài về tái sinh cho một thính chúng Ấn Độ, và ở phần kết tôi mời đặt câu hỏi về bất kỳ điểm nào mà tôi chưa làm rõ lắm, một quý ông Ấn Độ có học thức cao đứng lên và với sự nhã nhặn hết mực đã nói:

“Sir, this theory of reincarnation is familiar to us from childhood; we all of us begin by accepting it, and it is only when we grow up and absorb your European culture that we come to doubt it. Have you any objection to telling us how it happens that you, an Englishman, whose education and surroundings must have been so entirely different, are able to speak to us so convincingly and with such apparent certainty on this subject?”

“Thưa ông, thuyết tái sinh này vốn thân quen với chúng tôi từ thời thơ ấu; tất cả chúng tôi đều khởi đầu bằng việc chấp nhận nó, và chỉ khi lớn lên tiếp thu văn hóa Âu châu của các ông thì chúng tôi mới bắt đầu hoài nghi. Ông có ngại cho biết làm sao mà ông, một người Anh, với nền giáo dục và hoàn cảnh hẳn là hoàn toàn khác, lại có thể nói với chúng tôi một cách đầy thuyết phục và với vẻ quả quyết như vậy về chủ đề này không?”

I in my turn put a question to him: “Do you wish me to rehearse for you the stock arguments which show so conclusively that reincarnation is the only rational theory of life, the only hypothesis which enables us to account in any degree equitably for the conditions which we see around us? Or do you want me to unveil something of my own inner life, and give you my real reason?”

Đến lượt mình, tôi đặt một câu hỏi với ông ấy: “Ông muốn tôi nhắc lại cho ông nghe những luận cứ kinh điển cho thấy một cách thuyết phục rằng tái sinh là học thuyết hợp lý duy nhất về sự sống, là giả thuyết duy nhất cho phép chúng ta phần nào giải thích một cách công bằng những điều kiện chung quanh ta? Hay ông muốn tôi vén mở đôi điều về đời sống nội tâm của chính mình, và nói với ông lý do thật của tôi?”

He replied: “Sir, if I may venture to put so intimate, so almost impertinent a question (though I assure you that it is not asked impertinently) it is precisely that real inner reason that it would mean so much to me to hear.”

Ông đáp: “Thưa ông, nếu tôi dám nêu một câu hỏi riêng tư đến vậy, gần như là đường đột (dù tôi cam đoan không hề có ý khiếm nhã), thì chính cái lý do nội tâm thật ấy là điều mà tôi rất mong được nghe.”

Seeing how genuine and how serious was his query, I answered him openly: “Very well then,” I said, “I speak definitely and certainly about reincarnation because I know it to be a fact, because I can clearly remember a large number of my own past births, and in the case of some of them I have been able to satisfy myself by exterior evidence that my recollection is accurate. But of course that, however satisfactory to me, is no proof to you.”

Thấy câu hỏi của ông chân thành và nghiêm cẩn đến thế, tôi đáp thẳng thắn: “Thế thì được,” tôi nói, “tôi nói rành rẽ và quả quyết về tái sinh vì tôi biết đó là một sự thật, vì tôi nhớ rõ ràng rất nhiều kiếp trước của chính mình, và trong một vài trường hợp, tôi đã có thể tự thỏa mãn mình, bằng những bằng chứng bên ngoài, rằng hồi ức của tôi là xác thực. Nhưng dĩ nhiên, điều đó, tuy khiến tôi hoàn toàn an tâm, vẫn không phải là chứng cứ đối với ông .”

He thanked me heartily, assuring me that that was exactly what he had wanted to hear.

Ông chân thành cảm ơn tôi, quả quyết rằng đó chính là điều ông muốn được nghe.

Leave a Comment

Scroll to Top