Webinar Mental Rules 39 –Rule 5.4 (pages 169-172)

Transcript of Video Commentaries by Michael D. Robbins

Abstract

Content for A Treatise on White Magic, Video Commentary, Program 39, Rule 5.4, Continuing Rule Five, THE SOUL AND ITS THOUGHT-FORMS. 1 hr 2 min: pages 169-172.Nội dung Bình luận Video quyển Luận về Huyền Thuật Chánh Đạo, Chương trình 39, Quy Luật 5.4, Tiếp tục Quy Luật Năm, LINH HỒN VÀ CÁC HÌNH TƯ TƯỞNG CỦA NÓ. 1 giờ 2 phút: các trang 169-172.
How a Master lets an accepted disciple become aware that he is accepted. The man goes forward blindly. He hopes, but he does not know. Suddenly one day he sees the One Who has for so long seen him. This may come in two ways: in full waking consciousness or by the registering of the interview during the hours of sleep.Cách Chân sư cho phép một đệ tử được chấp nhận được nhận biết rằng Ngài đã chấp nhận y. Y tiến bước một cách mù quáng. Y hy vọng, nhưng y không biết. Đột nhiên, một ngày nọ, y thấy Đấng mà bấy lâu nay đã nhìn đến y. Điều này có thể xảy ra theo hai cách: trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn hoặc qua việc ghi nhận cuộc gặp gỡ trong những giờ ngủ.
1. The event is recognised as fact past all controversy.1. Sự kiện này được công nhận như là một sự thật vượt khỏi mọi tranh cãi. 
2. There is recognised an inhibition on the disciple’s part to mention the happening to anyone.2. Có sự nhận thức một sự ức chế từ phía đệ tử không cho phép đề cập đến sự kiện này với bất kỳ ai. 
3. Certain factors, governing the Master’s relation to the disciple, are gradually recognised.3. Một số yếu tố chi phối mối quan hệ giữa Chân sư và đệ tử dần dần được nhận thức: 
– He recognises that his points of contact with his Master are governed by group emergency. His Master works with his soul.– Y nhận ra rằng các điểm tiếp xúc của mình với Chân sư được chi phối bởi tình trạng khẩn cấp của nhóm. Chân sư làm việc với linh hồn của y. 
– He finds that it is he who shuts the door in the majority of cases.– Y nhận thấy rằng chính y là người đóng cửa trong phần lớn các trường hợp. 
– He finds that one of the first things he has to do is to learn to discriminate between: His own soul’s vibration, The vibration of the group of disciples with whom he is associated, and The vibration of the Master. It is a safe rule for aspirants to assume when they contact a high vibration and stimulus, that it is their own soul contacting them, the Master in the heart.– Y nhận thấy rằng một trong những điều đầu tiên y phải làm là học cách phân biệt giữa:  – Rung động của chính linh hồn y,  – Rung động của nhóm đệ tử mà y được liên kết, và  – Rung động của Chân sư. Một quy tắc an toàn cho người chí nguyện là giả định khi họ tiếp xúc với một rung động cao và sự kích thích rằng đó là chính linh hồn họ đang tiếp xúc, Chân sư trong trái tim.
– He finds also that it is not the habit of the Masters to flatter.– Y cũng nhận ra rằng không phải là thói quen của Chân sư để tâng bốc. 
– The disciple soon finds also that the Masters are not easily accessible. The aim of every high disciple is to carry out his work and be en rapport with the spiritual force centre which is his group without interviews and phenomenal contacts.– Đệ tử sớm nhận ra rằng các Chân sư không dễ tiếp cận. Mục tiêu của mỗi đệ tử cao cấp là thực hiện công việc của mình và hòa hợp với trung tâm lực tinh thần của nhóm mà y thuộc về mà không cần phỏng vấn và tiếp xúc hiện tượng. 
– He finds also that the relationship between Master and disciple is governed by law.– Y cũng nhận thấy rằng mối quan hệ giữa Chân sư và đệ tử được chi phối bởi định luật. 

Text

[1a] 
There is much misapprehension in people’s minds as to how a Master lets an accepted disciple become aware that he is accepted. An impression is abroad that he is told so and that an interview is accorded wherein the Master accepts him and starts him to work. Such is not the case. The occult law holds good in discipleship as in initiation, and the man goes forward blindly. He hopes, but he does not know; he expects that it may be so, but no tangible assurance is given; from a study of himself and of the requirements he arrives at the conclusion that perhaps he has reached the status of accepted disciple. He therefore acts on that assumption and with care he watches his acts, guards his words, and controls his thoughts so that no overt act, unnecessary word or unkind [170] thought will break the rhythm which he believes has been set up. He proceeds with his work but intensifies his meditation; he searches his motives; he seeks to equip his mental body; he sets before himself the ideal of service and seeks ever to serve; and then (when he is so engrossed in the work on hand that he has forgotten himself), suddenly one day he sees the One Who has for so long seen him.Có nhiều hiểu lầm trong tâm trí mọi người về cách Chân Sư cho phép một đệ tử được chấp nhận nhận thức được rằng y đã được chấp nhận. Có một ấn tượng phổ biến rằng y được cho biết như vậy và một cuộc phỏng vấn được chấp thuận, trong đó Chân Sư chấp nhận y và bắt đầu cho y làm việc. Không phải như vậy. Quy luật huyền bí vẫn đúng trong việc làm đệ tử cũng như trong điểm đạo, và con người tiến về phía trước một cách mù quáng. Y hy vọng, nhưng y không biết; y mong đợi rằng có thể như vậy, nhưng không có sự đảm bảo hữu hình nào được đưa ra; từ việc nghiên cứu bản thân và các yêu cầu, y đi đến kết luận rằng có lẽ y đã đạt đến trạng thái đệ tử được chấp nhận. Do đó, y hành động dựa trên giả định đó và cẩn thận quan sát hành động của mình, bảo vệ lời nói của mình và kiểm soát suy nghĩ của mình để không có hành động công khai, lời nói không cần thiết hoặc suy nghĩ không tử tế [170] nào sẽ phá vỡ nhịp điệu mà y tin rằng đã được thiết lập. Y tiếp tục công việc của mình nhưng tăng cường sự tham thiền của mình; y tìm kiếm động cơ của mình; y tìm cách trang bị cho thể trí của mình; y đặt ra trước mắt mình lý tưởng phụng sự và luôn tìm cách phụng sự; và sau đó (khi y quá mải mê với công việc đang làm đến nỗi quên cả bản thân), thì đột nhiên một ngày y nhìn thấy Đấng mà từ lâu đã nhìn thấy y.
[1b] 
This may come in two ways: in full waking consciousness or by the registering of the interview on the physical brain as it has been participated in during the hours of sleep.Điều này có thể xảy ra theo hai cách: trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn hoặc qua việc ghi nhận buổi phỏng vấn trên bộ não vật lý, như đã trải qua trong những giờ ngủ.
But accompanying this recognition of the event by the disciples will come certain other recognitions.Tuy nhiên, cùng với sự nhận biết sự kiện này bởi đệ tử sẽ xuất hiện những nhận thức khác sau đây: 
1. The event is recognised as fact past all controversy. No doubt remains in the disciple’s mind.1. Sự kiện được công nhận là một thực tế không thể bàn cãi. Không còn nghi ngờ nào trong tâm trí của đệ tử. 
2. There is recognised an inhibition on the disciple’s part to mention the happening to any one. Months or years may slip away before the disciple will mention it, and then only to those who are also recognised as disciples or to some fellow worker, also under the same group influence, whose right it is to know and whose right is sanctioned by the Master of the group.2. Đệ tử nhận thức được một sự kiềm chế từ phía mình để không nhắc đến sự việc với bất kỳ ai. Nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm có thể trôi qua trước khi đệ tử đề cập đến điều này, và ngay cả khi đó, chỉ nói với những người cũng được công nhận là đệ tử hoặc một đồng sự, cũng chịu ảnh hưởng từ cùng một nhóm, người có quyền biết điều này và quyền đó được Chân sư của nhóm chấp thuận. 
3. Certain factors, governing the Master’s relation to the disciple, are gradually recognised and begin increasingly to govern the disciple’s life.3. Một số yếu tố liên quan đến mối quan hệ giữa Chân sư và đệ tử dần dần được nhận ra và bắt đầu ngày càng chi phối cuộc sống của đệ tử. 
a. He recognises that his points of contact with his Master are governed by group emergency and need, and deal with his group service. It gradually dawns on him that his Master is only interested in him insofar as his ego can be used in service, through the personality on the physical plane. He begins to realise that his Master works with his soul and that it is his ego, therefore, which is en rapport with the Master and not the personal self. His problem, therefore, becomes increasingly clear and this is the problem of all disciples. It is to keep the [171] channel of communication open between the soul and the brain, via the mind, so that when the Master seeks to communicate, He can do so at once and easily. Sometimes a Master has to wait weeks before He can get His disciple’s ear, for the channel upward is closed and the soul is not en rapport with the brain. This is especially true of the early stages of discipleship.a. Y nhận thức rằng các điểm tiếp xúc của mình với Chân sư được điều chỉnh bởi các tình huống khẩn cấp và nhu cầu của nhóm, và liên quan đến công việc phụng sự trong nhóm. Y dần nhận ra rằng Chân sư chỉ quan tâm đến y trong phạm vi Chân ngã của y có thể được sử dụng trong sự phụng sự, thông qua phàm ngã trên cõi vật lý. Y bắt đầu hiểu rằng Chân sư làm việc với linh hồn của y, và do đó, chính Chân ngã của y mới là điều hòa hợp với Chân sư, chứ không phải là bản thân phàm ngã. Vấn đề của y vì thế trở nên ngày càng rõ ràng, và đây cũng là vấn đề của tất cả các đệ tử: duy trì kênh liên lạc mở giữa linh hồn và bộ não, thông qua thể trí, để khi Chân sư muốn giao tiếp, Ngài có thể làm điều đó ngay lập tức và dễ dàng. Đôi khi, Chân sư phải chờ đợi hàng tuần trước khi Ngài có thể thu hút sự chú ý của đệ tử, bởi vì kênh đi lên bị đóng, và linh hồn không hòa hợp với bộ não. Điều này đặc biệt đúng trong giai đoạn đầu của địa vị đệ tử. 
b. He finds that it is he who shuts the door in the majority of cases through lower psychism, physical disability, and lack of mind control, and he therefore discovers that he has to work constantly and ceaselessly with his lower self.b. Y nhận ra rằng chính y là người đóng cánh cửa trong phần lớn các trường hợp, do thông linh thấp kém, sự suy yếu về thể chất và thiếu kiểm soát trí tuệ. Do đó, y phát hiện rằng mình phải làm việc không ngừng với phàm ngã thấp của mình. 
c. He finds that one of the first things he has to do is to learn to discriminate between:c. Y nhận ra rằng một trong những điều đầu tiên y phải làm là học cách phân biện giữa: 
His own soul’s vibration.– Rung động của chính linh hồn y. 
The vibration of the group of disciples with whom he is associated.– Rung động của nhóm đệ tử mà y liên kết. 
The vibration of the Master.– Rung động của Chân sư. 
[1c] 
All three are different and it is easy to confuse them, especially at first. It is a safe rule for aspirants to assume when they contact a high vibration and stimulus, that it is their own soul contacting them, the Master in the heart, and not run off with the idea (so flattering to their pride and personality) that the Master is endeavouring to reach them.Cả ba loại rung động đều khác nhau và rất dễ nhầm lẫn, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Một nguyên tắc an toàn cho những người chí nguyện là giả định rằng khi họ tiếp xúc với một rung động cao và kích thích, đó chính là Chân ngã của họ đang kết nối với họ – Chân sư trong trái tim – và không nên vội vàng cho rằng (một ý nghĩ dễ dàng làm thỏa mãn lòng kiêu hãnh và phàm ngã của họ) Chân sư đang cố gắng tiếp cận họ.
d. He finds also that it is not the habit of the Masters to flatter or to make promises to their disciples. They are too busy and too wise, nor do They trouble Themselves to tell Their disciples that they are destined for high office, or that they are Their intermediaries and that the Hierarchy is depending upon them. Ambition, love of power, and the self-sufficiency which characterises many mental types test out the struggling aspirant, and he gets from his personality all that he needs in that line. These qualities delude him and lead him astray, forcing [172] him onto a pedestal from which eventually he must descend. The Masters say nothing to feed pride in Their disciples, nor do They speak words to them which could foster in Their chelas the spirit of separateness.d. Y cũng thấy rằng các Chân Sư không có thói quen tâng bốc hoặc hứa hẹn với đệ tử của mình. Các Ngài quá bận rộn và quá minh triết, các Ngài cũng không bận tâm nói với đệ tử của mình rằng họ được định sẵn cho chức vụ cao, hoặc rằng họ là trung gian của các Ngài và Thánh Đoàn đang phụ thuộc vào họ. Tham vọng, ham muốn quyền lực và sự tự mãn vốn là đặc điểm của nhiều kiểu người trí tuệ thử thách người chí nguyện đang đấu tranh, và y nhận được từ phàm ngã của mình tất cả những gì y cần trong khía cạnh đó. Những phẩm tính này đánh lừa y và dẫn y đi lạc lối, buộc [172] y lên một bệ đỡ mà cuối cùng y phải đi xuống. Các Chân Sư không nói gì để nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh trong các đệ tử của các Ngài, các Ngài cũng không nói những lời với họ có thể nuôi dưỡng tinh thần chia rẻ trong các đệ tử của các Ngài.
[1d] 
e. The disciple soon finds also that the Masters are not easily accessible. They are busy men, ill able to spare even a few moments in which to communicate with the disciple, and only in emergencies, in the case of a beginner on the Path of Discipleship, do the Masters expend the necessary energy with which to get en rapport. With old and tried disciples, the contacts are more frequent, being more easily achieved and bearing more rapid results. It should be remembered, however, that the newer the disciple the more he demands attention and considers he should have it. The old and more experienced servers seek to fulfil their obligations and carry forward their work with as little contact with the Masters as possible. They seek to save the Master’s time and frequently consider an interview with the Master as demonstrating failure on their part, and producing, therefore, regret that they have had to take the Master’s precious time, and force Him to use His energy in order to safeguard the work from error and the disciple perhaps from harm. The aim of every high disciple is to carry out his work and be en rapport with the spiritual force centre which is his group, and thus in steady touch with the Master, without interviews and phenomenal contacts. Many only expect to contact their Master once a year, usually at the time of the full moon in May.e. Đệ tử sớm nhận ra rằng các Chân sư không dễ tiếp cận. Các Ngài là những người rất bận rộn, khó có thể dành ra thậm chí chỉ vài phút để giao tiếp với đệ tử, và chỉ trong những trường hợp khẩn cấp, với những người mới bước vào Con Đường Đệ Tử, các Chân sư mới bỏ ra năng lượng cần thiết để đạt được sự hòa hợp. Với những đệ tử lâu năm và đã được thử thách, các lần tiếp xúc thường xuyên hơn, dễ đạt được hơn và mang lại kết quả nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, cần nhớ rằng đệ tử càng mới, y càng đòi hỏi sự chú ý và cho rằng mình nên được quan tâm. Những người phụng sự lâu năm và giàu kinh nghiệm hơn tìm cách hoàn thành nghĩa vụ của họ và tiếp tục công việc của mình với ít tiếp xúc với các Chân sư nhất có thể. Họ cố gắng tiết kiệm thời gian của Chân sư và thường coi một buổi gặp gỡ với Chân sư là dấu hiệu cho thấy sự thất bại của bản thân, và do đó cảm thấy hối tiếc vì đã phải lấy đi thời gian quý báu của Ngài, buộc Ngài phải sử dụng năng lượng của mình để đảm bảo công việc không bị sai sót và bảo vệ đệ tử khỏi những nguy hại có thể xảy ra. Mục tiêu của mọi đệ tử cao cấp là thực hiện công việc của mình và hòa hợp với trung tâm năng lượng tinh thần là nhóm của y, từ đó duy trì sự kết nối ổn định với Chân sư mà không cần đến các buổi gặp gỡ hay tiếp xúc mang tính hiện tượng. Nhiều người chỉ mong chờ tiếp xúc với Chân sư một lần mỗi năm, thường vào thời điểm trăng tròn tháng Năm.
[1e] 
f. He finds also that the relationship between Master and disciple is governed by law and that there are definite stages of contact and grades in the desired rapport. These can be enumerated, but cannot be enlarged upon.f. Y cũng nhận thấy rằng mối quan hệ giữa Chân Sư và đệ tử bị chi phối bởi định luật và có những giai đoạn tiếp xúc và cấp bậc nhất định trong mối quan hệ mong muốn. Những điều này có thể được liệt kê, nhưng không thể được mở rộng.
[1f] 
1. The stage wherein a disciple is contacted by the Master through another chela on the physical plane.  This is the stage of “Little Chelaship”.1. Giai đoạn mà đệ tử được Chân Sư liên lạc thông qua một đệ tử khác trên cõi vật lý. Đây là giai đoạn “Tiểu Đệ Tử ”.
[Page 173][173]
2. The stage wherein a higher disciple directs the chela from the egoic level.  This is the stage called a “Chela in the Light”.2. Giai đoạn mà một đệ tử cao hơn hướng dẫn đệ tử từ cõi Chân ngã. Đây là giai đoạn được gọi là “Đệ Tử trong Ánh Sáng”.
3. The stage wherein, according to necessity, the Master contacts the chela through:3. Giai đoạn mà, tùy theo nhu cầu, Chân Sư liên lạc với đệ tử thông qua:
a. A vivid dream experience.a. Trải nghiệm giấc mơ sống động.
b. A symbolic teaching.b. Giáo lý mang tính biểu tượng.
c. A using of a thought form of the Master.c. Sử dụng hình tư tưởng của Chân Sư.
d. A contact in meditation.d. Tiếp xúc trong sự tham thiền.
e. A definite, remembered interview in the Master’s Ashram.e. Cuộc gặp gỡ nhất định, đáng nhớ trong Ashram của Chân Sư.
This is definitely the stage of Accepted Disciple.Đây chắc chắn là giai đoạn của Đệ Tử Được Chấp Nhận.
4. The stage wherein, having shown his wisdom in work, and his appreciation of the Master’s problem, the disciple is taught how (in emergencies) to attract the Master’s attention and thus draw on His strength and knowledge and advice.  This is an instantaneous happening, and practically takes none of the Master’s time.  This stage has the peculiar name of “a chela on the Thread, or Sutratma.”4. Giai đoạn mà, sau khi thể hiện sự thông thái của mình trong công việc và sự đánh giá cao vấn đề của Chân Sư, đệ tử được dạy cách (trong trường hợp khẩn cấp) thu hút sự chú ý của Chân Sư và do đó tận dụng sức mạnh, kiến thức và lời khuyên của Ngài. Đây là một sự kiện tức thời, và thực tế không chiếm thời gian của Chân Sư. Giai đoạn này có tên gọi đặc biệt là “đệ tử trên Sinh Mệnh Tuyến, hay Sutratma.”
5. The stage wherein he is permitted to know the method whereby he may set up a vibration and a call which will entitle him to an interview with the Master.  This is only permitted to those trusted chelas who can be depended upon not to use the knowledge for anything except the need of the work; no personality reason or distress would prompt them to use it.  At this stage the disciple is called “one within the aura.”5. Giai đoạn mà y được phép biết phương pháp mà y có thể thiết lập rung động và lời kêu gọi sẽ cho phép y được gặp gỡ Chân Sư. Điều này chỉ được phép đối với những đệ tử đáng tin cậy, những người có thể tin tưởng rằng sẽ không sử dụng kiến thức cho bất cứ điều gì ngoại trừ nhu cầu của công việc; không có lý do cá nhân hay đau khổ nào sẽ thúc đẩy họ sử dụng nó. Ở giai đoạn này, đệ tử được gọi là “người trong hào quang”.
6. The stage wherein the disciple can get his Master’s ear at any time.  He is in close touch always.  This is the stage wherein a chela is being definitely prepared for an immediate initiation or, having taken initiation, is being given specialised work to do in collaboration with his ——.  At this stage he is described as “one within his Master’s heart.”6. Giai đoạn mà đệ tử có thể tiếp cận được Chân Sư của mình bất cứ lúc nào. Y luôn liên lạc chặt chẽ. Đây là giai đoạn mà đệ tử chắc chắn đang được chuẩn bị cho một sự điểm đạo ngay lập tức hoặc, sau khi đã điểm đạo, được giao công việc chuyên môn để làm trong sự hợp tác với —— của y. Ở giai đoạn này, y được mô tả là “người trong trái tim của Chân Sư mình”.
[174][174]

Transcript

Hello everybody, and welcome to our 39th program in A Treatise on White Magic webinar commentaries. We are in Rule 5 and we’re in the fourth part of Rule 5, the fourth program on Rule 5.Xin chào mọi người, và chào mừng các bạn đến với chương trình thứ 39 trong loạt video bình luận Luận về Chánh Thuật. Chúng ta đang ở Quy luật 5 và đây là phần thứ tư của Quy luật 5, chương trình thứ tư của Quy luật 5.
We’ve been talking about the approach to the Ashram, and whether this is recognized in the life of the approaching disciple or not, and how he is supervised by an internal disciple, even though he doesn’t realize that this is going on. But what might he recognize in his own nature as this approach is made? And this, I think, includes the approach to accepted discipleship. I believe there are two years or so, the Tibetan talks about, when this supervision is going on, he will notice in himself increased mental activity. As he gradually learns to assume productive control of his mind, he will notice increased responsiveness to ideas and increased capacity to vision the plan of hierarchy.Chúng ta đã nói về việc tiếp cận Ashram và liệu điều này có được nhận thức trong cuộc sống của đệ tử đang tiếp cận hay không, cũng như cách mà y được một đệ tử bên trong nội giới giám sát, mặc dù y không nhận ra điều đó đang diễn ra. Nhưng y có thể nhận ra điều gì trong bản chất của chính mình khi thực hiện sự tiếp cận này? Tôi nghĩ điều này bao gồm cả việc tiếp cận địa vị đệ tử được chấp nhận. Chân sư DK đề cập rằng có khoảng hai năm giám sát diễn ra, trong khoảng thời gian này, đệ tử sẽ nhận thấy ở bản thân mình sự gia tăng của hoạt động trí tuệ. Khi y dần học cách đảm nhận việc kiểm soát trí tuệ một cách hiệu quả, y sẽ nhận thấy sự gia tăng khả năng đáp ứng với các ý tưởng và năng lực hình dung kế hoạch của Thánh đoàn.
And this is a review of what we covered last time, in number 38.Đây là một sự ôn lại những gì chúng ta đã thảo luận lần trước, ở phần 38.
He will recognize increased psychic sensitiveness, and the DK does talk about the need not to cultivate the lower psychic powers, which were once in our possession, before we have cultivated the higher psychic powers, and this begins to occur when one is truly becoming an initiate of the third degree. Otherwise, one can be swept off his feet and become unreliable, and veiled as far as the higher impressions go.Y sẽ nhận ra sự gia tăng nhạy cảm về mặt thông linh. Chân sư DK có nhắc đến nhu cầu không nuôi dưỡng các năng lực thông linh bậc thấp—những năng lực mà trước đây chúng ta đã từng sở hữu—trước khi chúng ta phát triển được các năng lực tâm linh cao hơn. Điều này bắt đầu xảy ra khi một người thực sự trở thành điểm đạo đồ bậc ba. Nếu không, người đó có thể bị cuốn đi, trở nên không đáng tin cậy, và bị che khuất khỏi những ấn tượng cao hơn.
So here we are at the beginning of A Treatise on White Magic video 39, we’re on page 169, and we are beginning an interesting subject. Here we go,Vâng, bây giờ chúng ta bắt đầu video bình luận thứ 39 về Luận về Chánh Thuật, chúng ta đang ở trang 169, và chúng ta bắt đầu một chủ đề thú vị.
[1a] 
There is much misapprehension in people’s minds as to how a Master lets an accepted disciple become aware that he is accepted. An impression is abroad that he is told so and that an interview is accorded wherein the Master accepts him and starts him to work. Such is not the case. The occult law holds good in discipleship as in initiation, and the man goes forward blindly. He hopes, but he does not know; he expects that it may be so, but no tangible assurance is given; from a study of himself and of the requirements he arrives at the conclusion that perhaps he has reached the status of accepted disciple. He therefore acts on that assumption and with care he watches his acts, guards his words, and controls his thoughts so that no overt act, unnecessary word or unkind thought will break the rhythm which he believes has been set up. He proceeds with his work but intensifies his meditation; he searches his motives; he seeks to equip his mental body; he sets before himself the ideal of service and seeks ever to serve; and then (when he is so engrossed in the work on hand that he has forgotten himself), suddenly one day he sees the One Who has for so long seen him. TWM 169-170Có nhiều hiểu lầm trong tâm trí mọi người về cách Chân Sư cho phép một đệ tử được chấp nhận nhận thức được rằng y đã được chấp nhận. Có một ấn tượng phổ biến rằng y được cho biết như vậy và một cuộc phỏng vấn được chấp thuận, trong đó Chân Sư chấp nhận y và bắt đầu cho y làm việc. Không phải như vậy. Quy luật huyền bí vẫn đúng trong việc làm đệ tử cũng như trong điểm đạo, và con người tiến về phía trước một cách mù quáng. Y hy vọng, nhưng y không biết; y mong đợi rằng có thể như vậy, nhưng không có sự đảm bảo hữu hình nào được đưa ra; từ việc nghiên cứu bản thân và các yêu cầu, y đi đến kết luận rằng có lẽ y đã đạt đến trạng thái đệ tử được chấp nhận. Do đó, y hành động dựa trên giả định đó và cẩn thận quan sát hành động của mình, bảo vệ lời nói của mình và kiểm soát suy nghĩ của mình để không có hành động công khai, lời nói không cần thiết hoặc suy nghĩ không tử tế [170] nào sẽ phá vỡ nhịp điệu mà y tin rằng đã được thiết lập. Y tiếp tục công việc của mình nhưng tăng cường sự tham thiền của mình; y tìm kiếm động cơ của mình; y tìm cách trang bị cho thể trí của mình; y đặt ra trước mắt mình lý tưởng phụng sự và luôn tìm cách phụng sự; và sau đó (khi y quá mải mê với công việc đang làm đến nỗi quên cả bản thân), thì đột nhiên một ngày y nhìn thấy Đấng mà từ lâu đã nhìn thấy y.
There is much misapprehension in people’s minds as to how a Master lets an accepted disciple become aware that he is accepted. Có nhiều hiểu lầm trong tâm trí mọi người về cách Chân Sư cho phép một đệ tử được chấp nhận nhận thức được rằng y đã được chấp nhận.
Some of this, of course, we will find in the Six Stages of Discipleship in the New Age, Volume 1. How does a master let an accepted disciple become aware that he is accepted? Remember, at the time this was written, only 400 or so accepted disciples existed in the world. That is, those students of the wisdom who were in full service and knew they were accepted disciples. Others were standing on the threshold of accepted discipleship. Now much greater numbers, I think, can be expected if we were to ask that question. We’ve had the revolution in consciousness, a great wave from the East sweeping over the West. We’ve had the Christ taking over the vestures of the Buddha, I think, in 1966, which corresponded with great expansions of consciousness around the world, but especially emanating from the United States. We’ve had big changes since this book was written. Chúng ta sẽ tìm thấy một phần điều này trong Sáu Giai Đoạn của Đệ Tử trong Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới, Quyển 1. Làm thế nào một Chân sư cho một đệ tử được chấp nhận nhận biết rằng y đã được chấp nhận? Chúng ta nhớ rằng vào thời điểm cuốn sách này được viết chỉ có khoảng 400 đệ tử được chấp nhận trên thế giới. Đó là những học viên của Minh Triết Ngàn Đời đang phụng sự đầy đủ và biết rằng họ là đệ tử được chấp nhận. Những người khác thì đang đứng trên ngưỡng cửa của giai đoạn đệ tử được chấp nhận. Tôi nghĩ, bây giờ, nếu chúng ta đặt câu hỏi đó, con số có thể lớn hơn nhiều. Chúng ta đã có cuộc cách mạng trong tâm thức, một làn sóng lớn từ Phương Đông tràn qua Phương Tây. Chúng ta đã có sự kiện Đức Christ tiếp nhận các ‘thân’ của Đức Phật vào năm 1966, điều này tương ứng với sự mở rộng lớn lao của ý thức trên toàn thế giới, đặc biệt tỏa ra từ Hoa Kỳ. Chúng ta đã có những thay đổi lớn kể từ khi cuốn sách này được viết. 
An impression is abroad that he is told so and that an interview is accorded wherein the Master accepts him and starts him to work. Such is not the case. Có một ấn tượng phổ biến rằng y được cho biết như vậy và một cuộc phỏng vấn được chấp thuận, trong đó Chân Sư chấp nhận y và bắt đầu cho y làm việc. Không phải như vậy.
DK helps us correct impressions which are false.Chân sư DK giúp chúng ta chỉnh sửa những ấn tượng sai lầm. 
The occult law holds good in discipleship as in initiation, and the man goes forward blindly. Định luật huyền bí vẫn đúng trong việc làm đệ tử cũng như trong điểm đạo, và con người tiến về phía trước một cách mù quáng
This is a law, and he must discover him for himself his true state.Đây là một định luật, và y phải tự khám phá trạng thái thực sự của mình. 
He hopes, but he does not know; he expects that it may be so, but no tangible assurance is given; from a study of himself and of the requirements he arrives at the conclusion that perhaps he has reached the status of accepted disciple. He therefore acts on that assumption and with care he watches his acts, guards his words, and controls his thoughts so that no overt act, unnecessary word or unkind thought will break the rhythm which he believes has been set up. Y hy vọng, nhưng y không biết; y mong đợi rằng có thể như vậy, nhưng không có sự đảm bảo hữu hình nào được đưa ra; từ việc nghiên cứu bản thân và các yêu cầu, y đi đến kết luận rằng có lẽ y đã đạt đến trạng thái đệ tử được chấp nhận. Do đó, y hành động dựa trên giả định đó và cẩn thận quan sát hành động của mình, bảo vệ lời nói của mình và kiểm soát suy nghĩ của mình để không có hành động công khai, lời nói không cần thiết hoặc suy nghĩ không tử tế [170] nào sẽ phá vỡ nhịp điệu mà y tin rằng đã được thiết lập.
So this is the condition in which he finds himself, and no one comes to tell him, “you are an accepted disciple”.Đây là tình trạng mà y nhận thấy mình đang ở, và không ai đến nói với y, “Ngươi là một đệ tử được chấp nhận.” 
Now, DK does give such things as the evidences in the DINA I book on the six stages of discipleship. There might be a dream experience. There might be an experience in meditation. There might be an interview in the Master’s Ashram. Various evidences may confirm for the individual that he has reached this point, but he has to act accordingly. He has to act as if. If he evaluates the requirements and believes he has reached those requirements or fulfilled them, then he proceeds to act as if this stage has in fact been reached, and then further confirmation will come.Tuy nhiên, trong quyển Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới I, Chân sư DK có đưa ra những điều như là các bằng chứng về sáu giai đoạn của tình trạng đệ tử. Có thể có một trải nghiệm trong giấc mơ. Có thể có một trải nghiệm trong lúc tham thiền. Có thể có một cuộc gặp gỡ trong Ashram của Chân sư. Nhiều bằng chứng khác nhau có thể xác nhận cho cá nhân rằng y đã đạt đến điểm này, nhưng y phải hành động phù hợp. Y phải hành động như thể. Nếu y đánh giá các yêu cầu và tin rằng mình đã đạt được hoặc đáp ứng được chúng, thì y tiếp tục hành động như thể giai đoạn này thực sự đã được đạt tới, và sau đó sẽ có những xác nhận xa hơn.
He hopes, but he does not know; he expects that it may be so, but no tangible assurance is given; from a study of himself and of the requirements he arrives at the conclusion that perhaps he has reached the status of accepted disciple.  He therefore acts on that assumption and with care he watches his acts, guards his words, and controls his thoughts so that no overt act, unnecessary word or unkind [Page 170] thought will break the rhythm which he believes has been set up.Y hy vọng, nhưng y không biết; y mong đợi rằng có thể như vậy, nhưng không có sự đảm bảo hữu hình nào được đưa ra; từ việc nghiên cứu bản thân và các yêu cầu, y đi đến kết luận rằng có lẽ y đã đạt đến trạng thái đệ tử được chấp nhận. Do đó, y hành động dựa trên giả định đó và cẩn thận quan sát hành động của mình, bảo vệ lời nói của mình và kiểm soát suy nghĩ của mình để không có hành động công khai, lời nói không cần thiết hoặc suy nghĩ không tử tế [170] nào sẽ phá vỡ nhịp điệu mà y tin rằng đã được thiết lập.
He proceeds with his work but intensifies his meditation; he searches his motives; he seeks to equip his mental body; he sets before himself the ideal of service and seeks ever to serve; and then (when he is so engrossed in the work on hand that he has forgotten himself), suddenly one day he sees the One Who has for so long seen him. Y tiếp tục công việc của mình nhưng tăng cường sự tham thiền của mình; y tìm kiếm động cơ của mình; y tìm cách trang bị cho thể trí của mình; y đặt ra trước mắt mình lý tưởng phụng sự và luôn tìm cách phụng sự; và sau đó (khi y quá mải mê với công việc đang làm đến nỗi quên cả bản thân), thì đột nhiên một ngày y nhìn thấy Đấng mà từ lâu đã nhìn thấy y.
Well, the method is clear, is it not? The method is clear, and maybe, some of us find ourselves in this situation, and we’ve been given, we’ve been told what to do.Phương pháp thì rõ ràng, đúng không? Phương pháp rõ ràng, và có lẽ một số chúng ta nhận ra rằng mình đang ở trong tình huống này, và chúng ta đã được trao, đã được bảo phải làm gì.
We are certainly, in this kind of work, seeking to equip our mental body. We have before us always the ideal of service, and to serve the strengthening and the illumination of the mental body of our fellow human beings is a service. And people who are equipped through the study of this kind of teaching are in a position to pass on the light.Chắc chắn, trong công việc như thế này, chúng ta tìm cách trang bị cho thể trí của mình. Trước mắt chúng ta luôn luôn là lý tưởng phụng sự, và phụng sự việc củng cố và soi sáng thể trí của đồng loại là một sự phụng sự. Và những người được trang bị qua việc nghiên cứu loại giáo lý này ở vào vị trí để truyền đạt ánh sáng.
They are carriers of the light, light-bearers, and the second ray which radiates from these pages is the ray of light-bearing influence, as it is said.Họ là những người mang ánh sáng, và cung hai toả ra từ các trang sách này chính là cung của ảnh hưởng mang ánh sáng, như đã được nói đến.
[1b] 
This may come in two ways: in full waking consciousness or by the registering of the interview on the physical brain as it has been participated in during the hours of sleep.Điều này có thể xảy ra theo hai cách: trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn hoặc qua việc ghi nhận buổi phỏng vấn trên bộ não vật lý, như đã trải qua trong những giờ ngủ.
But accompanying this recognition of the event by the disciples will come certain other recognitions.Tuy nhiên, cùng với sự nhận biết sự kiện này bởi đệ tử sẽ xuất hiện những nhận thức khác sau đây: 
1. The event is recognised as fact past all controversy. No doubt remains in the disciple’s mind.1. Sự kiện được công nhận là một thực tế không thể bàn cãi. Không còn nghi ngờ nào trong tâm trí của đệ tử. 
2. There is recognised an inhibition on the disciple’s part to mention the happening to any one. Months or years may slip away before the disciple will mention it, and then only to those who are also recognised as disciples or to some fellow worker, also under the same group influence, whose right it is to know and whose right is sanctioned by the Master of the group.2. Đệ tử nhận thức được một sự kiềm chế từ phía mình để không nhắc đến sự việc với bất kỳ ai. Nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm có thể trôi qua trước khi đệ tử đề cập đến điều này, và ngay cả khi đó, chỉ nói với những người cũng được công nhận là đệ tử hoặc một đồng sự, cũng chịu ảnh hưởng từ cùng một nhóm, người có quyền biết điều này và quyền đó được Chân sư của nhóm chấp thuận. 
3. Certain factors, governing the Master’s relation to the disciple, are gradually recognised and begin increasingly to govern the disciple’s life.3. Một số yếu tố liên quan đến mối quan hệ giữa Chân sư và đệ tử dần dần được nhận ra và bắt đầu ngày càng chi phối cuộc sống của đệ tử. 
a. He recognises that his points of contact with his Master are governed by group emergency and need, and deal with his group service. It gradually dawns on him that his Master is only interested in him insofar as his ego can be used in service, through the personality on the physical plane. He begins to realise that his Master works with his soul and that it is his ego, therefore, which is en rapport with the Master and not the personal self. His problem, therefore, becomes increasingly clear and this is the problem of all disciples. It is to keep the channel of communication open between the soul and the brain, via the mind, so that when the Master seeks to communicate, He can do so at once and easily. Sometimes a Master has to wait weeks before He can get His disciple’s ear, for the channel upward is closed and the soul is not en rapport with the brain. This is especially true of the early stages of discipleship.a. Y nhận thức rằng các điểm tiếp xúc của mình với Chân sư được điều chỉnh bởi các tình huống khẩn cấp và nhu cầu của nhóm, và liên quan đến công việc phụng sự trong nhóm. Y dần nhận ra rằng Chân sư chỉ quan tâm đến y trong phạm vi Chân ngã của y có thể được sử dụng trong sự phụng sự, thông qua phàm ngã trên cõi vật lý. Y bắt đầu hiểu rằng Chân sư làm việc với linh hồn của y, và do đó, chính Chân ngã của y mới là điều hòa hợp với Chân sư, chứ không phải là bản thân phàm ngã. Vấn đề của y vì thế trở nên ngày càng rõ ràng, và đây cũng là vấn đề của tất cả các đệ tử: duy trì kênh liên lạc mở giữa linh hồn và bộ não, thông qua thể trí, để khi Chân sư muốn giao tiếp, Ngài có thể làm điều đó ngay lập tức và dễ dàng. Đôi khi, Chân sư phải chờ đợi hàng tuần trước khi Ngài có thể thu hút sự chú ý của đệ tử, bởi vì kênh đi lên bị đóng, và linh hồn không hòa hợp với bộ não. Điều này đặc biệt đúng trong giai đoạn đầu của địa vị đệ tử. 
b. He finds that it is he who shuts the door in the majority of cases through lower psychism, physical disability, and lack of mind control, and he therefore discovers that he has to work constantly and ceaselessly with his lower self.b. Y nhận ra rằng chính y là người đóng cánh cửa trong phần lớn các trường hợp, do thông linh thấp kém, sự suy yếu về thể chất và thiếu kiểm soát trí tuệ. Do đó, y phát hiện rằng mình phải làm việc không ngừng với phàm ngã thấp của mình. 
c. He finds that one of the first things he has to do is to learn to discriminate between:c. Y nhận ra rằng một trong những điều đầu tiên y phải làm là học cách phân biện giữa: 
His own soul’s vibration.– Rung động của chính linh hồn y. 
The vibration of the group of disciples with whom he is associated.– Rung động của nhóm đệ tử mà y liên kết. 
The vibration of the Master. TWM 170-171– Rung động của Chân sư. 
0:10:10 
This may come in two ways: in full waking consciousness or by the registering of the interview on the physical brain as it has been participated in during the hours of sleep. Điều này có thể xảy ra theo hai cách: trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn hoặc qua việc ghi nhận buổi phỏng vấn trên bộ não vật lý, như đã trải qua trong những giờ ngủ.
And even if it’s in full waking consciousness, I suppose this would normally be a meditative experience.Và ngay cả khi nó xảy ra trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn, tôi cho rằng đây thường là một trải nghiệm tham thiền. 
We don’t all, like Alice Bailey, of course, expect that as happened for her, Master KH or one of the other Masters will walk into a room where she was alone and consult with her about her discipleship and possible usefulness. Even then though, He was saying there’s a few things you have to take care of in your character. And what would he say to us? Obviously, there are still a few things we all have to take care of in our character, and even though focus on character is not the main goal of discipleship, especially accepted discipleship, perhaps for the probationary path it is a major focus. Yet, nevertheless, improvement of the character that can never be ignored when the opportunity to do so arises or when there is recognition of the need to do so that opportunity will arise.Chúng ta không phải ai cũng như Bà Alice Bailey, giống như những gì đã xảy ra với Bà, kỳ vọng rằng Chân sư KH hoặc một trong các Chân sư khác sẽ bước vào một căn phòng nơi Bà đang ở một mình và trao đổi với Bà về việc con đường đệ tử và khả năng hữu ích của Bà. Ngay cả lúc đó, Ngài vẫn nói rằng có một vài điều trong tính cách mà Bà phải chú ý. Và Ngài sẽ nói gì với chúng ta? Rõ ràng, vẫn còn một vài điều trong tính cách mà tất cả chúng ta phải chú ý, và dù sự tập trung vào tính cách không phải là mục tiêu chính của địa vị đệ tử, đặc biệt là đệ tử được chấp nhận, thì có lẽ trên con đường dự bị, đây là một trọng tâm lớn. Tuy nhiên, sự cải thiện tính cách không bao giờ có thể bị phớt lờ khi cơ hội thực hiện điều đó xuất hiện hoặc khi nhận ra cần thiết phải làm điều đó, cơ hội ấy sẽ xuất hiện. 
But accompanying this recognition of the event by the disciples will come certain other recognitions. Tuy nhiên, cùng với sự nhận biết sự kiện này bởi đệ tử sẽ xuất hiện những nhận thức khác sau đây: 
Now, let’s see, certain other recognition. So, we who are those who can justly prepare for accepted discipleship, whether in this life or rather immediately ahead, we want to pay attention to everything that DK says about it, so that we can recognize the signs. So, certain other recognitions.Chúng ta hãy xem, một số nhận thức khác. Vì vậy, chúng ta – những người có thể chuẩn bị chính đáng cho vị trí đệ tử được chấp nhận, dù trong kiếp sống này hay trong tương lai gần – cần chú ý đến mọi điều mà Chân sư DK nói về vấn đề này, để có thể nhận ra các dấu hiệu. 
1. The event is recognised as fact past all controversy. No doubt remains in the disciple’s mind. 1. Sự kiện được công nhận là một thực tế không thể bàn cãi. Không còn nghi ngờ nào trong tâm trí của đệ tử. 
Something has happened, whether in meditation or in the hours of sleep, or through the presence of a thoughtform of the Master. There are benevolent thought forms which can form certain tasks, but the disciple knows this has happened.Điều gì đó đã xảy ra, dù trong tham thiền, trong những giờ ngủ, hoặc thông qua sự hiện diện của một hình tư tưởng của Chân sư. Có những hình tư tưởng từ ái có thể thực hiện những nhiệm vụ nhất định, nhưng đệ tử biết rằng điều này đã xảy ra. 
2. There is recognised an inhibition on the disciple’s part to mention the happening to anyone. Months or years may slip away before the disciple will mention it, and then only to those who are also recognised as disciples or to some fellow worker, also under the same group influence, – 2. Đệ tử nhận thức được một sự kiềm chế từ phía mình để không nhắc đến sự việc với bất kỳ ai. Nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm có thể trôi qua trước khi đệ tử đề cập đến điều này, và ngay cả khi đó, chỉ nói với những người cũng được công nhận là đệ tử hoặc một đồng sự, cũng chịu ảnh hưởng từ cùng một nhóm,
So, related to similar work, not necessarily running around to those in other Ashrams, or affiliated with other Ashrams to tell the story. It has to be of value. This story has to have a purpose, and that purpose is not to call attention to oneself, but to strengthen the work in some way. So, only to those who are recognized as disciples or to some fellow worker, also under the same group influence, and one shares a certain task together,Do đó, liên quan đến công việc tương tự. Không nhất thiết phải kể câu chuyện này cho những người trong các Ashram khác hoặc liên kết với các Ashram khác. Câu chuyện này phải có giá trị và mục đích của nó không phải để thu hút sự chú ý về bản thân, mà là để củng cố công việc theo một cách nào đó. Vậy nên, chỉ kể với những người được công nhận là đệ tử, hoặc với một đồng nghiệp, cũng dưới ảnh hưởng của cùng một nhóm, và cùng chia sẻ một nhiệm vụ cụ thể với nhau,
…whose right it is to know and whose right is sanctioned by the Master of the group.…người có quyền biết điều này và quyền đó được Chân sư của nhóm chấp thuận. 
I guess a lot of intuition is needed to see to whom one might be able to share this kind of event. And I suppose to clarify the nature of the event, and to prove that in fact it does happen, is of value, or perhaps to compare events with someone for whom it has occurred. These are inner events, but they do occur, and they are the evidence of a certain state of responsibility. Tôi cho rằng rất cần sự trực giác để thấy được với ai mình có thể chia sẻ sự kiện loại này. Và tôi cho rằng việc làm rõ bản chất của sự kiện, và chứng minh rằng nó thực sự xảy ra, là có giá trị, hoặc có lẽ để so sánh sự kiện với ai đó mà nó cũng đã xảy ra. Đây là những sự kiện nội tại, nhưng chúng thực sự xảy ra, và chúng là bằng chứng của một trạng thái trách nhiệm nhất định. 
I remember Mary Bailey, in the office, in speaking of who did what and who was to do what in that office situation, group situation, she would speak of spheres of responsibility, spheres or circles of responsibilities, I think sphere was the right word. It became clear that this was an impersonal matter and not something which indicated a focus upon hierarchical status, as is so often the case with external hierarchies. So, let’s just say that no doubt that it has occurred and here the idea of discretion.Tôi nhớ Bà Mary Bailey, trong văn phòng, khi nói về ai làm gì và ai sẽ làm gì trong tình huống nhóm văn phòng đó, Bà thường nói đến các phạm vi trách nhiệm, các phạm vi hoặc vòng tròn trách nhiệm – tôi nghĩ rằng từ “phạm vi” là từ đúng. Điều này làm rõ rằng đây là một vấn đề vô ngã và không phải điều gì đó chỉ ra sự tập trung vào địa vị trong Huyền Giai, như thường xảy ra với các hệ thống cấp bậc bên ngoài. Vì vậy, chúng ta hãy nói rằng, không còn nghi ngờ rằng điều này đã xảy ra, và ở đây là ý tưởng về sự thận trọng. 
3. Certain factors, governing the Master’s relation to the disciple, are gradually recognised and begin increasingly to govern the disciple’s life. 3. Một số yếu tố liên quan đến mối quan hệ giữa Chân sư và đệ tử dần dần được nhận ra và bắt đầu ngày càng chi phối cuộc sống của đệ tử. 
0:16:30. And the probationary period which follows, or which I suppose leads up to it and may follow to a degree. We are speaking of enhanced inner contacts and their reality. This goes beyond the theoretical approach.Thời kỳ dự bị theo sau (hoặc có thể dẫn đến giai đoạn này và tiếp diễn ở một mức độ nào đó). Chúng ta đang nói về các mối liên hệ nội tại được tăng cường và thực tế của chúng. Điều này vượt qua cách tiếp cận lý thuyết.
So, what are these factors governing the Master’s relation to the disciple, which are gradually recognized by the disciple, and begin to govern the life?Vậy, những yếu tố nào chi phối mối quan hệ giữa Chân sư và đệ tử, mà đệ tử dần nhận ra và bắt đầu chi phối cuộc sống của y?
a. He recognises that his points of contact with his Master are governed by group emergency and need, and deal with his group service.a. Y nhận thức rằng các điểm tiếp xúc của mình với Chân sư được điều chỉnh bởi các tình huống khẩn cấp và nhu cầu của nhóm, và liên quan đến công việc phụng sự trong nhóm.
It’s not about an individual relationship for its own sake.Điều này không phải là vì chính mối quan hệ cá nhân. 
It gradually dawns on him that his Master is only interested in him insofar as his ego Y dần nhận ra rằng Chân sư chỉ quan tâm đến y trong phạm vi Chân ngã của y …
His nature on the higher mental plane Bản chất của y trên cõi thượng trí – 
…can be used in service, through the personality on the physical plane.… có thể được sử dụng trong sự phụng sự, thông qua phàm ngã trên cõi trần. 
Yeah, this is not about spending a nice evening together, not about the personal relationship. Vâng, điều này không phải là về việc trải qua một buổi tối thú vị cùng nhau, không phải về mối quan hệ cá nhân. 
He begins to realise that his Master works with his soul and that it is his ego Y bắt đầu hiểu rằng Chân sư làm việc với linh hồn của y, và do đó, chính Chân ngã của y
Here being rather equivalent terms even though the lower case is used. DK is not using that term ego to indicate the way it is normally used by people indicating the lower personal self. It’s not about spending a nice evening together. It’s not about spending a nice evening together. All right. The master works with his soul or ego, Ở đây hai thuật ngữ này khá tương đương, mặc dù được sử dụng chữ thường. DK không sử dụng thuật ngữ “chân ngã” theo cách thông thường mà người ta hiểu, chỉ về phàm ngã thấp hơn. Điều này không phải là về việc trải qua một buổi tối thú vị cùng nhau. Không phải như vậy. 
…therefore It is his ego which is en rapport with the Master and not the personal self.… và do đó, chính Chân ngã của y mới là điều hòa hợp với Chân sư, chứ không phải là bản thân phàm ngã. – 
So, we would say he has to be in the right meditative state before true contact with the Master becomes possible, and such contact is not the overriding objective anyway. It may happen for the purposes of direction and illumination and to advance the group work, but it’s not about being able to contact the Master at any time you want for your own personal purposes. In general, one does not contact the Master for personal purposes. When something about the work really has to be advanced, then, then it’s possible.Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng y phải ở trong trạng thái tham thiền đúng đắn trước khi có thể tiếp xúc thực sự với Chân sư, và ngay cả vậy, việc tiếp xúc không phải là mục tiêu chủ yếu. Nó có thể xảy ra nhằm mục đích hướng dẫn, soi sáng và thúc đẩy công việc nhóm, nhưng không phải là để tiếp xúc với Chân sư bất kỳ lúc nào mà y muốn cho mục đích cá nhân. Nói chung, người ta không tiếp xúc với Chân sư vì mục đích cá nhân. Khi có điều gì đó về công việc thực sự cần được thúc đẩy, thì điều đó có thể xảy ra. 
His problem, therefore, becomes increasingly clear and this is the problem of all disciples. It is to keep the channel of communication open between the soul and the brain, via the mind, so that when the Master seeks to communicate, He can do so at once and easily.Vấn đề của y vì thế trở nên ngày càng rõ ràng, và đây cũng là vấn đề của tất cả các đệ tử: duy trì kênh liên lạc mở giữa linh hồn và bộ não, thông qua thể trí, để khi Chân sư muốn giao tiếp, Ngài có thể làm điều đó ngay lập tức và dễ dàng. 
So, at any moment we could be asked, is this alignment operating at this time? Soul, mind, brain. There’s much more in the mind than is in the brain. There’s much more in the soul than is in the mind, but at least the channel has to be kept open so that what the Master seeks to convey can be conveyed.Vì vậy, tại bất kỳ thời điểm nào, người ta có thể được hỏi: liệu sự chỉnh hợp này có đang hoạt động không? Linh hồn, thể trí, bộ não. Có nhiều điều trong thể trí hơn là trong bộ não. Có nhiều điều trong linh hồn hơn là trong thể trí, nhưng ít nhất kênh giao tiếp phải được giữ mở để những gì Chân sư muốn truyền đạt có thể được truyền đạt. 
Sometimes a Master has to wait weeksĐôi khi, một Chân sư phải chờ đợi hàng tuần…
This is a very practical statementĐây là một phát biểu rất thực tế.
…before He can get His disciple’s ear, for the channel upward is closed and the soul is not en rapport with the brain. This is especially true of the early stages of discipleship. trước khi Ngài có thể thu hút sự chú ý của đệ tử, bởi vì kênh đi lên bị đóng, và linh hồn không hòa hợp với bộ não. Điều này đặc biệt đúng trong giai đoạn đầu của địa vị đệ tử.    
So, a real inward attentiveness is needed, and yet one must be able to go about one’s business on the outer planes without interruption. Vì vậy, một sự chú tâm nội tại thực sự là cần thiết, và đồng thời người đó phải có khả năng thực hiện công việc của mình trên các cõi ngoại giới mà không bị gián đoạn. 
So this is a dual state of consciousness … almost there, all right well we have to practice that don’t we? We have to make sure that we really do have that ability to remain inwardly attentive, alert, while doing the other things that duties require.Đây là một trạng thái tâm thức kép. Chúng ta phải rèn luyện điều này, phải không? Chúng ta phải đảm bảo rằng mình thực sự có khả năng duy trì sự chú tâm nội tại, cảnh giác, trong khi thực hiện những công việc cần thiết mà bổn phận đòi hỏi. 
So that’s point a. … certain recognitions, no doubts, discretion, and in this case, factors are being discussed which are gradually recognized and group service is governing his contact. That’s basically what we’re learning. So, group service and no strictly personal need is governing the disciples contact with the Master. Đó là điểm a. một số nhận thức: không nghi ngờ, thận trọng, và trong trường hợp này, các yếu tố đang được thảo luận dần dần được nhận ra, và sự phụng sự nhóm đang chi phối sự tiếp xúc của đệ tử. Đó cơ bản là điều chúng ta đang học. Vậy, phụng sự nhóm và không có nhu cầu cá nhân đơn thuần nào chi phối sự tiếp xúc của đệ tử với Chân sư. 
b. He finds that it is he who shuts the door in the majority of cases through lower psychism, physical disability, and lack of mind control, and he therefore discovers that he has to work constantly and ceaselessly with his lower self.b. Y nhận ra rằng chính y là người đóng cánh cửa trong phần lớn các trường hợp, do thông linh thấp kém, sự suy yếu về thể chất và thiếu kiểm soát trí tuệ. Do đó, y phát hiện rằng mình phải làm việc không ngừng với phàm ngã của mình.  
So, the accepted disciple still has much work to do with the lower self in order to keep the door of communication open with the Master or higher members of the Ashram than he is presently. So attentiveness again, and not allowing indulgence in certain fantasies and unwholesome types of thought or desire, keeping the physical body in reasonable shape and preventing the mind from just running out of control.Do đó, đệ tử được chấp nhận vẫn còn nhiều việc phải làm với phàm ngã để giữ cho cánh cửa giao tiếp với Chân sư hoặc các thành viên cao cấp hơn trong Ashram được mở ra. Vì vậy, một lần nữa cần sự chú tâm và không cho phép bản thân chìm đắm vào những ảo tưởng hoặc các kiểu tư tưởng hay ham muốn không lành mạnh, giữ cho thể xác trong trạng thái ổn định hợp lý, và ngăn trí óc không chạy theo những dòng suy nghĩ mất kiểm soát. 
So, in fact we’re the ones who close the door, and it’s not as if we’re always in the right kind of condition to receive even though we might think we are.Thực tế, chính chúng ta là những người đóng cánh cửa, và không phải lúc nào chúng ta cũng ở trong trạng thái đúng đắn để tiếp nhận, mặc dù chúng ta có thể nghĩ rằng mình đang ở trạng thái đó. 
c. He finds that one of the first things he has to do is to learn to discriminate between: c. Y nhận ra rằng một trong những điều đầu tiên y phải làm là học cách phân biện giữa: 
This is really important and not easy. So, who shall say he has succeededĐiều này rất quan trọng và không dễ dàng. Do đó, ai sẽ nói rằng mình thành công?
His own soul’s vibration. The vibration of the group of disciples with whom he is associated.– Rung động của chính linh hồn y.  – Rung động của nhóm đệ tử mà y được liên kết.
One has to know something of that group and what its responsibilities are and its duties, and finallyY phải biết một chút về nhóm đó, trách nhiệm và nhiệm vụ của nhóm. 
The vibration of the Master. – Cuối cùng, rung động của Chân sư. 
All of this is distinct, and we have to practice discrimination, on the fourth subplane of the mental plane. All these are eventually realized as distinct mistakes can be made at first.Tất cả những điều này là riêng biệt, và chúng ta phải thực hành phân biện trên cõi phụ thứ tư của cõi trí. Tất cả những điều này cuối cùng sẽ được nhận thức là riêng biệt, nhưng những sai lầm có thể xảy ra lúc ban đầu. 
A high vibration comes, and one is happy about that and works with it. But where does it come from? There are so many possibilities upward towards the Ashram as a whole, or the greater Ashram on one’s ray, or the Hierarchy as a whole, or the Christ himself. There’s an extension of possibilities as one refines one’s nature.Một rung động cao đến, và người ta cảm thấy vui mừng về điều đó và làm việc với nó. Nhưng nó đến từ đâu? Có rất nhiều khả năng: từ Ashram nói chung, hoặc từ Ashram lớn hơn thuộc cung của người đó, hoặc từ Thánh đoàn nói chung, hoặc từ chính Đức Christ. Các khả năng sẽ mở rộng khi người ta tinh lọc bản chất của mình. 
[1c] 
All three are different and it is easy to confuse them, especially at first. It is a safe rule for aspirants to assume when they contact a high vibration and stimulus, that it is their own soul contacting them, the Master in the heart, and not run off with the idea (so flattering to their pride and personality) that the Master is endeavouring to reach them.Cả ba loại rung động đều khác nhau và rất dễ nhầm lẫn, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Một nguyên tắc an toàn cho những người chí nguyện là giả định rằng khi họ tiếp xúc với một rung động cao và kích thích, đó chính là Chân ngã của họ đang kết nối với họ – Chân sư trong trái tim – và không nên vội vàng cho rằng (một ý nghĩ dễ dàng làm thỏa mãn lòng kiêu hãnh và phàm ngã của họ) Chân sư đang cố gắng tiếp cận họ.
d. He finds also that it is not the habit of the Masters to flatter or to make promises to their disciples. They are too busy and too wise, nor do They trouble Themselves to tell Their disciples that they are destined for high office, or that they are Their intermediaries and that the Hierarchy is depending upon them. Ambition, love of power, and the self-sufficiency which characterises many mental types test out the struggling aspirant, and he gets from his personality all that he needs in that line. These qualities delude him and lead him astray, forcing him onto a pedestal from which eventually he must descend. The Masters say nothing to feed pride in Their disciples, nor do They speak words to them which could foster in Their chelas the spirit of separateness. TWM 171-172d. Y cũng thấy rằng các Chân Sư không có thói quen tâng bốc hoặc hứa hẹn với đệ tử của mình. Các Ngài quá bận rộn và quá minh triết, các Ngài cũng không bận tâm nói với đệ tử của mình rằng họ được định sẵn cho chức vụ cao, hoặc rằng họ là trung gian của các Ngài và Thánh Đoàn đang phụ thuộc vào họ. Tham vọng, ham muốn quyền lực và sự tự mãn vốn là đặc điểm của nhiều kiểu người trí tuệ thử thách người chí nguyện đang đấu tranh, và y nhận được từ phàm ngã của mình tất cả những gì y cần trong khía cạnh đó. Những phẩm tính này đánh lừa y và dẫn y đi lạc lối, buộc [172] y lên một bệ đỡ mà cuối cùng y phải đi xuống. Các Chân Sư không nói gì để nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh trong các đệ tử của các Ngài, các Ngài cũng không nói những lời với họ có thể nuôi dưỡng tinh thần chia rẻ trong các đệ tử của các Ngài.
0:28:10  
All three are different and it is easy to confuse them, especially at first. It is a safe rule for aspirants to assume Cả ba loại rung động đều khác nhau và rất dễ nhầm lẫn, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Một nguyên tắc an toàn cho những người chí nguyện là giả định rằng
Now, as you notice that, even He’s talking about people who are aspiring to be true disciples, to be true accepted disciples. It’s probable that the real disciple who has left major concentration upon the probationary path is called the accepted disciple. Bây giờ, như bạn để ý, ngay cả Ngài cũng đang nói về những người đang khao khát trở thành những đệ tử thực thụ, những người đệ tử được chấp nhận thực sự. Có khả năng rằng đệ tử thực sự, người đã rời bỏ sự tập trung chủ yếu vào con đường dự bị, được gọi là đệ tử được chấp nhận.
It is a safe rule for aspirants to assume when they contact a high vibration and stimulus, that it is their own soul contacting them, the Master in the heart, and not run off with the idea (so flattering to their pride and personality) that the Master is endeavouring to reach them. Một nguyên tắc an toàn cho những người chí nguyện là giả định rằng khi họ tiếp xúc với một rung động cao và kích thích, đó chính là Chân ngã của họ đang kết nối với họ – Chân sư trong trái tim – và không nên vội vàng cho rằng (một ý nghĩ dễ dàng làm thỏa mãn lòng kiêu hãnh và phàm ngã của họ) Chân sư đang cố gắng tiếp cận họ.
How was it that he reached Alice Bailey? The word has it that he saw to the sounding of a certain note in her ear. Sometimes I’m sure everybody has heard those strange notes which are musical in a sense and of different pitches and can be very high or not so high that occur. There is a capability of the inner ear to hear these things. Of course, maybe one is just being tuned up a bit when these things occur but I think there was a mode of communication between the Tibetan Alice Bailey that involved that sounding of the note to which response had to come. It just wasn’t a question of when Alice Bailey was available to do the work, it was a question also of when the Tibetan had time because I think that the schedules of the Great Ones are probably amazingly demanding if we were to understand what they are and would be overwhelming to us. They have a highly organized approach to their inner life, and they are not couch potatoes.Làm thế nào mà Ngài đã tiếp cận Alice Bailey? Người ta nói rằng Ngài đã phát ra một âm thanh nhất định trong nội nhĩ của bà. Đôi khi, chắc hẳn ai cũng từng nghe những âm thanh lạ lùng, mang tính nhạc ở một mức độ nào đó, với các cao độ khác nhau, có thể rất cao hoặc không quá cao, xuất hiện. Nội nhĩ có khả năng nghe được những điều này. Tất nhiên, có thể đơn giản là con người đang được “điều chỉnh” đôi chút khi những điều này xảy ra, nhưng tôi nghĩ rằng giữa Chân sư Tây Tạng và Bà Alice Bailey đã có một phương thức giao tiếp liên quan đến việc phát ra âm thanh, mà Bà cần phải đáp ứng. Điều này không chỉ đơn thuần là khi nào Alice Bailey sẵn sàng để thực hiện công việc, mà còn là khi nào Chân sư Tây Tạng có thời gian, bởi tôi nghĩ rằng lịch trình của các Đấng Vĩ Đại có lẽ vô cùng đòi hỏi, nếu chúng ta hiểu được, và điều đó sẽ khiến chúng ta choáng ngợp. Các Ngài có một cách tiếp cận rất tổ chức đối với đời sống nội tâm của mình, và chắc chắn không phải là những người nhàn rỗi.
So, these are discriminations and then this is important. These are all factors here which, what can I call them, factors of relationship, factors involved in the relationship between the chela and the Master. That’s what this section is all about and it’s about group service not personal contact. He is the one who shuts the door through various debilities that is recognized, and discriminations are needed between vibrations.Như vậy, đây là những sự phân biệt, và điều này rất quan trọng. Đây đều là các yếu tố liên quan đến mối quan hệ giữa đệ tử và Chân Sư. Phần này nói về việc phụng sự nhóm, không phải là liên lạc cá nhân. Chính y là người đóng cánh cửa thông qua những điểm yếu khác nhau được nhận ra, và cần có sự phân biện giữa các rung động.
Now he learns in these factors of relationship thatBây giờ, y học được trong những yếu tố của mối quan hệ rằng:
d. He finds also that it is not the habit of the Masters to flatter or to make promises to their disciples. d. Y cũng thấy rằng các Chân Sư không có thói quen tâng bốc hoặc hứa hẹn với đệ tử của mình.
We are still very much standing on our own two feet. The Masters want to make masters of us and that means that we have to master many factors which before remained unmastered. This is hard work. We must sensitize, subdue and sensitize the lower instruments so the necessary contact is never lost. So, nothing of the lower ego or personal self enters this relationship normally. Occasionally, advice may be given by the Master when something in the lower nature is interfering with the kind of contact which is desirable between a Master and his disciple, and this points to their schedule.Chúng ta vẫn phải đứng trên chính đôi chân của mình. Các Chân Sư muốn tạo ra những Chân sư Minh triết từ chúng ta, và điều đó có nghĩa là chúng ta phải làm chủ nhiều yếu tố mà trước đây chưa được kiểm soát. Đây là công việc khó khăn. Chúng ta phải nhạy cảm hoá và chế ngự các công cụ thấp hơn để mối liên lạc cần thiết không bao giờ bị mất. Vì vậy, không có gì từ phàm ngã hay cá nhân tham gia vào mối quan hệ này theo cách thông thường. Đôi khi, lời khuyên có thể được đưa ra bởi Chân Sư khi có điều gì đó trong bản chất thấp đang cản trở loại liên lạc mong muốn giữa Chân Sư và đệ tử. Và điều sau đấy ám chỉ đến lịch trình của các Ngài.
They are too busy and too wiseCác Ngài quá bận rộn và quá minh triết. 
That’s a joke, I think. Watch out. They know that more harm is done through flattery than through correction or reprimand, and that’s something that probably all of us will come to know. Master Morya speaks about the way those who have unwholesome motives use flattery. He says, watch the flattery be applied, watch the fruit fall into the hand. People respond so much to the kind words and perhaps don’t see the harmful motive behind them. So, so much discrimination and vibratory recognition is needed in this business of discipleship training so they’re not gonna flatterTôi nghĩ đây là một câu nói đùa 😊. Hãy cẩn thận. Các Ngài biết rằng sự tâng bốc gây hại nhiều hơn là sự sửa chữa hoặc khiển trách, và đó là điều mà có lẽ tất cả chúng ta sẽ nhận ra. Chân sư Morya đã nói về cách những người có động cơ không lành mạnh sử dụng sự tâng bốc. Ngài nói, hãy quan sát sự tâng bốc được áp dụng, hãy quan sát trái cây rơi vào bàn tay. Mọi người phản ứng rất nhiều với những lời tử tế và có lẽ không nhìn thấy động cơ gây hại đằng sau chúng. Vì vậy, rất cần sự phân biện và nhận biết rung động trong công việc huấn luyện đệ tử này để họ không tâng bốc
…they’re too busy and too wise, nor do They trouble Themselves to tell Their disciples that they are destined for high office Các Ngài quá bận rộn và quá minh triết, các Ngài cũng không bận tâm nói với đệ tử của mình rằng họ được định sẵn cho chức vụ cao,
I knew of a group where this was so, and probably the Theosophical Society had its fair share of promises of great celebration Tôi từng biết một nhóm nơi điều này đã xảy ra, và có lẽ Hội Thông Thiên Học cũng có phần không ít những lời hứa về các lễ hội vĩ đại.
…nor do They trouble Themselves to tell Their disciples that they are destined for high office, or that they are Their intermediaries and that the Hierarchy is depending upon them.Các Ngài quá bận rộn và quá minh triết, các Ngài cũng không bận tâm nói với đệ tử của mình rằng họ được định sẵn cho chức vụ cao, hoặc rằng họ là trung gian của các Ngài và Thánh Đoàn đang phụ thuộc vào họ.
Let’s say, all such promises and such speech would flatter the lower personal self and blocking real progress. Tất cả những lời hứa và những câu nói như vậy sẽ tâng bốc phàm ngã và cản trở sự tiến bộ thực sự. 
Ambition.Tham vọng. 
It’s the sixth head of the Hydra;Đó là cái đầu thứ sáu của con thủy quái Hydra. 
…love of power,Tình yêu quyền lực, 
It’s all the same.Đó đều là những điều giống nhau. 
…and the self-sufficiency which characterises many mental types test out the struggling aspirant, and he gets from his personality all that he needs in that line. và sự tự mãn vốn là đặc điểm của nhiều kiểu người trí tuệ thử thách người chí nguyện đang đấu tranh, và y nhận được từ phàm ngã của mình tất cả những gì y cần trong khía cạnh đó.
Well, these are tests, and at the third petal, at the sixth petal, at the ninth petal, there’s always going to be some heightening sacrifice required and some detachment from the lower personal self will be affected or effected if things go properly.Những điều này là những thử thách, và tại cánh hoa thứ ba, cánh hoa thứ sáu, cánh hoa thứ chín, sẽ luôn có một đòi hỏi hy sinh cao hơn và một sự tách rời khỏi phàm ngã sẽ đạt được nếu mọi thứ diễn ra đúng cách. 
Ambition, love of power, Tham vọng, tình yêu quyền lực. 
Sixth pedal, sixth head of the hydra, really. And it’s often found in the fifth pedal, but by the time we’re into the sixth petal, we are sacrificially relinquishing that. It’s like the effect of the energy of the sign Virgo, which corrects many of the bombastic tendencies of the Leo energy, quite rampant in the early part of petal unfoldment. I guess we can look at a number of politicians and see them going through this and other directors.Cánh hoa thứ sáu, cái đầu thứ sáu của Hydra, thực sự. Và nó thường xuất hiện ở cánh hoa thứ năm, nhưng khi chúng ta đến cánh hoa thứ sáu, chúng ta hy sinh từ bỏ nó. Đó giống như ảnh hưởng của năng lượng dấu hiệu Xử Nữ, chỉnh sửa nhiều khuynh hướng phô trương của năng lượng Sư Tử, rất thịnh hành trong giai đoạn đầu của sự khai mở cánh hoa. Tôi đoán chúng ta có thể nhìn vào một số chính trị gia và thấy họ đang trải qua điều này cùng những người lãnh đạo khác. 
Ambition, love of power and the self-sufficiency which characterises many mental types test out the struggling aspirant, and he gets from his personality all that he needs in that line.Tham vọng, ham muốn quyền lực và sự tự mãn vốn là đặc điểm của nhiều kiểu người trí tuệ thử thách người chí nguyện đang đấu tranh, và y nhận được từ phàm ngã của mình tất cả những gì y cần trong khía cạnh đó. 
It’s not a bad thing, self-sufficiency, but does this self-sufficiency support the divine plan or does it repel the word of the soul? And he gets from his personality all that he needs in that line, if he really needs it.Tự mãn không phải là điều tệ, nhưng liệu sự tự mãn này có hỗ trợ Thiên Cơ hay nó đẩy lùi linh từ của linh hồn? Và y nhận được từ phàm ngã của mình tất cả những gì y cần theo hướng đó, nếu y thực sự cần điều đó. 
These qualities delude him and lead him astray, forcing him onto a pedestal from which eventually he must descend.Những phẩm tính này đánh lừa y và dẫn y đi lạc lối, buộc [172] y lên một bệ đỡ mà cuối cùng y phải đi xuống.
Well, a number of leaders in the world are afflicted with the fatal disease of narcissism. They admire their reflection in the river, and they try to embrace it and drown, or a similar kind of thing. And following this path of self-love, ambition, love of power, a notable self-sufficiency, which is hugged to oneself as a point of pride, these things lead us to the pedestal. It’s a kind of a first-ray or separative fifth-ray reaction. And from that pedestal, which we find in the personal sense at the fifth petal, a fall must come. From the pedestaled position, there must be a fall, and it’s called humbling or humiliation, a humbling process.Thực tế, một số lãnh đạo trên thế giới mắc phải căn bệnh chí tử là chủ nghĩa ái kỷ. Họ ngưỡng mộ hình ảnh phản chiếu của mình trên dòng sông, cố gắng ôm lấy nó và chìm đắm, hoặc điều gì đó tương tự. Và khi đi theo con đường của tự yêu bản thân, tham vọng, tình yêu quyền lực, và một sự tự mãn đáng kể—điều mà họ ôm lấy như một điểm tự hào—những điều này dẫn dắt chúng ta lên bệ cao. Đây là một loại phản ứng thuộc cung một hoặc cung năm mang tính chia rẽ. Và từ bệ cao này, điều mà chúng ta trải nghiệm trong ý nghĩa cá nhân tại cánh hoa thứ năm, phải có một sự sa ngã. Từ vị trí trên bệ cao đó, sự sa ngã là điều tất yếu, và điều đó được gọi là sự khiêm hạ hoặc quá trình làm khiêm tốn bản thân. 
The Masters say nothing to feed pride in Their disciples, nor do They speak words to them which could foster in Their chelas the spirit of separateness. Các Chân Sư không nói gì để nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh trong các đệ tử của các Ngài, các Ngàihọ cũng không nói những lời với họ có thể nuôi dưỡng tinh thần chia rẻ trong các đệ tử của các Ngài. 
So Rays 1 and 5 are involved here, and also the mental pride of the third ray. Interestingly enough, those Rays 1, 3, and 5 were pointed out by DK as related to the mentality of Germany. It was kind of a fascistic model. I forget the exact word that he used. It was an interesting word, and I think it was in relation to a disciple who didn’t really continue because she was so hard. She had a first-ray soul, a fifth-ray personality, and a third-ray mind, and he used an appropriate word, and I can’t think of it right now, but it was a word that, yes, Prussian[1]. These are the Prussian Rays, and we know that Prussia was an area in Germany where the kind of overbearing attitude that we associate with some Germans, maybe a hundred years ago or a little less, that was the area where that attitude was especially cultivated. Vì vậy, cung 1 và cung 5 liên quan đến vấn đề này, cùng với sự kiêu hãnh trí tuệ của cung 3. Thật thú vị, Chân sư DK đã chỉ ra rằng các cung 1, 3 và 5 có liên quan đến tâm thức của nước Đức. Đó là một mô hình mang tính phát xít. Tôi không nhớ chính xác từ mà Ngài đã sử dụng, nhưng đó là một từ thú vị. Ngài đề cập đến một đệ tử đã không thể tiếp tục vì tính cách cứng nhắc của Bà. Bà có chân thần cung một, phàm ngã cung năm, và trí cụ thể cung ba. Ngài đã dùng một từ thích hợp, và tôi không thể nhớ ngay bây giờ, nhưng đó là một từ như “Prussian.” Đây là những cung Phổ, và chúng ta biết rằng Phổ là một khu vực ở Đức, nơi thái độ kiêu căng mà chúng ta liên hệ với một số người Đức, có thể cách đây một trăm năm hoặc ít hơn, được đặc biệt khuyến khích phát triển. 
Mental pride, these are the impression rays and they present their prideful obstacles. So, the Tibetans thought form, one of his thought forms, the one that was causing so much trouble, were giving forth, as I said earlier, good words of mediocre cheer and encouragement, such as “That’s my disciple, that a boy, that a girl, you’re really going now”. No, those things would create barriers between the true spiritual energies and the energies which are falsely assumed to be true.Kiêu hãnh trí tuệ—đây là những cung gây ấn tượng và chúng tạo ra những trở ngại kiêu căng. Một trong những hình tư tưởng của Chân sư Tây Tạng, hình tư tưởng gây ra nhiều vấn đề, đã đưa ra, như tôi đã nói trước đây, những lời tử tế với sự khuyến khích tầm thường, chẳng hạn như “Đệ tử của ta, tốt lắm, con đang làm rất tốt.” Không, những điều này sẽ tạo ra rào cản giữa các năng lượng tinh thần chân chính và các năng lượng được giả định sai lầm là chân chính. 
Okay, now we go further in these factors which are part of certain factors, relationship factors, factors involved in the relationship between the Master and his disciple.Bây giờ, chúng ta tiếp tục đi sâu hơn vào những yếu tố này, vốn là một phần của các yếu tố nhất định—các yếu tố liên quan đến mối quan hệ giữa Chân Sư và đệ tử của Ngài. 
[1d] 
e. The disciple soon finds also that the Masters are not easily accessible. They are busy men, ill able to spare even a few moments in which to communicate with the disciple, and only in emergencies, in the case of a beginner on the Path of Discipleship, do the Masters expend the necessary energy with which to get en rapport. With old and tried disciples, the contacts are more frequent, being more easily achieved and bearing more rapid results. It should be remembered, however, that the newer the disciple the more he demands attention and considers he should have it. The old and more experienced servers seek to fulfil their obligations and carry forward their work with as little contact with the Masters as possible. They seek to save the Master’s time and frequently consider an interview with the Master as demonstrating failure on their part, and producing, therefore, regret that they have had to take the Master’s precious time, and force Him to use His energy in order to safeguard the work from error and the disciple perhaps from harm. The aim of every high disciple is to carry out his work and be en rapport with the spiritual force centre which is his group, and thus in steady touch with the Master, without interviews and phenomenal contacts. Many only expect to contact their Master once a year, usually at the time of the full moon in May. TWM 172e. Đệ tử sớm nhận ra rằng các Chân sư không dễ tiếp cận. Các Ngài là những người rất bận rộn, khó có thể dành ra thậm chí chỉ vài phút để giao tiếp với đệ tử, và chỉ trong những trường hợp khẩn cấp, với những người mới bước vào Con Đường Đệ Tử, các Chân sư mới bỏ ra năng lượng cần thiết để đạt được sự hòa hợp. Với những đệ tử lâu năm và đã được thử thách, các lần tiếp xúc thường xuyên hơn, dễ đạt được hơn và mang lại kết quả nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, cần nhớ rằng đệ tử càng mới, y càng đòi hỏi sự chú ý và cho rằng mình nên được quan tâm. Những người phụng sự lâu năm và giàu kinh nghiệm hơn tìm cách hoàn thành nghĩa vụ của họ và tiếp tục công việc của mình với ít tiếp xúc với các Chân sư nhất có thể. Họ cố gắng tiết kiệm thời gian của Chân sư và thường coi một buổi gặp gỡ với Chân sư là dấu hiệu cho thấy sự thất bại của bản thân, và do đó cảm thấy hối tiếc vì đã phải lấy đi thời gian quý báu của Ngài, buộc Ngài phải sử dụng năng lượng của mình để đảm bảo công việc không bị sai sót và bảo vệ đệ tử khỏi những nguy hại có thể xảy ra. Mục tiêu của mọi đệ tử cao cấp là thực hiện công việc của mình và hòa hợp với trung tâm năng lượng tinh thần là nhóm của y, từ đó duy trì sự kết nối ổn định với Chân sư mà không cần đến các buổi gặp gỡ hay tiếp xúc mang tính hiện tượng. Nhiều người chỉ mong chờ tiếp xúc với Chân sư một lần mỗi năm, thường vào thời điểm trăng tròn tháng Năm.
e. The disciple soon finds also that the Masters are not easily accessible.e. Đệ tử sớm nhận ra rằng các Chân sư không dễ tiếp cận.
They’re on the lookout for emergency conditions and for contacts that promote the work of the Ashram, but they’re not there always to be holding our hand, are they?Các Ngài luôn chú ý đến những tình huống khẩn cấp và những mối liên hệ thúc đẩy công việc của Ashram, nhưng các Ngài không phải lúc nào cũng ở đó để “nắm tay” chúng ta, đúng không?
They are busy men, ill able to spare even a few moments in which to communicate with the disciple, and only in emergencies, in the case of a beginner on the Path of Discipleship, do the Masters expend the necessary energy with which to get en rapport.Các Ngài là những người rất bận rộn, khó có thể dành ra thậm chí chỉ vài phút để giao tiếp với đệ tử, và chỉ trong những trường hợp khẩn cấp, với những người mới bước vào Con Đường Đệ Tử, các Chân sư mới bỏ ra năng lượng cần thiết để đạt được sự hòa hợp.
So that a Master may contact you is not necessarily a flattering thing. It can mean you are a beginner and in trouble. Vì vậy, nếu một Chân Sư liên hệ với bạn, điều đó không nhất thiết là điều tự hào. Nó có thể có nghĩa là bạn là người mới bắt đầu và đang gặp khó khăn. 
So we really have to always watch out for this kind of reflexive self-exaltation. It is a problem and this mistaken identity of the little me as being the real me or the real I has to be worn away gradually. Chúng ta thật sự cần luôn cảnh giác với loại tự tôn phản xạ này. Đây là một vấn đề, và sự nhầm lẫn giữa cái tôi nhỏ bé và cái tôi thực sự phải dần dần được mài mòn. 
Master Morya implies that the way to do that is through cosmic perception, and in general, get the big picture, see how small you are, get a sense of proportion, drop all narcissism, the world is not revolving around you, and you have to begin to shrink to become a tiny point in the field of your consciousness, and not take up all that space in the field, crowding out other things that are more important, such as the whole group project and the plan’s destiny for humanity. If we’re all too self-important, we’re not going to see things in proportion.Chân sư Morya ám chỉ rằng cách để làm điều này là thông qua nhận thức vũ trụ, và nhìn chung, hiểu được bức tranh lớn hơn, thấy bản thân mình nhỏ bé như thế nào, có được cảm giác cân xứng, buông bỏ mọi chủ nghĩa ái kỷ, nhận ra rằng thế giới không xoay quanh bạn, và bắt đầu thu nhỏ bản thân để trở thành một điểm nhỏ trong trường tâm thức của bạn, không chiếm hết không gian trong đó và đẩy ra những điều quan trọng hơn, chẳng hạn như toàn bộ dự án nhóm và vận mệnh của Thiên Cơ đối với nhân loại. Nếu chúng ta quá coi trọng bản thân, chúng ta sẽ không thể nhìn nhận mọi thứ một cách cân xứng. 
This is an interesting Leo and Libra problem. The Sun of egotism falls in Libra, and it corrects the egotistical Leo response in the beginning.  Leo later can be the source of what DK calls heights of service. Heights of service are reached in Leo and Aquarius. But in the beginning, egotism is a problem, and the Sun is the lower ego or the lower personal self, and it falls in Libra where a sense of proportion is given.  DK interestingly discusses the reversal of the wheel and the kind of horoscopic indications, which tell us that this might be a possibility, and Leo and Libra are involved in the horoscope. Maybe Sun in Leo and Libra rising, something like that.Đây là một vấn đề thú vị liên quan đến Sư Tử và Thiên Bình. Mặt Trời của chủ nghĩa tự tôn “tử” trong Thiên Bình và chỉnh sửa phản ứng kiêu ngạo của Sư Tử ở giai đoạn đầu. Về sau, Sư Tử có thể trở thành nguồn gốc của điều mà Chân sư DK gọi là “những đỉnh cao phụng sự.” Những đỉnh cao phụng sự này đạt được ở Sư Tử và Bảo Bình. Nhưng ban đầu, chủ nghĩa tự tôn là một vấn đề, và Mặt Trời đại diện cho phàm ngã, “tử” vào Thiên Bình nơi mang lại cảm giác cân xứng. Chân sư DK đã thảo luận thú vị về sự đảo ngược bánh xe và các chỉ dẫn chiêm tinh cho thấy khả năng này, với Sư Tử và Thiên Bình tham gia trong lá số. Có thể Mặt Trời ở Sư Tử và Thiên Bình là cung mọc, điều gì đó tương tự.
That would help with the reversing of the direction of the energy so that they do not emphasize the personality. The real meaning of the reversed wheel has to do with the direction and elevation of energy currents within the etheric body of man or of any system in which that reversal has to occur. Điều này sẽ hỗ trợ sự đảo ngược hướng đi của năng lượng để không nhấn mạnh vào phàm ngã. Ý nghĩa thực sự của sự đảo ngược bánh xe liên quan đến hướng đi và sự nâng cao của dòng năng lượng trong thể dĩ thái của con người hoặc bất kỳ hệ thống nào mà sự đảo ngược đó phải xảy ra. 
With old and tried disciples, the contacts are more frequent, being more easily achieved and bearing more rapid results.Với những đệ tử lâu năm và đã được thử thách, các lần tiếp xúc thường xuyên hơn, dễ đạt được hơn và mang lại kết quả nhanh chóng hơn.
But the disciple doesn’t want to take the Master’s time. The old and tried disciple does not want to bother the Master with his own relatively unimportant problems. So, even though it’s easier to get through, as every effort made to avoid importuning the Master over much, just as DK tells us to avoid importuning our Solar Angel over much, as it has its own required duties regarding higher telepathy and such things.Tuy nhiên, người đệ tử không muốn làm phiền thời gian của Chân Sư. Những đệ tử lâu năm và đã trải qua thử thách không muốn làm phiền Chân Sư với các vấn đề tương đối không quan trọng của mình. Vì vậy, mặc dù dễ dàng tiếp cận hơn, họ cố gắng tránh làm phiền Chân Sư quá nhiều, giống như Chân sư DK khuyên chúng ta nên tránh làm phiền Thái Dương Thiên Thần của mình quá nhiều, bởi vì Ngài có những nhiệm vụ riêng cần thiết liên quan đến viễn cảm cao cấp và những việc khác. 
It should be remembered, however, that the newer the disciple the more he demands attention and considers he should have it. Tuy nhiên, cần nhớ rằng đệ tử càng mới, y càng đòi hỏi sự chú ý và cho rằng mình nên được quan tâm.
I don’t know somehow to me this an undercurrent of dry humor in all this, unless it’s because I could just say to myself ‘this I have seen’.Không biết sao, tôi cảm thấy có một chút hài hước khô khan trong tất cả những điều này, hay có lẽ vì tôi có thể tự nhủ: “Điều này tôi đã từng thấy.” 
The old and more experienced servers seek to fulfil their obligations and carry forward their work with as little contact with the Masters as possible. Những người phụng sự lâu năm và giàu kinh nghiệm hơn tìm cách hoàn thành nghĩa vụ của họ và tiếp tục công việc của mình với ít tiếp xúc với các Chân sư nhất có thể.
I remember it taught me a lesson in retrospect. I was pretty good in math and in geometry and things like that, but somehow I thought that it was a good thing to come in early to talk to the teacher, who always made herself available at an early hour for students who had difficulty with this or that.  I wasn’t having difficulty. I just showed up and liked talking to the teacher. And now I realize, well, I hope I wasn’t blocking out others who needed the help more than I did, but I guess my motive could have been better. Thinking back in those days, she was a really good teacher of geometry. That’s the second ray type of mathematics, especially the great geometrician or the grand geometrician. Tôi nhớ điều này đã dạy tôi một Bài học trong hồi tưởng. Tôi khá giỏi toán học và hình học, nhưng bằng cách nào đó tôi nghĩ rằng thật tốt khi đến sớm để nói chuyện với giáo viên, người luôn sẵn sàng vào giờ sớm cho những học sinh gặp khó khăn với môn học này hoặc môn học kia. Tôi không gặp khó khăn, tôi chỉ xuất hiện và thích nói chuyện với cô giáo. Và bây giờ tôi nhận ra, ừm, tôi hy vọng mình không làm phiền người khác, những người cần sự giúp đỡ nhiều hơn tôi, nhưng có lẽ động cơ của tôi có thể tốt hơn. Nhớ lại những ngày đó, cô ấy thực sự là một giáo viên hình học rất giỏi. Đó là kiểu toán học thuộc cung hai, đặc biệt là nhà hình học vĩ đại hoặc đại hình học gia. 
They seek to save the Master’s time and frequently consider an interview with the Master as demonstrating failure on their part, and producing, therefore, regret that they have had to take the Master’s precious time and force Him to use His energy in order to safeguard the work from error and the disciple perhaps from harm. Họ cố gắng tiết kiệm thời gian của Chân sư và thường coi một buổi gặp gỡ với Chân sư là dấu hiệu cho thấy sự thất bại của bản thân, và do đó cảm thấy hối tiếc vì đã phải lấy đi thời gian quý báu của Ngài, buộc Ngài phải sử dụng năng lượng của mình để đảm bảo công việc không bị sai sót và bảo vệ đệ tử khỏi những nguy hại có thể xảy ra.
Well, as I was saying, it’s a different attitude, isn’t it? It’s not a selfish attitude at all. It’s one that sees the work in a greater perspective. Như tôi đã nói, đây là một thái độ khác biệt, đúng không? Nó hoàn toàn không phải là một thái độ ích kỷ. Đó là một thái độ nhìn nhận công việc trong một viễn cảnh lớn hơn. 
The aim of every high disciple is to carry out his work and be en rapport with the spiritual force centre which is his group Mục tiêu của mọi đệ tử cao cấp là thực hiện công việc của mình và hòa hợp với trung tâm năng lượng tinh thần là nhóm của y,
Or let’s say here, his AshramHoặc, trong trường hợp này, là Ashram của mình, 
…and thus in steady touch with the Master, without interviews and phenomenal contacts. … từ đó duy trì sự kết nối ổn định với Chân sư mà không cần đến các buổi gặp gỡ hay tiếp xúc mang tính hiện tượng.
I suppose something like this, an interview is confirmation, but it also is time-consuming. So this is interesting isn’t it rather changes our attitudes regarding contact with a master. Tôi cho rằng điều này giống như thế này: một buổi gặp mặt là một sự xác nhận, nhưng nó cũng tốn thời gian. Điều này thật thú vị, đúng không? Nó thực sự thay đổi thái độ của chúng ta về việc liên hệ với một Chân Sư. 
Many only expect to contact their Master once a year, usually at the time of the full moon in May. Nhiều người chỉ mong chờ tiếp xúc với Chân sư một lần mỗi năm, thường vào thời điểm trăng tròn tháng Năm.
This is a big occult hint about when it is more legitimate to contact the Master and not importune overly much. So here we go, strong hints here and really as the Buddha said in His last sermon, and I repeat it often, don’t I? In His last sermon, something we all have to understand, rely upon you’re your Self, because the Self is not the personal self, that’s not the one to be relied upon, although it does have abilities which can be used, but the higher Self, which has the answers, and which can direct. The higher self has the answers and can direct the personality. So, it’s pretty down-to-earth, isn’t it? The Buddha tells us to rely upon ourselves, and it’s a good sign, I’m sure. When the Masters see that happening, it’s a good sign. They consider it a good sign, because we’re getting one more disciple who can stand on his own two feet. Đây là một gợi ý huyền linh quan trọng về thời điểm hợp lý để tiếp xúc với Chân Sư mà không làm phiền quá mức. Như vậy, ở đây có những gợi ý mạnh mẽ, và thật sự, như Đức Phật đã nói trong Bài giảng cuối cùng của Ngài, điều mà tôi thường lặp lại. Trong Bài giảng cuối cùng, một điều mà tất cả chúng ta phải hiểu: hãy dựa vào chính Bản Thân của bạn, vì Bản Thân đó không phải là phàm ngã. Đó không phải là điều để dựa vào, mặc dù nó có những khả năng có thể được sử dụng, nhưng chính là Chân Ngã cao siêu, cái có các câu trả lời và có thể dẫn dắt phàm ngã. Vậy thì điều này khá thực tế, đúng không? Đức Phật nói rằng hãy dựa vào chính mình, và tôi chắc chắn rằng đó là một dấu hiệu tốt. Khi các Chân Sư thấy điều đó xảy ra, các Ngài xem đó là một dấu hiệu tốt, vì chúng ta có thêm một đệ tử nữa có thể đứng vững trên đôi chân của mình. 
0:52:50 Then more, point f, about the relationship of a Master to his disciple.0:52:50 Và tiếp tục, điểm f, nói về mối quan hệ giữa một Chân Sư và đệ tử của Ngài. 
[1e] 
f. He finds also that the relationship between Master and disciple is governed by law and that there are definite stages of contact and grades in the desired rapport. These can be enumerated, but cannot be enlarged upon. TWM 172f. Y cũng nhận thấy rằng mối quan hệ giữa Chân Sư và đệ tử bị chi phối bởi định luật và có những giai đoạn tiếp xúc và cấp bậc nhất định trong mối quan hệ mong muốn. Những điều này có thể được liệt kê, nhưng không thể được mở rộng.
f. He finds also that the relationship between Master and disciple is governed by law and that there are definite stages of contact and grades in the desired rapport. f. Y cũng nhận thấy rằng mối quan hệ giữa Chân Sư và đệ tử bị chi phối bởi định luật và có những giai đoạn tiếp xúc và cấp bậc nhất định trong mối quan hệ mong muốn. Những điều này có thể được liệt kê, nhưng không thể được mở rộng.
We learn somehow about that when we’re given the instruction in Discipleship in the New Age, I think it’s volume 2, about how to approach the Ashram and what are the different stages of approach.Chúng ta học được điều này qua các chỉ dẫn trong Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới, tôi nghĩ là ở tập 2, về cách tiếp cận Ashram và các giai đoạn khác nhau của sự tiếp cận. 
These can be enumerated, but cannot be enlarged upon.Những điều này có thể được liệt kê, nhưng không thể được mở rộng.
Does He do that? Yeah, He kind of does that and the enumeration in DINA, I think it is Volume II, is also very important. Chân Sư có làm điều đó không? Vâng, Ngài đã làm điều đó, và sự liệt kê trong DINA, tôi nghĩ ở tập 2, cũng rất quan trọng[2]
So, here, are the it’s the stage of the withdrawing alcove. the stage of the awakening urge, the stage of advance, the stage of leaving each pillar behind his shadow, the stage of the withdrawing alcove the stage which is given the name the right of entry these five stages … so note in DINA volume II, pages 632 to 635 looks like, we have the stages of approach into the Ashram. I suppose that this material which is fairly advanced material should be also discussed in relationship in relationship to what’s given here.Ở đây có những giai đoạn như: giai đoạn của hốc rút lui, giai đoạn của sự thức tỉnh thúc đẩy, giai đoạn tiến lên, giai đoạn để lại mỗi cột trụ sau lưng bóng của nó, giai đoạn của hốc rút lui, và giai đoạn được gọi là quyền được vào. Những giai đoạn này… theo DINA tập II, các trang 632 đến 635, có vẻ như đã trình bày các giai đoạn tiếp cận Ashram. Tôi cho rằng tài liệu này, vốn là tài liệu khá cao cấp, cũng nên được thảo luận trong mối quan hệ với những gì được trình Bày ở đây. 
Well I think the approach the symbolic approach given in DINA II is important to study, but here are the stages of discipleship which are really stages of entry into the Ashram. Tôi nghĩ rằng cách tiếp cận mang tính biểu tượng được trình bày trong DINA II rất quan trọng để nghiên cứu, nhưng ở đây là các giai đoạn của Đường Đạo, thực chất là các giai đoạn của việc bước vào Ashram. 
So I’m just going to sort of mention these and then we’ll take them up in the next program.Vì vậy, tôi sẽ chỉ đề cập nhanh đến chúng, và sau đó chúng ta sẽ đi sâu hơn trong chương trình tiếp theo. 
These are the six stages of discipleship and corresponds to deeper and deeper entry into the Ashram. Đây là sáu giai đoạn của Đường Đạo, tương ứng với việc đi sâu hơn vào Ashram.
He does enlarge upon them elsewhere, interestingly enough, and these are stages of rapport with the Master, an accepted disciple is in touch with the Master, and a line of direct connection exists. Just to mention these:Ngài mở rộng thêm về chúng ở nơi khác, điều này khá thú vị. Và đây là các giai đoạn hòa hợp với Chân Sư, trong đó đệ tử được chấp nhận tiếp xúc với Chân Sư, và một đường kết nối trực tiếp tồn tại. Chúng ta chỉ cần nhắc qua: 
[1f] 
1. The stage wherein a disciple is contacted by the Master through another chela on the physical plane. This is the stage of “Little Chelaship”.1. Giai đoạn mà đệ tử được Chân Sư liên lạc thông qua một đệ tử khác trên cõi vật lý. Đây là giai đoạn “Tiểu Đệ Tử ”.
2. The stage wherein a higher disciple directs the chela from the egoic level. This is the stage called a “Chela in the Light”.2. Giai đoạn mà một đệ tử cao hơn hướng dẫn đệ tử từ cõi Chân ngã. Đây là giai đoạn được gọi là “Đệ Tử trong Ánh Sáng”.
3. The stage wherein, according to necessity, the Master contacts the chela through:3. Giai đoạn mà, tùy theo nhu cầu, Chân Sư liên lạc với đệ tử thông qua:
a. A vivid dream experience.a. Trải nghiệm giấc mơ sống động.
b. A symbolic teaching.b. Giáo lý mang tính biểu tượng.
c. A using of a thought form of the Master.c. Sử dụng hình tư tưởng của Chân Sư.
d. A contact in meditation.d. Tiếp xúc trong sự tham thiền.
e. A definite, remembered interview in the Master’s Ashram. This is definitely the stage of Accepted Disciple.e. Cuộc gặp gỡ nhất định, đáng nhớ trong Ashram của Chân Sư. Đây chắc chắn là giai đoạn của Đệ Tử Được Chấp Nhận.
4. The stage wherein, having shown his wisdom in work, and his appreciation of the Master’s problem, the disciple is taught how (in emergencies) to attract the Master’s attention and thus draw on His strength and knowledge and advice. This is an instantaneous happening, and practically takes none of the Master’s time. This stage has the peculiar name of “a chela on the Thread, or Sutratma.”4. Giai đoạn mà, sau khi thể hiện sự thông thái của mình trong công việc và sự đánh giá cao vấn đề của Chân Sư, đệ tử được dạy cách (trong trường hợp khẩn cấp) thu hút sự chú ý của Chân Sư và do đó tận dụng sức mạnh, kiến thức và lời khuyên của Ngài. Đây là một sự kiện tức thời, và thực tế không chiếm thời gian của Chân Sư. Giai đoạn này có tên gọi đặc biệt là “đệ tử trên Sinh Mệnh Tuyến, hay Sutratma.”
5. The stage wherein he is permitted to know the method whereby he may set up a vibration and a call which will entitle him to an interview with the Master. This is only permitted to those trusted chelas who can be depended upon not to use the knowledge for anything except the need of the work; no personality reason or distress would prompt them to use it. At this stage the disciple is called “one within the aura.”5. Giai đoạn mà y được phép biết phương pháp mà y có thể thiết lập rung động và lời kêu gọi sẽ cho phép y được gặp gỡ Chân Sư. Điều này chỉ được phép đối với những đệ tử đáng tin cậy, những người có thể tin tưởng rằng sẽ không sử dụng kiến thức cho bất cứ điều gì ngoại trừ nhu cầu của công việc; không có lý do cá nhân hay đau khổ nào sẽ thúc đẩy họ sử dụng nó. Ở giai đoạn này, đệ tử được gọi là “người trong hào quang”.
6. The stage wherein the disciple can get his Master’s ear at any time. He is in close touch always. This is the stage wherein a chela is being definitely prepared for an immediate initiation or, having taken initiation, is being given specialised work to do in collaboration with his ——. At this stage he is described as “one within his Master’s heart.” TWM 172-1736. Giai đoạn mà đệ tử có thể tiếp cận được Chân Sư của mình bất cứ lúc nào. Y luôn liên lạc chặt chẽ. Đây là giai đoạn mà đệ tử chắc chắn đang được chuẩn bị cho một sự điểm đạo ngay lập tức hoặc, sau khi đã điểm đạo, được giao công việc chuyên môn để làm trong sự hợp tác với —— của y. Ở giai đoạn này, y được mô tả là “người trong trái tim của Chân Sư mình”.
1. The stage wherein a disciple is contacted by the Master through another chela on the physical plane. This is the stage of “Little Chelaship”. 1. Giai đoạn mà đệ tử được Chân Sư liên lạc thông qua một đệ tử khác trên cõi vật lý. Đây là giai đoạn “Tiểu Đệ Tử ”.
It is connected with the first initiation.Nó có liên quan đến lần điểm đạo thứ nhất.
2. The stage wherein a higher disciple directs the chela from the egoic level. 2. Giai đoạn mà một đệ tử cao hơn hướng dẫn đệ tử từ cõi Chân ngã.
The egoic level of the higher mental plane and Mức độ Chân Ngã thuộc cõi thượng trí. 
This is the stage called a “Chela in the Light”. Đây là giai đoạn được gọi là “Đệ Tử trong Ánh Sáng”.
0:57:30 and then here are the five confirmations five confirmations of accepted discipleshipVà sau đây là năm sự xác nhận của giai đoạn đệ tử được chấp nhận.
3. The stage wherein, according to necessity, the Master contacts the chela through:3. Giai đoạn mà, tùy theo nhu cầu, Chân Sư liên lạc với đệ tử thông qua:
a. A vivid dream experience.a. Trải nghiệm giấc mơ sống động.
b. A symbolic teaching.b. Giáo lý mang tính biểu tượng.
c. A using of a thought form of the Master.c. Sử dụng hình tư tưởng của Chân Sư.
d. A contact in meditation.d. Tiếp xúc trong sự tham thiền.
e. A definite, remembered interview in the Master’s Ashram. This is definitely the stage of Accepted Disciple. e. Cuộc gặp gỡ nhất định, đáng nhớ trong Ashram của Chân Sư.
This last one is definitely the stage of accepted discipleship as a matter of fact. I’ll read this habit then we will go over it next timeGiai đoạn cuối cùng này chắc chắn là giai đoạn của “Đệ tử Được Chấp Nhận.” 
4. The stage wherein, having shown his wisdom in work, and his appreciation of the Master’s problem, the disciple is taught how (in emergencies) to attract the Master’s attention and thus draw on His strength and knowledge and advice. This is an instantaneous happening, and practically takes none of the Master’s time. This stage has the peculiar name of “a chela on the Thread, or Sutratma.” 4. Giai đoạn mà, sau khi thể hiện sự thông thái của mình trong công việc và sự đánh giá cao vấn đề của Chân Sư, đệ tử được dạy cách (trong trường hợp khẩn cấp) thu hút sự chú ý của Chân Sư và do đó tận dụng sức mạnh, kiến thức và lời khuyên của Ngài. Đây là một sự kiện tức thời, và thực tế không chiếm thời gian của Chân Sư. Giai đoạn này có tên gọi đặc biệt là “đệ tử trên Sinh Mệnh Tuyến, hay Sutratma.”
I guess there’s more to the thread then the sutratma, but it’s a triple thread but still a chela on the thread.Tôi đoán rằng có nhiều điều liên quan đến sợi dây này hơn chỉ là sutratma, bởi đó là một sợi dây tam phân nhưng vẫn là một đệ tử trên đường dây.
5. The stage wherein he is permitted to know the method whereby he may set up a vibration and a call which will entitle him to an interview with the Master. This is only permitted to those trusted chelas who can be depended upon not to use the knowledge for anything except the need of the work; no personality reason or distress would prompt them to use it. At this stage the disciple is called “one within the aura.”5. Giai đoạn mà y được phép biết phương pháp mà y có thể thiết lập rung động và lời kêu gọi sẽ cho phép y được gặp gỡ Chân Sư. Điều này chỉ được phép đối với những đệ tử đáng tin cậy, những người có thể tin tưởng rằng sẽ không sử dụng kiến thức cho bất cứ điều gì ngoại trừ nhu cầu của công việc; không có lý do cá nhân hay đau khổ nào sẽ thúc đẩy họ sử dụng nó. Ở giai đoạn này, đệ tử được gọi là “người trong hào quang”.
6. The stage wherein the disciple can get his Master’s ear at any time. He is in close touch always. This is the stage wherein a chela is being definitely prepared for an immediate initiation or, having taken initiation, is being given specialised work to do in collaboration with his — 6. Giai đoạn mà đệ tử có thể tiếp cận được Chân Sư của mình bất cứ lúc nào. Y luôn liên lạc chặt chẽ. Đây là giai đoạn mà đệ tử chắc chắn đang được chuẩn bị cho một sự điểm đạo ngay lập tức hoặc, sau khi đã điểm đạo, được giao công việc chuyên môn để làm trong sự hợp tác với —— của y.
Well why is that blank is there a mistake here maybe a scrum master 
At this stage he is described as “one within his Master’s heart.” Ở giai đoạn này, y được mô tả là “người trong trái tim của Chân Sư mình”.
And the later stage comes, one of identification. Giai đoạn sau đó là giai đoạn đồng nhất hoá. 
I think the thing for us, having read these, is to say that this will be the end of A Treatise on White Magic video commentary number 39 and it’s 5.4 page 169. How far should we go? Let’s say 172 and then beginning of A Treatise on White Magic video commentary number 40, and we’re getting there, it will be 5.5 and we’ll start with 172 almost in the 173, and go on you just to look at this quickly documents and see exactly where we are yes and this we are finishing up with number 39 and 5.3.Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng đây là phần cuối của bình giảng video A Treatise on White Magic, số 39, từ trang 169, mục 5.4. Và chúng ta sẽ tiếp tục ở bình giảng video số 40, bắt đầu từ mục 5.5, trang 172, gần như sang trang 173. 
Well, I understand and see how Master DK sets down certain lists and tabulations and does not necessarily elaborate them at the moment but chooses a later time to elaborate them. Every one of these stages is elaborated in Dinah 1 at the end of the book, under the six stages of discipleship. Các bạn thân mến, Chân sư DK đã thiết lập các bảng phân loại và chỉ giải thích một cách ngắn gọn, chọn thời điểm sau này để mở rộng thêm. Mỗi giai đoạn này được giải thích chi tiết trong DINA I ở phần cuối sách, dưới tiêu đề “Sáu Giai Đoạn của Đường Đạo.” 
So we will move forward and continue to think about these things and apply them to our life of discipleship as much as that is possible for us.Chúng ta sẽ tiếp tục tiến lên và suy ngẫm về những điều này, áp dụng chúng vào cuộc sống trên Đường Đạo của mình ở mức độ có thể. 
Very best to all of you many blessings and we’ll see you before long. Xin gửi đến tất cả các bạn những lời chúc tốt đẹp nhất. Nhiều phước lành, và chúng ta sẽ sớm gặp lại. 

[1] These rays are the ones which have produced what is called the Prussian type of mind. Incidentally, this ray combination produced your karmic relationships in this life. Fortunately for you, your past immediate incarnation as a personality was overwhelmingly second ray and of this you brought over a second ray astral nature and a fourth ray mental equipment. Hence the balancing in two directions and hence also the general trend of your life conditioning. DINAII 646, thư gởi DPR

[2] Thư gởi đệ tử W. D. S, DINA II, 632-635

Leave a Comment

Scroll to Top