Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới I – Phần I

EXTRACT FROM A STATEMENT BY THE TIBETAN

TRÍCH MỘT BẢN TUYÊN BỐ CỦA CHÂN SƯ TÂY TẠNG

Suffice it to say, that I am a Tibetan disciple of a certain degree, and this tells you but little, for all are disciples from the humblest aspirant up to, and beyond, the Christ Himself. I live in a physical body like other men, on the borders of Tibet, and at times (from the exoteric standpoint) preside over a large group of Tibetan lamas, when my other duties permit. It is this fact that has caused it to be reported that I am an abbot of this particular lamasery. Those associated with me in the work of the Hierarchy (and all true disciples are associated in this work) know me by still another name and office. A.A.B. knows who I am and recognises me by two of my names.

Chỉ cần nói rằng tôi là một đệ tử người Tây Tạng thuộc một cấp bậc nhất định, và điều này chỉ nói cho các bạn biết rất ít, vì tất cả đều là đệ tử từ người chí nguyện khiêm nhường nhất cho đến, và vượt qua, chính Đức Christ. Tôi sống trong một thể xác hồng trần như những người khác, ở vùng biên viễn của Tây Tạng, và đôi khi (xét theo quan điểm công truyền) tôi chủ trì một nhóm lớn các Lạt-ma Tây Tạng, khi các bổn phận khác của tôi cho phép. Chính sự kiện này đã khiến người ta thuật lại rằng tôi là một viện trưởng của tu viện đặc thù này. Những người cộng tác với tôi trong công việc của Thánh Đoàn (và tất cả các đệ tử chân chính đều cộng tác trong công việc này) biết tôi bằng một tên gọi và một chức trách khác nữa. A.A.B. biết tôi là ai và nhận ra tôi bằng hai trong số các danh xưng của tôi.

I am a brother of yours, who has travelled a little longer upon the Path than has the average student, and has therefore incurred greater responsibilities. I am one who has wrestled and fought his way into a greater measure of light than has the aspirant who will read this article, and I must therefore act as a transmitter of the light, no matter what the cost. I am not an old man, as age counts among the teachers, yet I am not young or inexperienced. My work is to teach and spread the knowledge of the Ageless Wisdom wherever I can find a response, and I have been doing this for many years. I seek also to help the Master M. and the Master K.H. whenever opportunity offers, for I have been long connected with Them and with Their work. In all the above, I have told you much; yet at the same time I have told you nothing which would lead you to offer me that blind obedience and the foolish devotion which the emotional aspirant offers to the Guru and Master Whom he is as yet unable to contact. Nor will he make that desired contact until he has transmuted emotional devotion into unselfish service to humanity-not to the Master.

Tôi là một huynh đệ của các bạn, người đã đi trên Thánh Đạo lâu hơn đôi chút so với học viên trung bình, và do đó đã mang lấy những trách nhiệm lớn hơn. Tôi là người đã vật lộn và chiến đấu để đạt được một mức độ ánh sáng lớn hơn so với người chí nguyện sẽ đọc bài này, vì thế tôi phải đảm trách vai trò một kẻ truyền đạt ánh sáng, bất luận cái giá nào. Tôi không phải là một người già, nếu xét theo tuổi tác giữa các vị Huấn sư, tuy nhiên tôi cũng không trẻ hay thiếu kinh nghiệm. Công việc của tôi là giảng dạy và truyền bá tri thức về Minh Triết Ngàn Đời ở bất cứ nơi đâu tôi tìm được sự đáp ứng, và tôi đã làm điều ấy nhiều năm. Tôi cũng tìm cách trợ giúp Chân sư M. và Chân sư K.H. bất cứ khi nào có cơ hội, vì tôi đã lâu nay liên kết với Các Ngài và với công việc của Các Ngài. Trong tất cả những điều trên, tôi đã nói với các bạn rất nhiều; tuy nhiên đồng thời tôi cũng chưa nói điều gì có thể khiến các bạn dành cho tôi sự phục tùng mù quáng và lòng sùng tín dại dột mà người chí nguyện cảm xúc thường dâng cho vị Guru và Chân sư mà y vẫn chưa thể tiếp xúc. Và y sẽ không đạt được sự tiếp xúc mong muốn ấy cho đến khi y chuyển hóa sùng tín cảm xúc thành phụng sự vô ngã đối với nhân loại—chứ không phải đối với Chân sư.

The books that I have written are sent out with no claim for their acceptance. They may, or may not, be correct, true and useful. It is for you to ascertain their truth by right practice and by the exercise of the intuition. Neither I nor A.A.B. is the least interested in having them acclaimed as inspired writings, or in having anyone speak of them (with bated breath) as being the work of one of the Masters. If they present truth in such a way that it follows sequentially upon that already offered in the world teachings, if the information given raises the aspiration and the will-to-serve from the plane of the emotions to that of the mind (the plane whereon the Masters can be found) then they will have served their purpose. If the teaching conveyed calls forth a response from the illumined mind of the worker in the world, and brings a flashing forth of his intuition, then let that teaching be accepted. But not otherwise. If the statements meet with eventual corroboration, or are deemed true under the test of the Law of Correspondences, then that is well and good. But should this not be so, let not the student accept what is said.

Những quyển sách tôi đã viết được gửi ra mà không kèm bất kỳ đòi hỏi nào về việc phải được chấp nhận. Chúng có thể đúng, có thể không đúng, chân thực hay hữu ích. Việc xác chứng chân lý là ở nơi các bạn—bằng thực hành đúng đắn và bằng vận dụng trực giác. Cả tôi lẫn A.A.B. đều không hề quan tâm đến việc người ta tôn xưng chúng như trước tác được linh hứng, hoặc nói về chúng (với hơi thở nín lặng) như công trình của một trong các Chân sư. Nếu chúng trình bày chân lý theo cách tiếp nối hợp lẽ sau những điều đã được ban ra trong giáo huấn của thế giới, nếu thông tin được đưa ra nâng khát vọng và ý chí phụng sự từ bình diện cảm xúc lên bình diện thể trí (bình diện nơi các Chân sư có thể được tìm thấy) thì như vậy là chúng đã hoàn tất mục đích. Nếu giáo lý truyền đạt khơi dậy đáp ứng từ thể trí được soi sáng của người phụng sự trong thế gian và làm lóe sáng trực giác của y, thì hãy chấp nhận giáo lý ấy. Còn không thì đừng. Nếu các tuyên bố rốt cuộc được minh chứng, hoặc được xét là chân thật khi đem thử bằng Định luật Tương Ứng, thì điều đó thật tốt đẹp. Nhưng nếu không, thì học viên chớ chấp nhận điều đã nói.

August 1934

THÁNG TÁM 1934

THE GREAT INVOCATION

ĐẠI KHẤN NGUYỆN

From the point of Light within the Mind of God

Từ điểm Ánh Sáng trong Trí Thượng Đế

Let light stream forth into the minds of men.

Cầu xin ánh sáng tràn vào trí con người.

Let Light descend on Earth

Cầu xin Ánh Sáng giáng xuống trần gian

From the point of Love within the Heart of God

Từ điểm Tình Thương trong Tâm Thượng Đế

Let love stream forth into the hearts of men.

Cầu xin tình thương tràn vào tâm con người.

May Christ return to Earth.

Cầu xin Đức Christ trở lại Trần gian.

From the centre where the Will of God is known

Từ trung tâm nơi Ý Chí của Thượng Đế được biết

Let purpose guide the little wills of men—

Cầu xin Thiên Ý dẫn dắt ý chí nhỏ bé của con người—

The purpose which the Masters know and serve.

Thiên Ý mà các Chân sư biết và phụng sự.

From the centre which we call the race of men

Từ trung tâm mà chúng ta gọi là loài người

Let the Plan of Love and Light work out.

Cầu xin Thiên Cơ của Tình Thương và Ánh Sáng được thực thi.

And may it seal the door where evil dwells.

Cầu xin Thiên Cơ đóng kín cửa vào kẻ ác.

Let Light and Love and Power restore the Plan on Earth

Cầu xin Ánh Sáng, Tình Thương và Quyền Năng phục hồi Thiên Cơ trên Trần Gian

“The above Invocation or Prayer does not belong to any person or group but to all Humanity. The beauty and the strength of this Invocation lies in its simplicity, and in its expression of certain central truths which all men, innately and normally, accept—the truth of the existence of a basic Intelligence to Whom we vaguely give the name of God; the truth that behind all outer seeming, the motivating power of the universe is Love; the truth that a great Individuality came to earth, called by Christians, the Christ, and embodied that love so that we could understand; the truth that both love and intelligence are effects of what is called the Will of God; and finally the self-evident truth that only through humanity itself can the Divine Plan work out.”

“Lời Khẩn Nguyện hay Cầu Nguyện trên đây không thuộc về bất kỳ cá nhân hay nhóm nào mà thuộc về toàn thể nhân loại. Vẻ đẹp và sức mạnh của lời Khấn Nguyện này nằm ở sự giản dị của nó, và ở cách nó diễn đạt những chân lý trung tâm mà tất cả con người, một cách bẩm sinh và tự nhiên, đều chấp nhận—chân lý về sự tồn tại của một Trí Tuệ Căn Bản mà ta mơ hồ gọi là Thượng Đế; chân lý rằng đằng sau mọi vẻ bề ngoài bên ngoài, quyền năng thúc đẩy vũ trụ là Tình Thương; chân lý rằng có một Vị Vĩ Nhân đã đến trần gian, được các tín đồ Kitô giáo gọi là Đức Christ, và Ngài đã hiện thân Tình Thương ấy để chúng ta có thể hiểu; chân lý rằng cả tình thương lẫn trí tuệ đều là những hiệu quả của cái được gọi là Ý Chí của Thượng Đế; và cuối cùng là chân lý hiển nhiên rằng chỉ thông qua chính nhân loại thì Thiên Cơ mới có thể được hoàn tất.”

Alice A Bailey

ALICE A BAILEY

FOREWORD

LỜI NÓI ĐẦU

[ix]

This book is in many ways unique. Nothing like it has before been published, as far as I know. It contains two series of talks by one of the Masters of the Wisdom to some members of His inner group, and also a series of personal instructions, given by Him to a group of His disciples. Many of these people were unknown to me when they were brought to my notice; some of them I have since met; others I have never met; some I knew well and could understand why they had been chosen, knowing that their dedication to the life of the spirit and their love of humanity warranted the choice; one or two were regarded by me as most unsuitable choices but later I altered my point of view and recognised that a wiser mind than mine was responsible for their inclusion in the Ashram. I learnt also that ancient relationships, established in other lives, were also conditioning factors and that some had earned the right to inclusion, even if their spiritual attainments seemed inadequate to the onlooker.

Quyển sách này theo nhiều phương diện là độc nhất. Theo tôi biết, chưa từng có sách nào như thế được xuất bản. Nó gồm hai loạt nói chuyện của một trong các Chân sư Minh Triết cho vài thành viên thuộc nhóm nội môn của Ngài, và cũng gồm một loạt huấn thị cá nhân Ngài ban cho một nhóm đệ tử của Ngài. Nhiều người trong số ấy tôi không hề biết khi họ được đưa vào sự chú ý của tôi; một số người về sau tôi đã gặp; những người khác thì tôi chưa hề gặp; có người tôi biết rõ và có thể hiểu tại sao họ được chọn, biết rằng lòng hiến dâng cho đời sống tinh thần và tình thương nhân loại của họ bảo chứng cho sự chọn lựa ấy; một hai người bị tôi xem là lựa chọn rất không thích đáng, nhưng về sau tôi thay đổi quan điểm và nhận ra rằng có một trí tuệ khôn ngoan hơn trí tôi chịu trách nhiệm về sự thu nhận họ vào Ashram. Tôi cũng học được rằng những mối liên hệ cổ xưa, được thiết lập trong các kiếp khác, cũng là yếu tố chi phối và rằng có người đã giành được quyền được thu nhận, dẫu thành tựu tinh thần của họ dường như chưa tương xứng dưới mắt người quan sát.

A good deal of the teaching given is new in form and some of it is new in fact. One point emerges with clarity and that is: the old rules to which disciples have been subjected down the centuries still hold good, but are susceptible of fresh and often different interpretations. The training to be given during the coming New Age will be fitted to their more advanced development. The evolutionary progress—from century to century—presents a steadily ripening and developing human mind upon which the Master can work. The standard of discipleship is consequently as steadily rising. This, in itself, demands a new approach, a wider presentation of truth and the permitting of a greater freedom of action upon the part of the disciple. The time element is also different. In the old days, the Master gave His disciple a hint or a point upon which to ponder and meditate or He might indicate some need for changed habits of thought. Then the disciple went away—[x] sometimes for years or an entire lifetime—and reflected and thought and attempted to alter his attitudes without any particular sense of pressure. Today, in our speedier times and when the demand of humanity for help is so outstanding, the hint has given place to explanation and the disciple is trusted with information, hitherto withheld. He is regarded as having reached a stage in his unfoldment at which he can make his own decisions and proceed with rapidity, if he so chooses.

Một phần đáng kể giáo huấn được ban là mới về hình thức và có phần mới về thực chất. Một điểm nổi bật hiện ra rõ ràng là: những quy luật cũ mà đệ tử phải tuân theo qua nhiều thế kỷ vẫn còn hiệu lực, nhưng có thể được giải thích mới mẻ và nhiều khi khác trước. Sự huấn luyện sẽ ban trong Thời Đại Mới sắp tới sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với trình độ phát triển cao hơn của họ. Tiến trình tiến hóa—từ thế kỷ này sang thế kỷ khác—trình hiện một thể trí nhân loại chín muồi và phát triển đều đặn hơn, trên đó Chân sư có thể làm việc. Do đó, tiêu chuẩn của Địa vị đệ tử cũng đều đặn tăng lên. Điều này, tự thân nó, đòi hỏi một cách tiếp cận mới, một trình bày rộng rãi hơn về chân lý và cho phép trên phần của đệ tử một tự do hành động lớn hơn. Yếu tố thời gian cũng đã khác. Ngày trước, Chân sư ban cho đệ tử một ám chỉ hay một điểm để suy tư và tham thiền, hoặc Ngài có thể nêu một nhu cầu cần đổi thay những tập quán tư tưởng. Khi ấy đệ tử ra đi—[x] đôi khi nhiều năm, thậm chí trọn đời—để suy gẫm, tư duy và cố gắng cải biến thái độ mà không có cảm giác bị thúc bách nào. Ngày nay, trong thời buổi mau lẹ hơn và khi lời thỉnh cầu cứu trợ của nhân loại nổi bật như thế, ám chỉ đã nhường chỗ cho giải thích, và đệ tử được tín nhiệm trao cho những thông tin vốn trước đây bị giữ kín. Y được xem như đã đến một giai đoạn trong sự khai mở ở đó y có thể tự quyết và tiến nhanh, nếu y chọn như vậy.

Certain definite reasons have prompted me to make these instructions available for aspirants everywhere after requesting permission from those who received them. One is the need to bring to the attention of the general public the fact that the Hierarchy exists, that its Members are interested in human progress and that there is a definitely planned system of training offered by Them which can lead a man out of the human kingdom into the Kingdom of God; that this moving forward upon the Path of Evolution out of the fourth kingdom into the fifth can be brought about consciously, scientifically and with the full consent and cooperation of the aspirant. The day has now come when belief can (and does) give place to knowledge—a knowledge gained through the acceptance of a hypothesis in the first place, a conviction that this hypothesis is backed by adequate testimony and planned experience. The reasoning mind of the disciple can then take the successes and failures he encounters in his training and learn the intended lessons; he finds that progress upon the Path brings a man into closer, conscious touch with Those Who have walked this Way before and that the Way into the Hierarchy is a way of discipline, of increasing enlightenment, of service to his fellowmen and of a growing responsiveness to contacts and to individuals of which the average human being knows nothing.

Có những lý do dứt khoát đã thúc đẩy tôi công bố các huấn thị này cho những người chí nguyện khắp nơi sau khi xin phép những người đã nhận chúng. Một là nhu cầu đưa ra trước công chúng sự kiện rằng Thánh Đoàn tồn tại, rằng Các Thành Viên của Thánh Đoàn quan tâm tới tiến bộ của nhân loại và rằng có một hệ thống huấn luyện được hoạch định rõ ràng do Các Ngài cung hiến, có thể đưa con người ra khỏi giới nhân loại vào Thiên Giới; rằng sự tiến bước trên Thánh Đạo Tiến Hóa, từ giới thứ tư vào giới thứ năm, có thể được thực hiện một cách tự giác, khoa học và với sự ưng thuận đầy đủ cùng hợp tác của người chí nguyện. Ngày nay đã điểm khi niềm tin có thể (và thực sự) nhường chỗ cho tri thức—một tri thức ban đầu có được bằng việc chấp nhận một giả thuyết, rồi xác tín rằng giả thuyết ấy được hậu chứng bằng lời chứng đủ đầy và kinh nghiệm có hoạch định. Trí tuệ lý tính của đệ tử khi ấy có thể đem những thành công và thất bại y gặp trong huấn luyện mà học những bài học được định ý; y nhận ra rằng tiến bộ trên Đạo đưa con người vào tiếp xúc gần gũi hơn, tự giác hơn với Những Đấng đã đi Con Đường này trước, và rằng Đường vào Thánh Đoàn là con đường kỷ luật, giác ngộ tăng tiến, phụng sự đồng loại và một đáp ứng ngày càng lớn với các tiếp xúc và với những cá nhân mà người thường không hề hay biết.

A second reason for publishing this book is the need to change the point of view of the general public as to the nature of these Masters Who take pupils and Who, whilst giving them the training needed to enable them to take initiation (as it is called), reach the mass of men through their means. So much stupidity has been demonstrated in writing and talking about the relationship of Master and disciple that it was felt both by [xi] me and this group of disciples that the sanity, the breadth of vision, the lack of authority, and the understanding evidenced by a Member of the Hierarchy could do nothing but good. We found also that He was quite ready for His instructions to be made public.

Lý do thứ hai để xuất bản sách này là nhu cầu đổi thay quan điểm của công chúng về bản chất của các Chân sư—Những Đấng thu nhận môn sinh và, đồng thời trong khi ban sự huấn luyện cần thiết để họ có thể thọ điểm đạo (như người ta gọi), tiếp cận quần chúng qua trung gian của họ. Đã có quá nhiều điều khờ dại được phơi bày trong những điều viết và nói về mối liên hệ giữa Chân sư và đệ tử đến nỗi cả [xi] tôi và nhóm đệ tử này đều cảm thấy rằng sự sáng suốt, tầm nhìn bao quát, sự vắng bóng uy quyền giáo điều và sự thấu hiểu mà một Thành Viên của Thánh Đoàn cho thấy hẳn chỉ mang lại điều thiện. Chúng tôi cũng thấy rằng Ngài hoàn toàn sẵn lòng để các huấn thị của Ngài được công bố.

A third reason was the desire to make clear a point which is continually emphasised by the Tibetan as it is by all Masters and which is of major importance to every aspirant. Only those who are beginning to come under the influence and the control of their own souls and are, therefore, mentally focussed and attuned, are eligible for the training offered by the Hierarchy. Devotion, emotional reactions and sentiment are not enough. Esoteric training is also an impersonal matter; it is concerned with the development of soul consciousness and with the expansion of that consciousness to include, and not exclude, all forms of life through which pulses the life and love of God. The true disciple is ever inclusive and never exclusive. It is this inclusiveness which is the hallmark of all true esotericists. Where it is lacking you may have an aspirant but you do not have a true disciple. There is far too much exclusiveness extant today among esotericists and in occult schools and too much theological separativeness. It has been felt that this Book of Instructions may do much to offset this evil tendency and may help to open the door still wider into the Kingdom of God.

Lý do thứ ba là mong muốn làm rõ một điểm mà Chân sư Tây Tạng cũng như mọi Chân sư đều liên tục nhấn mạnh, và điều ấy có tầm quan trọng chủ yếu đối với mọi chí nguyện sinh. Chỉ những ai bắt đầu chịu ảnh hưởng và kiểm soát của chính linh hồn mình và, do đó, được tập trung và hòa điệu bằng thể trí, mới đủ tư cách nhận sự huấn luyện do Thánh Đoàn cung hiến. Lòng sùng tín, phản ứng cảm xúc và tình cảm là không đủ. Huấn luyện huyền bí cũng là một việc phi cá nhân; nó liên quan tới sự phát triển tâm thức linh hồn và tới sự mở rộng tâm thức ấy để bao gồm, chứ không loại trừ, mọi hình thức sống mà trong đó sự sống và tình thương của Thượng Đế đang lưu chuyển. Đệ tử chân chính bao giờ cũng mang tính bao gồm, không bao giờ loại trừ. Chính tính bao gồm này là dấu ấn của mọi nhà huyền bí học chân chính. Nơi nào nó thiếu vắng, nơi ấy bạn có thể có một người chí nguyện nhưng không có một đệ tử thật sự. Hiện thời có quá nhiều tính loại trừ đang tồn tại giữa các nhà huyền bí học và trong các trường huyền môn, và quá nhiều chia rẽ thần học. Sách Huấn Thị này được kỳ vọng sẽ góp phần hóa giải khuynh hướng sai lạc đó và giúp mở toang hơn nữa cánh cửa vào Thiên Giới.

Much in this book is new. Much is very old, tried and proved. None of the people chosen for instruction and for inclusion in the Ashram of the Master are saints or perfect. All are, however, true aspirants and will go on to the very end in spite of pain and sorrow, discipline, success, failure, joy and a spiritual recognition of almost unattainable goals. Some have been on this Path of Accepted Discipleship (technically understood) for many lives. Some are venturing for the first time—consciously and with deliberate effort—to tread the Way to God. All are mystics, learning to be occultists. All are normal people, living useful, modern lives in many different countries in the world. Some are orthodox Protestant Christians by profession; others are Roman Catholics; still others are Christian Scientists or belong to one or other of the more mental cults; [xii] some are quite unattached and free from affiliations. None of them regards his particular brand of faith or his particular religious background as essential to salvation; he knows that the only essential is belief in the spiritual realities and in the essential divinity of mankind. This belief necessarily involves a heart full of love, a mind open and illumined by right orientation to truth and a life dedicated to service and to the alleviation of human sufferings. This is the determined goal of all whose instructions are found in this book—a goal which they have not yet attained and a mode of life which they have not yet perfected. They are, nevertheless, unalterably upon their way and that way is the WAY. Christ said “I am the Way, the Truth and the Life”; these aspirants, working under a great Disciple of the Christ, are beginning to grasp some of the significances and implications of that statement which holds true for all time and for all disciples, because “as He is, so are we in this world.”

Nhiều điều trong sách này là mới. Nhiều điều rất cũ, đã được thử và minh chứng. Không ai trong những người được chọn để nhận huấn thị và để được thu nhận vào Ashram của Chân sư là thánh nhân hay hoàn hảo. Tuy vậy, tất cả đều là các chí nguyện sinh chân thực và sẽ đi tới cùng bất chấp đau khổ và kỷ luật, thành công, thất bại, hân hoan và một sự nhận thức tinh thần về những mục tiêu gần như bất khả đạt. Có người đã đi trên Con Đường Đệ Tử Chính Thức (hiểu theo nghĩa kỹ thuật) qua nhiều kiếp. Có người lần đầu tiên—một cách tự giác và bằng nỗ lực có chủ ý—đặt chân lên Con Đường Trở Về cùng Thượng Đế. Tất cả đều là các nhà thần bí, đang học để trở thành các nhà huyền bí học. Tất cả đều là những người bình thường, sống đời sống hữu ích, hiện đại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Có người theo hệ phái Tin Lành chính thống; người khác là Công Giáo La Mã; lại có người là Tín hữu Khoa học Kitô giáo hoặc thuộc một trong các trào lưu có tính trí tuệ hơn; [xii] có người hoàn toàn không liên kết, tự do khỏi mọi ràng buộc. Không ai trong họ xem nhãn hiệu đức tin riêng hay nền tảng tôn giáo của mình là điều tất yếu để được cứu rỗi; y biết rằng điều tất yếu duy nhất là niềm tin vào các thực tại tinh thần và vào thiên tính cốt yếu của nhân loại. Niềm tin ấy tất yếu bao gồm một con tim đầy tình thương, một thể trí mở rộng và được soi sáng bởi định hướng đúng với chân lý, và một đời sống hiến dâng cho phụng sự và cho việc làm vơi khổ đau của con người. Đây là mục tiêu kiên định của tất cả những người có huấn thị được trình bày trong sách này—mục tiêu mà họ chưa đạt và một cách sống mà họ chưa hoàn thiện. Tuy vậy, họ kiên quyết không đổi trên Đường, và con đường ấy chính là ĐẠO. Đức Christ nói: “Ta là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống”; những chí nguyện sinh này, làm việc dưới quyền một Đại Đệ Tử của Đức Christ, đang bắt đầu nắm bắt vài ý nghĩa và hàm ý của lời tuyên cáo ấy—lời chân thật cho muôn thời và cho mọi đệ tử, vì “như Ngài thế nào, chúng ta cũng thế ấy trong thế gian này.”

The work with this particular group began twelve years ago. Each person’s instructions are given in their ordered sequence, year by year, so that a real picture of the person concerned, of his problems and his achievement or lack of achievement, emerges clearly. This book is encouraging in that it offsets the idea that to be a pledged disciple one is, therefore, set apart by perfection of character and isolated by the aspiration which inspires the life. These are people with problems, struggling to solve them; with character limitations which they are endeavouring to overcome; they are true instances of any man or woman who turns his back upon the usual approach to the world of material affairs and takes up his cross in order to find his way back to the Father’s home; they picture for us the man who, having “put his hand to the plough,” turns not back but presses forward “towards the prize of his high calling in Christ.”

Công việc với nhóm đặc thù này bắt đầu mười hai năm trước. Huấn thị của mỗi người được trình bày theo trật tự của chúng, năm nối năm, để hiện ra rõ ràng một bức tranh chân thực về người liên hệ, về các vấn đề của y và thành tựu hay thiếu thành tựu của y. Sách này mang tính khích lệ ở chỗ nó hóa giải quan niệm rằng hễ là một đệ tử đã phát nguyện thì bởi vậy mà được tách riêng do sự toàn hảo của tính cách và bị cô lập bởi khát vọng linh hứng đời sống. Đây là những con người có vấn đề, đang nỗ lực giải quyết; có các giới hạn tính cách mà họ cố gắng vượt qua; họ là những minh họa chân thực cho bất kỳ người nam hay người nữ nào quay lưng với lối tiếp cận thông thường đối với thế giới những sự vụ vật chất và “vác thập giá mình” để tìm đường trở về Nhà của Cha; họ phác họa cho chúng ta hình ảnh người mà, “đã đặt tay lên cày,” thì không ngoảnh lại nhưng “nhắm mục tiêu cao cả trong Đức Christ” mà tiến tới.

Some of these people have worked as students in the Arcane School; others have never done so; still others (when they heard of the school through their affiliation with the Tibetan) worked in it in order to help the students. Their names will not be divulged. The initials at the head of the various instructions and the dates assigned carry no information; the [xiii] instructions were probably not received on the dates given and the initials are none of them correct. No information will be given by any of us who know the relation between the initials and the disciple. Questions as to identity will not be answered at any time. It is the subject matter of the teaching which is of importance and not the name of the disciple for what is said is applicable to all aspirants.

Một số người trong họ đã học tập như đạo sinh của Trường Arcane; những người khác thì chưa từng như vậy; lại có người (khi nghe nói về trường qua mối liên hệ của họ với Chân sư Tây Tạng) đã làm việc trong đó để giúp đỡ các học viên. Tên của họ sẽ không được tiết lộ. Các chữ viết tắt ở đầu các huấn thị và các niên điểm gán vào không mang ý nghĩa thông tin; [xiii] các huấn thị rất có thể không được tiếp nhận vào những ngày đã ghi và các chữ viết tắt đều không đúng. Không ai trong chúng tôi—những người biết mối liên hệ giữa chữ viết tắt và đệ tử—sẽ đưa ra thông tin nào. Mọi câu hỏi về căn tính sẽ không được trả lời bất kỳ lúc nào. Điều quan trọng là nội dung giáo huấn chứ không phải tên tuổi của đệ tử, vì điều được nói đều áp dụng cho mọi chí nguyện sinh.

One other reason might be mentioned here as indicative of the value of this book. In every case, the disciple is told what are the types of energy to which he most easily responds and upon which ray or divine emanation he finds himself. He, therefore, becomes aware of what constitutes his line of least resistance and where the major point of his life conflict is to be found.

Một lý do khác có thể được nêu ở đây như một chỉ dấu về giá trị của sách. Trong mỗi trường hợp, đệ tử được cho biết những loại năng lượng nào mà y đáp ứng dễ dàng nhất và y thuộc cung hay làn bức xạ thiêng liêng nào. Nhờ thế, y nhận biết được điều gì cấu thành “đường ít chống đối nhất” của y và nơi nào tồn tại điểm chính yếu của xung đột đời sống y.

We are taught in the esoteric philosophy that seven great divine Emanations, Aeons or Spirits (in Whom we live and move and have our being) came forth from God at the time of the Creation. The same teaching can also be traced in the Holy Bible. Upon one or other of these seven Rays, the souls of all forms of life are to be found as well as the forms themselves. These seven rays produce the seven major psychological types. These seven rays or emanations are:

Chúng ta được dạy trong triết học huyền bí rằng bảy Đại Làn Bức Xạ, bảy Aeon hay bảy Thánh Linh vĩ đại (trong Các Ngài chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu) đã phóng xuất từ Thượng Đế vào thời Sáng Tạo. Cùng một giáo huấn cũng có thể lần dấu trong Kinh Thánh. Trên một trong bảy Cung ấy, linh hồn của mọi hình thức sống đều có mặt, cũng như chính các hình tướng. Bảy cung này tạo ra bảy loại tâm lý chủ yếu. Bảy cung hay bảy làn bức xạ ấy là:

1. The first Ray of Will or Power. Many great world rulers are found on this ray, such as Julius Caesar.

Cung Thứ Nhất của Ý Chí hay Quyền Lực. Nhiều vị đại trị thế của thế giới ở trên cung này, như Julius Caesar.

2. The second Ray of Love-Wisdom. The Christ and the Buddha are to be found on this ray. It is the great teaching ray.

Cung Thứ Hai của Bác Ái-Minh Triết. Đức Christ và Đức Phật ở trên cung này. Đây là cung giảng dạy vĩ đại.

3. The third Ray of Active Intelligence. The mass of intelligent humanity are found on this ray.

Cung Thứ Ba của Hoạt Dụng Trí Tuệ. Quần chúng nhân loại trí năng ở trên cung này.

4. The fourth Ray of Harmony through Conflict. Aspirants. Struggling, well-meaning people. Workers for unity emerge along this line.

Cung Thứ Tư của Hòa Điệu qua Xung Đột. Các chí nguyện sinh. Những người thiện chí đang tranh đấu. Những công nhân vì hiệp nhất xuất hiện theo đường này.

5. The fifth Ray of Concrete Knowledge or Science. Scientists and people who are purely mental and governed only by the mind.

Cung Thứ Năm của Tri Thức Cụ Thể hay Khoa Học. Các nhà khoa học và những người hoàn toàn trí năng, chỉ do thể trí chi phối.

6. The sixth Ray of Devotion or Idealism. Many Christian people. Fanatics. Numbers of earnest Churchmen of all the world religions. [xiv]

Cung Thứ Sáu của Sùng Tín hay Lý Tưởng. Nhiều tín hữu Kitô giáo. Những người cuồng tín. Đông đảo các giáo sĩ nhiệt thành của mọi tôn giáo. [xiv]

7. The seventh Ray of Ceremonial Order or Magic. Masons. Financiers. Great businessmen and organisers of all kinds. Executives are found with these energies in their equipment.

Cung Thứ Bảy của Trật Tự Nghi Lễ hay Huyền Thuật. Các Mason. Các nhà tài chính. Những nhà doanh nghiệp lớn và các nhà tổ chức đủ loại. Các nhà điều hành mang các năng lượng này trong cấu trúc năng lượng của họ.

However, only when a man is highly developed and nearing the Path of Discipleship is it possible for the esoteric student accurately to surmise what his ray may be. People of all kinds and professions are found on all the rays. The conflict in a disciple’s life is found to lie in the fact that the ray of his soul and the ray of his integrated personality are posed against each other. At the same time, his emotional nature, his mental equipment and his physical brain are also controlled by some one or other of the rays and in this fivefold relationship lies hid much of the problem of the evolving human being. The Tibetan tells the members of His group which five rays condition them and students will learn much by a study of what He says. In the cases where I happen to know the disciple concerned personally and something of his problems, it was amazingly interesting to me to note how infallibly right the Tibetan was in His diagnosis of the rays involved. In reading these instructions will you please remember that though the Tibetan usually speaks of the soul, He also uses the word “ego” interchangeably, meaning thereby the spiritual ego and not the personal ego of the psychologists.

Tuy nhiên, chỉ khi một người phát triển cao và gần Địa vị đệ tử thì người nghiên cứu huyền bí mới có thể ước đoán đúng đắn cung của y. Người thuộc mọi hạng và mọi nghề đều được thấy trên tất cả các cung. Xung đột trong đời một đệ tử được thấy là nằm ở chỗ cung của linh hồn y và cung của phàm ngã tích hợp của y xung khắc nhau. Đồng thời, bản chất cảm dục của y, dụng cụ trí năng và bộ não hồng trần của y cũng bị một trong các cung chi phối; trong tương quan ngũ phân này ẩn tàng phần lớn vấn đề của con người đang tiến hóa. Chân sư Tây Tạng chỉ rõ cho các thành viên nhóm của Ngài năm cung chi phối họ, và học viên sẽ học được nhiều điều khi khảo sát điều Ngài nói. Khi tôi tình cờ biết đệ tử liên hệ một cách cá nhân và chút ít vấn đề của y, tôi thấy thật đáng kinh ngạc khi nhận ra Chân sư Tây Tạng luôn đúng không sai lầm trong chẩn đoán về các cung liên can. Khi đọc các huấn thị này, xin các bạn nhớ rằng dù Chân sư Tây Tạng thường nói về “linh hồn”, Ngài cũng dùng từ “chân ngã” thay thế—ý chỉ chân ngã tinh thần, chứ không phải phàm ngã tâm lý theo các nhà tâm lý học.

We have not felt it wise to give the meditations assigned or the breathing exercises, except in a few cases. They were strictly individual and suited to the person and his peculiar problems. In one or two cases, however, after due consideration, we have inserted some of the meditations with slight changes. It was obvious that they could be only helpful.

Chúng tôi xét thấy không khôn ngoan khi đưa ra các bài tham thiền đã được giao hoặc các bài tập điều tức, ngoại trừ trong một vài trường hợp. Chúng vốn tuyệt đối cá nhân và phù hợp với con người cùng những vấn đề đặc thù của y. Tuy nhiên, trong một hai trường hợp, sau khi cân nhắc, chúng tôi có chèn vào một vài bài tham thiền với những sửa đổi nhỏ. Rõ ràng chúng chỉ có thể hữu ích.

At the end of each instruction, we have put a sentence or two which gives information as to the work of the disciple in the Ashram. This will prove particularly enlightening as, for instance, in the cases of P.D.W. and K.E.S. where the Tibetan shows definite prevision and the knowledge that both these men would die a few years later. He is obviously preparing them for that great transition.

Ở cuối mỗi huấn thị, chúng tôi đưa một hai câu cho biết về công việc của đệ tử trong Ashram. Điều này sẽ đặc biệt khai mở, như trong trường hợp của P.D.W. và K.E.S., nơi Chân sư Tây Tạng cho thấy dự tri xác quyết và tri thức rằng cả hai vị này sẽ qua đời vài năm sau đó. Rõ ràng Ngài đang chuẩn bị cho họ bước chuyển vĩ đại ấy.

In closing, I would like to thank all these disciples who have so kindly placed their personal instructions at my disposal [xv] in an effort to be of service to the coming generation of disciples. In many cases, they helped prepare them for the press. I would like also to thank those who helped me to get the text ready for publication, particularly Joseph Lovejoy who gave days of labour to the book; he has for years helped me prepare the Tibetan’s books for publication.

Sau cùng, tôi muốn cảm ơn tất cả các đệ tử đã niềm nở đặt các huấn thị cá nhân của họ vào sự xử dụng của tôi [xv] nhằm nỗ lực phụng sự thế hệ đệ tử đang đến. Trong nhiều trường hợp, họ đã giúp chuẩn bị bản thảo để xuất bản. Tôi cũng muốn cảm ơn những ai đã giúp tôi soạn thảo văn bản để in, đặc biệt là Joseph Lovejoy, người đã dành nhiều ngày lao tác cho quyển sách; từ nhiều năm nay ông đã giúp tôi chuẩn bị các sách của Chân sư Tây Tạng để xuất bản.

I hope all who read this book will receive the inspiration that we who have prepared it have received; I hope also that their confidence in the Hierarchy and in the existence of Christ and His Disciples, the Masters, may receive such an impetus that many more will attempt to tread the Way and join the great number of aspirants in every country who are seeking to tread the Path by becoming the Path Itself.

Tôi hy vọng tất cả những ai đọc sách này sẽ nhận được cảm hứng như chúng tôi—những người đã chuẩn bị nó—đã nhận; tôi cũng hy vọng niềm tin của họ vào Thánh Đoàn và vào sự hiện hữu của Đức Christ cùng Các Đệ Tử của Ngài, các Chân sư, sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ đến mức nhiều người hơn nữa sẽ cố gắng bước lên Đường và nhập vào đông đảo chí nguyện sinh ở mọi quốc gia đang tìm bước trên Đạo bằng cách trở thành chính Đạo.

October 1943

tháng mười 1943

ALICE A. BAILEY

alice a. bailey

THE GREAT INVOCATIONS

CÁC ĐẠI KHẤN NGUYỆN

Let the Forces of Light bring illumination to mankind.

Cầu xin Các Mãnh Lực của Ánh Sáng đem sự soi sáng đến cho nhân loại.

Let the Spirit of Peace be spread abroad.

Cầu xin Tinh Thần Hòa Bình lan tỏa khắp nơi.

May men of goodwill everywhere meet in a spirit of cooperation.

Cầu xin những người thiện chí ở khắp nơi gặp gỡ trong tinh thần hợp tác.

May forgiveness on the part of all men be the keynote at this time.

Cầu xin sự bao dung của hết thảy mọi người là chủ âm của thời kỳ này.

Let power attend the efforts of the Great Ones.

Cầu xin quyền lực trợ lực cho nỗ lực của Các Đấng Cao Cả.

So let it be, and help us to do our part. — 1935

Xin được như thế, và xin giúp chúng con làm phần việc của mình. — 1935

Let the Lord of Liberation issue forth.

Cầu xin Đấng Giải Thoát xuất hiện.

Let Him bring succour to the sons of men.

Cầu xin Ngài mang sự trợ giúp đến cho các con của nhân loại.

Let the Rider from the Secret Place come forth,

Cầu xin Đấng Kỵ Sĩ từ Nơi Ẩn Mật xuất hiện,

And coming, save.

Và khi xuất hiện, xin cứu độ.

Come forth, O Mighty One.

Xin xuất hiện, hỡi Đấng Đại Hùng. 

~

Let the souls of men awaken to the Light,

Cầu xin linh hồn của con người thức tỉnh với Ánh Sáng,

And may they stand with massed intent.

Và cầu xin họ đứng vững với ý chí tập trung.

Let the fiat of the Lord go forth:

Cầu xin thánh chỉ của Đức Chúa vang ra:

The end of woe has come!

Tận cùng của khổ lụy đã đến!

Come forth, O Mighty One.

Xin xuất hiện, hỡi Đấng Đại Hùng. ~

~

The hour of service of the saving force has now arrived.

Giờ phụng sự của mãnh lực cứu rỗi đã điểm.

Let it be spread abroad, O Mighty One.

Cầu xin nó được lan tỏa, hỡi Đấng Đại Hùng.

Let Light and Love and Power and Death

Cầu xin Ánh Sáng, Tình Thương, Quyền Năng và Cái Chết

Fulfil the purpose of the Coming One.

Hoàn tất mục đích của Đấng Đang Đến.

The WILL to save is here.

Ý CHÍ cứu độ đã hiện hữu.

The LOVE to carry forth the work is widely spread abroad.

TÌNH THƯƠNG để triển khai công cuộc đã được rộng truyền.

The ACTIVE AID of all who know the truth is also here.

SỰ TRỢ GIÚP TÍCH CỰC của tất cả những ai biết chân lý cũng đang có mặt.

Come forth, O Mighty One, and blend these three.

Xin xuất hiện, hỡi Đấng Đại Hùng, và hòa hiệp ba điều này.

Construct a great defending wall.

Xin dựng một bức tường phòng ngự vĩ đại.

The rule of evil now must end. — 1940

Sự thống trị của điều ác nay phải chấm dứt. — 1940

From the point of Light within the Mind of God

Từ điểm Ánh Sáng trong Trí Thượng Đế

Let light stream forth into the minds of men.

Cầu xin ánh sáng tuôn tràn vào trí con người.

Let Light descend on Earth

Cầu xin Ánh Sáng giáng xuống trần gian

From the point of Love within the Heart of God

Từ điểm Tình Thương trong Tâm Thượng Đế

Let love stream forth into the hearts of men.

Cầu xin tình thương tràn vào tâm con người.

May Christ return to Earth.

Cầu xin Đức Christ trở lại Trần gian.

From the centre where the Will of God is known

Từ trung tâm nơi Ý Chí của Thượng Đế được biết

Let purpose guide the little wills of men—

Cầu xin Thiên Ý dẫn dắt ý chí nhỏ bé của con người—

The purpose which the Masters know and serve.

Thiên Ý mà các Chân sư biết và phụng sự.

From the centre which we call the race of men

Từ trung tâm mà chúng ta gọi là loài người

Let the Plan of Love and Light work out.

Cầu xin Thiên Cơ của Tình Thương và Ánh Sáng được thực thi.

And may it seal the door where evil dwells.

Cầu xin Thiên Cơ đóng kín cửa vào kẻ ác.

Let Light and Love and Power restore the Plan on Earth — 1945

Cầu xin Ánh Sáng, Tình Thương và Quyền Năng phục hồi Thiên Cơ trên Trần Gian—1945

ĐƯỜNG ĐẠO TRONG KỶ NGUYÊN MỚI – QUYỂN I

SECTION ONE

TALKS TO DISCIPLES—NÓI VỚI CÁC ĐỆ TỬ

[3]

PHẦN I

MY BROTHERS:

It is of importance that you realise that today something new is happening. There is the emergence of a new kingdom in nature, the fifth kingdom; this is the Kingdom of God on earth or the kingdom of souls. It is precipitating on earth and will be composed of those who are becoming group-conscious and who can work in group formation. This will be possible, because these people will have achieved a self-initiated perfection (even if relative in nature) and will be identified with certain group expansions of consciousness. It will also be because they have arrived at love of their fellowmen, just as they have loved themselves in the past. Think on this with clarity, my brothers, and grasp, if you can, the full significance of this last sentence.

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI

Điều quan trọng là các bạn nhận ra rằng giờ đây có một thứ gì mới đang diễn ra. Đó là sự xuất hiện của một giới mới trong tự nhiên, giới thứ năm, là Thiên Giới trên trái đất, hay giới linh hồn. Nó đang hình thành trên trái đất và sẽ gồm những ai đang chuyển sang tâm thức nhóm và có thể có khả năng làm việc theo hình thức nhóm. Điều này có thể thực hiện được bởi vì những người này sẽ đạt đến trạng thái hoàn thiện nhờ sự tự điểm đạo (dù rằng về bản chất chỉ mang tính tương đối) và sẽ được đồng nhất hoá với sự mở rộng tâm thức nhóm nhất định. Đó cũng là vì họ đã mở rộng tình yêu thương đối với đồng loại, như họ đã từng yêu chính mình trong quá khứ.  Các huynh đệ hãy suy ngẫm rõ ràng về điều này, và nếu có thể hãy thấu suốt trọn vẹn ý nghĩa câu cuối này.

Their work will largely be to summarise and make effective the work of those two great Sons of God, the Buddha and the Christ. As you know, One of Them brought illumination to the world and embodied the principle of wisdom, and the Other brought love to the world and embodied in Himself a great cosmic principle—the principle of love. How can the effectiveness of Their work be brought about? The process will follow three lines:

1. Individual effort, made by the individual disciple, using the technique of detachment, of dispassion and of discrimination which the Buddha taught.

2. Group initiation, made possible by the self-initiated effort of individual disciples, following out the injunctions of the Christ and leading to a complete subordination of the personality and of the unit to group interest and group good.

[4]

3. Group endeavour, carried forward as a group, to love all beings and to apprehend and understand the true significance of the Aquarian technique of group love and work.

Công việc của họ chủ yếu sẽ là đúc kết và làm cho công việc của hai Người Con của Thượng Đế, Đức Phật và Đức Christ có hiệu quả. Như các bạn đã biết, một trong hai Đấng ấy đã mang ánh sáng giác ngộ đến thế gian và đã là hiện thân cho nguyên lý Minh Triết, còn Đấng thứ hai mang tình thương đến thế gian và thể hiện nơi Ngài một nguyên lý vũ trụ vĩ đại – nguyên lý của tình thương.

Làm thế nào để công trình mà các Ngài mang lại trở nên hữu hiệu? Quá trình này sẽ diễn ra theo ba đường lối sau:

1. Nỗ lực cá nhân của từng đệ tử, sử dụng kỹ thuật buông xả, hạnh vô dục và tính phân biện mà Đức Phật đã dạy.

2. Điểm đạo theo nhóm, được thực hiện bởi nỗ lực tự điểm đạo của từng đệ tử tuân theo những lời răn của Đức Christ và đưa đến việc đặt phàm ngã và đơn vị cá nhân hoàn toàn lệ thuộc vào việc công ích và lợi ích tập thể. [4]

3. Sự cố gắng tập thể, thực hiện theo từng nhóm, nhằm ban rải tình thương cho tất cả chúng sinh, nắm bắt và hiểu được ý nghĩa đích thực của kỹ thuật thời đại Bảo Bình về tình thương và công việc nhóm.

I have felt that a linking up of your minds in connection with the work of the Buddha and of the Christ might serve a useful purpose and give you all a glimpse and an indication of Their two systems of unfoldment—one preparatory to accepted discipleship and the other to initiation—which would be sequential and inter-related. The synthesis of Their work is easily seen by us who work with a fuller vision and a less impeded outlook than is as yet possible to you.

Tôi cảm thấy rằng việc kết nối tâm trí của các bạn liên quan đến công việc của Đức Phật và của Đức Christ có thể phục vụ một mục đích hữu ích và đem đến cho tất cả các bạn một ý niệm và sự chỉ dẫn về hai phương pháp khai sáng của các Ngài — một để chuẩn bị cho việc trở thành đệ tử chính thức và một để bước vào cửa điểm đạo — cả hai có liên hệ tương hỗ và nối tiếp theo nhau. Chúng tôi có thể dễ dàng nhận thấy sự tổng hợp trong công việc của các Ngài bởi vì chúng tôi có một tầm nhãn quang bao quát hơn và ít hạn hẹp hơn so với khả năng của các bạn.

I am, therefore, dividing my disciples into groups so that they may work on different aspects of the Plan, and also laying the ground for group work which will greatly help the individual but which will also—above everything else—forward the work of the New Age.

Do đó, tôi chia các đệ tử của mình thành các nhóm để họ có thể làm việc trên các khía cạnh khác nhau của Thiên Cơ, và tạo nền tảng cho công việc nhóm sẽ giúp ích rất nhiều cho cá nhân nhưng trên tất cả cũng sẽ thúc đẩy công việc trong Kỷ Nguyên Mới.

It is, therefore, my intention to write a little in detail in connection with these groups. My time is very limited and I shall have to put a great deal of information into these talks and into any individual instructions which I may be led to give (probably at widely separated intervals) to my disciples. I am not basically writing for any of you at all but in order to lay the foundation for the group work to be done in the world during the coming years. What I say should be read with care, for the written word may contain several meanings and these can be sensed, according to the intuition—awakened or otherwise—of the aspirant.

Do đó, ý định của tôi là viết một chút chi tiết liên quan đến các nhóm này.

Thời gian của tôi rất hạn chế và tôi sẽ phải đưa một lượng lớn thông tin vào những huấn thị này và bất kỳ hướng dẫn cá nhân nào mà tôi có thể được cho phép để đưa ra (có thể là ở từng khoảng thời gian cách xa nhau) cho các đệ tử của mình. Về cơ bản tôi không viết riêng cho bất kỳ ai trong số các bạn mà là để đặt nền tảng cho công tác nhóm sẽ được thực hiện trên thế giới trong những năm tới. Những gì tôi nói cần được đọc cẩn thận, vì chữ viết có thể chứa đựng nhiều ý nghĩa và chúng có thể được cảm nhận bằng trực giác — đã được đánh thức hoặc chưa — của người chí nguyện.

I, your Tibetan Brother, am supposing upon the part of each of my disciples, one basic essential at least and that is a persevering earnestness which nothing will deter. Each of you starts upon this work with certain fundamental characteristics; each of you is beginning this definite enterprise of training for initiation with certain defects which act as deterrents and as handicaps; each of you has been recognised by his light and for his potentialities and with these we must perforce do the best we can. Note, therefore, the difficult problem confronting Those Who are guiding world evolution and looking for those who can aid in Their work. [5]

Tôi, người huynh trưởng Tây Tạng của các bạn, giả định rằng trong mỗi đệ tử của tôi phải có ít nhất một đức tính căn bản là lòng nhiệt thành kiên cố không gì lay chuyển. Mỗi người trong số các bạn bắt đầu công việc này với những tính cách cơ bản nhất định; mỗi người trong số các bạn đang bắt đầu công việc huấn luyện nhất định để bước vào cửa điểm đạo này với ít nhiều khiếm khuyết vốn đóng vai trò như những yếu tố kìm hãm và  trở ngại; mỗi người trong số các bạn đã được công nhận bởi ánh sáng và những tiềm năng của mình và với những điều này, chúng ta phải cố gắng nỗ lực hết sức có thể. Do đó, hãy lưu ý vấn đề khó khăn phải đối mặt của những Đấng Cao Cả đang dìu dắt sự tiến hóa của nhân loại và tìm kiếm những người có thể trợ giúp trong công việc của các Ngài. [5]

I will teach you. Whether or not you profit by the teaching is entirely your own affair; that is something that the disciples of the New Age need to learn. There is no such thing as occult obedience as usually taught by the current occult schools. In the olden days in the East, the Master exacted from His disciple that implicit obedience which actually made the Master responsible and placed upon His shoulders the destiny or the karma of the disciple. That condition no longer holds good. The intellectual principle in the individual is now too much developed to warrant this type of expectancy. Therefore, this condition no longer holds good. In the coming New Age, the Master is responsible for the offering of opportunity and for the right enunciation of the truth but for no more than that. In these more enlightened days, no such position is assumed by the teacher as in the past, and I do not assume it. I shall with frankness speak. I know my disciples, for no disciple is admitted into an Ashram without deep consideration on the part of the teacher. I shall convey by hint and symbol that which should be apprehended and it will be noted and understood by those among my disciples who have the opened, inner ear and true humility of heart. If it is not recognised, time will pursue its onward course and revelation will ultimately come. I exact, therefore, no blind obedience. But, however, if advice and suggestion are accepted and you choose—of your own free will—to follow my instructions, those instructions must be followed accurately. Also, there must be none of that constant looking for results and for phenomena which has deterred the course and the progress of many would-be disciples.

Tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn. Bạn có thu được lợi ích từ giáo huấn này hay không hoàn toàn là việc của riêng bạn; đó là điều mà các đệ tử của Kỷ Nguyên Mới cần học hỏi. Không có cái gọi là sự vâng lời huyền bí như thường được dạy bởi các trường huyền bí hiện nay. Vào thời cổ ở phương Đông, Chân sư đã đòi hỏi đệ tử của Ngài phải có sự vâng lời tuyệt đối, điều này khiến cho Chân sư phải chịu trách nhiệm thực sự và đặt lên vai Ngài vận mệnh hay nghiệp quả của người đệ tử. Ngày nay điều đó không còn đúng nữa. Ngày nay nguyên khí trí tuệ trong mỗi cá nhân đã quá phát triển đến mức đảm bảo cho những triển vọng như vậy. Do đó, tình trạng này không còn phù hợp nữa. Trong Kỷ Nguyên Mới sắp tới, Chân sư không chịu trách nhiệm gì hơn ngoài việc mang lại cơ hội và truyền giảng chân lý một cách chính xác. Trong thời đại được khai sáng hơn này, vị huấn sư không còn giữ vị trí như thời xưa và tôi cũng vậy. Tôi sẽ nói thẳng. Tôi biết rõ các đệ tử của mình, vì không một đệ tử nào được nhận vào một Đạo viện mà không có sự xem xét kỹ lưỡng từ phía người huấn sư. Tôi sẽ truyền đạt bằng ẩn dụ và biểu tượng những gì cần được lĩnh hội và những đệ tử nào có nội nhĩ khai mở với trái tim thật sự khiêm tốn sẽ ghi nhận được và hiểu rõ. Nếu họ chưa hiểu được ngay thì thời gian sẽ tác động một cách âm thầm, và rốt cuộc sự giác ngộ cũng sẽ đến. Do đó, tôi không yêu cầu sự vâng lời mù quáng. Tuy nhiên, nếu lời khuyên và gợi ý được chấp nhận và các bạn chọn — bằng tự do ý chí của riêng các bạn — để làm theo hướng dẫn của tôi, thì những hướng dẫn đó phải được tuân theo một cách chính xác. Ngoài ra, không được lúc nào cũng trông đợi các kết quả và hiện tượng, là điều đã cản trở tiến trình và tiến bộ của nhiều đệ tử có triển vọng.

This is also for me an experiment, for those of us who are members of some degree of the Hierarchy are necessarily changing the old ways and adapting the old methods to the newer circumstances and to the advance of evolution. Many tried disciples and aspirants (should I have said “tired,” brother of mine, for I surmise that both words are true?) are to be subjected to experiments which will involve the application of the ancient rules in a modern way. Disciples in the olden days were the product of more peaceful times. The “chitta” (or mind-stuff as Patanjali calls it in his famous Book of Rules) was neither so highly developed nor was it tinctured by so [6] much thought or potentially so illumined. Today, knowledge is widespread and many, many people are already thinking for themselves. The material for discipleship with which the Masters have to deal and the type of person which has to be developed and led on towards illumination is of a higher quality and grade, if I may employ so inadequate a term. The experiment of changing methods and of implementing the new technique of group work has to be carried out, likewise, in the midst of the stress and strain of Western civilisation. This imposes on all chosen to participate in this work an undue effort, but if continuance is found possible and success ensues, it tempers the material to a finer degree of power. As has been said, the jungles of the Occident are of a different kind to those within the Eastern zone. They call for peace in turmoil; for power in fatigue; for persistence in spite of bad health; for understanding in spite of the clamour of Western life. Progress is, therefore, made in spite of, and not because of, existing conditions. For disciples, such as those I am now going to attempt to teach, there is no retiring from the world. There is no condition of physical peace and of quiet wherein the soul may be invoked and in which work—potent in results—may be achieved in the calm of silence and the rest of what the Hindu calls samadhi—complete detachment from the calls of the body and the emotions. The work has to go forward in clamour. The point of peace must be found in the midst of riot. Wisdom must be attained in the very midst of intellectual turmoil and the work of cooperation with the Hierarchy on the inner side of life must proceed amidst the devastating racket of modern life in the great cities. Such is your problem and such is my problem as I seek to aid you.

Đối với tôi, đây cũng là một thử nghiệm, bởi vì chúng tôi, những thành viên có cấp đẳng của Thánh Đoàn, nhất thiết phải thay đổi những cách thức cũ và tùy nghi áp dụng phương pháp xưa vào những hoàn cảnh mới và vào sự tiến bộ của quá trình thăng thượng tiến hóa. Nhiều đệ tử và những người chí nguyện đã cố gắng (lẽ ra tôi phải dùng từ “mệt mỏi”, huynh đệ của tôi, vì tôi phỏng đoán rằng cả hai từ đều đúng?) và đang phải trải qua những thử nghiệm liên quan đến việc áp dụng các quy luật cổ xưa theo phương pháp hiện đại. Những đệ tử trong thời xa xưa vốn là sản phẩm của thời đại thanh bình hơn. “Chitta” (hay trí tuệ chất như Patanjali gọi nó trong Cuốn sách về các Quy luật nổi tiếng của ông) chưa được phát triển quá cao và cũng như chưa bị nhuốm màu bởi quá [6] nhiều tư tưởng hay tiềm năng được soi sáng như hiện nay. Ngày nay, kiến thức được phổ biến rộng rãi, và rất nhiều người bắt đầu tư duy một cách độc lập. Các đối tượng để các Chân sư hướng dẫn trên con đường đệ tử và loại người cần được phát triển để đưa tới sự khai sáng ngày nay có phẩm chất và trình độ cao hơn, nếu tôi có thể sử dụng một thuật ngữ không phù hợp như vậy. Tương tự như vậy, thử nghiệm thay đổi phương pháp và thực hành kỹ thuật làm việc nhóm mới phải được thực hành trong bối cảnh căng thẳng và áp lực của nền văn minh phương Tây. Điều này đòi hỏi tất cả những người được chọn tham gia vào công việc này phải nỗ lực vượt bậc, nhưng nếu họ có thể tiếp tục và đi đến thành công, thì họ sẽ được trui rèn đến một trình độ khả năng tinh vi hơn. Như tôi đã nói, những chốn phồn hoa náo động ở Phương Tây chính là những vùng rừng sâu núi thẳm phương Đông. Đó là bối cảnh để đạt sự bình yên giữa nơi náo động; sở đắc sức mạnh trong cơn mệt mỏi; trung kiên bền bỉ bất chấp thể chất suy nhược; thấu hiểu giữa sự ồn ào của cuộc sống phương Tây. Do đó, sự tiến bộ được thực hiện dù trong những hoàn cảnh trái ngang. Đối với các đệ tử, chẳng hạn như những người mà tôi đang cố gắng giảng dạy, không có việc phải rút lui khỏi cuộc đời thế tục. Không cần phải có điều kiện bình an và yên tĩnh nào của thể chất để linh hồn có thể được khơi dậy và hoạt động—có kết quả mạnh mẽ— có thể đạt được trong sự tĩnh mịch vô thanh và sự nghỉ ngơi của cái mà Ấn giáo gọi là nhập định (samadhi) — hoàn toàn tách rời khỏi tiếng gọi của thân thể và cảm xúc. Công việc phải diễn tiến trong cơn náo động. Điểm bình yên phải được tìm thấy giữa sự hỗn loạn. Minh triết phải đạt được ngay giữa lúc tâm trí rối bời và công việc hợp tác với Thánh đoàn ở cõi nội giới phải được tiến hành giữa cảnh huyên náo ầm ĩ của cuộc sống hiện đại ở các thành phố lớn. Đó là vấn đề của các bạn và cũng là vấn đề của tôi khi tôi tìm cách trợ giúp các bạn.

For me, there is also the problem of excessive expenditure of force as I attempt to reach each of you and to study each of you at certain intervals. There is the work, at long range, of reading your minds, of seeing your light, and of vitalising your auras. This has not hitherto been the problem of the Eastern Teachers, except in very rare cases. Those who are now working in the modern world under the Masters of the Wisdom have undergone a preliminary tuning-up process and a training in receptivity during an earlier incarnation or incarnations. [7] Forget not, therefore, that I also have a problem which I am willing to undertake for the sake of a needy world and as my contribution to hastening the coming in of the new and more fruitful era. Let us, therefore, facilitate each others’ efforts.

Đối với tôi, cũng còn vấn đề là sử dụng sức lực quá mức khi cố gắng tiếp cận và nghiên cứu từng bạn trong những khoảng thời gian nhất định. Về lâu dài, tôi còn có công việc đọc tư tưởng, xem xét mức độ ánh sáng của các bạn và tăng cường sinh khí cho hào quang của các bạn. Cho đến nay, điều này không phải là việc của các vị Huấn sư phương Đông, ngoại trừ một số trường hợp rất hiếm. Những người hiện đang làm việc trong thế giới hiện đại dưới sự dẫn dắt của các Chân sư Minh triết đã trải qua một quá trình điều chỉnh sơ bộ và một sự huấn luyện về khả năng tiếp nhận trong một hoặc nhiều lần hóa thân trước đó. [7] Vì vậy, đừng quên rằng tôi cũng có một vấn đề khó khăn mà tôi sẵn sàng thực hiện vì nhu cầu của thế gian và để góp phần vào việc kiến tạo nên một kỷ nguyên mới có nhiều triển vọng hơn. Bởi vậy, chúng ta hãy trợ giúp nhau để cho những cố gắng của chúng ta được thực hiện dễ dàng.

I promise no quick results. I undertake to provide no spectacular unfoldments. The results rest entirely with you. They depend upon your patience, your exactness in detail, the discipline which you are willing to impose upon your lives and your self-forgetfulness. May I beg of you to leave results alone and to work without attachment for you know not with exactitude what are my goals for you; may I beg you to desist from that constant self-analysis which is such an outstanding characteristic of the introspective, yet ambitious Occidental mystic…. What, therefore, is the position I take? That I, one of a great group of disciples who—from the humblest aspirant up to the highest Member of the Hierarchy link humanity with the spiritual kingdom—can teach you the ancient rules and give suggestions to you so that you may travel more rapidly along the Path and arrive at greater usefulness to your fellowmen. There is not the slightest suggestion of authoritative pronouncement by a member of the Hierarchy who must be obeyed and whose word is infallible. Let this be remembered, otherwise work will not be possible, elements of danger may enter in and the present effort come to naught. My anonymity has always been preserved and will continue to be so though members of this group of disciples know me for who I am. You know me as a teacher, as a Tibetan disciple and as an initiate of a certain degree—what degree being of no importance to you at all. It is the teaching that I shall give you which will matter. I am an initiate into the mysteries of being. That statement in itself conveys information to those who know. You know also that I am in a human body, and am a resident of northern India. Let that suffice and let not curiosity blind you to the teaching.

Tôi không hứa hẹn là sẽ đem lại những kết quả nhanh chóng. Tôi không cam kết mang lại bất kỳ sự khai mở ngoạn mục nào. Kết quả hoàn toàn nằm ở các bạn. Chúng phụ thuộc vào sự kiên nhẫn của các bạn, tính chính xác đến từng chi tiết của các bạn, tính kỷ luật mà các bạn sẵn sàng áp đặt cho cuộc sống của mình và sự quên mình của các bạn. Tôi yêu cầu các bạn đừng để ý đến kết quả và hãy làm việc mà không mong cầu, bởi vì các bạn không thể biết chính xác mục tiêu của tôi đặt cho các bạn là gì; Tôi cũng yêu cầu các bạn hãy gác bỏ việc tự kiểm thường xuyên, liên tục, nó vẫn là đặc tính hướng nội thông thường của nhà Huyền học Tây Phương có nhiều tham vọng…. Vậy vị trí mà tôi đảm nhận là gì? Rằng tôi, một thành viên trong những nhóm lớn các đệ tử — từ người chí nguyện khiêm tốn nhất cho đến Đấng cao cả nhất của Thánh đoàn liên kết nhân loại với cõi giới của tinh thần — có thể dạy các bạn các quy luật cổ xưa và đưa ra gợi ý cho các bạn để các bạn có thể tiến nhanh hơn trên đường Đạo và trở nên hữu ích hơn nhiều cho đồng loại của mình. Không hề có mảy may ngụ ý nào ám chỉ lời tuyên bố uy quyền của một Đấng nào trong Thánh đoàn, người mà phải tuân theo và lời người là không thể sai lầm. Điều này cần được nhớ rõ, nếu không thì không thể thực hiện được điều gì, những nguy cơ có thể xen vào và sự cố gắng hiện tại sẽ thành vô bổ. Sự ẩn danh của tôi luôn được giữ gìn và sẽ tiếp tục như vậy mặc dù các thành viên của nhóm đệ tử này biết tôi là ai. Các bạn biết tôi với tư cách là một vị huấn sư, một đệ tử Tây Tạng và một điểm đạo đồ ở một mức độ nào đó — mức độ nào đối với các bạn chẳng có gì là quan trọng. Điều quan trọng là giáo lý tôi muốn truyền dạy cho các bạn. Tôi là một vị điểm đạo đồ đi sâu vào những bí nhiệm của sự hiện tồn. Lời tuyên bố này tự nó có hàm xúc ý nghĩa đối với người biết chuyện. Bạn cũng biết rằng tôi là một người mang xác phàm và trú ngụ tại Miền Bắc Ấn Độ. Bấy nhiêu cũng đủ và không nên để cho sự tò mò làm cho các bạn bị mù quáng đối với các giáo lý.

We stand together in spiritual enterprise. All of you have voluntarily and without pressure stated your willingness to go forward into a more intensive spiritual life. This you must do in the freedom of your own souls and through the power of [8] your own intellects. You will follow such instructions as seem to you reasonable and right but—when you do choose to follow them—you will attempt to fulfil the requirements with exactitude. You will analyse and question the requirements which from time to time come from me and you will accept no belief in their verbal inspiration. Language ever handicaps and limits. You will also be guided in your work by health and circumstance, and you will ever remember that Masters are made through the achieving of mastery and not through obedience to any person. You will bear in mind that I, your teacher, am not constantly aware of your physical condition or daily doings. I concern not myself with the affairs of the personality and those misguided aspirants who claim that the Masters are forever telling them what to do and are guiding them in their personal affairs are still far from the grade of accepted discipleship. You will remember that the light will shine into a mind that is self-controlled and free from the mental dominance of another mind. With these provisos clearly understood, let us pass on to the enunciation of certain principles and to a consideration of what it may be possible to do.

Chúng ta sát cánh cùng nhau trong sự nghiệp tinh thần. Tất cả các bạn đều tự nguyện và không bị buộc phải thể hiện sự sẵn sàng của mình để tiếp tục bước vào một đời sống tinh thần sâu sắc hơn. Điều này các bạn phải làm trong sự tự do của linh hồn và thông qua sức mạnh [8] trí tuệ của chính mình. Các bạn sẽ làm theo những hướng dẫn tự mình thấy hợp lý và đúng đắn nhưng — khi đã quyết định tuân theo những hướng dẫn đó — các bạn phải làm tròn những lời yêu cầu một cách đúng đắn. Các bạn sẽ phân tích và đặt câu hỏi về các yêu cầu mà thỉnh thoảng tôi đưa ra và rồi các bạn sẽ không chấp nhận bất cứ niềm tin nào chỉ bằng nguồn cảm hứng bởi ngôn từ. Ngôn ngữ bao giờ cũng bị khiếm khuyết và giới hạn. Công việc của các bạn cũng sẽ được hướng dẫn tùy theo sức khỏe và hoàn cảnh, và luôn nhớ rằng các Chân sư thành tựu thông qua việc đạt được sự thành thạo chứ không phải bằng cách vâng lời bất cứ người nào. Nên biết rằng tôi, huấn sư của các bạn, không thường xuyên quan tâm tới tình trạng thể chất hoặc những việc làm hàng ngày của bạn. Bản thân tôi không quan tâm đến vấn đề của phàm ngã và những người chí nguyện lầm tưởng rằng các vị Chân sư luôn luôn chỉ bảo họ phải làm gì và đang dìu dắt họ trong công việc cá nhân thì hãy còn cách rất xa trình độ của người đệ tử chính thức. Hãy nhớ rằng ánh sáng sẽ chiếu vào cái trí biết tự chủ và thoát khỏi sự chi phối về mặt trí tuệ của người khác. Khi những điều kiện này đã được hiểu rõ, chúng ta hãy bước qua việc nêu lên những nguyên lý và cứu xét xem những gì ta có thể làm.

First: Let it be constantly remembered that the new discipleship is primarily an experiment in group work and that its main objective is not the perfecting of the individual disciple in the group. I regard this statement as basic and essential. The individuals are intended to supplement each other and complement each other and in the aggregate of their qualities should eventually provide a group capable of useful, spiritual expression and one through which spiritual energy can flow for the helping of humanity. The work to be done is on the mental plane. The spheres of service of individual disciples remain the same as before but to their differing fields of individual endeavour there will be added a group activity and life which will become more clear as time elapses. The first objective is, therefore, to weld and unify the group so that each person in it can work in close mental rapport and spiritual cooperation with the others. This inevitably takes time and the success of this new effort on the part of the Hierarchy will depend upon a non-critical attitude and the outpouring of a spirit of love on the part of each member of the group. This [9] will be fairly easy for some disciples to achieve but very difficult for others. So many high-grade people today have an over-development of the analytical mind. As time goes on, however, and if real effort is made, the welding process will make much progress. This, therefore, is our first effort, as it is the first effort of the group of every Master and the achievement of the Hierarchy itself—group unity.

Thứ nhất: Hãy luôn luôn ghi nhớ rằng con đường đệ tử mới mẻ này chủ yếu là một thử nghiệm trong công việc nhóm và mục tiêu chính của nó không phải là sự hoàn thiện cá nhân của từng đệ tử trong nhóm. Tôi coi tuyên bố này là điều căn bản và cần thiết. Các cá nhân đều có tác dụng bổ sung và bồi đắp cho nhau. Và trong tổng thể các phẩm chất của họ cuối cùng sẽ tạo nên một nhóm có khả năng biểu lộ tinh thần, hữu ích và nhóm mà thông qua đó năng lượng tinh thần có thể tuôn chảy để giúp đỡ nhân loại. Công việc phải làm là trên cõi trí tuệ. Các lĩnh vực phụng sự của từng đệ tử vẫn giống như trước đây nhưng bên cạnh các lĩnh vực nỗ lực cá nhân khác nhau sẽ có thêm những sinh hoạt và đời sống của nhóm vốn sẽ trở nên rõ ràng hơn theo thời gian. Do đó, mục tiêu đầu tiên là gắn kết và hợp nhất nhóm để mỗi người trong nhóm có thể làm việc trong mối hoà hợp trí tuệ và hợp tác tinh thần chặt chẽ với những người khác. Điều này chắc chắn cần có thời gian và sự thành công của nỗ lực mới này của Thánh đoàn sẽ phụ thuộc vào thái độ không chỉ trích và sự lan tỏa tinh thần yêu thương của mỗi thành viên trong nhóm. Điều này [9] sẽ khá dễ dàng đối với một số đệ tử nhưng lại rất khó đối với những người khác. Vì nhiều người tiến hoá cao ngày nay có trí phân tích phát triển quá mức. Tuy nhiên, theo thời gian cùng với nỗ lực thực sự, quá trình gắn kết sẽ có nhiều tiến bộ. Do đó, đây là nỗ lực đầu tiên của chúng ta, vì nó là nỗ lực đầu tiên của nhóm đệ tử của mỗi Chân sư và là thành tựu của chính Thánh Đoàn — sự hợp nhất nhóm.

Every disciple has to learn to subordinate his own ideas of personal growth to the group requirements, for—in order to have a coordinated group, functioning as a serviceable unit—some disciples will have to hasten their progress in certain directions and others will have to slow down theirs temporarily to the pace of the majority. This will happen automatically, if the group identity is the dominant factor in the thoughts of each disciple, and desire for personal growth and for spiritual satisfaction is relegated to a secondary place. The groups within each Ashram are intended to work together eventually just as the various departments of some great organisation work together effectively as a unit. They must function smoothly and intelligently. This will be possible when the individual members in the groups and the individual groups lose sight of their own identities in an effort to make this experiment of the Hierarchy successful. The feelings, reactions, wishes and successes of the individual most emphatically do not count. Only that is regarded as of moment which will further group effort and enrich the group consciousness. Only that, for instance, attracts my attention which brings more spiritual power to my group of disciples or which increases its light or dims its radiance. You need to remember that I look at my groups of disciples always subjectively and as a group. It is the total radiance which I see; it is the united rhythm which I note and the united tone and colour; it is the sound they collectively emit which I hear. May I reiterate that in one sense your individualities are of no interest or moment to me, except in so far as you raise or lower the group vibration. As personalities, you matter not to us, the teachers on the inner side. As souls you are of vital moment. Each disciple in the group of any Master may have many weaknesses and limitations. These act as hindrances to others in the group. But, as souls, such disciples [10] are somewhat awakened and alive and have achieved a certain measure of alignment. So it is with all of you in my group. As souls, I cherish you and seek to aid and lift, to expand and enlighten.

Mỗi đệ tử phải học cách đặt những ý tưởng phát triển cá nhân của riêng mình tuỳ thuộc theo các yêu cầu của nhóm, vì — để có một nhóm phối hợp, hoạt động như một đơn vị phụng sự hữu ích — một số đệ tử sẽ phải đẩy nhanh tiến độ của họ theo những hướng nhất định và những người khác sẽ phải tạm thời làm chậm tốc độ của họ theo tốc độ của đa số. Điều này sẽ diễn ra một cách đương nhiên, nếu sự hợp nhất nhóm là yếu tố hàng đầu trong tư tưởng của mỗi đệ tử, và mong muốn phát triển cá nhân và sự thỏa mãn tinh thần được đặt xuống hàng thứ yếu. Cuối cùng, những nhóm đệ tử trong mỗi Đạo viện sẽ làm việc cùng nhau, cũng giống như các bộ phận khác nhau của một tổ chức lớn hoạt động ăn khớp với nhau một cách hữu hiệu như một đơn vị thống nhất. Họ phải hoạt động một cách điều hòa, êm ái và thông minh. Điều này sẽ có thể thực hiện được khi từng thành viên trong nhóm và các nhóm riêng lẻ quên đi cá tính biệt lập của mình để cố gắng làm cho thử nghiệm này của Thánh đoàn thành công. Những xúc cảm, những phản ứng, ước vọng và thành công của cá nhân đều tuyệt đối không đáng kể. Chỉ những gì thúc đẩy nỗ lực nhóm và bồi đắp thêm tâm thức nhóm mới được coi là quan trọng. Thí dụ chỉ có những gì giúp tăng thêm sức mạnh tinh thần cho nhóm đệ tử của tôi hoặc làm tăng hay giảm ánh sáng của hào quang nhóm mới làm cho tôi phải chú ý. Các bạn cần nhớ rằng tôi luôn nhìn các nhóm đệ tử của mình với tầm nhãn quang nội tàng và như là một nhóm. Đó là toàn bộ ánh hào quang mà tôi nhìn thấy; tôi chỉ ghi nhận cái tiết điệu thống nhất, cái âm thanh và mầu sắc tổng hợp; tôi chỉ nghe cái âm thanh hợp tấu mà họ cùng đồng loạt thốt ra. Tôi có thể nhắc lại rằng theo một nghĩa nào đó, cá nhân các bạn không có lợi ích hay tầm quan trọng nào đối với tôi, trừ khi các bạn nâng cao hay hạ thấp rung động của cả nhóm. Với tư cách là những phàm ngã, các bạn không quan trọng đối với chúng tôi, những vị huấn sư ở cõi nội giới. Với tư cách là những linh hồn, các bạn có tầm quan trọng lớn lao. Mỗi đệ tử trong nhóm của bất kỳ vị Chân sư nào cũng có thể có nhiều điểm yếu và hạn chế. Những thứ này tác động như những trở ngại đối với những đệ tử khác trong nhóm. Nhưng, với tư cách là những linh hồn, những đệ tử như vậy [10] đã phần thức tỉnh và sống động, đã đạt được sự chỉnh hợp nhất định. Tất cả các đệ tử trong nhóm của tôi cũng như vậy. Tôi trân trọng các bạn như là những linh hồn mà tôi tìm cách để hỗ trợ và nâng đỡ, để phát triển và khai sáng.

I would like here to emphasise one point as we consider the individual in the group and his group relations. Watch with care your thoughts anent each other, and kill out at once all suspicion, all criticism and seek to hold each other unwaveringly in the light of love. You have no idea of the potency of such an effort or of its power to release each other’s bonds and to lift the group to an exceedingly high place. By the pure light of love for each other, you can draw nearer to me and to the teachers on the subjective side of life and arrive more rapidly at that Gate which opens on the lighted Way. You have the opportunity to demonstrate to each other the scientific value and power of love, regarded as a force in nature. Make this demonstration your endeavour. You will thus release for each other all that is needed to bring about potent and vital changes in the life patterns and purpose of the group members. Love is not a sentiment or an emotion nor is it desire or a selfish motive for right action in daily life. Love is the wielding of the force which guides the worlds and which leads to the integration, unity and inclusiveness which impels Deity itself to action. Love is a hard thing to cultivate—such is the inherent selfishness of human nature; it is a difficult thing to apply to all conditions of life and its expression will demand of you the utmost you have to give and the stamping out of your selfish personal activities.

Đến đây, tôi muốn nhấn mạnh về một điểm khi chúng ta xem xét mỗi cá nhân trong nhóm và mối tương quan của y trong tập thể. Hãy cẩn thận kiểm soát tư tưởng của mình đối với bạn đồng môn, lập tức diệt trừ tất cả mọi sự nghi ngờ, chỉ trích và tìm cách đoàn kết chặt chẽ với nhau trong ánh sáng của tình thương. Bạn không biết rằng một nỗ lực như vậy vốn có khả năng hoặc sức mạnh trong việc giải phóng sự ràng buộc giữa các bạn với nhau và nâng toàn nhóm lên một vị thế cao tột. Bằng ánh sáng tinh khiết của tình thương dành cho nhau, các bạn có thể đến gần tôi và gần với các vị huấn sư trên phương diện nội tại của cuộc sống và tiến nhanh hơn đến Cánh cổng mở ra Con đường được soi sáng. Các bạn có cơ hội chứng minh cho nhau thấy giá trị khoa học và sức mạnh của tình thương, vốn được coi như một mãnh lực của tự nhiên. Hãy cố gắng chứng minh điều ấy. Do đó, các bạn sẽ giải phóng cho nhau tất cả những gì cần thiết để mang lại những thay đổi mạnh mẽ và quan trọng trong cách sống và mục đích của các thành viên trong nhóm. Tình thương không phải là một tình cảm hay một cảm xúc, cũng không phải là một ham muốn hay một động cơ ích kỷ để làm điều đúng đắn trong cuộc sống hàng ngày. Tình thương là việc sử dụng mãnh lực dẫn dắt các thế giới và dẫn đến sự hợp nhất, thống nhất và bao gồm, chính là điều thúc đẩy bản thân Thượng đế hành động. Tình thương là một thứ khó để vun đắp — vì bản chất cố hữu của con người là ích kỷ; nó là một điều khó áp dụng vào mọi trạng thái của cuộc sống và sự biểu lộ của tình thương sẽ đòi hỏi các bạn phải cống hiến hết sức và loại bỏ những hoạt động cá nhân ích kỷ của mình.

Disciples in the group of a Master have to love each other with intelligence and an abiding strength and thus release that light and power which will eventually make the group of effective value in the world. As I work with you in the future, I shall not wait to wrap up the truths I have to say to each of you in such a way that they cannot hurt. I shall not in the future consider your personality feelings and reactions because I count upon the sincerity of your purpose.

Các đệ tử trong nhóm của một Chân sư phải yêu thương nhau với sự thông tuệ và sức mạnh bền bỉ, do đó việc giải phóng ánh sáng và quyền năng đó cuối cùng sẽ làm cho nhóm có giá trị hữu hiệu trên thế giới. Khi tôi làm việc với các bạn trong tương lai, tôi sẽ không mất thời gian che đậy những sự thật mà tôi phải nói với từng người trong số các bạn theo cách không gây tổn thương. Trong tương lai, tôi sẽ không quan tâm đến cảm xúc và phản ứng phàm ngã của các bạn bởi vì tôi tin tưởng vào sự chân thành trong mục đích của bạn.

It is perhaps wise to remember here that, as a general rule, no one believes what others may tell him—no matter how apparent [11] the truth or how much the person may protest that he accepts that truth. Only those truths which are wrought out individually in the crucible of experience really penetrate into the living consciousness and bear fruit. But in this group effort which we are undertaking, the fact that all in the group are made aware of what is said to the individual may prove most useful and produce much more rapid adjustments than could otherwise be the case—provided that, unitedly and in love, they will then help their fellow disciple to change the undesirable condition. I count on one thing only, my brothers, and that is your deep sincerity. It is not a negative thing (as some claim) to point out a fault or error. As the clear light of the soul pours in, it reveals the personality for what it is. If true dispassion is practised, this group of disciples can see things as they are and remain untouched by the revelation of the desirable or the undesirable qualities. If you are depressed or irritated or hurt by such revelation, it indicates a basic lack of dispassion and proves attachment to the personality and to the opinions of others.

Ở đây có lẽ là khôn ngoan khi nhớ rằng, theo nguyên lý chung, không ai tin những gì người khác nói với mình — bất kể là sự thật [11] rõ ràng đến đâu hoặc người đó có thể quả quyết chấp nhận sự thật đó đến mức nào. Chỉ những chân lý được mỗi người đúc kết bởi thử thách trong kinh nghiệm mới thực sự thâm nhập vào tâm thức sống động và đơm hoa kết trái. Nhưng trong nỗ lực nhóm mà chúng ta đang thực hiện này, việc tất cả những người trong nhóm đều biết được những gì được nói riêng với từng cá nhân sẽ rất hữu ích và sẽ điều chỉnh mọi sự lệch lạc một cách mau chóng hơn nhiều, miễn là trong sự hợp nhất và trong tình thương, sau đó họ sẽ giúp người đệ tử ấy thay đổi cái khía cạnh không tốt đó. Hỡi các huynh đệ của tôi, tôi tin tưởng vào một điều duy nhất, đó là sự chân thành sâu sắc của các bạn. Việc vạch ra một khuyết điểm hay lỗi lầm không phải là một việc làm tiêu cực (như một số người tuyên bố). Khi ánh sáng trong trẻo của linh hồn tuôn đổ xuống, nó sẽ tiết lộ bộ mặt thật của phàm ngã. Nếu thực sự thực hành hạnh vô dục, nhóm các đệ tử này có thể nhìn mọi thứ như chính nó và vẫn không bị ảnh hưởng bởi sự tiết lộ của những phẩm chất tốt đẹp hay xấu xa. Nếu các bạn bị chán nản hoặc bị kích thích và tổn thương bởi sự tiết lộ đó, điều đó cho thấy sự thiếu hạnh vô dục và chứng tỏ sự dính mắc với phàm ngã và với ý kiến của người khác.

Secondly, it is essential that all disciples in an Ashram should be contemplatives, but contemplatives in the occult sense and not the mystical. In any meditation work which you are doing or may in the future do, your aim should be to achieve as rapidly as possible the highest point in the meditation process, passing quickly through the stages of concentration, alignment and meditation to contemplation. Having achieved that high point, you should strive to preserve it and should learn thus to function as a soul in its own world, contemplating the world of energies in which all initiates work and in which you each must some day—in this life or another—take your place. This status (if I may call it by such a name) must be carefully striven for, accurately observed when in any way attained, and an exact record of impressions kept. You should, therefore, constitute a group of active contemplatives, and the result

will be facilitated if you will ponder upon and struggle for the first condition of your group existence—group unity.

[12]

Thứ hai, điều thiết yếu là tất cả các đệ tử trong Đạo viện phải thiền định, hiểu theo ý nghĩa huyền bí chứ không phải thần bí. Trong bất kỳ công việc tham thiền nào bạn đang làm hoặc có thể làm trong tương lai, mục đích của bạn phải là đạt được điểm cao nhất trong quá trình tham thiền càng nhanh càng tốt, nhanh chóng vượt qua các giai đoạn tập trung, chỉnh hợp và tham thiền tới giai đoạn chiêm ngưỡng hay nhập định. Sau khi đạt tới điểm cao đó, bạn nên cố gắng giữ gìn nó và nên học cách hoạt động như một linh hồn trong thế giới riêng của nó, chiêm ngưỡng thế giới năng lượng mà ở đó tất cả các vị điểm đạo đồ hoạt động và là nơi mà mỗi người trong các bạn — trong kiếp sống này hay kiếp sống khác — sẽ đạt được. Trạng thái này (nếu tôi có thể gọi nó bằng cái tên như vậy) phải đạt được một cách cẩn thận, và dù nó đạt được theo bất kỳ cách nào thì cũng cần được quan sát một cách đúng đắn, và lưu giữ một ghi nhận chính xác về các ấn tượng. Do đó, các bạn phải hợp thành một nhóm gồm những người tích cực thiền định, và kết quả sẽ dễ dàng nếu bạn chịu suy ngẫm và nỗ lực cho điều kiện đầu tiên của sự tồn tại nhóm của các bạn — ấy là sự hợp nhất nhóm. [12]

Third: This group unity which will have its roots in united group meditation or in the contemplative life (wherein the soul knows itself to be one with all souls) must work out in some form of group activity. This should demonstrate at once in the group itself and later on—when the unification is more complete—in the world at large. It is in this way that the Masters’ Ashrams will be externalised on earth and the Hierarchy function openly on the physical plane and not behind the scenes as hitherto. Then will come the restoration of the Mysteries.

Thứ ba: Sự hợp nhất nhóm này bắt nguồn từ công việc tham thiền hợp nhất nhóm hoặc trong đời sống thiền định (trong đó linh hồn biết mình là một với tất cả những linh hồn khác), phải được thể hiện trong một số hình thức hoạt động nhóm. Điều này phải được thể hiện ngay trong chính nhóm và sau này — khi sự hợp nhất đã được hoàn thiện hơn — nó phải được biểu lộ ra ngoài thế gian. Chính bằng cách này, các Đạo viện của các Chân sư sẽ được ngoại hiện trên trái đất và Thánh Đoàn sẽ hoạt động một cách công khai trên cõi vật lý chứ không phải ở phía sau hậu trường như trước đến nay. Và rồi việc khôi phục các Bí nhiệm sẽ được thực hiện.

PART II—PHẦN II

The question might here be asked: How can this work out practically in a group of disciples—all of them individuals but all sincerely anxious to cooperate and aid in this work? Let me try and give a clear reply.

Đến đây một câu hỏi có thể được đặt ra: Trên thực tế làm thế nào để điều này có thể được thực hiện trong một nhóm các đệ tử – tất cả đều là những cá nhân riêng biệt, nhưng đều chân thành mong muốn hợp tác và hỗ trợ trong công việc này? Tôi sẽ cố gắng đưa ra một câu trả lời rõ ràng.

You have undertaken voluntarily to work together when proffered the opportunity by me. You are aiming towards a group solidarity which will be based upon the fact of your being souls. This should eventually manifest itself subjectively and essentially in the form of a group telepathic inter-communication, as group understanding also of each other’s problems and difficulties and, therefore, as a group opportunity to aid and help one another. This helping should not and must not come through personality effort or contact, or through the stating of problems related to circumstance and character, or through the tendering of advice and suggestion. We deal not with personalities in connection with each other in a Master’s group. At the same time, it should be possible for each of you to learn to strengthen and aid each other, avoiding always any intrusion of the personality. You can each learn to transmit your soul ray quality to a fellow disciple, stimulating him to greater courage, to finer purity of motive and to deeper love, yet avoiding the vitalisation of his personality characteristics. You should learn always to think of each other as souls and not as limited human beings. [13]

Các bạn đã tự nguyện đảm nhận công việc hợp tác cùng nhau khi tôi đưa ra cơ hội này. Các bạn đang hướng tới một sự đoàn kết tập thể dựa trên thực tế rằng các bạn là những linh hồn. Điều này rốt cuộc phải được biểu lộ một cách chủ quan bên trong và chủ yếu thông qua hình thức viễn cảm nhóm, cũng như sự thấu hiểu nhóm về các vấn đề và khó khăn của nhau, và do đó là cơ hội của nhóm để hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Việc giúp đỡ này không nên và không được xuất phát từ nỗ lực hay tiếp xúc của phàm ngã, hoặc thông qua việc nêu ra các vấn đề liên quan đến hoàn cảnh và phẩm hạnh, hoặc thông qua việc đưa ra lời khuyên và trợ giúp. Chúng ta không giải quyết các vấn đề liên quan đến phàm ngã của nhau trong nhóm của một Chân Sư. Đồng thời, mỗi người trong các bạn nên học cách củng cố và hỗ trợ lẫn nhau, luôn tránh việc để phàm ngã xen vào. Các bạn có thể học cách truyền tải phẩm tính cung linh hồn của mình đến đồng môn, khích lệ để họ có thêm lòng can đảm, động cơ trong sáng, và tình yêu thương sâu sắc hơn, đồng thời tránh làm tăng cường các đặc tính của phàm ngã. Các bạn hãy học cách nhìn nhận lẫn nhau như những linh hồn, chứ không phải như những con người bị giới hạn. [13]

We have, therefore, the following three objectives before us:

Do đó, chúng ta có ba mục tiêu chính trước mắt:

1. Group unity … through thought, exoteric knowledge of each other and a constant sending forth of love.

1. Hợp nhất nhóm… thông qua tư tưởng, sự hiểu biết công khai về nhau và việc không ngừng gửi đi tình thương yêu.

2. Group meditation … as a group of contemplatives, thus rooting this group within the kingdom of the soul and strengthening all the individuals involved.

2. Thiền nhóm… như một nhóm những người chiêm nghiệm, nhờ đó gắn kết nhóm này vào cõi giới linh hồn và hỗ trợ tất cả các cá nhân tham gia.

3. Group activity … resulting in the aiding of each other in specific problems of character but not of circumstance. Ponder on this distinction, my brothers.

3. Hoạt động nhóm… kết quả là sự trợ giúp lẫn nhau trong các vấn đề cụ thể về phẩm hạnh chứ không phải hoàn cảnh. Hãy suy ngẫm về sự khác biệt này, các huynh đệ của tôi.

Later, when the group is really established, it should begin to function outwardly and its life should begin to make its presence felt. It should steadily tend to increase the spiritual potency of all groups with which the group members are related and with which they may be associated. I refer to all groups which belong to the New Age and are working along spiritual lines. The eventual effect will be along the line of healing the various ills of mankind—physical, mental, psychological and emotional. 

Sau này, khi nhóm thực sự được thiết lập, nó nên bắt đầu hoạt động ra bên ngoài và đời sống của nhóm nên bắt đầu tạo được ảnh hưởng. Nó phải luôn hướng về việc gia tăng năng lượng tinh thần của tất cả các nhóm mà các thành viên của nhóm có liên hệ hoặc hợp tác. Tôi đang đề cập đến tất cả các nhóm thuộc Kỷ nguyên Mới và hoạt động theo các đường hướng tinh thần. Hiệu quả cuối cùng sẽ theo hướng chữa lành các căn bệnh khác nhau của nhân loại — về thể chất, tinh thần, tâm lý và cảm xúc.

There are certain simple but definite rules which should govern the interior spiritual life of neophytes in training for the various stages of discipleship. Let me here outline to you my suggestions for this simple and immediate work.

Có những quy luật đơn giản nhưng tất yếu chi phối đời sống tinh thần nội tại của các môn sinh sơ cơ trong quá trình huấn luyện cho các giai đoạn đệ tử khác nhau. Tôi sẽ phác họa cho các bạn những gợi ý của tôi cho công việc đơn giản và cấp bách này.

First of all, all disciples practise regular and daily meditation. These meditations are each individually suited to the disciple concerned and vary according to ray, point in evolution and the stage of discipleship which is the immediate objective. These cannot be given here. These meditations will be given to you as suggestions for your use and acceptance. Endeavour at some stage in your meditation to link up with me but let this linking up take place after you have worked at and brought about an alignment with your soul. The reason that it is essential that you link up after alignment is that you can then avoid the glamours and the illusions of the astral plane whereon thoughtforms and masquerading entities personalise the teachers and the Masters and do so in their myriads. Add also to your meditation a short period wherein you will try and link up with your co-disciples, sending them love, soul force, and help. [14]

Trước hết, tất cả các đệ tử thực hành tham thiền đều đặn hàng ngày. Các bài thiền này được thiết kế riêng cho từng đệ tử liên quan và thay đổi tùy thuộc vào cung, trình độ tiến hóa và giai đoạn đệ tử vốn đang là mục tiêu ngay trước mắt. Những bài thiền này không thể được trình bày ở đây. Chúng sẽ được đưa ra dưới dạng các gợi ý để các bạn sử dụng và chấp nhận. Trong một giai đoạn nào đó của việc tham thiền, hãy cố gắng kết nối với tôi, nhưng để việc kết nối này xảy ra sau khi các bạn đã làm việc và thiết lập được sự chỉnh hợp với linh hồn của mình. Lý do cần thiết phải chỉnh hợp trước khi kết nối là để các bạn có thể tránh được những ảo cảm và ảo tưởng của cõi cảm dục, nơi mà các hình tư tưởng và các thực thể giả danh các huấn sư hoặc Chân Sư xuất hiện vô số. Cũng nên thêm vào bài tham thiền của các bạn một khoảng thời gian ngắn để cố gắng liên hệ với các đệ tử đồng môn của mình, gửi cho họ tình yêu thương, sức mạnh của linh hồn và sự hỗ trợ. [14]

You would find it useful to keep what might be called a spiritual diary. This does not involve the daily entering of the day’s events and has no relation to the happenings which may concern the personality. Note this. In this diary you should record the following:

Các bạn sẽ thấy hữu ích khi duy trì nhật ký tâm linh. Nó không yêu cầu các bạn  phải ghi chép các sự kiện hàng ngày hoặc bất kỳ điều gì liên quan đến các biến cố thuộc về phàm ngã. Hãy lưu ý điều này. Trong nhật ký này, các bạn nên ghi lại những điều sau:

1. Any spiritual experience which may come to you, such as contact with some Presence, either that of your own soul, the angel of the Presence, contact with some disciple and eventually—when your life and work and discipline warrant it—contact with one of the Masters. Record this in an impartial way, preserving the scientific attitude and seeking ever a practical explanation before accepting a mystical one. A spirit of agnosticism (not of atheism) is of real value to the beginner and preserves him from the snares of the world illusion and of lower psychism.

1. Bất kỳ trải nghiệm tinh thần nào đến với các bạn, chẳng hạn như sự tiếp xúc với Sự Hiện Diện nào đó — có thể là linh hồn của chính các bạn, đấng Thiên thần Hiện Diện, sự tiếp xúc với một đệ tử nào đó, và cuối cùng — khi đời sống, công việc và sự tuân hành kỷ luật của các bạn cho phép — sự tiếp xúc với một trong các vị Chân Sư. Hãy ghi lại điều này một cách vô tư, giữ thái độ khoa học, và luôn tìm kiếm một lời giải thích thực tế trước khi chấp nhận một lý giải huyền bí. Một tinh thần bất khả tri (không phải vô thần) thực sự có giá trị đối với người mới bắt đầu, giúp họ tránh khỏi những cạm bẫy của ảo tưởng thế gian và của thông linh bậc thấp.

2. Any illumination which may come to you, throwing a flood of light upon a problem and revealing the way that you or the group should go. Any intuition which—corroborated by the reason—carries one forward into knowledge and evokes the wisdom of the soul and its registration by the brain, via the mind.

2. Bất kỳ sự soi sáng nào đến với các bạn, làm sáng tỏ sâu sắc một vấn đề và hé lộ con đường mà các bạn hoặc nhóm của các bạn nên đi. Bất kỳ trực giác nào—được lý trí chứng thực—đưa các bạn tiến xa hơn trong tri thức và khơi dậy minh triết của linh hồn, để trí não ghi nhận qua thể trí.

3. Any telepathic happenings between you and your fellow disciples. This telepathic interplay should be cultivated but it must be most carefully checked and counterchecked and the strictest accuracy preserved. Thus we shall have the fostering of the spirit of Truth, which is the governing principle of all true telepathic communication. An Ashram functions telepathically when fully and rightly organised.

3. Bất kỳ hiện tượng viễn cảm nào xảy ra giữa các bạn và các đệ tử đồng môn. Sự tương tác viễn cảm này nên được trau dồi, nhưng cần được kiểm tra và đối chiếu thật cẩn thận, và cần được duy trì với độ chính xác nghiêm ngặt. Nhờ vậy, tinh thần Chân Lý sẽ được nuôi dưỡng, vì đó là nguyên tắc chủ đạo của mọi giao tiếp viễn cảm chân chính. Một Đạo viện hoạt động bằng phương pháp viễn cảm khi nó được tổ chức hoàn chỉnh và đúng đắn.

4. Any phenomena of a mystical and spiritual kind should also be noted. The seeing of the light in the head comes under this category. Its brilliance should be noted, its growth and dimming; the hearing of the Voice of the Silence which is the voice of the soul but not of the subconscious; the registering of messages from the soul or from other disciples and world Servers; expansions of consciousness which initiate you into the conscious life of [15] God, as it manifests through any forms and the hearing of the note of all beings. A close study of the third part of The Light of the Soul (the Yoga Sutras of Patanjali) will indicate the type of henomena which should find its place in this diary.

4. Bất kỳ hiện tượng thần bí và tinh thần nào cũng cần được ghi lại. Việc nhìn thấy ánh sáng trong đầu được xếp vào loại này. Hãy ghi lại độ chói rạng của ánh sáng, sự tăng trưởng hay lu mờ của nó; nghe được “Tiếng Nói Vô Thinh,” vốn là tiếng nói của linh hồn chứ không phải của tiềm thức; ghi nhận các thông điệp từ linh hồn hoặc từ các đệ tử và những Người Phụng Sự Thế Gian; những sự mở rộng tâm thức vốn đưa các bạn bước vào đời sống hữu thức của [15] Thượng Đế, như Ngài biểu hiện qua mọi hình tướng, và nghe được âm điệu của mọi chúng sinh. Việc nghiên cứu kỹ quyển ba cuốn Ánh sáng của Linh hồn (Yoga Sutras của Patanjali) sẽ chỉ dẫn loại hiện tượng nào nên được ghi chép vào nhật ký này.

5. Any experiences of a psychic kind which do not come under any of the above headings. Those mentioned above come under the heading of the higher psychism and concern the higher psychic faculties, spiritual perception, intuitive knowledge, mental telepathy (and not the telepathy which is based upon the solar plexus activity). The lower psychic experiences can also be noted—whether pleasant or unpleasant. Once noted, however, they should be forgotten for they are of no moment.

5. Bất kỳ trải nghiệm thông linh nào không thuộc các mục trên. Những trải nghiệm được đề cập trên thuộc loại thông linh bậc cao và có liên quan đến các năng lực thông linh cao hơn, nhận thức tinh thần, tri thức trực giác, và viễn cảm trí tuệ (không phải viễn cảm dựa trên hoạt động của luân xa tùng thái dương). Các trải nghiệm thông linh thấp hơn cũng có thể được ghi lại—dù dễ chịu hay khó chịu. Tuy nhiên, khi đã ghi nhận xong loại này thì hãy bỏ qua vì chúng không có gì đáng kể.

Days may go by and weeks with no record. Let this in no way disconcert you. The sensitivity of the mechanism of the soul to spiritual vibration has to be cultivated and existing sensitivity to lower psychic impressions has to be tuned out; so many voices clamour for attention, so many impressions—emanating from the physical and astral forms around us—register upon our consciousness, that the vibrations and sounds coming from the subjective and spiritual world are lost and not registered and recorded. You will find it interesting to note, at the end of a few years, the difference in the data recorded and the development of sensitivity to the right kind of impression. This can only be realised after much time has elapsed and much spurious material has been eliminated, after being recognised for what it is: astralism, spurious claims and thoughtforms.

Nhiều ngày tháng có thể trôi qua, và thậm chí là cả nhiều tuần lễ mà không có ghi nhận nào. Đừng để điều này làm các bạn bối rối. Sự nhạy bén của vận cụ của linh hồn đối với rung động tinh thần cần được nuôi dưỡng, trong khi sự nhạy cảm hiện tại đối với những ấn tượng thông linh thấp hơn cần được loại trừ. Có quá nhiều âm thanh đang kêu gọi sự chú ý, quá nhiều ấn tượng—xuất phát từ các hình thể vật lý và cảm dục xung quanh—được ghi nhận vào tâm thức của chúng ta, khiến các rung động và âm thanh đến từ thế giới tinh thần nội tại bị mất đi, không được tiếp thu và ghi nhận. Sau một vài năm, các bạn sẽ thấy thích thú khi nhận thấy sự khác biệt giữa những điều đã ghi vào nhật ký và sự phát triển khả năng nhạy bén đối với những ấn tượng đúng đắn. Điều này chỉ có thể được nhận ra sau một thời gian khá lâu, và sau khi loại bỏ được nhiều yếu tố giả mạo, khi chúng được nhận diện đúng bản chất như: những hiện tượng cảm dục, những tuyên bố sai lệch và các hình tư tưởng.

Another question might here be asked: What should disciples in a Master’s group look for as evidence of successful group work? First and foremost, as you well know, group integrity and cohesion. Nothing can be done without this. The subjective linking of the disciples with each other in their own group, and the linking of the group with other groups occupied with special work within the Ashram and the emergence (as a result of this) of a group and an ashramic consciousness are vital objectives. It is hoped that this will also [16] eventuate in a telepathic interplay which will bring potent results and successful outer work. From these activities will emerge a group circulation of energy which will be of service in world salvage. Each of you should remember that purity of body, control of the emotions and stability of mind are fundamental necessities and should be daily the attempted achievement. Again and again, I come back to these prime character requirements and—tiresome as the reiteration may be—I urge upon you the cultivation of these qualities. I would like to remind you also that you are adult and mature men and women who need not specific statements as to faults and characteristics. I seek only to make suggestion as to trends of thought. Note here the word suggestion, for that is all I seek to give. The disciple must be left free to follow a suggestion or a hint as seems wise to him. This entire work might be termed an experiment in esoteric commonsense and in willingness to accept suggestion. It is a trial of the intuition and a test in discrimination. This work to which I have called you is also an experiment in impersonality, in willingness to work and learn, in freedom to choose or reject, in observation and in techniques. All have their value.

Một câu hỏi khác có thể được đặt ra: Các đệ tử trong một nhóm của Chân sư nên tìm kiếm điều gì làm bằng chứng cho sự thành công của công việc nhóm? Trước tiên và quan trọng nhất, như huynh đệ đã biết, là sự toàn vẹn và cố kết của nhóm. Nếu thiếu yếu tố này thì không thể thực hiện được điều gì khác. Sự liên kết nội tại giữa các đệ tử trong nhóm, và sự liên kết của nhóm với các nhóm khác đang đảm nhận công việc đặc biệt trong Đạo viện, cùng với sự xuất hiện (như là kết quả) của một tâm thức nhóm và tâm thức đạo viện, là những mục tiêu thiết yếu. Hy vọng rằng điều này cũng sẽ [16] dẫn đến một sự giao tiếp viễn cảm vốn sẽ mang lại những kết quả mạnh mẽ và công việc bên ngoài thành công. Từ những hoạt động này, sẽ xuất hiện một dòng lưu chuyển năng lượng nhóm góp phần phục vụ cho việc cứu rỗi thế gian. Mỗi người trong các bạn cần nhớ rằng: sự thanh khiết của thể xác, việc kiểm soát cảm xúc, và sự ổn định của tâm trí là những yêu cầu cơ bản và cần được thực hành mỗi ngày. Lần này qua lần khác, tôi nhấn mạnh trở lại những đức tính căn bản này—dù sự lặp lại có thể gây nhàm chán—tôi vẫn thúc giục các bạn trau dồi những phẩm chất này. Tôi cũng muốn nhắc các bạn rằng: các bạn là những người trưởng thành và chín chắn, không cần những chỉ dẫn cụ thể về lỗi lầm và đặc điểm của mình. Tôi chỉ tìm cách đưa ra những gợi ý về hướng suy nghĩ. Hãy chú ý đến từ gợi ý, vì đó là tất cả những gì tôi muốn đưa ra. Người đệ tử phải được tự do theo hoặc không theo một gợi ý hay một đề nghị kín đáo nếu y cho là phù hợp. Toàn bộ công việc này có thể được gọi là một thử nghiệm về sự phán đoán sáng suốt theo nội môn và sự sẵn sàng chấp nhận gợi ý. Đây là một cuộc thử nghiệm trực giác và một phép thử về tính phân biện. Công việc này mà tôi đã kêu gọi các bạn tham gia cũng là một thử nghiệm về tính vô ngã, về sự sẵn lòng làm việc và học hỏi, về tự do để lựa chọn hoặc từ chối, về sự quan sát và về các kỹ thuật. Tất cả đều có giá trị của chúng.

This is an experiment likewise for me. I have worked hitherto with only three occidental chelas, of whom A.A.B. is one. The other two are totally unknown to any of you. I ask for your aid and cooperation during these early stages of the work as far as the reaching of conclusions is concerned. I ask you to stand together—no matter what eventuates or what forces may seek to separate you. I ask my disciples to love each other in spite of character and ray differences and to work loyally together for group coherence and integrity—no matter what diverse opinions you may hold or what may occur as time elapses. If you can hold together down the years and throughout this life cycle, then the group can carry forward into the future and work together on other planes, thus conserving energy. Can you persist and carry on? Can such a telepathic interplay be set up that the barrier of death will eventually prove no barrier at all and continuity of communication persist? [17]

Đây cũng là một thử nghiệm đối với tôi. Cho đến nay, tôi chỉ làm việc với ba đệ tử phương Tây mà A.A.B. là một. Hai người kia hoàn toàn xa lạ với các bạn. Tôi yêu cầu sự hỗ trợ và hợp tác của các bạn trong giai đoạn đầu tiên này, đặc biệt là trong việc đưa ra các kết luận. Hãy luôn đứng sát cánh bên nhau—bất kể điều gì xảy ra hoặc bất luận mãnh lực nào có thể cố gắng chia rẽ các bạn. Các đệ tử hãy yêu thương lẫn nhau, bất kể sự khác biệt về tính cách và cung năng lượng, và làm việc trung thành với nhau để duy trì sự gắn kết và toàn vẹn của nhóm—dù cho các bạn có quan điểm khác nhau hay bất kể điều gì có thể xảy ra trong thời gian tới. Nếu các bạn có thể giữ vững sự đoàn kết qua nhiều năm và trong suốt kiếp sống này, nhóm sẽ có thể tiếp tục tiến lên trong tương lai và làm việc cùng nhau trên các cõi giới khác, qua đó bảo toàn năng lượng. Các bạn có thể kiên trì và tiếp tục công việc như thế chăng? Liệu các bạn có thể thiết lập một sự giao tiếp viễn cảm đến mức rào cản của cái chết cuối cùng sẽ không còn là trở ngại, và sự liên tục trong giao tiếp vẫn được duy trì? [17]

Many such questions arise and time alone will give the answer. If there is persistence in effort, if there is the loyal link of love, if there is adherence to the group ideal and if there is mutual forbearance and understanding and patience, it may be possible that this group can be welded into a unit which will indeed be a living atom in the hierarchical body. You are all on the Path of Discipleship at some stage or another; in this lies opportunity.

Nhiều câu hỏi tương tự như vậy nảy sinh, và chỉ thời gian mới có thể đưa ra câu trả lời. Nếu có sự kiên trì trong nỗ lực, nếu có sự kết nối bền bỉ bằng tình yêu thương, nếu có sự trung thành với lý tưởng của nhóm, và nếu có sự bao dung, hiểu biết và kiên nhẫn với nhau, có thể nhóm này sẽ được gắn kết thành một đơn vị thống nhất, thật sự trở thành một nguyên tử sống động trong cơ thể của Thánh đoàn. Tất cả các bạn đều đang ở vào một giai đoạn này hay giai đoạn khác trên Con Đường Đệ Tử; và cơ hội vốn nằm sẵn trong tầm tay.

This is a body (small indeed) of disciples who—through devotion to truth, through their attempt to do their duty, and their mutual karmic relation both to each other and to me—have been chosen (in spite of limitations and faulty development) to work together towards the specific end of forming a nucleus of spiritual power and energy for the helping of humanity. But above all else, it is a group formed to inaugurate the methods of the New Age as regards group work, and the training of disciples and their preparation for initiation, along with other groups all over the world who have caught the new vision and are working under the inspiration and the impression of the Masters. The foundation of these schools of the Mysteries which will later be restored to the world and to which I referred in Letters on Occult Meditation may be possible if all of you measure up to opportunity. This should be borne in mind. The experiment may fail. Whether it does or not, real profit will in any case eventuate…. That you may one and all measure up to the opportunity and carry the work forward in the three worlds and in the kingdom where the light of the soul streams forth is my earnest wish and desire.

Đây là một nhóm (dù nhỏ bé) các đệ tử—thông qua sự tận tâm với chân lý, thông qua nỗ lực thực hiện bổn phận, và thông qua mối quan hệ nghiệp quả tương hỗ giữa các thành viên với nhau và với tôi—đã được chọn (bất kể những hạn chế và sự phát triển chưa hoàn thiện) để cùng làm việc hướng tới mục tiêu cụ thể là hình thành một hạt nhân của quyền năng và năng lượng tinh thần để giúp đỡ nhân loại. Nhưng trên tất cả, đây là một nhóm được hình thành để khởi xướng các phương pháp của Kỷ Nguyên Mới trong công việc nhóm, trong việc huấn luyện đệ tử và chuẩn bị cho họ được điểm đạo, cùng với các nhóm khác trên khắp thế giới, những người đã nắm bắt được tầm nhìn mới và đang làm việc dưới cảm hứng và ấn tượng của các Chân Sư. Nền tảng của các trường Huyền Bí Học, mà sau này sẽ được khôi phục cho thế giới và được tôi đề cập trong Thư Về Tham Thiền Huyền Môn, có thể trở thành hiện thực nếu tất cả các bạn tận dụng được cơ hội. Điều này cần được ghi nhớ. Thử nghiệm này có thể thất bại. Dù vậy, chắc chắn sẽ có lợi ích thực sự trong mọi trường hợp. Mong ước rằng tất cả các bạn sẽ tận dụng cơ hội này và tiến hành công việc trong ba cõi hạ giới và trong vương quốc nơi ánh sáng của linh hồn tỏa rạng—đó là ước nguyện và mong muốn chân thành của tôi.

PART III—PHẦN III

As you face this opportunity in a world which is passing through a major crisis, I would like to state that it is necessary for all working brothers and disciples to have three things in mind if they are to work efficiently and as desired.

Khi các bạn đồi diện cơ hội này trong một thế giới đang trải qua một cơn khủng hoảng lớn, tôi muốn nói rằng tất cả những huynh đệ và đệ tử đang phụng sự cần lưu tâm ba điều để có thể phụng sự một cách hiệu quả và như ý muốn.

First: Disciples should know that the Masters have three grades of workers. here are those doing the difficult work in the outer world. They materialise the forms through which the Hierarchy can express its intentions and they make the [18] human contacts. There are many such disciples and they are doing this work from their own free choice and because they have realised the immediate and coming need of humanity and have pledged themselves to serve. There are, secondly, those who act as links between the Elder Brothers of the race, the Masters of the Wisdom Who embody the divine plan and the workers mentioned above. I do not say that they act as links between the disciple and his Master for that is a direct relationship which none may touch, particularly in the more advanced stages. This second group of working disciples, however, act as intermediaries in the working out of the plan in the world and they hold themselves in readiness to go anywhere when requested, thus aiding with their wisdom and experience and supplementing the capacities of the field workers, conferring with them. There are several such that are being sent expressly into the field at this time to hasten the work whenever possible and to increase the magnetic attraction of those centres through which the spiritual force of the New Age can flow.

Thứ nhất: Các đệ tử nên biết rằng các Chân Sư có ba cấp độ phụng sự viên. Có những người đang làm công việc khó khăn ở ngoài đời. Họ hiện thực hóa các hình tướng qua đó Thánh đoàn có thể biểu lộ ý muốn của mình, và họ thiết lập [18] các mối liên hệ với nhân loại. Có rất nhiều đệ tử như vậy, và họ đang thực hiện công việc này từ sự tự do lựa chọn của mình vì họ đã nhận thức được nhu cầu cấp thiết hiện tại và sắp tới của nhân loại, và đã tự thệ nguyện phụng sự. Thứ hai là những người đóng vai trò liên kết giữa những người Anh Cả của nhân loại — các Chân Sư Minh Triết, những Người hiện thân cho Thiên Cơ — và các phụng sự viên được nhắc đến ở trên. Tôi không nói rằng họ đóng vai trò liên lạc giữa một đệ tử và Chân Sư của y, vì đó là một mối quan hệ trực tiếp mà không ai được phép can thiệp, đặc biệt ở các giai đoạn cao hơn. Tuy nhiên, nhóm đệ tử phụng sự thứ hai này hoạt động như những người trung gian trong việc thực hiện Thiên Cơ trên thế giới, và họ luôn sẵn sàng đi bất cứ đâu khi được yêu cầu, hỗ trợ bằng sự minh triết và kinh nghiệm của mình, bổ sung khả năng và hội ý với các phụng sự viên ở ngoài đời. Hiện tại, có một số người như vậy đang được đặc biệt cử đi công tác ở ngoài đời để đẩy nhanh công việc bất cứ khi nào có thể và tăng cường sức hút từ tính tại các trung tâm lực mà mãnh lực tinh thần của Kỷ Nguyên Mới có thể tuôn đổ.

This is all being done preparatory to a supreme effort which the Hierarchy of Masters plans to make. Should all of you in the field at this time work with complete surrender and devotion—giving of all your time and interest to the cause—it may be possible to prepare the ground in such a manner that the coming effort of the Masters may prove adequate to the emergency. 

Tất cả điều này đang được thực hiện nhằm chuẩn bị cho một nỗ lực tối thượng mà Thánh đoàn các Chân Sư dự định thực hiện. Nếu tất cả các bạn, những người đang phụng sự ở ngoài đời lúc này, có thể làm việc với sự quy phục và tận tụy hoàn toàn — dành toàn bộ thời gian và sự quan tâm cho sự nghiệp này — thì có thể dọn đường theo cách mà nỗ lực sắp tới của các Chân Sư sẽ đủ đáp ứng cho tình huống khẩn cấp.

The third group is that of the Masters Themselves and Their  cooperating initiates. They work primarily upon the inner side. Their activities are confined largely to the mental plane and to the scientific use of thought. Thus They guide Their workers and helpers and influence and direct Their working disciples and the world disciples.

Nhóm thứ ba là nhóm của chính các Chân Sư và các điểm đạo đồ cộng sự của các Ngài. Các Ngài làm việc chủ yếu ở cõi nội giới. Những hoạt động của các Ngài phần lớn tập trung trên cõi trí và vào việc sử dụng tư tưởng một cách khoa học. Qua đó, các Ngài hướng dẫn các phụng sự viên và người trợ giúp của mình, tạo ảnh hưởng và chỉ dẫn cho các đệ tử đang hoạt động của các Ngài cũng như các đệ tử thế giới.

There is at this time an inner intention of blending the occidental and the oriental approaches to the ancient wisdom and to the Hierarchy. Cooperation and the mutual interchange of wisdom and of knowledge are essential if this is to be perfected. The objectives of both methods—the mystic and the occult—are the same. [19]

Hiện tại, có một ý định nội tại nhằm kết hợp cách tiếp cận phương Tây và phương Đông đối với minh triết ngàn đời và Thánh đoàn. Sự hợp tác và trao đổi với nhau về minh triết và tri thức là thiết yếu nếu muốn hoàn thiện điều này. Các mục tiêu của cả hai phương pháp — thần bí và huyền bí — là như nhau. [19]

Second: It is necessary for working disciples at this time to appreciate the immediate emergency. There is a crisis in the affairs of men. This crisis must be viewed in terms of opportunity and not in terms of cataclysm or catastrophe. Just as in the life of an aspirant to discipleship, there comes a life or a series of lives wherein there is direct conflict between the soul and the lower nature, so there is now an analogous crisis upon our planet. The object in both cases is that the soul may assume an increasing control over the form aspect.

Thứ hai: Các đệ tử đang làm việc vào thời điểm này cần nhận thức rõ tình thế khẩn cấp hiện tại. Đang có một cuộc khủng hoảng trong các vấn đề của nhân loại. Cuộc khủng hoảng này cần được nhìn nhận dưới góc độ cơ hội, chứ không phải như một biến động hay thảm họa. Giống như trong cuộc đời của một người chí nguyện trên Con đường Đệ Tử, có một hoặc nhiều kiếp sống trong đó xảy ra xung đột trực tiếp giữa linh hồn và bản chất thấp hơn, thì giờ đây một cuộc khủng hoảng tương tự đang xảy ra trên hành tinh chúng ta. Mục đích trong cả hai trường hợp này là để linh hồn ngày càng đảm nhận quyền kiểm soát lớn hơn đối với khía cạnh hình tướng. 

Looking at it from another angle, this planetary soul—functioning as a Hierarchy of Masters —is in direct conflict with the forces of evil. It should, however, be borne in mind that those forces also constitute a hierarchy of entities, constituting the material forms and, therefore, in their place, true and correct. It is a question, in reality, of what is the objective in any particular time cycle. The present objective is that the human family should now, as a whole, do three things and anything which militates against this is evil. 

Nhìn từ một góc độ khác, linh hồn hành tinh — hoạt động dưới hình thức Thánh đoàn các Chân Sư — đang trong cuộc xung đột trực tiếp với các mãnh lực tà ác. Tuy nhiên, cần nhớ rằng những lực lượng này cũng cấu thành một huyền giai các thực thể, chúng tạo nên các hình tướng vật chất, và do đó, là đúng đắn và phù hợp trong cương vị của chúng. Đây thực chất là vấn đề về mục tiêu của mỗi chu kỳ thời gian cụ thể. Mục tiêu hiện tại là gia đình nhân loại, như là một tổng thể, cần thực hiện ba điều, và bất cứ điều gì đi ngược lại những điều này đều là tà ác.

1. Manifest the nature of the soul, through the integrated personality. The nature of the soul is love and the will-to-good. 

1. Biểu lộ bản chất của linh hồn thông qua phàm ngã tích hợp. Bản chất của linh hồn là tình thương và ý chí-hướng thiện[LK1] .[LK2] 

2. Transfer the energy, now turned to the vitalising of the physical body and physical creation, to the nurturing of the creative faculty upon the mental plane; thus the entire human family will be transmuted into a dynamic, self-conscious, creative agency.

2. Chuyển di năng lượng, hiện đang tập trung vào việc tăng cường sinh khí cho thể vật lý và duy trì giống nòi, sang việc nuôi dưỡng khả năng sáng tạo trên cõi trí; từ đó, toàn thể gia đình nhân loại sẽ được chuyển hóa thành một cơ quan năng động, tự nhận thức và sáng tạo.

3. Usher in a period of spiritual unfoldment in every kingdom in nature. At the close of this period, the door into the animal kingdom will again be opened and opportunity offered to waiting embryonic souls. Many also, at this time, can take initiation and hence the balancing of forces at either end of the human line of unfoldment. This is to be brought about by the renewed cyclic activity of the Great White Lodge and will be carried forward through the medium of those energies which are ushering in the New Age. This crisis is upon us almost prematurely, owing to the exceedingly rapid advance made by humanity since 1850. Through the driving [20] urge of men themselves, a new realm and a new dimension has been contacted. Humanity has loosed energies hitherto unknown and the effects are of a dual kind, producing both bad as well as good results.

3. Mở ra một thời kỳ phát triển tinh thần trong mọi giới của tự nhiên. Khi giai đoạn này kết thúc, cánh cửa sẽ lại được mở ra cho giới động vật và cơ hội sẽ được trao cho các linh hồn phôi thai đang chờ đợi. Nhiều người vào thời điểm này cũng có thể nhận điểm đạo, và do đó tạo sự cân bằng lực ở hai đầu của dòng tiến hóa nhân loại. Điều này sẽ được thực hiện nhờ hoạt động chu kỳ mới của Bạch Giai Đoàn và sẽ được thực hiện thông qua những năng lượng vốn đang khai mở Kỷ Nguyên Mới. Cuộc khủng hoảng này đến với chúng ta gần như sớm hơn dự kiến, do sự tiến bộ cực kỳ nhanh chóng của nhân loại kể từ năm 1850. Với sự thôi thúc mãnh liệt [20] của chính họ, con người đã tiếp cận được một cõi giới và một chiều kích mới. Nhân loại đã giải phóng những năng lượng chưa từng được biết đến, và những tác động của chúng mang tính hai mặt, tạo ra kết quả tốt cũng như xấu.

Third: Disciples must now organise for a steady united effort. This must take the form of a closer cooperation between all groups and a standing together in a closer relationship, thus strengthening each others’ hands and, where possible, pooling resources. It should result also in a united push forward of all spiritual and occult agencies and the carrying of the truth along all possible lines, down among the masses of men. Just as in Atlantean days, spiritual forces were subordinated to the selfish desires of men, so today, they are being subordinated to the minds and the ambitions of men and the results will be profoundly evil. The world situation today demonstrates this. For though material benefit and physical prosperity might eventually emerge from certain countries where great experiments are being undertaken, they will only exemplify the triumph of the form and will finally come to naught. Just as every human being struggles through in some one life to personality achievement so it is among the nations. Yet at the heart of every nation lies latent the mystical soul and eventually—after dire struggle and distress—all will be well. Tendencies towards materialism and towards personality achievement must, under the larger plan and the will-to-good, be offset by a counter move of spiritual living and this must be the objective of all working disciples.

Thứ ba: Các đệ tử giờ đây phải tổ chức để thực hiện một nỗ lực hợp nhất và kiên định. Nỗ lực này cần được biểu lộ dưới hình thức hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nhóm và đứng vững cùng nhau trong một mối quan hệ gắn kết hơn, từ đó củng cố sức mạnh cho nhau và đóng góp chung các nguồn lực khi có thể. Điều này cần dẫn đến một bước tiến đồng bộ của tất cả các cơ quan tinh thần và huyền môn, đồng thời mang chân lý đi sâu vào quần chúng, dọc theo mọi đường tuyến khả dĩ. Giống như trong thời đại Atlantis, các lực lượng tinh thần đã bị khuất phục trước những dục vọng ích kỷ của con người, ngày nay họ lại đang bị khuất phục bởi tâm trí và tham vọng của con người, và hậu quả sẽ vô cùng tai hại. Tình hình thế giới hiện tại chứng minh điều này. Dù lợi ích hữu hình và sự thịnh vượng vật chất có thể cuối cùng sẽ xuất hiện từ một số quốc gia nơi những thử nghiệm lớn đang được thực hiện, chúng chỉ minh chứng cho sự chiến thắng của hình tướng và cuối cùng sẽ chẳng mang lại gì. Giống như mỗi con người phải đấu tranh trong một kiếp sống nào đó để đạt thành tựu về phàm ngã, các quốc gia cũng vậy. Tuy nhiên, ở trung tâm của mỗi quốc gia đều ẩn chứa linh hồn bí nhiệm, và cuối cùng — sau những cuộc đấu tranh và thử thách khắc nghiệt  — mọi thứ sẽ ổn thỏa. Xu hướng thiên về chủ nghĩa duy vật và thành tựu của phàm ngã phải được cân bằng lại bởi động lực đối kháng của đời sống tinh thần dưới ánh sáng của Thiên Cơ lớn lao và thiện chí, và đó phải là mục tiêu của tất cả các đệ tử đang phụng sự.

Let such working disciples see to it, therefore, that their love for all beings deepens and that the growth of their love comes through their tapping the group love which lies back of all world happenings. My brothers, when will the time come when the world will realise that the love aspect of the Logos—as it affects the human kingdom—is focussed through the inner subjective group of workers? That love is now in the stage of anchoring itself physically through the new groups (such as this group) which are in process of forming all over the world. These new groups are centres (or should be) of divine love, magnetic, constructive and pure. See to it, therefore, that your conformity to the requirement is met in the measure of your [21] physical strength, bearing ever in mind that you are equal to more effort and to greater strain than ever before. stophere

Hãy để những đệ tử đang phụng sự đảm bảo rằng tình thương của họ dành cho mọi chúng sinh ngày càng sâu sắc và rằng sự phát triển của tình thương này xuất phát từ việc khai mở tình thương tập thể vốn ẩn sau mọi diễn biến trên thế giới. Hỡi các huynh đệ của tôi, khi nào thế giới mới nhận ra rằng khía cạnh tình thương của Thượng Đế — như cách nó ảnh hưởng đến giới nhân loại — được tập trung thông qua nhóm người làm việc ở cõi nội giới? Tình thương ấy hiện đang trong giai đoạn neo đậu vào cõi vật lý thông qua các nhóm mới (như nhóm này) vốn đang được hình thành trên khắp thế giới. Những nhóm mới này là (hoặc nên là) các trung tâm lực của tình thương thiêng liêng, từ tính, mang tính kiến tạo và thuần khiết. Vì vậy, hãy đảm bảo rằng các bạn đáp ứng yêu cầu này trong giới hạn sức mạnh thể chất của mình [21], luôn ghi nhớ rằng các bạn có khả năng chịu đựng nhiều hơn và nỗ lực lớn hơn bao giờ hết. 

This experiment which I have instituted and to which you have voluntarily and willingly submitted yourselves is one undertaken for group purposes. The Hierarchy seeks to discover how sensitive groups are, as a whole, to subjective guidance and instruction, and how free the channels of communication are between the various individuals in the group and the Master, and between the various groups within the Ashram of a Master. A Master’s group of disciples, upon the inner side of life, forms an integrated organism, characterised by mutual life, love and interplay. The relationships in such a group are entirely on mental and astral levels and hence the limitations of the etheric force body and of the physical brain are not astral felt[LK3] . Needless to say the fundamental relation is on soul levels. The fact that the etheric body and the physical brain lie outside these basic relations where the Ashram is concerned leads to greater facility in understanding and to reciprocal interplay. It is wise to remember, however, that the astral potency is far more strongly felt on the physical plane than elsewhere and hence the major emphasis laid upon emotional-desire control in all treatises on discipleship or on preparation for that state. It is not easy for the average beginner on the Path of Discipleship to grasp this or to see the necessity for the rules and suggestions made. For some people to conform to rule and discipline is not easy unless it is entirely self-initiated. The suggestions which I make to you, my brothers, are only suggestions but it is surely the part of wisdom to follow them as long as you have voluntarily put yourselves under my tuition. Your working under me has been entirely of your own free will and choice. You are subjected to no compulsion. Other types of disciples evince willingness to follow instructions but their real difficulty consists in bringing the life into conformity with the desired rhythms. The narrow path, which all disciples have to tread, requires obedience to the ancient rules for disciples. This is given willingly and with eyes open, though no rigid adherence to such rules is ever expected. The disciple grows through intelligently adapting his life to these requirements as far as is reasonably possible and not by adapting the requirements [22] to his life. Flexibility within certain limits is always needed but that flexibility must not be set in motion by any personality inertia or mental questioning. 

Cuộc thử nghiệm này mà tôi đã khởi xướng và các bạn đã tự nguyện và sẵn lòng tham gia, là một nỗ lực nhằm phục vụ các mục đích nhóm. Thánh đoàn muốn khám phá xem các nhóm nói chung nhạy cảm đến mức nào đối với sự hướng dẫn và chỉ dạy nội giới và các kênh liên lạc được thông suốt đến độ nào giữa các cá nhân trong nhóm với Chân Sư, và giữa các nhóm khác nhau trong Đạo viện của một Chân Sư. Về mặt đời sống nội giới, một nhóm đệ tử của Chân Sư tạo thành một cơ quan tích hợp, được đặc trưng bởi sự sống tương hỗ, tình yêu và sự tương tác lẫn nhau. Các mối quan hệ trong một nhóm như vậy hoàn toàn diễn ra trên các mức độ trí tuệ và cảm dục, và do đó, các giới hạn của thể dĩ thái và não bộ vật lý khiến cho chúng không gây ảnh hưởng hay cản trở đến sự tương tác trên các cấp độ này. Tưởng không cần nói rằng, mối quan hệ cơ bản nhất là ở các cấp độ linh hồn. Trong bối cảnh Đạo viện, việc thể dĩ thái và não bộ vật lý nằm ngoài các mối quan hệ cơ bản này, đưa đến một sự cảm thông dễ dàng hơn và một sự liên giao mật thiết hơn. Tuy nhiên, cần nhớ rằng tiềm lực cảm dục được cảm nhận mạnh mẽ hơn nhiều trên cõi trần so với những nơi khác; do đó, trong tất cả các giáo lý về con đường đệ tử hoặc cho sự chuẩn bị trạng thái này đều nhấn mạnh chủ yếu vào việc kiểm soát cảm xúc-dục vọng. Người sơ cơ mới bước trên Con Đường Đệ Tử không dễ nhận ra điều này hoặc thấy được sự cần thiết của các quy luật và gợi ý được đưa ra. Đối với một số người, việc tuân thủ các quy luật và kỷ luật không hề dễ dàng trừ khi đó là sự khởi xướng hoàn toàn từ chính bản thân họ. Hỡi các huynh đệ của tôi, những gợi ý mà tôi đưa ra cho các các bạn, chỉ đơn thuần là các gợi ý, nhưng chắc chắn rằng sẽ khôn ngoan khi làm theo chúng miễn là các bạn tự nguyện đặt mình dưới sự chỉ dẫn của tôi. Việc các bạn làm việc dưới sự hướng dẫn của tôi hoàn toàn dựa trên ý chí tự do và sự lựa chọn của các bạn. Các bạn không bị áp đặt dưới bất kỳ một sự ép buộc nào. Những hạng đệ tử khác thường thể hiện sự sẵn sàng tuân theo các chỉ dẫn, nhưng khó khăn thực sự của họ nằm ở việc điều chỉnh cuộc sống sao cho phù hợp với các nhịp điệu mong muốn. Con đường nhỏ hẹp mà tất cả đệ tử phải dấn bước đòi hỏi sự tuân thủ các quy luật cổ xưa dành cho các đệ tử. Điều này được thực hiện một cách tự nguyện và sáng suốt chứ không phải tuân thủ một cách cứng nhắc với các quy luật đó. Đệ tử phát triển thông qua việc điều chỉnh cuộc sống của mình một cách thông minh để phù hợp với các yêu cầu này ở mức độ hợp lý, thay vì điều chỉnh các yêu cầu [22] để phù hợp với cuộc sống của họ. Sự linh hoạt trong giới hạn nhất định luôn cần thiết, nhưng không nên để bất kỳ sự trì trệ cá nhân hay sự nghi vấn trí tuệ nào làm động lực cho sự linh hoạt đó.

A change in this relationship between disciples is now being made. An attempt is being set on foot to see if a group activity and interplay can now be set up upon the physical plane, involving consequently the use of the etheric body and the brain. The difficulties confronting you are, therefore, great and I am anxious that you should realise this. Will you realise, for instance, that any differences of opinion which may occur in the relations of this group of disciples will be caused by astral-brain reactions and, therefore, must not be considered of any importance whatsoever? They must be immediately eliminated and wiped from the slate of the mind and of the memory and classed as entirely personality limitations and unworthy of hindering group integrity. This experiment, being attempted by a group within my Ashram, is one in mental relations and in soul contact, with the emphasis and attention placed basically there. The astral- physical brain reactions should be regarded as non-existent and as illusion and should be allowed to lapse below the threshold of the group consciousness—there to die for lack of attention. This type of group work is a new venture and unless something definitely new emerges as a result of this experiment, the time and effort are not warranted[LK4] . You must not imagine that the particular line of work on which you may be engaged is the factor of main interest. It is not primarily the unfoldment of the intuition, or of the power to heal, or of telepathic efficiency which is of importance. That which counts with the Hierarchy as the Ashrams function is the establishing subjectively of such a potent group interplay and group relation that an emerging world unity can be seen in embryo. A joint power to be telepathic or a group capacity to intuit truth is of value and somewhat novel. It is the functioning of groups who have the ability to work as a unity, whose ideals are one, whose personalities are merged into one forward swing, whose rhythm is one and whose unity is so firmly established that naught can produce in the group the purely human characteristics of separation, of personal isolation and [23] selfish seeking, that is new. Unselfish people are not rare. Unselfish groups are very rare. Pure detached devotion in a human being is not rare but to find it in a group is rare indeed. The submergence of personal interests in the good of the family or in that of another person is often to be found, for the beauty of the human heart has manifested itself down the ages. To find such an attitude in a group of people and to see such a point of view maintained with an unbroken rhythm and demonstrating spontaneously and naturally—this will be the glory of the New Age.

Ngày nay mối quan hệ này giữa các đệ tử đã có một sự thay đổi. Một nỗ lực đang được khởi xướng để xem liệu có thể thiết lập một hoạt động nhóm và sự tương tác trên cõi vật lý, bao gồm cả việc sử dụng thể dĩ thái và bộ não. Vì vậy, những khó khăn mà các bạn đang phải đối mặt là rất lớn, và tôi mong các bạn nhận ra điều này. Ví dụ, các bạn có nhận ra rằng bất kỳ bất đồng ý kiến nào có thể xảy ra trong mối quan hệ của nhóm đệ tử này là do các phản ứng não bộ-cảm dục và do đó, không nên coi là quan trọng chút nào? Chúng phải được loại bỏ ngay tức khắc khỏi thể trí và ký ức, và phải xem đó hoàn toàn là những hạn chế cá nhân và không đáng để cản trở sự toàn vẹn của nhóm. Cuộc thử nghiệm này đang được thực hiện bởi một nhóm trong Đạo viện của tôi, là một cuộc thử nghiệm trong mối quan hệ về mặt trí tuệ và sự tiếp xúc linh hồn, với trọng tâm và sự chú ý được đặt cơ bản ở hai cấp độ đó. Các phản ứng não bộ vật lý-cảm dục nên được xem như không tồn tại và là ảo tưởng, và nên để chúng rơi xuống dưới ngưỡng tâm thức của nhóm – tại đó chúng sẽ tiêu tan vì thiếu đi sự chú ý. Công việc nhóm kiểu này là một nỗ lực mới, và trừ khi một điều gì đó thực sự mới mẻ xuất hiện từ thử nghiệm này, thì thời gian và công sức bỏ ra là không xứng đáng. các bạn không nên nghĩ rằng công việc cụ thể mà các bạn có thể đang tham gia là yếu tố đáng kể nhất. Không phải là sự phát triển của trực giác, khả năng chữa lành, hay hiệu quả về viễn cảm là điều quan trọng. Điều quan trọng với Thánh Đoàn khi các Đạo viện hoạt động là sự thiết lập một cách nội tại một  tương tác nhóm mạnh mẽ và một mối liên hệ nhóm đến mức sự hợp nhất thế giới có thể được nhìn thấy trong giai đoạn phôi thai. Một quyền năng chung về viễn cảm hoặc một khả năng nhóm để thấu cảm chân lý là có giá trị và khá mới mẻ. Nhưng điều quan trọng hơn là các nhóm có khả năng hoạt động như một thể thống nhất, các lý tưởng của họ là một, các phàm ngã trong nhóm hòa nhập vào một sự chuyển động tiến lên, nhịp điệu của họ là một và sự thống nhất của họ được thiết lập vững chắc đến mức không gì có thể tạo ra trong nhóm những đặc tính của con người thuần túy như sự chia rẽ, sự cô lập cá nhân và [23] sự tìm kiếm ích kỷ, chính đó là điều thật mới mẻ. Những người vị tha vô kỷ thì không hiếm. Nhưng những nhóm vị tha vô kỷ thì rất hiếm. Sự tận tâm buông xả thuần khiết ở một con người không phải là hiếm, nhưng tìm thấy điều này trong một nhóm thì quả thật rất hiếm. Việc đặt lợi ích cá nhân dưới lợi ích của gia đình hoặc của người khác là thường thấy, vì vẻ đẹp của trái tim con người vẫn từng biểu lộ qua các thời đại. Nhưng để tìm thấy thái độ như vậy trong một nhóm người, và thấy quan điểm đó được duy trì với một nhịp điệu không gián đoạn, bộc lộ một cách tự nhiên và tự phát—đây sẽ là vinh quang của Kỷ Nguyên Mới.

To see the link of pure love and of soul relation, realised and utilised in group form and work is indeed new and the attainment of this is the ideal which I set before this group of my disciples. If this group measures up to the vision as it exists in my mind, there will be established upon the physical plane focal points of specialised force through which the Hierarchy can work with greater surety than heretofore. There will (through this and analogous groups) be set in motion on earth a network of spiritual energies which will facilitate the regeneration of the world. The influence of these groups—when permanently established and potently working—will have a wider objective than just the elevation of humanity.

Để nhìn thấy mối liên kết của tình thương thuần khiết và mối liên hệ linh hồn, được nhận thức và sử dụng trong hình thức và công việc nhóm, đó thực là điều mới mẻ và đạt được điều này là lý tưởng mà tôi đặt ra trước nhóm đệ tử của mình. Nếu nhóm này đạt tới tầm nhìn được phác họa trong tâm trí tôi, thì trên cõi vật lý sẽ thiết lập được các điểm tập trung của năng lượng đặc biệt mà qua đó Thánh Đoàn có thể làm việc một cách chắc chắn hơn so với trước đây. Qua nhóm này và các nhóm tương tự, sẽ khởi động trên trái đất một mạng lưới các năng lượng tinh thần nhằm phục hưng thế giới. Ảnh hưởng của những nhóm này—khi được thiết lập vĩnh viễn và hoạt động mạnh mẽ—sẽ có một mục tiêu rộng hơn là việc chỉ nâng cao nhân loại.

The potent rhythm which animates the inner Brotherhood of the Lodge of Masters will make itself felt everywhere on earth and these groups, if successful, may be regarded as the first step toward the emergence into manifestation of the Great White Lodge. But remember this: the keynote of the Lodge is not attainment or degree. It is stable relationship, unity of thought, plus diversity of method, of effort and of function and its quality is friendship in its purest sense. The Brotherhood is a community of souls who are swept by the desire to serve, urged by a spontaneous impulse to love, illumined by one pure Light, devotedly fused and blended into groups of serving Minds, and energised by one Life. Its Members are organised to further the Plan which They consciously contact and with which They deliberately cooperate.

Nhịp điệu mạnh mẽ làm sống động Huynh Đệ Đoàn Của Các Chân Sư ở nội giới sẽ lan tỏa khắp nơi trên trái đất và các nhóm này, nếu thành công, có thể được coi là bước đầu tiên hướng tới sự hiển lộ của Bạch Giai Đoàn. Nhưng hãy nhớ điều này: chủ âm của Huynh Đệ Đoàn không phải là thành quả hay đẳng cấp. Đó là mối liên hệ ổn định, sự thống nhất trong tư duy, cộng thêm sự đa dạng về phương pháp, của nỗ lực và của hành động, và phẩm chất của nó là tình bằng hữu trong ý nghĩa thuần khiết nhất. Huynh Đệ Đoàn là một cộng đồng của những linh hồn cùng chung một nguyện vọng phụng sự, được thúc đẩy bởi một động lực yêu thương, được soi sáng bởi một Ánh Sáng thuần khiết, tận tụy dung hợp và hòa trộn vào các nhóm của những Tâm Trí phụng sự, và được truyền sinh lực bởi một Sự Sống duy nhất. Các Thành viên của nó được tổ chức để thúc đẩy Thiên Cơ mà các Ngài tiếp xúc một cách hữu thức và tích cực hợp tác.

It will be apparent to you, therefore, that the purpose of these groups is to unfold in time the three major powers of all illumined minds: [24]

Vì vậy, các các bạn sẽ thấy rõ ràng  mục đích của các nhóm này là dần dần khai mở ba năng lực chính của tất cả những tâm trí giác ngộ: [24]

First: the power to work in and with all thought substance. The Hierarchy of Illumined Minds is a group Whose telepathic powers enable Them to be sensitive to the mind currents and to register the thoughts of Those Who personify the Mind of God, the Universal Mind, and to register the thoughtforms of Those Who are as far beyond the Hierarchy of Masters as They, in Their turn, are beyond the disciples of the world.

Thứ nhất: năng lực làm việc trong và với mọi chất liệu tư tưởng. Thánh Đoàn của Những Trí Tuệ Giác Ngộ là một nhóm mà khả năng viễn cảm cho phép Họ nhạy cảm với các dòng tâm trí và tiếp nhận các tư tưởng của Những Đấng hiện thân cho Đại Trí tuệ của Thượng Đế, Đại Trí Tuệ Vũ Trụ và tiếp nhận các hình tư tưởng của Những Đấng vượt xa Thánh Đoàn các Chân Sư, cũng như các Chân Sư tới lượt của mình vượt xa các đệ tử thế gian.

Those Lives Who carry out the ideas of the Divine Mind, exist in Their graded orders, and with the detail of Their groupings we are not concerned, except with the fact that the planetary Brotherhood is in telepathic rapport with Those Who are responsible for the planetary conditions in the solar system, with the Great Council, therefore, at Shamballa. They are also in immediate telepathic rapport with each other. The slowly manifesting powers of the radio and the sensitive workings of the perfecting radio mechanisms and of television are but the response in physical matter of the perfected telepathic powers and television of the minds of the Masters of the Wisdom. Forget not, that such powers are inherent in all men.

Những Sự Sống thực thi ý tưởng của Trí Tuệ Thiêng Liêng tồn tại trên các cấp đẳng khác nhau, và chúng ta không cần quan tâm đến chi tiết về các nhóm của Họ, ngoại trừ thực tế rằng Hội Huynh Đệ Hành Tinh có mối quan hệ viễn cảm với Những Đấng chịu trách nhiệm về các điều kiện hành tinh trong thái dương hệ, tức là với Hội Đồng Vĩ Đại tại Shamballa. Họ cũng có mối liên kết viễn cảm tức thời với nhau. Các sức mạnh đang dần biểu hiện của sóng vô tuyến và sự nhạy cảm của các cơ chế vô tuyến cùng công nghệ truyền hình ngày càng hoàn thiện chỉ là sự phản hồi trong vật chất vật lý đối với các năng lực viễn cảm hoàn thiện và khả năng ‘truyền hình’ của các thể trí các Chân Sư Minh Triết. Đừng quên rằng những năng lực này vốn có trong tất cả mọi người.

The inner group of Masters with Whom I am associated work telepathically also with Their disciples and the disciples with each other in lesser degree. The power to “see” the Master —which has been the misguided impulse of the devotees of the world who substitute this desire for aspiration towards soul contact—is but their response to the “television” of Those Who seek to guide them into the light of their own souls. They are only reacting to one of the demonstrated divine powers of the Master but not to soul action.

Nhóm nội tại các Chân Sư mà tôi liên kết cũng làm việc bằng viễn cảm với các đệ tử của các Ngài, và các đệ tử thì làm điều đó với nhau ở mức độ thấp hơn. Năng lực “thấy” Chân Sư—điều mà đã trở thành động lực bị hiểu sai của những tín đồ trên thế giới khi họ thay thế mong muốn này cho sự khao khát kết nối với linh hồn—chỉ là phản ứng của họ đối với “sự truyền hình” của Những Đấng tìm cách hướng dẫn họ đến ánh sáng của chính linh hồn họ. Họ chỉ đang phản ứng với một trong các quyền năng thiêng liêng của Chân Sư được thể hiện, chứ không phản ứng với hành động của linh hồn.

Your response to such stimulation as I can give you and an earnest endeavour on your part to love with unselfishness will gradually perfect in you a similar relation to other workers. This will work out in three directions:

Phản ứng của các bạn đối với sự kích thích mà tôi có thể mang lại và sự nỗ lực chân thành từ phía các bạn để yêu thương một cách vô ngã sẽ dần dần hoàn thiện trong các bạn một mối quan hệ tương tự với những người cộng sự khác. Điều này sẽ thể hiện qua ba hướng sau đây:

1. In a demonstrated ability to be in telepathic rapport with me and with Those with Whom I am associated.

1. Khả năng được chứng minh để có mối liên kết viễn cảm với tôi và với Những Đấng mà tôi liên kết.

2. In power to communicate with each other at any time.

2. Năng lực để giao tiếp với nhau bất kỳ lúc nào.

3. In sensitivity to the thoughts of humanity as a whole.

3. Sự nhạy cảm với tư tưởng của toàn thể nhân loại.

Can you not see, therefore, how a miniature replica of the Brotherhood can be established on earth and how in decades [25] to come the working disciples of the world, the isolated initiates in the many world organisations and the personnel of the New Group of World Servers will automatically respond to the telepathic sensitivity of such groups as will be found working in the many Ashrams of the Masters? The result of this success will not be the recognition of any particular group but it will lead to the recognition of a universal power and the state of mind of disciples of all degrees. This will establish in time and without controversy the unity of all beings. The revelation of unity through the power of thought is the glorious consummation of the work of the Brotherhood and to this you do, as do all disciples, respond in your highest moments. It can, in a smaller way and according to the measure of your consecration, be your glory and your goal also if you hold the thought of oneness, of service and above all else of love.

Các bạn không nhận thấy rằng, qua đó, một mô hình thu nhỏ của Huynh Đệ Đoàn có thể được thiết lập trên trái đất, và trong những thập kỷ sắp tới [25], các đệ tử thế giới đang làm việc, những điểm đạo đồ cô lập trong nhiều tổ chức thế giới, và các thành viên của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian sẽ tự động đáp ứng với sự nhạy cảm viễn cảm của những nhóm như vậy, vốn sẽ được tìm thấy làm việc trong nhiều Đạo viện của các Chân Sư? Kết quả của thành công này sẽ không phải là sự công nhận một nhóm cụ thể nào, mà sẽ dẫn đến sự công nhận một quyền năng phổ quát và trạng thái tâm trí của các đệ tử ở mọi cấp độ. Điều này sẽ dần dần thiết lập sự thống nhất của tất cả chúng sinh không cần bàn cãi. Việc tiết lộ sự thống nhất thông qua quyền năng của tư tưởng là sự thánh tựu vinh quang của công việc của Huynh Đệ Đoàn, và điều này các bạn cũng như mọi đệ tử đều đáp ứng trong những khoảnh khắc cao quý nhất của mình. Trên một phương diện nhỏ bé hơn và tùy theo mức độ cống hiến của các bạn, nó có thể là vinh quang và cũng là mục tiêu của các bạn, nếu các bạn giữ tư tưởng về tính nhất thể, sự phụng sự và trên hết là tình yêu thương.

Second: the power of the intuition, which is the goal of much of the work which disciples must do, requires the unfoldment of another faculty in man. The intuition is a function of the mind also and, when rightly used, it enables man to grasp reality with clarity and to see that reality free from glamour and the illusions of the three worlds. When the intuition functions in any human being, he is enabled to take direct and correct action for he is in touch with the Plan, with pure and unadulterated fact and undistorted ideas—free from illusion and coming direct from the divine or universal Mind. The unfoldment of this faculty will bring about a world recognition of the Plan and this is the greatest achievement of the intuition in this present world cycle. When that Plan is sensed, there comes the realisation of the unity of all beings, of the synthesis of world evolution and of the unity of the divine objective. All life and all forms are seen then in their true perspective; a right sense of values and of time then eventuates. When the Plan is truly intuited and at first hand, then constructive effort becomes inevitable and there is no lost motion. It is the partial realisation of the Plan and its interpretation at second or third hand by the ignorant which is responsible for the wasted effort and the foolish impulses which characterise the present occult and world organisations. [26]

Thứ hai: quyền năng trực giác, mục tiêu của phần lớn công việc mà các đệ tử phải thực hiện, cần đến sự khai mở của một năng lực khác trong con người. Trực giác cũng là một chức năng của thể trí, và khi được sử dụng đúng cách, nó cho phép con người nắm bắt được thực tại một cách rõ ràng và thấy được thực tại không bị che lấp bởi ảo cảm và các ảo tưởng của ba cõi thấp. Khi trực giác hoạt động trong bất kỳ con người nào, người đó có thể hành động trực tiếp và đúng đắn, vì y đang kết nối với Thiên Cơ, với sự thật thuần túy và không pha tạp, với những ý tưởng không bị bóp méo—thoát khỏi ảo tưởng và đến trực tiếp từ Trí Tuệ Thiêng Liêng hoặc Vũ Trụ. Việc phát triển năng lực này sẽ mang lại sự công nhận toàn cầu về Thiên Cơ, và đây là thành tựu lớn nhất của trực giác trong chu kỳ thế giới hiện tại. Khi Thiên Cơ được cảm nhận, sẽ có sự nhận thức về sự thống nhất của tất cả các thực thể, về sự tổng hợp của cơ tiến hóa thế giới và về sự thống nhất của mục tiêu thiêng liêng. Tất cả sự sống và mọi hình thể sẽ được nhìn nhận trong viễn cảnh thực sự của chúng; một ý thức đúng đắn về giá trị và thời gian sẽ xuất hiện. Khi Thiên Cơ được trực giác một cách thực sự và trực tiếp, thì những nỗ lực mang tính xây dựng trở nên tất yếu và không có sự lãng phí năng lượng. Chính sự nhận thức thiếu sót về Thiên Cơ và sự diễn giải gián tiếp qua trung gian thứ hai hay thứ ba bởi những người thiếu hiểu biết, là nguyên nhân gây ra những nỗ lực lãng phí và các xung động dại dột vốn đặc trưng cho các tổ chức huyền bí trên thế giới hiện nay. [26]

The various groups in a Master’s Ashram can fulfil certain functions and provide laboratories for specified work. Some can provide a demonstration laboratory of the trained observers of the world and can handle world glamour and illusion. Other groups can focus on the development of the telepathic faculty and become trained communicators. The objective before the Hierarchy at this time is to break and dissipate the world glamour. This has to happen on a world scale just as it happens in the life of every disciple. Just as a man shifts his focus of consciousness (when on the Path of Discipleship) on to the mental plane and learns to smash the glamour which has hitherto held him on the astral plane, so the problem before the Hierarchy today is to bring about a similar happening in the life of humanity as a whole, for humanity is at the crossroads and its consciousness is being rapidly focussed on the mental plane. A death blow must be struck at the world illusion for it holds the sons of men in thrall. By learning to break through the glamour in their own lives and to live in the light of the intuition, disciples can strengthen the hands of Those Whose task it is to awaken the intuition in man. There are many and different kinds of glamour and disciples are frequently surprised when they learn what is regarded as glamour by the Masters. I will enumerate a few of the more general glamours for you, leaving you to make any needed application and expansion of the idea from the individual to humanity as a whole. Here are the names of some of these glamours:

Các nhóm khác nhau trong Đạo viện của Chân sư có thể thực hiện một số chức năng nhất định và cung cấp môi trường thí nghiệm cho công tác đặc biệt. Một số có thể cung cấp môi trường thí nghiệm thực nghiệm cho các nhà quan sát lão luyện thế giới và có thể xử lý ảo cảm và ảo tưởng thế giới. Các nhóm khác có thể tập trung vào sự phát triển trong lĩnh vực viễn cảm và trở thành những nhà viễn cảm lão luyện. Mục tiêu trước mắt của Thánh đoàn lúc này là phá vỡ và xua tan ảo cảm thế giới. Điều này phải xảy ra trên quy mô toàn thế giới giống như xảy ra trong đời sống của mỗi đệ tử. Cũng giống như một người chuyển trọng tâm tâm thức của mình (khi ở trên Con đường Đệ tử) sang cõi trí và học cách làm tan rã ảo cảm mà cho đến nay đã giữ y trên cõi cảm dục, vì vậy vấn đề trước tiên của Thánh đoàn ngày nay là khiến cho một điều tương tự xảy ra trong cuộc sống của toàn thể nhân loại nói chung, vì nhân loại đang ở ngã ba đường và tâm thức của nó đang được tập trung nhanh chóng vào cõi trí. Một đòn chí mạng phải được giáng vào ảo tưởng thế giới vì nó giữ những người con của nhân loại trong trạng thái nô lệ. Bằng cách vượt qua ảo cảm trong cuộc sống của chính mình và sống trong ánh sáng của trực giác, các đệ tử có thể tăng cường hỗ trợ các Đấng mà nhiệm vụ của các Ngài là đánh thức trực giác của con người. Có rất nhiều loại ảo cảm khác nhau và các đệ tử thường ngạc nhiên khi họ học hỏi từ các vị Chân sư những gì được coi là ảo cảm. Tôi sẽ liệt kê một số ảo cảm chung để các bạn thực hiện bất kỳ áp dụng cần thiết nào và mở rộng ý tưởng từ cá nhân đến toàn thể nhân loại. Dưới đây là một trong số các ảo cảm đó:

1. The glamour of destiny. This is a glamour which indicates to the one whom it controls that he has important work to do and that he must speak and work as destined. This feeds a pride which has no foundation in fact.


1. Ảo cảm về định mệnh. Đây là ảo cảm làm cho một người nghĩ rằng y có sứ mạng quan trọng phải làm và y phải nói và hành động như định mệnh sắp đặt. Điều này nuôi dưỡng một tính kiêu căng mà nó vốn vô căn cứ.

2. The glamour of aspiration. Those thus conditioned are completely satisfied and pre-occupied with their aspiration towards the light and rest back upon the fact that they are aspirants. Such people need to move onward on to the Path of Discipleship and cease their preoccupation and satisfaction with their spiritual ambitions and goals.

2. Ảo cảm về khát vọng. Những người có tình trạng như này hoàn toàn hài lòng và tập trung vào khát vọng của họ hướng tới ánh sáng và yên lòng trên thực tế rằng họ là những người chí nguyện. Những người như vậy cần phải tiếp tục Con đường Đệ tử, và ngừng bận tâm cũng như ngừng thỏa mãn với những tham vọng và mục tiêu tinh thần của mình.

3. The glamour of self-assurance or of what might be called the astral principles of the disciple. This is the belief, [27] in plain language, that the disciple regards that his point of view is entirely right. This again feeds pride and tends to make the disciple believe himself to be an authority and infallible. It is the background of the theologian.

3. Ảo cảm về sự tự tín hay cái mà có thể được gọi là những nguyên khí cảm dục của người đệ tử. Nói một cách dễ hiểu, đây là niềm tin [27] mà người đệ tử cho rằng quan điểm của mình là hoàn toàn đúng. Điều này một lần nữa nuôi dưỡng lòng kiêu căng và có xu hướng khiến đệ tử tin rằng mình là một người có thẩm quyền và không thể sai lầm. Đó là tật cố hữu của nhà thần học.

4. The glamour of duty. This leads to an over-emphasis of the sense of responsibility, producing lost motion and the emphasis of the non-essential.

4. Ảo cảm về bổn phận. Ảo cảm này dẫn đến việc chú trọng quá mức đến ý thức trách nhiệm, tạo ra hành động vô ích và chú trọng đến những điều không cần thiết.

5. The glamour of environing conditions, leading frequently to a sense of frustration, or of futility or of importance.

5. Ảo cảm về hoàn cảnh, thường dẫn đến ý thức về sự bất mãn, hoặc về sự vô vọng, hoặc về tầm quan trọng.

6. The glamour of the mind and of its efficiency and its capacity to deal with any or every problem. This leads inevitably to isolation and loneliness.

6. Ảo cảm về trí tuệ và làm cho người đệ tử tưởng rằng hiệu quả và khả năng của cái trí có thể đối phó với bất kỳ hoặc mọi vấn đề. Điều này chắc chắn dẫn đến sự cô lập và cô đơn.

7. The glamour of devotion, leading to an undue stimulation of the astral body. The man or woman thus glamoured sees only one idea, one person, one authority and one aspect of truth. It feeds fanaticism and spiritual pride.

7. Ảo cảm về sự sùng tín, dẫn đến sự kích thích quá mức của thể cảm dục. Vì vậy, người nam hay nữ bị ảo cảm này chỉ nhìn thấy một ý tưởng, một con người, một uy quyền và một khía cạnh của chân lý. Nó nuôi dưỡng sự cuồng tín và ngã mạn tinh thần.

8. The glamour of desire with its reflex action upon the physical body. This leads to a constant condition of fighting and of turmoil. It negates all peace and fruitful work and must some day be brought to an end.

8. Ảo cảm về ham muốn với tác động phản xạ của nó trên thể xác. Điều này dẫn đến tình trạng chiến đấu liên tục và hỗn loạn. Nó làm mất sự bình an và khả năng làm việc hiệu quả. Ảo cảm này ngày nào đó phải được chấm dứt.

9. The glamour of personal ambition.

9. Ảo cảm về tham vọng cá nhân

There are many other glamours, both individual and world-wide, but these will serve to indicate a general tendency.

Có nhiều ảo cảm khác nữa, cả ở mức độ cá nhân và trên toàn thế giới, nhưng những điều trên đủ để chỉ ra một xu hướng chung.

Those who are in preparation for initiation must learn to work consciously with glamour; they must work effectively with the presented truth, ignoring any pain or suffering or mental questioning which is incident to personality rebellion and limitation; they must cultivate that “divine indifference” to personal considerations which is the outstanding hallmark of the trained initiate.

Những người chuẩn bị điểm đạo phải học cách làm việc có ý thức với ảo cảm; họ phải làm việc hiệu quả với chân lý được trình bày, bỏ qua bất kỳ nỗi đau, đau khổ hoặc nghi vấn của tâm trí vốn là nguyên nhân dẫn đến sự nổi loạn và giới hạn của phàm ngã; họ phải trau dồi “sự điềm nhiên thiêng liêng” đối với những vấn đề cá nhân, đó là dấu hiệu nổi bật của vị điểm đạo đồ lão luyện.

I shall not deal further with the subject of glamour as it affects or might affect this particular group of disciples in my Ashram. The times are urgent and the need of humanity so great that there is no “space in consciousness” (to use an ancient occult phrase) for the reiteration of the known ideal, or to tell you again what needs to be done.

Tôi sẽ không nói thêm về chủ đề của ảo cảm vì nó ảnh hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến nhóm đệ tử cụ thể trong Đạo viện của tôi. Thời gian cấp bách và nhu cầu của nhân loại lớn đến mức không còn “khoảng trống trong tâm thức” (dùng một cụm từ huyền bí cổ xưa) để nhắc lại lý tưởng đã biết, hoặc để nói lại cho các bạn biết những gì cần phải làm.

[28] I would have you realise that there is no haste in the work which a Master carries on in connection with His disciples. There is no hurry in the work which I am proposing that we do together, but neither should there be any waste time or lost motion. It will become apparent to you that much that I seek to accomplish is related to thought control and to the activity of the creative imagination. The Hierarchy produces its effects upon the plane of appearances through the potency of its unified, conscious thinking. The establishing of such a condition of unified thinking within the New Group of World Servers is part of my major effort at this time; we can achieve little until that has been brought about.

[28] Tôi mong các bạn sẽ nhận thức rằng không có gì phải vội vàng trong công việc mà một Chân sư thực hiện cùng với các đệ tử của Ngài. Không có gì phải vội vàng trong công việc mà tôi đang đề xuất chúng ta làm cùng nhau, nhưng cũng không nên lãng phí thời gian hoặc hành động không hiệu quả. các bạn sẽ thấy rõ rằng nhiều điều mà tôi cố gắng hoàn thành có liên quan đến việc kiểm soát tư tưởng và đến hoạt động của trí tưởng tượng sáng tạo. Thánh đoàn tạo ra những ảnh hưởng của mình trên cõi biểu hiện thông qua khả năng của tư duy hữu thức và hợp nhất. Việc thiết lập một tình trạng tư duy hợp nhất như vậy trong Đoàn người mới Phụng sự Thế gian là một phần trong nỗ lực chính của tôi tại thời điểm này; chúng ta sẽ không làm được gì nhiều trước khi điều đó được thực hiện.

So I summon you to a new phase of intense, inner living and dynamic thinking, but this time with a group objective—the objective of group fusion, group united thinking and group relation…. It is the inner life of reflection, the cultivated recognition of the soul and the reflective alignment of soul and personality which will determine the success of this work.

Vì vậy, tôi kêu gọi các bạn bước đến một giai đoạn mới của cuộc sống nội tâm mãnh liệt và tư duy năng động, nhưng lần này với mục tiêu nhóm — mục tiêu của sự hợp nhất nhóm, tư duy nhóm thống nhất và mối quan hệ nhóm …. Chính đời sống phản tỉnh nội tại, sự nhận biết được trau dồi về linh hồn và sự chỉnh hợp giữa linh hồn và phàm ngã sẽ quyết định sự thành công của công việc này.

Third: There is another great mind power which has to be unfolded. It is one which characterises all liberated souls, no matter what their ray. This is the power to heal. This work is as yet in embryo and the group consciousness is as yet so young and unpolarised that it is needless for me to enlarge upon the possibilities ahead. When men can be trained to be unselfishly and divinely magnetic and radio-active, then there will be poured out upon the world certain divine forces which will vivify and reconstruct, which will eliminate the evil and heal the sick. Hitherto the attempts of men in the field of medicine, of healing and of the various forms of therapy have been the result of impulses to respond to these hovering forces, but that is all as yet.

Thứ ba: Có một quyền năng trí tuệ lớn khác phải được mở ra. Đó là một trong những đặc điểm của tất cả các linh hồn giải thoát, bất kể cung của họ là gì. Đó là quyền năng chữa lành. Công việc này vẫn còn phôi thai và tâm thức nhóm vẫn còn rất non trẻ và chưa phân cực nên tôi không cần thiết phải bàn rộng hơn về những tiềm năng ở phía trước. Khi con người có thể được huấn luyện để có tính chất phát xạ và từ tính một cách thiêng liêng và vô kỷ, thì sẽ được tuôn đổ xuống thế gian những mãnh lực thiêng liêng sinh động và kiến tạo, sẽ loại bỏ cái ác và chữa lành bệnh tật. Cho đến nay những nỗ lực của con người trong lĩnh vực y học, chữa lành và các hình thức trị liệu khác nhau đều là kết quả của các thôi thúc để đáp ứng lại những mãnh lực đang lơ lửng này, nhưng tất cả chỉ mới được như vậy.

These are the three major faculties which the spiritual man can unfold; other faculties and developing capacities are only expansions of these three—telepathic thought, receiving and transmitting; intuitive recognition of truth and its formulation into concepts by the mind, plus the later process of materialising that which has been intuited, the highest form of creative work; healing, with its understanding of energy and forces which will lead later to the rebirth of humanity.

Đây là ba khía cạnh chính mà con người tinh thần có thể khai mở; các khả năng khác và năng lực đang phát triển chỉ là sự mở rộng của ba khía cạnh này—tư tưởng viễn cảm, trong cả hai chiều thu nhận và truyền đi; sự thừa nhận chân lý bằng trực giác và sự hình thành các quan niệm bằng tâm trí, cộng với quá trình vật chất hóa những gì đã cảm nhận được bằng trực giác, đây là hình thức cao nhất của công việc sáng tạo; chữa lành, với sự hiểu biết về năng lượng và các mãnh lực sẽ dẫn đến sự phục sinh của nhân loại sau này.

[29] Little by little, the picture of the possibilities and of the Plan will unfold before you as your minds increase in sensitivity and your brains become more responsive to mental impulses. Little by little, the disciples of the world will work at the reproduction—on the physical plane—of that which exists subjectively. Little by little, there will appear all over the earth, groups of illumined souls who can cooperate with the Masters with perfect freedom of intercourse because their responsiveness has been scientifically trained and developed. Their power to work in tune with or in unison with the Hierarchy, to cooperate with the group life of many other groups of disciples and to communicate light and revelation to the world of men will later be an accomplished fact and is already much more actively present and potent than you think. A little vision, brother of mine, makes the way of the disciple easier and hence I have enlarged somewhat upon the possibilities which we, with our prevision, regard as already facts in manifestation. Nothing can stop the eventual success of the Plan; it is simply a question of time.

[29] Từng chút một, bức tranh về các khả năng và về Thiên Cơ sẽ mở ra trước mắt các bạn khi thể trí của các bạn gia tăng độ nhạy cảm và não bộ của các bạn trở nên đáp ứng hơn với các xung lực trí tuệ. Từng chút một, những đệ tử của thế giới sẽ nỗ lực tái tạo — trên cõi vật lý — cái vốn tồn tại trong trạng thái nội tại. Từng chút một, sẽ xuất hiện khắp nơi trên thế giới, những nhóm linh hồn được soi sáng có thể hợp tác với các Chân sư với sự tiếp xúc tự do hoàn hảo bởi vì khả năng đáp ứng của họ đã được huấn luyện và phát triển một cách khoa học. Quyền năng của họ trong việc hòa hợp hoặc đồng nhất với Thánh Đoàn, hợp tác trong đời sống nhóm với nhiều nhóm đệ tử khác và truyền đạt ánh sáng và sự khai mở cho thế giới loài người sau này sẽ là một sự kiện thực tế hoàn thiện và đã diễn ra tích cực và mạnh mẽ hơn các bạn nghĩ. Hỡi huynh đệ của tôi, một chút tầm nhìn có thể làm cho con đường của người đệ tử trở nên dễ dàng hơn và do đó tôi mở rộng phần nào những triển vọng mà chúng tôi tiên liệu trước là những sự kiện thực tế sẽ biểu lộ. Không gì có thể ngăn cản thành công cuối cùng của Thiên Cơ; nó chỉ là vấn đề thời gian.

One of the steps in training which lies ahead of you is the establishing of a closer contact with me, your Tibetan Teacher. This you must attempt with no formulated ideas as to what the results will be—if any are to be objectively realised. The results may be sensed by me alone on my side, or they may work out in certain specific realisations and even phenomena on your side. I indicate not the results of such an activity for the power of suggestion and the response of the creative imagination is a fruitful source of glamour.

Một trong những bước huấn luyện trước mắt các bạn là thiết lập mối liên hệ chặt chẽ hơn với tôi, Huấn sư Tây Tạng của các bạn. Điều này các bạn phải cố gắng mà không có ý tưởng cứng nhắc nào về kết quả sẽ ra sao — nếu có thì phải được nhận thức một cách khách quan. Các kết quả có thể được cảm nhận bởi một mình tôi, hoặc chúng có thể đến dưới những hình thức nhận biết đặc biệt cụ thể và thậm chí cả những hiện tượng nhiệm màu đối với các bạn. Tôi không chỉ ra các kết quả của kiểu hoạt động như vậy vì sức mạnh của sự ám thị và phản ứng của trí tưởng tượng sáng tạo chính là cội nguồn phong phú của ảo cảm.

I would, therefore, ask all of you who are my disciples to endeavour to make a contact with me at the time of the Full Moon each month. Make sacrifice in order to establish this monthly relation as I will make my adjustments to contact you. May I emphasise the necessity for holding the thought of that contact for three whole days prior to the Full Moon itself, with aspiration and with confidence and then for three days afterwards with expectancy. May I point out the prime importance of making this a group activity and not a personal contact. Enter upon the work with the realisation of your group relation with your fellow disciples and with me, for only in so far as [30] you seek to contact me as a disciple in my group will the measure of your success be rated. This contact is not of the same nature as that direct and individual contact between a chela and his Master. Many of you are linked with your own
Master, though temporarily working in my Ashram; your contact with me is intended to be a group contact and, as a group, you will seek to strengthen the tie between us. This, therefore, is an act of group service to be rendered selflessly and with no personal expectancy. Owing to the pressure of time and of urgency in service, I am one of several teachers who have pledged themselves for the next few years to keep the twelve hours prior to the Full Moon of each month open for contacts with their disciples, so that at any time during that twelve hours, the world servers and disciples can make an attempt to reach us. This will somewhat facilitate your work for you need not, therefore, keep the exact hour of the Full Moon, unless this is easily possible. Service in the world these days requires constant pressure and attention and the work is strenuous. It may not always be possible for you to make your approach at the exact hour of the Full Moon, though you can at that hour always—silently and interiorly—lift up your heart and eyes to the Eternal. But at some hour during the preceding twelve hours, you can make your approach. When you do so rightly, you will find me waiting. Go to your work with clear vision, a loving heart and an understanding love. Much can then be accomplished.

Do đó, tôi yêu cầu tất cả các bạn là đệ tử của tôi cố gắng liên lạc với tôi vào thời điểm Trăng Tròn mỗi tháng. Hãy chịu khó hy sinh để thiết lập mối liên hệ hàng tháng này vì tôi sẽ tự điều chỉnh để liên lạc với các bạn. Tôi có thể nhấn mạnh sự cần thiết của việc giữ tư tưởng về cuộc tiếp xúc đó trong ba ngày trước khi diễn ra Trăng Tròn với khát vọng và sự tin tưởng và ba ngày sau đó với sự mong chờ. Tôi có thể chỉ ra tầm quan trọng hàng đầu của việc biến nó thành một hoạt động nhóm chứ không phải là một liên hệ cá nhân. Hãy bắt tay vào công việc với việc nhận ra mối quan hệ nhóm với các huynh đệ đồng môn của các bạn và với tôi, chỉ trong chừng mực [30] các bạn tìm cách tiếp xúc với tôi với tư cách là một đệ tử trong nhóm của tôi thì mức độ thành công của các bạn mới đáng kể. Sự tiếp xúc này không cùng bản chất với sự tiếp xúc trực tiếp và cá nhân giữa một đệ tử và Chân sư. Nhiều người trong số các bạn được liên kết với Chân sư của mình, mặc dù tạm thời làm việc trong Đạo viện của tôi; mối liên hệ của các bạn với tôi có mục đích là liên hệ nhóm, và với tư cách là một nhóm các bạn sẽ tìm cách củng cố mối quan hệ giữa chúng ta. Do đó, đây là một hành động phụng sự nhóm được thực hiện một cách vô kỷ và không có kỳ vọng cá nhân. Do áp lực về thời gian và sự cấp bách trong công việc phụng sự, tôi là một trong số những vị huấn sư đã cam kết trong vài năm tới sẽ dành mười hai giờ trước Trăng Tròn mỗi tháng mở ra để liên lạc với các đệ tử của các Chân sư, để bất cứ lúc nào trong mười hai giờ đó, các phụng sự viên thế giới và các đệ tử có thể cố gắng liên lạc với chúng tôi. Do đó, điều này sẽ phần nào sẽ làm cho công việc của các bạn thuận lợi hơn vì các bạn không cần thiết phải giữ chính xác giờ Trăng Tròn, trừ khi các bạn thực hiện được nó một cách dễ dàng. Công tác phụng sự trên thế gian những ngày này đòi hỏi áp lực, sự chú ý liên tục và công việc rất vất vả. Không phải lúc nào các bạn cũng có thể tham thiền tiếp cận được vào đúng giờ Trăng Tròn, tuy rằng các bạn luôn có thể vào giờ đó—một cách âm thầm và nội tâm—nâng cao trái tim và tầm mắt của các bạn về phía Đấng Vĩnh Hằng. Nhưng bất cứ lúc nào trong mười hai giờ trước đó, các bạn đều có thể tham thiền tiếp cận. Khi các bạn làm đúng như vậy, các bạn sẽ thấy tôi đang chờ. Hãy thực hiện công việc của các bạn với tầm nhìn rõ ràng, trái tim yêu thương và một tình yêu thấu hiểu. Chừng đó nhiều điều sẽ được hoàn thành.

PART IV—PHẦN IV

As these groups of disciples become active in the world and their inner integration and group relationship become securely established, we shall have the germ of those characteristics which will dignify the New Age groups. I would ask you all never to forget that this group work you are attempting to do is in reality pioneer work and hence has all the difficulties which pioneer work inevitably and necessarily has. Thereby strength to grow is gained. As the number of these groups increases and the personnel is gradually supplied, the skeleton framework of a future structure will slowly emerge. How that structure [31] will appear when completed is known only to the inspired vision of the architects. But the foundations must be set sure and deep; the framework must be true and rightly adjusted. These two requirements are all that any of you will see materialise in this present lifetime.

Khi những nhóm đệ tử này trở nên tích cực trên thế giới và sự tích hợp nội tâm và mối quan hệ nhóm của họ được thiết lập một cách chắc chắn, chúng ta sẽ có mầm mống của những phẩm tính làm tôn vinh các nhóm thuộc Kỷ Nguyên Mới. Tôi yêu cầu tất cả các bạn đừng bao giờ quên rằng công việc nhóm mà các bạn đang cố gắng thực hiện trong thực tế là công việc tiên phong, và do đó nó có tất cả những khó khăn mà công việc tiên phong tất yếu phải đối mặt. Nhờ đó, sức mạnh để phát triển được hun đúc. Khi số lượng các nhóm này tăng lên và nhân sự dần dần được đáp ứng, thì bộ khung của một cấu trúc tương lai sẽ từ từ xuất hiện. Cấu trúc đó [31] sẽ xuất hiện như thế nào khi hoàn thành, chỉ có tầm nhìn đầy cảm hứng của các kiến trúc sư mới biết được. Nhưng nền tảng phải được thiết lập vững chắc và sâu sắc; bộ khung phải chuẩn xác và được điều chỉnh hợp lý. Hai yêu cầu này là tất cả những gì mà bất kỳ ai trong số các bạn sẽ thấy thành hiện thực trong kiếp sống hiện tại này.

Have you realised, however, my brothers, what occult progress in the world you have been permitted to see during this present lifetime? Have you glimpsed the magnitude of the present push that is being made by the Masters and have you recognised Their plans taking shape before your eyes? Have you grasped the essentials of what the Great White Lodge has done during the past twenty-five years and the extent of the work in which disciples and aspirants everywhere have been permitted to share? I would like briefly to enlarge somewhat upon this so as to make the picture clearer to your eyes in order that you may cooperate with greater intelligence, for this is above everything else group work.

Tuy nhiên, các huynh đệ đã nhận ra sự tiến bộ huyền bí nào trên thế giới mà các bạn được phép nhìn thấy trong kiếp sống hiện tại này chưa? Các bạn có thoáng thấy mức độ thúc đẩy hiện tại mà các Chân sư đang tạo ra, và các bạn có nhận ra các kế hoạch của các Ngài đang hình thành trước mắt mình không? Các bạn đã nắm được những điều cốt yếu mà Đại Bạch Giai Đoàn đã làm trong suốt 25 năm qua và mức độ công việc mà các điểm đạo đồ và những người chí nguyện ở khắp mọi nơi được phép chia sẻ chưa? Tôi muốn mở rộng thêm một chút về điều này một cách ngắn gọn để làm bức tranh trở nên rõ ràng hơn trước mắt các bạn, nhằm giúp các bạn có thể hợp tác với sự thông tuệ sâu sắc hơn, vì trên hết, đây là công việc nhóm.

Slowly and gradually, as far as you are all concerned, I have gathered together a band of disciples upon the outer plane. As the group thoughtform integrated and disciples responded to my call, found each other and began to work together, it became possible for me to go forward with my chosen work and carry forward the plans which I set myself when I took a certain initiation.

Một cách từ từ và chậm rãi, tôi đã tập hợp một nhóm các đệ tử lại với nhau ở cõi ngoại giới. Khi hình tư tưởng của nhóm được tích hợp và các đệ tử đáp ứng lời kêu gọi của tôi, tìm thấy nhau và bắt đầu làm việc cùng nhau, điều đó cho phép tôi có thể tiếp tục công việc đã chọn và thực hiện các kế hoạch mà tôi đã đặt ra khi tôi nhận một cuộc điểm đạo nhất định.

First of all, the books were published and they came out in ordered sequence and provide a body of teaching and of truth which will serve the needs of the coming generation. It is for my disciples to safeguard this presentation of truth during this century and to see to it that the books are sent forth steadily upon their mission, until they are finally superseded next century by a newer and more adequate teaching.


Trước hết, các cuốn sách đã được xuất bản và được phát hành theo trình tự để cung cấp nền tảng giáo lý và chân lý vốn sẽ phụng sự những nhu cầu của thế hệ sắp tới. Các đệ tử của tôi phải gìn giữ sự trình bày chân lý này trong suốt thế kỷ hiện tại và đảm bảo rằng các cuốn sách được truyền bá liên tục theo sứ mệnh của chúng, cho đến khi chúng được thay thế vào thế kỷ tới bằng một giáo lý mới hơn và đầy đủ hơn.

Next came a happening of vital moment—of more moment than you can perhaps appreciate. An instruction upon the New Group of World Servers was sent out and given wide distribution by means of the pamphlet entitled The Next Three Years. This signalised the anchoring—if so I might call it—of the New Group of World Servers upon the physical plane. They are now in active existence. The group is slowly integrating and slowly making its influence felt in the primary [32] work of educating public opinion—the only potent means of work and of far more potency and ultimate value than any legislation or emphasis upon authority.

Tiếp theo, xuất hiện một việc có tầm quan trọng rất lớn — mà có lẽ các bạn cũng không thể nhận định rõ tầm quan trọng của nó. Một chỉ dẫn về Đoàn người mới Phụng sự Thế gian đã được gửi đi và được phổ biến rộng rãi qua cuốn sách nhỏ có tựa đề Ba năm tới. Điều này báo hiệu sự neo đậu — nếu tôi có thể gọi  như vậy — của Đoàn người mới Phụng sự Thế gian trên cõi vật lý. Họ hiện đang hiện diện tích cực. Nhóm này đang dần tích hợp và từ từ tạo ra ảnh hưởng của mình trong công việc [32] chính là giáo dục dư luận quần chúng — phương tiện hoạt động duy nhất có hiệu quả, có giá trị tối hậu và mạnh mẽ hơn nhiều so với bất kỳ luật pháp hay sự nhấn mạnh vào thẩm quyền.

Growing out of the integration of this new group, there is being formed in the world that “bridge of souls and servers” which will make possible the merging of the inner subjective Hierarchy of souls and the outer world of humanity. This will constitute an actual fusion or blending and will mark the initiation of the human family through the achievement of its foremost pioneering members. This is the true “marriage in the Heavens ” of which mystical Christianity speaks and the result of this fusion will be the manifestation of the fifth kingdom in nature, the kingdom of God. In the past history of the race, a great event occurred which brought into manifestation the fourth kingdom in nature, the human kingdom. We stand now on the verge of a similar but still more momentous event—the appearance of the fifth kingdom, as a result of the planned activity of the New Group of World Servers, working in collaboration with the Hierarchy of perfected souls, and under the guidance of the Christ Himself. This will usher in the New Age wherein five kingdoms in nature will be recognised as existing side by side upon earth.

Bắt nguồn từ sự tích hợp của đoàn người mới này, trên thế giới đang hình thành “cầu nối của những linh hồn và những phụng sự viên” vốn có thể giúp hợp nhất giữa Thánh đoàn của những linh hồn ẩn tàng bên trong và thế giới bên ngoài của nhân loại. Điều này sẽ tạo thành một sự dung hợp hoặc hòa trộn thực sự và sẽ đánh dấu sự điểm đạo của gia đình nhân loại thông qua thành tựu của các thành viên tiên phong hàng đầu. Đây là “cuộc hôn nhân trên Thiên đàng” thực sự mà Thiên Chúa giáo huyền bí nói, và kết quả của sự hợp nhất này sẽ là sự biểu hiện của giới thứ năm trong tự nhiên, Thiên giới. Trong lịch sử của nhân loại, một sự kiện lớn đã xảy ra làm xuất hiện giới thứ tư trong tự nhiên, giới nhân loại. Bây giờ chúng ta đang đứng trước một sự kiện tương tự sắp xảy ra nhưng quan trọng hơn nhiều — sự xuất hiện của giới thứ năm, là kết quả của hoạt động đã được lên kế hoạch của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian, làm việc với sự cộng tác của Thánh đoàn các linh hồn hoàn thiện, và dưới sự dẫn dắt của chính Đức Christ. Điều này sẽ mở ra Kỷ Nguyên Mới, trong đó năm giới trong tự nhiên sẽ được thừa nhận là tồn tại cùng nhau trên trái đất.

You have, therefore, been permitted to share in and watch the work of the Hierarchy to the extent of your individual spiritual contact and have seen the following spiritual events taking place:

Do đó, các bạn được phép chia sẻ và quan sát công việc của Thánh đoàn trong phạm vi tiếp xúc tinh thần của cá nhân các bạn và thấy các sự kiện tinh thần đang diễn ra sau đây:

1. The sending forth of the teaching for the New Age. This deals with the new psychology and with the control of the personality and with the Mysteries of the Kingdom of God.

1. Việc tuôn đổ giáo lý cho Kỷ Nguyên Mới. Giáo lý này đề cập tới tâm lý học mới với sự kiểm soát phàm ngã và với những Bí nhiệm của Thiên giới.

2. The founding in embryo of those schools of esotericism which will embody the teaching for the new discipleship and make it practical in application. There are several of these schools and the Arcane School is one of the first. They prepare the way for the greater foundations, outlined in my book, Letters on Occult Meditation.

2. Sự thành lập ở dạng phôi thai những trường nội môn vốn sẽ là hiện thân của giáo lý giảng dạy cho con đường đệ tử mới và áp dụng giáo lý ấy trong thực tiễn. Có một số trường như thế, và Trường Arcane là một trong những trường đầu tiên. Các trường này chuẩn bị con đường cho những nền tảng vĩ đại hơn, được nêu trong cuốn sách của tôi, Thư về tham thiền huyền môn.

3. The recognition on a fairly large scale of the New Group of World Servers and their work.

3. Sự công nhận trên quy mô khá lớn của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian và công việc của họ.

[33]

[33]

4. The emergence—as yet only in symbolic indication—of the fifth or spiritual kingdom.

4. Sự xuất hiện — hiện vẫn chỉ là dấu hiệu tượng trưng — của giới thứ năm hoặc giới tinh thần.

5. The forming of the skeleton structure of the new groups of disciples, the externalisation in embryo of the inner Ashrams. These in the New Age will multiply and so carry forward the work of integrating the inner and the outer groups and fostering the growth of the Kingdom of God on earth. This will bring to public attention the fact of the restoration of the Mysteries of Initiation.

5. Sự hình thành bộ khung của các nhóm đệ tử mới, sự ngoại hiện phôi thai của các Đạo viện ở nội giới. Những điều này trong Kỷ Nguyên Mới sẽ nhân lên và do đó tiếp tục công việc hợp nhất các nhóm bên trong và bên ngoài và thúc đẩy sự phát triển của Thiên giới trên trái đất. Điều này sẽ thu hút sự chú ý của công chúng về sự khôi phục các Bí nhiệm Điểm đạo.

The production of the outer form on earth, through the medium of books, of esoteric schools and the educating of public opinion has been committed to a group of us who form a part of the inner world government—disciples and initiates—and to this group, I play the part of secretary and of organising contact man—if I may use words which will mean something to your ears, versed as you are in physical plane organisation work; they mean little or nothing to us, versed as we are in the work of producing living organisms. This group to which I refer is composed of two oriental initiates (of whom I am one) and of five occidental initiates.

Việc tạo nên cái hình thức ở ngoài thế gian qua trung gian của sách vở, các trường nội môn và việc giáo dục dư luận quần chúng đã được giao phó cho một nhóm chúng tôi gồm các điểm đạo đồ và đệ tử, vốn là một phần của chính quyền nội giới. Và đối với nhóm này, tôi đóng vai trò thư ký và người tổ chức liên lạc — tôi có thể sử dụng những từ này nếu nó có ý nghĩa gì đó với các bạn — những người đã quen với công việc tổ chức trên cõi vật lý; những từ ngữ này hầu như không có ý nghĩa gì đối với chúng tôi, những người đã quen với công việc tạo ra các sinh vật sống. Nhóm mà tôi đề cập đến này bao gồm hai vị điểm đạo đồ phương Đông (mà tôi là một) và năm vị điểm đạo đồ phương Tây.

We will leave now the consideration of this general picture and return to the subject of the specific work that this particular group of my disciples can do.

Bây giờ chúng ta sẽ tạm gác lại việc xem xét bức tranh tổng quát này và quay trở lại chủ đề của công việc cụ thể mà riêng nhóm đệ tử này của tôi có thể làm.

You must avoid the idea that you are working in a unique way and alone. This is not so. There are many today working intelligently with our plans, often isolated and alone. The main requirement in the group work which I seek at this time to emphasise is the most difficult one of a true impersonality. On two points, disciples in the past have ever been emphatic. They have seen and felt the need for reticence, where there is any inner spiritual experience, and have felt that the relating or the discussion of the spiritual and the higher psychic events in their lives produced a sense of loss and was against the occult law.

Các bạn phải tránh ý nghĩ rằng các bạn đang làm việc theo một cách độc đáo và riêng rẽ. Điều này là không đúng. Ngày nay có nhiều người làm việc một cách thông minh với các kế hoạch của chúng tôi, thường đơn độc và riêng rẽ. Yêu cầu chính trong công việc nhóm mà tôi muốn nhấn mạnh tại thời điểm này, một yêu cầu khó nhất đó là tính vô kỷ thực sự. Có hai điểm mà các đệ tử trong quá khứ đã từng chú trọng. Họ đã nhìn thấy và cảm thấy cần phải thận trọng, khi có bất kỳ trải nghiệm tinh thần nào bên trong, và cảm thấy rằng việc tường thuật hoặc thảo luận về các sự kiện tinh thần và tâm lý cao hơn trong cuộc sống của họ gây cho họ cảm giác mất mát và vi phạm định luật huyền bí.

They have equally demanded reticence about their personality lives, about their mistakes and failings, and have demanded it more loudly than the permission to be silent about their soul life. Their demand has been based on a true recognition that the discussion of a spiritual happening with those who do not understand [34] has in it a great deal of danger—the danger of misinterpretation, of glamour and of illusion. The desire for reticence in the personality life is based usually on pride, on a fear of criticism, on terror of being derided, misunderstood and judged; these are all unworthy motives.

Họ cũng yêu cầu sự kín đáo về đời sống cá nhân của họ, về những sai lầm và thất bại của họ, và yêu cầu điều này còn mạnh mẽ hơn việc được phép im lặng về đời sống linh hồn của họ. Nhu cầu của họ dựa trên sự thừa nhận thực sự rằng cuộc thảo luận về một diễn biến tinh thần với những người không hiểu [34] tiềm ẩn rất nhiều mối nguy hiểm — mối nguy hiểu sai, mối nguy của ảo cảm và ảo tưởng. Mong muốn về sự thận trọng trong đời sống phàm ngã thường dựa trên sự kiêu hãnh, sợ bị chỉ trích, sợ bị chế giễu, hiểu lầm và phán xét; đây đều là những động cơ không đáng có.

Among the disciples of the New Age groups and ever in a Master’s inner Ashram, there is no need for this theory of reticence. You are co-disciples and co-workers. If any of you have in the past or may in the future become initiates, it will not affect your relation to your fellow-disciples in these groups. The knowledges of initiation cannot be passed on by word of mouth within the initiate ranks, for they are not communicated in speech or by letters. Only those who possess certain transcendental senses can take initiation and should they try to communicate the secrets and mysteries of initiation in symbol or form, you would fail to react to or to understand their meaning.

Trong số các đệ tử của các nhóm thuộc Kỷ Nguyên Mới và từng ở trong Đạo viện bên trong của Chân sư, không cần nguyên lý về sự thận trọng này. Các bạn là đồng môn và là cộng sự. Nếu bất kỳ ai trong số các bạn trong quá khứ hoặc trong tương lai có thể trở thành điểm đạo đồ, điều đó sẽ không ảnh hưởng đến mối quan hệ của mình với các đồng đạo trong những nhóm này. Những hiểu biết về điểm đạo không thể được truyền miệng trong hàng ngũ những điểm đạo đồ, vì chúng không thể được truyền đạt bằng lời nói hoặc văn tự. Chỉ những người sở hữu một số giác quan siêu việt mới có thể nhận điểm đạo và nếu họ cố gắng truyền đạt những bí mật và huyền nhiệm của sự điểm đạo dưới dạng biểu tượng hoặc hình tướng, người ngoài sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của chúng.

So, in this group of my disciples, let there be the recognition of unity of thought. Experience, thought, difficulties and problems can be shared, and the cultivation of a sympathetic understanding and of mutual aid in the spiritual life can be developed. Disciples are people of mature years from the standpoint of the soul, and, therefore, the pettinesses of life and small frictional difficulties will not be shared by you with each other. There should be no temptation to waste each other’s time in idle talk. It is the broad and general outline of the plan for the outer work of these groups of disciples which should engage your thoughts and communications with each other.

Vì vậy, trong nhóm đệ tử này, hãy có sự thống nhất về tư tưởng. Kinh nghiệm, tư tưởng, những khó khăn và các vấn đề có thể được chia sẻ, và có thể vun bồi sự cảm thông thấu hiểu và tương trợ lẫn nhau trong đời sống tinh thần. Đệ tử là những người trưởng thành từ quan điểm của linh hồn, và do đó, những vụn vặt trong cuộc sống và những khó khăn xích mích nhỏ không nên được chia sẻ với nhau. Không nên lãng phí thời gian của nhau trong những cuộc nói chuyện vô bổ. Các bạn nên dành thời gian để suy nghĩ và trao đổi với nhau về bản phác thảo rộng lớn và tổng quát của kế hoạch cho công việc phụng sự bên ngoài của các nhóm đệ tử này.

The groups planned will be of many different kinds and their work will be diversified and varied. I have for some time desired to write a little more fully about the groups which are forming in the world today, under direction of the Masters. They will gradually make their appearance in the world and fulfil their destined mission. Four of these groups are already formed or in process of forming and the others will gradually be created to meet advancing need.

Các nhóm được dự định sẽ gồm nhiều loại khác nhau và công việc của họ sẽ đa dạng và phong phú. Đã có lúc tôi muốn viết đầy đủ hơn một chút về các nhóm đang hình thành trên thế giới ngày nay, dưới sự chỉ đạo của các Chân sư. Họ sẽ dần xuất hiện trên thế giới và hoàn thành sứ mệnh đã định của họ. Bốn trong số các nhóm này đã được hình thành hoặc đang trong quá trình hình thành và những nhóm khác sẽ dần dần được tạo ra để đáp ứng nhu cầu phát triển.

It is essential that members of these groups have a wider vision than they now have; their membership in any of the [35] groups constitutes an act of service which they are rendering to the work which I and other members of the Hierarchy are carrying forward under the Plan. The individual disciple must not look upon his work as a marvellous opportunity for his own spiritual advancement. All true disciples are equally distinguished by a determination to make the groups successful and all are longing to get as much out of the group work as possible. All are genuinely animated by a desire to serve but also by a general satisfaction over the interest and opportunity offered by the group work. Along with these most normal and right reactions are to be found much ignorance as to the true significance of the work, a good deal of selfish pleasure and some ambition. This is natural, for no perfection is yet to be expected among disciples. If perfection existed, you would all be found working in a different relation to the Great White Lodge.

Điều cần thiết là các thành viên của các nhóm này phải có tầm nhìn rộng hơn tầm nhìn hiện tại; tư cách thành viên của họ trong bất kỳ [35] nhóm nào tạo thành một hành động phụng sự mà họ đang thực hiện cho công việc mà tôi và các thành viên khác của Thánh đoàn đang thực hiện theo Thiên cơ. Cá nhân người đệ tử không được coi công việc của mình như một cơ hội kỳ diệu của chính mình để thăng tiến tinh thần. Tất cả các đệ tử chân chính đều được nhận diện bởi sự quyết tâm làm cho các nhóm thành công, và tất cả đều khao khát hoàn thành được càng nhiều công việc của nhóm càng tốt. Tất cả không những thực sự nhiệt tâm bởi mong muốn phụng sự mà còn bởi sự hài lòng chung về mối quan tâm và cơ hội mà công việc nhóm mang lại. Cùng với những phản ứng bình thường và đúng đắn nhất này, cũng có nhiều sự thiếu hiểu biết về ý nghĩa thực sự của công việc, còn ưa thích niềm vui sướng ích kỷ và tham vọng. Điều này là tự nhiên, vì chưa thể mong đợi sự hoàn hảo nào trong các đệ tử. Nếu sự hoàn hảo tồn tại, tất cả các bạn sẽ được tìm thấy đang làm việc trong một mối quan hệ khác với Đại Bạch Giai Đoàn.

In order to clarify this group work which the Hierarchy plans and enable you to grasp the intent clearly, I will tell you something of the purpose which lies behind the groups and of the general plan into which it is desired that they fit. In the early stages of any hierarchical experiment, much difficulty is encountered, owing to the material with which the initiating agents (such as myself) have to work. Any new idea, especially if it embodies a purpose which can only materialise later when the Plan is further perfected, fails naturally to meet with full comprehension in the early stages.

Để làm rõ công việc nhóm mà Thánh đoàn lập kế hoạch và cho phép các bạn nắm bắt được mục đích một cách rõ ràng, tôi sẽ cho các bạn biết một vài điều về mục đích vốn nằm đằng sau các nhóm và kế hoạch chung mà họ phù hợp. Trong giai đoạn đầu của bất kỳ thử nghiệm nào của Thánh đoàn, sẽ gặp rất nhiều khó khăn, do chất liệu mà các tác nhân khởi xướng (chẳng hạn như tôi) phải làm việc. Bất kỳ ý tưởng mới nào, đặc biệt nếu nó thể hiện một mục đích chỉ có thể thành hiện thực khi Thiên Cơ được hoàn thiện hơn nữa, đương nhiên sẽ không đạt được sự hiểu biết đầy đủ trong giai đoạn đầu.

I have said that these groups constitute an experiment. This experiment is fourfold in nature and a concise statement about it may prove helpful.

Tôi đã nói rằng những nhóm này hình thành một cuộc thử nghiệm. Thử nghiệm này có bản chất tứ phân và một tuyên bố ngắn gọn về nó có thể hữu ích.

I. They are an experiment in founding or starting focal points of energy in the human family through which certain energies can flow into the entire race of men

I. Các nhóm là một thí nghiệm trong việc hình thành hoặc bắt đầu các tụ điểm năng lượng trong gia đình nhân loại mà qua đó một số năng lượng nhất định có thể tuôn đổ vào toàn bộ loài người.

II. They are an experiment in inaugurating certain new techniques in work and in modes of communication. I would point out that in these last three words are summed up the whole story. These groups are intended to facilitate interrelation or communication as follows:

II. Các nhóm là một thử nghiệm trong việc khai thác một số kỹ thuật mới nhất định trong công việctrong các phương thức giao tiếp. Tôi sẽ chỉ ra rằng ba từ sau cùng này đã tóm gọn toàn thể sự việc. Các nhóm này được định hướng là tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác hoặc giao tiếp như sau:

1. There is a group of what we might call Telepathic Communicators. These people are receptive to impression from the Masters and from each other; they are the [36] custodians of group purpose and, therefore, closely related to all the other types of groups. Their work is largely on the mental plane and they work in and with thought matter and with the reception and direction of thought currents. They are also working at the facilitation of communication between individuals so that the rules and methods whereby speech can be transcended may become known and the new way of intercourse be brought about. Communication will eventually be:

1. Có một nhóm mà chúng ta có thể gọi là Những Nhà Giao Tiếp Viễn cảm. Những người này dễ tiếp thu ấn tượng từ các Chân sư và giữa họ với nhau; họ là [36] người nắm giữ mục đích nhóm và do đó, có quan hệ mật thiết với tất cả các loại nhóm khác. Công việc của họ phần lớn là trên cõi trí tuệ và họ làm việc với các chất liệu tư tưởng, với việc tiếp nhận và định hướng các dòng tư tưởng. Họ cũng đang làm việc để hỗ trợ giao tiếp giữa các cá nhân để các quy luật và phương thức vượt lên trên lời nói có thể được truyền đi và cách thức giao tiếp mới được tạo ra. Cuối cùng giao tiếp sẽ là:

a. Soul to soul on the higher levels of the mental plane. This involves complete alignment, so that soul-mind-brain are completely at-one.

a. Linh hồn đến linh hồn trên các cấp độ cao hơn của cõi trí tuệ. Điều này liên quan đến sự chỉnh hợp hoàn toàn, để linh hồn-thể trí-não bộ hoàn toàn hợp nhất với nhau.

b. Mind to mind on the lower levels of the mental plane. This involves the complete integration of the personality or lower self, so that mind and brain are at-one.

b. Thể trí đến thể trí trên các cấp độ thấp hơn của cõi trí. Điều này liên quan đến sự tích hợp hoàn toàn của phàm ngã hoặc cái tôi thấp hơn, để thể trí và não bộ hợp nhất với nhau.

Disciples must remember these two distinctive contacts and bear in mind also that the greater contact need not necessarily include the lesser. Telepathic communication between the different aspects of the human being is entirely possible at varying stages of unfoldment.

Các đệ tử phải ghi nhớ hai liên hệ đặc biệt này và cũng ghi nhớ rằng liên hệ lớn hơn không nhất thiết phải bao gồm liên hệ nhỏ hơn. Giao tiếp viễn cảm giữa các khía cạnh khác nhau của con người là hoàn toàn có thể xảy ra ở các giai đoạn khai mở khác nhau.

2. Another group is that of the Trained Observers. Their objective is to see clearly through all events, through space and time by means of the cultivation and use of the intuition. They work very largely on the astral plane at the dissipation of glamour, thus bringing in illumination to mankind. Thus another type of energy is brought into play, producing another type of interrelation and communication. This communication is between the plane which is the plane of illumination and pure reason (the buddhic plane) and the plane of illusion and glamour, which is the astral plane. The Trained Observers are asked to remember that their great task is to dispel the world illusion through the pouring in of light. When there are a sufficient number of groups, working along these lines, there will be found—upon the physical plane—certain channels of communication which will act as the mediators between the world of light and the world [37] of illusion. They will be transmitters of that form of energy which will break up the existing glamours and illusions, and so dissipate the ancient deceptive thoughtforms. They will release the light and peace which will illumine the astral plane and dispel the illusory nature of its life.

2. Một nhóm khác là của Những Nhà Quan Sát Lão Luyện. Mục tiêu của họ là nhìn rõ mọi sự kiện, xuyên qua không gian và thời gian bằng cách trau dồi và sử dụng trực giác. Họ hoạt động rộng khắp trên cõi cảm dục để xua tan ảo cảm, do đó mang lại sự khai sáng cho nhân loại. Do đó, một loại năng lượng khác được phát huy tác dụng, tạo ra một loại liên hệ và giao tiếp khác. Sự giao tiếp này là giữa cõi của sự soi sáng và lý trí thuần khiết (cõi bồ đề) và cõi của ảo tưởng và ảo cảm, vốn là cõi cảm dục. Các Nhà Quan Sát Lão Luyện được nhắc phải nhớ rằng nhiệm vụ lớn lao của họ là xua tan ảo tưởng thế gian thông qua việc tuôn chảy ánh sáng. Khi có đủ số lượng nhóm, hoạt động theo những đường lối này, trên cõi vật chất có một số kênh liên lạc nhất định sẽ hoạt động như những người trung gian giữa thế giới ánh sáng và thế giới ảo tưởng [37]. Họ sẽ là những người truyền chuyển dạng năng lượng đó vốn sẽ phá vỡ những ảo cảm và ảo tưởng hiện có, đồng thời xua tan những hình tư tưởng cổ xưa có tính chất lừa phỉnh. Họ sẽ giải phóng ánh sáng và bình an để chiếu sáng cõi cảm dục và xua tan đi bản chất hão huyền trong đời sống của cõi này.

3. The third group is that of the Magnetic Healers. These healers have no relation to the work of the so-called magnetic healers of today. They work intelligently with the vital forces of the etheric body. Much of their work is dealt with in the fourth volume of A Treatise on the Seven Rays. This group of healers must bring about the right healing of the personalities of individuals in all aspects of their nature. The work to be done is that of the intelligent transmission of energy to various parts of the nature—mental, emotional and physical—through the right organisation and circulation of force. Present day healers should endeavour to break loose from the modern and traditional ideas as to healing; they should recognise the stupendous fact that healing must eventually be carried forward by groups which will act as the intermediaries between the plane of spiritual energy (either soul energy, intuitional energy or will energy) and the patient or group of patients. Note this last point. The group idea must always be remembered by the students as they work; they must not work as individuals but as units in a coherent whole. This will distinguish the New Age methods from the past, for the work will be group work and, usually, for a group. Magnetic healers must learn to work as souls and not as individuals. They must learn to communicate healing energy from the reservoir of living force to the patient or patients.

3. Nhóm thứ ba là của Những Nhà Chữa Lành Từ Tính. Những nhà chữa lành này không liên quan đến công việc của những người được gọi là người chữa lành bằng từ tính ngày nay. Họ làm việc một cách thông minh với các sinh lực của thể dĩ thái. Phần lớn công việc của họ được diễn tả trong tập thứ tư của bộ Luận về Bảy Cung. Nhóm những nhà chữa lành này phải mang lại sự chữa lành đúng đắn cho phàm ngã của các cá nhân trong tất cả các khía cạnh thuộc bản chất của họ. Công việc cần làm là truyền năng lượng một cách thông tuệ đến các bộ phận khác nhau trong bản chất của họ — trí tuệ, cảm xúc và thể chất — thông qua việc tổ chức và lưu thông các mãnh lực một cách đúng đắn. Những nhà chữa lành ngày nay nên cố gắng thoát khỏi những ý tưởng hiện đại và truyền thống về chữa lành; họ nên nhìn nhận một sự kiện kỳ diệu là việc chữa lành cuối cùng phải được tiến hành bởi các nhóm sẽ đóng vai trò trung gian giữa cõi năng lượng tinh thần (năng lượng linh hồn, năng lượng trực giác hoặc năng lượng ý chí) và bệnh nhân hoặc nhóm bệnh nhân. Lưu ý điểm cuối cùng này. Ý tưởng nhóm phải luôn được môn sinh ghi nhớ khi làm việc; họ không được làm việc với tư cách cá nhân mà là các đơn vị trong một tổng thể thống nhất. Điều này sẽ phân biệt các phương pháp trong Kỷ Nguyên Mới với trước đây, vì công việc sẽ là công việc nhóm và thông thường là làm cho một nhóm. Những nhà chữa lành bằng từ tính phải học cách làm việc như những linh hồn chứ không phải như một cá nhân. Họ phải học cách truyền năng lượng chữa lành từ nguồn mãnh lực sự sống cho bệnh nhân hoặc các bệnh nhân.

4. The Educators of the New Age will come next. Their service is along the line of culture and they will work to bring in the new type of education. Their emphasis will be upon the building of the antahkarana and upon the use of the mind in meditation. Again—much of this new educational science will be given in the fifth volume of the series. They will act as communicators and [38] transmitters of two aspects of divine energy—knowledge and wisdom. These must be thought of in terms of energy. This fourth group (whose work is concerned with the education of the masses) is a direct intermediary between the higher mind and the lower mind. They are concerned with the building of the antahkarana and their task is that of linking the three points of mental focus—the higher mind, the soul and the lower mind—so that there may be established a group antahkarana between the kingdom of souls and the world of men.

4. Kế tiếp là nhóm Những Nhà Giáo dục Trong Kỷ Nguyên Mới. Họ phụng sự theo đường lối văn hóa và họ sẽ làm việc để mang lại loại hình giáo dục mới. Họ sẽ nhấn mạnh vào việc xây dựng cầu antahkarana và sử dụng thể trí trong tham thiền. Một lần nữa — phần lớn khoa học giáo dục mới này sẽ được đưa ra trong tập thứ năm của bộ sách. Họ sẽ đóng vai trò là người giao tiếp và [38] người truyền tải hai khía cạnh của năng lượng thiêng liêng — kiến thức và minh triết. Những khía cạnh này phải được hiểu theo quan điểm năng lượng. Nhóm thứ tư này (có công việc liên quan đến việc giáo dục quần chúng) là trung gian trực tiếp giữa thượng trí và hạ trí. Họ quan tâm đến việc xây dựng cầu antahkarana, và nhiệm vụ của họ là liên kết ba điểm tập trung trí tuệ — thượng trí, linh hồn và hạ trí — để có thể thành lập một antahkarana nhóm giữa cõi giới linh hồn và thế giới loài người.

5. The fifth group will be that of the Political Organisers and will concern itself with political factors in every nation. They will work in the world of human government, dealing with the problems of civilisation and with the relationships existing between nations. The bringing about of international understanding will be their major objective. This group communicates the “quality of imposition,” and an authority that is lacking in the other branches of this divine group activity. This work is largely first ray work. It will embody the method whereby the divine Will works out in the consciousness of races and nations. Members of this group will have much first ray energy in their equipment. Their work is to act as channels of communication between the department of the Manu and the race of men. It is a noble task, my brothers, to be channels for the will of God.

5. Nhóm thứ năm sẽ là nhóm của Những Nhà Tổ chức Chính trị và sẽ quan tâm đến các yếu tố chính trị ở mọi quốc gia. Họ sẽ làm việc trong thế giới của chính quyền nhân loại, giải quyết các vấn đề của nền văn minh và các mối quan hệ hiện có giữa các quốc gia. Mục tiêu chính của họ là thúc đẩy sự hiểu biết quốc tế. Nhóm này truyền đạt “phẩm tính áp đặt” và uy quyền vốn là những gì còn thiếu trong các nhánh khác của hoạt động nhóm thiêng liêng này. Công việc này phần lớn là công việc thuộc cung một. Nó sẽ thể hiện phương pháp mà nhờ đó Ý chí thiêng liêng được biểu lộ trong tâm thức của các chủng tộc và các quốc gia. Các thành viên của nhóm này sẽ có nhiều năng lượng cung một trong vận cụ của họ. Công việc của họ là hoạt động như các kênh liên lạc giữa ngành của Đức Bàn Cổ và loài người. Hỡi các huynh đệ của tôi, làm đường vận hà cho ý chí của Thượng Đế là một nhiệm vụ cao cả.

6. The workers in the Field of Religion form this group. Their work is to formulate the universal platform of the new world religion. It is a work of loving synthesis and it will emphasize the unity and the fellowship of the spirit. This group is, in a pronounced sense, a channel for the activity of the second Ray of Love-Wisdom, that of the World Teacher—an office held at present by the Christ. The platform of the new world religion will be built by the many groups, working under the inspiration of the Christ and the influence of the second ray and these—in their totality—will constitute this sixth group.

6. Những nhà hoạt động trong Lĩnh Vực Tôn giáo hình thành nên nhóm này. Công việc của họ là đặt nền tảng phổ quát cho tôn giáo thế giới mới. Nó là một công việc của sự tổng hợp đầy yêu thương, và nó sẽ nhấn mạnh sự hợp nhất và tình bằng hữu tinh thần. Theo một ý nghĩa rõ ràng, nhóm này là một vận hà cho hoạt động của Cung hai Bác ái-Minh triết của Đức Chưởng Giáo — một chức vụ hiện nay do Đức Christ nắm giữ. Nền tảng của tôn giáo thế giới mới sẽ được xây dựng bởi nhiều nhóm hoạt động dưới sự hướng dẫn của Đức Christ và ảnh hưởng của cung hai và toàn thể các nhóm này nói chung sẽ tạo thành nhóm thứ sáu.

[39]

[39]

7. The seventh group is that of the Scientific Servers. They will reveal the essential spirituality of all scientific work which is motivated by love of humanity and its welfare, which relates science and religion and brings to light the glory of God through the medium of His tangible world and His works. They have a most interesting function but one which will not become evident for a long time—not until the building forces of the universe are better understood. This will be co-incident with the development of etheric vision. This group will act as a channel of communication or intermediary between the energies which constitute the forces which construct the forms and fabricate the outer garment of Deity and the human spirits. You will note here, consequently, the possibility that this group’s main initial work will be concerned with the problem of reincarnation. That problem deals with the taking of an outer garment or form under the Law of Rebirth.

7. Nhóm thứ bảy là Những Người Phụng Sự Khoa Học. Họ sẽ tiết lộ tinh thần thiết yếu của tất cả các công việc khoa học được thúc đẩy bởi tình yêu thương nhân loại và phúc lợi của nó, vốn nối liền khoa học và tôn giáo và mang đến ánh sáng vinh quang của Thượng Đế qua phương tiện của thế giới hữu hình và các công trình của Ngài. Họ có một chức năng vô cùng lý thú nhưng nó sẽ không trở nên rõ ràng trong một thời gian dài — cho đến khi các mãnh lực xây dựng của vũ trụ được hiểu rõ hơn. Điều này sẽ xảy ra đồng thời với sự phát triển của tầm nhìn dĩ thái. Nhóm này sẽ hoạt động như một kênh truyền thông hoặc trung gian giữa các năng lượng tạo thành các mãnh lực xây dựng các hình thể và chế tác lớp vỏ biểu lộ ngoại tại của Đấng Cao cả và tinh thần con người. Do đó, các bạn sẽ lưu ý ở đây rằng khả năng công việc ban đầu chính của nhóm này sẽ liên quan đến vấn đề luân hồi. Vấn đề đó liên quan đến việc khoác lấy một lớp vỏ bọc ngoài hay hình tướng theo Luật Tái sinh.

8. The Psychologists will form this next group and they will be concerned with the revelation of the fact of the soul and with the new psychology which will be based upon the seven ray types and the new esoteric astrology. Their major task will be to relate, through approved techniques, the soul and the personality, leading to the revelation of divinity through the medium of humanity. They will act also as transmitters of illumination between groups of thinkers and as illuminators of group thought. They transmit energy from one thought centre to another and, above everything else, they transmit the energy of ideas. The world of ideas is a world of dynamic force centres. Let this not be forgotten. These ideas have to be contacted and noted and their energy has to be assimilated and transmitted.

8. Những Nhà Tâm Lý Học sẽ thành lập nhóm tiếp theo này và họ sẽ quan tâm đến việc tiết lộ sự thật về linh hồn và tâm lý học mới vốn dựa trên bảy loại cung và chiêm tinh bí truyền mới. Thông qua các kỹ thuật đã được chấp thuận, nhiệm vụ chính của họ sẽ liên hệ giữa linh hồn và phàm ngã, dẫn đến sự khai mở về tính chất thiêng liêng của Thượng Đế thông qua trung gian của con người. Họ cũng sẽ hoạt động như những người truyền ánh sáng giữa các nhóm nhà tư tưởng và như những người chiếu sáng tư tưởng nhóm. Họ truyền năng lượng từ trung tâm tư tưởng này sang trung tâm tư tưởng khác, và trên hết, họ truyền năng lượng của các ý tưởng. Thế giới ý tưởng là thế giới của các trung tâm lực năng động. Đừng quên điều này. Những ý tưởng này phải được tiếp xúc và ghi nhận và năng lượng của chúng phải được hấp thụ và truyền đi.

9. This ninth group will be composed of Financiers and Economists. They will work with the energies and forces which express themselves through the interchange and the values of commerce; they will deal with the Law of Supply and Demand and with the great principle of Sharing which ever governs divine purpose. They will [40] be the great psychometrical workers, for a psychometrist is one whose soul is sensitive to the soul in others and in all forms of life. The principle of Sharing which must govern economic relations in the future is a soul quality or energy and hence their work of relating soul with soul. They also evoke the soul of the past, linking it with the present and finding it likewise indicative of the future.

9. Nhóm thứ chín này sẽ bao gồm Những Nhà Tài Chính và Kinh Tế. Họ sẽ làm việc với những năng lượng và mãnh lực thể hiện bản thân thông qua sự trao đổi và các giá trị của thương mại; họ sẽ làm việc với Định luật Cung và Cầu và với nguyên lý Chia Sẻ vĩ đại luôn chi phối mục đích thiêng liêng. Họ [40] sẽ là những nhà trắc tâm vĩ đại, vì một nhà trắc tâm là người có linh hồn nhạy cảm với linh hồn của người khác và của mọi dạng sống. Nguyên tắc Chia sẻ vốn phải chi phối các mối quan hệ kinh tế trong tương lai là một phẩm chất hay năng lượng linh hồn, và do đó công việc của họ là liên hệ giữa các linh hồn với nhau. Họ cũng gợi lên linh hồn của quá khứ, liên kết nó với hiện tại và cũng nhìn thấy nó là dấu hiệu của tương lai.

10. This is the group of Creative Workers. They are communicators between the third aspect of Divinity, the Creative Aspect—as it expresses itself through the creative work and in response to the thought world—and the first aspect, Life. They link and blend life and form creatively. They are closely related to the ninth group because today, unknowingly and without any true understanding, they are bringing about a concretisation of the energy of desire; this in its turn brings about the creation of things. Incidentally, therefore, they are concerned with the concretisation of money. Their work is also largely philosophical and concerned with the task of relating—factually and scientifically—the other nine types of groups so that they may work creatively upon the physical plane and the divine Plan may clearly appear as a result of this synthesis which they bring about.

10. Đây là nhóm của Những Người Hoạt Động Sáng tạo. Họ là những người giao tiếp giữa trạng thái Thiêng Liêng thứ ba, Khía cạnh Sáng tạo — vì khía cạnh này thể hiện bản thân thông qua công việc sáng tạo và phản ứng với thế giới tư tưởng — và trạng thái thứ nhất, tức Sự sống. Họ liên kết và hòa trộn sự sống với hình tướng một cách sáng tạo. Họ có liên hệ mật thiết với nhóm thứ chín bởi vì ngày nay trong sự vô thức và không có hiểu biết đúng đắn nào, họ đang mang lại việc cụ thể hóa năng lượng của ham muốn; đến lượt nó, điều này lại mang đến sự sáng tạo của mọi thứ. Do đó, một cách ngẫu nhiên họ quan tâm đến việc cụ thể hóa tiền bạc. Công việc của họ cũng chủ yếu mang tính triết học và liên quan đến nhiệm vụ liên hệ với chín nhóm kia một cách thực tế và khoa học để họ có thể hoạt động sáng tạo trên cõi vật lý và Thiên Cơ thiêng liêng có thể xuất hiện rõ ràng như là kết quả của sự tổng hợp mà họ mang lại.

III. These groups are also an externalisation of an inner existing condition.

III. Các nhóm này cũng là sự ngoại hiện của một trạng thái tồn tại bên trong.

They are an effect and not a cause. That they themselves may have an initiatory effect (as they work out into manifestation upon the physical plane) is no doubt true; but they are themselves the product of an inner activity and of a subjective aggregation of forces which must perforce become objective. The work of the disciples who find their place in these various groups is to keep in close rapport with ten inner groups which form, nevertheless, one large active group. This group force will then pour through all the various groups just in so far as the disciples
in the groups do the following things as a group:

Họ là kết quả chứ không phải nguyên nhân. Bản thân họ có thể có tác động khởi đầu (khi họ hoạt động biểu lộ trên cõi vật lý) là điều không còn nghi ngờ gì nữa; nhưng bản thân họ là sản phẩm của một hoạt động bên trong và của một tập hợp các mãnh lực nội tại buộc phải biểu lộ ra bên ngoài. Công việc của các đệ tử có vị trí trong các nhóm khác nhau này là giữ mối quan hệ chặt chẽ với mười nhóm bên trong, vốn dĩ, tuy vậy,, tạo thành một nhóm lớn hoạt động tích cực. Mãnh lực nhóm này sau đó sẽ tuôn đổ xuyên qua tất cả các nhóm khác khi các đệ tử trong các nhóm làm những việc sau đây như một nhóm:

1. Keep en rapport with the inner source of power.

1. Giữ sự liên lạc với cội nguồn sức mạnh bên trong.

2. Never lose sight of the group objective.

2. Không bao giờ đánh mất mục tiêu của nhóm.

[41]

[41]

3. Cultivate the dual capacity to apply the laws of the soul to the individual life and the laws of the group to group life.

3. Trau dồi năng lực kép để áp dụng các định luật của linh hồn vào đời sống cá nhân và các định luật nhóm vào đời sống nhóm.

4. Use all the forces which may flow into the group in service; they must learn, therefore, to register those forces and use them correctly. The hints given below as to the centres which these ten groups will use must be studied. The right use of these centres will take place only when there is a greater group unity established among the members of the individual groups and among the groups as a whole. You ask why is this so, my brothers? Because the force flowing in might prove too strong for the individual disciple to handle alone, but the force is shared by the group if there is complete group at-one-ment. In this way, each disciple can serve the group and his objective eventually becomes:

4. Sử dụng tất cả các mãnh lực có thể tuôn đổ vào nhóm đang phụng sự; do đó, họ phải học cách tiếp nhận các mãnh lực đó và sử dụng chúng đúng cách. Các gợi ý dưới đây về các trung tâm mà mười nhóm này sẽ sử dụng phải được nghiên cứu. Việc sử dụng đúng các trung tâm này sẽ chỉ diễn ra khi có sự hợp nhất nhóm lớn lao hơn được thiết lập giữa các thành viên của các nhóm riêng lẻ và giữa các nhóm như một tổng thể. Các huynh đệ có thể hỏi tại sao lại như vậy? Bởi vì mãnh lực truyền vào có thể chứng tỏ là quá mạnh để từng đệ tử có thể xử lý một mình, nhưng lực được chia sẻ bởi cả nhóm nếu có sự hợp nhất tập thể hoàn toàn. Bằng cách này, mỗi đệ tử có thể phụng sự nhóm và mục tiêu của y cuối cùng trở thành:

a. At-one-ment with his group brothers.

a. Hợp nhất với các huynh đệ trong nhóm của mình.

b. Alignment with his soul and with the inner group which is the subjective cause of the outer groups.

b. Chỉnh hợp với linh hồn y và với nhóm bên trong vốn là nguyên nhân chủ quan của những nhóm bên ngoài.

c. The expression of the particular technique which his group should eventually embody.

c. Biểu lộ kỹ thuật cụ thể mà nhóm của y cuối cùng nên thực hiện.

The groups will use the following centres in their work:

Các nhóm sẽ sử dụng các trung tâm sau trong công việc của họ:

Group 1.—The head, heart and throat centres

Nhóm 1. — Trung tâm đầu, tim và cổ họng.

Group 2.—The head, heart and solar plexus centres.

Nhóm 2. — Trung tâm đầu, tim và tùng thái dương.

Group 3.—The head, heart and ajna centres.

Nhóm 3. — Trung tâm đầu, tim và ajna.

Group 4.—The head, ajna and throat centres.

Nhóm 4. — Trung tâm đầu, ajna và cổ họng.

Group 5.—The head and heart centres and the centre at the base of the spine.

Nhóm 5. — Trung tâm đầu và tim và trung tâm ở đáy cột sống.

Group 6.—The head, heart and solar plexus centres. This is necessarily the
same as in Group 2.

Nhóm 6. — Trung tâm đầu, tim và tùng thái dương. Điều này nhất thiết phải giống như trong Nhóm 2.

Group 7.—The head, throat and sacral centres

Nhóm 7. — Trung tâm đầu, cổ họng và xương cùng.

Group 8.—The head, heart, solar plexus and throat centres. This group of disciples will be the first to use four centres in their work as they are in a curious sense, the mediators of thought between the other groups. They are peculiarly a linking group.

Nhóm 8. — Trung tâm đầu, tim, tùng thái dương và cổ họng. Nhóm đệ tử này sẽ là những người đầu tiên sử dụng bốn trung tâm trong công việc của họ vì họ là những người trung gian tư tưởng giữa các nhóm khác. Họ là một nhóm liên kết đặc biệt.

[42]

[42]

Group 9.—The head, heart, throat and sacral centres.

Nhóm 9. — Trung tâm đầu, tim, cổ họng và xương cùng.

Group 10.—The head, heart, sacral centres and the centre at the base of the spine.

Nhóm 10. — Trung tâm đầu, tim, xương cùng và trung tâm ở đáy cột sống.

I wonder, my brothers, if the following sequence of statements will convey anything to your minds? It is a statement of fact and is not the least symbolic in its terminology—except in so far as all words are inadequate symbols of inner truths.

Tôi tự hỏi, các huynh đệ của tôi, các tuyên bố tuần tự sau đây có truyền tải điều gì vào trong trí của các bạn không? Nó là một tuyên bố về sự việc thực tế chứ không có ý nghĩa ẩn dụ bóng bẩy — trừ phi cho rằng tất cả các từ ngữ đều là những biểu tượng thiếu sót để diễn đạt đầy đủ các chân lý nội tại.

1. Each group has its inner counterpart.

1. Mỗi nhóm đều có một phản ảnh nội tại tương ứng.

2. This inner counterpart is a completed whole. The outer results are still only partial.

2. Phản ảnh nội tại này là một chỉnh thể đã hoàn thành. Kết quả bên ngoài vẫn chỉ là một phần.

3. These ten inner groups, forming one group, are related to the Ashrams of the Masters and are each of them expressive of or governed by ten laws, embodying the controlling factors in group work. A law is an expression or manifestation of force applied, under the power of thought, by a thinker or group of thinkers.

3. Mười nhóm bên trong này hợp thành một nhóm, có liên quan đến Đạo viện của các Chân sư, và mỗi nhóm biểu hiện hoặc được cai quản bởi mười định luật, vốn thể hiện các yếu tố kiểm soát trong công tác tập thể. Một định luật là một sự thể hiện hoặc biểu lộ của mãnh lực được áp dụng dưới quyền năng của tư tưởng bởi một nhà tư tưởng hoặc một nhóm các nhà tư tưởng.

4. These ten inner groups, embodying ten types of force and working synthetically to express ten laws, are an effort to bring in new and different conditions, and hence produce a new and better civilisation. The Aquarian Age will see consummation.

4. Mười nhóm bên trong này, hiện thân của mười loại mãnh lực và hoạt động tổng hợp để thể hiện mười định luật, là nỗ lực mang lại những tình trạng mới mẻ và khác biệt, và do đó sản sinh ra một nền văn minh mới và tốt hơn. Thời đại Bảo Bình sẽ thấy sự viên mãn.

5. The outer groups are a tentative and experimental effort to see how far humanity is ready for such an endeavour.

5. Các nhóm bên ngoài là một nỗ lực thăm dò và thử nghiệm để xem nhân loại đã sẵn sàng đến mức nào cho sự cố gắng như vậy.

IV. These groups are also an experiment which has for its objective the manifestation of certain types of energy which will, when effectively functioning, produce cohesion or at-one-ment upon earth. The present distraught condition in the world, the international cataclysm and apparent impasse, the religious dissatisfaction, the economic and social upheaval and the appalling effects of war are all the results of energies that are so potent—owing to their immense momentum—that they can only be brought into rhythmic activity by the imposition of stronger and more definitely directed energies.

IV. Các nhóm này cũng là một thí nghiệm mà mục tiêu của nó là biểu hiện một số loại năng lượng nhất định, khi hoạt động hiệu quả sẽ tạo ra sự gắn kết hoặc hợp nhất trên thế gian. Tình trạng hỗn loạn hiện nay trên thế giới, thảm họa quốc tế và sự bế tắc rõ ràng, sự bất mãn về tôn giáo, biến động kinh tế và xã hội và những tác động tàn khốc của chiến tranh, tất cả đều là kết quả của những nguồn năng lượng mạnh mẽ — do động lực lớn của chúng — mà chúng chỉ có thể được đưa vào hoạt động có nhịp điệu bằng cách áp đặt các năng lượng mạnh mẽ hơn và có định hướng rõ ràng hơn.

The groups are intended to work together eventually just as the various departments of a great organisation work effectively together as a unit. They must function smoothly and intelligently within themselves and also in their inter-relation with [43] each other. This will become possible when the individual members in the groups and the individual groups of disciples lose sight of their own identities in an effort to make this hierarchical work possible. In this type of group work, the feelings, reactions, wishes and successes of the individual most emphatically do not count. Only that is regarded as of importance which will further group effort and enrich the group consciousness.

Các nhóm được dự định làm việc cùng nhau cuối cùng cũng giống như các bộ phận khác nhau của một tổ chức lớn làm việc hiệu quả với nhau như một đơn vị. Họ phải hoạt động trơn tru và thông tuệ bên trong chính nhóm của họ và cả trong mối quan hệ với các nhóm khác [43]. Điều này sẽ trở nên khả thi khi từng thành viên đơn lẻ trong các nhóm và từng nhóm đệ tử riêng lẻ quên đi bản sắc riêng của chính họ để nỗ lực làm cho công việc Thánh đoàn trở nên khả thi. Trong loại hình làm việc nhóm này, cảm xúc, phản ứng, mong muốn và thành công của cá nhân tuyệt đối không đáng kể. Chỉ có nỗ lực trợ giúp nhóm và làm phong phú thêm tâm thức nhóm mới là quan trọng.

PART V—PHẦN V

The Hierarchy sanctioned the starting of these groups in the year 1931. The members of these groups have been slowly chosen since then and are endeavouring, since their inclusion in this ashramic work, to work together in complete unity of purpose and of relationship. It may be of interest to you to know a little of how we approached the subject.

Thánh đoàn đã cho phép bắt đầu các nhóm này vào năm 1931. Các thành viên của các nhóm này đã được lựa chọn dần kể từ đó, và kể từ khi tham gia vào công việc của Đạo viện, họ đang nỗ lực để làm việc cùng nhau trong sự thống nhất hoàn toàn về mục đích và tình bằng hữu. Các bạn có thể thích thú khi biết một chút về cách chúng tôi tiếp cận chủ đề này.

As you all know, I am a second ray disciple, an initiate of a certain standing—the grade of which in no way concerns you, though many of you have personally and interiorly ascertained who I am. If the teaching which I have given you and the books which I have given to the world do not suffice to win your confidence and your attention, then knowing that I am an initiate of the third degree, or a Master, or a Boddhisattva or one of the Buddhas close to the Throne of God will in no way aid your comprehension and will only hinder your development. For many lives I have been close to the Master K.H.; in discussion with Him, we have often wondered how we should aid in the inauguration upon earth of those newer types of work which will be distinctive of the New Age and yet would be close enough to the comprehension of the advanced aspirants and the world disciples so that their cooperation would be evoked and their intelligent help forthcoming. What were the requirements for which we should look and what should be the technique to be applied in the New Age for the raising of the consciousness of men? We decided that four things must, first of all, distinguish the group work which should be done and should characterise the disciples to be chosen for training. These were: Sensitivity, Impersonality, Psychic Gifts, Mental Polarisation. I do not make mention of aspiration, of selflessness [44] or of the desire to serve. They are fundamentals and basic essentials and, where they do not exist, there is no use in proffering the type of assistance which we are seeking to give.

Như tất cả các bạn đều biết, tôi là một đệ tử thuộc cung hai, một điểm đạo đồ ở một đẳng cấp nhất định — cấp đẳng này không liên quan gì đến các bạn cả, mặc dù nhiều người trong số các bạn đã tự trong thâm tâm và do sự tiếp xúc cá nhân mà biết tôi là ai. Nếu giáo lý mà tôi đã truyền cho các bạn và những cuốn sách tôi đã truyền cho thế giới không đủ để giành được sự tin tưởng và chú ý của các bạn, thì dù có biết rằng tôi là điểm đạo đồ bậc ba, hoặc một Chân sư, hoặc một vị Bồ tát hoặc một trong những vị Phật gần với Ngôi Thượng Đế cũng không giúp ích gì cho sự hiểu biết mà chỉ cản trở sự phát triển của các bạn. Trong nhiều kiếp tôi có liên hệ mật thiết với Chân sư K.H; trong các cuộc thảo luận với Ngài, chúng tôi thường tự hỏi chúng tôi nên trợ giúp như thế nào trong việc hình thành trên thế gian những loại công tác mới hơn vốn đặc trưng cho Kỷ Nguyên Mới nhưng sẽ đủ gần với sự hiểu biết của những người chí nguyện tiên tiến và các đệ tử thế giới, để khơi dậy sự hợp tác và sự trợ giúp sáng suốt thông minh của họ. Những yêu cầu mà chúng tôi nên xem xét và kỹ thuật nên được áp dụng trong Kỷ Nguyên Mới để nâng cao tâm thức của con người là gì? Chúng tôi quyết định rằng trên tất cả, bốn điều mà công việc nhóm nên làm và nên đặc trưng cho các đệ tử được chọn để huấn luyện là: Sự Nhạy Cảm, Sự Vô Tư, Các Khả Năng Thông Linh, Sự Phân Cực Trí Tuệ. Tôi không đề cập đến khát vọng, vô kỷ [44] hay mong muốn phụng sự. Chúng là những nền tảng và những yếu tố cần thiết cơ bản mà nếu chúng không tồn tại thì thật vô ích khi đề xuất sự giúp đỡ mà chúng tôi đang cố gắng cung cấp.

You will note that, as you look back over the spiritual history of the race of men during the past two thousand years (which is far enough for our purpose), that the following methods have been consecutively used to reach men’s minds spiritually:

Các bạn sẽ lưu ý rằng, khi nhìn lại lịch sử phát triển tinh thần của nhân loại trong suốt hai nghìn năm qua (đủ xa đối với mục đích của chúng ta), rằng các phương pháp sau đây đã được sử dụng liên tục để tiếp cận trí tuệ của con người theo một cách tinh thần:

1. The method of raising the consciousness of an individual so that he became a Knower. Individual salvation and the emergence of outstanding individuals with spiritual sense, vision and achievement to their credit has characterised the mystical history of the past. Some of these people emerged along the way of the heart, the mystical way; such were Shri Krishna, St. Francis of Assisi, and all those Knowers whose way was the Way of Love. To these can be added Milarepa of Tibet and Lao Tze of China. Such also have been many of the saints of the church in the West. The Bhagavad Gita has been the book which has embodied this way superlatively.

1. Phương pháp nâng cao tâm thức của một cá nhân để y trở thành một Người Hiểu Biết. Sự cứu rỗi cá nhân và sự xuất hiện của những nhân vật xuất chúng với giác quan tinh thần, tầm nhìn và thành tựu của họ đã đặc trưng cho lịch sử thần bí của quá khứ. Một số người trong số này nổi lên theo đường lối của trái tim, con đường thần bí; đó là Đức Shri Krishna, Thánh Francis of Assisi, và tất cả những Người Hiểu Biết mà con đường của họ là Con Đường Tình Thương. Trong số này có thể kể đến Đức Milarepa của Tây Tạng và Đức Lão Tử của Trung Quốc. Cũng có nhiều vị thánh của giáo hội ở phương Tây. Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita) là cuốn sách đã trình bày đường lối này một cách tột bậc.

Others emerged along the way of the mind and were the intellectual Knowers. Theirs is the more strictly occult way and it has become increasingly the way of our present day aspirants. The reason for this is that the polarisation of the race is shifting ever more steadily on to the mental plane. Some of the individuals on this way of the mind were Sankaracharya, the Apostle Paul, and Meister Eckhart. Today, many are coming out along this way under the name of science. There were also those outstanding individuals, such as the Christ and the Buddha, Who combined both ways in their perfection and Who towered above Their fellowmen from the heights of Their achievement. They swayed hemispheres and centuries, whereas the lesser sons of God swayed countries, specific types of mind and lesser periods of time.

Những người khác nổi lên theo con đường của trí tuệ và là những Người Hiểu Biết thông tuệ. Họ theo con đường huyền bí nghiêm ngặt hơn, và nó ngày càng trở thành con đường của những người chí nguyện ngày nay của chúng ta. Lý do cho điều này là sự phân cực của loài người đang dần dần chuyển sang cõi trí. Một số cá nhân đi theo con đường trí tuệ là Đức Sankaracharya, Thánh Paul và Meister Eckhart. Ngày nay, nhiều người xuất hiện trên con đường này dưới danh nghĩa của khoa học. Ngoài ra còn có những cá nhân xuất chúng, chẳng hạn như Đức Christ và Đức Phật đã kết hợp cả hai con đường một cách hoàn hảo và vượt lên trên nhân loại rất xa. Các Ngài gây ảnh hưởng khắp cả các bán cầu và qua nhiều thế kỷ, trong khi những người con khác của Thượng Đế có địa vị thấp hơn gây ảnh hưởng đến các quốc gia, các loại tâm trí cụ thể và trong khoảng thời gian ngắn hơn.

2. The second method employed for raising the consciousness of the race was through groups, gathered around a [45] teacher who (to a greater or less degree) was a focal point of energy either

2. Phương pháp thứ hai được sử dụng để nâng cao tâm thức của nhân loại là thông qua các nhóm, tập hợp xung quanh một [45] huấn sư (ở mức độ cao hoặc thấp) là một điểm tập trung năng lượng:

a. By the power of his soul contact or

a. Bằng quyền năng liên hệ với linh hồn của vị huấn sư hoặc

b. By that contact and being also a channel through which some member of the Hierarchy could work.

b. Bằng cách liên hệ đó và cũng là một vận hà mà thông qua đó một số thành viên của Thánh đoàn có thể hoạt động.

Through the example of these teachers, through their teaching, through their successes and their failures, those whom they gathered to them could be taught, their vibration could be increased, their consciousness expanded and the group could become a magnetised centre of force, of purpose and of spiritual light—the degree of this being dependent upon the purity of the note sounded and the selflessness of the lives shown. The mental calibre of the group also had its effect, for the average vibration and polarisation established the note for the group as a whole.

Thông qua tấm gương của những vị Huấn sư, thông qua giáo lý của họ, thông qua những thành công và thất bại của họ, những người mà họ tập hợp lại có thể được chỉ dạy, rung động của môn sinh có thể được nâng lên, tâm thức của họ được mở rộng và nhóm có thể trở thành một trung tâm từ tính của mãnh lực, của mục đích và của ánh sáng tinh thần — mức độ ảnh hưởng của trung tâm này phụ thuộc vào sự thuần khiết của tần số phát ra và đời sống vị tha vô kỷ của các môn sinh trong nhóm. Phẩm chất trí tuệ của nhóm cũng có ảnh hưởng vì tần số rung động bình quân và sự phân cực sẽ tạo nên âm điệu cho toàn bộ nhóm.

An experiment is now being made to shift the focus of the groups inwards and yet, at the same time, to increase their potency by permitting no individual leader to be found at the group centre upon the outer plane. All in the group are to be gathered together as free souls. Together, they will learn; together, they will stand with impersonality; together, they will render service to the world. You must remember, however, that any person who takes the position that the work to be done is only upon the inner planes and that he is working solely from mental or spiritual levels of consciousness is not right in his conception of the process. Inner work which does not work out into objective activity upon the physical plane is wrongly oriented and inspired.

Một thử nghiệm hiện đang được thực hiện để chuyển trọng tâm của các nhóm vào bên trong và đồng thời tăng cường sức mạnh của họ bằng cách không để cho cá nhân lãnh đạo nào xuất hiện ở trung tâm nhóm trên cõi giới bên ngoài. Tất cả thành viên trong nhóm sẽ tập hợp lại với nhau như những linh hồn tự do. Họ sẽ cùng nhau học hỏi; đứng cùng nhau trong sự vô kỷ; cùng nhau phụng sự thế giới. Tuy nhiên, các bạn phải nhớ rằng bất kỳ người nào cho rằng công việc phải hoàn thành chỉ dựa trên các cõi bên trong và rằng y đang làm việc chỉ từ các cấp độ trí tuệ hoặc tinh thần của tâm thức thì người ấy có quan niệm không đúng. Công việc bên trong mà không thể hiện ra thành hoạt động khách quan trên cõi vật lý là công việc được định hướng và cảm hứng sai lầm.

These new types of groups will work together under the conscious guidance and suggestion of a member of the Great White Lodge. Note the word “suggestion,” my brothers. If these groups were subjected to the authority of such a member, then the objective of all the work undertaken would fail to materialize. An occult law would have been broken. Free, intelligent assistance is what we are asking from all our disciples today, and we leave them free to render it or not as they like and in the manner which may seem best to them. I am your teacher. I make suggestion. I offer instruction. I indicate [46] the way to the goal and to the field of service. I point out to you what we, the Teachers upon the inner side, seek to see accomplished. Temporarily and of your own free will, you have indicated your willingness to serve and to cooperate in my plans. Beyond thus indicating the way and the service, I will not go. It is for all of you, my disciples, to work out in joint collaboration and in the closest understanding the way that my suggestions and my hints should be utilised. I do not interfere.

Những nhóm mới này sẽ hoạt động cùng nhau dưới sự hướng dẫn và gợi ý có ý thức của một thành viên trong Đại Bạch Giai Đoàn. Hãy lưu ý từ “gợi ý”, các huynh đệ của tôi. Nếu các nhóm này chịu sự áp đặt dưới uy quyền của một thành viên nói trên, thì mục tiêu của tất cả các công việc dự tính sẽ không thành hiện thực vì điều ấy vi phạm một định luật Huyền Môn. Ngày nay sự trợ giúp một cách thông tuệ và tự do là những gì chúng tôi đang yêu cầu từ tất cả các đệ tử, và chúng tôi để cho họ được tự do hợp tác hay không tùy ý muốn và bằng cách nào mà họ cho là tốt nhất. Tôi là huấn sư của các bạn. Tôi đưa ra lời gợi ý. Tôi đưa ra hướng dẫn. Tôi chỉ ra [46] con đường đưa đến mục tiêu và lĩnh vực phụng sự. Tôi chỉ ra cho các bạn những gì mà chúng tôi, những người Thầy ở nội giới, tìm cách hoàn thành. Tạm thời và theo ý chí tự do của mình, các bạn đã thể hiện sự sẵn lòng phụng sự và hợp tác với các kế hoạch của tôi. Tất cả các bạn hãy cố gắng trong sự thấu hiểu gần gũi nhất và hợp tác chung để tự mình tìm ra phương pháp sử dụng những sự gợi ý của tôi. Tôi không can thiệp vào việc đó.

First of all, I call for a deeper love and comprehension between the members of the group. This is necessary in order that the internal structure of the group may be more firmly and closely integrated.

Trước hết, tôi kêu gọi tình yêu thương và sự thấu hiểu sâu sắc hơn giữa các thành viên trong nhóm. Điều này là cần thiết để cơ cấu nội bộ của nhóm có thể được tích hợp vững chắc và chặt chẽ hơn.

Next, you must learn to work on the levels of meditation with greater clarity and power. So much of your meditation work is selfish. Do you realise that? Is not your attitude very often to be expressed in the following terms: When I am meditating, what will the Tibetan give me at this time? Will he give me something which will make me a better disciple? Will the meditation which he may give me interest me more than the one I am now doing? Will a change in meditation bring me better results (probably of a phenomenal kind!) or a new revelation or fresh enlightenment and enable me to achieve my goal? Few of you in this particular group in my Ashram as yet really work in meditation upon those levels where creative work is done. May I point out that until you can begin to do this, the work which I seek to do through all of you is largely at a standstill. The object of any meditation which I may assign to you is to enable you to have power in meditation so that you will no longer be pre-occupied with yourselves and your own problems but you will become unified with your group for group work and eventually for still wider group purposes—my purposes, as your teacher and a world worker and server.

Tiếp theo, các bạn phải học cách làm việc trên các cấp độ tham thiền với quyền năng và sự thuần khiết lớn lao hơn. Công việc tham thiền của các bạn hãy còn nhiều tính chất ích kỷ. Các bạn có nhận ra điều đó không? Phải chăng thái độ của các bạn thường được thể hiện bằng những lời lẽ đại khái như: Khi tôi tham thiền lần này, Chân sư Tây Tạng sẽ ban cho tôi những gì? Liệu Ngài có cho tôi thứ gì đó để khiến tôi trở thành một đệ tử tốt hơn? Liệu phương pháp tham thiền mà Ngài đưa ra cho tôi có làm tôi thích thú hơn điều mà tôi đang làm chăng? Việc thay đổi cách tham thiền có mang lại cho tôi kết quả tốt hơn chăng (có thể là một loại hiện tượng!) hay một sự mặc khải mới hoặc sự giác ngộ mới có thể giúp tôi đạt được mục đích của mình? Trong nhóm đệ tử ở Đạo Viện của tôi, ít có người đã thực sự tham thiền trên các mức độ mà công việc sáng tạo được hoàn thành. Liệu tôi có thể chỉ ra rằng, trừ khi các bạn bắt đầu tham thiền như thế, công việc mà tôi tìm cách thực hiện thông qua tất cả các bạn phần lớn đang bị bế tắc. Mục tiêu của bất kỳ bài tham thiền nào mà tôi chỉ dẫn cho các bạn là cho phép các bạn có sức mạnh trong tham thiền để các bạn không còn bận rộn nghĩ đến mình và các vấn đề của riêng mình, mà các bạn sẽ trở nên hợp nhất với nhóm của mình cho công việc nhóm, và cuối cùng cho các mục đích nhóm được rộng mở hơn nữa — đó cũng là các mục đích của tôi, với tư cách là huấn sư của các bạn và là một người phụng sự thế gian.

With what kind of instrument, therefore, can I now work? Every true teacher asks himself this question as he studies the grouping of souls with which he has associated himself and which he seeks to serve and aid. As integration of the group takes place, the pre-dispositions and the basic tendencies of the massed group qualities emerge and can be studied; weaknesses can then be offset and right indications fostered….

Do đó, bây giờ tôi có thể làm việc với loại khí cụ nào? Mỗi vị huấn sư chân chính đều tự hỏi mình câu hỏi này khi nghiên cứu nhóm các linh hồn mà Ngài liên kết và tìm cách đáp ứng và trợ giúp. Khi sự tích hợp của nhóm diễn ra, các khuynh hướng và đặc điểm cơ bản của các phẩm chất của nhóm đã được tập trung sẽ xuất hiện và có thể được nghiên cứu; những điểm yếu [LK5] sau đó có thể được sửa đổi và những ưu điểm được bồi dưỡng….

[47]

[47]

I have earlier pointed out to you that the basic qualities for which we look are sensitivity, impersonality, psychic capacity and mental polarisation. Upon these I would like very briefly to enlarge and then I will lay before you (for your understanding interest and possible collaboration) the plans for future group activity. These plans can materialise if you can make the necessary adjustments and submit yourselves to the discipline and the training which will make greatly increased usefulness possible.

Trước đó tôi đã chỉ ra cho các bạn những phẩm chất cơ bản mà chúng tôi tìm kiếm là sự nhạy cảm, tính vô kỉ, khả năng thông linh và phân cực về mặt trí tuệ. Sau đây, tôi muốn nói thêm vắn tắt và trình bày với các bạn các kế hoạch cho hoạt động nhóm trong tương lai để có được sự quan tâm hiểu biết và khả năng cộng tác của các bạn. Những kế hoạch này có thể thành hiện thực nếu các bạn có thể thực hiện những điều chỉnh cần thiết và tự mình tuân theo kỷ luật và sự huấn luyện vốn khả dĩ sẽ làm cho các bạn hữu dụng hơn đáng kể.

I have stated that the first requirement is sensitivity. What exactly is this? It does not mean primarily that you are a “sensitive soul”—the connotation of which usually means that you are thin-skinned, self-centred and always on the defensive! Rather do I refer to the capacity whereby you are enabled to expand your consciousness so that you become aware of ever- widening ranges of contact. I refer to the ability to be alive, alert, keen to recognise relationships, quick to react to need, mentally, emotionally and physically attentive to life and rapidly developing the power to observe upon all three planes in the three worlds simultaneously. I am not interested in your personal relations where they concern your wrong personality sensitivity to depression, to self-pity, your defenses, your so-called sensitivity to slights, to misunderstandings, your dislike of your environing conditions, your hurt pride and qualities of this kind. These all cause you bewilderment and let loose in you the floodgates of compassion for yourself. But you do not need me to deal with them; of them you are well aware and can handle them if you choose. These faults are interesting only in so far as they affect the life of your group; they must be handled by you with care and with the open eye that senses danger from afar and seeks to avoid it. The sensitivity which I want to see developed is alertness to soul contact, impressionability to the “voice of the Teacher,” an aliveness to the impact of new ideas and to the delicacy of intuitional responsiveness. These are ever the hallmark of the true disciple. It is spiritual sensitivity which must be cultivated; this is only truly possible when you learn to work through the centres above the diaphragm and to transmute solar plexus activity (which is so [48] dominant in the average person), turning it into heart activity and the service of your fellowmen.

Tôi đã nói rằng yêu cầu đầu tiên là sự nhạy cảm. Điều này chính xác là gì? Chủ yếu nó không có nghĩa là các bạn là một “linh hồn nhạy cảm” với sự hàm nghĩa thông thường là người hay tự ái, tự cho mình là trung tâm và luôn đề phòng! Đúng hơn là tôi đề cập đến khả năng mà nhờ đó các bạn có thể mở rộng tâm thức của mình để nhận thức được phạm vi tiếp xúc ngày càng mở rộng. Tôi đề cập đến khả năng sống động, tỉnh táo, nhạy bén trong việc nhận biết các mối quan hệ, phản ứng nhanh với nhu cầu, chú ý đến đời sống trên các cấp độ trí tuệ, cảm xúc và thể chất, và phát triển nhanh chóng khả năng quan sát đồng thời cả ba cõi trong tam giới. Tôi không quan tâm đến các mối quan hệ cá nhân của các bạn khi chúng liên quan đến sự nhạy cảm sai lầm của phàm ngã như trầm cảm, tự thương hại, bảo vệ bản thân, cái gọi là nhạy cảm của các bạn với sự coi thường, hiểu lầm, sự bất mãn với hoàn cảnh, sự tự tôn bị tổn thương và những tính chất đại loại như vậy. Tất cả những điều này đều khiến các bạn hoang mang và khiến các bạn rơi vào tình trạng ngập tràn sự tự thương xót cho bản thân. Nhưng các bạn không cần tôi giải quyết chúng; các bạn biết rõ và có thể xử lý chúng nếu các bạn muốn. Những lỗi này chỉ đáng quan tâm khi chúng ảnh hưởng đến đời sống nhóm của các bạn; chúng phải được các bạn xử lý cẩn thận với đôi mắt rộng mở để cảm nhận nguy hiểm từ xa và tìm cách tránh nó. Sự nhạy cảm mà tôi muốn thấy được phát triển là sự thức tỉnh khi tiếp xúc với linh hồn, thụ cảm bén nhạy với “tiếng nói của vị Huấn sư”, sự sống động trước tác động của những ý tưởng mới và sự tinh tế của khả năng phản ứng trực giác. Đây luôn là dấu hiệu của người đệ tử chân chính. Đó là sự nhạy cảm tinh thần cần phải được trau dồi; điều này chỉ thực sự có thể thực hiện được khi các bạn học cách làm việc thông qua các luân xa phía trên cơ hoành và chuyển đổi hoạt động của luân xa tùng thái dương (vốn [48] chiếm ưu thế ở người bình thường), biến nó thành hoạt động của luân xa tim và phụng sự đồng loại của mình.

Impersonality, particularly for high grade integrated people, is peculiarly difficult to achieve. There is a close relation between impersonality and detachment. Study this. Many cherished ideas, many hard won qualities, many carefully nurtured righteousnesses and many powerfully formulated beliefs militate against impersonality. It is hard for the disciple—during the process of his early training—to hold earnestly to his own ideals and to pursue forcefully his own spiritual integration, and yet remain impersonally oriented towards other people. He seeks recognition of his struggle and achievement; he longs to have the light which he has kindled draw forth a reaction from others; he wants to be known as a disciple; he aches to show his power and his highly developed love nature so that he may evoke admiration or, at least, challenge. But nothing happens. He is looked upon as no better than all the rest of his brothers. Life, therefore, proves dissatisfying.

Tính vô ngã, đặc biệt đối với những người đã tích hợp cấp cao, là phẩm chất rất khó đạt được. Có một mối quan hệ chặt chẽ giữa tính vô ngã và sự tách rời. Hãy nghiên cứu điều này. Nhiều ý tưởng ôm ấp trong lòng, nhiều đức tính đạt được một cách khó khăn, nhiều điều ngay chính được hàm dưỡng cẩn thận, và nhiều sự tin tưởng được hình thành một cách mạnh mẽ, đều chống lại sự vô ngã. Thật khó cho người đệ tử — trong suốt quá trình huấn luyện ban đầu — để giữ vững lý tưởng của mình một cách nghiêm túc và theo đuổi một cách mạnh mẽ sự chỉnh hợp tinh thần của chính mình, nhưng vẫn hướng về người khác một cách vô ngã. Y muốn những tranh đấu và những thành công của mình được thừa nhận. Y mong muốn ánh sáng y đã thắp sẽ thu hút phản ứng từ người khác. Y muốn được người khác biết rằng y là một đệ tử. Y mong mỏi thi thố quyền năng và biểu lộ tình thương đã mở rộng của mình để được tán thưởng, ngợi khen, hay ít nhất để gây sự thách thức nơi kẻ khác. Nhưng không có gì xảy ra cả. Y được coi là không giỏi hơn tất cả những người huynh đệ còn lại của mình. Do đó, đời sống là một điều bất mãn.

These truths of self-analysis are seldom definitely faced or formulated by any of you and, therefore (because I seek to help you) I formulate them for you and face you with them. It is hard for intelligent men and women to see others closely associated with them dealing with life and problems from a totally different angle to their own—handling them in a weak or stupid way (from the angle of the disciple) and making apparently serious errors in judgment or technique. Yet, brother of old, why are you so sure that you are right and that your point of view is necessarily correct? It may be that your slant on life and your interpretation of a situation needs readjustment and that your motives and attitudes could be more elevated or purer. And even if they are—for you—the highest and the best that you can achieve at any given time, then pursue your way and leave your brother to pursue his. “Better a man’s own dharma, than the dharma of another.” Thus does the Bhagavad Gita express this truth, telling the disciple to mind his own business.

Những sự thật này ít khi được các bạn đối mặt hay nêu ra để tự phân tích chính mình. Bởi vậy, trên tinh thần giúp đỡ, tôi xin nêu chúng ra cho các bạn đối mặt. Những người thông minh, dù nam hay nữ, không thể nào chịu được khi thấy những người liên hệ mật thiết với mình xử lý các vấn đề trong cuộc sống theo một góc độ hoàn toàn khác với họ. Theo quan điểm của người đệ tử, cách xử lý đó có vẻ thiếu sót hay ngu xuẩn và dường như có những lỗi lầm nặng nề về óc xét đoán hay về kỹ thuật. Tuy nhiên, hỡi các huynh đệ, tại sao các bạn dám chắc rằng mình nghĩ đúng và quan điểm của mình nhất thiết phải chính xác. Có thể rằng quan niệm sống và cách nhận định tình thế của bạn cần được điều chỉnh lại, và những động cơ cùng những thái độ của các bạn có thể cần được nâng cao hoặc trong sáng hơn. Ngay cả khi đối với các bạn đó là những điều cao nhất và tốt nhất mà các bạn đạt được tại thời điểm cụ thể nào đó, thì hãy đi con đường của mình và để cho người khác đi theo con đường của họ. Kinh Bhagavad Gita há chẳng nói lên sự thật này để dạy người đệ tử hãy lo việc mình: “Thà làm đúng thiên trách của mình hơn là làm thiên trách của người khác”.

This attitude of non-interference and the refusal to criticise, in no way prevents service to each other or constructive group relations. It does not negate the expression of love or happy [49] group cooperation. There is ever much opportunity for the practice of impersonality in all group relations. In every group there is usually one group member (and perhaps several) who constitute a problem to themselves and to their group brothers. Perhaps you yourself are such an one and know it not. Perhaps you know who, among your co-servers, provides a testing for his fellows. Perhaps you can see clearly what is the group weakness and who it is that is keeping the group back from finer activity. That is well and good, provided that you continue to love and serve and to refrain from criticism. It is a wrong attitude to seek assiduously to straighten out your brother, to chide him or seek to impose your will on him or your point of view, though it is always legitimate to express ideas and make suggestion. Groups of disciples are groups of free and independent souls who submerge their personal interests in service and who seek that inner linking which will fuse the group into an instrument for the service of humanity and of the Hierarchy. Continue with your own soul discipline and leave your brothers to continue theirs.

Thái độ không can thiệp và từ chối chỉ trích này không ngăn cản việc phụng sự lẫn nhau hoặc những quan hệ nhóm mang tính xây dựng. Nó không phủ nhận việc thể hiện tình yêu thương hay sự hợp tác nhóm [49] một cách vui vẻ. Luôn luôn có nhiều cơ hội cho việc thực hành tính vô ngã trong tất cả các mối quan hệ nhóm. Trong mỗi nhóm thường có một người (và cũng có thể là một số) gây ra vấn đề cho chính họ và cho những người huynh đệ khác trong nhóm của họ. Có lẽ bản thân bạn là một người như vậy mà không hề biết điều đó. Có lẽ bạn biết một người, trong số những người đồng môn phụng sự của bạn, là một thử thách kiểm tra cho các bạn đồng đạo của mình. Có lẽ bạn có thể thấy rõ ràng điểm yếu của nhóm là gì và ai là người đã ngăn trở nhóm hoạt động tốt hơn. Điều đó thì hay và tốt, với điều kiện là bạn tiếp tục yêu thương, phụng sự và không chỉ trích. Thái độ muốn sửa sai huynh đệ của mình một cách kiên trì và ráo riết là sai lầm, mặc dù việc bày tỏ ý kiến và đưa ra đề xuất luôn là điều chính đáng. Các nhóm đệ tử là những nhóm gồm những linh hồn tự do và độc lập, họ nhấn chìm lợi ích cá nhân của mình trong công việc phụng sự và tìm kiếm mối liên kết bên trong để hợp nhất toàn thể nhóm thành một công cụ phụng sự nhân loại và Thánh đoàn. Hãy tiếp tục với kỷ luật linh hồn của mình và để huynh đệ của mình làm phần việc của riêng họ.

The question of psychic powers is not so easy to explain. I do not refer to the lower psychic powers which may or may not develop as time goes on and the need for them arises. I refer to the following capacities, inherent in the soul, which must be developed in all of you if you are to do your share in meeting world need, and work for the Hierarchy in the field of world service. Let us briefly enumerate them:

Vấn đề về những quyền năng thông linh không dễ giải thích. Tôi không ám chỉ đến những quyền năng thông linh bậc thấp có thể hoặc không thể phát triển theo thời gian và tôi cũng không ám chỉ về nhu cầu để cho chúng phát sinh. Tôi muốn nói đến những năng lực sau đây vốn dĩ có sẵn trong linh hồn, những năng lực phải được phát triển ở tất cả các bạn nếu các bạn muốn thực hiện vai trò của mình trong việc đáp ứng nhu cầu của thế giới và làm việc cho Thánh đoàn trong công việc phụng sự thế giới. Chúng ta hãy liệt kê ngắn gọn chúng:

1. Intuitional response to ideas.

1. Phản ứng mang tính trực giác đối với các ý tưởng.

2. Sensitiveness to the impression which some member of the Hierarchy may seek to make upon the mind of the disciple. It is for this reason that I am training you to utilise the Full Moon contact.

2. Sự nhạy cảm đối với ấn tượng mà một số thành viên của Thánh đoàn cố gắng tạo ra trong tâm trí của người đệ tử. Chính vì lý do này mà tôi đang huấn luyện các bạn sử dụng sự tiếp xúc vào kỳ Trăng tròn.

3. Quick response to real need. You had not regarded this as one of the psychic powers, my brother, had you? I refer not here to a solar plexus reaction but to heart knowledge. Ponder on this distinction.

3. Đáp ứng nhanh chóng với nhu cầu thực tế. Các bạn đã không coi đây là một trong những quyền năng thông linh, phải không huynh đệ của tôi? Ở đây tôi không đề cập đến phản ứng của luân xa tùng thái dương mà là tri thức đến từ luân xa tim. Hãy suy ngẫm về sự khác biệt này.

4. Right observation of reality upon the soul plane. This leads to right mental perception, to freedom from illusion and glamour and to the illumination of the brain.

4. Quan sát đúng thực tại trên cõi linh hồn. Điều này dẫn đến nhận thức tinh thần đúng đắn, đến sự tự do khỏi ảo tưởng và ảo cảm và đến sự soi sáng cho não bộ.

[50]

[50]

5. Correct manipulation of force, involving, therefore, an understanding of the types and qualities of force and their right creative weaving into service upon the outer plane.

5. Cách sử dụng đúng đắn mãnh lực, do đó, liên quan đến sự hiểu biết về các loại và phẩm chất của mãnh lực và sự ứng dụng một cách sáng tạo và đúng đắn của chúng được trong việc phụng sự trên cõi bên ngoài.

6. A true comprehension of the time element, with its cyclic ebb and flow and the right seasons for action—a most difficult psychic power to master, my brothers, but one which can be mastered through the use of patient waiting and the elimination of hurry.

6. Một sự hiểu biết thực sự về yếu tố thời gian, với sự lên xuống theo chu kỳ của nó và các mùa thích hợp để hành động — một quyền năng thông linh khó làm chủ nhất, tuy nhiên các huynh đệ của tôi ơi, nó là một sức mạnh có thể được làm chủ thông qua sự kiên nhẫn chờ đợi và loại bỏ sự hấp tấp.

All these powers, the disciple must eventually develop, but the process is necessarily slow.

Cuối cùng người đệ tử phải phát huy tất cả những quyền năng này, nhưng quá trình này nhất thiết phải chậm rãi.

Next comes the quality of mental polarisation. What exactly is this power or quality? For you (at this time) it must express itself in two ways:

Tiếp theo là phẩm tính phân cực trí tuệ. Chính xác thì quyền năng hoặc phẩm tính này là gì? Đối với các bạn (tại thời điểm này), nó phải thể hiện theo hai cách:

1. Through the life of meditation.

1. Thông qua đời sống tham thiền.

2. Through the control of the astral body.

2. Thông qua việc kiểm soát thể cảm dục.

Increasingly must your inner life be lived upon the mental plane. Steadily and without descent must the attitude of meditation be held—not for a few minutes each morning or at specific moments throughout the day, but constantly, all day long. It infers a constant orientation to life and the handling of life from the angle of the soul. This does not refer to what is so often referred to as “turning one’s back upon the world.” The disciple faces the world but he faces it from the level of the soul, looking clear-eyed upon the world of human affairs. “In the world, yet not of the world” is the right attitude—expressed for us by the Christ. Increasingly must the normal and powerful life of the emotional, astral, desire and glamorous nature be controlled and rendered quiescent by the life of the soul, functioning through the mind. The emotions which are normally self-centred and personal must be transmuted into the  realisations of universality and impersonality; the astral body must become the organ through which the love of the soul can pour; desire must give place to aspiration and that, in its turn, must be merged in the group life and the group good; glamour must give place to reality, and the pure light of the mind must pour into all the dark places of the lower nature. [51] These are the results of mental polarisation and are brought about by definite meditation and the cultivation of the meditative attitude. This is not new information for you, but it is something which as yet remains unexpressed practically. If you will ask yourselves the following questions and courageously and truthfully make reply before the bar of your own soul, you will learn much and greatly aid your development:

Đời sống nội tâm của các bạn ngày càng phải được sống trên cõi trí tuệ. Thái độ tham thiền phải được duy trì một cách ổn định và không suy giảm — không phải trong vài phút mỗi sáng hoặc vào những thời điểm cụ thể trong ngày, mà liên tục, suốt cả ngày. Nó tạo ra một định hướng liên tục cho cuộc sống và cách điều khiển cuộc sống từ góc độ của linh hồn. Điều này không ám chỉ đến điều thường được hiểu là “quay lưng lại cả với thế giới.” Người đệ tử đối mặt với thế giới nhưng y đối mặt với nó từ cấp độ của linh hồn, nhìn thế giới sự vụ của con người với nhãn quang sáng suốt. Đức Christ cho chúng ta thấy rằng quan điểm “Ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian” là đúng đắn. Càng ngày đời sống mãnh liệt thông thường của bản chất tình cảm, cảm dục, ham muốn và ảo cảm càng phải được kiểm soát và làm cho tĩnh lặng bởi đời sống của linh hồn, hoạt động thông qua thể trí. Các cảm xúc mang tính ích kỷ và cá nhân phải được chuyển hóa thành những nhận thức về tính phổ quát và tính vô kỷ; thể cảm dục phải trở thành cơ quan mà qua đó tình yêu của linh hồn có thể tuôn đổ; tham vọng phải nhường chỗ cho khát vọng và đến lượt nó, khát vọng phải được hòa nhập trong đời sống nhóm và lợi ích nhóm; ảo cảm phải nhường chỗ cho thực tại, và ánh sáng thuần khiết của thể trí phải tuôn đổ vào tất cả những nơi tăm tối của bản chất thấp hơn. [51] Đây là kết quả của sự phân cực trí tuệ và được mang lại bằng sự tham thiền rõ ràng và việc trau dồi thái độ thiền định. Đây không phải là điều mới đối với các bạn, nhưng nó là một cái gì đó vẫn còn chưa được thể hiện một cách thực tế. Nếu các bạn tự hỏi mình những câu hỏi sau đây và trả lời một cách can đảm và trung thực trước phiên toà của chính linh hồn mình, các bạn sẽ học được nhiều điều và hỗ trợ rất lớn cho sự phát triển của bản thân:

1. What do you understand by spiritual sensitivity?

1. Bạn hiểu tính nhạy cảm tinh thần là gì?

a. Have you ever truthfully felt my vibration?

a. Bạn đã bao giờ thành thật cảm nhận được sự rung động của tôi chưa?

b. Do you respond more rapidly to the quality of a brother’s faults than to his divine characteristics?

b. Có phải bạn phản ứng nhanh hơn đối với các lỗi lầm của một người huynh đệ hơn là những đặc tính thiêng liêng của y không?

c. In what way does criticism interfere with true spiritual sensitivity?

c. Sự chỉ trích can thiệp vào sự nhạy cảm tinh thần thực sự bằng cách nào?

d. What do you feel personally hinders your development of this required sensitivity?

d. Cá nhân bạn cảm thấy điều gì cản trở sự phát triển tính nhạy cảm cần thiết này của mình?

2. Define impersonality.

2. Định nghĩa tính vô ngã

a. Do you know the distinction between the impersonality of the first ray type and true spiritual impersonality?

a. Bạn có biết sự phân biệt giữa tính vô ngã của người cung một và tính vô ngã tinh thần thực sự không?

b. When somebody disagrees with you or you do not like a person’s attitude, ideas or proposals, what is the first thing you do? Do you love him? Do you keep silent? Do you discuss him with others? Do you endeavour to put him right? How do you try to do this?

b. Khi ai đó không đồng ý với bạn hoặc bạn không thích thái độ, ý tưởng hoặc đề xuất của người đó, điều đầu tiên bạn làm là gì? Bạn có yêu thương y? Bạn có giữ im lặng? Bạn có thảo luận về y với những người khác? Bạn có nỗ lực để giúp y sửa sai không? Làm thế nào để bạn cố gắng làm điều này?

c. If you are impersonal is it the result of training or is it natural to you? Is it simple self-defense? or is it the easiest way to attain peace? or is it a spiritual attainment?

c. Nếu bạn vô ngã, đó là kết quả của quá trình rèn luyện hay là do bạn tự nhiên như thế? Đó có phải chỉ là cách tự vệ? hay đó là cách dễ dàng nhất để đạt được bình an? hay nó là một thành tựu tinh thần?

3. I have defined for you the psychic powers. I listed six of them. Please study them and then make a clear, concise statement to yourself as to your own capacity:

3. Tôi đã định nghĩa cho các bạn các quyền năng thông linh. Tôi đã liệt kê sáu trong số chúng. Vui lòng nghiên cứu chúng và sau đó nêu ra một cách rõ ràng, ngắn gọn cho chính các bạn về năng lực của bản thân:

a. To demonstrate them.

a. Để minh chứng chúng.

b. To develop them, outlining your method of so doing.

b. Để phát triển chúng, hãy vạch ra phương pháp làm việc đó của các bạn.

4. Just how do you feel that you succeed in keeping a mental grip on life?

4. Các bạn cảm thấy sự thành công của mình trong việc làm chủ đời sống tinh thần như thế nào?

[52]

[52]

a. In an emotional stress do you transmute the condition through love?

a. Trong một cảm xúc căng thẳng, các bạn có chuyển hóa tình trạng này thông qua tình thương không?

b. Do you inhibit the display of emotion and why?

b. Các bạn có kiềm chế việc thể hiện cảm xúc không và tại sao?

c. Do you call in the mind and handle your problems from the mental level?

c. Các bạn có kêu gọi thể trí và xử lý các vấn đề của các bạn từ cấp độ trí tuệ không?

d. Do you know what glamour is and can you recognise it when it displays itself to you?

d. Các bạn có biết ảo cảm là gì và các bạn có thể nhận ra nó khi nó tự lộ diện với các bạn không?

These questions have a twofold purpose. They will, if you answer them truthfully and face them clearly, lead you to deal with yourself as a group member and so ascertain the measure of your contribution to the group need and to our need of workers. If you will write down and answer these questions and share the replies with your co-disciples, it will give them an opportunity to know each other better.

Những câu hỏi này có mục đích nhị phân. Nếu các bạn trả lời chúng một cách trung thực và đối mặt với chúng một cách rõ ràng, chúng sẽ dẫn các bạn đến việc tự làm việc với bản thân với tư cách là một thành viên trong nhóm, và do đó xác định được mức độ đóng góp của các bạn đối với nhu cầu của nhóm và nhu cầu nhân lực của chúng ta. Việc các bạn viết ra và trả lời những câu hỏi này và chia sẻ câu trả lời với các đồng môn của mình sẽ giúp họ có cơ hội hiểu biết nhau nhiều hơn.

There is an occult process which reaches its culmination in one of the higher initiations—with which initiation you have as yet no concern. It is called “a bringing forth into the light.” An accepted disciple is one who is in process of preparation for initiation and that is one of the tasks with which I am engaged at this time. I have, therefore, to begin to lay the foundation for this esoteric “unearthing” or “revelation of that which is hidden.” I am consequently proffering to you, through these questions, the opportunity to practise early in your training this “distressing revelation” which will later take place in a higher state of consciousness.

Có một quá trình huyền bí đạt đến đỉnh điểm của nó ở một trong những cuộc điểm đạo cao hơn — cuộc điểm đạo mà các bạn vẫn chưa cần biết bây giờ. Nó được gọi là “sự đưa ra ánh sáng.” Một đệ tử được chấp nhận là một người đang trong quá trình chuẩn bị điểm đạo và đó là một trong những nhiệm vụ mà tôi đang thực hiện vào lúc này. Do đó, tôi phải bắt đầu đặt nền tảng cho việc “khai quật” hay “sự tiết lộ về điều bị che giấu” bí truyền này. Do đó, thông qua những câu hỏi này, tôi mang đến cho các bạn cơ hội thực hành sớm trong quá trình huấn luyện của bạn “sự tiết lộ khốn khổ” mà sau này sẽ diễn ra trong một trạng thái tâm thức cao hơn.

What is it that I and Those Who are working on the inner side are seeking to do with these groups? What is the larger objective? The groups have not been formed to train individuals. They have been formed (each of them) as seed groups for a definite and specific end. They are organised to provide channels in the world for the distribution of certain peculiar types of force which will work out into manifestation in specific ways. Energy has always been manipulated by the Hierarchy and distributed in the world of men. I refer to the energies used in relation to the awakening of the human consciousness, to the integration of the world of souls with the world of men; I refer to the activities whereby the human kingdom can become a great station of light and a powerhouse [53] of spiritual force, distributing it to the other kingdoms in nature.

Điều mà tôi và những Đấng đang hoạt động từ nội giới đang tìm cách tác động lên những nhóm này là gì? Mục tiêu lớn hơn là gì? Các nhóm không được thành lập để huấn luyện các cá nhân. Các nhóm đã được hình thành (mỗi nhóm trong số chúng) như các nhóm hạt giống cho một mục đích xác định và cụ thể. Chúng được tổ chức để cung cấp các kênh dẫn trên thế giới cho mục đích phân phối các loại mãnh lực đặc biệt nhất định, những mãnh lực này sẽ biểu hiện theo những cách cụ thể. Năng lượng luôn được điều khiển bởi Thánh đoàn và phân phối trong thế giới của con người. Tôi đề cập đến những năng lượng được sử dụng liên quan đến sự thức tỉnh của tâm thức con người, đến sự tích hợp của thế giới linh hồn với thế giới của con người; Tôi đề cập đến các hoạt động mà nhờ đó giới nhân loại có thể trở thành một trạm ánh sáng vĩ đại và trạm năng lượng của [53] mãnh lực tinh thần, phân phối nó cho các giới khác trong tự nhiên.

The statement is of vital importance; it expresses our immediate objectives and the nature of the field of service in which you—as a group and not as individuals—can function. This manipulation of energies has (for centuries) been carried forward by us but its effects have only been registered unconsciously by man. We have (speaking symbolically) rayed forth the light and distributed the water of life in a wide and general distribution with here and there (and rarely) some one isolated individual, responding actively and consciously. He thus became a tiny focal point of spiritual energy and light. Now it has seemed to us possible to focus the light and knowledge much more definitely and to form groups on earth—composed of the isolated, responding individuals—so that more light and more knowledge can be spread abroad. This we decided to do in two ways:

Tuyên bố này có tầm quan trọng sống còn; nó thể hiện các mục tiêu trước mắt của chúng ta và bản chất của lĩnh vực phụng sự mà các bạn có thể thể hiện vai trò của mình với tư cách là một nhóm chứ không phải với tư cách cá nhân. Việc sử dụng năng lượng đã (trong nhiều thế kỷ) được chúng ta thực hiện nhưng tác dụng của nó chỉ được con người ghi nhận một cách vô thức. Chúng ta đã (nói một cách tượng trưng) chiếu rọi ánh sáng và phân phối nước của sự sống trong một sự phân bố mang tính rộng rãi, và rải rác đó đây (và hiếm khi) một cá nhân biệt lập nào đó phản ứng một cách chủ động và có ý thức. Do đó, y trở thành một tiêu điểm nhỏ của năng lượng và ánh sáng tinh thần. Giờ đây đối với chúng ta, dường như chúng ta có thể tập trung ánh sáng và kiến thức một cách chắc chắn hơn nhiều và hình thành các nhóm trên trái đất — bao gồm các những cá nhân biệt lập và đang ứng đáp — để có nhiều ánh sáng và kiến thức hơn có thể được lan truyền rộng rãi. Điều này chúng ta quyết định thực hiện theo hai cách:

1. Through the collaboration of all the Masters of the Great White Lodge, working through Their Own disciples.

1. Thông qua sự cộng tác của tất cả các Chân sư của Đại Bạch Giai, làm việc thông qua các đệ tử của Chính các Ngài.

2. Through the specifically focussed activity of the Masters Morya and Koot Hoomi and myself, Their servant and disciple.

2. Thông qua hoạt động tập trung đặc biệt của các Chân sư Morya, Chân sư Koot Hoomi và tôi, người phụng sự và đệ tử của các Ngài.

Through the first method, the New Group of World Servers came into being and the disciples and aspirants of the world, working on all the rays and under the guidance—consciously or unconsciously recognised—of the Masters Who are specifically pledged to help humanity. Thus a vast powerhouse and station of light has been formed. It is a diffused and widespread light and its channels are to be found all over the world, in every country and in every major city. This you know and with this branch of the work (to which I am personally pledged) you are actively cooperating and should cooperate.

Thông qua phương pháp thứ nhất, Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian đã ra đời và các đệ tử cũng như những người chí nguyện của thế giới, làm việc dựa trên tất cả các cung và dưới sự hướng dẫn — được ghi nhận một cách hữu thức hoặc vô thức — của các Chân sư vốn đặc biệt thệ nguyện giúp đỡ nhân loại. Vì vậy, một trạm năng lượng khổng lồ và trạm ánh sáng rộng lớn đã được hình thành. Đó là ánh sáng khuếch tán và rộng khắp, và các kênh truyền dẫn của nó sẽ được tìm thấy trên khắp thế giới, ở mọi quốc gia và ở mọi thành phố lớn. Điều này các bạn biết, và với nhánh công việc này (mà cá nhân tôi đã thệ nguyện thực hiện), các bạn đang tích cực hợp tác và nên hợp tác.

But it was felt that it should also be possible to focus the light still more intensively through smaller and more carefully chosen and selected groups. Through these much smaller groups of disciples, the phenomenal appearance of certain types of energy could be expressed; certain powers could be unfolded and a more specialised experiment be possible. Peculiar powers [54] could be studied and focussed, intensified light and power could be so clearly demonstrated that the sons of men would come to recognise the influence and to give proof of the supernormal which is the heritage of future centuries.

Nhưng việc tập trung ánh sáng một cách mạnh mẽ hơn thông qua các nhóm nhỏ, được chọn lựa và sàng lọc kỹ càng, được cảm thấy là khả dĩ. Thông qua những nhóm đệ tử nhỏ hơn nhiều này, sự xuất hiện phi thường của một số loại năng lượng nhất định; một số sức mạnh có thể được khai mở và một sự thử nghiệm chuyên biệt hơn có thể được thực hiện. Những quyền năng đặc biệt [54] có thể được nghiên cứu và tập trung, ánh sáng và sức mạnh được tăng cường có thể được chứng minh một cách rõ ràng đến mức những người con của nhân loại sẽ nhận ra ảnh hưởng của chúng và đưa ra bằng chứng về sự siêu thường vốn là di sản của các thế kỷ tương lai.

To this particular branch of hierarchical work, I pledged myself; it would provide the nucleus for the coming types of civilisation and the characteristics and activities which could be unfolded under the incoming new major influences. These have always interested me and I have specialised in them. Naturally, I looked around among those whose lives I have been watching — sometimes for several incarnations. Among these were those of you who are now working with me. These groups constitute the germ of a great experiment. If successful, they will, in the course of the next 275 years:

Đối với nhánh công việc cụ thể của Thánh đoàn này, tôi đã tự thệ nguyện; nó sẽ cung cấp hạt nhân cho các nền văn minh sắp tới cũng như các đặc điểm và hoạt động có thể được bộc lộ dưới những ảnh hưởng lớn lao mới mẻ đang tới. Những điều này luôn khiến tôi quan tâm và tôi đã nghiên cứu chuyên sâu về chúng. Đương nhiên, tôi nhìn xung quanh những người mà tôi đã và đang quan sát cuộc sống của họ — đôi khi là một số kiếp sống. Trong số này có những người trong số các bạn hiện đang làm việc với tôi. Những nhóm này tạo thành hạt giống của một thí nghiệm vĩ đại. Nếu thành công thì trong suốt 275 năm tới, họ sẽ:

1. Anchor on earth certain types of the higher forces which the race needs and which are not yet active.

1. Neo xuống trái đất một số loại mãnh lực cao hơn mà giống dân này cần và vẫn chưa kích hoạt.

2. Develop the six supernormal powers to which I have referred above.

2. Phát triển sáu quyền năng mà tôi đã giới thiệu ở trên.

3. Train the group members in that synthetic relation which characterises the Hierarchy and so prepare them for initiation.

3. Huấn luyện các thành viên trong nhóm về mối liên hệ tổng hợp vốn đặc trưng cho Thánh đoàn và do đó chuẩn bị cho họ bước vào cửa điểm đạo.

Out of these groups will be picked those who can be definitely prepared for certain expansions of consciousness and who can be trusted to contact aspects of the Plan, hitherto not revealed. As you make progress in this work and as you seek to understand the group implications, it will become ever more clear to you what the Plan really is. It is as difficult for me to explain the underlying purpose of this group work to you as it would be to explain decimal fractions to a seven year old child, no matter how brilliant he might be. But if you have the needed patience, the willingness to work impersonally and proceed with love, if you will submerge your personalities in the group life, you will know, you will perceive and the light will break in; the power to work will come to you. We shall then have radiant focal points or light bearers and channels for the planned distribution of force—a thing which has never yet been, upon the scale which we now contemplate.

Trong số các nhóm này, sẽ chọn được những đệ tử vốn chắc chắn có thể được chuẩn bị cho sự mở rộng tâm thức nhất định và những người có thể tin cậy để tiếp xúc với các khía cạnh của Thiên cơ mà cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Khi các bạn đạt được tiến bộ trong công việc này và khi các bạn tìm cách hiểu các tác động của nhóm, các bạn sẽ càng thấy rõ Thiên cơ thực sự là gì. Thật khó để tôi giải thích mục đích cơ bản của công việc nhóm này cho các bạn cũng như việc giải thích các phân số thập phân cho một đứa trẻ bảy tuổi, bất kể nó có xuất chúng đến đâu. Nhưng nếu các bạn có sự kiên nhẫn cần thiết, sự sẵn sàng làm việc vô kỷ và tiến tới với tình yêu thương, nếu các bạn nhấn chìm phàm ngã của mình trong đời sống nhóm, các bạn sẽ biết, các bạn sẽ nhận thức và ánh sáng sẽ len vào; sức mạnh để làm việc sẽ đến với các bạn. Sau đó, chúng ta sẽ có các tâm điểm phát xạ hay người mang ánh sáng và các kênh truyền dẫn để phân phối mãnh lực theo kế hoạch—một điều chưa từng có, theo quy mô mà chúng ta đang hình dung.

[55]

[55]

PART VI—PHẦN VI

I do not intend to continue giving you only reiterated advice upon the treading of the Path of Discipleship. You are adult men and women and know the Way. The practical application of the ancient Rules is your personal responsibility. What you do is your own affair. You have reached maturity and should be ready for the next step. That step will be taken when you have transmuted knowledge and theory into wisdom, practice and expression.

Tôi không có ý định tiếp tục cho các bạn những lời khuyên đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần khi bước vào Con Đường Đệ Tử. Các bạn là những người nam và nữ trưởng thành và các bạn biết Con Đường. Việc áp dụng mang tính thực tiễn các Quy luật cổ xưa là trách nhiệm cá nhân của các bạn. Các bạn làm gì là chuyện của riêng các bạn. Các bạn đã đạt đến độ già dặn và nên sẵn sàng cho bước tiếp theo. Bước đó sẽ được thực hiện khi các bạn đã chuyển hóa  kiến thức và lý thuyết thành minh triết, thực hành và sự biểu lộ.

It is only in a spirit of real detachment that the best work of a disciple is done. The disciple comes to realise that because of this detachment he is (for the remainder of his life) simply a worker—one of a great army of hierarchical workers—with supposedly no personality inclinations, objectives, or wishes. There is for him nothing but constant work and constant association with other people. He may be a naturally isolated person, with a deep craving for solitude but that matters not. It is the penalty he must pay for the opportunity to meet the need of the hour. The hardest organised push of the Hierarchy is now taking place and its objective is to offset the tendency of the race to crystallise into separativeness, for separation is the line of least resistance to people and nations at this time. Hence the formation of these working groups of disciples, giving an expression of group work and group cohesion and of non-separativeness.

Người đệ tử chỉ làm được những việc hữu hiệu nhất trong tinh thần thực sự không bám chấp. Người đệ tử nhận ra rằng vì sự không bám chấp này mà y (trong phần còn lại của kiếp sống) chỉ đơn giản là một nhân sự — một phần tử trong đội quân lớn của những nhân sự Thánh Đoàn — vốn không có bất kỳ khuynh hướng, mục tiêu hay nguyện vọng nào thuộc về phàm ngã. Đối với y, không có gì khác hơn là liên tục làm việc và liên tục kết hợp với những người khác. Y có thể là một người có bản chất cô độc, với khao khát sâu sắc cho sự tách biệt này nhưng điều đó không quan trọng. Đó là cái giá mà y phải trả cho cái cơ hội đáp ứng nhu cầu thời đại. Sự thúc đẩy có tổ chức mạnh mẽ nhất từ Thánh Đoàn hiện đang diễn ra và mục tiêu của nó là để hoá giải xu hướng của chủng tộc đang kết tinh thành sự chia rẽ, vì sự chia rẽ là đường lối ít đối kháng nhất đối với con người và các quốc gia tại thời điểm này. Do đó, những nhóm đệ tử làm việc này mới được hình thành, tiêu biểu cho công việc nhóm, sự gắn kết nhóm và sự không chia rẽ.

A few—relatively a very few—of the disciples and intuitivesof the world today are standing together in a twofold activity: one activity is to sense and touch with greater accuracy the steadily unfolding subjective plan; the other is to speak and teach with greater clarity and to choose with wiser exactitude the right words (written and spoken) by which to express the truth. The presentation of the sensed realities will then lead the thinking people of the world to arrest their present trend of thought and to cooperate more fully and freely in the enlightenment of the world. I use the word “enlightenment” in its occult sense. The full measure of what can be done depends (as far as the individual disciple is concerned) upon his inner power to live [56] each day as a soul—free from fear, free from self-consciousness and free from those reactions which stir the astral or emotional body into organised activity, based on ancient habits. For the disciple and for the success of his work, an astral body of stillness and of acquiescence, sensitive to impressions from the soul and from the Master, and reflecting the vision with as much purity of outline as may be possible, is the goal. It should be remembered that when the disciple is fully occupied in living the life of service on all three planes, there is little that can be said or should be said to him. But a thought may be of aid.

Một số ít — tương đối rất ít — các đệ tử và một số người có trực giác trên thế giới ngày nay đang sát cánh cùng nhau trong một hoạt động gồm hai phần: một hoạt động là cảm nhận và tiếp xúc với độ chính xác cao hơn với thiên cơ nội tại đang dần khai mở; hai là thuyết giảng một cách rõ ràng hơn và lựa chọn những từ ngữ (viết và nói) khôn khéo hơn để diễn đạt sự thật. Việc trình bày các thực tại được cảm nhận sẽ dẫn dắt những người có tư duy trên thế giới ngưng lại khuynh hướng tư tưởng hiện tại của họ và hợp tác một cách đầy đủ và tự do hơn trong công cuộc khai sáng thế giới. Tôi sử dụng từ “khai sáng” theo nghĩa huyền bí của nó. Thước đo đầy đủ về những gì có thể làm được phụ thuộc (tùy theo mức độ liên quan của từng người đệ tử) vào sức mạnh bên trong của y để sống [56] mỗi ngày như một linh hồn — không sợ hãi, vô ngã, và không có những phản ứng khuấy động thể cảm dục hay thể tình cảm đi vào hoạt động có tổ chức, dựa trên các thói quen cổ xưa. Đối với người đệ tử và để thành công trong công việc của y, mục tiêu cần đạt là một thể cảm dục an tĩnh và phục tùng, nhạy cảm với những ấn tượng từ linh hồn và từ Chân sư, và phản chiếu tầm nhìn rõ ràng với đường nét thuần khiết nhất có thể. Nên nhớ rằng khi người đệ tử hoàn toàn yên tâm sống đời sống phụng sự trên cả ba cõi, thì sẽ có rất ít điều có thể nói hoặc nên nói với y. Nhưng một tư tưởng có thể hữu ích.

Let him seek, in the strenuousness of his life, to preserve the synthesis of the personality and the integration of all parts of his equipment. Often in the stress of activity in one body or another and on one plane or another, the emphasis may be temporarily so strong in some one direction that he may lose sight for a moment of the synthetic point of view of both the Plan and the group. Physically, he is working under great pressure; emotionally, he may be learning the difficult lesson of detachment and may consequently be full of a temporary rebellion. Yet on the mental plane, he is aware of a mental clarity and of a power to think which keeps him incessantly and constructively active. The following three terms, therefore, express quite frequently the disciple’s situation where his lower nature is concerned: excessive fatigue, emotional rebellion and mental lucidity. How must he deal with this problem? Physical fatigue need not necessarily impair in any way his usefulness. With many people, physical conditions impair their work for their attention becomes focussed on the undesirable physical situation; disciples, however, often have a curious capacity to continue with their work no matter what may be happening to them physically. The physical brain can be so much the reflector of the mental life that he will remain essentially unaffected by any outer conditions. The disciple learns to live with his physical liabilities under adverse conditions and his work maintains its usual high level.

Hãy để y tìm kiếm, trong sự vất vả của cuộc sống, để giữ gìn sự toàn vẹn của phàm ngã và sự tích hợp của tất cả các bộ phận trong trang bị của y. Thông thường, khi hoạt động căng thẳng trong thể này hay thể khác và trên cõi này hay cõi khác, sự nhấn mạnh có thể tạm thời quá mạnh theo một hướng nào đó đến mức y có thể mất đi tầm nhìn trong giây lát về quan điểm tổng hợp của cả Thiên Cơ và nhóm. Về mặt thể chất, y đang phải làm việc dưới áp lực rất lớn; về mặt tình cảm, y có thể đang học bài học khó khăn về sự buông xả và do đó có thể đang đầy ắp sự phản kháng tạm thời. Tuy nhiên, trên cõi trí, y nhận thức được trí tuệ minh mẫn và sức mạnh suy nghĩ giúp y hoạt động không ngừng và mang tính xây dựng. Do đó, ba thuật ngữ sau đây diễn tả khá thường xuyên tình trạng của người đệ tử mà bản chất thấp hơn của y có liên quan: mệt mỏi quá mức, cảm xúc nổi loạn và trí tuệ minh mẫn. Y phải giải quyết vấn đề này như thế nào? Sự mệt mỏi về thể chất không nhất thiết phải làm suy giảm tính hữu ích của y theo bất kỳ cách nào. Với nhiều người, tình trạng thể chất làm giảm khả năng làm việc của họ vì họ trở nên tập trung vào tình trạng thể chất không mong muốn; tuy nhiên, các đệ tử thường có một năng lực kỳ lạ là vẫn tiếp tục công việc của mình bất kể điều gì có thể đang xảy ra với họ về mặt thể chất. Bộ não vật lý có thể là phản ánh của đời sống trí tuệ đến mức về cơ bản y sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tình trạng bên ngoài nào. Người đệ tử học cách sống chung với các giới hạn thể chất trong những hoàn cảnh bất lợi mà công việc của y vẫn duy trì ở mức độ cao như thường lệ.

The emotional problem may be the hardest. But only the disciple can handle his own self-pity and free himself from the inner emotional storm in which he finds himself living. He [57] must recognise that his integration is weak, for he is working in two phases or sections:

Vấn đề cảm xúc có thể là khó khăn nhất. Nhưng chỉ có người đệ tử mới có thể tự xử lý sự tự thương hại của mình và giải thoát mình khỏi cơn bão cảm xúc nội tâm mà y thấy mình đang sống trong đó. Y [57] phải nhận ra rằng khả năng tích hợp của y còn yếu, vì y đang làm việc trong hai giai đoạn hay hai khúc:

Physical . . . . . . emotional.

Thể chất . . . . . . cảm xúc.

and

Mental . . . . . . . . . . . soul.

Trí tuệ . . . . . . . . . . . linh hồn.

He is sometimes one and sometimes the other and usually very thoroughly in either case. This duality must be brought into a closer relation and this is the point to which he must attend as he seeks to establish and preserve the needed synthesis and personality-soul integration. When will disciples learn that the attitude which involves a certain “don’t care” reaction and a form of indifference is one of the quickest ways by which to release the Self from personality claims? This is not the “don’t care” spirit which will affect the disciple’s attitude to other people. It is the attitude of the integrated thinking personality of the disciple towards the astral or emotional body. It leads him to assume the position that not one single thing which produces any reaction of pain or distress in the emotional body matters in the very least. These reactions are simply recognised, lived through, tolerated and not permitted to produce any limitation. All disciples would do well to ponder what I have just said. The whole process is based on a deep-seated belief in the persistence of the immortal Being within the forms of soul and personality.

Khi thì y ở trong giai đoạn này, khi ở giai đoạn kia, và thường rất hay nghiêng hẳn về một bên dù ở giai đoạn nào. Tính nhị nguyên này phải được đưa vào một mối quan hệ chặt chẽ hơn và đây là điểm mà y phải tham dự khi y tìm cách thiết lập và giữ gìn sự tổng hợp cần thiết và sự tích hợp phàm ngã-linh hồn. Khi nào các đệ tử sẽ biết được rằng thái độ liên quan đến phản ứng “không quan tâm” nhất định và một hình thức điềm nhiên là một trong những cách nhanh nhất để giải phóng Chân Ngã khỏi những đòi hỏi của phàm ngã? Đây không phải là tinh thần “không quan tâm” sẽ ảnh hưởng đến thái độ của đệ tử đối với người khác. Đó là thái độ của phàm ngã có tư duy đã được tích hợp nơi người đệ tử đối với thể cảm dục hay thể tình cảm. Điều này dẫn y đến chỗ đảm nhận một lập trường rằng không một sự việc nào gây ra phản ứng đau đớn hay phiền não trong thể cảm dục là đáng kể. Những phản ứng này đơn giản chỉ được nhận biết, kinh qua, chịu đựng và không được phép gây ra bất kỳ sự giới hạn nào. Tất cả các đệ tử sẽ làm tốt nếu suy ngẫm kỹ về điều mà tôi vừa nói. Toàn bộ tiến trình này được đặt nền tảng trên một sự tin tưởng vững chắc vào sự trường tồn của Sinh Mệnh bất tử bên trong các hình hài linh hồn và phàm ngã.

This inner realisation grows with the development of power in meditation whether it is individual meditation or group work. Meditation is essential for establishing a freer inner spiritual interplay—again whether as a soul in relation to the personality or a group of disciples in relation to their Master or each other. You might here well ask: Why is this sensitive interplay between the disciples in a Master’s group regarded as necessary? Is not life complicated enough without too much awareness of the conditions, the personalities and the soul contacts of those with whom we are associated and with whom we seek to walk as fellow disciples? I would like here to remind you that, as disciples, you are in preparation for initiation and that impending condition of consciousness implies three things:

Sự nhận biết nội tâm này tăng trưởng cùng với sự phát triển của sức mạnh trong tham thiền cho dù đó là tham thiền cá nhân hay công việc nhóm. Tham thiền là điều cần thiết để thiết lập một mối tương tác tinh thần bên trong tự do hơn  — một lần nữa cho dù với tư cách là một linh hồn trong mối quan hệ với phàm ngã hay một nhóm đệ tử trong mối quan hệ với Chân sư của họ hoặc với nhau. Đến đây các bạn có thể hỏi: Tại sao sự tương hỗ nhạy cảm này giữa các đệ tử trong nhóm của Chân sư lại được coi là cần thiết? Lẽ nào cuộc sống chưa đủ phức tạp hay sao để rồi lại phải có quá nhiều sự chú ý đến các điều kiện, các phàm ngã và các tiếp xúc linh hồn của những người mà chúng ta có liên hệ và cùng đồng hành như những người đệ tử đồng môn? Ở đây tôi muốn nhắc các bạn rằng, với tư cách là đệ tử, các bạn đang chuẩn bị cho việc điểm đạo, và tình trạng sắp xảy ra của tâm thức bao hàm ba điều:

[58]

[58]

1. Increased awareness and sensitivity to experience and to life in all forms.

1. Tăng cường nhận thức và tính nhạy cảm với kinh nghiệm và với sự sống dưới mọi hình thức.

2. The power to do for others what I have attempted to do for you, at present on a lesser scale and later, in other lives, as I now do it.

2. Sức mạnh để làm cho người khác những gì tôi đã cố gắng làm cho các bạn, hiện tại ở quy mô nhỏ hơn, và về sau trong những kiếp sống khác, như tôi đang làm hiện nay.

3. The courage and the strength to know all, to realise all and to love with patient wisdom and unchanging sincerity.

3. Sự can đảm và sức mạnh để biết tất cả, để nhận ra tất cả và yêu thương với minh triết kiên nhẫn và sự chân thành không dời đổi.

This must surely be apparent to you. In the group work in which disciples are now called to participate, you have an opportunity offered which can aid in the inducing of all the qualities which are needed by you as candidates for initiation, at no such very distant date, as we view time on the inner side.

Điều này hẳn phải rõ ràng đối với các bạn. Trong công việc nhóm mà các đệ tử hiện nay được kêu gọi tham gia, các bạn được trao cho một cơ hội vốn có thể trợ giúp trong việc khơi dậy tất cả những phẩm tính cần thiết nơi các bạn với tư cách là những ứng viên điểm đạo, vào một thời điểm không quá xa, nếu xét theo quan điểm thời gian từ cõi nội giới.

The teaching has always been given that the disciple or the initiate must adapt himself to, and learn from, the conditions in which he finds himself and from the setting and environment with which his physical plane life puts him in daily touch. This is one of the initial platitudes of the Path. It was, however, at one time as new a concept to the aspirant and the disciple under training as is the teaching which I seek to give this group of my disciples and the opportunity which I would have you seize. The training, hitherto carried forward upon the inner planes, and unrealised oft in the waking consciousness of the accepted disciple, has now to be grasped, used and mastered in his waking consciousness and physical brain. The disciple in the past sought to establish harmonious relations with his environment—harmony being one of the liberating forces which must precede the release of energy for use after initiation. He practised patience and forbearance and helpfulness and rendered service and this was worked out through the process of right external conduct based upon right inner orientation and attitude. But under the new system (made necessary by achieved racial progress) this process of right external adjustments must be paralleled in the New Age by right inner relations, consciously established and consciously held and recognised for what they are by the conscious mind and brain of the disciple. This, therefore, involves true knowledge of the disciple’s inner group relation, spiritual penetration to the inner life of a brother disciple and the consequent fusion in the heart-mind-brain [59] of the disciple, simultaneously, of all that is known on both the outer and the inner planes. This has not hitherto been the case. It is one of the major reasons for the forming of these groups as far as the individual group members are concerned. It will be brought about gradually and safely by the daily use of the group meditations which I may assign you, by a renewed interest in the subject of telepathic work and by a closer and deeper love, cultivated by all of you.

Giáo lý từ trước đến nay luôn dạy rằng người đệ tử hay điểm đạo đồ phải thích nghi với các hoàn cảnh mà y thấy mình đang ở trong đó, và học hỏi từ chính những hoàn cảnh ấy cùng với bối cảnh và môi trường mà đời sống nơi cõi trần của y đưa y tiếp xúc mỗi ngày. Đó là một trong những điều sơ đẳng trên đường đạo. Tuy nhiên, đã từng có thời điểm, điều đó cũng là một khái niệm mới mẻ đối với người chí nguyện và người đệ tử đang được huấn luyện, y như giáo lý mà tôi đang cố gắng truyền trao cho nhóm đệ tử này của mình, cùng với cơ hội mà tôi mong các bạn nắm bắt. Việc huấn luyện, vốn từ trước đến nay được tiến hành trên các cõi nội giới và thường không được ý thức trong trạng thái tỉnh thức của người đệ tử được chấp nhận, giờ đây phải được lĩnh hội, sử dụng và làm chủ trong chính tâm thức tỉnh thức và não bộ vật lý của y. Người đệ tử trong quá khứ đã tìm cách thiết lập mối quan hệ hài hòa với môi trường của mình — sự hài hoà là một trong những mãnh lực giải thoát cần phải có trước khi phóng thích năng lượng để sử dụng sau khi điểm đạo. Y đã rèn luyện tính kiên nhẫn và tính nhẫn nại, sự giúp đỡ và phụng sự, và điều này được thực hiện thông qua quá trình ứng xử bên ngoài đúng đắn dựa trên định hướng và thái độ bên trong đúng đắn. Nhưng theo hệ thống mới (trở nên cần thiết bởi sự tiến bộ đã đạt được của nhân loại), tiến trình điều chỉnh đúng đắn các mối quan hệ bên ngoài này trong Kỷ Nguyên Mới phải được song hành bởi các mối liên hệ nội tại đúng đắn, được thiết lập một cách có ý thức, được duy trì một cách có ý thức và được thể trí tỉnh thức cùng não bộ nơi người đệ tử nhận biết đúng với bản chất thật sự của chúng. Do đó, điều này hàm ý một sự hiểu biết chân thật về mối liên hệ nhóm nội tại của người đệ tử, một sự thâm nhập tinh thần vào đời sống nội tâm của người đệ tử huynh đệ, và hệ quả là một sự hợp nhất đồng thời trong tâm–trí–não [59] của người đệ tử đối với tất cả những gì đã được nhận biết trên cả hai cõi—ngoại giới và nội giới. Trước đây, điều này chưa từng xảy ra. Đây là một trong những lý do chính yếu cho việc hình thành những nhóm này, xét từ khía cạnh của từng thành viên trong nhóm. Việc ấy sẽ được thực hiện một cách từ từ và an toàn thông qua việc sử dụng hằng ngày các bài tham thiền nhóm mà tôi có thể giao cho các bạn, thông qua một sự quan tâm được đổi mới đối với đề tài công tác viễn cảm, và thông qua một tình thương sâu sắc và gần gũi hơn được tất cả các bạn vun bồi.

Three things are of great importance and constitute your individual responsibility:

Ba điều sau đây có tầm quan trọng lớn lao và cấu thành trách nhiệm cá nhân của các bạn:

1. Facility of rapport. As a member of my group, it is essential that you cultivate two aspects of the “art of rapport” which is based, eternally, on loving attraction.

1. Khả năng thiết lập mối giao cảm. Là một thành viên trong nhóm của tôi, điều thiết yếu là các bạn phải rèn luyện hai khía cạnh của “nghệ thuật giao cảm,” vốn được đặt nền tảng vĩnh viễn trên lực hút đầy tình thương:

a. Rapport or contact with the soul through a cultivated alignment and correct meditation.

a. Giao cảm hay tiếp xúc với linh hồn thông qua một sự chỉnh hợp được rèn luyện và sự tham thiền đúng đắn.

b. Rapport or contact with your group brothers; this lays the foundation for constructive, united work.

b. Giao cảm hay tiếp xúc với các huynh đệ trong nhóm; điều này đặt nền móng cho công việc xây dựng và hợp nhất.

2. Impersonality. Is there aught more that I can say on this theme? You must learn to view what is said or suggested by any group brother with a complete and carefully developed “divine indifference.” Note the use of the word “divine,” for it holds the clue to the needed attitude. It is a different thing to the indifference of not caring, or the indifference of a psychologically developed “way of escape” from that which is not pleasant; nor is it the indifference of superiority. It is the indifference which accepts all that is offered, uses what is serviceable, learns what can be learnt but is not held back by personality reactions. It is the normal attitude of the soul or self to the not-self. It is the negation of prejudice, of all narrow preconceived ideas, of all personality tradition, influence or background. It is the process of detachment from “the world, the flesh and the devil” of which The New Testament speaks.

2. Tính vô ngã. Có điều gì nữa mà tôi có thể nói thêm về chủ đề này chăng? Các bạn phải học cách nhìn nhận mọi điều được nói ra hay gợi ý bởi bất kỳ huynh đệ nào trong nhóm với sự “điềm nhiên thiêng liêng” hoàn toàn và được rèn luyện kỹ lưỡng. Hãy lưu ý việc sử dụng từ “thiêng liêng,” vì nó hàm chứa manh mối cho thái độ cần thiết. Đây là một điều rất khác với sự điềm nhiên của sự dửng dưng, hay sự điềm nhiên của một “lối thoát” đã được phát triển về mặt tâm lý khỏi những gì không dễ chịu; nó cũng không phải là sự điềm nhiên của sự tự cao. Đó là sự điềm nhiên đón nhận mọi điều được trao tặng, sử dụng những gì có ích, học hỏi những gì có thể học, nhưng không bị trì kéo bởi các phản ứng của phàm ngã. Đó là thái độ bình thường của linh hồn hay chân ngã đối với phi-ngã. Đó là sự phủ nhận đối với thành kiến và mọi định kiến hẹp hòi có sẵn, cũng như mọi ảnh hưởng, truyền thống hay bối cảnh cá nhân. Đó là tiến trình buông xả khỏi “thế gian, xác thịt và ma quỷ” như Kinh Tân Ước đã nói đến.

3. Love. Love is that inclusive, non-critical, magnetic comprehension and attitude which (in group work) preserves the group integrity, fosters the group rhythm and permits no secondary personality happenings or attitudes to mar the group work.

3. Tình thương. Tình thương là sự thấu hiểu và thái độ bao gồm, không chỉ trích, đầy từ tính, vốn (trong công việc nhóm) duy trì sự toàn vẹn của nhóm, nuôi dưỡng tiết điệu nhóm và không cho phép bất kỳ biến cố hay thái độ nào thuộc về phàm ngã chen vào gây tổn hại đến công việc của nhóm.

[60]

[60]

Contact, impersonality and love—these three constitute the individual objectives which I set before each and all of you.

Giao cảm, vô ngã và tình thương—ba điều này cấu thành các mục tiêu cá nhân mà tôi đặt ra trước mỗi người và tất cả các bạn.

The group requirements which must be met and preserved by the group, as a group, are as follows:

Những yêu cầu của nhóm mà nhóm, với tư cách là một chỉnh thể, phải đáp ứng và duy trì như sau:

1. Group integrity. This grows out of right integration and refers to the delicate balance which must be preserved amongst the members of the group. This is of such a nature that there emerges eventually a group steadiness and a group freedom from “oscillation” which will permit of uninterrupted group work and interplay. It will come if each of the group members will simply mind his own business and permit his group brothers to mind theirs; it will come if you keep your personality affairs, your private concerns and troubles out of the group life; it will come if you refrain from discussion of each other and of each other’s affairs and attitudes. This is of supreme importance at this stage of the group work; it will mean—if you can achieve success in this—that you will be able to keep your minds clear of all lesser things which concern the personality life. This means that your minds will be free, therefore, for group work.

1. Sự toàn vẹn của nhóm. Điều này phát sinh từ sự hợp nhất đúng đắn và liên quan đến sự quân bình tinh tế cần phải được duy trì giữa các thành viên trong nhóm. Đây là một điều kiện mang tính chất sao cho cuối cùng sẽ xuất hiện một sự ổn định nhóm và một sự tự do khỏi “dao động” nơi nhóm, điều này sẽ cho phép công việc nhóm và sự tương tác nhóm diễn ra một cách không bị gián đoạn. Điều này sẽ thành hiện thực nếu mỗi thành viên trong nhóm đơn giản là lo phần việc của mình và cho phép các huynh đệ trong nhóm lo phần việc của họ; điều đó sẽ xảy đến nếu các bạn giữ cho những việc phàm ngã, những mối bận tâm cá nhân và những nỗi khó khăn của mình không ảnh hưởng đến đời sống nhóm; điều đó sẽ xảy đến nếu các bạn kiêng kỵ việc bàn tán về nhau, cũng như về các công việc và thái độ của nhau. Điều này có tầm quan trọng tối thượng trong giai đoạn hiện tại của công việc nhóm; nếu các bạn đạt được thành công trong điều này, thì điều đó có nghĩa là các bạn sẽ có thể giữ cho thể trí của mình được trong sáng, không vướng bận bởi những điều nhỏ nhặt liên quan đến đời sống phàm ngã. Điều này có nghĩa là thể trí của các bạn sẽ được tự do, và như thế, sẵn sàng cho công việc nhóm.

2. Fusion. By this I mean the ability of the group to work as a unit. This is dependent upon the achieving of right individual attitudes and (when working) the attainment of the capacity to lose sight of everything except the work to be done and a deeply sensed love of your brothers.

2. Hợp nhất. Ý tôi muốn nói đến ở đây là năng lực của nhóm trong việc hoạt động như một đơn vị duy nhất. Điều này phụ thuộc vào việc đạt được những thái độ cá nhân đúng đắn và (khi đang làm việc) khả năng quên đi mọi thứ ngoại trừ công việc cần được hoàn tất và một tình thương sâu sắc được cảm nhận đối với các huynh đệ của mình.

3. Understanding. I use this word in reference to your comprehension of the work to be undertaken. I do not use the word in reference to your attitude to yourself or to your group brothers. It means that each group works wisely and understandingly at its own appointed task, knowing that it contributes to a whole which exists in the mind of the Master.

3. Sự thấu hiểu. Tôi dùng từ này với ý nói đến sự lĩnh hội của các bạn đối với công việc sẽ được đảm trách. Tôi không dùng từ này để chỉ thái độ của các bạn đối với chính mình hay với các huynh đệ trong nhóm. Nó có nghĩa là mỗi nhóm làm việc một cách khôn ngoan và thấu đáo với nhiệm vụ đã được chỉ định, biết rằng nhóm của mình đang đóng góp vào một tổng thể vốn hiện hữu trong thể trí của Chân sư.

Integrity, fusion and understanding—this is the order of the work and the sequence of development. All groups, working in the outer world in relation to the Ashrams of the Masters, will follow certain initial and final stages in their work and [61] these will be uniform for all the groups, no matter what their specific and individual group work may be. Thus there will be brought about an inter-group relation and a consequent strengthening of the individual groups. The third stage of the work to be done will be special and particular, differing for each group and to be followed by the group with meticulous care. I would ask all the various groups which may be working under my direction to attend to their own individual group business and not to speculate as to the nature of the work being done by the other groups.

Toàn vẹn, hợp nhất và thấu hiểu —đây là trật tự của công việc và là chuỗi phát triển cần theo. Tất cả các nhóm làm việc nơi ngoại giới trong mối liên hệ với các Đạo viện của các Chân sư sẽ tuân theo những giai đoạn khởi đầu và kết thúc nhất định trong công việc của họ và [61] những điều này sẽ đồng nhất cho mọi nhóm, bất kể công việc đặc thù và riêng biệt của từng nhóm là gì. Bằng cách đó, mối liên hệ giữa các nhóm sẽ được thiết lập và hệ quả là sự củng cố các nhóm cá nhân. Giai đoạn thứ ba của công việc sẽ mang tính đặc biệt và riêng biệt, khác nhau đối với mỗi nhóm, và cần được nhóm đó tuân theo với sự cẩn trọng tỉ mỉ. Tôi mong tất cả các nhóm khác nhau đang làm việc dưới sự hướng dẫn của tôi hãy chú tâm vào công việc riêng của nhóm mình, và đừng suy đoán về bản chất công việc mà các nhóm khác đang đảm trách.

Let me outline for you the stages to be followed:

Hãy để tôi phác thảo cho các bạn các giai đoạn cần được tuân theo:

STAGE ONE. Alignment. Soul contact. Spiritual poise. Poise is the steady holding of the achieved soul contact.

GIAI ĐOẠN MỘT. Chỉnh hợp. Tiếp xúc với linh hồn. Tự tại tinh thần. Tự tại là sự duy trì vững chắc mối tiếp xúc đã đạt được với linh hồn.

a. Then, the conscious relinquishing of personality reactions.

a. Sau đó, là sự từ bỏ một cách có ý thức các phản ứng của phàm ngã.

b. Next, the recognition of the fact of love as an expression of that soul contact—expressed through the medium of the personality.

b. Kế đến, là sự nhận biết thực tế tình thương như một biểu lộ của mối tiếp xúc với linh hồn—được thể hiện qua trung gian của phàm ngã.

c. Finally, the imaginative fusion of the egoic and personality rays.

c. Sau cùng, là sự hợp nhất bằng tưởng tượng giữa cung của linh hồn và cung của phàm ngã.

This constitutes the vertical stage.

Điều này tạo thành giai đoạn theo chiều dọc.

STAGE TWO. The above is followed by group integration and group fusion, carried forward consciously:

GIAI ĐOẠN HAI. Giai đoạn trên được tiếp nối bằng sự tích hợp nhóm và sự dung hợp nhóm, được tiến hành một cách có ý thức:

a. By bringing each group member into conscious rapport through naming and loving.

a. Bằng cách đưa mỗi thành viên trong nhóm vào mối giao cảm có ý thức thông qua việc gọi tên và phát khởi tình thương.

b. By seeing all the group members as a circle of living points of light along with yourself in the circle, but not at the centre of the circle.

b. Bằng cách quán tưởng tất cả các thành viên trong nhóm như một vòng tròn của những điểm sáng sống động, trong đó có cả chính bạn, nhưng không phải ở trung tâm của vòng tròn.

c. By imagining all these points of light as fusing and blending to make a radiant sun, with rays of light going out towards the four corners of the earth.

c. Bằng cách hình dung tất cả những điểm sáng ấy đang dung hợp và hoà quyện để tạo thành một vầng thái dương rực rỡ, với những tia sáng tuôn rải đến bốn phương của trái đất.

This constitutes the horizontal stage.

Điều này tạo thành giai đoạn theo chiều ngang.

STAGE THREE. There follows next a careful consideration of group purpose and technique. This technique will be different for each group; by a dynamic, unremitting [62] following of the particular, indicated technique will the results be achieved. This technique must not be changed by anyone except myself.

GIAI ĐOẠN BA. Kế tiếp là sự cứu xét cẩn trọng về mục đích nhóm và kỹ thuật nhóm. Kỹ thuật này sẽ khác nhau đối với mỗi nhóm; chỉ bằng cách chuyên tâm theo đuổi một cách mãnh liệt và không ngừng nghỉ [62] kỹ thuật đặc thù đã được chỉ định thì kết quả mới có thể đạt được. Kỹ thuật này không được phép thay đổi bởi bất kỳ ai ngoại trừ chính tôi.

Stages I and II should be rapidly effective and almost instantaneous in their results, after three months’ careful work has been done. I request that you give careful, patient attention to them so that they develop eventually into stable habits and so give you no trouble and further difficulty. The initial stages in this type of work are of paramount importance.

Giai đoạn I và II nên cho hiệu quả nhanh chóng và gần như tức thời sau ba tháng làm việc cẩn trọng. Tôi yêu cầu các bạn dành sự chú tâm kiên nhẫn và cẩn thận cho chúng, để chúng dần dần trở thành những thói quen ổn định, và do đó không còn gây trở ngại hay khó khăn về sau. Những giai đoạn khởi đầu trong loại công việc này có tầm quan trọng hàng đầu.

STAGE FOUR. Having finished the special group work under Stage III, the members of the group will then endeavour to link up with the other groups in the same manner in which they linked up with the members of their own group. In this case, however, disciples will not concern themselves with the personnel of any of the groups, including their own, but only—as a group—link their group with the other groups. Thus the concepts of illusion and of separateness, and the realisation of fusion, will assume correct proportions in your minds.

GIAI ĐOẠN BỐN. Sau khi đã hoàn tất công việc đặc thù của nhóm trong Giai đoạn III, các thành viên trong nhóm sẽ cố gắng liên kết với các nhóm khác theo cùng một phương thức mà họ đã dùng để liên kết với các thành viên trong nhóm của chính họ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, các đệ tử sẽ không quan tâm đến nhân sự của bất kỳ nhóm nào, kể cả nhóm của chính mình, mà chỉ—với tư cách là một nhóm—liên kết nhóm của mình với các nhóm khác. Nhờ đó, các khái niệm về ảo tưởng và phân cách, cũng như sự nhận thức về sự dung hợp, sẽ được thể hiện với đúng tầm vóc trong thể trí của các bạn.

a. Next, as a group, say the Great Invocation three times:

a. Kế đến, với tư cách là một nhóm, hãy đọc Đại Khấn Nguyện ba lần:

“Let the Forces of Light bring illumination to mankind.

“Nguyện các Lực lượng của Ánh sáng mang sự khai sáng đến nhân loại.

Let the Spirit of Peace be spread abroad.

Nguyện Tinh Thần Bình An được lan tỏa khắp nơi.

May Men of Goodwill everywhere meet in a spirit of cooperation.

Nguyện cho những Người thiện chí khắp nơi gặp nhau trong tinh thần hợp tác.

Let Power attend the efforts of the Great Ones.”

Nguyện Quyền năng hỗ trợ những nỗ lực của Các Đấng Vĩ Đại.”

b. Then sound the Sacred Word, the O.M. three times.

b. Sau đó xướng Linh từ O.M. ba lần.

c. Close with the prayer of the personality to the soul:

c. Kết thúc bằng lời cầu nguyện của phàm ngã hướng lên linh hồn:

“May the words of my mouth and the meditation of my heart be always acceptable in thy sight, Oh Soul, my Lord and my Redeemer.”

“Nguyện cho lời nói từ miệng tôi và sự tham thiền trong lòng tôi luôn luôn được chấp nhận trong ánh sáng của Ngài, Ôi Linh hồn, Đấng Chúa Tể và Đấng Cứu Rỗi của tôi.”

[63]

[63]

PART VII—PHẦN VII

The need for telepathic sensitivity in every group, composed of disciples, is based upon three necessities; I would like you to understand this more clearly.

Nhu cầu về sự nhạy cảm viễn cảm trong mọi nhóm, gồm những đệ tử, dựa trên ba tất yếu; tôi muốn các bạn thấu hiểu điều này rõ hơn.

1. The cultivation of an inter-relation of a telepathic nature upon the mental plane is essential. This has always been an established fact or condition in the case of a Master and His disciple and between the senior disciples in any group of accepted disciples. The time has now come when this group quality must—for the sake of a needy world—be developed by disciples of lesser attainment in the group.

1. Việc bồi dưỡng một mối liên hệ có tính viễn cảm trên cõi trí là điều thiết yếu. Điều này xưa nay vẫn là một sự kiện hay tình trạng đã được thiết lập trong trường hợp một Chân sư và Đệ tử của Ngài, và giữa các đệ tử thâm niên trong bất kỳ nhóm đệ tử được chấp nhận nào. Giờ đây đã đến lúc phẩm tính nhóm này—vì lợi ích của một thế giới đang thiếu thốn—phải được các đệ tử có thành tựu khiêm tốn hơn trong nhóm phát triển.

2. This telepathic unfoldment will lead to a greater sensitivity to others. This is the secret of a Master’s work and the factor which enables Him to work through His disciples, using them as outposts of His consciousness. To do this with exactitude, He must be able to know their condition (mental, psychical and physical) when He chooses so to know. He can thus discover whether they are available or not for any specific service, whether they can be safely used or not and whether their sensitivity is such and their interpretation of what they sense is of sufficient accuracy so that they will respond intelligently to the need. Have I not had to study all of you this way? Think this out and ponder upon the implications.

2. Sự triển nở viễn cảm này sẽ dẫn đến mức nhạy cảm lớn hơn đối với người khác. Đây là bí quyết công việc của một Chân sư và là yếu tố khiến Ngài có thể làm việc qua các đệ tử của Ngài, dùng họ như những tiền đồn của tâm thức Ngài. Để làm việc ấy một cách chuẩn xác, Ngài phải có khả năng biết tình trạng của họ (trí tuệ, tâm linh và thể xác) khi Ngài chọn biết như vậy. Nhờ đó, Ngài có thể khám phá xem họ có sẵn sàng hay không cho bất kỳ phụng sự cụ thể nào, liệu họ có thể được sử dụng một cách an toàn hay không, và liệu tính nhạy cảm của họ ra sao và sự diễn dịch những gì họ cảm tri có đủ chính xác để họ sẽ đáp ứng cách thông tuệ trước nhu cầu hay không. Chẳng phải tôi đã phải khảo sát tất cả các bạn theo cách này sao? Hãy suy nghĩ kỹ điều này và chiêm nghiệm các hàm ý của nó.

3. This telepathic sensitivity will also lead to the new science of inter-communication which, in the New Age, will reach general use and comprehension. Of this condition, the radio is the outer physical symbol.

3. Sự nhạy cảm viễn cảm này cũng sẽ dẫn đến khoa học mới về liên-giao tiếp vốn, trong Kỷ Nguyên Mới, sẽ đạt đến mức sử dụng và lĩnh hội phổ quát. Tình trạng này có biểu tượng hồng trần bên ngoài là máy vô tuyến.

Certain questions now arise and it might be well to formulate the answers to some of them. It could be wisely asked if anyone has the right to work telepathically upon the mind of any person? The answer is that you are doing it all the time, consciously or unconsciously, and without skill or purpose or—if there is a purpose—it is usually a personality purpose. It is through telepathy that ideas have been disseminated in the world by the process of mentally impressing the mind of some [64] disciple or sensitive person. It is then their task to find and direct the mind and activities of those individuals whose task is not only to be responsive to this impression but to bring it out into the consciousness of the world thinkers. Have you ever asked yourselves what are the aspects of the work, in connection with telepathy, which raise questions in your mind? Is it not distrust of personality intention or point of view and a questioning also as to your own sincerity or motives? Unless this work is carried forward selflessly and with complete freedom from personal prejudice and personal choices—political or religious—there can be no safe work along this line. That is why I emphasise to you the need of doing this work at the highest united point of meditation and with complete obedience to my decisions in the matter.

Một vài câu hỏi nhất định giờ đây khởi lên và có lẽ tốt hơn là nên hình thành câu trả lời cho một vài điều trong số đó. Có thể khôn ngoan khi hỏi liệu bất kỳ ai có quyền làm việc viễn cảm lên thể trí của bất kỳ người nào không? Câu trả lời là các bạn vẫn đang làm điều đó mọi lúc, có ý thức hay vô ý thức, và không có kỹ xảo hoặc mục đích, hoặc—nếu có mục đích—thì thường đó là mục đích của phàm ngã. Chính qua viễn cảm mà các ý tưởng đã được truyền bá trong thế giới bằng tiến trình ấn tượng một cách trí tuệ lên thể trí của một  đệ tử hay người nhạy cảm nào đó. Khi ấy, đó là nhiệm vụ của họ để tìm và dẫn dắt thể trí và các hoạt động của những cá nhân có nhiệm vụ không chỉ đáp ứng với ấn tượng này mà còn đưa nó vào tâm thức của những nhà tư tưởng trên thế giới. Các bạn đã từng hỏi chính mình đâu là những phương diện của công việc, có liên hệ với viễn cảm, vốn nêu lên thắc mắc trong trí các bạn? Chẳng phải đó là sự bất tín đối với ý định hay quan điểm của phàm ngã và cũng là sự hoài nghi về sự thành thực hay động cơ của chính các bạn sao? Trừ khi công việc này được tiến hành một cách vị tha và hoàn toàn thoát ly khỏi thành kiến cá nhân và những chọn lựa cá nhân—chính trị hay tôn giáo—thì không thể có công việc an toàn theo hướng này. Đó là lý do vì sao tôi nhấn mạnh với các bạn nhu cầu thực hiện công việc này tại điểm hợp nhất cao nhất của tham thiền và với sự vâng phục hoàn toàn các quyết định của tôi trong vấn đề này.

Another question could well be: What is the difference between this work which I am suggesting to you and the work of the Lodge of the Lords of Form? None whatsoever, except in motive and the point from which you must endeavour to work. The Lords of Form work entirely on and from the lower levels of the mental plane and with the energy of knowledge. The love aspect of the soul itself is inactive and, therefore, from the angle and vision of the Great White Lodge, motives are wrong and the objectives are selfish ones. This is true both of individuals and groups. Forget not that these Lords of Form are souls of great age and unique blindness. But that later, in some far distant cycle, and when karma has worked upon them and the Great Law has exacted full payment for all wrong done, that they too will begin to develop the love aspect and to transmute their motives. You too must work from mental levels but knowledge and love must be called into play together, producing only those results which are harmoniously and intelligently in line with the Plan. Disciples are not permitted to call into play and functioning activity the Will aspect of the soul, unless they are initiates of the third degree. Prior to that, they seldom realise the distinction between the imposition of the will and the directed impression of ideas. There is too much desire (which is embryonic will) in their equipment for them to be trusted as yet with this higher aspect of mental activity. I would ask you to get clearly in your minds in connection [65] with any telepathic work which these groups (working under me) should do, that it is the impression of ideas and not imposed direction which is the group ideal—a very different thing, my brother.

Một câu hỏi khác cũng nên được nêu: Sự khác biệt giữa công việc mà tôi đang gợi ý cho các bạn và công việc của Hội của các Chúa Tể Hình tướng là gì? Không có gì cả, ngoại trừ ở động cơ và điểm mà từ đó các bạn phải nỗ lực làm việc. Các Chúa Tể Hình tướng làm việc hoàn toàn trên và từ các cõi thấp của cõi trí và với năng lượng của tri thức. Phương diện bác ái của chính linh hồn bất hoạt và, vì vậy, từ góc độ và tầm nhìn của Thánh đoàn, động cơ là sai và các mục tiêu là ích kỷ. Điều này đúng với cả cá nhân lẫn nhóm. Chớ quên rằng các Chúa Tể Hình tướng này là những linh hồn cao niên và mù lòa dị biệt. Nhưng về sau, trong một chu kỳ xa xôi nào đó, và khi nghiệp quả đã tác động lên họ và Đại Định Luật đã đòi hỏi sự hoàn trả đầy đủ cho mọi điều sai trái, thì chính họ cũng sẽ bắt đầu phát triển phương diện bác ái và chuyển hoá các động cơ của mình. Các bạn cũng phải làm việc từ các cấp độ trí tuệ, nhưng tri thức và bác ái phải được đồng thời vận dụng, tạo ra chỉ những kết quả nào hòa hợp và thông minh, đi thẳng hàng với Thiên Cơ. Các đệ tử không được phép đưa vào hoạt động và chức năng phương diện Ý chí của linh hồn, trừ khi họ là các điểm đạo đồ của lần điểm đạo thứ ba. Trước đó, họ hiếm khi nhận ra sự phân biệt giữa áp đặt ý chí và ấn tượng có điều hướng của các ý tưởng. Có quá nhiều dục vọng (vốn là ý chí phôi thai) trong cơ cấu của họ để họ chưa thể được tin cậy với phương diện cao hơn này của hoạt động trí tuệ. Tôi muốn các bạn nắm thật rõ trong thể trí mình, liên hệ [65] với bất kỳ công việc viễn cảm nào mà các nhóm này (đang làm việc dưới quyền tôi) nên thực hiện, rằng đó là ấn tượng của các ý tưởng chứ không phải chỉ đạo áp đặt mới là lý tưởng của nhóm—một điều rất khác, huynh đệ của tôi.

You might also ask: How can this collective impressing go on and yet leave a man free? Because it will be kept clear of all directed will-force; all that workers and disciples in my groups will seek to do is to impress certain minds with the outlines or suggestions as to the Plan; these ideas will deal particularly with the concept that separation is a thing of the past and that unity is the goal of the immediate future; that hatred is retro-active and undesirable and that goodwill is the touchstone which will transform the world.

Các bạn cũng có thể hỏi: Làm sao sự ấn tượng tập thể này có thể tiếp diễn mà vẫn để con người tự do? Bởi vì nó sẽ được giữ cho tách biệt khỏi mọi lực ý chí có chủ đích; tất cả những gì các công nhân và đệ tử trong các nhóm của tôi sẽ tìm cách làm là ấn tượng một số thể trí với những phác thảo hay gợi ý về Thiên Cơ; các ý tưởng này sẽ đặc biệt đề cập đến quan niệm rằng chia rẽ là chuyện của quá khứ và hợp nhất là mục tiêu của tương lai gần; rằng hận thù là phản tác dụng và bất đáng, và rằng thiện chí là hòn đá thử vàng sẽ chuyển hoá thế giới.

How then can you keep your minds free from your own desires and from your own interpretations? By achieving that poised and positive negativity on the part of the two lower aspects of the personality—the astral body and the brain as well as the etheric brain; these determine the reactions of the lower centres, particularly of the solar plexus centre. The mind will then be left free to fulfil three functions:

Vậy làm thế nào để các bạn giữ cho thể trí mình thoát ly khỏi các dục vọng và khỏi những diễn dịch riêng? Bằng cách đạt đến sự quân bình và tính thụ động tích cực nơi hai phương diện thấp của phàm ngã—thể cảm dục và bộ não cũng như bộ não dĩ thái; những thứ này quyết định các phản ứng của các luân xa thấp, nhất là luân xa tùng thái dương. Khi ấy, thể trí sẽ được để tự do để hoàn tất ba chức năng:

1. That of soul contact; this will result in illumination and a working knowledge of the immediate aspects of the Plan.

1. Chức năng tiếp xúc linh hồn; điều này sẽ đưa đến soi sáng và một kiến thức thực hành về các phương diện tức thời của Thiên Cơ.

2. That of thought formulation and thoughtform creation. Then a clear thoughtform can be constructed with definiteness, and it can be positively directed.

2. Chức năng hình thành tư tưởng và tạo Hình tư tưởng. Khi đó, một Hình tư tưởng rõ ràng có thể được kiến tạo một cách minh định, và nó có thể được điều hướng một cách quả quyết.

3. That of working on mental levels with your group brothers so that your thoughtform is a part of their thoughtform and you can, therefore, unitedly produce a living, embodied form which can be directed as I may determine.

3. Chức năng làm việc trên các cấp trí tuệ với các huynh đệ nhóm của các bạn để Hình tư tưởng của các bạn là một phần của Hình tư tưởng của họ và, do đó, các bạn có thể hợp nhất tạo ra một hình tướng sống động, được hiện thân, vốn có thể được điều hướng theo như tôi quyết định.

Another question might here arise: Are there any specific and brief rules which should be obeyed? The following might be given, but I would remind you that it is what you are that counts in this work more powerfully than anything else. The controlling factor is harmlessness in thought and word; the practice of this, with proper observation, will greatly help all of you. Next comes a refusal to think unkindly or with criticism; [66] this is essential in connection with those whose minds you seek to impress. Silence, complete and unbroken as to what you are doing, is also a vital factor; the utterance of words in connection with this most subtle and confidential work (or even discussion of the work with a fellow disciple) can shatter the delicate thoughtform which you are attempting to build. It can render the work of weeks abortive. A balanced attitude in relation to those in power throughout the world must also be cultivated; they need above all else the inspiration which can be brought to them from the Hierarchy.

Một câu hỏi khác có thể nảy sinh ở đây: Có những quy luật ngắn gọn, cụ thể nào cần phải tuân giữ không? Có thể nêu như sau, nhưng tôi muốn nhắc các bạn rằng điều quyết định là các bạn gì trong công việc này, mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì khác. Nhân tố chi phối là tính vô tổn hại trong tư tưởng và ngôn từ; thực hành điều này, với sự quan sát đúng đắn, sẽ giúp tất cả các bạn rất nhiều. Kế đó là một sự từ chối nghĩ bất thiện hay với thái độ phê phán; [66] điều này là thiết yếu đối với những ai mà thể trí của họ các bạn tìm cách ấn tượng. Im lặng, hoàn toàn và không gián đoạn về những gì các bạn đang làm, cũng là một yếu tố sinh tử; việc thốt ra lời nói có liên quan đến công việc cực kỳ vi tế và cơ mật này (hoặc thậm chí thảo luận công việc với một đồng đệ tử) có thể làm tan vỡ Hình tư tưởng mong manh mà các bạn đang cố gắng xây dựng. Nó có thể khiến công việc của nhiều tuần trở nên vô hiệu. Một thái độ quân bình đối với những người cầm quyền trên khắp thế giới cũng phải được bồi dưỡng; trên hết thảy, họ cần cảm hứng có thể được mang đến cho họ từ Thánh Đoàn.

I would ask you, therefore, to practise purging the content of your minds of all critical and unkind thoughts so that you can achieve an attitude of divine indifference to the ephemeral and fleeting personalities and to the chaos everywhere to be seen and so endeavour to tune in on the attitude of the Hierarchy. This involves the emphasis of the consciousness-aspect and the careful observation of all that goes on beneath the surface—awakening, arousing and stimulating to a pronounced mental activity, the hitherto unconscious masses. The events which are happening in every country are bringing this about with much rapidity; humanity is coming alive and its consciousness is awakening to the subjective values. The Hierarchy is sore beset to meet humanity’s emerging need of guidance. The sensitivity of the human race (as the result of economic insufficiency, of war, anxiety and pain) is becoming so acute that we who work on the inner side must hasten to impress sensitive, awakening psychics with the right impression. Hence our effort to create these groups, and to use people like yourselves who are (theoretically) harmless but actually full of prejudice and hasty judgments. We have to use the material which lies to hand and are greatly handicapped at all times.

Vì vậy, tôi muốn các bạn tập luyện tẩy sạch nội dung thể trí khỏi mọi ý nghĩ phê phán và bất thiện để các bạn có thể đạt đến một thái độ Điềm nhiên thiêng liêng đối với các phàm ngã phù du và thoáng qua và đối với cảnh hỗn loạn thấy ở khắp nơi, và như thế nỗ lực hòa điệu với thái độ của Thánh Đoàn. Điều này hàm ý nhấn mạnh phương diện tâm thức và quan sát cẩn thận mọi điều đang diễn ra dưới bề mặt—đánh thức, khơi dậy và kích thích đến một hoạt động trí tuệ nổi bật, quần chúng vốn bị vô thức cho đến nay. Những sự kiện đang xảy ra tại mọi quốc gia đang đưa điều này đến với tốc độ lớn; nhân loại đang hồi sinh và tâm thức của nó đang thức dậy với các giá trị chủ quan. Thánh Đoàn đang bị bức bách để đáp ứng nhu cầu đang trỗi dậy của nhân loại về sự dẫn dắt. Tính nhạy cảm của nhân loại (hậu quả của thiếu thốn kinh tế, chiến tranh, lo âu và đau khổ) đang trở nên quá cấp bách đến nỗi chúng tôi, những người làm việc ở cõi bên trong, phải khẩn trương ấn tượng những nhà thông linh đang thức tỉnh với ấn tượng đúng đắn. Do đó nỗ lực của chúng tôi nhằm tạo dựng những nhóm này, và sử dụng những người như các bạn—những người (về lý thuyết) vô tổn hại nhưng trên thực tế đầy thành kiến và các phán đoán vội vã. Chúng tôi phải sử dụng chất liệu sẵn có trong tay và luôn luôn bị giới hạn rất nhiều.

After you have worked consciously at the purification of the mind and after you have attempted to free yourselves from prejudice, from preconceived ideas and hasty judgments and determinations (based upon your own background, tradition, social and racial status), you will then brood consciously on the process of thoughtform making; you will remember that—for group purposes and for simplicity—the following three stages are of importance: [67]

Sau khi các bạn đã làm việc một cách có ý thức trong việc thanh lọc thể trí và sau khi đã nỗ lực giải phóng mình khỏi thành kiến, khỏi những ý niệm định sẵn và các phán đoán, quyết định vội vàng (dựa trên bối cảnh, truyền thống, địa vị xã hội và sắc dân của chính các bạn), các bạn sẽ rồi trầm tư một cách có ý thức về tiến trình tạo Hình tư tưởng; các bạn sẽ ghi nhớ rằng—vì mục đích nhóm và để đơn giản—ba giai đoạn sau đây là quan trọng: [67]

1. The stage of pondering over the idea which is to be impressed upon the mind of some individual. This pondering and carefully directed thinking produces construction; it is a creative activity and is the first real stage in our work. I do not want you to endeavour to build thoughtforms. I want you to think clearly along lines which I may indicate. Then the desired thoughtform will automatically take shape and all of you will have contributed something to it.

1. Giai đoạn chiêm niệm về ý tưởng sẽ được ấn tượng lên thể trí của một cá nhân nào đó. Sự chiêm niệm và tư duy được điều hướng cẩn trọng này tạo ra kiến tạo; đó là một hoạt động sáng tạo và là giai đoạn thật sự đầu tiên trong công việc của chúng ta. Tôi không muốn các bạn cố gắng xây dựng Hình tư tưởng. Tôi muốn các bạn tư duy minh bạch theo các đường hướng mà tôi có thể nêu ra. Bấy giờ Hình tư tưởng mong muốn sẽ tự động thành hình và tất cả các bạn sẽ đóng góp điều gì đó cho nó.

2. When the thoughtform is thus built in your mind, there will follow a period wherein it comes alive. It slowly becomes the living embodiment of the desired idea—vibrant, active and ready for service.

2. Khi Hình tư tưởng được xây dựng như thế trong thể trí các bạn, sẽ theo sau một giai đoạn trong đó nó trở nên sống động. Nó chậm rãi trở thành sự hiện thân sống động của ý tưởng mong muốn—rung hoạt, linh lợi và sẵn sàng để phụng sự.

3. When this stage is reached, you can then—as a group—proceed with the stage of direction. Having carefully in mind the person to be impressed and the fact of your group as the impressing agency (thus providing the two poles between which interplay is desired), you will try to see the living embodied idea, playing back and forth between the two poles. You will send it out on the wings of love, impelled by the wise desire to serve and in obedience to my directions. Time and again, it may return to you for revivifying and enrichment before its task is satisfactorily accomplished.

3. Khi đạt đến giai đoạn này, các bạn có thể—như một nhóm—tiến hành giai đoạn điều hướng. Luôn ghi nhớ người cần được ấn tượng và thực tại nhóm của các bạn như cơ quan ấn tượng (như vậy cung cấp hai cực giữa đó sự giao tác là điều mong muốn), các bạn sẽ cố gắng thấy ý tưởng đã được hiện thân sống động, qua lại giữa hai cực. Các bạn sẽ gửi nó đi trên đôi cánh của Tình thương, được thúc đẩy bởi ước nguyện khôn ngoan để phụng sự và vâng theo các chỉ dẫn của tôi. Hết lần này đến lần khác, nó có thể trở về với các bạn để được tiếp sinh khí và phong phú thêm trước khi nhiệm vụ của nó được hoàn thành một cách thỏa đáng.

The externalised groups of disciples are all of them intended to be expressions of a type of group relation which will be better known and understood when the world has entered into the next cycle and era of peace. Certain types of force are, as you know, to be later utilised by the groups for specific group ends and for world service. The motive for all such service must not be forgotten by you, as you study and work in a Master’s group. The objective is not your individual assistance and unfoldment but your training in certain group alignments and activities which will enable these groups of disciples to work in a definite and specific manner. The fact, however, that one group will work with one type of force and another group of disciples will employ a different kind must not in any sense be deemed to indicate separate activity or separative interests. All [68] will be working towards one objective or goal and all will work with the same divine energy, differentiated into varying forces for the purposes of service in one department of life or another. I would ask you to ponder deeply upon the various aspects of the outlined plan or system of group work which I have brought to you, for it is a tentative endeavour to externalise upon earth, certain phases of hierarchical endeavour.

Các nhóm đệ tử được ngoại hiện đều được định hướng để biểu hiện một kiểu liên hệ nhóm vốn sẽ được biết rõ và thấu hiểu hơn khi thế giới bước vào chu kỳ kế tiếp và thời kỳ hòa bình. Như các bạn biết, một số loại lực nhất định sẽ, về sau, được các nhóm sử dụng cho những mục đích nhóm đặc định và cho phụng sự thế giới. Động cơ cho mọi phụng sự như thế không được các bạn quên, khi các bạn học tập và làm việc trong nhóm của một Chân sư. Mục tiêu không phải là sự trợ giúp và khai mở cá nhân của các bạn, mà là huấn luyện các bạn trong những chỉnh hợp và hoạt động nhóm nhất định sẽ khiến những nhóm đệ tử này có thể làm việc theo một cách thức minh định và đặc thù. Tuy nhiên, thực tế một nhóm sẽ làm việc với một loại lực và một nhóm đệ tử khác sẽ dùng một loại khác không được, theo bất kỳ nghĩa nào, xem như ám chỉ hoạt động tách rời hay mối quan tâm phân ly. Tất cả [68] sẽ làm việc hướng về một mục tiêu hay cứu cánh duy nhất và tất cả sẽ làm việc với cùng một năng lượng thiêng liêng, được biệt hóa thành các lực sai khác nhằm mục đích phụng sự trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của đời sống. Tôi muốn các bạn chiêm nghiệm sâu xa về các phương diện khác nhau của kế hoạch hay hệ thống công việc nhóm đã phác thảo mà tôi đã mang đến cho các bạn, vì đó là một nỗ lực thăm dò nhằm ngoại hiện trên địa cầu một vài giai đoạn của nỗ lực thuộc Thánh Đoàn.

The energy used in the telepathic work is the “chitta” (as the Hindus call it) or the mind-stuff which underlies and is the very substance of manifestation itself. God, the planetary Life or Logos, however, works with the higher correspondence of this mind-stuff and the forces of the mental plane are the reflection or rather the densification of this higher mental substance. These forces, this mind-stuff, is constantly in flux and in motion. This produces that thoughtform-making activity of the mental world which is set in motion by minds—working either individually or in group formation. In true telepathic work (carried forward without error and correctly and from a poised point of action) the currents of this mind-stuff are set in motion between certain points by the will and the carefully expressed and formulated idea in the mind of the thinker. A certain portion of this mind-stuff (already in motion) is built into form and then travels along the current, as set up between the two points. The telepathic worker, such as, for instance, myself, works from the angle of the mind of the transmitter and that of the recipient, establishing first of all a current of rapport (which you sometimes call “sensing the Tibetan’s vibration”); along that current, I send the impression, the idea or the thoughtform which I seek to see impinging first of all upon your minds and then—if you are capable of such alignment—upon your brains. This process can be either rapid or slow. Where the alignment is good, there can be an almost immediate response to my thought; where it is not good, it may take days and even weeks for the impression to be finally realised and consciously registered on the disciple’s mind and brain.

Năng lượng được dùng trong công việc viễn cảm là “chitta” (như người Ấn giáo gọi) hay tâm-chất, tức chất liệu của thể trí, vốn tiềm ẩn và là chính chất liệu của sự biểu lộ. Thượng đế, Sự sống hành tinh hay Hành Tinh Thượng đế, tuy nhiên, làm việc với tương ứng cao hơn của tâm-chất này và các lực của cõi trí là phản ảnh—đúng hơn là sự làm đậm đặc—của chất trí cao ấy. Các lực này, tâm-chất này, luôn trong tình trạng biến lưu và chuyển động. Điều này tạo ra hoạt động tạo Hình tư tưởng của thế giới trí tuệ, vốn được khởi động bởi các thể trí—làm việc hoặc cá nhân hoặc theo hình thức nhóm. Trong công việc viễn cảm đích thực (được tiến hành không sai lầm, cho đúng và từ một điểm hành động quân bình), các dòng chảy của tâm-chất này được khởi động giữa những điểm nhất định bởi ý chí và ý tưởng được diễn tả và hình thành cẩn trọng trong thể trí của người tư tưởng. Một phần nào của tâm-chất này (vốn đã ở trong chuyển động) được kết tạo thành hình và rồi di chuyển dọc theo dòng chảy như được thiết lập giữa hai điểm. Người công tác viễn cảm, như, chẳng hạn, chính tôi, làm việc từ góc độ thể trí của người truyền đạt và của người thụ nhận, trước hết thiết lập một dòng giao cảm (mà đôi khi các bạn gọi là “cảm nhận rung động của Chân sư Tây Tạng”); dọc theo dòng chảy đó, tôi gửi ấn tượng, ý tưởng hay Hình tư tưởng mà tôi muốn thấy trước nhất va đập lên thể trí của các bạn, rồi—nếu các bạn có khả năng chỉnh hợp như thế—lên bộ não của các bạn. Tiến trình này có thể nhanh hoặc chậm. Nơi nào chỉnh hợp tốt, có thể có sự đáp ứng gần như tức thời với tư tưởng của tôi; nơi nào không tốt, có thể mất ngày và thậm chí hàng tuần để ấn tượng cuối cùng được nhận ra và ghi nhận có ý thức trên thể trí và bộ não của đệ tử.

There are other groups which are consciously working with the energy which can dispel glamour and illusion. This is the energy of the highest level of the astral plane. This level is [69] susceptible to reaction or response to that type of energy which we call the energy of the intuition or of buddhi, if you like the oriental terminology. It is the energy of wisdom. This wisdom energy is the only type of force which is adequate to dispel the miasmas, the fogs and the mists of the world of glamour. Those disciples who are working in these groups have to learn to use this energy, to work wisely, to think with wisdom and to realise that wisdom itself is a force. It is this realisation which makes a person seek out another person with wisdom when he is in trouble and difficulty and is anxious to see with clarity the way that he should go. It is this realisation which drives the members of the human family to the Masters of the Wisdom.

Có các nhóm khác đang làm việc một cách có ý thức với năng lượng có thể xua tan ảo cảm và ảo tưởng. Đây là năng lượng của cõi cao nhất của cõi cảm dục. Cõi này [69] mẫn cảm với phản ứng hay đáp ứng đối với loại năng lượng mà chúng ta gọi là năng lượng của trực giác hay của Bồ đề, nếu các bạn thích thuật ngữ Đông phương. Đó là năng lượng của Minh triết. Chính năng lượng Minh triết này là loại lực duy nhất đủ sức xua tan những mù chướng, sương mù và làn khói của thế giới ảo cảm. Những đệ tử đang làm việc trong các nhóm này phải học cách sử dụng năng lượng này, làm việc một cách khôn ngoan, tư duy với Minh triết và nhận ra rằng bản thân Minh triết là một lực. Chính nhận thức này khiến một người tìm đến một người khác có Minh triết khi y gặp khó khăn, khốn đốn và nóng lòng muốn thấy rõ con đường y nên đi. Chính nhận thức này thúc đẩy các thành viên của gia đình nhân loại tìm đến các Chân sư của Minh triết.

In Atlantean days (I am here telling you something of interest and something which should evoke a sense of responsibility), the major task of the Masters of the Wisdom was with the great world illusion or rather, glamour. They worked then primarily upon the astral plane and had They not done so, human life and conditions would not be so good as they are—for they are in reality full of beauty, the beauty of potentiality, hovering upon the verge of immediacy of expression.

Vào thời Atlantis (ở đây tôi nói với các bạn điều gì đó lý thú và điều gì đó nên khơi dậy ý thức trách nhiệm), nhiệm vụ chủ yếu của các Chân sư Minh triết là với đại ảo tưởng của thế gian, đúng hơn là ảo cảm. Khi ấy, Các Ngài làm việc chủ yếu trên cõi cảm dục và nếu Các Ngài đã không làm như vậy, thì đời sống và các điều kiện của con người sẽ không tốt đẹp như hiện nay—bởi vì thực ra chúng đầy vẻ đẹp, vẻ đẹp của tiềm năng, đang lơ lửng ở ngưỡng cửa của sự biểu lộ tức thời.

Today, They are working primarily upon the mental plane, dealing with ideas and with their impression upon the minds of Their disciples and advanced humanity; it is the problem of humanity itself, as a whole, to work in the world glamour; it is the responsibility of the aspirants of the world to guide humanity out of the valley of glamour. Men must learn to understand it and eventually—aided by the senior disciples of the world, trained by the Masters of the Wisdom—to transmute and dispel it.

Ngày nay, Các Ngài đang làm việc chủ yếu trên cõi trí, đề cập đến các ý tưởng và đến việc ấn tượng các ý tưởng đó lên thể trí của các đệ tử của Các Ngài và của nhân loại tiến bộ; đối với ảo cảm thế gian, đó là vấn đề của chính nhân loại như một toàn thể; đó là trách nhiệm của những người chí nguyện trên thế giới dẫn nhân loại ra khỏi thung lũng ảo cảm. Con người phải học cách thấu hiểu nó và rốt cuộc—được các đệ tử thâm niên của thế giới, những người được các Chân sư Minh triết đào luyện, trợ giúp—để chuyển hoá và xua tan nó.

You should, therefore, bear in mind that the task before the modern disciple is to carry forward into the New Age the idea of the bringing of glamour and of the great illusion into the light. In the light, it will disappear. In this age, we have mastered, too well perhaps, the forces of nature and have brought out for our own benefit the material resources of the physical plane. We have conquered them and bent them to our will and use, often selfishly, yet sometimes with good and pure intent. In the New Age, a paralleling control will take place [70] over the world of astral phenomena and over the forces of glamour and illusion. We seek to control them today mentally and theoretically. But only the energy of wisdom will suffice to dispel the forces of the world glamour and the world illusion. Practise wisdom, my brothers, and thus aid humanity and shorten its astral struggle.

Vì vậy, các bạn nên ghi nhớ rằng nhiệm vụ trước mặt đệ tử hiện đại là đem vào Kỷ Nguyên Mới ý niệm đưa ảo cảm và đại ảo tưởng ra dưới ánh sáng. Trong ánh sáng, nó sẽ biến mất. Trong thời đại này, chúng ta đã chế ngự, có lẽ quá thành công, các lực thiên nhiên và đã khai thác vì lợi ích riêng các tài nguyên vật chất của cõi hồng trần. Chúng ta đã chinh phục chúng và bẻ cong chúng theo ý chí và lợi dụng của mình, thường là ích kỷ, song đôi khi với ý hướng tốt đẹp và trong sáng. Trong Kỷ Nguyên Mới, sẽ có một kiểm soát song hành diễn ra [70] trên thế giới hiện tượng cảm dục và trên các lực của ảo cảm và ảo tưởng. Chúng ta tìm cách kiểm soát chúng ngày nay một cách trí tuệ và lý thuyết. Nhưng chỉ năng lượng của Minh triết mới đủ để xua tan các lực của ảo cảm thế gian và ảo tưởng thế gian. Hãy thực hành Minh triết, các huynh đệ của tôi, và như thế trợ giúp nhân loại và rút ngắn cuộc vật lộn cảm dục của nó.

Other groups have the task of working with the energy which is the well known and much discussed prana or life energy—the energy of vitality. The right use of the pranic energies (and they are seven in number) will most assuredly dissipate disease and bodily ills and will cure the pains of the human physical vehicle. But in connection with this, two things are essential and these are seldom found together:

Các nhóm khác có nhiệm vụ làm việc với năng lượng vốn được biết đến nhiều và được bàn luận nhiều là prana hay sinh lực—năng lượng sinh khí. Việc sử dụng đúng các năng lượng prana (và chúng có con số bảy) ắt hẳn sẽ làm tiêu tan bệnh tật và tật chứng của thể xác, và sẽ chữa lành các đau đớn của vận cụ hồng trần của con người. Nhưng liên hệ với điều này, có hai điều là thiết yếu và hai điều ấy hiếm khi đi đôi với nhau:

1. The energy of the soul—like the energy of the universal mind and the energy of buddhi, or the intuition—has to be set in action upon the physical plane by the one to be healed and by the healer. Both have to work in cooperation.

1. Năng lượng của linh hồn—như năng lượng của Vũ Trụ Trí và năng lượng của Bồ đề, hay trực giác—phải được khởi động trên cõi hồng trần bởi người được chữa lành và bởi người chữa lành. Cả hai phải làm việc trong hợp tác.

2. There must be right understanding of the disease and its cause, plus the karmic status of the patient and the condition of his centres, his alignment and his point in evolution.

2. Phải có sự thấu hiểu đúng về bệnh và nguyên nhân của nó, cộng với tình trạng nghiệp quả của bệnh nhân và tình trạng các luân xa của người ấy, sự chỉnh hợp của y và điểm tiến hoá của y.

As yet we are only dealing with the a.b.c. of these relatively new sciences and much of our initial work must be of a clarifying nature because there is so much distorted sensing of these occult systems of energy utilisation and so much misuse of these powers.

Hiện giờ, chúng ta chỉ đang xử lý những mẫu tự vỡ lòng của các khoa học tương đối mới mẻ này và nhiều công việc khởi đầu của chúng ta phải mang tính làm sáng tỏ vì có quá nhiều cảm tri sai lệch về những hệ thống huyền môn của sự sử dụng năng lượng, và quá nhiều lạm dụng các quyền năng này.

Other groups are associated in a peculiar manner with the number four, and they are occupied with the bridging work carried forward between the personality and the Monad (the triple lower man and the Spiritual Triad) and also between the lower mind, the soul and the higher mind—thus linking that relatively lower triplicity with the unity, the Spiritual Triad. The fourth kingdom in nature is, in its turn, a bridging kingdom between the three superhuman kingdoms and the three subhuman. Again, the fourth plane (which must be reached by the bridge of light, the antahkarana) is the link between the three higher worlds of spiritual being and the three lower [71] worlds of human endeavour and experience. The energy with which the group of disciples along this line of activity has to work is the Light of the soul, remembering ever that light is substance; their effort is to create—as individuals and also as a group of disciples—a great pathway of light between the personality and the Spiritual Triad (atma-buddhi-manas or spiritual will, intuitive understanding and the higher mind).

Các nhóm khác liên hệ theo một cách đặc biệt với con số bốn, và họ đang bận rộn với công trình bắc cầu được tiến hành giữa phàm ngã và chân thần (phàm ngã tam phân và Tam Nguyên Tinh Thần) và cũng giữa hạ trí, linh hồn và thượng trí—qua đó liên kết bộ ba tương đối thấp đó với nhất thể, tức Tam Nguyên Tinh Thần. Giới thứ tư trong thiên nhiên, đến lượt mình, là một giới bắc cầu giữa ba giới siêu nhân và ba giới hạ nhân. Lại nữa, cõi thứ tư (mà phải được đạt đến bằng chiếc cầu ánh sáng, antahkarana) là mắt xích giữa ba thế giới cao của hiện hữu tinh thần và ba [71] thế giới thấp của nỗ lực và kinh nghiệm nhân loại. Năng lượng mà nhóm đệ tử theo tuyến hoạt động này phải làm việc là Ánh sáng của linh hồn, hãy luôn nhớ rằng ánh sáng là chất liệu; nỗ lực của họ là tạo dựng—như các cá nhân và cũng như một nhóm đệ tử—một đại lộ ánh sáng giữa phàm ngã và Tam Nguyên Tinh Thần (atma–buddhi–manas, tức ý chí tinh thần, sự thấu hiểu trực giác và thượng trí).

I have not dealt with some of the activities of these groups of disciples in the New Age or pointed out the energies with which they must work in order to emphasise again to you the plans for my own groups of disciples. These groups with which I am engaged as part of the activity of my Ashram are essentially Seed Groups. They are intended to be outposts of the hierarchical consciousness as it focusses itself through me in the same sense as an individual accepted disciple is an outpost of his Master’s consciousness in the world. That is the connection which I seek to emphasise—the externalisation of the inner work of the planetary Hierarchy for the first time in history and a precipitation (if you like that term) of an inner and ready condition. The New Age is upon us and the integration of humanity in the three worlds warrants definite changes in technique though not in the basic plans.

Tôi không đề cập đến vài hoạt động của những nhóm đệ tử trong Kỷ Nguyên Mới hay chỉ ra các năng lượng mà họ phải làm việc để lại một lần nữa nhấn mạnh với các bạn các kế hoạch dành cho chính những nhóm đệ tử của tôi. Những nhóm mà tôi đang gắn bó như là một phần hoạt động của Đạo viện của tôi về bản chất là các Nhóm hạt giống. Chúng được định là những tiền đồn của tâm thức Thánh Đoàn khi nó tập trung qua tôi, tương tự như một đệ tử được chấp nhận là tiền đồn của tâm thức Vị Thầy của y trong thế giới. Đó là mối liên hệ mà tôi tìm cách nhấn mạnh—sự ngoại hiện của công việc nội tại của Thánh Đoàn hành tinh lần đầu tiên trong lịch sử và một sự ngưng tụ (nếu các bạn thích thuật ngữ ấy) của một tình trạng nội tại và sẵn sàng. Kỷ Nguyên Mới đã đến với chúng ta và sự tích hợp của nhân loại trong ba cõi giới biện minh cho những thay đổi dứt khoát về kỹ thuật cho dù không thay đổi về các kế hoạch nền tảng.

All this is, however, an experiment and I would remind you that it is an experiment which I and several other initiates are carrying forward as members of a great spiritual organisation. If it is successful and if the spiritual momentum set up by all of you is adequate to the effort made and if you can carry on with persistence and with untiring effort and interest, it may be possible to bring the experimental stage to an end; the Hierarchy can then recognise (as effectively established upon earth) certain focal points of energy which can constitute magnetic centres or rallying points for the new religion, the new medicine, the new psychology and education and the new politics. The potentialities are great. The difficulties are not insuperable, otherwise I would not have been permitted to make this great experiment. We enter into no activities which are obviously fore-ordained to failure. Many experiments are being carried forward today in the world by the various Members of the Hierarchy in Their differing grades and with Their [72] special groups. This effort can prove successful only in so far as the disciples of the world desire it, make the needed sacrifices and think the various objectives into being.

Tất cả điều này, tuy thế, là một cuộc thí nghiệm và tôi muốn nhắc các bạn rằng đó là một thí nghiệm mà tôi và vài vị điểm đạo khác đang tiến hành như những thành viên của một tổ chức tinh thần vĩ đại. Nếu nó thành công và nếu đà tinh thần được tất cả các bạn khởi phát đủ tương xứng với nỗ lực đã thực hiện và nếu các bạn có thể kiên trì tiếp tục với nỗ lực và quan tâm bền bỉ không mệt mỏi, có thể chấm dứt giai đoạn thí nghiệm; bấy giờ, Thánh Đoàn có thể công nhận (như được thiết lập hữu hiệu trên địa cầu) một số điểm hội tụ năng lượng có thể cấu thành các trung tâm từ lực hoặc những điểm tập hợp cho tôn giáo mới, y học mới, tâm lý học và giáo dục mới và chính trị mới. Tiềm năng thì lớn. Những khó khăn không phải là không thể vượt qua, nếu không tôi đã chẳng được phép thực hiện cuộc thí nghiệm lớn lao này. Chúng tôi không tham dự vào những hoạt động nào rõ ràng được định sẵn để thất bại. Nhiều cuộc thí nghiệm đang được tiến hành hôm nay trên thế giới bởi các Thành Viên khác nhau của Thánh Đoàn trong các đẳng cấp khác nhau của Các Ngài và với các [72] nhóm đặc thù của Các Ngài. Nỗ lực này chỉ có thể thành công trong mức độ mà các đệ tử của thế giới mong muốn điều đó, thực hiện các hy sinh cần thiết và tư duy các mục tiêu khác nhau thành hiện hữu.

I am mentioning this at this time because in the press of world affairs, in the struggles of your own individual existence and in the fatigue which is incident to daily work and the consequent physical liabilities, there inevitably comes the cooling down of the earlier ardours and enthusiasm, the tired recognition of the monotony of the demanded effort (with frequent staleness and unenterprising aspiration), which untiring spiritual work demands.

Tôi đang nhắc đến điều này vào lúc này vì giữa cơn bão của thời thế, trong những vật lộn của bản thân đời sống cá nhân các bạn và trong mệt mỏi gắn liền với công việc hằng ngày cùng những hệ lụy thể xác của nó, ắt hẳn sẽ đến sự nguội lạnh của những nhiệt thành và hứng khởi ban sơ, sự thừa nhận mỏi mệt về tính đơn điệu của nỗ lực được đòi hỏi (với sự cũ mòn và khát vọng thiếu tính tiên phong thường xuyên), mà công việc tinh thần không biết mệt mỏi đòi hỏi.

The disciple learns to pay no attention to these recurring cycles and interludes between the pairs of opposites for he recognises their intermittency. I do, however, seek to point out this point of danger—for danger it is—and ask you to go on with the work just “as if” it were entirely new and fascinating.

Người đệ tử học cách không chú ý đến những chu kỳ lặp lại và các khoảng gián đoạn giữa cặp đối đãi, vì y nhận ra tính cách đoạn kỳ của chúng. Tuy nhiên, tôi muốn chỉ rõ điểm nguy hiểm này—vì đó đích thực là nguy hiểm—và yêu cầu các bạn tiếp tục công việc “như thể” nó hoàn toàn mới mẻ và cuốn hút.

It is necessary here for you also to remember that though these groups are intended to be Seedgroups of the New Age, two factors in connection with them should be remembered:

Cũng cần để các bạn nhớ rằng tuy các nhóm này được định là các nhóm hạt giống của Kỷ Nguyên Mới, nhưng hai yếu tố liên quan đến chúng cần được ghi nhớ:

1. They constitute a unique experiment in the sense that—knowing the possibilities and understanding somewhat the forces which are slowly emerging into prominence in a world rapidly adjusting itself to the new rhythms—yet they are primarily an experiment undertaken by me, your Tibetan teacher and a member of a certain standing in the Hierarchy, with the cooperation of certain other initiates. I am not, as I have already told you, the only worker along these lines and these seed groups are not the only units to be found today in the world. There are, for instance, several seed units working out into being within the framework of the Catholic Church, under the inspiration of the Master Jesus. These are, however, somewhat more subjective than are the groups in which I am particularly interested and their emergence is slower but they do exist. There are, also, two such seed groups in China and four in India. I mention this in order to safeguard you against the sense of uniqueness which is the subtle seed of the great heresy of separateness. [73]

1. Chúng cấu thành một thí nghiệm độc đáo theo nghĩa là—biết rõ các khả năng và phần nào thấu hiểu những lực đang chậm rãi trỗi lên nổi bật trong một thế giới đang nhanh chóng tự điều chỉnh theo các nhịp điệu mới—thế nhưng chúng trước hết là một thí nghiệm do tôi, vị Huấn sư Tây Tạng của các bạn và một thành viên có địa vị nhất định trong Thánh Đoàn, đảm trách với sự hợp tác của một vài vị điểm đạo khác. Như tôi đã nói với các bạn, tôi không phải là người duy nhất làm việc theo các đường hướng này và những nhóm hạt giống này cũng không phải là những đơn vị duy nhất hiện diện ngày nay trên thế giới. Chẳng hạn, có một vài đơn vị hạt giống đang đi vào biểu lộ trong khuôn khổ Giáo hội Công giáo, dưới sự linh hứng của Chân sư Jesus. Tuy nhiên, những nhóm này có phần chủ quan hơn các nhóm mà tôi đặc biệt quan tâm và sự xuất lộ của chúng chậm hơn, nhưng chúng hiện hữu. Cũng có hai nhóm hạt giống như vậy ở Trung Hoa và bốn ở Ấn Độ. Tôi nêu điều này để bảo vệ các bạn trước cảm thức về tính độc nhất, vốn là hạt giống vi tế của Đại Tà thuyết của tính phân ly. [73]

2. These groups of disciples are all passing through the formative stage and change and adjustment is going on. Their pattern is still fluid because too many disciples are receptive to the words of the Masters and are less receptive to the ideas upon which They found Their work. This comment warrants your attention. Later, when the needed adjustments are made and groups of disciples can work together without criticism or misunderstanding, then they can pass on to organised group work. This is necessarily dependent upon the general level of the group endeavour, upon their aspiration and their applied persistence. The willingness to work through these groups exists on our side and is found, therefore, upon the inner planes. The providing of an adequate instrument through which we can work must come from you.

2. Những nhóm đệ tử này đều đang đi qua giai đoạn hình thành và những thay đổi, điều chỉnh đang diễn ra. Mô hình của chúng vẫn còn linh động vì có quá nhiều đệ tử tiếp nhận lời của các Chân sư và ít tiếp nhận các ý tưởng mà trên đó Các Ngài xây nền công việc của Các Ngài. Nhận xét này đáng để các bạn lưu tâm. Về sau, khi các điều chỉnh cần thiết được thực hiện và các nhóm đệ tử có thể làm việc cùng nhau mà không phê phán hay hiểu lầm, bấy giờ họ có thể bước sang công việc nhóm có tổ chức. Điều này tất nhiên tùy thuộc vào trình độ chung của nỗ lực nhóm, vào khát vọng của họ và sự bền bỉ được áp dụng của họ. Sự sẵn lòng làm việc qua các nhóm này hiện hữu về phía chúng tôi và do đó được tìm thấy trên các cõi nội. Việc cung cấp một khí cụ đầy đủ qua đó chúng tôi có thể làm việc phải đến từ các bạn.

The time must come, however, when the work of each group of disciples must definitely integrate and thus change from the theoretical and the experimental to the definite and the practical. Then the period of group usefulness will arrive. This will naturally depend upon two things:

Tuy nhiên, phải đến lúc công việc của mỗi nhóm đệ tử phải được tích hợp dứt khoát và như thế chuyển từ tính lý thuyết và thí nghiệm sang tính minh định và thực dụng. Bấy giờ thời kỳ hữu ích của nhóm sẽ đến. Điều này tự nhiên tùy thuộc vào hai điều:

1. When the group reaches a certain stage of synthesis, then it will become possible for the group to work as a group with power.

1. Khi nhóm đạt đến một giai đoạn tổng hợp nhất định, bấy giờ nhóm sẽ có thể làm việc như một nhóm với quyền năng.

2. If the group fails to integrate and to take advantage of group opportunity and the particular call to service, then a re-arrangement of the personnel will be essential. Certain disciples will then have to drop out and those who have not measured up to the requirements, which their souls have set for them, and to the point of attainment towards which I am expectantly looking, will be absorbed into other groups or form the nucleus of a re-organised unit.

2. Nếu nhóm không thể tích hợp và không tận dụng cơ hội nhóm và lời kêu gọi phụng sự đặc thù, bấy giờ việc sắp xếp lại nhân sự sẽ là điều thiết yếu. Một số đệ tử khi ấy sẽ phải rút ra và những ai không đáp ứng các yêu cầu do linh hồn của họ đặt ra cho họ, và điểm thành tựu mà tôi đang trông đợi một cách kỳ vọng, sẽ được thâu nhận vào các nhóm khác hoặc lập nhân cho một đơn vị được tái tổ chức.

All the teaching on the groups of disciples, functioning in the New Age, is intended for all the groups and for general distribution later on. The teaching upon specific group work will be given up to the point where conscious use of it can be made and the knowledge given can be turned to practical purpose in world service. And, my brothers, it is world service that today is needed. [74]

Mọi giáo huấn về các nhóm đệ tử, vận hành trong Kỷ Nguyên Mới, đều được dành cho tất cả các nhóm và để phổ biến chung về sau. Giáo huấn về công việc nhóm đặc thù sẽ được trao đến mức người ta có thể sử dụng một cách ý thức và kiến thức đã cho có thể được chuyển hóa thành mục đích thực hành trong phụng sự thế giới. Và, các huynh đệ của tôi, điều cần thiết hôm nay là phụng sự thế giới. [74]

PART VIII—PHẦN VIII

The Hierarchy is deeply concerned over world happenings. When the war is over, our work must go forward at any and every cost and in the face of every imaginable obstacle. The New Group of World Servers must preserve its integrity and work steadily and undismayed. The steadiness of those who know God’s plan will help humanity and aid the efforts of the Hierarchy. These do not hate and they work for unity—both subjective and eventually objective.

Thánh Đoàn đang vô cùng quan tâm đến các biến cố thế giới. Khi chiến tranh kết thúc, công việc của chúng ta phải tiến lên với bất kỳ và mọi giá nào và đối mặt với mọi chướng ngại có thể tưởng tượng được. Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian phải giữ gìn tính nguyên vẹn của mình và làm việc một cách kiên định, không nao núng. Sự vững vàng của những ai biết Thiên Cơ của Thượng đế sẽ giúp nhân loại và trợ lực nỗ lực của Thánh Đoàn. Những người này không ghét bỏ và họ làm việc vì hợp nhất—cả chủ quan và rốt cuộc cả khách quan.

It is wise for human beings to realise that mankind is free. Even the Hierarchy Itself does not know which forces—those of good or those of evil—will ultimately prevail because even if the forces of good triumph where the war is concerned, will they triumph where the peace is concerned? Good must ultimately triumph but the Hierarchy does not know what the immediate future holds for humanity because men determine their own destiny. The Law of Cause and Effect cannot be offset. In those cases where it has been offset, it has required the intervention of Forces, greater than those available at this time upon our planet. These greater Forces can intervene if the world aspirants and disciples make their voices adequately penetrating….

Con người biết khôn khi nhận ra rằng nhân loại là tự do. Ngay cả chính Thánh Đoàn cũng không biết những lực nào—của thiện hay của ác—rốt cuộc sẽ thắng thế, bởi vì ngay cả nếu các lực thiện thắng thế trong chuyện chiến tranh, liệu họ có thắng thế trong chuyện hòa bình chăng? Thiện cuối cùng ắt phải thắng, nhưng Thánh Đoàn không biết tương lai trước mắt dành cho nhân loại là gì bởi vì con người tự định đoạt vận mệnh của mình. Định luật Nhân Quả không thể hóa giải. Trong những trường hợp nó đã được hóa giải, điều đó đòi hỏi sự can thiệp của các Lực vĩ đại hơn những lực hiện đang có vào lúc này trên hành tinh của chúng ta. Những Lực lớn hơn này có thể can thiệp nếu những người chí nguyện và đệ tử của thế giới làm cho tiếng nói của họ đủ sức xuyên thấu….

In this time of stress and strain, my brothers, I would remind you that there is no need for the sense of futility or for the registration of littleness. The new groups of disciples are Seed Groups; they are in the dark or growing stage and in the process of expansion—growing silently. This stage is most important for, according to the healthiness of the seed and its ability to cast strong roots downwards and to penetrate slowly and steadily upwards towards the light, so will be the adequacy of the contribution to the New Age which is upon us. I would emphasise that fact to you. The New Age is upon us and we are witnessing the birth pangs of the new culture and the new civilisation. That which is old and undesirable must go and of these undesirable things, hatred and the spirit of separateness must be the first to disappear.

Trong thời kỳ căng thẳng và áp lực này, các huynh đệ của tôi, tôi muốn nhắc các bạn rằng không cần có cảm thức vô hiệu hay việc ghi nhận sự bé nhỏ. Những nhóm đệ tử mới là các Nhóm hạt giống; họ đang ở trong giai đoạn tối tăm hay tăng trưởng và trong tiến trình khai triển—tăng trưởng trong im lặng. Giai đoạn này là rất quan trọng vì, tùy theo sức khỏe của hạt giống và khả năng của nó cắm rễ mạnh xuống dưới và thâm nhập chậm rãi, kiên định hướng lên ánh sáng, mức đóng góp cho Kỷ Nguyên Mới đang đến với chúng ta sẽ tương xứng. Tôi muốn nhấn mạnh với các bạn thực tế đó. Kỷ Nguyên Mới đang đến với chúng ta và chúng ta đang chứng kiến cơn đau sinh nở của nền văn hóa và nền văn minh mới. Những gì cũ và bất đáng phải ra đi và trong những điều bất đáng đó, hận thù và tinh thần phân ly phải là những thứ đầu tiên biến mất.

The main objective of our joint work is still group integration and the setting up of that inter-communication between [75] the group members which will result in the needed interplay and telepathic communication; this will finally establish that golden network of light which will serve to create a powerful focal point; this focal point will be the agent for the revitalisation spiritually of the etheric body of humanity—as a whole. This is an essential and important statement. This focal point will, in its turn, aid in the revitalising of the etheric body of the planet with new power and with fresh impulse.

Mục tiêu chính của công việc chung của chúng ta vẫn là tích hợp nhóm và thiết lập sự liên-giao tiếp giữa [75] các thành viên nhóm vốn sẽ đưa đến sự tương tác cần thiết và giao tiếp viễn cảm; điều này cuối cùng sẽ thiết lập mạng lưới vàng của ánh sáng, vốn sẽ tạo nên một điểm hội tụ mạnh mẽ; điểm hội tụ này sẽ là tác nhân cho sự tiếp sinh lực theo phương diện tinh thần của thể dĩ thái của nhân loại—như một toàn thể. Đây là một tuyên bố cốt yếu và quan trọng. Điểm hội tụ này, đến lượt nó, sẽ trợ giúp trong việc tiếp sinh lực cho thể dĩ thái của hành tinh bằng quyền năng mới và xung lực tươi mới.

I have for several years attempted to be your teacher, your Master and, I think I may say, your friend. There has been established between us a very strong link of love and understanding upon my part and a proved sincerity and a definite wish to cooperate on yours. What is my attitude towards you?

Trong vài năm qua, tôi đã cố gắng làm huấn sư của các bạn, Chân sư của các bạn và, tôi nghĩ là tôi có thể nói, bạn hữu của các bạn. Đã được thiết lập giữa chúng ta một mối dây liên kết rất mạnh mẽ của tình thương và sự thấu hiểu nơi phần tôi, và nơi phần các bạn là sự thành thực đã được minh chứng và một ước muốn dứt khoát để hợp tác. Thái độ của tôi đối với các bạn là gì?

As individuals, you may be of small importance; as units in the group which I am preparing and training for definite service in future lives even more than in this, you are of sufficient moment to warrant my interest. A group is no more powerful than its weakest link and a group suffers esoterically and as a whole and its power is definitely curtailed when one member fails to measure up to opportunity or recedes into the glamours of the personality. This you have seen happen. As individuals I seek to help you but only with a view to your group integration, to your group influence and understanding and your group love, plus the strength which you can each bring to the whole.

Với tư cách là những cá nhân, có thể các bạn chỉ giữ tầm quan trọng nhỏ; nhưng với tư cách là những đơn vị trong nhóm mà tôi đang chuẩn bị và huấn luyện để phụng sự dứt khoát trong các kiếp tương lai nhiều hơn cả trong kiếp này, các bạn đủ quan trọng để đáng cho tôi quan tâm. Một nhóm không bao giờ mạnh hơn mắt xích yếu nhất của nó và một nhóm chịu khổ theo huyền bí học và như một toàn thể, và quyền năng của nó chắc chắn bị cắt giảm khi một thành viên không biết nắm bắt cơ hội hoặc rơi trở lại vào các ảo cảm của phàm ngã. Điều này các bạn đã thấy xảy ra. Với tư cách cá nhân tôi tìm cách giúp các bạn nhưng chỉ nhằm mục đích tích hợp nhóm của các bạn, ảnh hưởng và sự hiểu biết nhóm của các bạn và tình thương nhóm của các bạn, cùng với sức mạnh mà mỗi người trong các bạn có thể mang đến cho toàn thể.

I, therefore, appeal to you, as a group, for an intensification of your group love, purpose and service so that the inner, subjective integration may proceed apace. I have three things to say to you today as a group:

Do đó, tôi kêu gọi các bạn, như một nhóm, hãy tăng cường tình thương nhóm, mục đích và phụng sự nhóm để cho sự tích hợp nội tại, chủ quan có thể tiến triển nhanh chóng. Hôm nay tôi có ba điều muốn nói với các bạn như một nhóm:

First of all, the strength or the weakness of this group of disciples will lie in the fact that the individuals who compose it are not only egoically linked but that there is also a strong personality tie (with all the weaknesses which that may entail) and a deep, if unrealised, affection between each and all of you, even if you have not met each other. The strength of this situation is found in the fact that this condition of unconscious friendship is to be found as the result of many lives of close association in the work and also in past personality relations and family ties. The weakness exists in the fact that this situation [76] is apt to make the group personal in its reactions. This group of disciples is intrinsically an entity on all the three levels of the three worlds—physical, emotional and mental—and there is a soul tie as well.

Trước hết, sức mạnh hay sự yếu kém của nhóm đệ tử này sẽ nằm ở chỗ những cá nhân tạo thành nhóm không chỉ được liên kết ở bình diện chân ngã mà còn có một mối liên hệ phàm ngã mạnh mẽ (với tất cả những yếu kém mà điều đó có thể kéo theo) và một tình thân sâu sắc, dù chưa được nhận biết, giữa từng người và tất cả các bạn, cho dù các bạn chưa từng gặp nhau. Sức mạnh của tình huống này nằm ở chỗ điều kiện hữu nghị vô thức ấy là kết quả của nhiều kiếp gắn bó gần gũi trong công việc và cũng do các mối quan hệ phàm ngã trong quá khứ và các ràng buộc gia đình. Điểm yếu nằm ở chỗ tình huống này [76] dễ khiến nhóm có những phản ứng mang tính cá nhân. Nhóm đệ tử này tự thân là một thực thể ở cả ba cấp của ba cõi—hồng trần, cảm dục và trí tuệ—và cũng có một mối dây liên kết linh hồn.

I would like also to impress upon you a second point. It is of apt application in the strenuous conditions which prevail at this time. In the stress and strain of your group work let each of you bear in mind, for your encouragement, joy and dedicatory incentive, that you are in this particular group of disciples for preparatory training for initiation. I am entering upon an experiment in group initiation and this is somewhat a new enterprise for the Hierarchy to undertake, though in line with evolutionary development. In future ages, men and women will pass through the Portal of Initiation together, instead of alone and singly as has hitherto been the case. Group progress can, therefore, in this connection be furthered or held back by the effort of the individual group member. A member’s difficulties can be enhanced by the united group stimulation; his strength and effectiveness can be increased by the strength, the power and the understanding of the group. Your united responsibility is, therefore, great and your opportunity for rapid progress is real and definitely unusual. When together you pass through the Portal and I present you to Those Whose task it is to lead you on your next step, there should eventuate such an enhancement of your powers to love, to intuit and to serve, that life will never again appear to be the same thing. You will grasp with surety then what now you dimly sense, and realise the wonder of group love, of group intuition and of group service; you will thus undergo a joint illumination, a shared response and a united effort. You will comprehend then that a line of exclusion may spiritually exist, indicating those who can pass on to the preparatory stage of group initiation and those who must approach that great event singly and alone. These latter belong predominantly to the Piscean Age. They take initiation as separate identities; you can take initiation in group formation.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh với các bạn một điểm thứ hai. Điểm này rất thích hợp trong các điều kiện gắt gao đang ngự trị lúc này. Trong sức ép và căng thẳng của công việc nhóm, mỗi người các bạn hãy ghi nhớ, để được khích lệ, hoan hỷ và có động cơ cung hiến, rằng các bạn thuộc nhóm đệ tử đặc thù này để được huấn luyện chuẩn bị cho điểm đạo. Tôi đang bắt tay vào một cuộc thí nghiệm điểm đạo theo nhóm và đây có phần nào là một công việc mới mẻ để Thánh Đoàn đảm đương, dù vẫn phù hợp với phát triển tiến hóa. Trong những thời đại tương lai, những người nam và nữ sẽ cùng nhau đi qua Cổng Điểm Đạo, thay vì một mình và đơn lẻ như vẫn thường xảy ra cho đến nay. Tiến triển theo nhóm, do đó, trong mối liên hệ này có thể được thúc đẩy hoặc bị cản trở bởi nỗ lực của từng thành viên nhóm. Khó khăn của một thành viên có thể bị tăng cường bởi sự kích thích hợp nhất của nhóm; sức mạnh và hiệu quả của y có thể được gia tăng bởi sức mạnh, quyền năng và sự thấu hiểu của nhóm. Trách nhiệm hợp nhất của các bạn, do đó, là lớn, và cơ hội tiến bộ mau chóng của các bạn là có thật và hết sức khác thường. Khi cùng nhau các bạn đi qua Cổng, và tôi trình các bạn lên Các Đấng có nhiệm vụ dẫn dắt các bạn bước tiếp theo, khi ấy quyền năng yêu thương, trực giác và phụng sự của các bạn sẽ được tăng cường đến mức cuộc đời sẽ không bao giờ còn hiện ra như trước nữa. Khi đó các bạn sẽ nắm bắt cách chắc chắn điều hiện nay các bạn chỉ mơ hồ cảm nhận, và nhận ra điều kỳ diệu của tình thương nhóm, của trực giác nhóm và của phụng sự nhóm; như vậy các bạn sẽ trải qua một sự soi sáng chung, một đáp ứng được chia sẻ và một nỗ lực hợp nhất. Khi đó các bạn sẽ hiểu rằng có thể tồn tại một đường ranh loại trừ về mặt tinh thần, chỉ ra những ai có thể tiến vào giai đoạn chuẩn bị của điểm đạo theo nhóm và những ai phải tiếp cận biến cố vĩ đại ấy một cách đơn lẻ. Những người sau chủ yếu thuộc về Thời đại Song Ngư. Họ thọ điểm đạo như những ngã thể riêng biệt; còn các bạn có thể thọ điểm đạo trong hình thức nhóm.

None of us who do the work of preparing candidates for initiation are in a position to pronounce as to time; that has to be determined by each individual aspirant. See to it, however, [77] as individuals, that your group is not held back through your inability to see, by your personal glamours, by your individual problem or by your slow reactions to known truth.

Không ai trong chúng tôi—những người làm công việc chuẩn bị các ứng viên cho điểm đạo—ở vị thế có thể ấn định về thời điểm; điều đó phải do mỗi người chí nguyện tự xác định. Tuy nhiên, hãy lưu ý [77] với tư cách cá nhân rằng nhóm của các bạn đừng bị níu lại vì sự bất lực của các bạn trong việc thấy ra, vì các ảo cảm cá nhân, vì vấn đề riêng của các bạn hoặc vì phản ứng chậm chạp của các bạn trước chân lý đã biết.

The third thing that I want to say is that whatever your particular status on the Path at this time, I shall seek to help you as in the past. I shall speak the truth as I see it from my particular vantage point. Upon your blindness in certain directions, I shall seek to throw a light. I shall point out your weaknesses—if I can get your sincere attention. These weaknesses exist. You are not yet initiate, and you have faults, limitations, points of darkness and much inertia and at the same time self-satisfaction. The tendency to self-defence is strong in some of you and this produces an unwillingness to recognise faults or even to admit, hypothetically, that faults may be present. The tendency to self-depreciation is strong in others and it produces that over-emphasis of the personality and that constant thought about the personality which is so detrimental to real progress. In these tendencies (which are so usual) there lies real danger for the would-be initiate. I warn you to watch for the indications of these conditions and to assume an attitude of willingness to listen and to admit the possibility of failure in the one case and of self-forgetfulness in the other. Look yourselves and life squarely in the face and fearlessly see things as they are in truth. Do this not because it is I who am suggesting to you that a situation may be thus or so but because you are willing to face up to facts and are ready for unexpected discoveries about yourselves. One of the first lessons which a disciple needs to learn is that where he thinks he is strongest and where he finds the most satisfaction is very frequently the point of greatest danger and of weakness. Astral conditions are oft seen reversed; hence the glamour which often overcomes a disciple.

Điều thứ ba tôi muốn nói là: bất kể địa vị riêng của các bạn trên Thánh Đạo lúc này ra sao, tôi sẽ tìm cách giúp các bạn như trước. Tôi sẽ nói sự thật như tôi thấy từ điểm nhìn đặc thù của mình. Đối với sự mù lòa của các bạn ở vài phương diện, tôi sẽ tìm cách soi sáng. Tôi sẽ chỉ ra các yếu kém của các bạn—nếu tôi có thể thu hút được sự chú tâm chân thành của các bạn. Những yếu kém ấy tồn tại. Các bạn chưa phải là điểm đạo đồ, và các bạn có các lỗi lầm, giới hạn, những điểm tối tăm và rất nhiều trì trệ, đồng thời lại tự mãn. Khuynh hướng tự biện hộ mạnh nơi một số bạn và điều này tạo ra sự không sẵn lòng công nhận lỗi lầm hoặc thậm chí thừa nhận—dù giả định—rằng có thể có lỗi lầm. Khuynh hướng tự hạ thấp mạnh nơi số khác, và điều đó dẫn tới sự nhấn mạnh quá mức vào phàm ngã và sự suy tư không ngừng về phàm ngã, điều rất phương hại cho tiến bộ thực sự. Trong các khuynh hướng này (vốn rất thường gặp) có một mối nguy thực sự cho người muốn trở thành điểm đạo đồ. Tôi cảnh báo các bạn hãy coi chừng những dấu hiệu của các tình trạng ấy và hãy có thái độ sẵn lòng lắng nghe và thừa nhận khả năng thất bại trong trường hợp thứ nhất, và thái độ tự-quên mình trong trường hợp thứ hai. Hãy nhìn thẳng bản thân và cuộc đời, không sợ hãi, và thấy mọi sự như chúng thật là. Hãy làm điều này không phải vì tôi đang gợi ý với các bạn rằng tình huống có thể như thế này hay thế kia mà vì các bạn sẵn sàng đối diện với thực tế và sẵn sàng cho những phát hiện bất ngờ về chính mình. Một trong những bài học đầu tiên mà một đệ tử cần học là: nơi nào y nghĩ y mạnh nhất và nơi nào y tìm thấy sự mãn nguyện nhất thì rất thường lại chính là điểm nguy hiểm và yếu kém nhất. Các tình trạng cảm dục thường được nhìn thấy theo kiểu đảo ngược; do đó mới có ảo cảm thường chế ngự một đệ tử.

In this connection, my brothers, I will admit you into a piece of personal history and one which is quite ordinary in the life of a disciple. It may serve to carry its lesson and its warning. Several lives ago, my Master saw in me a weakness. It was one of which I was quite unaware and it was in fact a quality which I regarded as a strength and which I hugged to myself as a virtue. I was then a young man, anxious to help my Master and humanity but, in the last analysis, I was very keen about myself as an aspirant and very pleased with myself—cloaking this satisfaction under the garb of a reiterated humility. The Master poured into me His strength and energy and so stimulated me that what I thought was a virtue and what I had denied and repudiated as a vice, proved my undoing. I symbolically crashed to earth through the very weight of my weakness. You might well ask what this weakness was? It was my love for my Master which was my undoing. He pointed out to me after the failure that my love for Him was in reality based upon pride in myself and a profound satisfaction with myself as an aspirant and a disciple. This I violently denied and was grieved that He should so misunderstand me. I proved Him to be right, eventually, through a life of failure and the depth of my egotism. I learnt through that failure but I lost much time from the standpoint of useful service. I found that I was really serving myself and not humanity. From similar mistakes, I seek to save you, for time is a great factor in service. For the masses of humanity, time is not of very great importance; but for the servers of the race, it matters much. Lose not time, therefore, in undue self-analysis, self-depreciation or self-defence. Go forward with discrimination where your unfoldment is concerned, and with love and understanding where your group is concerned. Where I, your teacher, am concerned, give to my words the attention which is due and endeavour to cooperate with me. I shall then some day have the joy of welcoming you to the “Secret Place” where all true servers and initiates must eventually meet and unite.

Trong mối liên hệ này, các huynh đệ của tôi, tôi sẽ cho các bạn biết một mẩu lịch sử cá nhân và điều này khá bình thường trong đời một đệ tử. Nó có thể mang theo bài học và lời cảnh báo của nó. Vài kiếp trước, Chân sư của tôi thấy nơi tôi một điểm yếu. Đó là điều mà tôi hoàn toàn không hề biết và thực ra là một phẩm tính mà tôi xem như sức mạnh và tôi ôm ấp nó như một đức hạnh. Lúc ấy tôi là một thanh niên, nóng lòng giúp Chân sư và nhân loại nhưng, xét đến cùng, tôi lại rất quan tâm đến chính mình như một người chí nguyện và rất hài lòng về bản thân—che đậy sự thỏa mãn này dưới chiếc áo của một sự khiêm tốn được lặp đi lặp lại. Chân sư đã tuôn đổ vào tôi Sức mạnh và Năng lượng của Ngài và kích thích tôi đến mức điều mà tôi cho là một đức hạnh, và điều mà tôi đã phủ nhận và bác bỏ như một thói xấu, hóa ra lại là nguyên nhân khiến tôi thất bại. Tôi, theo nghĩa biểu tượng, đã rơi nhào xuống đất bởi chính sức nặng của điểm yếu mình. Các bạn có thể hỏi: điểm yếu ấy là gì? Đó là tình yêu của tôi dành cho Chân sư—điều đã khiến tôi thất bại. Sau thất bại, Ngài chỉ ra với tôi rằng tình yêu của tôi dành cho Ngài thực sự dựa trên lòng kiêu hãnh về bản thân và sự mãn nguyện sâu sắc của tôi với chính mình như một người chí nguyện và một đệ tử. Điều này tôi đã kịch liệt phủ nhận và buồn lòng vì Ngài lại hiểu lầm tôi như thế. Rốt cuộc, tôi đã chứng minh Ngài đúng qua một kiếp sống thất bại và qua chiều sâu của tính vị ngã nơi tôi. Tôi đã học nhờ thất bại ấy nhưng tôi đã mất nhiều thời gian xét từ quan điểm phụng sự hữu ích. Tôi nhận ra rằng tôi thực sự đang phụng sự chính mình chứ không phải nhân loại. Khỏi những sai lầm tương tự, tôi tìm cách cứu các bạn, vì thời gian là một yếu tố trọng yếu trong phụng sự. Đối với quần chúng nhân loại, thời gian không quá quan trọng; nhưng đối với những người phụng sự cho giống dân, thời gian lại rất hệ trọng. Do đó, đừng lãng phí thời gian vào việc tự-phân tích quá mức, tự-hạ thấp hay tự-biện hộ. Hãy tiến bước với sự phân biện nơi tiến triển của các bạn, và với tình thương cùng sự thấu hiểu nơi mối quan hệ nhóm của các bạn. Đối với tôi, vị huấn sư của các bạn, hãy dành cho lời tôi sự chú ý xứng đáng và nỗ lực hợp tác với tôi. Rồi một ngày nào đó tôi sẽ có niềm vui đón chào các bạn đến “Nơi Bí Mật” nơi tất cả các người phụng sự chân chính và các điểm đạo đồ rốt cuộc phải gặp gỡ và hợp nhất.

I have revealed to you, my disciples, my true name. The necessity for eradicating all reason for the speculative questioning of some of you as to my identity and of spurring others of you on to renewed and consecrated effort are two of my reasons for relinquishing my anonymity. Another reason is that I would have you recognise the fact that you are accepted disciples with all that that status necessarily implies of responsibility and opportunity. Still another deciding factor with me is to test out your ability to keep silent until it is no longer necessary to do so. Silence is one of the prime prerequisites for initiation and something which every disciple must perforce learn. There is, therefore, the necessity for the test. Many of [79] you are already interiorly convinced of my identity. You have not voiced your belief in this connection except to A.A.B. who has not responded with any corroborating evidence or comments. If you cannot be trusted to keep silence and to preserve a detached and independent attitude, then you are not ready for that which I have to give and the sooner we discover this the better. If you are unable to retain a silent tongue—even among yourselves—then you are unfit to be trusted and that I should dislike to believe. If, when you have discovered who I am, you question the wisdom of my decision to reveal myself to you and hold that I should have withheld my identity, then that too will be revealing and will guide me in all my future approaches to you. If knowledge of who I am leads you into the dangerous path of the devotee, it will be good for you to discover that tendency within yourself; if you henceforth over-emphasise the importance of my words and if you fall into the dangerous habit of accepting authority, your weakness will stand revealed to me, to yourself, and to your group brothers. We shall all profit thereby. You will have discovered an innate weakness which discovery of my identity will have drawn forth; if you are burdened by the knowledge, then you must learn to carry burdens or else you will be of no use as a world server. The fact that I am a Master alters me not. I am still your Tibetan Teacher and the same Instructor who has taught you for many years. I remain the same individual and am in no wise different. Any reaction upon your part will be a personality reaction and, therefore, to be recognised, dealt with and finally subdued.

Tôi đã tiết lộ cho các bạn, những đệ tử của tôi, tên thật của tôi. Nhu cầu xóa bỏ mọi lý do cho việc một số bạn suy đoán về căn cước của tôi và kích lệ một số bạn dấn bước nỗ lực mới mẻ và thánh hiến là hai trong những lý do khiến tôi từ bỏ tính ẩn danh của mình. Một lý do nữa là tôi muốn các bạn nhận ra rằng các bạn là những đệ tử chính thức với tất cả những gì địa vị ấy tất nhiên hàm ý về trách nhiệm và cơ hội. Một yếu tố quyết định nữa đối với tôi là thử thách khả năng của các bạn trong việc giữ im lặng cho đến khi không còn cần thiết phải làm như vậy. Im lặng là một điều kiện tiên quyết hàng đầu cho điểm đạo và là điều mà mỗi đệ tử buộc phải học. Do đó, có nhu cầu cho bài kiểm tra. Nhiều người trong các bạn [79] đã được xác tín bên trong về căn cước của tôi. Các bạn chưa bày tỏ niềm tin ấy ngoại trừ với A.A.B., người đã không đáp lại bằng bất kỳ bằng chứng hay bình luận xác nhận nào. Nếu các bạn không thể được tin cậy để giữ im lặng và bảo tồn một thái độ tách rời và độc lập, thì các bạn chưa sẵn sàng cho những gì tôi phải trao và chúng ta càng sớm phát hiện điều này càng tốt. Nếu, khi các bạn khám phá tôi là ai, các bạn đặt vấn đề về sự khôn ngoan trong quyết định tự bộc lộ của tôi và cho rằng lẽ ra tôi nên giữ kín căn cước, thì điều đó cũng sẽ mang tính mặc khải và sẽ hướng dẫn tôi trong mọi cách tiếp cận tương lai với các bạn. Nếu tri thức về tôi là ai dẫn các bạn vào con đường nguy hiểm của người sùng tín, thì việc khám phá khuynh hướng ấy nơi bản thân các bạn sẽ là điều tốt; nếu từ đây các bạn nhấn mạnh quá mức tầm quan trọng của lời tôi và rơi vào thói nguy hiểm là chấp nhận thẩm quyền, thì điểm yếu của các bạn sẽ hiển lộ với tôi, với chính các bạn và với các huynh đệ nhóm của các bạn. Tất cả chúng ta sẽ nhờ đó mà được lợi. Các bạn sẽ phát hiện một điểm yếu bẩm sinh mà việc khám phá căn cước của tôi đã khơi ra; nếu các bạn cảm thấy gánh nặng vì tri thức ấy, vậy thì các bạn phải học cách mang gánh nặng—nếu không các bạn sẽ vô dụng như một người phụng sự thế gian. Sự kiện tôi là một Chân sư không làm tôi thay đổi. Tôi vẫn là vị Đạo Sư người Tây Tạng của các bạn và vẫn là cùng một vị Huấn sư đã dạy các bạn nhiều năm qua. Tôi vẫn là cùng một cá nhân và hoàn toàn không khác đi. Mọi phản ứng từ phía các bạn sẽ là phản ứng của phàm ngã và, do đó, cần được nhận ra, xử lý và sau cùng được khuất phục.

Let us go forward together, my brothers and chelas, along the path of service; let us together enter into the Light and tread the way to world peace and not to personal illumination—illumination is inevitable but incidental.

Chúng ta hãy cùng tiến bước, các huynh đệ của tôi và các đệ tử, trên con đường phụng sự; chúng ta hãy cùng bước vào Ánh sáng và bước đi trên con đường đến hòa bình thế giới chứ không phải đến sự soi sáng cá nhân—sự soi sáng là tất yếu nhưng chỉ là thứ yếu.

As regards all of you—with what have I to deal? An untested group, a static group, a critical group and a group subject to pronounced glamours—such is the material with which I must carry forward my work. What can I do in such a situation, my brothers? I can trust your devotion to humanity, your willingness to learn and your determination to proceed along the path of service at any cost. This I will most certainly do. [80]

Về tất cả các bạn—tôi phải đối diện với điều gì? Một nhóm chưa được khảo nghiệm, một nhóm tĩnh tại, một nhóm hay phê phán và một nhóm chịu các ảo cảm nổi trội—đó là chất liệu mà với nó tôi phải tiếp tục công việc của mình. Trong tình huống như vậy, tôi có thể làm gì, các huynh đệ của tôi? Tôi có thể tin vào lòng tận tụy của các bạn đối với nhân loại, vào sự sẵn lòng học hỏi của các bạn và vào quyết tâm tiến bước trên con đường phụng sự bằng mọi giá. Điều này, chắc chắn tôi sẽ làm. [80]

I would like to deal, first of all, with the objectives that I have in mind for all of you:

Trước hết, tôi muốn đề cập đến các mục tiêu tôi đang ghi tâm cho tất cả các bạn:

1. The main present objective.

1. Mục tiêu chủ yếu hiện tại.

I seek to bring about a much needed group integration. The polarisation of this group—as a unity upon the mental plane—is not yet accomplished. It is most needed and until this integration has been achieved, the united group inter-communication will not be possible or the desired group work capable of accomplishment. Several of you need to do some careful thinking and should align yourselves in love with your fellow disciples, eliminating all sense of criticism and personal self-satisfaction in your own judgment and rectitude.

Tôi tìm cách tạo ra một sự tích hợp nhóm rất cần thiết. Sự phân cực của nhóm này—như một đơn vị trên cõi trí—vẫn chưa được hoàn tất. Điều đó là hết sức cần thiết và cho đến khi sự tích hợp này đạt được, giao tiếp hợp nhất trong nhóm sẽ không thể có, cũng như công việc nhóm mong muốn sẽ không thể hoàn thành. Vài người trong các bạn cần suy tư cẩn thận và nên chỉnh hợp mình trong tình thương với các huynh đệ đồng môn, loại bỏ mọi cảm thức phê phán và mọi sự tự mãn cá nhân trong phán đoán và tính ngay thẳng của riêng mình.

2. The future objective of these ashramic groups.

Mục tiêu tương lai của các nhóm ashram.

It is fundamentally necessary that the new groups which are inaugurating the new discipleship should eventually establish a telepathic rapport with each other. Later, when there is a closer individual inter-relation, it will be possible to give definite teaching which will make this increasingly possible, but in the meantime a hint will have to suffice. It is foundational in nature and will have to be accepted and somewhat understood prior to successful work in all these pioneering groups.Think outwardly towards each other in love. Just simply that, my brothers—simply and humbly that and no more than that at present. Can you accept such a simple rule—apparently simple? In this way the etheric body of this group of disciples will be animated by the golden energy and the light of love and thus a network of light will be established which will form a focal point of energy in the etheric body of humanity itself and eventually in the planetary etheric body also.

Về nền tảng, các nhóm mới đang khai mở địa vị đệ tử mới rốt cuộc phải thiết lập một mối tương giao viễn cảm với nhau. Về sau, khi có sự liên hệ cá nhân gần gũi hơn, sẽ có thể ban cho giáo huấn dứt khoát khiến điều này ngày càng khả thi, nhưng trong lúc này một gợi ý phải đủ. Nó mang tính nền tảng và sẽ phải được chấp nhận và phần nào được thấu hiểu trước khi có thể làm việc thành công trong tất cả các nhóm tiên phong này. Hãy nghĩ hướng ra ngoài về nhau trong tình thương. Chỉ đơn giản thế thôi, các huynh đệ của tôi—đơn giản và khiêm nhường thế thôi, và hiện tại không hơn thế. Các bạn có thể chấp nhận một quy tắc đơn giản như vậy—có vẻ đơn giản? Bằng cách này, thể dĩ thái của nhóm đệ tử này sẽ được làm sinh động bởi năng lượng vàng và ánh sáng của tình thương, và như thế một mạng lưới ánh sáng sẽ được thiết lập, hình thành một điểm hội tụ năng lượng trong thể dĩ thái của chính nhân loại và rốt cuộc cũng trong thể dĩ thái hành tinh.

3. The general group objective.

Mục tiêu nhóm nói chung.

This is the shifting of consciousness of all integrated human beings in increasingly large numbers on to the etheric levels of consciousness and activity. This entails conscious work on those levels as energy units, each contributing his individual share and his special quota of energy to the sum total of available etheric energy and doing this both consciously and intelligently. When this is done, the man is then ready for the first initiation [81] and is a true occultist—working with energy under hierarchical guidance.

Đó là chuyển dịch tâm thức của tất cả những con người đã được tích hợp, với số lượng ngày càng lớn, lên các cấp độ dĩ thái của tâm thức và hoạt động. Điều này đòi hỏi công việc có ý thức trên các cấp độ ấy như những đơn vị năng lượng, mỗi người đóng góp phần riêng của mình và phần hạn ngạch năng lượng đặc thù của mình vào tổng toàn năng lượng dĩ thái sẵn có, và làm điều này vừa một cách có ý thức vừa một cách thông tuệ. Khi điều này được thực hiện, con người khi ấy sẵn sàng cho lần điểm đạo thứ nhất [81] và là một nhà huyền bí học chân chính—làm việc với năng lượng dưới sự hướng dẫn của Thánh Đoàn.

4. The individual objective.

4. Mục tiêu cá nhân.

This necessitates the preparation of the life and consciousness for this new process of group initiation. This group initiation is itself of real import and is dependent upon the unit in the group fitting himself for initiation and at the same time learning to subordinate his spiritual ambition and desires to the group pace and to the necessity of right timing where his fellow disciples are concerned. It involves, therefore, a dual attitude towards the processes of initiation: the adapting of oneself to the needed integration and, secondly, to the development of spiritual responsiveness to impressions from the level of the soul and of the spiritual Hierarchy. It also involves the cultivation of judgment and of wisdom in the establishment of a right inter-relation with the group of disciples so that the group—in this case my group of disciples and definitely a group entity—may move on together. This necessitates the same conditions for the group as always exist for the individual: right integration on the three personality levels and also on soul levels, plus right group impression or responsiveness to the spiritual and higher psychic “gift waves”—as Tibetan occultists call them.

Điều này đòi hỏi sự chuẩn bị đời sống và tâm thức cho tiến trình điểm đạo theo nhóm mới này. Chính điểm đạo theo nhóm này là điều thật sự quan trọng và tùy thuộc vào việc đơn vị trong nhóm tự trang bị mình cho điểm đạo, đồng thời học cách đặt tham vọng và ước muốn tinh thần của mình quy phục nhịp độ của nhóm và nhu cầu về đúng thời điểm đối với các huynh đệ đồng môn. Do đó, nó bao hàm một thái độ kép đối với các tiến trình điểm đạo: một là tự thích nghi với sự tích hợp cần thiết và hai là phát triển khả năng đáp ứng tinh thần với các ấn tượng từ bình diện của linh hồn và của Thánh Đoàn tinh thần. Nó cũng bao hàm việc trau dồi phán đoán và minh triết trong việc thiết lập một mối liên hệ đúng đắn với nhóm đệ tử để cho nhóm—trong trường hợp này là nhóm đệ tử của tôi và chắc chắn là một thực thể nhóm—có thể cùng nhau tiến bước. Điều này đòi hỏi những điều kiện tương tự cho nhóm như luôn luôn tồn tại đối với cá nhân: sự tích hợp đúng trên ba cấp độ của phàm ngã và cũng thế trên các cấp của linh hồn, cộng với ấn tượng nhóm đúng hoặc là khả năng đáp ứng đối với các “làn sóng ban tặng” tâm linh và tâm linh cao hơn—như các nhà huyền bí học Tây Tạng gọi chúng.

This will take many years and the work of achieving finished group attitudes and relationships through individual understanding and true impersonality can go forward upon the physical plane whilst in incarnation, or it can go on out of incarnation with the same facility. You must always bear in mind that the consciousness remains the same, whether in physical incarnation or out of incarnation, and that development can be carried on with even greater ease than when limited and conditioned by the brain consciousness.

Điều này sẽ mất nhiều năm và công việc đạt tới những thái độ và các mối liên hệ nhóm hoàn chỉnh thông qua sự thấu hiểu cá nhân và tính vô ngã chân thực có thể được triển khai trên cõi hồng trần trong khi đang nhập thể, hoặc có thể tiếp tục ngoài xác phàm với cùng mức dễ dàng. Các bạn phải luôn ghi nhớ rằng tâm thức vẫn như nhau, dù ở trong xác phàm hay ngoài xác phàm, và sự phát triển có thể được tiến hành còn dễ dàng hơn khi không bị trí não giới hạn và điều kiện hóa.

The attainment of these objectives will involve clear vision and a keen and intelligent understanding; it will require the steady and conscious intensification of group love and group interplay; it will lead all disciples to live lives full of wise purpose and planned spiritual objectives and, at the same time, the service rendered will assume a definite and an automatic technique of expression. [82]

Việc đạt tới các mục tiêu này sẽ đòi hỏi nhãn quang rõ ràng và một sự thấu hiểu sắc bén, thông tuệ; nó sẽ đòi hỏi sự tăng cường đều đặn và có ý thức của tình thương nhóm và sự tương tác nhóm; nó sẽ dẫn tất cả các đệ tử đến sống những đời sống đầy mục đích khôn ngoan và các mục tiêu tinh thần đã hoạch định và, đồng thời, sự phụng sự được thực hiện sẽ đảm nhận một kỹ thuật biểu hiện dứt khoát và tự động. [82]

You might here ask me if there is one single mode or means whereby a disciple can begin to approximate this seemingly impossible goal. I would reply: By the steady practice of impersonality with its subsidiary attitude of indifference where personal desires, contacts and goals are concerned. Such an impersonality is little understood and even when cultivated by well-intentioned aspirants has a selfish basis. Ponder on this and endeavour to achieve impersonality through self-forgetfulness and through the decentralisation of the focus of consciousness from the personality (where it is usually centred) into the living, loving soul.

Tại đây các bạn có thể hỏi tôi liệu có một phương cách duy nhất nào nhờ đó một đệ tử có thể bắt đầu tiệm cận mục tiêu có vẻ bất khả này không. Tôi sẽ trả lời: Bằng sự thực hành bền bỉ tính phi-ngã, với thái độ phụ thuộc là điềm nhiên nơi các ước muốn cá nhân, các tiếp xúc và mục tiêu. Một tính phi-ngã như vậy ít được hiểu và ngay cả khi được những người chí nguyện thiện chí trau dồi thì thường cũng có một nền tảng vị kỷ. Hãy nghiền ngẫm điều này và nỗ lực đạt tới tính phi-ngã qua sự tự-quên mình và qua sự phi-tập trung tiêu điểm tâm thức khỏi phàm ngã (nơi nó thường trú) để an trụ vào linh hồn đang sống và đang yêu thương.

There are four things which frequently hold back a group of disciples from achievement and from satisfactory work:

Có bốn điều thường kìm giữ một nhóm đệ tử không đạt được thành tựu và công việc thỏa đáng:

1. Lack of vision, incident to a lack of mental keenness.

Thiếu nhãn quang, do thiếu sắc bén trí tuệ.

2. Personal glamour. This involves the astral plane.

Ảo cảm cá nhân. Điều này liên quan đến cõi cảm dục.

3. Individual problems, involving a pronounced preoccupation upon the physical plane with its circumstances and difficulties—in this most difficult of worlds.

Các vấn đề cá nhân, bao hàm một sự bận tâm nổi bật trên cõi hồng trần với hoàn cảnh và khó khăn của nó—trong thế gian vốn là khó khăn nhất này.

4. Inertia or slow reactions to the imparted teaching and to the presented opportunity.

Trì trệ hoặc phản ứng chậm đối với giáo huấn đã truyền và cơ hội đã trình bày.

A deep reflection upon the urgency of the times and a sympathetic recognition of the unhappy plight of humanity are much needed by many disciples and aspirants in the world today, particularly by those who are not close to the world situation but who are looking at it from a distance. It is so simple to give a facile expression of sympathy but at the same time to avoid too great an expenditure of energy in service and too intense an effort to be of assistance.

Một sự suy tư sâu sắc về tính khẩn cấp của thời cuộc và một sự cảm thông nhận biết về tình cảnh bất hạnh của nhân loại là điều rất cần cho nhiều đệ tử và người chí nguyện trên thế giới hôm nay, đặc biệt là cho những ai không ở gần tình thế thế giới mà đang nhìn nó từ xa. Thật dễ để bày tỏ sự cảm thông một cách khéo lời nhưng đồng thời lại tránh tiêu hao quá nhiều năng lượng cho phụng sự và nỗ lực quá tích cực để trợ giúp.

The hallmark of the pledged disciple and a quality which should increasingly dominate his life is the capacity to identify himself with the part or with the whole—as seems needed at any particular time. Such an attitude involves a comprehensive sweep of love, and this leads to inclusiveness and to the pledging of the life service to the greatest number and to the most needy. If I were asked to specify the outstanding fault of the majority of groups of disciples at this time, I would say that it is the expression of the wrong kind of indifference, leading to an almost immovable preoccupation with their personal ideas [83] and undertakings. These militate against the group integration and tend to block the work.

Dấu ấn của đệ tử đã phát nguyện và một phẩm tính nên ngày càng chi phối đời sống của y là năng lực đồng nhất-hóa mình với bộ phận hoặc với toàn thể—tùy điều gì cần vào bất kỳ thời điểm nào. Một thái độ như vậy bao hàm một tầm quét bao gồm của tình thương, và điều này đưa đến tính bao gồm và việc hiến trọn đời sống cho số đông nhất và cho những người thiếu thốn nhất. Nếu tôi được yêu cầu chỉ rõ lỗi lầm nổi bật của đa số các nhóm đệ tử trong thời điểm này, tôi sẽ nói đó là biểu hiện của loại điềm nhiên sai lầm, dẫn đến một sự bận tâm hầu như bất động vào các ý tưởng [83] và công việc cá nhân của họ. Những điều này chống lại sự tích hợp nhóm và có xu hướng chặn ngăn công việc.

One of the things most needed by every disciple is to apply the teaching given to the idea of promoting and increasing their world service, thus rendering practical and effective in their environment the knowledge that has been imparted and the stimulation to which they have been subjected. This is a suggestion to which I would have you pay real attention.

Một trong những điều cần nhất đối với mọi đệ tử là áp dụng giáo lý đã ban vào ý tưởng thúc đẩy và gia tăng phụng sự thế giới của họ, nhờ đó khiến cho tri thức đã được truyền đạt và sự kích lệ mà họ đã chịu trở nên thiết thực và hiệu quả trong môi trường của họ. Đây là một gợi ý mà tôi muốn các bạn dành sự chú ý thực sự.

I would like also at this point to bring to your attention the fact that an accepted disciple is not in reality one who has been accepted by a Master for training. This is the distortion of a true idea which, in its progress from the mental plane to the physical, has achieved a complete reversal or distortion. An accepted disciple is one who:

Tôi cũng muốn, ở điểm này, lưu ý các bạn rằng một đệ tử chính thức thực ra không phải là người đã được một Chân sư chấp nhận để huấn luyện. Đây là sự xuyên tạc của một ý tưởng chân thực, ý tưởng vốn khi đi từ cõi trí xuống cõi hồng trần đã bị đảo ngược hoặc xuyên tạc hoàn toàn. Một đệ tử chính thức là người:

1. Has accepted the fact of the Hierarchy with the implications of loyalty and cooperation which that acceptance involves.

Đã chấp nhận sự kiện về Thánh Đoàn cùng với những hệ quả về lòng trung thành và hợp tác mà sự chấp nhận ấy hàm ý.

2. Has accepted the fact that all souls are one and who has, therefore, pledged himself to seek expression as a soul. The service to be rendered is the awakening and stimulation of all souls contacted.

Đã chấp nhận sự kiện rằng mọi linh hồn là một, và do đó đã nguyện tìm cách biểu lộ như một linh hồn. Phụng sự cần được thực hiện là đánh thức và kích thích mọi linh hồn được tiếp cận.

3. Has accepted the occult technique of service. His service to humanity determines all his activities and subordinates his personality to the need of the time. Note that phrase. Cultivate insight and a fluid response to the immediate need and not a sensitive reaction to a distant goal.

Đã chấp nhận kỹ thuật huyền bí của phụng sự. Phụng sự của y đối với nhân loại quyết định mọi hoạt động của y và đặt phàm ngã của y phục tùng nhu cầu của thời điểm. Hãy lưu ý cụm từ đó. Hãy trau dồi trực kiến và một đáp ứng linh động đối với nhu cầu trước mắt chứ không phải một phản ứng nhạy bén đối với mục tiêu xa vời.

4. Has accepted the Plan, as indicated by the Teachers of the race. He seeks to understand the nature of that Plan and to facilitate its manifestation.

Đã chấp nhận Thiên Cơ như được các Bậc Huấn Sư của giống dân chỉ ra. Y tìm cách thấu hiểu bản chất của Thiên Cơ và tạo điều kiện cho sự biểu hiện của nó.

Other points (of a more individual nature) could be enumerated, but I would have you lay the emphasis upon the acceptances which have or should have motivated your attitude and I would ask you not to emphasise so unduly in your private thoughts this idea of being “accepted by a Master.” This thought and its teaching by many esoteric groups has been productive of much error, much misunderstanding, much pain and much disillusionment. A disciple is trained in certain important [84] matters and not in his relation to a Master. These factors of importance to a disciple are:

Những điểm khác (mang tính cá nhân hơn) có thể được liệt kê, nhưng tôi muốn các bạn đặt trọng tâm vào những sự chấp nhận đã và nên thúc đẩy thái độ của các bạn, và tôi yêu cầu các bạn đừng nhấn mạnh quá mức—trong những suy tư riêng tư—ý nghĩ được “Chân sư chấp nhận.” Tư tưởng này và việc nhiều nhóm bí truyền giảng dạy nó đã sản sinh nhiều sai lầm, nhiều hiểu lầm, nhiều đau đớn và nhiều vỡ mộng. Một đệ tử được huấn luyện về vài vấn đề quan trọng [84]không phải về mối liên hệ của y với một Chân sư. Những yếu tố quan trọng đối với một đệ tử là:

1. The whole subject of humanity—its present status, its problems and the opportunity immediately presented. A disciple is one who seeks at all times to aid humanity and to further the processes of evolution as well as to develop that deep love of mankind which is the distinguishing mark of the initiate and of the Master.

Toàn bộ chủ đề về nhân loại—tình trạng hiện tại, các vấn đề và cơ hội lập tức được trình bày. Một đệ tử là người luôn tìm cách trợ giúp nhân loại và thúc đẩy các tiến trình tiến hóa cũng như phát triển tình thương sâu xa đối với nhân loại—dấu hiệu phân biệt của điểm đạo đồ và của Chân sư.

2. The subject of initiation. A study of this subject will lead to a consideration of its secondary development and its basic objective of a progressive identification with the soul of the disciple, with the soul of the group, with the soul of humanity as a whole and with the soul in all forms.

Chủ đề về điểm đạo. Nghiên cứu chủ đề này sẽ dẫn đến việc xem xét sự phát triển thứ cấp của nó và mục tiêu cơ bản của nó là sự đồng nhất tiến triển với linh hồn của đệ tử, với linh hồn của nhóm, với linh hồn của toàn thể nhân loại và với linh hồn trong mọi hình tướng.

3. The subject of service. This is not service as it is usually understood. The ordinary connotation has largely lost its significance through wrong emphasis. The initiate considers service as the spontaneous, easy expression of a definite soul contact, brought down on to the physical plane and giving insight, practicality and inspiration to the disciple as he works on the outer plane of expression. Most disciples are occupied vaguely with achieving inspiration but know nothing of the earlier stages of insight, leading to the practical and wise expression of the met need upon the level of daily living. One of the major undertakings of the accepted disciple (or, as I would prefer to term it, the accepting disciple) is to transform himself from a well-intentioned idealist into a man of action on behalf of humanity.

Chủ đề về phụng sự. Đây không phải là phụng sự như thường được hiểu. Nghĩa thường đã phần lớn mất ý nghĩa do nhấn mạnh sai. Điểm đạo đồ xem phụng sự như là biểu hiện tự phát, dễ dàng của một tiếp xúc dứt khoát với linh hồn, được đưa xuống cõi hồng trần và đem lại trực kiến, tính thiết thực và cảm hứng cho đệ tử khi y làm việc trên bình diện biểu hiện bên ngoài. Phần lớn đệ tử mơ hồ bận tâm với việc đạt đến cảm hứng mà không biết gì về các giai đoạn sớm hơn của trực kiến, dẫn đến biểu hiện thiết thực và khôn ngoan của nhu cầu đã được đáp ứng trên bình diện sinh hoạt hằng ngày. Một trong những hoạt động chủ yếu của đệ tử chính thức (hay, như tôi muốn gọi, đệ tử đang chấp nhận) là chuyển hóa mình từ một nhà lý tưởng thiện chí thành một con người hành động vì nhân loại.

When a group can think unanimously along these lines and work in unison, then the first step will have been taken towards group initiation which is the goal of the new discipleship. Group initiation involves:

Khi một nhóm có thể đồng tâm nghĩ theo những đường hướng này và đồng nhịp làm việc, thì bước đầu tiên hướng đến điểm đạo theo nhóm—mục tiêu của địa vị đệ tử mới—sẽ được thực hiện. Điểm đạo theo nhóm bao hàm:

1. The possession and recognition of a united vision to which the individual in the group subordinates himself.

Sự sở hữu và công nhận một viễn kiến hợp nhất mà cá nhân trong nhóm đặt mình phục tùng.

2. The simultaneous rapport of the group members with the soul on its own level (that composite group soul which is composed of the soul of each individual member). This leads to group integration on soul levels.

Sự tương giao đồng thời của các thành viên nhóm với linh hồn trên bình diện riêng của nó (linh hồn nhóm tổng hợp được cấu thành bởi linh hồn của từng thành viên). Điều này dẫn đến sự tích hợp nhóm trên các bình diện linh hồn.

3. The blended consecrated contact of the group personalities upon the three levels of personality expression—the [85] mental, astral and etheric levels of awareness. Some group members contact each other on one level and some on another, but the aim should be a close contact on all three levels at will and all together when the group, as a group, demands it. This is a hard saying but later a clearer understanding will come of what this means and what it brings about.

Sự tiếp xúc được thánh hiến và hòa hòa của các phàm ngã nhóm trên ba cấp độ biểu hiện của phàm ngã—[85] các cấp độ nhận thức trí tuệ, cảm dục và dĩ thái. Một số thành viên nhóm tiếp xúc nhau trên một cấp, số khác trên một cấp khác, nhưng mục tiêu phải là một tiếp xúc gần gũi trên cả ba cấp theo ý chí và tất cả cùng nhau khi nhóm, như một nhóm, đòi hỏi điều đó. Đây là một lời nói khó, nhưng sau này một sự hiểu rõ ràng hơn sẽ đến về ý nghĩa của điều này và kết quả của nó.

4. The ability of the group to stand united and with no barriers between the group members of any kind. This will necessarily involve the sacrifice of personality reactions, ideals and plans. At present the varying ideals, attitudes and points of view separate disciples from each other. These must go.

Khả năng của nhóm đứng trong hợp nhất và không có rào ngăn nào giữa các thành viên thuộc nhóm. Điều này tất yếu sẽ bao hàm sự hy sinh các phản ứng, lý tưởng và kế hoạch của phàm ngã. Hiện tại các lý tưởng, thái độ và quan điểm khác nhau đang chia cách các đệ tử. Những điều này phải được gỡ bỏ.

There are, of course, other requirements but if you can understand the above and seek—to the best of your ability—to meet them, that is all that I ask at present. One of the great needs of all disciples and aspirants is the detached relinquishing of pet theories as to life, discipleship and the Plan; the preserving of that open mind which is ever ready for the unexpected presentation and able (when the spiritual vision is strong enough) to achieve a quick reversal of all preconceived ideals. This must be done when it is deemed spiritually wise and it involves also that waiting attitude whichexpects the new vision to appear, the newer truths to emerge into formulated clarity and the new potencies to become increasingly effective. Such attitudes are peculiarly difficult for those disciples who have the sixth Ray of Devotion and Idealism dominant in their energy equipment, for the ideals of a sixth ray aspirant crystallise most rapidly and are quickly distorted thereby. The temporary ideal (intended to guide the undeveloped aspirant) can become a barrier, separating him from truth and from the realisation of a truer vision.

Dĩ nhiên còn có các yêu cầu khác, nhưng nếu các bạn có thể hiểu các điểm trên và tìm cách—hết khả năng của mình—đáp ứng chúng, thì đó là tất cả điều tôi yêu cầu lúc này. Một trong những nhu cầu lớn đối với mọi đệ tử và người chí nguyện là sự từ bỏ một cách tách rời các lý thuyết ưa thích về cuộc đời, địa vị đệ tử và Thiên Cơ; là việc gìn giữ cái trí mở rộng luôn sẵn sàng cho sự xuất hiện bất ngờ và có thể (khi thị kiến tinh thần đủ mạnh) mau chóng đảo chiều mọi lý tưởng định kiến. Điều này phải được làm khi điều đó được xét là khôn ngoan về mặt tinh thần và nó cũng bao hàm thái độ chờ đợi mong đợi thị kiến mới xuất hiện, các chân lý mới nảy hiện thành minh bạch có hình thức, và các năng lực mới trở nên ngày càng hiệu quả. Những thái độ như vậy đặc biệt khó đối với các đệ tử có Cung Sáu—Bác Ái và Lý Tưởng—chi phối trong cơ cấu năng lượng của họ, vì các lý tưởng của một người chí nguyện cung sáu kết tinh rất nhanh và do đó mau bị bóp méo. Lý tưởng tạm thời (nhằm hướng dẫn người chí nguyện chưa phát triển) có thể trở thành một chướng ngại, tách y khỏi chân lý và khỏi việc nhận ra một thị kiến chân thực hơn.

So I would beg you, my disciples, to aim at a wide open simplicity which waits expectant of that new thing which is so ready today to precipitate but which is being hindered from so doing by the idealists of the world far more than by the man in the street. The latter is simpler in his reactions and more ready to grasp and see a way out of the immediate impasse than the mystic or the occultist because he thinks in terms of [86] humanity. The disciples of the world (with their nicely formulated ideals and their neatly expressed idealistic concepts) are oft glamoured by the future beauty because they are oblivious of the present opportunity. Many of them will find out later that they have been left behind as far as registering the new truths is concerned. To this Christ referred when He said that it was not possible to put new wine into old bottles for that which is old will be destroyed by the expanding new life.

Vì vậy tôi khẩn cầu các bạn, những đệ tử của tôi, hãy nhắm tới một sự giản dị rộng mở, cái giản dị biết chờ đợi điều mới mẻ vốn đang sẵn sàng hôm nay để ngưng tụ, nhưng lại đang bị cản trở không phải bởi người bình dân mà hơn hết bởi các nhà lý tưởng trên thế giới. Người sau đơn giản hơn trong phản ứng và sẵn sàng hơn để nắm bắt và thấy một lối ra khỏi bế tắc trước mắt so với nhà thần bí hay nhà huyền bí học, bởi y suy nghĩ theo các khái niệm [86] về nhân loại. Các đệ tử của thế giới (với các lý tưởng được diễn đạt gọn ghẽ và các khái niệm lý tưởng được trình bày gọn gàng) thường bị ảo cảm về vẻ đẹp tương lai, vì họ quên bẵng cơ hội hiện tại. Nhiều người trong số họ rồi đây sẽ nhận ra rằng họ đã bị bỏ lại phía sau trong việc ghi nhận các chân lý mới. Đức Christ đã ám chỉ điều này khi Ngài nói rằng không thể rót rượu mới vào bầu da cũ, vì cái cũ sẽ bị sự sống mới đang nở nẩy làm hỏng.

The initiate, therefore, stands ready, for what? For the instant recognition of what is new, for its immediate grasp and the treading of the new step in the unfoldment of the pioneering human consciousness, for the revelation—steadily and constantly presented—of the new and superseding concepts. These concepts possess a dynamic expulsive power and satisfactorily meet human need in the immediate cycle. He is ready for the instant relinquishing of all that seems futile and unnecessary and inadequate to the need of the hour, and for the reception of the power from on high which breaks and destroys that which has become crystallised, which has served its purpose and become old and useless; he is ready to work as a practical occultist (and not only as a mystical idealist) upon the levels of vision as well as upon the levels of practical human affairs.

Vậy nên điểm đạo đồ đứng sẵn sàng, sẵn sàng cho điều gì? Cho sự nhận ra tức khắc điều mới mẻ, cho việc nắm bắt tức thì điều ấy và bước đi trên bước mới trong sự khai mở của tâm thức tiên phong nhân loại, cho sự mặc khải—được trình bày đều đặn và liên tục—các ý niệm mới và vượt trội. Những ý niệm này có một quyền năng trục xuất năng động và đáp ứng thỏa đáng nhu cầu nhân loại trong chu kỳ trước mắt. Y sẵn sàng từ bỏ tức thời mọi điều trở nên phù phiếm, không cần thiết và không thích hợp với nhu cầu của giờ phút, và sẵn sàng tiếp nhận quyền năng từ trên cao—cái phá vỡ và tiêu hủy những gì đã kết tinh, đã làm xong phận sự và trở nên cũ kỹ, vô dụng; y sẵn sàng làm việc như một nhà huyền bí học thực tiễn (chứ không chỉ như một nhà lý tưởng thần bí) trên các bình diện thị kiến cũng như trên các bình diện của các sự vụ nhân sinh thực tiễn.

I would suggest that your meditation process should be divided into two parts. There should be a definitely planned individual and group meditation and also a methodical cultivation of the life of spiritual reflection. This spiritual reflection will foster the dual life—objective and subjective—of the disciple whilst the more formal meditation would aid in the process of focussing the light of the soul in the brain and thus lay the foundation for living, enlightened, soul service.

Tôi muốn đề nghị tiến trình tham thiền của các bạn nên được chia làm hai phần. Cần có một bài tham thiền cá nhân và nhóm được hoạch định dứt khoát, và cũng cần sự trau dồi có hệ thống đời sống chiêm niệm tinh thần. Sự chiêm niệm tinh thần này sẽ nuôi dưỡng đời sống kép—khách quan và chủ quan—của đệ tử, trong khi bài tham thiền có tính quy thức hơn sẽ hỗ trợ tiến trình tập trung ánh sáng của linh hồn vào trong não bộ và như thế đặt nền tảng cho phụng sự của linh hồn—sống động và được soi sáng.

This service is only the expression upon the physical plane of soul attitudes and activities—as the soul evidences them on its own level of consciousness. One phase of this dual work, the reflective, works out in an increasing realisation and expression of intentional living or of “life with a purpose.” It leads to a mode of living which is built upon a planned programme which approximates itself, as far as possible, to the hierarchical Plan and to hierarchical life impulses. The second phase, which is embodied in the formal meditation, is that of a definite and [87] conscious withdrawal. If this is carried out correctly and with deliberation, plus regularity, it will eventually bring about a most productive telepathic interplay between the disciples in a group and between the individual disciple, the Master and the larger Ashram. It will also make the disciple sensitive to the higher “gift waves.” The entire meditation (in its two parts) involves, therefore, the linking up of heart and head, of the mystic and the occult approach, and also of feeling and knowledge.

Phụng sự này chỉ là sự biểu hiện trên cõi hồng trần của các thái độ và hoạt động của linh hồn—như linh hồn phô bày chúng trên bình diện tâm thức riêng của nó. Một phương diện của công việc kép này—phương diện chiêm niệm—biểu lộ trong một ý thức ngày càng tăng và sự biểu hiện của lối sống có chủ ý hay “sống có mục đích.” Nó dẫn đến một phương thức sống được xây dựng trên một chương trình có hoạch định, cố gắng, trong mức tối đa có thể, tiệm cận với Thiên Cơ và với các xung lực sống của Thánh Đoàn. Phương diện thứ hai, được thể hiện trong tham thiền quy thức, là một sự thu rút [87] dứt khoát và có ý thức. Nếu điều này được thực hiện đúng cách và với sự cố ý, cùng tính đều đặn, nó rốt cuộc sẽ mang lại một sự tương tác viễn cảm hết sức hiệu quả giữa các đệ tử trong một nhóm và giữa đệ tử cá nhân, Chân sư và Đại Ashram. Nó cũng sẽ làm cho đệ tử nhạy bén với các “làn sóng ban tặng” cao hơn. Toàn bộ tham thiền (trong cả hai phần) do đó bao hàm sự nối kết giữa tim và đầu, giữa tiếp cận thần bí và huyền bí, cũng như giữa cảm xúc và tri thức.

Only from the heart centre can stream, in reality, those lines of energy which link and bind together. It was for this reason that I have assigned certain meditations which stimulated the heart into action, linking the heart centre (between the shoulder blades) to the head centre, through the medium of the higher correspondence to the heart centre, found within the head centre (the thousand petalled lotus). This heart centre, when adequately radiatory and magnetic, relates disciples to each other and to all the world. It will also produce that telepathic interplay which is so much to be desired and which is so constructively useful to the spiritual Hierarchy—provided it is established within a group of pledged disciples, dedicated to the service of humanity. They can then be trusted.

Chỉ từ luân xa tim mới thực sự có thể tuôn chảy những tuyến năng lượng nối kết và ràng buộc. Vì lý do này mà tôi đã chỉ định những bài tham thiền nhất định nhằm kích hoạt luân xa tim, nối luân xa tim (giữa hai bả vai) với luân xa đầu, thông qua đối ứng cao hơn của luân xa tim—nằm trong luân xa đầu (hoa sen nghìn cánh). Luân xa tim này, khi đủ tỏa chiếu và từ hóa, sẽ nối kết các đệ tử với nhau và với toàn thế giới. Nó cũng sẽ tạo nên sự tương tác viễn cảm rất đáng mong ước và vô cùng hữu ích cho Thánh Đoàn tinh thần—miễn là nó được thiết lập trong một nhóm đệ tử đã phát nguyện, hiến mình cho phụng sự nhân loại. Khi ấy có thể tin cậy họ.

One of the tasks of all disciples is the evocation of the will aspect of the soul; the will is usually quiescent in its higher aspects until a man treads the Path of Discipleship….

Một trong những nhiệm vụ của mọi đệ tử là khơi dậy phương diện ý chí của linh hồn; ý chí thường yên lặng ở các phương diện cao của nó cho đến khi con người bước lên Địa vị đệ tử….

You might ask, my brothers, of what use are these analogies and these items of information? They are of little technical use to you and really increase your responsibility. If, however, they serve to establish a true recognition of reality, of synthesis and of relation in the disciple’s consciousness, they are then of real value. Those three words—reality, synthesis, relation—indicate the goal and the problem of the disciple, plus the resultant effect of conscious, intelligent, spiritual work, motivated by love.

Các huynh đệ của tôi có thể hỏi: những phép loại suy này và những dữ kiện thông tin này có ích chi? Chúng ít có ích lợi kỹ thuật đối với các bạn và thực ra làm tăng trách nhiệm của các bạn. Tuy nhiên, nếu chúng giúp thiết lập trong tâm thức của đệ tử một sự nhận biết chân thực về hiện thực, về tổng hợp và về mối liên hệ, thì chúng thực sự có giá trị. Ba từ ấy—hiện thực, tổng hợp, liên hệ—chỉ ra mục tiêu và vấn đề của đệ tử, cùng với hệ quả phát sinh của công việc tinh thần tự giác, thông tuệ, được tình thương làm động cơ.

In the New Age, as I have earlier pointed out, the keynote of the aspirant’s progress will be love of humanity; this will indicate the awakening of the heart centre. In the past and up until the last few years, the keynote has been service because (if selflessly rendered) it embodied a technique which automatically [88] brought the heart centre into activity. It is love of humanity which is the major lack in the character of many disciples today. They love those with whom they may be associated, or they love the work connected with the group endeavour, or they love their own nation; they may also love an ideal or theoretical assumption, but they do not really love humanity as a whole. There are limits to their capacity to love and it is the transcending of those limits which constitutes their main problem at this time; they have to learn that it is humanity which calls for their allegiance, their loyalty and service. I would ask you all to ponder deeply on the above statements, for they embody the task ahead for you also as you seek to fit yourselves for the first or the second initiation.

Trong Thời đại Mới, như tôi đã chỉ ra trước đây, chủ âm của sự tiến bộ của người chí nguyện sẽ là tình thương đối với nhân loại; điều này sẽ chỉ ra sự thức tỉnh của luân xa tim. Trước đây và cho đến vài năm gần đây, chủ âm là phụng sự vì (nếu được thực hiện vô ngã) nó bao hàm một kỹ thuật tự động [88] đưa luân xa tim vào hoạt động. Chính tình thương đối với nhân loại là thiếu khuyết chủ yếu trong tính cách của nhiều đệ tử hôm nay. Họ yêu những người mà họ có thể liên hệ, hoặc họ yêu công việc gắn với nỗ lực nhóm, hoặc họ yêu quốc gia mình; họ cũng có thể yêu một lý tưởng hoặc một giả định lý thuyết, nhưng họ thực sự không yêu nhân loại như một toàn thể. Năng lực yêu thương của họ có giới hạn và chính việc vượt qua những giới hạn ấy cấu thành vấn đề chính của họ lúc này; họ phải học rằng nhân loại đang kêu gọi sự trung thành, lòng tận tụy và phụng sự của họ. Tôi muốn tất cả các bạn suy ngẫm sâu xa những tuyên bố trên, vì chúng bao hàm nhiệm vụ trước mắt của các bạn khi các bạn tìm cách tự trang bị cho lần điểm đạo thứ nhất hoặc thứ hai.

I would remind you also that the life of the disciple is ever a life of risks and of dangers, entered into willingly and deliberately in the cause of spiritual unfoldment and the service of humanity. But I would ask each of you to watch your emotional life and reactions with greatly increased care; I would ask you to watch particularly for the least outcropping of glamour. I would call your attention to the fact that the emergence of emotional conditions or of glamour in your life-expression need not necessarily indicate failure. There is only failure if there is identification with these astral conditions and a succumbing to old rhythms. The success of the meditation work assigned and regularly followed may be proved to you by the appearance of these undesirable conditions; they must be then recognised for what they are, and evoke in you that “divine indifference” which permits the emotion or the glamour to die of attrition, because deprived of the “feeding-power” of the attention. The whole history of true emotional control is to be found in the sentence just given. The process of achieving this control constitutes one of the most difficult periods in the life of the disciple and quite one of the longest from the angle of time. For this you should be prepared. Particularly is it difficult at this time to triumph over emotion because of the intense emotional condition of the entire human family and the widespread fear and terror for which the energy of the Black Lodge of Adepts is responsible. This definitely complicates your problem and that of all disciples: it tends to foster a most potent glamour. [89] So I beg of you to proceed with courage, joy, understanding, extreme caution and—at the same time—with speed.

Tôi cũng muốn nhắc các bạn rằng đời sống của đệ tử bao giờ cũng là một đời sống của các rủi ro và nguy hiểm, được bước vào một cách tự nguyện và cố ý vì sự khai mở tinh thần và vì phụng sự nhân loại. Nhưng tôi muốn mỗi người trong các bạn hãy quan sát đời sống và các phản ứng cảm xúc của mình với một sự cẩn trọng được gia tăng lớn lao; tôi muốn các bạn đặc biệt lưu ý đến bất kỳ mầm mống nhỏ nhất nào của ảo cảm. Tôi muốn lưu ý các bạn đến sự kiện rằng sự xuất hiện của các tình trạng cảm xúc hoặc của ảo cảm trong biểu hiện đời sống của các bạn không nhất thiết chỉ ra thất bại. Chỉ có thất bại khi có sự đồng nhất với những tình trạng cảm dục ấy và sự khuất phục trước các nhịp điệu cũ. Thành công của công việc tham thiền được giao và được theo đuổi đều đặn có thể được chứng nghiệm bởi sự xuất hiện của những tình trạng không mong muốn này; khi ấy chúng phải được nhận diện đúng như chúng là, và khơi dậy nơi các bạn “tính điềm nhiên thiêng liêng” cho phép cảm xúc hoặc ảo cảm chết dần vì mòn mỏi, bởi bị tước mất “năng lực nuôi dưỡng” của sự chú ý. Toàn bộ lịch sử của việc chế ngự cảm xúc chân chính có thể tìm thấy trong câu vừa nêu. Tiến trình đạt được sự chế ngự này cấu thành một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong đời đệ tử và cũng là một trong những giai đoạn dài nhất xét theo góc độ thời gian. Các bạn nên chuẩn bị cho điều này. Đặc biệt lúc này việc chiến thắng xúc cảm là khó khăn vì tình trạng cảm xúc mãnh liệt của toàn thể gia đình nhân loại và nỗi sợ hãi, kinh hoàng lan rộng—mà năng lượng của Hắc Đoàn của các Chân sư Hắc đạo gây nên. Điều này chắc chắn làm phức tạp vấn đề của các bạn và của mọi đệ tử: nó có xu hướng nuôi dưỡng một ảo cảm cực mạnh. [89] Vậy nên tôi nài xin các bạn tiến bước với dũng khí, hoan hỷ, thấu hiểu, hết sức thận trọng và—đồng thời—với tốc độ.

I would point out also that the intention of all true disciples is to stand by their group brothers in love and understanding. Upon this fact you can count. I would also assure you that the protective love of your Master is around you and that I shall not fail you at any time…. But, in the last analysis, the battle is yours.

Tôi cũng muốn chỉ ra rằng ý hướng của mọi đệ tử chân chính là đứng cạnh các huynh đệ nhóm của mình trong tình thương và sự thấu hiểu. Về sự kiện này các bạn có thể tin cậy. Tôi cũng bảo đảm với các bạn rằng tình thương bảo hộ của Chân sư của các bạn đang bao bọc các bạn và rằng tôi sẽ không thất bại với các bạn vào bất kỳ lúc nào…. Nhưng, xét đến cùng, trận chiến là của chính các bạn.

PART IX—PHẦN IX

The secret of all true meditation work in its earlier stages is the power to visualise. This is the first stage to be mastered. Disciples should lay the emphasis upon this process; in it lies eventually the ability to use the creative powers of the imagination, plus mental energy, as a measure to further the ends of the Hierarchy and to carry out the Divine Plan. All the new processes in meditation techniques (for which the New Age may be responsible) must and will embody visualisation as a primary step for the following reasons:

Bí quyết của mọi công tác tham thiền chân chính ở các giai đoạn ban đầu là năng lực hình dung. Đây là giai đoạn đầu tiên cần tinh thông. Các đệ tử nên nhấn mạnh tiến trình này; ở đó rốt cuộc có khả năng dùng các quyền năng sáng tạo của sự tưởng tượng, cộng với năng lượng trí tuệ, như một phương tiện để thúc đẩy mục đích của Thánh Đoàn và để thực thi Thiên Cơ. Tất cả các quy trình mới trong các kỹ thuật tham thiền (mà Kỷ Nguyên Mới có thể chịu trách nhiệm) phải và sẽ bao hàm hình dung như một bước sơ khởi vì các lý do sau:

1. Visualisation is the initial step in the demonstration of the occult law that “energy follows thought.” This, of course, everyone interested in occult study recognises theoretically. One of the tasks confronting disciples is to achieve factual knowledge of this. Pictorial visualisation (which is a definite feature of the work in many esoteric schools) is simply an exercise to bring about the power to visualise. In the work of those disciples who are being trained for initiation, this external aspect of visualisation must give place to an interior process which is the first step towards the direction of energy. The visualising of pictures is intended to focus the aspirant within the head at a point midway between the pituitary body and the pineal gland. In that area, he draws pictures and paints scenes and thus acquires facility to see—in large and in detail—that which he desires and for which he intends to work. The visualising of what might be called “directed process” goes on in a more focussed manner and in the area directly around the pineal gland. The pineal [90] gland then becomes the centre of a magnetic field which is set in motion—in the first place—by the power of visualisation. At that point, energy is gathered by the disciple and then directed with intention to one or other of the centres. This focussed thought produces inevitable effects within the etheric body and thus two aspects of the creative imagination are brought into play.

1. Hình dung là bước khởi đầu trong việc biểu lộ định luật huyền bí rằng “năng lượng đi theo tư tưởng”. Điều này, dĩ nhiên, mọi người quan tâm đến học tập huyền bí đều công nhận về mặt lý thuyết. Một trong những phận sự đối diện với các đệ tử là đạt đến tri thức thực chứng về điều này. Hình dung bằng hình ảnh (vốn là một đặc tính xác định của công việc tại nhiều trường nội môn) đơn giản là một bài luyện để mang lại quyền năng hình dung. Trong công việc của những đệ tử đang được đào luyện cho điểm đạo, phương diện ngoại tại này của hình dung phải nhường chỗ cho một tiến trình nội tại, vốn là bước đầu tiên hướng đến điều hướng năng lượng. Việc hình dung các bức tranh nhằm tập trung người chí nguyện bên trong đầu, tại một điểm ở giữa tuyến yên và tuyến tùng. Ở khu vực đó, y vẽ ra các bức tranh và tô cảnh tượng và nhờ đó đạt được khả năng thấy—trong đại thể và trong chi tiết—điều y mong muốn và điều y định làm việc cho nó. Việc hình dung điều có thể được gọi là “tiến trình có định hướng” diễn ra theo cách tập trung hơn và trong vùng trực tiếp quanh tuyến [90] tùng. Khi ấy tuyến tùng trở thành trung tâm của một trường từ tính được khởi động—trước hết—bởi quyền năng hình dung. Tại điểm đó, đệ tử gom năng lượng rồi hướng nó bằng ý định đến một hay trung tâm khác. Tư tưởng được tập trung này tạo ra các hiệu quả tất yếu trong thể dĩ thái và như vậy hai phương diện của Sự tưởng tượng sáng tạo được đưa vào hoạt động.

2. The power to visualise is the form-building aspect of the creative imagination. This process falls into three parts, corresponding somewhat to the creative process followed by Deity Itself:

2. Quyền năng hình dung là phương diện kiến tạo hình tướng của Sự tưởng tượng sáng tạo. Tiến trình này gồm ba phần, phần nào tương ứng với tiến trình sáng tạo được Chính Thượng đế theo đuổi:

a. The gathering of qualified energy within a ring-pass-not.

a. Gom năng lượng đã được định phẩm chất trong một vòng-giới-hạn.

b. The focussing of this energy under the power of intention, i.e., at a point in the neighbourhood of the pineal gland. The energy is now focussed and not diffused.

b. Tập trung năng lượng này dưới quyền năng của ý định, tức là, tại một điểm trong vùng lân cận tuyến tùng. Năng lượng nay được tập trung, không còn tản mạn.

c. The despatch of this focussed energy by means of a pictorial process (not by an act of the will at this time) in any desired direction—that is, to certain centres in a certain order.

c. Gởi phóng năng lượng đã tập trung này bằng một tiến trình hình tượng (chưa phải bằng một hành động của ý chí lúc này) theo bất cứ hướng mong muốn nào—tức là, tới các luân xa nhất định theo một trật tự nhất định.

This process of energy direction can become a spiritual habit if disciples would begin to do it slowly and gradually. At first, the visualising process may seem to you to be laboured and profitless but, if you persevere, you will find eventually that it becomes effortless and effective. This is one of the most important ways in which a Master works; it is essential, therefore, that you begin to master the technique. The stages are:

Tiến trình điều hướng năng lượng này có thể trở thành một thói quen tinh thần nếu các đệ tử bắt đầu thực hiện nó chậm rãi và dần dần. Ban đầu, tiến trình hình dung có thể dường như nặng nề và vô ích đối với các bạn nhưng, nếu bền chí, rốt cuộc các bạn sẽ thấy nó trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả. Đây là một trong những cách quan trọng nhất mà một Chân sư làm việc; vì vậy, điều cốt yếu là bạn bắt đầu tinh thông kỹ thuật ấy. Các giai đoạn là:

a. A process of energy gathering.

a. Tiến trình gom năng lượng.

b. A process of focalisation.

b. Tiến trình tập trung.

c. A process of distribution or direction.

c. Tiến trình phân phối hay điều hướng.

The disciple learns to do this within himself and later to direct the energy (some chosen and particular kind, according to the demand of the occasion) to that which lies without himself. This constitutes, for example, one of the major healing techniques of the future. It is also used by the Master in awakening His disciple to certain [91] states of consciousness, but with these you have naught to do.

Đệ tử học làm điều này trong chính mình, rồi sau đó điều hướng năng lượng (một loại năng lượng được chọn lựa và đặc thù, tùy theo đòi hỏi của hoàn cảnh) đến điều ở bên ngoài mình. Điều này, thí dụ, cấu thành một trong các kỹ thuật trị liệu lớn của tương lai. Nó cũng được Chân sư dùng để đánh thức Đệ tử của Ngài đến những [91] trạng thái tâm thức nhất định, nhưng với những điều này các bạn không có gì liên can.

3. The power to visualise correctly is one definite mode of ascertaining truth or falsity. This is a statement difficult for you to comprehend. Visualisation is literally the building of a bridge between the emotional or astral plane and the mental level and is, therefore, a personality correspondence to the building of the antahkarana. The astral plane, the second aspect of the personality, is the correspondence to the form-building aspect of the Trinity, the second aspect. The creative imagination “pictures a form” through the ability to visualise and the thought energy of the mind gives life and direction to this form. It embodies purpose. Thereby a rapport or line of energy is constructed between the mind and the astral vehicle and it becomes a triple line of energy when the soul of the disciple is utilising this creative process in some planned and definitely constructive manner.

3. Quyền năng hình dung cho đúng là một phương thức xác quyết thật hay giả. Đây là một phát biểu khó cho các bạn thấu hiểu. Hình dung thật sự là việc xây một cây cầu giữa cõi cảm dục và mức trí tuệ và do đó là tương ứng nơi phàm ngã với việc kiến tạo antahkarana. Cõi cảm dục, phương diện thứ hai của phàm ngã, là tương ứng với phương diện kiến tạo hình tướng của Ba Ngôi, phương diện thứ hai. Sự tưởng tượng sáng tạo “vẽ ra một hình tướng” qua năng lực hình dung và năng lượng tư tưởng của thể trí trao sinh khí và hướng dẫn cho hình tướng đó. Nó hàm chứa mục đích. Qua đó, một sự tương thông hay một tuyến năng lượng được kiến tạo giữa thể trí và hiện thể cảm dục và nó trở thành một tuyến năng lượng tam phân khi linh hồn của đệ tử đang sử dụng tiến trình sáng tạo này theo một cách thức có kế hoạch và chắc chắn có tính kiến tạo.

This visualising process and this use of the imagination form the first two steps in the activity of thoughtform building. It is with these self-created forms—embodying spiritual ideas and divine purpose—that the Masters work and hierarchical purpose takes shape. Therefore, my disciples, it is essential that you begin with deliberation and slowly to work in this manner and to use the above information constructively and creatively. The need of the times is increasingly great and the utmost of work and of purpose is desired.

Tiến trình hình dung này và việc sử dụng Sự tưởng tượng ấy tạo thành hai bước đầu trong hoạt động kiến tạo Hình tư tưởng. Chính với những hình tự kiến tạo—hàm chứa các ý niệm tinh thần và Thiên Ý—mà các Chân sư làm việc và mục đích của Thánh Đoàn thành hình. Vì vậy, các đệ tử của tôi, điều cốt yếu là các bạn bắt đầu một cách cẩn trọng và chậm rãi làm việc theo cách này và sử dụng thông tin trên một cách kiến tạo và sáng tạo. Nhu cầu của thời đại ngày càng lớn và tối đa công việc cùng mục đích được mong cầu.

The goal of initiation is held out by the Masters to all Their disciples and They stand ready to give the needed instruction. I would remind you at this early stage that only that which you know for yourself and experience consciously within yourself is of importance and constitutes the truth for you. That which may be told you by others, even by me, serves no vital purpose, except to enhance or corroborate an already known truth, or to create illusions or responsibility until it is either rejected or experienced by you in your own consciousness. Do you understand what I mean?

Mục tiêu của điểm đạo được các Chân sư đưa ra cho tất cả Đệ tử của Các Ngài và Các Ngài sẵn sàng ban chỉ giáo cần thiết. Tôi muốn nhắc các bạn ngay ở giai đoạn sớm này rằng chỉ điều gì bạn tự biết cho mình và kinh nghiệm một cách có ý thức trong chính bạn mới là điều quan trọng và cấu thành chân lý đối với bạn. Điều có thể được người khác nói với bạn, kể cả tôi, không phục vụ một mục đích sinh động nào, ngoại trừ làm tăng cường hay chứng thực một chân lý vốn đã được biết, hoặc tạo ra ảo tưởng hay trách nhiệm cho đến khi nó bị bạn loại bỏ hoặc được bạn tự mình kinh nghiệm trong tâm thức mình. Bạn có hiểu điều tôi muốn nói không?

Initiation might be defined at this point as the moment of crisis wherein the consciousness hovers on the very border-line [92] of revelation. The demands of the soul and the suggestions of the Master might be regarded as in conflict with the demands of time and space, focussed in the personality or the lower man. You will have, therefore, in this situation a tremendous pull between the pairs of opposites; the field of tension or the focus of the effort is to be found in the disciple “standing at the midway point.” Will he respond and react consciously to the higher pull and pass on to new and higher areas of spiritual experience? Or will he fall back into the glamour of time and space and into the thraldom of the personal life? Will he stand in a static quiescent condition in which neither the higher trend nor the lower pull will affect him? One or other of these three conditions must distinguish him and must succeed upon an earlier and vacillating experience wherein the disciple vibrates between the higher and the lower decisions. It is at this process, the Master presides. He is able to do nothing because it is the disciple’s own problem. He can only endeavour to enhance the desire of the soul by the power of His directed thought. The personality can also do nothing, for at this point both the physical body and the astral vehicle are simply automatons, waiting responsively for the decision of the disciple, functioning in his mental body. Only the disciple can act upon the mental level of consciousness at this point of endeavour. Once he does so, the die is cast. He either moves forward towards the door of light where the Master takes his hand and the Angel of the Presence becomes potent and active in a way which I may not describe to you, or he drops back temporarily into the life condition of the lower man; glamour and maya settle down anew upon him and the Dweller on the Threshold inserts himself between the disciple and the light from the open door and renews activity. The disciple either awakens suddenly to a wider grasp of reality and a deeper understanding of the Plan and his part in it, or the “veils of earth” close over his head; the vision fades and he reverts into the life of an ordinary human being, probably for the period of the incarnation wherein the opportunity was offered to him. Should he, however, go forward through that door, then (according to the initiation which becomes possible) will be the revelation and its attendant consequences. The revelation will not be the [93] revelation of possibilities. It is a factual experience, resulting in the evocation of new powers and capacities and the recognition of new modes and fields of service. These powers are conditioned by past developments and the presence of these capacities, plus a freedom of movement “within the bounds of the Hierarchy” which lie far beyond anything which he may have dreamed, become his. New hierarchical contacts are now possible to him; new responsibility is laid upon his shoulders and new “fields of potency” become available for his use in world service.

Điểm đạo có thể được định nghĩa tại điểm này như là khoảnh khắc khủng hoảng, trong đó tâm thức lơ lửng ngay trên ranh giới [] của sự mặc khải. Các đòi hỏi của linh hồn và các gợi ý của Chân sư có thể được xem như xung đột với các đòi hỏi của thời gian và không gian, được hội tụ trong phàm ngã hay phàm nhân. Do đó, trong tình huống này, sẽ có một lực kéo ghê gớm giữa các cặp đối nghịch; vùng căng thẳng hay tiêu điểm của nỗ lực được tìm thấy nơi đệ tử “đứng tại điểm ở giữa”. Liệu y có đáp ứng và phản ứng một cách có ý thức với sức kéo cao hơn và đi tiếp vào những vùng trải nghiệm tinh thần mới và cao hơn? Hay y sẽ rơi trở lại vào ảo cảm của thời gian và không gian và vào ách nô lệ của đời sống cá nhân? Liệu y sẽ đứng trong một trạng thái tĩnh tại, bất động trong đó cả xu hướng cao hơn lẫn lực kéo thấp hơn đều không tác động được y? Một trong ba trạng thái này tất phải là đặc trưng của y và phải tiếp nối một kinh nghiệm trước đó vốn do dự, trong đó đệ tử rung chuyển giữa quyết định cao và thấp. Chính tại tiến trình này, Chân sư chủ toạ. Ngài không thể làm gì vì đây là vấn đề của riêng đệ tử. Ngài chỉ có thể cố gắng gia tăng ước muốn của linh hồn bằng quyền năng tư tưởng có hướng của Ngài. Phàm ngã cũng không thể làm gì, vì tại điểm này cả thể xác lẫn hiện thể cảm dục chỉ đơn thuần là những bộ máy tự động, đang chờ đợi một cách đáp ứng quyết định của đệ tử, lúc y đang vận hành trong thể trí của mình. Chỉ đệ tử mới có thể hành động trên mức tâm thức trí tuệ tại điểm nỗ lực này. Một khi y làm thế, khuôn đúc được gieo. Hoặc y tiến bước hướng về cánh cửa ánh sáng, nơi Chân sư nắm tay y và Thiên Thần của Hiện Diện trở nên hữu hiệu và hoạt động theo cách mà tôi không thể mô tả cho bạn, hoặc y rơi trở lại tạm thời vào tình trạng sống của phàm nhân; ảo cảm và ảo lực lại phủ xuống y và Kẻ Chận Ngõ chen vào giữa đệ tử và ánh sáng từ cánh cửa đang mở và phục hồi hoạt động. Đệ tử hoặc đột nhiên tỉnh thức đến một nắm bắt rộng lớn hơn về thực tại và một thấu hiểu sâu sắc hơn về Thiên Cơ và phần việc của y trong đó, hoặc “các bức màn của trần gian” khép lại trên đầu y; thị kiến phai mờ và y quay về đời sống của một con người bình thường, có lẽ trong suốt kiếp lâm phàm mà cơ hội đã được đưa đến cho y. Tuy nhiên, nếu y đi tới xuyên qua cánh cửa đó, thì (tùy vào lần điểm đạo trở nên khả hữu) sẽ là sự mặc khải và các hệ quả đi kèm. Sự mặc khải sẽ không phải là [93] sự mặc khải về các khả năng. Đó là một kinh nghiệm thực chứng, dẫn đến việc gợi lên các quyền năng và năng lực mới và sự nhận ra những phương thức và lĩnh vực phụng sự mới. Các quyền năng này được điều kiện bởi các phát triển trong quá khứ và sự hiện hữu của các năng lực này, cộng với một tự do vận động “trong những giới hạn của Thánh Đoàn” vượt xa bất cứ điều gì y có thể đã mơ tưởng, trở thành sở hữu của y. Những tiếp xúc mới trong Thánh Đoàn giờ đây khả hữu cho y; trách nhiệm mới đặt lên vai y và những “lĩnh vực năng lực” mới trở nên sẵn sàng để y sử dụng trong phụng sự thế gian.

You have often heard that the Guru, or Teacher, in the East would teach His disciple by the giving of a hint. If you have read and studied the ancient writings of India (and who today has not read at least some of them?) you will have noted that these hints fall into two categories:

Bạn hẳn thường nghe rằng Đạo sư, hay Huấn sư, ở phương Đông sẽ dạy Đệ tử của Ngài bằng cách đưa ra một gợi ý. Nếu bạn đã đọc và học các trước tác cổ Ấn Độ (và ngày nay ai mà chưa đọc ít nhất một phần?) bạn sẽ ghi nhận rằng những gợi ý này rơi vào hai loại:

1. Hints anent personal character in relation to reality and preparation for initiation.

1. Những gợi ý liên quan đến tính cách cá nhân trong tương quan với thực tại và sự chuẩn bị cho điểm đạo.

2. Hints anent the Oneness of Deity and man’s relation to an ascertained and gained unity.

2. Những gợi ý liên quan đến Tính Nhất Như của Thượng đế và mối liên hệ của con người với một nhất thể đã được xác chứng và đạt được.

To these were later added teachings concerning the creative process when God made the worlds, and much concerning energy and the development of the centres (laya-yoga, as it is technically called). These four lines of teaching are practically all that is given and all the training offered was of an exoteric nature. You can see for yourselves that it was preparatory in nature and that the training for initiation was so deeply hidden in the emphasis laid upon the relation of Guru and disciple that it did not find expression in words and was not, therefore, revealed in any way. The few possible symbolic hints and meanings have been investigated and the erudite esotericist has already drained these sources of information dry.

Về sau, vào những điều này được bổ sung các giáo huấn liên quan đến tiến trình sáng tạo khi Thượng đế tạo dựng các thế giới, và nhiều điều liên quan đến năng lượng và sự phát triển các luân xa (laya-yoga, như nó được gọi một cách kỹ thuật). Bốn tuyến giáo huấn này hầu như là tất cả những gì được ban ra và tất cả đào luyện được cung cấp đều mang tính hiển giáo. Các bạn có thể tự thấy rằng nó mang tính chuẩn bị và rằng việc đào luyện cho điểm đạo được ẩn giấu rất sâu trong nhấn mạnh đặt vào mối tương quan giữa Đạo sư và đệ tử đến độ nó không bộc lộ ra bằng lời và do đó không được tiết lộ theo bất cứ cách nào. Những gợi ý và ý nghĩa biểu tượng ít ỏi có thể có đã được khảo cứu và nhà bí truyền học uyên thâm đã cạn kiệt các nguồn thông tin đó.

What I am seeking to do is to carry the teaching another stage outward and make exoteric what the Master taught His disciple in the ancient days when the fundamental truths anent the universal consciousness had been somewhat grasped by the disciple and the particular had been also successfully worked out in its rightful place and manner by the disciple. The old rule ever remains an unalterable rule that all true esoteric teaching begins with the universal and ends with the particular; [94] this you must ever and always bear in mind. It is my difficult task to put into modern language and into symbolic forms these hitherto unwritten rules. Much that has been given out since the time that H.P.B. struggled and worked has been truth, including information anent initiation. Much has been fanciful and grievously distorted.

Điều tôi đang tìm cách làm là đưa giáo huấn thêm một giai đoạn ra bên ngoài và làm hiển giáo điều mà Chân sư dạy đệ tử của Ngài trong những ngày xưa, khi các chân lý cơ bản liên quan đến tâm thức vũ trụ đã được đệ tử phần nào nắm bắt và các sự việc cá biệt cũng đã được triển khai thành công theo đúng chỗ và đúng cách bởi đệ tử. Quy luật xưa luôn luôn vẫn là một quy luật bất biến rằng mọi giáo huấn nội môn chân chính bắt đầu từ cái phổ quát và kết thúc ở cái cá biệt; [94] điều này các bạn phải luôn luôn ghi nhớ. Nhiệm vụ khó khăn của tôi là diễn đạt bằng ngôn ngữ hiện đại và bằng những hình thức biểu tượng các quy luật trước nay chưa từng được chép lại này. Nhiều điều đã được ban truyền kể từ thời Bà H.P.B. đã đấu tranh và làm việc là chân lý, bao gồm thông tin liên quan đến điểm đạo. Nhiều điều khác thì hoang tưởng và bị bóp méo trầm trọng.

When a neophyte first of all applies to the Master for the training needed prior to initiation, what would you say was the Master’s problem? I am assuming that the Master knows His disciple well, is convinced of his sincerity and of the appropriateness of his appeal. I am also assuming that you realise that the so-called “appeal” is the quality of the life lived, the service rendered and the presence of an illumined mind—illumined through some definite measure of soul contact.

Khi một người sơ cơ trước hết thỉnh cầu Chân sư về sự đào luyện cần thiết trước điểm đạo, bạn sẽ nói vấn đề của Chân sư là gì? Tôi giả định rằng Chân sư biết rõ Đệ tử của Ngài, tin chắc về sự chân thành và sự thích đáng của lời thỉnh cầu của y. Tôi cũng giả định rằng các bạn hiểu rằng cái gọi là “lời thỉnh cầu” chính là phẩm chất của đời sống được sống, sự phụng sự đã thực hiện và sự hiện diện của một thể trí được soi sáng—được soi sáng thông qua một mức độ xác định của tiếp xúc với linh hồn.

The Master’s problem is to teach him the stabilisation of the relation between soul and body so that,at will, contact can be established between them; the astral body provides no hindrance that amounts to anything, and through that soul contact a facile relation to the Hierarchy, its purposes and resources can be made. Secondly, the nature of energy and its wise utilisation through the medium of an integrated personality is indicated.

Vấn đề của Chân sư là dạy y sự ổn định hoá mối liên hệ giữa linh hồn và xác thân để sao cho, tuỳ ý, có thể thiết lập tiếp xúc giữa chúng; thể cảm dục không còn là chướng ngại đáng kể, và qua tiếp xúc với linh hồn ấy có thể thiết lập một mối liên hệ thông suốt với Thánh Đoàn, với các mục đích và các nguồn lực của Thánh Đoàn. Thứ đến, bản chất của năng lượng và việc sử dụng khôn ngoan nó qua trung gian của một phàm ngã tích hợp được nêu ra.

It is essential that one thing be grasped by all of you, prior to undertaking work with me. It is that in a group of disciples such as this, the large majority have already taken the first initiation and are being prepared for one of the later initiations. There is nothing surprising in this statement or any particular cause for elation or for pleasure. An immense number of the world aspirants evidence—through their aliveness to the spiritual issues, through the intensity of their aspiration and through their struggles to be good, self-sacrificing and wise—that the life of the indwelling Christ is most definitely moving in them and is present in their hearts. The initiation of “spiritual fixation upon the physical plane” (as the birth at Bethlehem, the first initiation, is sometimes called) has already been undergone by thousands, and they are sincerely and definitely moving forward upon the Way. I would remind you here that many, many lives can elapse between the first initiation and the second—long, long interludes of silent and almost unapparent [95] growth. You are in no way unique or far ahead of the senior world aspirants. In that lies cause for encouragement and humility. It is naturally not my intention to state who is being prepared for any particular initiation. That is a matter for each of you to discover for himself. It is a matter of interior orientation and not a matter of outside information.

Điều cốt yếu mà tất cả các bạn phải nắm trước khi đảm nhận công việc với tôi là: trong một nhóm đệ tử như thế này, đa số lớn đã lãnh lần điểm đạo thứ nhất và đang được chuẩn bị cho một trong những lần điểm đạo sau. Không có gì đáng ngạc nhiên trong phát biểu này hoặc có lý do đặc biệt để hân hoan hay vui sướng. Một con số lớn lao những người chí nguyện của thế giới chứng tỏ—qua sự sống động đối với các vấn đề tinh thần, qua cường độ của nguyện vọng và qua nỗ lực trở nên thiện lành, hy sinh và khôn ngoan—rằng sự sống của Đấng Christ nội tại đang rất dứt khoát vận hành trong họ và đang hiện diện trong tim họ. Lần điểm đạo của “định cố tinh thần trên cõi hồng trần” (như sự giáng sinh ở Bethlehem, đôi khi là tên gọi của lần điểm đạo thứ nhất) đã được hàng ngàn người trải qua, và họ chân thành, dứt khoát tiến bước trên Con Đường. Tôi muốn nhắc các bạn ở đây rằng rất nhiều, rất nhiều kiếp có thể trôi qua giữa lần điểm đạo thứ nhất và thứ hai—những khoảng dài, rất dài của sự tĩnh lặng và hầu như không hiển lộ [95] tăng trưởng. Các bạn không hề độc nhất hay vượt xa những người chí nguyện thâm niên của thế giới. Ở đó có lý do để khích lệ và khiêm cung. Dĩ nhiên tôi không có ý định nói ai đang được chuẩn bị cho lần điểm đạo nào. Đó là việc mỗi người trong các bạn phải tự khám phá cho mình. Đó là vấn đề định hướng nội tâm chứ không phải vấn đề thông tin từ bên ngoài.

One point anent the taking of the first three major initiations, I would like to refer to at this point. It is that they have always to be taken when in a physical body and upon the physical plane, thus demonstrating initiate consciousness through both mind and brain. This is a point not oft emphasised and sometimes contradicted.

Một điểm liên quan đến việc lãnh ba lần điểm đạo chính đầu tiên, tôi muốn đề cập vào lúc này. Đó là chúng luôn luôn phải được lãnh khi ở trong thể xác và trên cõi hồng trần, do đó biểu lộ tâm thức của điểm đạo đồ qua cả thể trí lẫn bộ não. Đây là điểm ít khi được nhấn mạnh và đôi khi bị phủ nhận.

I would like also to point out with all the clarity and power at my disposal, the very deep necessity for humility and its constantly recurring expression. I refer not to an inferiority complex but to that adjusted sense of right proportion which equips its possessor with a balanced point of view as to himself, his responsibilities and his life work. This, when present, will enable him to view himself dispassionately and his presented opportunities with equal dispassion. Undoubtedly all disciples, you among them, have speculated upon your status and standing upon the Path and upon the status of your co-disciples. That is, after all, both natural and human. Some of you are too humble in the personal sense and not in the sense of true humility. By that I mean that you are so afraid of pride and bombast and an over-estimation of your capacities that you are untrue to the realities and belittle the power of your souls. R.S.U. is a case in point and needs to walk humbly in the spiritual life which involves a correct recognition of place and opportunity and not this constant emphasis upon her inability to measure up. She owes it to my group of disciples and to me to see herself as she truly is—a disciple in preparation for a certain initiation and with much wisdom at her disposal. W.D.S. suffers from an inferiority complex which drives him to an exterior enforcement of his personality upon others and expresses itself in a subtle, spiritual jealousy of those who impress themselves upon his consciousness as his spiritual superiors. He needs to accept himself as he is, to be glad that there are those who guarantee to him the possibility of future [96] unfoldment, because they have already achieved more than he has, and then to forget about himself as he accepts discipleship and finds himself so busy in true service that he has no time for ceaseless comparisons with others.

Tôi cũng muốn chỉ ra với tất cả sự rõ ràng và năng lực có trong tầm tay tôi, nhu cầu rất sâu xa về khiêm cung và sự biểu hiện lặp đi lặp lại của nó. Tôi không nói đến mặc cảm tự ti mà nói đến Ý thức về tỉ lệ đã được điều chỉnh đúng, trang bị cho người sở hữu nó một quan điểm quân bình về bản thân, trách nhiệm và công việc đời sống của mình. Khi điều này hiện diện, nó sẽ cho phép y nhìn mình một cách vô tư và nhìn các cơ hội được trình hiện với cùng một sự vô tư. Không nghi ngờ gì, tất cả các đệ tử, trong đó có các bạn, đã suy đoán về vị thế và địa vị của mình trên Thánh Đạo và về vị thế của các bạn đồng đệ tử của mình. Rốt cuộc, điều đó vừa tự nhiên vừa nhân bản. Một số bạn quá khiêm nhường theo nghĩa cá nhân mà không phải theo nghĩa của khiêm cung chân thật. Ý tôi là các bạn quá sợ kiêu mạn và khoa trương và đánh giá quá cao năng lực của mình đến nỗi trở nên không trung thực với các thực tại và coi nhẹ quyền năng của linh hồn mình. R.S.U. là một trường hợp điển hình và cần bước đi khiêm cung trong đời sống tinh thần, điều hệ tại ở sự nhận biết đúng đắn về vị trí và cơ hội chứ không phải ở việc nhấn mạnh liên tục vào sự bất lực không đáp ứng được yêu cầu. Bà ấy mắc nợ nhóm đệ tử của tôi và mắc nợ tôi việc phải thấy mình đúng như thật—một đệ tử đang chuẩn bị cho một lần điểm đạo nhất định và có nhiều minh triết trong tầm tay. W.D.S. chịu đựng một mặc cảm tự ti khiến y cưỡng bức phàm ngã của mình áp đặt lên người khác và biểu hiện thành một sự ghen tị tinh vi mang tính tinh thần đối với những ai in dấu được vào tâm thức y như là bậc thượng thừa tinh thần của y. Y cần chấp nhận bản thân như y đang là, mừng rằng có những người bảo chứng cho y khả năng tương lai [96] khai mở, vì họ đã thành tựu nhiều hơn y, rồi quên bản thân khi y chấp nhận địa vị đệ tử và thấy mình bận rộn đến mức trong phụng sự chân chính không còn thời gian so bì triền miên với người khác.

True humility is based on fact, on vision and on time pressures. Here I give you a hint and would ask you to think deeply on these three foundations of a major personality attitude which must be held and demonstrated before each initiation. I would remind you that there must always be humility in the presence of true vision.

Khiêm cung chân thật dựa trên sự kiện, trên thị kiến và trên áp lực của thời gian. Ở đây tôi đưa ra cho bạn một gợi ý và muốn bạn suy nghĩ sâu xa về ba nền tảng này của một thái độ phàm ngã then chốt, thái độ phải được nắm giữ và biểu hiện trước mỗi lần điểm đạo. Tôi muốn nhắc bạn rằng phải luôn có khiêm cung trước sự hiện diện của thị kiến chân thật.

This experiment which I am undertaking has its dangers. The disciples in a Master’s Ashram upon the inner planes know somewhat the status of their co-disciples, but they do not always carry this knowledge through into the brain consciousness. This is very largely a protective factor because they could not be trusted to handle the knowledge correctly upon the physical plane. They might be super-critical of a fellow disciple who was, temporarily, not living up to his initiation objective; they might be subtly jealous or unduly self-depreciative; they might treat the disciple who is ahead of them upon the Path of Initiation as someone superior and set apart and thereby complicate his problem and his effort; they might lose a sense of proportion as to initiation itself, as to its processes and its states, and this through too close an approach to, or a misunderstanding of, another struggling initiate-disciple. The pitfalls are many and I tell you to beware. Attend to your own life and your own business. Speculate not as to the status of the other disciples in my group who are your close cooperators and co-sharers in my experiment. Cultivate the humility which is based on understanding and vision and so serve the world, your fellow disciples and serve me also—as the major point of your contact with the Hierarchy.

Thí nghiệm mà tôi đang đảm nhận có các hiểm nguy của nó. Những đệ tử trong Ashram của một Chân sư trên các cõi nội giới phần nào biết được vị thế của các bạn đồng đệ tử, nhưng họ không phải lúc nào cũng mang hiểu biết ấy vào tâm thức bộ não. Đây phần lớn là một yếu tố bảo vệ vì họ không thể được tin cậy để xử lý đúng đắn hiểu biết đó trên cõi hồng trần. Họ có thể quá khắt khe phê phán một đệ tử đồng môn đang, tạm thời, không sống xứng với mục tiêu điểm đạo của mình; họ có thể ghen tị một cách tinh vi hay quá tự hạ thấp; họ có thể đối xử với đệ tử đi trước họ trên Con Đường Điểm Đạo như một người vượt trội, tách riêng và nhờ vậy làm phức tạp vấn đề và nỗ lực của y; họ có thể đánh mất Ý thức về tỉ lệ đối với chính điểm đạo, đối với các tiến trình và các trạng thái của nó, và điều này là do một sự tiếp cận quá gần hoặc do hiểu lầm một đồng đệ tử-điểm đạo đồ khác đang vật lộn. Có nhiều cạm bẫy và tôi bảo các bạn hãy coi chừng. Hãy lo việc đời sống của chính bạn và công việc của chính bạn. Đừng suy đoán về vị thế của các đệ tử khác trong nhóm của tôi, những người là các cộng tác viên gần gũi và người cùng chia sẻ thí nghiệm của tôi với bạn. Hãy tu dưỡng khiêm cung dựa trên thấu hiểu và thị kiến và như thế mà phụng sự thế giới, các đệ tử đồng môn và phụng sự cả tôi nữa—như điểm chính yếu trong tiếp xúc của bạn với Thánh Đoàn.

I have often pointed out that a disciple is known by his influence upon his environment, and an initiate by the wide scope of his world service. How does it happen then that a few of you (not all) are not distinguished by such service and are of relatively small importance in world affairs? Several things could explain this. First of all, a disciple may be called to work off certain karmic relationships, to fulfil certain obligations [97] of very ancient origin and thus “clear the decks” for more complete and uninterrupted service to humanity at a later date. This occurs quite frequently between the first and second initiations. Sometimes a disciple may be doing effective service upon the inner planes and on a large scale and yet there may be no evidence of this upon the physical plane, except in the beauty of a life lived. Others may be learning certain techniques of psychological relationships and of energy distribution and may have dedicated some particular life to the acquiring of these esoteric sciences. One life is but a short moment in the long cycle of the soul. The true disciple will never fall back on the reasons given above as alibis for lack of effort. I would remind you that world influence alone does not always imply discipleship. There are many groups—well known and magnetic—which have at their centre some dominant personality who is not necessarily a disciple.

Tôi đã nhiều lần chỉ ra rằng một đệ tử được biết đến bởi ảnh hưởng của y lên môi trường của mình, và một điểm đạo đồ được biết đến bởi bề rộng hoạt động phụng sự thế gian của y. Vậy làm sao lại có chuyện một vài người trong các bạn (không phải tất cả) không nổi bật bởi phụng sự như thế và có tầm quan trọng tương đối nhỏ trong các công việc thế gian? Có vài điều có thể giải thích điều này. Trước hết, một đệ tử có thể được kêu gọi để giải trừ một số mối quan hệ nghiệp quả, để hoàn thành những bổn phận [97] có nguồn gốc rất cổ xưa và như thế “dọn đường” cho phụng sự hoàn bị và không gián đoạn hơn đối với nhân loại vào một kỳ sau. Điều này xảy ra khá thường xuyên giữa lần điểm đạo thứ nhất và thứ hai. Đôi khi một đệ tử có thể đang làm phụng sự hữu hiệu trên các cõi nội giới và ở quy mô lớn mà dẫu thế có thể không có bằng chứng nào về điều này trên cõi hồng trần, ngoại trừ ở vẻ đẹp của một đời sống đã sống. Những người khác có thể đang học các kỹ thuật về các mối quan hệ tâm lý và về phân phối năng lượng và có thể đã hiến dâng một kiếp sống đặc biệt cho việc tiếp thu các khoa học nội môn này. Một kiếp sống chỉ là khoảnh khắc ngắn trong chu kỳ dài của linh hồn. Đệ tử chân chính sẽ không bao giờ vin vào các lý do nêu trên như những lời bào chữa cho sự thiếu nỗ lực. Tôi muốn nhắc bạn rằng chỉ ảnh hưởng thế giới thôi không phải lúc nào cũng hàm ý địa vị đệ tử. Có nhiều nhóm—nổi tiếng và có từ tính—mà ở trung tâm của chúng là một phàm ngã thống trị không nhất thiết là một đệ tử.

In connection with this group of my disciples and with this experiment which I am undertaking, you need to arrive at a point in group experience wherein you are not so intensely preoccupied with your own development, status and service; you all need to learn to decentralise yourselves so that the work to be done becomes the factor of main importance. When this is the case, then the intense self-interest with some aspect of the personality expression, some weakness of character, some dear objective, or some physical condition will cease. You will find the cultivation of a “divine indifference” (as I have told you several times) of great assistance in forgetting the little self; this frequently looms so large (from habit) that it shuts out the higher self; it comes between the disciple and the Master and prevents contact with his co-disciples, thus negating effective service.

Liên quan đến nhóm đệ tử của tôi này và với thí nghiệm mà tôi đang thực hiện, các bạn cần đạt đến một điểm trong kinh nghiệm nhóm, nơi mà các bạn không còn quá bận tâm mãnh liệt với sự phát triển của riêng mình, địa vị và phụng sự của riêng mình; tất cả các bạn cần học cách phi tập trung vào bản thân để công việc cần làm trở thành yếu tố quan trọng nhất. Khi điều này xảy ra, thì sự quan tâm mãnh liệt đến một phương diện nào đó của biểu hiện phàm ngã, một điểm yếu của Tính cách, một mục tiêu thân thương, hoặc một tình trạng thể chất sẽ chấm dứt. Bạn sẽ thấy rằng việc tu dưỡng “Điềm nhiên thiêng liêng” (như tôi đã nói với bạn vài lần) sẽ giúp đỡ rất lớn trong việc quên cái tự ngã nhỏ bé; điều này thường phình lớn (do thói quen) đến độ che lấp chân ngã; nó chen giữa đệ tử và Chân sư và ngăn cản tiếp xúc với các đồng đệ tử của y, nhờ đó làm vô hiệu phụng sự hữu hiệu.

There is one more point which I would like to take up with you so that there may be complete understanding. There come periods in the life of the disciple when there appears to be no contact with the Master and as if all relationship had been, at least, temporarily severed. Where accepted disciples are concerned, I would like to emphasise that any such severance is not possible. Occultly, it cannot happen and the Master’s love for the disciple makes it again impossible. There is only one condition [98] which can result in severance and that is deliberate and conscious effort by the disciple, carried over a very long period of time, to bring it about. A Master does not lightly admit a disciple to His group and once having done so, the situation is irrevocable from the standpoint of the Master. Any delay in progress and any final severance comes entirely from the pupil. There may be a temporary suspension of communication and this may last throughout one life; that, however, is not long from the angle of the soul; it is but a flash of small moment and significance in the long career of the soul. It looms as large and important in the personality life but may signify only the grasping of opportunity in the eternal now of the soul.

Còn một điểm nữa tôi muốn bàn với các bạn để có sự thông hiểu trọn vẹn. Sẽ có những thời kỳ trong đời sống của đệ tử khi dường như không có tiếp xúc với Chân sư và như thể mọi mối liên hệ đã, ít nhất là tạm thời, bị cắt đứt. Liên quan đến các đệ tử được chấp nhận, tôi muốn nhấn mạnh rằng bất kỳ sự cắt đứt nào như thế là không thể. Xét theo nội môn, điều đó không thể xảy ra và tình thương của Chân sư dành cho đệ tử một lần nữa làm điều đó thành bất khả. Chỉ có một điều kiện [98] có thể dẫn đến cắt đứt, đó là nỗ lực cố ý và có ý thức của đệ tử, được duy trì suốt một thời kỳ rất dài, nhằm tạo ra điều đó. Một Chân sư không dễ dàng tiếp nhận một đệ tử vào nhóm của Ngài và một khi đã làm vậy, tình huống là bất khả hủy xét từ lập trường của Chân sư. Mọi trì hoãn trong tiến bộ và mọi cắt đứt cuối cùng hoàn toàn đến từ người môn sinh. Có thể có sự tạm dừng liên lạc và điều đó có thể kéo dài suốt một kiếp; tuy vậy, điều đó không lâu dài xét từ góc độ của linh hồn; chỉ là một tia chớp của khoảnh khắc nhỏ nhoi trong sự nghiệp dài lâu của linh hồn. Nó hiện ra thật lớn và quan trọng trong đời sống phàm ngã nhưng có thể chỉ biểu thị việc nắm bắt cơ hội trong Hiện Tại Vĩnh Cửu của linh hồn.

I have, therefore, been near you and watched at intervals the tide of life roll over you; I have noted your progress and your delay. I have watched you succeed and I have seen you fail. This I do through noting the pulsation of your light—not in watching the detail of your daily living. That is not warranted in this time of crisis, and owing to the evolutionary development of disciples will never again be warranted. You are still within my group aura, within my Ashram. Your position there is determined by yourself and not by me. There exists at times something which resembles a pulsation in the relation between teacher and pupil—a withdrawing and a coming forward where the probationary disciple is concerned and a standing with steadfastness and expectancy on the part of the teacher. When the fluctuations of contact are ended and the pupil is stabilised and becomes a “steadily approaching point of energy,” then he becomes an accepted disciple. Some in my group of disciples are stabilising; some are retreating; some few are approaching and I watch with interest the waxing and the waning of their light.

Vì vậy, tôi đã ở gần các bạn và thỉnh thoảng quan sát làn sóng đời sống cuộn qua các bạn; tôi đã ghi nhận tiến bộ và sự chậm trễ của các bạn. Tôi đã thấy các bạn thành công và đã thấy các bạn thất bại. Tôi làm điều này bằng cách ghi nhận nhịp đập của ánh sáng các bạn—chứ không phải quan sát chi tiết đời sống hằng ngày của các bạn. Điều đó không còn được yêu cầu trong thời khủng hoảng này, và do sự phát triển tiến hoá của các đệ tử, sẽ không bao giờ nữa được yêu cầu. Các bạn vẫn ở trong hào quang nhóm của tôi, trong Ashram của tôi. Vị trí của các bạn ở đó do chính các bạn quyết định chứ không phải do tôi. Đôi khi tồn tại điều gì đó giống như một sự dao động theo nhịp trong mối liên hệ giữa thầy và trò—một sự rút lui và một sự tiến tới nơi đệ tử dự bị có liên quan, và một sự đứng vững vàng, đầy chờ đợi nơi phía người thầy. Khi các dao động của tiếp xúc chấm dứt và người môn sinh được ổn định và trở thành “một điểm năng lượng đang tiến gần đều đặn”, thì y trở thành đệ tử được chấp nhận. Một số người trong nhóm đệ tử của tôi đang được ổn định; một số đang thoái lui; một vài người đang tiến gần và tôi chăm chú quan sát sự vơi đầy của ánh sáng họ.

The mobilisation of every disciple is demanded at this time and when I say “this time” I refer to the present time and the next fifty years. This mobilisation involves the focussing of the disciple’s energies, his time and his resources on behalf of humanity; it requires a new dedication to service, a consecration of the thought-life (do you realise what that would mean, my brothers?) and a forgetfulness of self which would rule out all moods and feelings, all personality desires, resentments, grievances [99] and all pettiness in your relations with your fellowmen. On the physical plane, it would mean the conditioning of all active, outer living so that the whole of life becomes one focussed active service. I would ask you to study the above phrasing, using it as a light of revelation so that you may know wherein you are lacking and what you have to do.

Sự tổng động viên của mỗi đệ tử được đòi hỏi vào lúc này và khi tôi nói “lúc này” tôi muốn nói đến hiện tại và năm mươi năm tới. Sự tổng động viên này bao hàm việc tập trung các năng lượng, thời gian và tài nguyên của đệ tử vì lợi ích của nhân loại; nó đòi hỏi một sự hiến dâng mới cho phụng sự, một sự thánh hiến đời sống tư tưởng (các huynh đệ của tôi, các bạn có nhận ra điều ấy có nghĩa gì không?) và một sự quên mình sẽ loại bỏ mọi tâm trạng và cảm xúc, mọi ước muốn của phàm ngã, mọi oán hận, bất bình [99] và mọi nhỏ nhen trong các mối quan hệ của bạn với đồng loại. Trên cõi hồng trần, điều đó sẽ có nghĩa là quy định tất cả nếp sống bên ngoài, tích cực đến độ toàn bộ đời sống trở thành một phụng sự tích cực tập trung. Tôi muốn các bạn nghiên cứu lời diễn đạt trên, dùng nó như một ánh sáng mặc khải để các bạn biết mình thiếu ở đâu và cần phải làm gì.

I have given you in the past a very great deal of instruction, help and encouragement. That you still have and it would profit you much if you spent some time in recalling it. But today make a new beginning—not for your own sake, but for the helping of a needy world. Forget yourselves.

Trong quá khứ, tôi đã ban cho các bạn một lượng rất lớn chỉ dẫn, trợ giúp và khích lệ. Điều ấy các bạn vẫn còn giữ và sẽ rất lợi lạc nếu bạn dành ít thời gian để hồi tưởng lại. Nhưng hôm nay hãy bắt đầu lại—không vì lợi ích riêng của bạn, mà để trợ giúp một thế giới đang thiếu thốn. Hãy quên mình đi.

The pressure of the work upon me has been very heavy lately. Much work has rested upon my shoulders, incident to the world situation. This has involved much effort on the part of the Hierarchy to prevent a complete collapse of the structure of human civilisation, as it exists at this time. The sound foundations of part of the structure must be saved; all else may have to go.

Áp lực công việc đè lên tôi gần đây thật nặng nề. Rất nhiều việc đã đặt trên vai tôi, do tình hình thế giới. Điều này đòi hỏi nhiều nỗ lực từ phía Thánh Đoàn nhằm ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn của cấu trúc văn minh nhân loại như hiện thời nó đang tồn tại. Những nền tảng vững chắc của một phần cấu trúc ấy phải được cứu giữ; còn mọi thứ khác có thể phải ra đi.

Many things contribute to the inertia that today seems to afflict many of the disciples of the world who should be active in service and helpfulness. This applies also to you. The pressure of war conditions and concern over your own personal affairs, attitudes and reactions have crowded much that I might say and have said out of your minds. One of the first lessons which those in training for initiation have to master is that difficult dual attitude which permits right personality activity and real interest in personality affairs and yet at the same time permits nothing personal to interfere with the subjective spiritual life, with service and with the training, given in preparation for initiation. As time goes on, I shall try to bridge between the old techniques and the newer modes of training by using a part of the ancient techniques—now becoming somewhat obsolete—and the giving of those hints which will lead you to understand the nature, purpose and methods of educating accepted disciples in the processes of initiation.

Nhiều yếu tố góp phần vào tình trạng trì trệ mà hôm nay dường như đang làm suy trệ nhiều đệ tử trên thế gian, những người lẽ ra phải năng động trong phụng sự và trợ giúp. Điều này cũng áp dụng cho bạn. Sức ép của hoàn cảnh chiến tranh và sự bận tâm về các vấn đề cá nhân, thái độ và phản ứng của chính bạn đã lấn át nhiều điều tôi có thể nói và đã nói khỏi tâm trí bạn. Một trong những bài học đầu tiên mà những ai đang được huấn luyện cho điểm đạo phải nắm vững là thái độ song hành khó khăn, vốn vừa cho phép hoạt động phàm ngã đúng đắn và sự quan tâm thực sự đến các sự vụ của phàm ngã, lại vừa đồng thời không cho bất cứ điều gì có tính cá nhân xen vào đời sống tinh thần nội tại, vào phụng sự và vào sự huấn luyện được ban ra để chuẩn bị cho điểm đạo. Theo thời gian, tôi sẽ cố gắng bắc cầu giữa các kỹ thuật cũ và những phương thức huấn luyện mới hơn bằng cách sử dụng một phần các kỹ thuật cổ xưa—nay đang phần nào lỗi thời—và đưa ra những gợi ý sẽ dẫn bạn đến sự thấu hiểu bản chất, mục đích và phương pháp giáo huấn các đệ tử đã được chấp nhận trong các tiến trình của điểm đạo.

Above all, I would say: Seek to recover the fervour of your earlier, spiritual aspiration and self-discipline. If you have never lost it (though many disciples have) seek to force that energy of inspiration to work out in an effective display of [100] definite action upon the physical plane. How, you ask, my brothers? By increasing the radiance of your light in the world through love and meditation, so that others may turn to you as to a beacon light in the dark night of life which seems in this century to have descended upon humanity; seek to love more than you have ever believed was possible, so that others—frozen and chilled by life circumstance and the present horror of human existence—may turn to you for warmth and comforting. What I and all who are affiliated with the Hierarchy seek to do at this time of desperate crisis is to find those who are dependable points of living energy and through them pour out the love, the strength and the light which the world needs and must have if this storm is to be weathered. I ask you to render this service to me and to humanity. I ask nothing spectacular; it will, however, require a strenuous effort of your souls if you are to respond adequately; I ask nothing impossible; I would remind you that the apathy of the physical body and brain, the inertia of the feeling nature and the sense of futility of the mind when confronted with large issues will seem to hinder you.

Trên hết, tôi muốn nói: Hãy tìm lại nhiệt huyết của khát vọng tinh thần buổi đầu và sự tự kỷ luật của bạn. Nếu bạn chưa từng đánh mất nó (dù nhiều đệ tử đã đánh mất), hãy cố thúc đẩy năng lượng cảm hứng ấy biểu hiện ra thành một biểu hiện hiệu quả của [100] hành động dứt khoát trên cõi hồng trần. Làm thế nào, các huynh đệ của tôi, bạn hỏi? Bằng cách gia tăng sự rực rỡ của ánh sáng bạn trong thế gian qua tình thương và tham thiền, để những người khác có thể quay về với bạn như hướng về một ngọn hải đăng trong đêm tối của đời sống, vốn trong thế kỷ này dường như đã phủ xuống nhân loại; hãy cố yêu thương nhiều hơn điều bạn từng tin là có thể, để những người khác—bị đông cứng và tê buốt bởi hoàn cảnh đời sống và nỗi kinh hoàng hiện tại của sự tồn tại nhân loại—có thể tìm đến bạn để được sưởi ấm và an ủi. Điều mà tôi và tất cả những ai liên kết với Thánh Đoàn đang tìm cách thực hiện trong thời khủng hoảng tuyệt vọng này là tìm ra những người là các điểm năng lực sống đáng tin cậy và, qua họ, tuôn đổ tình thương, sức mạnh và ánh sáng mà thế giới cần và nhất định phải có nếu cơn bão này muốn được vượt qua. Tôi thỉnh cầu bạn thực hiện sự phụng sự này cho tôi và cho nhân loại. Tôi không đòi hỏi điều gì ngoạn mục; tuy nhiên, sẽ cần một nỗ lực mãnh liệt của linh hồn bạn nếu bạn muốn đáp ứng một cách xứng hợp; tôi không yêu cầu điều gì bất khả; tôi muốn nhắc bạn rằng tính thờ ơ của thể xác và bộ não, sự trì trệ của bản chất cảm dục và cảm thức về sự vô vọng của thể trí khi đối diện với những vấn đề lớn dường như sẽ cản trở bạn.

Again I point the Way to you and again I wait. Will you intensify your inner life and achieve the power which will enable you to live simultaneously as an efficient human being and a living, loving soul? It is the establishing of the continuity of this dual process which is your main need at this time; it will lead to fusion, personality coordination and a greatly increased efficiency. Many disciples are not young and the settled habit of thought and of the feeling life is not easy to disrupt. They must, however, be disrupted and you must feel no resentment. The rhythms of the personality are stabilised and constitute your line of least resistance. You must cut athwart these, thus forming the cross of life and existence will then take on added difficulty. The results will be new rhythms of beauty.

Một lần nữa, tôi chỉ cho bạn Con Đường và lại chờ đợi. Bạn có tăng cường đời sống nội tâm và đạt được quyền năng cho phép bạn sống đồng thời như một con người hữu hiệu và như một linh hồn sống động, đầy yêu thương chăng? Việc thiết lập tính liên tục của tiến trình song hành này chính là nhu cầu chủ yếu của bạn lúc này; nó sẽ dẫn đến sự dung hợp, sự phối hợp của phàm ngã và một hiệu năng được tăng lên rất nhiều. Nhiều đệ tử không còn trẻ và thói quen đã ổn định của tư tưởng và của đời sống cảm xúc không dễ phá vỡ. Tuy nhiên, chúng phải bị phá vỡ và bạn không được nuôi dưỡng sự bất bình. Các nhịp điệu của phàm ngã đã được ổn định và cấu thành con đường ít trở ngại nhất của bạn. Bạn phải cắt ngang chúng, nhờ đó hình thành thập giá của đời sống và sự tồn sinh khi ấy sẽ trở nên khó khăn hơn. Kết quả sẽ là những nhịp điệu mới của vẻ đẹp.

To those who are standing in the blaze of pain (and their numbers are Legion), of agony, anxiety and distress—seeing it on every hand and attempting to stand steady in the midst of it all—I say: That which appears is not always that which truly is; that which rends and disrupts the personality life is frequently the agent of release, if rightly apprehended; that which will emerge when the Forces of Light have penetrated the world darkness will demonstrate the nature of the undying human [101] spirit. To all of you I say: My love surrounds you and the aura of the Ashram of which I am the centre stands like a great defending wall around you and around all who are battling for the right. See that you battle. You can then, if you will, sense this loving protection. Each day, if you will, you can put yourself en rapport with your Master. We are not blind or uncaring. We know, however, that there are worse evils than death and pain. We know that this is the hour of humanity’s greatest opportunity and that if men can pass triumphantly through this and (by the strength of their own souls) surmount this very present evil, then the evolution of humanity will be hastened beyond all that was believed possible. It will constitute a release, self-achieved and self-initiated. This means as much in the life of mankind as it means in the life of the individual disciple. That chance and that opportunity must not be taken from man; the gained spiritual and eternal values are of far greater importance than his temporary agony.

Với những ai đang đứng trong ngọn lửa của đau đớn (và con số của họ là vô số), của thống khổ, lo âu và khốn quẫn—thấy nó ở khắp nơi và cố gắng đứng vững giữa tất cả—tôi nói: Cái hiện ra không phải lúc nào cũng là cái thực sự là; cái xé rách và làm rối loạn đời sống phàm ngã thường là tác nhân của sự giải thoát, nếu được lĩnh hội đúng; cái sẽ xuất lộ khi các Mãnh lực của Ánh sáng đã xuyên thấu bóng tối của thế gian sẽ phô bày bản chất của [101] tinh thần bất diệt của con người. Với tất cả các bạn tôi nói: Tình thương của tôi bao bọc bạn và hào quang của Đạo viện mà tôi là trung tâm đứng như một bức tường phòng hộ vĩ đại quanh bạn và quanh tất cả những ai đang chiến đấu cho lẽ phải. Hãy chiến đấu. Bấy giờ, nếu bạn muốn, bạn có thể cảm nhận sự che chở đầy tình thương này. Mỗi ngày, nếu bạn muốn, bạn có thể đặt mình vào mối tương giao với Chân sư của bạn. Chúng ta không mù lòa hay vô cảm. Tuy vậy, chúng ta biết rằng có những điều ác còn tệ hơn cái chết và nỗi đau. Chúng ta biết đây là giờ phút của cơ hội lớn lao nhất cho nhân loại, và rằng nếu con người có thể vượt qua điều này một cách khải hoàn và (bằng sức mạnh linh hồn riêng của họ) khắc phục được ác tính rất hiện tiền này, thì sự tiến hoá của nhân loại sẽ được gia tốc vượt xa mọi điều từng được tin là khả hữu. Đó sẽ là một sự giải phóng, tự mình đạt được và tự mình khởi xướng. Điều này có ý nghĩa lớn lao trong đời sống của nhân loại cũng như trong đời sống của từng đệ tử. Cơ may ấy và cơ hội ấy không được tước khỏi con người; những giá trị tinh thần và vĩnh cửu đạt được quan trọng hơn rất nhiều so với nỗi thống khổ tạm thời của con người.

Little as you may realise it as you think of Us in Our so-called safe retreats, the capacity of identification with all that is involved in world pain today and the sensitivity of Those connected with the Hierarchy to the unhappy condition of humanity makes Their task of standing-by one of supreme spiritual agony. They understand the depths of the reaction of humanity; they comprehend and understand, for They are one with all men. This involves a far greater comprehension than you can grasp and one which can only be adequately expressed in the word “identification.” They need the staunch support of all Their disciples, the steadfast love, the loyal attitude, the unquestioning response to human need which will enable Them to carry more easily the heavy burden which human karma has laid upon Them and which They carry voluntarily.

Dù bạn có thể ít nhận ra điều này khi nghĩ về Chúng ta trong những nơi ẩn cư gọi là an toàn của Chúng ta, năng lực đồng hoá với tất cả những gì liên hệ đến nỗi đau của thế giới hôm nay và sự nhạy cảm của Những Vị liên hệ với Thánh Đoàn trước tình trạng bất hạnh của nhân loại khiến công việc luôn đứng-bên-cạnh để nâng đỡ của Các Ngài trở thành một nỗi thống khổ tinh thần tột bậc. Các Ngài hiểu thấu bề sâu phản ứng của nhân loại; Các Ngài thấu triệt và hiểu, vì Các Ngài là một với mọi người. Điều này bao hàm một mức thấu hiểu lớn hơn rất nhiều so với điều bạn có thể nắm bắt và chỉ có thể được diễn đạt đầy đủ bằng từ “đồng hoá.” Các Ngài cần sự hậu thuẫn vững vàng của tất cả các đệ tử của Các Ngài, tình thương kiên định, thái độ trung kiên, sự đáp ứng không do dự trước nhu cầu của nhân loại—những điều sẽ giúp Các Ngài mang gánh nặng nặng nề mà nghiệp quả nhân loại đã đặt lên Các Ngài một cách nhẹ nhàng hơn và mà Các Ngài tự nguyện gánh vác.

Will you give this? Will you aid Our work in every possible way, both as personalities, dedicated to service, and as souls who walk the lighted Way? The need of humanity for love and light, the need of the Hierarchy for channels and for those who will work under direction upon the earth can call forth all that you have to give and can evoke your soul (the only true reward that the disciple seeks) in power and love. This will happen to you, if you will forget the little self. [102]

Bạn có trao tặng điều này chăng? Bạn có hỗ trợ công việc của Chúng ta bằng mọi cách có thể, vừa như những phàm ngã tận hiến cho phụng sự, vừa như những linh hồn bước đi trên Con Đường được soi sáng chăng? Nhu cầu về tình thương và ánh sáng của nhân loại, nhu cầu của Thánh Đoàn về các kênh truyền và về những người sẽ làm việc dưới sự chỉ đạo trên trái đất có thể gọi dậy tất cả những gì bạn có thể hiến tặng và có thể gợi lên linh hồn của bạn (phần thưởng chân thật duy nhất mà người đệ tử tìm cầu) trong quyền năng và tình thương. Điều này sẽ đến với bạn, nếu bạn chịu quên cái tiểu ngã. [102]

That your knowledge may be transmuted into wisdom and the eye of vision control your living processes and all your undertakings is the desire (deep within my heart) for each and all of you.

Ước nguyện (từ nơi sâu thẳm trái tim tôi) dành cho từng người và tất cả các bạn là để tri thức của bạn được chuyển hoá thành minh triết và con mắt của tầm nhìn chi phối các tiến trình sống và mọi nỗ lực của bạn.

Your Master, Friend and Teacher,

Chân sư, Bằng hữu và Huấn sư của bạn,

THE TIBETAN

CHÂN SƯ TÂY TẠNG

Scroll to Top