GENERAL CHARACTERISTICS – NHỮNG ĐẶC TÍNH TỔNG QUÁT
Perhaps the least unsatisfactory method of approaching this exceedingly difficult subject will be to plunge in medias res and make the attempt (foredoomed to failure though it be) to depict what a pupil or trained student sees when first the heaven-world opens before him. I use the word pupil advisedly, for unless a man stand in that relation to one of the Masters of Wisdom, there is but little likelihood of his being able to pass in full consciousness into that glorious land off bliss, and return to earth with clear remembrance of that which he has seen there. Thence no accommodating “spirit” ever comes to utter cheap platitudes through the mouth of the professional medium; thither no ordinary clairvoyant ever rises, though sometimes the best and purest have entered it when in deepest trance they slipped from the control of their mesmerizers — yet even then they have rarely brought back more than a faint recollection of an intense but indescribable bliss, generally deeply coloured by their personal religious convictions. | Có lẽ phương pháp ít thoả đáng nhất để tiếp cận chủ đề vô cùng khó khăn này là lao thẳng vào vấn đề và thử (dù đã biết trước là sẽ thất bại) miêu tả những gì mà một học trò hoặc một sinh viên được huấn luyện nhìn thấy khi thế giới thiên đàng lần đầu tiên mở ra trước mắt y. Tôi dùng từ “học trò” một cách có chủ đích, bởi nếu một người không đứng ở vị thế đó đối với một trong những Chân sư Minh Triết, thì rất ít khả năng y có thể bước vào thế giới vinh quang đầy phúc lạc đó với ý thức trọn vẹn, và trở lại trần gian với ký ức rõ ràng về những gì y đã thấy ở đó. Từ đó, không một “linh hồn” nào sẵn lòng trở về để thốt ra những lời sáo rỗng rẻ tiền qua miệng của các nhà ngoại cảm chuyên nghiệp; cũng không có nhà thông nhãn nào thông thường có thể bước vào cõi đó, dù đôi khi những người trong sạch nhất có thể đã bước vào đó khi trong trạng thái nhập định sâu, họ thoát khỏi sự kiểm soát của các nhà thôi miên — tuy nhiên, ngay cả khi đó, họ hiếm khi mang về được nhiều hơn một ký ức mờ nhạt về một phúc lạc mãnh liệt nhưng không thể diễn tả, thường bị ảnh hưởng sâu sắc bởi niềm tin tôn giáo cá nhân của họ. |
When once the departed soul, withdrawing into himself after what we call death, has reached that plane, neither the yearning thoughts of his sorrowing friends nor the allurements of the spiritualistic circle can ever draw him back into communion with the physical earth until all the spiritual forces which he has set in motion in his recent life have worked themselves out to the full, and he once more stands ready to take upon himself new robes of flesh. Nor, even if he could so return, would his account of his experiences give any true idea of the plane, for, as will presently [9] be seen, it is only those who can enter it in full waking consciousness who are able to move about freely and drink in all the wondrous glory and beauty which the heaven-world has to show. But all this will be more fully explained later, when we come to deal with the inhabitants of this celestial realm. | Khi một linh hồn đã qua đời, tự rút lui vào bên trong chính mình sau điều chúng ta gọi là cái chết, và đạt đến cõi đó, thì dù những suy nghĩ khao khát của bạn bè đau buồn hay sự lôi cuốn của buổi cầu hồn cũng không thể kéo y trở lại giao tiếp với trái đất vật chất, cho đến khi mọi lực lượng tinh thần mà y đã kích hoạt trong đời sống gần đây của mình đã hoạt động đến hết mức có thể, và y một lần nữa sẵn sàng khoác lên mình tấm áo xác thịt mới. Ngay cả nếu y có thể trở về, thì lời tường thuật của y về những trải nghiệm sẽ không thể cung cấp một ý niệm đúng đắn về cõi này, vì, như sẽ sớm thấy, chỉ những ai có thể bước vào đó với ý thức tỉnh táo hoàn toàn mới có thể tự do di chuyển và thưởng ngoạn tất cả vẻ đẹp huy hoàng và kỳ diệu mà thế giới thiên đàng có để hiển lộ. Nhưng tất cả điều này sẽ được giải thích rõ hơn khi chúng ta đến phần đề cập đến các cư dân của cảnh giới thiên đàng này. |
A Beautiful Description.- Một Cảnh Trí Lộng Lẫy
In an early letter from an eminent occultist the following beautiful passage was given as a quotation from memory. I have never been able to discover whence it was taken, though what seems to be another version of it, considerably expanded, appears in Beal’s Catena of Buddhist Scriptures, page 378. | Trong một lá thư buổi ban đầu của một nhà huyền bí danh tiếng, đoạn văn tuyệt đẹp sau đây được trích dẫn từ ký ức. Tôi chưa bao giờ tìm ra nguồn gốc chính xác của nó, dù một phiên bản khác của đoạn này, được mở rộng đáng kể, xuất hiện trong “Catena of Buddhist Scriptures” của Beal, trang 378. |
“Our Lord buddha says: Many thousand myriads of systems of worlds beyond this is a region of bliss called Sukhâvatî. This region is encircled within seven rows of railings, seven rows of vast curtains, seven rows of waving trees. This holy abode of the Arhats is governed by the Tathâgatas and is possessed by the Bodhisattvas. It has seven precious lakes, in the midst of which flow crystalline waters having seven and yet one distinctive properties and qualities. This, O Sâriputra, is the Devachan. Its divine udambara flower casts a root in the shadow of every earth, and blossoms for all those who reach it. Those born in this blessed region – who have crossed the golden bridge and reached the seven golden mountains – they are truly felicitous; there is no more grief or sorrow in that cycle for them.” | “Đức Phật của chúng ta nói: Hàng ngàn vạn hệ thống thế giới vượt xa thế giới này có một cõi cực lạc được gọi là Sukhâvatî (Tây Phương Cực Lạc). Cõi này được bao quanh bởi bảy hàng rào, bảy hàng rèm lớn, bảy hàng cây rì rào. Nơi thánh thiêng của các vị A-la-hán này do các Như Lai cai quản và do các Bồ-tát sở hữu. Cõi này có bảy hồ quý báu, trong đó chảy những dòng nước trong suốt, mang bảy và đồng thời một phẩm tính và đặc tính khác nhau. Đây, này Xá Lợi Phất, là cõi Devachan. Đoá hoa Ưu Đàm của nó đâm rễ dưới bóng mỗi trái đất, và nở cho tất cả những ai đạt đến nó. Những người sinh ra trong vùng đất phúc lạc này — những người đã vượt qua cây cầu vàng và đến được bảy ngọn núi vàng — họ thực sự hạnh phúc; không còn đau buồn hay phiền não nào nữa trong vòng tuần hoàn ấy đối với họ.” |
Veiled though they be under the gorgeous imagery of the Orient, we may easily trace in this passage some of the leading characteristics which have appeared most prominently in the accounts of our own modern investigators. The “seven golden mountains” can be but the seven subdivisions of the mental plane, separated from [10] one another by barriers impalpable, yet real and effective there as “seven rows of railings, seven rows of vast curtains, seven rows of waving trees” might be here: the seven kinds of crystalline water, having each its distinctive properties and qualities, represent the different powers and conditions of mind belonging to them respectively, while the one quality which they all have in common is that of ensuring to those residing upon them the utmost intensity of bliss which they are capable of experiencing. Its flower indeed “casts a root in the shadow of every earth,” for from every world man enters the corresponding heaven, and happiness such as no tongue may tell is the blossom which burgeons forth for all who so live as to fit themselves to attain it. For they have “ crossed the golden bridge” over the stream which divides this realm from the world of desire; for them the struggle between the higher and the lower is over, and for them, therefore, is “no more grief or sorrow in that cycle,” until once more the man puts himself forth into, incarnation, and the celestial world is again left for a time behind. | Dù được che giấu dưới hình tượng tuyệt đẹp của Phương Đông, chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra một vài đặc điểm chính, những đặc tính nổi bật trong các báo cáo của các nhà nghiên cứu hiện đại. “Bảy ngọn núi vàng” chỉ có thể là bảy cảnh của cõi trí, được ngăn cách với nhau bởi những rào chắn không thể chạm vào, nhưng là thực và hiệu quả; như “bảy hàng rào, bảy lớp màn lớn, bảy hàng cây rì rào” tại cõi trần này. Bảy loại nước trong suốt như pha lê, mỗi loại mang đặc tính và phẩm chất riêng biệt, tượng trưng cho các quyền năng và điều kiện tư tưởng khác nhau tương ứng của chúng, trong khi đặc tính chung của tất cả là bảo đảm cho những ai cư ngụ ở đó cảm nhận được cường độ phúc lạc tối thượng mà họ có thể trải nghiệm. Thực vậy, loài hoa của cõi này “rễ mọc trong bóng tối của mỗi trái đất,” bởi từ mọi thế giới, con người đều bước vào cõi trời tương ứng, và hạnh phúc mà không ngôn từ nào diễn đạt được là đoá hoa nở rộ cho tất cả những ai sống sao cho xứng đáng đạt đến nó. Họ đã “bước qua cầu vàng” bắc qua dòng suối ngăn cách cảnh giới này với thế giới của dục vọng; đối với họ, cuộc đấu tranh giữa lý tưởng cao cả và những điều thấp hèn đã kết thúc, và vì thế, “không còn đau khổ hay phiền muộn trong chu kỳ đó,” cho đến khi con người một lần nữa nhập thể, và tạm thời rời bỏ cõi thiên đàng này. |
The Bliss of the Heaven-World—Sự Chí Phúc Nơi Cõi Thiên Đàng
This intensity of bliss is the first great idea which must form a background to all our conceptions of the heaven-life. It is not only that we are dealing with a world in which, by its very constitution, evil and sorrow are impossible; it is not only a world in which every creature is happy; the facts of the case go far beyond all that. It is a world in which every being must, from the very fact of his presence there, be enjoying the highest spiritual bliss of which he is capable — a world whose power of response to his aspirations is limited only by his capacity to aspire.[11] | Cường độ phúc lạc này là ý niệm lớn đầu tiên phải tạo nên nền tảng cho mọi nhận thức của chúng ta về đời sống thiên đàng. Đây không chỉ là một thế giới trong đó, do bản chất của nó, sự ác và đau khổ là không thể có; không chỉ là một thế giới mà mỗi sinh linh đều hạnh phúc; sự thật còn vượt xa hơn tất cả điều đó. Đây là một thế giới trong đó mỗi thực thể, chỉ cần hiện diện ở đó, đều đang trải nghiệm niềm phúc lạc tinh thần cao nhất mà y có khả năng cảm nhận — một thế giới mà khả năng đáp ứng các khát vọng của y chỉ bị giới hạn bởi khả năng khát vọng của chính y. |
Here for the first time we begin to grasp something of the true nature of the great Source of Life; here for the first time we catch a far-away glimpse of what the Logos must be, and of what He means us to be. And when the stupendous reality of it all bursts upon our astonished vision, we cannot but feel that, with this knowledge of the truth, life can never again look to us as it did before. We cannot but marvel at the hopeless inadequacy of all the worldly man’s ideas of happiness; indeed, we cannot avoid seeing that most of them are absurdly inverted and impossible of realization, and that for the most part he has actually turned his back upon the very goal which he is seeking. But here at last is truth and beauty, far transcending all that every poet dreamed; and in the light of its surpassing glory all other joy seems dim and faint, unreal and unsatisfying. | Tại đây, lần đầu tiên chúng ta bắt đầu nắm bắt một phần bản chất thật sự của Nguồn Sự Sống Vĩ Đại; lần đầu tiên chúng ta thoáng thấy từ xa điều mà Thượng đế phải là, và Ngài muốn chúng ta trở thành. Và khi hiện thực kỳ diệu của tất cả điều này bùng nổ trong tầm nhìn ngạc nhiên của chúng ta, chúng ta không thể không cảm thấy rằng, với sự hiểu biết về chân lý này, cuộc sống sẽ không bao giờ hiện ra với chúng ta như trước nữa. Chúng ta không thể không ngạc nhiên trước sự bất lực vô vọng của mọi ý niệm về hạnh phúc của người đời; thật vậy, chúng ta không thể không nhận thấy rằng hầu hết trong số chúng là những ảo tưởng ngược đời và không thể đạt được, và phần lớn, họ thực sự đã quay lưng lại với chính mục tiêu mà họ đang tìm kiếm. Nhưng ở đây cuối cùng là chân lý và vẻ đẹp, vượt xa tất cả những gì mọi nhà thơ đã từng mơ thấy; và dưới ánh sáng của vinh quang vượt trội này, mọi niềm vui khác dường như mờ nhạt và yếu ớt, không thực và không thể thỏa mãn. |
Some detail of all this we must endeavour to make clear later on; the point to be emphasized for the moment is that this radiant sense, not only of the welcome absence of all evil and discord, but of the insistent, overwhelming presence of universal joy, is the first and most striking sensation experienced by him who enters upon the heaven-world. And it never leaves him so long as he remains there; whatever work he may be doing, whatever still higher possibilities of spiritual exaltation may arise before him as he learns more of the capabilities of this new world in which he finds himself, the strange indescribable feeling of inexpressible delight in mere existence in such at realm underlies all else — this enjoyment of the abounding joy of others is ever present with him. Nothing on earth is like it, nothing can image it; if one could suppose the bounding life of childhood carried up into our spiritual experience and then intensified many thousand-fold, perhaps some faint shadow of an idea of it might be suggested; [12] yet even such a simile falls miserably short of that which lies beyond all words — the tremendous spiritual vitality of this celestial world. | Một số chi tiết về tất cả điều này chúng ta sẽ cố gắng làm sáng tỏ thêm sau; điểm cần nhấn mạnh lúc này là cảm giác rực rỡ này, không chỉ về sự vắng mặt đáng mừng của mọi điều ác và bất hòa, mà còn là sự hiện diện áp đảo, ngập tràn của niềm vui phổ quát, là cảm giác đầu tiên và nổi bật nhất mà người bước vào cõi thiên đàng trải nghiệm. Và cảm giác đó không bao giờ rời xa y chừng nào y còn ở đó; dù y có đang làm bất cứ công việc gì, dù có khả năng thăng hoa tinh thần nào cao hơn đang mở ra trước mắt y khi y dần hiểu rõ hơn những tiềm năng của thế giới mới mà y đang hiện diện, thì cảm giác kỳ lạ và không thể diễn tả về niềm vui sướng chỉ đơn thuần từ sự tồn tại trong một cõi như vậy vẫn bao trùm tất cả — và sự phúc lạc từ niềm vui phong phú của người khác luôn hiện diện với y. Không gì trên trái đất có thể sánh được với điều này, không gì có thể mô phỏng nó; nếu có thể tưởng tượng niềm sống động của tuổi thơ được nâng lên trong trải nghiệm tinh thần của chúng ta và sau đó tăng cường hàng ngàn lần, có lẽ một hình bóng mờ nhạt của nó có thể được gợi ý; nhưng ngay cả phép so sánh này cũng hoàn toàn không thể diễn tả được điều gì nằm vượt ngoài mọi lời lẽ — đó là sức sống tinh thần mãnh liệt của thế giới thiên đàng này. |
One way in which this intense vitality manifests itself is the extreme rapidity of vibration of all particles and atoms of this mental matter. As a theoretical proposition we are all aware that even here on the physical plane no particle of matter, though forming part of the densest of solid bodies, is ever for a moment at rest; nevertheless when by the opening of astral vision this becomes for us no longer a mere theory of the scientists, but an actual and ever-present fact, we realize the universality of life in a manner and to an extent that was quite impossible before; our mental horizon widens out, and we begin even already to have glimpses of possibilities in nature which to those who cannot yet see must appear the wildest of dreams. | Một cách mà sức sống mãnh liệt này thể hiện là sự dao động cực nhanh của tất cả các hạt và nguyên tử của chất trí tuệ này. Về mặt lý thuyết, chúng ta đều biết rằng ngay cả ở cõi vật lý này, không hạt vật chất nào, dù là thành phần của những vật thể đặc nhất, bao giờ ngừng chuyển động; tuy nhiên, khi tầm nhìn cảm dục được mở ra, điều này không còn chỉ là một lý thuyết của các nhà khoa học nữa, mà trở thành một sự thật hiện hữu và liên tục, chúng ta nhận thức về tính phổ quát của sự sống theo một cách và ở một mức độ mà trước đó không thể tưởng tượng được; chân trời tư tưởng của chúng ta mở rộng, và chúng ta bắt đầu thoáng thấy những khả năng trong thiên nhiên mà đối với những người chưa thể thấy chúng có vẻ là những giấc mơ hoang đường nhất. |
If this be the effect of acquiring the mere astral vision, and applying it to dense physical matter, try to imagine the result produced on the mind of the observer when, having left this physical plane behind and thoroughly studied the far more vivid life and infinitely more rapid vibrations of the astral, he finds a new and transcendent sense opening within him, which unfolds to his enraptured gaze yet another and a higher world, whose vibrations are as much quicker than those of our physical plane as vibrations of light are than those of sound – a world where the omnipresent life which pulsates ceaselessly around and within him is of a different order altogether, is as it were raised to an enormously higher power. | Nếu đó là tác động của việc có được tầm nhìn cảm dục và áp dụng nó vào vật chất vật lý đậm đặc, hãy thử tưởng tượng tác động lên tâm trí của người quan sát khi, sau khi đã rời bỏ cõi vật lý này và nghiên cứu cặn kẽ sức sống sinh động hơn nhiều và các dao động nhanh hơn vô tận của cõi cảm dục, một ý thức mới và siêu việt mở ra bên trong y, và trải rộng trước ánh nhìn say mê của y một thế giới khác, cao cả hơn, nơi các dao động nhanh hơn những dao động của cõi vật lý chúng ta như ánh sáng so với âm thanh — một thế giới mà sự sống hiện diện khắp nơi, nhịp đập không ngừng xung quanh và bên trong y thuộc một cấp độ hoàn toàn khác, được nâng lên một sức mạnh lớn lao vô cùng. |
A New Method of Cognition—Một Phương Pháp Nhận Thức Mới.
The very sense itself, by which he is enabled to cognize all this, is not the least of the marvels of this celestial [13] world; no longer does he hear and see and feel by separate and limited organs, as he does down here, nor has he even the immensely extended capacity of sight and hearing which he possessed on the astral plane; instead of these he feels within him a strange new power which is not any of them, and yet includes them all and much more — a power which enables him the moment any person or thing comes before him not only to see it and feel it and hear it, but to know all about it instantly inside and out — its causes, its effects, and its possibilities, so far at least as that plane and all below it are concerned. He finds that for him to think is to realize; there is never any doubt, hesitation, or delay about this direct action of the higher sense. If he thinks of a place, he is there; if of a friend, that friend is before him. No longer can misunderstandings arise, no longer can he be deceived or misled by any outward appearances, for every thought and feeling of his friend lies open as a book before him on that plane. | Chính cảm giác mà nhờ đó y có thể nhận thức tất cả những điều này cũng không phải là điều kỳ diệu nhỏ nhất của thế giới thiên thể này; y không còn nghe, thấy, và cảm nhận qua các cơ quan riêng lẻ và giới hạn như y vẫn làm ở đây, cũng không có năng lực thị giác và thính giác mở rộng đến mức lớn lao mà y đã sở hữu trên cõi cảm dục; thay vào đó, y cảm nhận trong mình một quyền năng mới lạ không phải bất kỳ giác quan nào trong số đó, nhưng lại bao gồm tất cả chúng và còn nhiều hơn thế nữa — một quyền năng giúp y ngay khi bất kỳ người hay vật nào xuất hiện trước mặt y, không chỉ thấy, cảm nhận và nghe được, mà còn biết mọi điều về nó tức khắc, từ trong ra ngoài — nguyên nhân, kết quả, và những khả năng của nó, ít nhất là trong phạm vi cõi giới đó và tất cả các cõi thấp hơn. Y nhận thấy rằng với y, việc nghĩ là nhận thức; không bao giờ có sự nghi ngờ, do dự hay chậm trễ nào về hành động trực tiếp của giác quan cao cả này. Nếu y nghĩ về một nơi, y đã ở đó; nếu nghĩ về một người bạn, người bạn đó hiện ra trước mặt y. Không còn sự hiểu lầm nào có thể xảy ra, không ai có thể lừa dối hay làm y hiểu sai bởi bất kỳ vẻ bề ngoài nào, vì mọi tư tưởng và cảm xúc của người bạn của y đều hiện ra như một quyển sách mở trước mặt y trên cõi giới đó. |
And if he is fortunate enough to have among his friends another whose higher sense is opened, their intercourse is perfect beyond all earthly conception. For them distance and separation do not exist; their feelings are no longer hidden or at best but half expressed by clumsy words; question and answer are unnecessary, for the thought-pictures are read as they are formed, and the interchange of ideas is rapid as is their flashing into existence in the mind. | Và nếu y may mắn có một người bạn khác có giác quan cao cả được mở ra, thì giao tiếp giữa họ sẽ hoàn hảo vượt xa mọi khái niệm trần gian. Đối với họ, không có khoảng cách hay sự chia cắt; cảm xúc của họ không còn bị che giấu hay chỉ thể hiện một cách vụng về qua những lời nói nửa vời; không cần phải có câu hỏi hay trả lời, vì những bức tranh tư tưởng được đọc ngay khi chúng hình thành, và sự trao đổi ý tưởng nhanh chóng như cách chúng lóe lên trong tâm trí. |
All knowledge is theirs for the searching — all, that is, which does not transcend even this lofty plane; the past of the world is as open to them as the present; the indelible records of the memory of nature are ever at their disposal, and history, whether ancient or modern, unfolds itself before their eyes at their will. No longer are they at the mercy of the historian, who may be ill-informed, and must be more or less partial; they can [page14] study for themselves any incident in which they are interested, with the absolute certainty of seeing “ the truth”, the whole truth, and nothing but the truth.” If they are able to stand upon the higher levels of the plane, the long line of their past lives unrolls itself before them like a scroll; they see the kârmic causes which have made them what they are; they see what karma still lies in front to be worked out before “ the long sad count is closed,” and thus they realize with unerring certainty their exact place in evolution. | Tất cả tri thức đều là của họ nếu họ tìm kiếm — tất cả những gì không vượt quá cõi giới cao cả này; quá khứ của thế giới hiện ra trước họ rõ ràng như hiện tại; những ký ức bất biến của thiên nhiên luôn sẵn sàng cho họ, và lịch sử, dù cổ đại hay hiện đại, đều mở ra trước mắt họ theo ý muốn. Họ không còn phụ thuộc vào sử gia, người có thể thiếu thông tin và ít nhiều mang tính thiên vị; họ có thể tự mình nghiên cứu bất kỳ sự kiện nào họ quan tâm, với sự chắc chắn tuyệt đối là thấy được “sự thật,” toàn bộ sự thật và chỉ sự thật. Nếu họ có thể đứng trên những mức cao hơn của cõi giới này, dòng chảy của các kiếp sống quá khứ của họ trải dài trước họ như một cuộn giấy; họ thấy những nguyên nhân nghiệp quả đã tạo nên họ như hiện tại; họ thấy những nghiệp quả nào vẫn còn ở phía trước để được hóa giải trước khi “bản tính toán dài và buồn kết thúc”, và nhờ vậy, họ nhận thức một cách chính xác và không sai lệch về vị trí chính xác của họ trong quá trình tiến hóa. |
If it be asked whether they can see the future clearly as the past, the answer must be in the negative, for that faculty belongs to a still higher plane, and though in this mental plane prevision is to a great extent possible to them, yet it is not perfect, because wherever in the web of destiny the hand of the developed man comes in, his powerful will may introduce new threads, and change the pattern of the life to come. The course of the ordinary undeveloped man, who has practically no will of his own worth speaking of, may often be foreseen clearly enough, but when the ego boldly takes his future into his own hands, exact prevision becomes impossible. | Nếu có người hỏi liệu họ có thể thấy rõ tương lai như quá khứ hay không, câu trả lời phải là không, vì khả năng đó thuộc về một cõi cao hơn nữa, và mặc dù trên cõi trí này, khả năng tiên tri ở một mức độ lớn là khả dĩ đối với họ, nhưng nó không hoàn hảo, bởi vì bất cứ khi nào bàn tay của con người đã phát triển can thiệp vào mạng lưới định mệnh, ý chí mạnh mẽ của y có thể tạo ra những sợi chỉ mới và thay đổi mô hình của cuộc sống tương lai. Đối với người bình thường chưa phát triển, người hầu như không có ý chí riêng đáng kể, thường có thể thấy trước khá rõ ràng, nhưng khi chân ngã mạnh mẽ nắm lấy tương lai của mình trong tay, thì tiên tri chính xác trở nên bất khả thi. |
SURROUNDINGS – Môi Trường Sinh Hoạt
The first impressions, then, of the pupil who enters this mental plane in full consciousness will probably be those of intense bliss, indescribable vitality, enormously increased power, and the perfect confidence which flows from these; and when he makes use of his new sense to examine his surroundings, what does he see ? He finds himself in the midst of what seems to him a whole universe of ever-changing light and colour and sound, such as it has never entered into his loftiest dreams to imagine. Verily it is true that down here “ eye hath not seen, nor ear hath heard, neither [15] hath it entered into the heart of man to conceive” the glories of the heaven-world : and the man who has once experienced them in full consciousness will regard the world with widely different eyes for ever after. Yet this experience is so utterly unlike anything we know on the physical plane that in trying to put it into words one is troubled by a curious sense of helplessness — of absolute incapacity, not only to do it justice, for of that one resigns all hope from the very outset, but even to give any idea at all of it to those who have not themselves seen it. | Những ấn tượng đầu tiên của người đệ tử khi bước vào cõi trí với đầy đủ ý thức có lẽ sẽ là niềm phúc lạc mãnh liệt, sinh lực không thể diễn tả, năng lực gia tăng to lớn, và sự tự tin hoàn hảo chảy tràn từ những điều này; và khi y sử dụng giác quan mới để khảo sát xung quanh, y thấy gì? Y nhận thấy mình đang ở giữa một vũ trụ dường như luôn thay đổi với ánh sáng, màu sắc và âm thanh, mà ngay cả trong những giấc mơ cao nhất của y cũng chưa từng mường tượng. Thực sự là đúng rằng ở đây “mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, cũng chưa từng vào lòng người” [15] để hình dung được những vinh quang của cõi thiên đàng: và người đã một lần trải nghiệm những điều đó với đầy đủ ý thức sẽ nhìn thế giới bằng đôi mắt hoàn toàn khác mãi mãi về sau. Tuy nhiên, trải nghiệm này hoàn toàn khác biệt với bất cứ điều gì chúng ta biết trên cõi vật lý đến mức khi cố gắng diễn đạt nó bằng lời, người ta cảm thấy một sự bất lực kỳ lạ — một sự bất khả, không chỉ để mô tả nó đúng mức, vì điều đó ngay từ đầu đã không thể hy vọng, mà thậm chí để truyền đạt bất kỳ khái niệm nào về nó cho những người chưa từng thấy. |
Let a man imagine himself, with the feelings of intense bliss and enormously increased power already described, floating in a sea of living light, surrounded by every conceivable variety of loveliness in colour and form — the whole changing with every wave of thought that he sends out from his mind, and being indeed, as he presently discovers, only the expression of his thought in the matter of the plane and in its elemental essence. For that matter is of the very same order as that of which the mind-body is itself composed, and therefore when that vibration of the particles of the mind-body which we call a thought occurs, it immediately extends itself to this surrounding mental matter, and sets up corresponding vibrations in it, while in the elemental essence it images itself with absolute exactitude. Concrete thought naturally takes .the shape of its objects, while abstract ideas usually represent themselves by all kinds of perfect and most beautiful, geometrical forms; though in this connection it should be remembered that many thoughts which are little more than the merest abstractions to us down here become concrete facts on this loftier plane. | Hãy để một người tưởng tượng rằng mình, với cảm giác phúc lạc mãnh liệt và năng lực gia tăng to lớn đã mô tả trước đó, đang trôi nổi trong biển ánh sáng sống động, được bao quanh bởi mọi vẻ đẹp có thể hình dung về màu sắc và hình dạng — tất cả đều thay đổi với mỗi làn sóng tư tưởng mà y phát ra từ tâm trí, và thực ra, như y sẽ sớm khám phá, chỉ là biểu hiện của tư tưởng của y trong chất liệu của cõi này và trong bản chất hành khí của nó. Vì chất liệu đó thuộc cùng một cấp độ với chất liệu tạo nên thể trí, và do đó khi dao động của các hạt trong thể trí, mà ta gọi là tư tưởng, xảy ra, nó lập tức lan tỏa vào chất liệu trí tuệ xung quanh và tạo nên những dao động tương ứng, trong khi trong hành khí, nó biểu hiện chính xác như nguyên mẫu của nó. Tư tưởng cụ thể tự nhiên sẽ hình thành theo hình dạng của các đối tượng của nó, trong khi các ý niệm trừu tượng thường biểu hiện bằng mọi dạng hình học hoàn hảo và đẹp nhất; mặc dù trong ngữ cảnh này, nên nhớ rằng nhiều tư tưởng chỉ là những trừu tượng đối với chúng ta ở đây, lại trở thành những sự kiện cụ thể trên cõi cao siêu này. |
It will thus be seen that in this higher world anyone who wishes to devote himself for a time to quiet thought, and to abstract himself from his surroundings, may actually live in a world of his own without possibility of interruption, and [16] with the additional advantage of seeing all his ideas (and their consequences, fully worked out) passing in a sort of panorama before his eyes. If, however, he wishes instead to observe the plane upon which he finds himself, it will be necessary for him very carefully to suspend his thought for the time, so that its creations may not influence the readily impressible matter around him, and thus alter the entire conditions so far as he is concerned. | Như vậy có thể thấy rằng trong thế giới cao cả này, bất kỳ ai muốn dành thời gian cho tư duy tĩnh lặng và tách mình ra khỏi xung quanh đều có thể thực sự sống trong một thế giới riêng của mình mà không bị gián đoạn, với thêm lợi thế là y có thể thấy tất cả các ý tưởng của mình (cùng những hệ quả của chúng, được phát triển đầy đủ) như một bức tranh toàn cảnh trôi qua trước mắt. Tuy nhiên, nếu y muốn quan sát cõi giới mà mình đang hiện diện, thì cần thiết y phải rất cẩn thận ngưng lại các tư tưởng của mình trong thời gian đó, để những sáng tạo của y không ảnh hưởng đến chất liệu nhạy cảm xung quanh và do đó không làm thay đổi toàn bộ điều kiện mà y đang khảo sát. |
This holding of the mind in suspense must not be confounded with the blankness of mind towards the attainment of which so many of the Hatha Yoga practices are directed: in the latter case the mind is dulled down into absolute passivity in order that it may not by any thought of its own offer resistance to the entry of any external influence that may happen to approach it — a condition closely approximating to mediumship; while in the former the mind is as keenly alert and positive as it can be, holding its thought in suspense for the moment merely to prevent the intrusion of a personal equation into the observation which it wishes to make. | Việc giữ tâm trí ở trạng thái đình chỉ này không nên nhầm lẫn với sự trống rỗng của tâm trí mà nhiều phương pháp của Hatha Yoga hướng tới; trong trường hợp sau, tâm trí bị làm mờ nhạt để đạt đến trạng thái hoàn toàn thụ động, nhằm ngăn nó dùng bất kỳ tư tưởng nào của chính mình để chống lại sự xâm nhập của bất kỳ ảnh hưởng bên ngoài nào có thể tiếp cận — một trạng thái rất gần với sự trung giới; trong khi ở trường hợp đầu, tâm trí vẫn duy trì sự tỉnh táo và tích cực cao nhất có thể, giữ tư tưởng của nó ở trạng thái đình chỉ chỉ để ngăn chặn sự ảnh hưởng của yếu tố cá nhân vào quá trình quan sát mà nó muốn thực hiện. |
When the visitor to the mental plane succeeds in putting himself in this position he finds that although he is no longer himself a centre of radiation of all that marvellous wealth of light and colour, form and sound, which I have so vainly endeavoured to picture, it has not therefore ceased to exist; on the contrary, its harmonies and its coruscations are but grander and fuller than ever. Casting about for an explanation of this phenomenon, he begins to realize that all this magnificence is not a mere idle or fortuitous display — a kind of devachanic aurora borealis; he finds that it all has a meaning — a meaning which he himself can understand ; and presently he grasps the fact that what he is watching with such ecstasy of delight is simply the glorious colour-language of the Devas — the expression of the thought or the [17] conversation of beings far higher than himself in the scale of evolution. By experiment and practice he discovers that he also can use this new and beautiful mode of expression, and by this very discovery he enters into possession of another great tract of his heritage in this celestial realm —the power to hold converse with, and to learn from, its loftier non-human inhabitants, with whom we shall deal more fully when we come to treat of that part of our subject. | Khi người du khách tới cõi trí thành công trong việc đặt mình vào trạng thái này, y nhận thấy rằng dù y không còn là trung tâm phát xạ của sự phong phú kỳ diệu về ánh sáng và màu sắc, hình dạng và âm thanh mà tôi đã cố gắng miêu tả một cách vô ích, điều đó không có nghĩa là những vẻ đẹp ấy đã biến mất; ngược lại, các hòa âm và sự lấp lánh của nó trở nên vĩ đại và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Khi cố tìm một lời giải thích cho hiện tượng này, y bắt đầu nhận ra rằng tất cả sự lộng lẫy ấy không phải chỉ là một màn trình diễn ngẫu nhiên hay vô nghĩa — không phải kiểu bắc cực quang trên cõi thiên giới; y khám phá ra rằng tất cả đều có ý nghĩa — một ý nghĩa mà chính y có thể hiểu được; và chẳng bao lâu sau, y nắm bắt được sự thật rằng điều mà y đang chiêm ngưỡng trong niềm vui sướng tột độ ấy chính là ngôn ngữ màu sắc huy hoàng của các Thiên Thần — biểu hiện của tư tưởng hay [17] sự giao tiếp của những hữu thể tiến hóa cao hơn y rất nhiều trên nấc thang tiến hóa. Qua thực nghiệm và rèn luyện, y phát hiện rằng y cũng có thể sử dụng phương thức biểu đạt mới mẻ và đẹp đẽ này, và qua chính sự khám phá ấy, y tiến đến sở hữu thêm một phần lớn khác của di sản mình trong cõi thiên thể này — khả năng giao tiếp và học hỏi từ những cư dân cao cả không phải là con người ở cõi này, mà chúng ta sẽ bàn đến chi tiết hơn khi đề cập đến phần đó của chủ đề. |
By this time it will have become apparent why it was impossible to devote a section of this paper to the scenery of the mental plane, as was done in the case of the astral; for in point of fact the mental world has no scenery except such as each individual chooses to make for himself by his thought — unless indeed we take into account the fact that the vast numbers of entities who are continually passing before him are themselves objects in many cases of the most transcendent beauty. Yet so difficult is it to express in words the conditions of this higher life that it would be a still better statement of the facts to say that all possible scenery exists there — that there is nothing conceivable of loveliness in earth or sky or sea which is not there with a fulness and intensity beyond all power of imagination; but that out of all this splendour-of living reality each man sees only that which he has within himself the power to see — that to which his development during the earth-life and the astral-life enables him to respond. | Đến lúc này, hẳn đã rõ vì sao không thể dành một phần của tài liệu này để mô tả cảnh trí của cõi trí như đã làm với cõi cảm dục; bởi thực tế, thế giới trí tuệ không có cảnh trí ngoại trừ những gì mỗi cá nhân chọn tạo ra cho mình bằng tư tưởng — trừ phi chúng ta xem xét đến sự thật rằng vô số thực thể liên tục xuất hiện trước y nhiều khi chính là những đối tượng có vẻ đẹp siêu việt nhất. Tuy nhiên, thật khó diễn đạt bằng lời các điều kiện của đời sống cao cả này đến mức có thể nói rằng tất cả mọi cảnh trí khả dĩ đều hiện diện ở đó — không có gì tưởng tượng được về vẻ đẹp của đất, trời, hay biển cả mà không hiện hữu ở đó với sự viên mãn và cường độ vượt qua mọi khả năng tưởng tượng; nhưng trong tất cả sự huy hoàng của thực tại sống động này, mỗi người chỉ thấy những gì mà trong chính y có khả năng để thấy — những gì mà sự phát triển của y trong cuộc sống trần thế và cuộc sống cảm dục cho phép y đáp ứng. |
The Great Waves – Những Làn Sóng Vĩ Đại
If the visitor wishes to carry his analysis of the plane still further, and discover what it would be when entirely undisturbed by the thought or conversation of any of its inhabitants, he can do so by forming round himself a huge shell through which none of these influences can penetrate, and [18] then (of course holding his own mind perfectly still as before) examining the conditions which exist inside his shell. | Nếu người du khách muốn tiếp tục phân tích sâu hơn về cõi này và khám phá điều gì sẽ xảy ra khi không bị quấy nhiễu bởi tư tưởng hay cuộc đối thoại của bất kỳ cư dân nào, y có thể thực hiện điều đó bằng cách tạo quanh mình một vỏ bọc lớn mà không ảnh hưởng nào có thể xuyên qua, và [18] sau đó (tất nhiên giữ cho tâm trí mình hoàn toàn tĩnh lặng như trước) khảo sát các điều kiện tồn tại bên trong vỏ bọc của mình. |
If he performs this experiment with sufficient care, he will find that the sea of light has become — not still, for its particles continue their intense and rapid vibrations, but — as it were homogeneous; that those wonderful coruscations of colour and constant changes of form are no longer taking place, but that he is now able to perceive another and entirely different series of regular pulsations which the other more artificial phenomena had previously obscured. These are evidently universal, and no shell which human power can make will check them or turn them aside. They cause no change of colour, no assumption of form, but flow with resistless regularity through all the matter of the plane, outwards and in again, like the exhalations and inhalations of some great breath beyond our ken. | Nếu y thực hiện thí nghiệm này với sự cẩn trọng đủ lớn, y sẽ nhận thấy rằng biển ánh sáng đã trở nên — không phải là tĩnh lặng, vì các hạt của nó vẫn tiếp tục dao động mạnh mẽ và nhanh chóng, nhưng — đồng nhất hơn; những ánh sáng rực rỡ và những biến đổi không ngừng của màu sắc đã không còn diễn ra, và giờ đây y có thể nhận thấy một chuỗi xung động hoàn toàn khác biệt và đều đặn mà trước đó các hiện tượng nhân tạo khác đã che khuất. Những xung động này rõ ràng là phổ quát, và không có vỏ bọc nào mà sức mạnh con người tạo ra có thể chặn hoặc ngăn chúng. Chúng không tạo ra sự thay đổi màu sắc, không tạo hình dạng, nhưng lại chảy với sự đều đặn không thể cưỡng lại qua mọi chất liệu của cõi giới, đi ra rồi lại vào, như hơi thở của một sinh mệnh vĩ đại vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. |
There are several sets of these, clearly distinguishable from one another by volume, by period of vibration, and by the tone of the harmony which they bring, and grander than them all sweeps one great wave which seems the very heartbeat of the system — a wave which, welling up from unknown centres on far higher planes, pours out its life through all our world, and then draws back in its tremendous tide to That from which it came. In one long undulating curve it comes, and the sound of it is like the murmur of the sea ; and yet in it and through it all the while there echoes a mighty ringing chant of triumph — the very music of the spheres. The man who once has heard that glorious song of nature never quite loses it again; even here on this dreary physical plane of illusion he hears it always as a kind of undertone, keeping ever before his mind the strength and light and splendour of the real life above. | Có nhiều nhóm xung động này, rõ ràng là có thể phân biệt với nhau theo thể tích, chu kỳ dao động, và âm điệu hài hòa mà chúng mang lại, và vượt trội hơn tất cả, là một làn sóng lớn bao trùm dường như là nhịp tim của toàn hệ thống — một làn sóng, từ những trung tâm bí ẩn ở các cõi cao hơn nữa, tràn đầy sự sống qua toàn bộ thế giới của chúng ta, rồi lại cuốn ngược lại với dòng triều mạnh mẽ về Nguồn mà nó đến. Trong một đường cong gợn sóng dài, nó xuất hiện, và âm thanh của nó như tiếng thì thầm của biển cả; và trong đó, qua tất cả mọi lúc, vang lên bài ca hùng tráng của chiến thắng — âm nhạc của các thiên cầu. Người nào đã từng nghe bài ca vinh quang của thiên nhiên ấy sẽ không bao giờ thực sự mất nó; ngay cả ở đây, trên cõi trần mờ mịt đầy ảo tưởng này, y vẫn nghe thấy nó như một âm nền, giữ trong tâm trí y luôn hiện diện sức mạnh, ánh sáng, và sự huy hoàng của cuộc sống chân thực bên trên. |
If the visitor be pure in heart and mind, and has reached a certain degree of spiritual development, it is possible for [19] him to identify his consciousness with the sweep of that wondrous wave — to merge his spirit in it, as it were, and let it bear him upward to its source. It is possible, I say; but it is not wise — unless, indeed, his Master stands beside him to draw him back at the right moment from its mighty embrace; for otherwise its irresistible force will carry him away onward and upward into still higher planes, whose far greater glories his ego is as yet unable to sustain; he will lose consciousness, and with no certainty as to when and where and how he will regain it. It is true that the ultimate object of man’s evolution is the attainment of unity, but he must reach that final goal in full and perfect consciousness as a victorious king entering triumphantly upon his heritage, not drift into absorption in a state of blank unconsciousness but little removed from annihilation. | Nếu người du khách có tâm và trí thanh khiết, và đã đạt đến một mức độ phát triển tinh thần nhất định, y có thể [19] đồng nhất tâm thức của mình với dòng chảy của làn sóng kỳ diệu đó — như hòa tan linh hồn mình vào trong nó, và để nó nâng y lên đến nguồn cội của nó. Điều này có thể, tôi nói; nhưng không phải là điều khôn ngoan — trừ phi, thật sự, Chân sư của y đứng bên cạnh để kéo y lại vào đúng thời điểm từ vòng tay hùng vĩ của nó; nếu không, lực không thể cưỡng lại của làn sóng sẽ cuốn y đi xa hơn và cao hơn vào những cõi cao siêu hơn nữa, nơi mà vinh quang lớn lao hơn nhiều mà chân ngã của y chưa thể chịu đựng; y sẽ mất đi ý thức, và không chắc chắn khi nào, ở đâu và bằng cách nào y sẽ khôi phục lại nó. Đúng là mục tiêu cuối cùng của sự tiến hóa của con người là đạt được sự hợp nhất, nhưng y phải đạt đến đích cuối cùng đó với đầy đủ ý thức và sự hoàn thiện, như một vị vua chiến thắng bước vào di sản của mình một cách hiển hách, chứ không phải trôi dạt vào sự hòa tan trong một trạng thái vô thức trống rỗng, chỉ cách biệt một chút so với sự hủy diệt. |
The Lower and the Higher Heaven-Worlds—Cõi Hạ Thiên Và Cõi Thượng Thiên
All that we have hitherto attempted to indicate in this description may be taken as applying to the lowest subdivision of the mental plane; for this realm of nature, exactly like the astral, or the physical, has its seven subdivisions. Of these the four lower are called in the books the rûpa or form planes, and these constitute the Lower Heaven-World, in which the average man spends his long life of bliss between one incarnation and the next. The other three are spoken of as arûpa or formless, and they constitute the Higher Heaven-World, where functions the reincarnating ego — the true home of the soul of man. These Sanskrit names have been given because on the rûpa planes every thought takes to itself a certain definite form, while on the arûpa subdivisions it expresses itself in an entirely different manner, as will presently be explained. The distinction between these two great divisions of the plane — [20] the rûpa and the arûpa —is very marked; indeed, it even extends so far as to necessitate the use of different vehicles of consciousness. | Tất cả những gì chúng ta đã cố gắng mô tả cho đến nay có thể xem là áp dụng cho cảnh thấp nhất của cõi trí; bởi cõi thiên nhiên này, giống như cõi cảm dục hay cõi vật lý, cũng có bảy phân cảnh. Trong đó, bốn phân cảnh thấp được gọi trong các sách là cõi rûpa hay cõi sắc tướng, và chúng tạo thành Cõi Hạ Thiên, nơi mà người bình thường trải qua cuộc sống dài của phúc lạc giữa hai lần nhập thể. Ba phân cảnh còn lại được gọi là arûpa hay vô hình tướng, và chúng tạo thành Cõi Thượng Thiên, nơi hoạt động của chân ngã tái sinh — ngôi nhà thực sự của linh hồn con người. Các tên tiếng Phạn này được dùng vì trên các cõi rûpa, mọi tư tưởng đều mang một hình tướng nhất định, trong khi trên các phân cảnh arûpa, tư tưởng biểu hiện theo một cách hoàn toàn khác, sẽ được giải thích sau đây. Sự phân biệt giữa hai đại phân cảnh của cõi này — rûpa và arûpa — là rất rõ rệt; thực tế, nó còn mở rộng đến mức cần phải sử dụng các thể của tâm thức khác nhau. |
The vehicle appropriate to the lower heaven-world is the mind-body, while that of the higher heaven-world is the causal body — the vehicle of the reincarnating ego, in which he passes from life to life throughout the whole evolutionary period. Another enormous distinction is that on those four lower subdivisions some degree of illusion is still possible — not indeed for the entity who stands upon them in full consciousness during life, but for the undeveloped person who passes there after the change which men call death. The higher thoughts and aspirations which he has poured forth during earth-life then cluster round him, and make a sort of shell about him — a kind of subjective world of his own ; and in that he lives his heaven-life, perceiving but very faintly or not at all the real glories of the plane which lie outside, and, indeed, usually supposing that what he sees is all there is to see. | Dẫn thể phù hợp với Cõi Hạ Thiên là thể trí, trong khi thể của Cõi Thượng Thiên là thể nhân quả — thể của chân ngã tái sinh, trong đó y chuyển từ đời sống này sang đời sống khác trong suốt giai đoạn tiến hóa. Một điểm khác biệt lớn nữa là trên bốn phân cảnh thấp, một mức độ ảo tưởng vẫn còn có thể tồn tại — không phải đối với thực thể đứng ở đó với tâm thức đầy đủ trong cuộc sống, mà cho những người chưa phát triển đi đến đó sau sự thay đổi mà con người gọi là cái chết. Những tư tưởng và khát vọng cao đẹp mà y đã phát ra trong cuộc đời trần thế sẽ tụ lại quanh y và tạo thành một loại vỏ bao bọc y — một thế giới chủ quan riêng của y; và trong đó y sống cuộc đời thiên đàng của mình, chỉ cảm nhận được rất mờ nhạt hoặc không cảm nhận được chút nào những vinh quang thực sự của cõi giới bên ngoài, và thường nghĩ rằng những gì y thấy chính là tất cả những gì có thể thấy. |
Yet we should be wrong in thinking of that thought-cloud as a limitation. Its function is to enable the man to respond to certain vibrations — not to shut him off from the others. The truth is, that these thoughts which surround the man are the powers by which he draws upon the wealth of the heaven-world. This mental plane itself is a reflection of the Divine Mind — a storehouse of infinite extent from which the person enjoying heaven is able to draw just according to the power of his own thoughts and aspirations generated during the physical and astral life. | Tuy nhiên, chúng ta sẽ sai lầm nếu xem đám mây tư tưởng đó như một giới hạn. Chức năng của nó là giúp con người đáp ứng với các rung động nhất định — chứ không phải để ngăn cách y khỏi các rung động khác. Sự thật là những tư tưởng bao quanh người đó chính là các quyền năng giúp y tiếp cận sự phong phú của cõi thiên đàng. Chính cõi trí này là sự phản chiếu của Trí Thiêng Liêng — một kho tàng vô tận mà người hưởng thụ cõi thiên đàng có thể khai thác tùy theo sức mạnh của tư tưởng và khát vọng mà y đã tạo ra trong đời sống vật chất và cảm dục. |
But in the higher heaven-world this limitation no longer exists ; it is true that even there many egos are only slightly and dreamily conscious of their surroundings, but in so far as they see, they see truly, for thought no longer assumes the same limited forms which it took upon itself lower down. [21] | Nhưng trong cõi trời cao hơn, giới hạn này không còn tồn tại; thực tế là ngay cả ở đó, nhiều chân ngã chỉ ý thức mơ hồ về môi trường xung quanh mình, nhưng trong phạm vi mà họ thấy, họ thấy thật sự, vì tư tưởng không còn mang những hình thức hạn chế như nó đã có ở cảnh giới thấp hơn. |
The Action of Thought – Hoạt Động Của Tư Tưởng
The exact condition of mind of the human inhabitants of these various sub-planes will naturally be much more fully dealt with under its own appropriate heading; but a comprehension of the manner in which thought acts in the lower and higher levels respectively, is so necessary to an accurate understanding of these great divisions that it will perhaps be worth while to recount in detail some of the experiments made by our explorers in the endeavour to throw light upon this subject. | Tình trạng tâm thức chính xác của những cư dân nhân loại trên các phân cảnh khác nhau sẽ được trình bày đầy đủ hơn dưới phần mục thích hợp của nó; nhưng việc thấu hiểu cách thức tư tưởng hoạt động ở các cấp độ thấp và cao lần lượt là rất cần thiết để có được sự hiểu biết chính xác về những phân chia lớn này, và do đó, có lẽ đáng để trình bày chi tiết một vài thí nghiệm mà các nhà khám phá của chúng tôi đã thực hiện nhằm làm sáng tỏ chủ đề này. |
At an early period of the investigation it became evident that on the mental as on the astral plane there was present an elemental essence quite distinct from the mere matter of the plane, and that it was, if possible, even more instantaneously sensitive to the action of thought here than it had been in that lower world. But here in the heaven-world all was thought-substance, and therefore not only the elemental essence, but the very matter of the plane was directly affected by the action of the mind; and hence it became necessary to make an attempt to discriminate between these two effects. | Trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra, rõ ràng rằng trên cõi trí cũng như trên cõi cảm dục, có một tinh chất hành khí hiện diện, hoàn toàn khác biệt với chỉ vật chất của cõi này, và tinh hoa này, nếu có thể, còn nhạy cảm ngay lập tức với tác động của tư tưởng ở đây hơn là ở cõi thấp kia. Nhưng tại cõi trời, tất cả đều là chất tư tưởng, và do đó không chỉ tinh hoa hành khí mà chính cả vật chất của cõi này cũng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi tác động của tâm trí; vì vậy cần thiết phải cố gắng phân biệt giữa hai hiệu ứng này. |
After various less conclusive experiments a method was adopted which gave a fairly clear idea of the different results produced, one investigator remaining on the lowest subdivision to send out the thought-forms, while others rose to the next higher level, so as to be able to observe what took place from above, and thus avoid many possibilities of confusion. Under these circumstances the experiment was tried of sending an affectionate and helpful thought to an absent friend in a far-distant country. | Sau nhiều thí nghiệm kém kết luận hơn, một phương pháp được áp dụng để đưa ra ý tưởng khá rõ ràng về các kết quả khác nhau được tạo ra, một nhà nghiên cứu vẫn ở lại phân cảnh thấp nhất để phát ra các hình tư tưởng, trong khi những người khác lên cảnh giới cao hơn tiếp theo, để có thể quan sát những gì diễn ra từ trên cao và do đó tránh được nhiều khả năng gây nhầm lẫn. Trong điều kiện này, thí nghiệm đã được thực hiện bằng cách gửi một tư tưởng yêu thương và giúp đỡ đến một người bạn đang ở một đất nước xa xôi. |
The result was very remarkable: a sort of vibrating shell, formed in the matter of the plane, issued in all directions [22] round the operator, corresponding exactly to the circle which spreads out in still water from the spot where a stone has been thrown into it, except that this was a sphere of vibration extending itself in many dimensions instead of merely over a flat surface. These vibrations, like those on the physical plane, though very much more gradually, lost in intensity as they passed further away from their source, till at last at an enormous distance they seemed to be exhausted, or at least became so faint as to be imperceptible. | Kết quả thật đáng chú ý: một loại vỏ rung động, hình thành từ chất liệu của cõi này, tỏa ra mọi hướng xung quanh người phát tư tưởng, giống hệt như vòng tròn lan tỏa trên mặt nước yên tĩnh từ điểm mà một viên đá được ném xuống, ngoại trừ đây là một quả cầu rung động mở rộng theo nhiều chiều thay vì chỉ trên một bề mặt phẳng. Những rung động này, giống như trên cõi vật lý, mặc dù yếu đi chậm hơn nhiều, nhưng mất dần cường độ khi chúng lan xa khỏi nguồn gốc, đến khi cuối cùng, ở một khoảng cách rất lớn, chúng dường như cạn kiệt hoặc ít nhất trở nên mờ nhạt đến mức không thể cảm nhận được. |
Thus every one on the mental plane is a centre of radiant thought, and yet all the rays thrown out cross in all directions without interfering with one another in the slightest degree, just as rays of light do down here. This expanding sphere of vibrations was many coloured and opalescent, but its colours also grew gradually fainter and fainter as it spread away. | Vì vậy, mọi người trên cõi trí đều là một trung tâm của tư tưởng tỏa sáng, và tất cả các tia sáng phát ra giao nhau theo mọi hướng mà không hề cản trở lẫn nhau dù chỉ một chút, giống như các tia sáng trên cõi vật lý. Quả cầu rung động đang mở rộng này có nhiều màu sắc và óng ánh, nhưng các màu sắc của nó cũng nhạt dần khi nó lan xa hơn. |
The effect on the elemental essence of the plane was, however, entirely different. In this the thought immediately called into existence a distinct form resembling the human, of one colour only, though exhibiting many shades of that colour. This form flashed instantaneously across the ocean to the friend to whom the good wish had been directed, and there took to itself elemental essence of the astral plane, and thus became an ordinary artificial elemental of that plane, waiting, as explained in Manual No. V, for an opportunity to pour out upon him its store of helpful influence. In taking on that astral form the mental elemental lost much of its brilliancy, though its glowing rose-colour was still plainly visible inside the shell of lower matter which it had assumed, showing that just as the original thought ensouled the elemental essence of its own plane, so that same thought, plus its form as a mental elemental, acted as soul to the astral elemental— thus following closely the method in which the ultimate [23] spirit itself takes on sheath after sheath in its descent through the various planes and sub-planes of matter. | Tuy nhiên, tác động lên tinh hoa hành khí của cõi này lại hoàn toàn khác biệt. Trong trường hợp này, tư tưởng ngay lập tức tạo ra một hình thức rõ rệt mang dáng dấp con người, chỉ có một màu duy nhất, nhưng thể hiện nhiều sắc thái của màu đó. Hình thức này lập tức bay xuyên qua đại dương đến người bạn mà lời chúc tốt lành đã được hướng đến, và ở đó tiếp nhận tinh hoa hành khí của cõi cảm dục, do đó trở thành một tinh linh nhân tạo bình thường của cõi này, và như đã giải thích trong Sổ Tay số V, chờ đợi cơ hội để truyền tải ảnh hưởng hỗ trợ lên người đó. Khi mang hình dạng cảm dục, tinh linh trí tuệ mất đi nhiều độ sáng, nhưng sắc hồng rực rỡ của nó vẫn còn thấy rõ bên trong lớp vỏ vật chất thấp hơn mà nó đã khoác lên, cho thấy rằng tư tưởng ban đầu đã truyền sức sống cho tinh hoa hành khí của cõi trí, thì chính tư tưởng đó, cùng với hình dạng của nó như một tinh linh trí tuệ, đã hoạt động như linh hồn cho tinh linh cảm dục — mô phỏng chặt chẽ phương thức mà linh hồn tối thượng tự khoác lên vỏ bọc lần lượt khi hạ xuống qua các cõi và các phân cảnh của vật chất. |
Further experiments along similar lines revealed the fact that the colour of the projected elemental varied with the character of the thought. As above stated, the thought of strong affection produced a creature of glowing rose-colour; an intense wish of healing, projected towards a sick friend, called into existence a most lovely silvery-white elemental; while an earnest mental effort to steady and strengthen the mind of a depressed and despairing person resulted in the production of a beautiful flashing golden-yellow messenger. | Các thí nghiệm tiếp theo theo hướng tương tự đã tiết lộ rằng màu sắc của hành khí được phóng ra thay đổi tùy theo tính chất của tư tưởng. Như đã nêu trên, suy nghĩ về tình thương mạnh mẽ tạo ra một sinh linh có màu hồng sáng rực rỡ; một mong muốn mãnh liệt về chữa lành, hướng về một người bạn ốm yếu, đã gọi vào sự hiện hữu một hành khí màu trắng bạc rất đẹp; trong khi một nỗ lực tinh thần nghiêm túc nhằm làm vững và củng cố tâm trí của một người đang chán nản và tuyệt vọng tạo ra một sứ giả màu vàng ánh kim rực rỡ. |
In all these cases it will be perceived that, besides the effect of radiating colours and vibrations produced in the matter of the plane, a definite force in the shape of an elemental was sent forth towards the person to whom the thought was directed; and this invariably happened, with one notable exception. One of the operators, while on the lower division of the plane, directed a thought of intense love and devotion towards the Adept who is his spiritual teacher, and it was at once noticed by the observers above that the result was in some sense a reversal of what had happened in the previous cases. | Trong tất cả các trường hợp này, có thể nhận thấy rằng, ngoài tác động của các màu sắc tỏa sáng và rung động tạo ra trong chất liệu của cõi, một mãnh lực rõ rệt dưới dạng một tinh linh đã được gửi đến người mà tư tưởng hướng đến; điều này luôn xảy ra, trừ một trường hợp đáng chú ý. Một trong những người phát tư tưởng, khi đang ở phân cảnh thấp của cõi trí, đã hướng một tư tưởng tràn đầy tình thương và sự sùng tín đến Chân sư, người là huấn sư tinh thần của y, và các quan sát viên bên trên ngay lập tức nhận thấy rằng kết quả trong trường hợp này có phần ngược lại so với những trường hợp trước. |
It should be premised that a pupil of any one of the great Adepts is always connected with his Master by a constant current of thought and influence, which expresses itself on the mental plane as a great ray or stream of dazzling light of all colours — violet and gold and blue; and it might perhaps have been expected that the pupil’s earnest, loving thought would send a special vibration along this line. Instead of this, however, the result was a sudden intensification of the colours of this bar of light, and a very distinct flow of spiritual influence, towards the pupil; so that it is evident that when a student turns his thought to his Master, what he [24] really does is to vivify his connection with that Master, and thus to open a way for an additional outpouring of strength and help to himself from higher planes. It would seem that the Adept is, as it were, so highly charged with the influences which sustain and strengthen, that any thought which brings into increased activity a channel of communication with him sends no current towards him, as it ordinarily would, but simply gives a wider opening through which the great ocean of his love finds vent. | Cần lưu ý rằng, một đệ tử của bất kỳ vị Chân sư vĩ đại nào luôn được kết nối với Chân sư của mình bằng một dòng chảy tư tưởng và ảnh hưởng liên tục, biểu hiện trên cõi trí như một tia hoặc dòng sáng chói lòa với các màu sắc — tím, vàng và xanh dương; có lẽ người ta sẽ mong đợi rằng tư tưởng yêu thương mãnh liệt của đệ tử sẽ tạo ra một rung động đặc biệt dọc theo dòng sáng này. Tuy nhiên, thay vì như vậy, kết quả là một sự tăng cường đột ngột màu sắc của dải ánh sáng này và một dòng chảy rõ rệt của ảnh hưởng tinh thần hướng đến đệ tử; do đó, rõ ràng rằng khi một người sinh viên hướng tư tưởng của mình về phía Chân sư, điều y thực sự làm là làm sinh động mối kết nối của mình với Chân sư đó, từ đó mở ra một con đường để dòng sức mạnh và sự giúp đỡ từ các cõi cao hơn tuôn chảy thêm về phía y. Có vẻ như Chân sư, như thể, được sạc đầy những ảnh hưởng mang lại sự nâng đỡ và sức mạnh, đến mức bất kỳ tư tưởng nào khơi dậy sự hoạt động gia tăng của kênh giao tiếp với Ngài đều không tạo ra dòng chảy hướng về Ngài, như thông thường, mà đơn giản là mở rộng con đường để đại dương yêu thương vĩ đại của Ngài tuôn trào. |
On the arûpa levels the difference in the effect of thought is very marked, especially as regards the elemental essence. The disturbance set up in the mere matter of the plane is similar, though greatly intensified in this much more refined form of matter; but in the essence no form at all is now created, and the method of action is entirely changed. In all the experiments on lower planes it was found that the elemental hovered about the person thought of, and awaited a favourable opportunity of expending his energy either upon his mind-body, his astral, or even his physical body; here the result is a kind of lightning-flash of the essence from the causal body of the thinker direct to the causal body of the object of his thought; so that while the thought on those lower divisions is always directed to the mere personality, here we influence the reincarnating ego, the real man himself, and if our message has any reference to the personality it will reach it only from above, through the instrumentality of his causal vehicle. | Ở các cảnh giới arûpa, sự khác biệt trong hiệu ứng của tư tưởng rất rõ rệt, đặc biệt là liên quan đến tinh hoa hành khí. Sự xáo động tạo ra trong chất liệu của cõi này tương tự, dù được tăng cường đáng kể trong dạng vật chất tinh tế hơn rất nhiều này; nhưng trong tinh hoa, không còn hình thức nào được tạo ra, và phương thức hành động hoàn toàn thay đổi. Trong tất cả các thí nghiệm trên các cõi thấp hơn, tinh linh thường lượn quanh người được nghĩ đến và chờ đợi một cơ hội thuận lợi để giải phóng năng lượng lên thể trí, thể cảm dục, hoặc thậm chí thể xác của người đó; ở đây, kết quả là một loại tia chớp của tinh hoa từ thể nhân quả của người suy nghĩ trực tiếp đến thể nhân quả của đối tượng tư tưởng của y. Vì vậy, trong khi tư tưởng ở các phân cảnh thấp hơn luôn hướng đến phàm ngã, thì tại đây chúng ta ảnh hưởng đến chân ngã tái sinh, bản ngã thực sự của người đó, và nếu thông điệp của chúng ta có bất kỳ liên quan nào đến phàm ngã, nó sẽ chỉ đến được từ trên cao, thông qua sự trung gian của thể nhân quả của y. |
Thought-Forms. – Hình Tư Tưởng
Naturally the thoughts to be seen on this plane are not all definitely directed at some other person; many are simply thrown off to float vaguely about, and the diversity of form and colour shown among these is practically infinite, [25] so that the study of them is a science in itself, and a very fascinating one. Anything like a detailed description even of the main classes among them would occupy far more space than we have to spare; but an idea of the principles upon which such classes might be formed may be gained from the following extract from a most illuminative paper on the subject written by Mrs. Besant in Lucifer (the earlier form of The Theosophical Review) for September 1896. She there enunciates the three great principles underlying the production of the thought-forms which are thrown off by the action of the mind — that (a) the quality of a thought determines its colour, (b) the nature of a thought determines its form, (c) the definiteness of a thought determines the clearness of its outline. Giving instances of the way in which the colour is affected, she continues: | Tự nhiên, những tư tưởng được thấy trên cõi này không phải tất cả đều được hướng trực tiếp đến một người khác; nhiều tư tưởng đơn giản chỉ được phát ra để trôi nổi mơ hồ xung quanh, và sự đa dạng về hình dạng và màu sắc của chúng hầu như vô tận, vì vậy việc nghiên cứu chúng bản thân là một môn khoa học, và cũng là một môn khoa học rất thú vị. Bất kỳ sự mô tả chi tiết nào, thậm chí về các nhóm chính trong số chúng, cũng sẽ chiếm nhiều không gian hơn những gì chúng ta có. Tuy nhiên, một ý tưởng về các nguyên tắc mà theo đó các nhóm này có thể được hình thành có thể thấy qua đoạn trích sau từ một bài viết rất sáng tỏ về chủ đề này do bà Besant viết trong tạp chí Lucifer (dạng ban đầu của The Theosophical Review) vào tháng Chín năm 1896. Ở đó, bà nêu ra ba nguyên tắc lớn làm cơ sở cho sự hình thành các hình tư tưởng được phát ra bởi hoạt động của tâm trí: (a) phẩm chất của tư tưởng quyết định màu sắc của nó, (b) bản chất của tư tưởng quyết định hình dạng của nó, (c) mức độ rõ ràng của tư tưởng quyết định độ sắc nét của đường viền. Đưa ra các ví dụ về cách màu sắc bị ảnh hưởng, bà tiếp tục: |
“ If the astral and mental bodies are vibrating under the influence of devotion, the aura will be suffused with blue, more or less intense, beautiful and pure according to the depth, elevation, and purity of the feeling. In a church such thought-forms may be seen rising, for the most part not very definitely outlined, but rolling masses of blue clouds. Too often the colour is dulled by the intermixture of selfish feelings, when the blue is mixed with browns and thus loses its pure brilliancy. But the devotional thought of an unselfish heart is very lovely in colour, like the deep blue of a summer sky. Through such clouds of blue will often shine out golden stars of great brilliancy, starting upwards like a shower of sparks. | “Nếu thể cảm dục và thể trí đang rung động dưới ảnh hưởng của sự sùng tín, hào quang sẽ được bao phủ bởi màu xanh lam, đậm nhạt, đẹp đẽ và thuần khiết khác nhau tùy theo độ sâu, sự cao thượng và sự trong sáng của cảm xúc. Trong một nhà thờ, các hình tư tưởng như vậy có thể được thấy bay lên, phần lớn không có viền rõ ràng, mà là những khối mây màu xanh lam cuộn tròn. Quá thường xuyên, màu sắc này bị xỉn đi do sự xen lẫn của những cảm xúc ích kỷ, khi màu xanh lam bị trộn với sắc nâu và do đó mất đi độ sáng tinh khiết của nó. Nhưng tư tưởng sùng tín của một trái tim vô ngã thì có màu sắc rất đẹp, như sắc xanh lam sâu thẳm của bầu trời mùa hè. Xuyên qua những đám mây xanh lam này, thường xuất hiện những ngôi sao vàng sáng rực, bùng lên như một cơn mưa lửa.” |
“Anger gives rise to red, of all shades from brick-red to brilliant scarlet; brutal anger will show as flashes of lurid dull red from dark brown clouds, while the anger of noble indignation is a vivid scarlet, by no means unbeautiful to look at, though it gives an unpleasant thrill. | “Sự giận dữ tạo ra màu đỏ, với tất cả các sắc thái từ đỏ gạch đến đỏ tươi rực rỡ; cơn giận dữ tàn bạo sẽ xuất hiện như những tia chớp đỏ đục, rực sáng từ các đám mây nâu sẫm, trong khi cơn giận dữ của sự phẫn nộ cao quý là một màu đỏ tươi rực, không hề thiếu vẻ đẹp, mặc dù nó mang lại một cảm giác khó chịu. |
“Affection sends out clouds of rosy hue, varying from [page26] dull crimson, where the love is animal in its nature rose-red mingled with brown when selfish, or with dull green when jealous, to the most exquisite shades of delicate rose like the early flushes of the dawning, as the love becomes purified from all selfish elements, and flows out in wider, and wider circles of generous impersonal tenderness and compassion to all who are in need. | “Tình cảm phát ra các đám mây màu hồng, dao động từ đỏ thẫm mờ đục, khi tình yêu mang tính chất bản năng, đến màu hồng pha nâu khi ích kỷ, hoặc pha màu xanh lá đục khi ghen tuông, đến những sắc hồng tinh tế nhất, như ánh sáng đầu tiên của buổi bình minh, khi tình yêu được thanh lọc khỏi mọi yếu tố ích kỷ và lan tỏa trong những vòng tròn ngày càng rộng của sự dịu dàng và lòng từ bi vô ngã đối vi tất cả những ai cần đến. |
““ Intellect produces yellow thought-forms, the pure reason directed to spiritual ends giving rise to a very delicate, beautiful yellow, while used for-more selfish ends or mingled with ambition it yields deeper shades of orange, clear and intense.” (Lucifer, Volume xix. page 71.) | “Trí tuệ tạo ra các hình tư tưởng màu vàng, lý trí thuần khiết hướng đến các mục tiêu tinh thần tạo nên một màu vàng rất tinh tế và đẹp đẽ, trong khi nếu sử dụng cho các mục đích ích kỷ hoặc pha trộn với tham vọng, nó sẽ có sắc cam sâu hơn, rõ ràng và mãnh liệt.” (Lucifer, Tập xix, trang 71). |
It must of course be borne in mind that astral as well as mental thought-forms are described in the above quotation, some of the feelings mentioned needing matter of the lower plane as well as of the higher before they can find expression. Some examples are then given of the beautiful flower-like and shell-like forms sometimes taken by our nobler thoughts; and especial reference is made to the not infrequent case in which the thought, taking human form, is liable to be confounded with an apparition: | Tất nhiên, cần phải ghi nhớ rằng các hình tư tưởng cảm dục cũng như trí tuệ được mô tả trong đoạn trích trên, một số cảm xúc được đề cập cần có chất của cõi thấp cũng như cõi cao trước khi chúng có thể biểu hiện. Một số ví dụ sau đó được đưa ra về các hình dạng đẹp giống như hoa và vỏ sò mà đôi khi ý nghĩ cao cả của chúng ta có thể tạo ra; và đặc biệt đề cập đến trường hợp không ít khi hình tư tưởng, khi mang hình dạng con người, có thể dễ bị nhầm lẫn với một sự hiện hình, và đặc biệt đề cập đến trường hợp không ít khi hình tư tưởng, khi mang hình dạng con người, có thể dễ bị nhầm lẫn với một sự hiện hình. |
“A thought-form may assume the shape of its projector; if a person wills strongly to be present at a particular place, to visit a particular person, and be seen, such a thought-form may take his own shape, and a clairvoyant present at the desired spot would see what he would probably mistake for his friend in the astral body. Such a thought-form might convey a message, if that formed part of its content, setting up in the astral body of the person reached vibrations like its own, and these being passed on by that astral body to the brain, where they would be translated into a thought or a sentence. Such a thought-form, again, might convey to its projector, by the magnetic relation between them, vibrations impressed on itself.” (page 73.) [27] | “Một hình tư tưởng có thể mang hình dạng của người tạo ra nó; nếu một người có ý chí mạnh mẽ muốn có mặt tại một nơi cụ thể, gặp một người cụ thể, và được nhìn thấy, thì một hình tư tưởng như vậy có thể mang hình dạng của chính người đó, và một người có thông nhãn tại địa điểm mong muốn đó sẽ nhìn thấy hình ảnh mà có thể họ nhầm lẫn là bạn mình trong thể cảm dục. Một hình tư tưởng như vậy có thể truyền đạt một thông điệp, nếu đó là một phần nội dung của nó, gây ra trong thể cảm dục của người nhận các rung động tương tự với chính nó, và những rung động này sẽ được thể cảm dục đó truyền đến não bộ, nơi chúng sẽ được dịch thành một ý nghĩ hoặc một câu nói. Một lần nữa, hình tư tưởng như vậy có thể truyền đạt lại cho người tạo ra nó, thông qua mối liên hệ từ tính giữa họ, những rung động in dấu trên nó.” (trang 73.) [27] |
The whole of the article from which these extracts are taken should be very carefully studied by those who wish to grasp this very complex branch of our subject, for, with the aid of the beautifully-executed coloured illustrations which accompany it, it enables, those who cannot yet see for themselves to approach much more nearly to a realization of what thought-forms actually are than anything previously written. | Toàn bộ bài viết mà các trích đoạn này được lấy ra nên được nghiên cứu một cách cẩn thận bởi những ai muốn nắm bắt phần rất phức tạp của chủ đề này, bởi vì, với sự hỗ trợ của các minh họa màu sắc tuyệt đẹp đi kèm, nó giúp cho những người chưa thể tự mình thấy được có thể đến gần hơn với sự nhận thức về hình tư tưởng là gì so với bất kỳ điều gì đã được viết trước đây. |
The Sub-Planes – Những Cõi Phụ Của Cõi Trí
If it be asked what is the real difference between the matter of the various sub-planes of the mental plane, it is not easy to answer in other than very general terms, for the unfortunate scribe bankrupts himself of adjectives in an unsuccessful endeavour to describe the lowest plane, and then has nothing left to say about the others. What, indeed, can be said, except that ever as we ascend the material becomes finer, the harmonies fuller, the light more living and transparent? There are more overtones in the sound, more delicate intershades in the colours as we rise, more and more new colours appear — hues entirely unknown to the physical sight; and it has been poetically yet truly said that the light of the lower plane is darkness on the one above it. | Nếu có ai hỏi đâu là sự khác biệt thực sự giữa chất liệu của các phân cảnh khác nhau trong cõi trí, thì không dễ để trả lời ngoài những thuật ngữ rất tổng quát, bởi người ghi chép thường không còn từ ngữ nào để mô tả sau nỗ lực không thành công khi cố gắng mô tả cõi thấp nhất, và sau đó không còn gì để nói về các cõi khác. Thực sự có thể nói gì ngoài việc, càng lên cao, chất liệu càng trở nên tinh tế hơn, các hòa âm đầy đặn hơn, ánh sáng càng sống động và trong suốt hơn ? Có thêm nhiều âm bội trong âm thanh, nhiều sắc thái màu sắc tinh tế hơn khi chúng ta tiến lên cao hơn, ngày càng xuất hiện những màu mới — những sắc độ hoàn toàn không thể nhìn thấy được bằng mắt vật lý; và đã có câu nói đầy chất thơ nhưng cũng rất chính xác rằng ánh sáng của cõi thấp hơn là bóng tối đối với cõi trên nó. |
Perhaps this idea is simpler if we start in thought from .the top instead of the bottom, and try to realize that on that highest sub-plane we shall find its appropriate matter ensouled and vivified by an energy which still flows down like light from above — from a plane which lies away beyond the mental altogether. Then if we descend to the second subdivision we shall find that the matter of our first sub-plane has become the energy of this — or, to put the thing more accurately, that the original energy, plus the garment of matter of the first sub-plane with which it has endued itself, is still the energy ensouling the matter of this [28 ] second sub-plane. In the same way, in the third division we shall find that the original energy has twice veiled itself in the matter of these first and second sub-planes through which it has passed; so that by the time we get to our seventh sub-division we shall have our original energy six times enclosed or veiled, and therefore by so much the weaker and less active. This process is exactly analogous to the veiling of Âtma, the primordial Spirit, in its descent as monadic essence in order to energize the matter of the planes of the cosmos, and as it is one which frequently takes place in nature, it will save the student much trouble if he will try to familiarize himself with the idea (see Mrs. Besant’s <> Ancient Wisdom, page 54, and footnote). | Có lẽ ý tưởng này sẽ dễ hiểu hơn nếu ta bắt đầu suy tưởng từ đỉnh thay vì từ đáy, và cố gắng nhận thức rằng trên phân cảnh cao nhất đó, ta sẽ tìm thấy chất liệu phù hợp của nó được linh hồn hóa và làm sống động bởi một năng lượng vẫn tuôn xuống như ánh sáng từ bên trên — từ một cõi hoàn toàn vượt ngoài cõi trí. Rồi khi ta hạ xuống phân cảnh thứ hai, ta sẽ thấy rằng chất liệu của phân cảnh đầu tiên đã trở thành năng lượng của phân cảnh này — hoặc, để diễn đạt chính xác hơn, rằng năng lượng nguyên thủy, cộng thêm lớp vật chất của phân cảnh đầu tiên mà nó đã khoác lên mình, vẫn là năng lượng làm sống động chất liệu của phân cảnh thứ hai này. Tương tự, ở phân cảnh thứ ba, ta sẽ thấy rằng năng lượng nguyên thủy đã tự che phủ hai lần bằng chất liệu của hai phân cảnh đầu tiên mà nó đã đi qua; do đó, khi chúng ta đến phân cảnh thứ bảy, năng lượng nguyên thủy của chúng ta đã được bao bọc hoặc che phủ sáu lần, và do đó yếu hơn và kém hoạt động hơn rất nhiều. Quá trình này hoàn toàn tương tự như sự che phủ của Âtma, Tinh thần nguyên thủy, trong sự giáng xuống như tinh hoa chân thần để làm sinh động chất liệu của các cõi trong vũ trụ, và vì đây là một quá trình thường xuyên xảy ra trong tự nhiên, điều này sẽ giúp người học bớt khó khăn nếu y làm quen với ý tưởng này (xem Minh Triết Cổ Đại của bà Besant, trang 54 và chú thích). |
The Records of the Past – Những Lưu Trữ Của Quá Khứ
In speaking of the general characteristics of the plane we must not omit to mention the ever-present background formed by the records of the past — the memory of nature, the only really reliable history of the world. While what we have on this plane is not yet the absolute record itself, but merely a reflection of something higher still, it is at any rate clear, accurate, and continuous, differing therein from the disconnected and spasmodic manifestation which is all that represents it in the astral world. It is, therefore, only when a clairvoyant possesses the vision of this mental plane that his pictures of the past can be relied upon; and even then, unless he has the power of passing in full consciousness from that plane to the physical, we have to allow for the possibility of errors in bringing back the recollection of what he has seen. | Khi nói về các đặc điểm chung của cõi này, chúng ta không thể bỏ qua nền tảng luôn hiện diện là những ký ức của quá khứ — ký ức của thiên nhiên, lịch sử duy nhất thực sự đáng tin cậy của thế giới. Mặc dù những gì chúng ta có trên cõi này vẫn chưa phải là bản ghi tuyệt đối, mà chỉ là một phản ánh của thứ gì đó cao hơn nữa, nhưng nó vẫn rõ ràng, chính xác và liên tục, khác với những biểu hiện rời rạc và gián đoạn mà chúng ta có được ở cõi cảm dục. Vì vậy, chỉ khi một nhà thông nhãn có được tầm nhìn của cõi trí thì những hình ảnh về quá khứ của y mới có thể đáng tin cậy; và ngay cả khi đó, trừ phi y có khả năng chuyển từ cõi trí xuống cõi vật lý với ý thức trọn vẹn, chúng ta vẫn phải dự phòng cho khả năng xảy ra sai sót trong việc hồi tưởng lại những gì y đã thấy. |
But the student who has succeeded in developing the powers latent within himself so far as to enable him to use the sense belonging to this mental plane while he is still in [29] the physical body, has before him a field of historical research of most entrancing interest. Not only can he review at his leisure all history with which we are acquainted, correcting as he examines it the many errors and misconceptions which have crept into the accounts handed down to us; he can also range at will over the whole story of the world from its very beginning, watching the slow development of intellect in man, the descent of the Lords of the Flame, and the growth of the mighty civilizations which they founded. | Nhưng người sinh viên đã phát triển các năng lực tiềm ẩn trong chính mình đến mức có thể sử dụng giác quan thuộc về cõi trí trong khi vẫn còn ở trong thể xác, thì trước mặt y là một lĩnh vực nghiên cứu lịch sử đầy mê hoặc. Không chỉ có thể xem xét lại một cách nhàn nhã toàn bộ lịch sử mà chúng ta đã biết, và sửa chữa các sai lầm và sự hiểu lầm đã len lỏi vào những câu chuyện được truyền lại cho chúng ta khi y xem xét nó; y cũng có thể tự do khám phá toàn bộ câu chuyện của thế giới từ thuở ban đầu, quan sát sự phát triển chậm chạp của trí tuệ ở con người, sự giáng xuống của các Chúa tể của Ngọn lửa, và sự phát triển của các nền văn minh vĩ đại mà các Ngài đã thiết lập. |
Nor is his study confined to the progress of humanity alone; he has before him, as in a museum, all the strange animal and vegetable forms which occupied the stage in days when the world was young; he can follow all the wonderful geological changes which have taken place, and watch the course of the great cataclysms which have altered the whole face of the earth again and again. | Việc nghiên cứu của y không chỉ giới hạn trong sự tiến bộ của nhân loại; trước mặt y, như trong một viện bảo tàng, là tất cả các hình dạng động thực vật kỳ lạ đã xuất hiện từ thời khi thế giới còn non trẻ; y có thể theo dõi mọi biến đổi địa chất kỳ diệu đã diễn ra, và quan sát tiến trình của những thảm họa lớn đã thay đổi toàn bộ bề mặt trái đất hết lần này đến lần khác. |
Many and varied are the possibilities opened up by access to these records — so many and so varied indeed that even if this were the only advantage of the mental plane, it would still transcend in interest all the lower worlds. But when to this we add the remarkable increase in the opportunities for the acquisition of knowledge given by its new and wider faculty — the privilege of direct untrammelled intercourse not only with the great Deva kingdom, but with the very Masters of Wisdom themselves — the rest and relief from the weary strain of physical life that is brought by the enjoyment of its deep unchanging bliss, and above all, the enormously enhanced capability of the developed student for the service of his fellow-men — then we shall begin to have some faint conception of what a pupil gains when he wins the right to enter at will and in perfect consciousness upon his heritage in this bright realm of the heaven-world. [30] | Những khả năng mà việc tiếp cận những ghi chép này mở ra thật phong phú và đa dạng — đến mức ngay cả khi đây là lợi ích duy nhất của cõi trí, nó vẫn vượt xa mọi cõi thấp hơn về mức độ hấp dẫn. Nhưng khi chúng ta bổ sung thêm vào điều này sự gia tăng đáng kể về cơ hội để thu nhận tri thức nhờ vào năng lực mới và rộng lớn hơn của cõi này — đặc quyền được giao tiếp trực tiếp, không bị giới hạn không chỉ với đại giới của các thiên thần Deva, mà còn với chính các Chân sư Minh Triết — sự nghỉ ngơi và xoa dịu khỏi những căng thẳng mệt mỏi của đời sống vật lý mà phúc lạc sâu sắc, bất biến của cõi này mang lại, và trên hết, khả năng phục vụ đồng loại được tăng cường rất lớn của người sinh viên phát triển — thì chúng ta sẽ bắt đầu có một ý niệm mờ nhạt về những gì mà một sinh viên có được khi y giành được quyền bước vào cõi trời sáng ngời này một cách tự do và với ý thức hoàn toàn. |