02. ĐIỀU KIỆN CHO ĐỊA VỊ ĐỆ TỬ

QUALIFICATIONS FOR DISCIPLESHIP—ĐIỀU KIỆN CHO ĐỊA VỊ ĐỆ TỬ

CONTROL OF MIND. MEDITATION. BUILDING OF CHARACTER.



KIỂM SOÁT THỂ TRÍ. THAM THIỀN. LẬP HẠNH.

BROTHERS,—The special section of the subject with which I am to deal this morning is the qualifi­cations for discipleship. And let me begin by draw­ing your attention to the question of rebirth, and the way in which a man may realize what is meant by discipleship, and may deliberately choose that as his future path in life. You will remember what was said yesterday, how I traced for you the different stages of action: how a man first performed action for the gratification of his own lower nature ever seeking for fruit, how then he gradually learnt in the practice of Karma-Yoga to perform action not for the sake of the fruit for the lower self, but because the action ought to be done, thus identifying himself with Law, thus consciously taking part in the great work of the world. Then I hinted to you that there was a stage beyond that where the sacrifice was made not only as duty but as a joyful giving of everything that a man possessed. It is clear that when that stage is aimed at, when a man performs work not merely because it ought to be done but because he desires to give everything that he is and has to the service of the Supreme, then it is that it becomes possible for a man to break what are called the bonds of desire and in that way to liberate himself from rebirth. For that which draws man to rebirth in the world is desire; the desire to enjoy the things that here may be enjoyed, the desire to achieve the things that here may be achieved. Every man who puts before him some earthly aim, every man who makes the goal of his life some earthly object, that man is evidently bound by desire. And so long as he desires that which the earth can give him, he must return for it; so long as any joy or any object belonging to the transitory life—physical life upon earth—is a thing that has power to attract, it is a thing that has also power to bind. Every attraction in other words is that which binds the soul, and brings it back to the place where the desire may be accomplished.

HUYNH ĐỆ,—Phần đặc biệt của chủ đề mà tôi sẽ đề cập sáng nay là điều kiện cho địa vị đệ tử. Và hãy để tôi bắt đầu bằng cách thu hút sự chú ý của bạn đến câu hỏi về tái sinh, và cách mà một người có thể nhận ra điều gì được gọi là địa vị đệ tử, và có thể cố ý chọn điều đó làm con đường tương lai trong cuộc sống của mình. Bạn sẽ nhớ những gì đã được nói hôm qua, làm thế nào tôi đã vạch ra cho bạn các giai đoạn khác nhau của hành động: làm thế nào một người đầu tiên thực hiện hành động để thỏa mãn bản chất thấp kém của mình luôn tìm kiếm kết quả, làm thế nào sau đó y dần dần học trong thực hành Karma-Yoga để thực hiện hành động không vì kết quả cho phàm ngã, mà vì hành động nên được thực hiện, do đó đồng hóa mình với Định luật, do đó có ý thức tham gia vào công việc lớn của thế giới. Sau đó, tôi đã gợi ý với bạn rằng có một giai đoạn vượt qua đó, nơi sự hy sinh được thực hiện không chỉ như một nghĩa vụ mà còn như một sự trao đi vui vẻ của mọi thứ mà một người sở hữu. Rõ ràng là khi giai đoạn đó được nhắm đến, khi một người thực hiện công việc không chỉ vì nó nên được thực hiện mà vì y mong muốn trao đi mọi thứ mà y là và có cho sự phụng sự của Đấng Tối Cao, thì đó là lúc mà một người có thể phá vỡ những gì được gọi là ràng buộc của dục vọng và theo cách đó giải phóng mình khỏi tái sinh. Vì điều gì kéo con người đến tái sinh trong thế giới là dục vọng; dục vọng để tận hưởng những điều có thể được tận hưởng ở đây, dục vọng để đạt được những điều có thể đạt được ở đây. Mỗi người đặt trước mình một mục tiêu trần tục, mỗi người làm cho mục tiêu của cuộc sống mình một đối tượng trần tục, người đó rõ ràng bị ràng buộc bởi dục vọng. Và miễn là y mong muốn điều mà trái đất có thể cho y, y phải trở lại để đạt được nó; miễn là bất kỳ niềm vui hay đối tượng nào thuộc về cuộc sống tạm thời—cuộc sống thể xác trên trái đất—là điều có sức mạnh thu hút, nó cũng là điều có sức mạnh ràng buộc. Mỗi sự thu hút, nói cách khác, là điều ràng buộc linh hồn, và đưa nó trở lại nơi mà dục vọng có thể được thực hiện.

Man is so divine in his nature, so Godlike in him­self, that even this out-going energy of his, that we speak of as desire, has in itself the power of accom­plishment. That which he desires he attains, that which he desires nature gives to him in due course when the time is ripe; so that man, as has often been said, is master of his own destiny, and whatever he demands from the universe that the universe will give. He must of course take the results of the desire in that portion of the universe to which the de­sire belongs. So that if he desires the things of earth, he must come back to earth in order that the desire may be accomplished. So again a man is bound to rebirth by any of those desires which find their satis­faction in the temporary and transitory worlds on the other side of death; those worlds which are tran­sitory, beyond the gateway of death, all lead back again, as we know, to rebirth here; so that if a man’s desires are fixed on the joys of Svarga, if he looks for the fruits of his life in this world in some other world which is also transitory, supposing that he denies himself earthly joys with the deliberate ob­ject of attaining the joys of Svarga, then those joys are the fruit of his work, and that fruit will be given to him in due course. But inasmuch as Svarga is itself fleeting, inasmuch as Svarga is itself transitory, he has only taken for his path what has been called the path of the Moon, the path that leads to rebirth­—you may remember it is written that “the moon is the door of Svarga”—and then from Svarga the soul comes back to the earthly world of men. In that way desire—whether it is to be accomplished in this world or in some other world, also transitory and fleeting—ties the soul to rebirth, and therefore it is that it is written that only when “the bonds of the heart are broken” can the soul reach liberation.

Con người có bản chất thiêng liêng đến mức, có tính chất Thượng đế trong chính mình, rằng ngay cả năng lượng phát ra này của y, mà chúng ta gọi là dục vọng, cũng có trong nó sức mạnh của sự hoàn thành. Điều mà y mong muốn, y đạt được, điều mà y mong muốn, tự nhiên trao cho y đúng lúc khi thời gian chín muồi; do đó, con người, như đã thường được nói, là chủ nhân của số phận của chính mình, và bất cứ điều gì y yêu cầu từ vũ trụ, vũ trụ sẽ trao cho y. Tất nhiên, y phải nhận kết quả của dục vọng trong phần của vũ trụ mà dục vọng thuộc về. Do đó, nếu y mong muốn những điều của trái đất, y phải trở lại trái đất để dục vọng có thể được thực hiện. Do đó, một người bị ràng buộc với tái sinh bởi bất kỳ những dục vọng nào tìm thấy sự thỏa mãn của chúng trong các thế giới tạm thời và thoáng qua ở phía bên kia của cái chết; những thế giới đó là tạm thời, vượt qua cánh cổng của cái chết, tất cả đều dẫn trở lại tái sinh ở đây; do đó, nếu dục vọng của một người được cố định vào những niềm vui của Svarga, nếu y tìm kiếm kết quả của cuộc sống mình trong thế giới này ở một thế giới khác cũng là tạm thời, giả sử rằng y từ chối những niềm vui trần tục với mục đích cố ý đạt được những niềm vui của Svarga, thì những niềm vui đó là kết quả của công việc của y, và kết quả đó sẽ được trao cho y đúng lúc. Nhưng vì Svarga tự nó là thoáng qua, vì Svarga tự nó là tạm thời, y chỉ chọn cho con đường của mình điều đã được gọi là con đường của Mặt Trăng, con đường dẫn đến tái sinh—bạn có thể nhớ rằng đã được viết rằng “mặt trăng là cánh cửa của Svarga”—và sau đó từ Svarga, linh hồn trở lại thế giới trần tục của con người. Theo cách đó, dục vọng—dù nó được thực hiện trong thế giới này hay trong một thế giới khác, cũng tạm thời và thoáng qua—ràng buộc linh hồn với tái sinh, và do đó, đã được viết rằng chỉ khi “những ràng buộc của trái tim bị phá vỡ” thì linh hồn mới có thể đạt được giải thoát.

Now liberation pure and simple (for an age) may be gained by this mere destruction of desire. With­out any very, very high achievement, without any very lofty stage in the evolution of the soul, without the unfolding of all the divine possibilities that lie enwrapped in human consciousness, without attain­ing those great heights on which the Teachers and the Helpers of mankind are standing, man may gain, if he so desire it, a liberation which is fundamentally selfish, which lifts him indeed out of the world of change, which breaks indeed the bonds that bind him to the worlds of life and death, but which helps not in any way his brethren, which does not break their bonds nor set them free; this is a liberation which is for the unit rather than for the whole, in which a man passes out of humanity and leaves humanity to struggle along its way. I know that many men have in life no higher thought than that; that there are many who seek simply for liberation, careless of others so that they themselves escape. That, as I say, may fairly easily be gained. It needs a recognition of the transitoriness of earthly things, of the worthlessness of the objects of ambition with which a worldly man naturally busies himself day by day. But after all that liberation is only for a time, for a manvantara perhaps; after that there is a return. So that while it sets the soul free from this world and leaves it liberated so far as this earth is concerned, in a future cycle such souls have to come back to take another step towards what is the really diviner destiny of man, the evolution of the human consciousness into the All-consciousness which is to be used for training, for helping, for guiding the worlds of the future.

Giờ đây, giải thoát thuần túy và đơn giản (trong một thời đại) có thể đạt được bằng sự tiêu diệt dục vọng. Không cần bất kỳ thành tựu rất cao nào, không cần bất kỳ giai đoạn rất cao nào trong tiến hóa của linh hồn, không cần sự phát triển của tất cả các khả năng thiêng liêng nằm ẩn trong tâm thức con người, không cần đạt được những đỉnh cao lớn mà các Huấn Sư và Người Giúp Đỡ của nhân loại đang đứng, con người có thể đạt được, nếu y mong muốn, một sự giải thoát mà về cơ bản là ích kỷ, mà thực sự nâng y ra khỏi thế giới của sự thay đổi, mà thực sự phá vỡ những ràng buộc ràng buộc y với các thế giới của sự sống và cái chết, nhưng không giúp đỡ đồng loại của y theo bất kỳ cách nào, không phá vỡ ràng buộc của họ hay giải phóng họ; đây là một sự giải thoát dành cho đơn vị hơn là cho toàn thể, trong đó một người vượt ra khỏi nhân loại và để nhân loại tự đấu tranh trên con đường của mình. Tôi biết rằng nhiều người trong cuộc sống không có suy nghĩ cao hơn điều đó; rằng có nhiều người chỉ tìm kiếm sự giải thoát, không quan tâm đến người khác miễn là họ tự thoát khỏi. Điều đó, như tôi đã nói, có thể dễ dàng đạt được. Nó cần một sự nhận thức về tính tạm thời của những điều trần tục, về sự vô giá trị của các đối tượng tham vọng mà một người trần tục tự nhiên bận rộn hàng ngày. Nhưng sau tất cả, sự giải thoát đó chỉ là tạm thời, có thể là trong một manvantara; sau đó có một sự trở lại. Do đó, trong khi nó giải phóng linh hồn khỏi thế giới này và để nó được giải thoát về mặt trái đất, trong một chu kỳ tương lai, những linh hồn như vậy phải trở lại để thực hiện một bước khác tiến tới điều thực sự là định mệnh thiêng liêng hơn của con người, sự tiến hóa của tâm thức con người thành Tâm thức Toàn thể, được sử dụng để rèn luyện, giúp đỡ, hướng dẫn các thế giới của tương lai.

I turn aside then from that to those wiser and more generous souls who while they would break the bonds of desire would fain break them not that they themselves may escape from the difficulties of earthly life, but in order that they may follow that higher and nobler Path which is called the Path of Disciple­ship, follow the Great Ones who have made the pathway possible for humanity; such seek to discover the Teachers who are willing to accept those who qualify themselves for discipleship with a view not of simply liberating themselves, not of simply gaining escape from trouble, but of becoming the helpers and teachers and saviours of humanity, giving back to the world at large that which the individual has received from the Teachers who have gone in front. That discipleship is hinted at in all the great Scrip­tures of the world. The Guru who may be found and who teaches men is one of the ideals of all the highest and most developed souls who in this outer world have sought to realize the divine. Take any Scripture that you will, and see how this thought is expressed there. Take Upanishad after Upanishad and see how the Guru is mentioned and how the attention of the would-be disciple is directed towards His seeking and His finding. It is that which I desire to put to you this morning; the qualifications for discipleship; that which has to be done before discipleship is possible; that which has to be accomplished before the search for the Guru has any chance of success; that which has to be done in the world, in the ordinary life of men, utilizing that life as a school, as a place for learning the preparatory lessons, as a place for qualifying the man to be fit to touch the Feet of the great Teachers who shall give him the true rebirth—the rebirth which is symbolized in all exoteric religions by one or another external ceremony, sacred less for itself than because of that which it symbolizes. You will find in Hinduism the word “Twice-born”, implying that the man is not only born of earthly father and mother, but has passed the true second birth which is given by the Guru to the soul. That is symbolized—alas! only symbolized, in too many cases now—by the initiation given by the family Guru or by the father to the son, when he becomes what in the outer world is called the twice-born man. But in the days of old—and in the present days as well—there was and is a real, a true Initiation which is the original of that external ceremony; there is a real, a true Initiation which is not simply initiation into an exoteric caste but into a really divine birth; which is given by a mighty GURU; which comes from the GREAT INITIATOR, the One Initiator of humanity. We read of these initiations in the past, we know them to exist in the present. All history bears testimony to their reality. There are temples in India beneath which are the places of the ancient initiations, places which now are unknown to the people, places which now are hidden from the eyes of men, but which none the less are there, which none the less are accessible to those who prove themselves worthy to attain them. And not in India alone are such places to be found. Ancient Egypt had also her crypts of initiation, and mighty pyramids in one or two cases stand over the ancient places, that now are hidden from the eyes of man. The later initiations that took place in Egypt, those of which you may read in the history of Greece and the history of Egypt itself, those of which you may have heard that one or another of the great philosophers was there initiated—those took place in the outer buildings known to the people, which covered the real Temples of Initiation. Into these entrance was not gained by outer knowledge, but under conditions that have existed from the furthest antiquity and that exist today as really as they existed then; for as all history bears testimony to the reality of the initiation, so does history bear testimony to the reality of the Initiate. There stand at the head of every great religion Men who were more than ordinary men, Men who gave the Scrip­tures to the people, Men who traced the outlines of the exoteric faiths, Men who Stand out in history head and shoulders above Their fellows by the spiritual wisdom that gave Them glory and the spiritual insight by means of which They saw, and who testified of what They saw; for there has been one note which we have often remarked with regard to all these great Teachers. They do not argue, They proclaim; They do not discuss, They declare; They do not reach Their conclusions by logical processes, They reach them by spiritual intuitions; They come forth and speak with authority that justifies itself in the very speaking, and men’s hearts recognize the truth of Their teaching, even when it rises higher than their intellect is able to follow. For there is in the heart of every man that spiritual principle to which every divine Teacher makes His appeal, and it answers to the truth of the spiritual declaration, even though the intellectual eyes may not be keen enough to discern the reality of that which the Spirit sees. Those great Gurus then who are found in history as the greatest Teachers, as well as Those whom we find standing out as the mightiest philosophers, Those are the Initiates, who have become more than man; such Initiates exist today as they have ever existed. Nay, how should death touch Them who have overcome life and death, and are the Masters of all lower nature? They have evolved out of humanity in the course of the millennia which lie behind, some out of our humanity and some out of humanities anterior to our own. Some of Them came from other worlds, from other planets, when our humanity was a child; others grew up when this humanity had trodden long enough the path of evolution to produce its own Initiates, Gurus of our own race to help onwards the humanity to which They Themselves belong. When that path is trodden and that goal is reached, for such a Man there is no more possibility that death should have power over Him, and that having been He shall not continue to be; the very fact that They are found in history is the guarantee for Their present existence; that would be enough to show that They exist, with­out the testimony which is growing year by year of those who have found Them, and who know Them, those who are taught by Them, who take lessons at Their Feet. For in our own time and in our own day, one after another finds the ancient path; in our own time and our own day one after another finds that ancient and narrow path, keen as the edge of a razor, that leads onward to the gate­way of discipleship and makes entrance on the Path of Discipleship a possibility for men; as one after another finds it, one witness after another in modern times is able to proclaim the truth of the ancient writings, and entering on that Path they may follow it stage by stage.

Tôi chuyển sang những linh hồn khôn ngoan và hào phóng hơn, những người trong khi muốn phá vỡ ràng buộc của dục vọng, không muốn phá vỡ chúng để tự thoát khỏi những khó khăn của cuộc sống trần tục, mà để theo đuổi con đường cao hơn và cao quý hơn được gọi là Con Đường Đệ Tử, theo chân Các Đấng Cao Cả đã làm cho con đường đó có thể cho nhân loại; những người như vậy tìm cách khám phá các Huấn Sư sẵn sàng chấp nhận những người tự đủ điều kiện cho địa vị đệ tử với mục đích không chỉ giải phóng bản thân, không chỉ đạt được sự thoát khỏi rắc rối, mà trở thành những người giúp đỡ và giáo viên và cứu tinh của nhân loại, trao lại cho thế giới rộng lớn những gì cá nhân đã nhận được từ Các Huấn Sư đã đi trước. Địa vị đệ tử đó được gợi ý trong tất cả các Kinh Thánh lớn của thế giới. Guru có thể được tìm thấy và dạy dỗ con người là một trong những lý tưởng của tất cả các linh hồn cao nhất và phát triển nhất, những người trong thế giới bên ngoài đã tìm cách nhận ra điều thiêng liêng. Hãy lấy bất kỳ Kinh Thánh nào mà bạn muốn, và xem cách suy nghĩ này được thể hiện ở đó. Hãy lấy từng Upanishad và xem cách Guru được đề cập và cách sự chú ý của người muốn trở thành đệ tử được hướng dẫn đến việc tìm kiếm và tìm thấy Ngài. Đó là điều mà tôi muốn trình bày với bạn sáng nay; các điều kiện cho địa vị đệ tử; điều cần phải làm trước khi địa vị đệ tử có thể thực hiện được; điều cần phải hoàn thành trước khi việc tìm kiếm Guru có bất kỳ cơ hội thành công nào; điều cần phải làm trong thế giới, trong cuộc sống bình thường của con người, sử dụng cuộc sống đó như một trường học, như một nơi để học các bài học chuẩn bị, như một nơi để đủ điều kiện cho người đó để có thể chạm vào Chân của các Huấn Sư vĩ đại, những người sẽ trao cho y sự tái sinh thực sự—sự tái sinh được biểu tượng trong tất cả các tôn giáo ngoại môn bằng một hoặc một nghi lễ bên ngoài khác, thiêng liêng ít hơn cho bản thân nó hơn là vì điều mà nó biểu tượng. Bạn sẽ tìm thấy trong Ấn Độ giáo từ “Sinh hai lần”, ngụ ý rằng người đó không chỉ được sinh ra từ cha mẹ trần tục mà còn đã trải qua sự tái sinh thực sự được trao bởi Guru cho linh hồn. Điều đó được biểu tượng—than ôi! chỉ được biểu tượng, trong quá nhiều trường hợp bây giờ—bằng sự điểm đạo được trao bởi Guru gia đình hoặc bởi cha cho con trai, khi y trở thành điều mà trong thế giới bên ngoài được gọi là người sinh hai lần. Nhưng trong những ngày xưa—và trong những ngày hiện tại cũng vậy—đã có và có một sự Điểm Đạo thực sự, một sự Điểm Đạo thực sự là nguyên bản của nghi lễ bên ngoài đó; có một sự Điểm Đạo thực sự, một sự Điểm Đạo thực sự không chỉ đơn thuần là sự điểm đạo vào một đẳng cấp ngoại môn mà vào một sự sinh ra thực sự thiêng liêng; điều đó được trao bởi một GURU vĩ đại; điều đó đến từ ĐẤNG ĐIỂM ĐẠO VĨ ĐẠI, Đấng Điểm Đạo Duy Nhất của nhân loại. Chúng ta đọc về những sự điểm đạo này trong quá khứ, chúng ta biết chúng tồn tại trong hiện tại. Tất cả lịch sử đều làm chứng cho thực tế của chúng. Có những ngôi đền ở Ấn Độ dưới đó là những nơi của các sự điểm đạo cổ xưa, những nơi mà bây giờ không được biết đến với người dân, những nơi mà bây giờ bị ẩn giấu khỏi mắt người, nhưng vẫn còn đó, vẫn có thể tiếp cận được với những người chứng tỏ mình xứng đáng để đạt được chúng. Và không chỉ ở Ấn Độ mà những nơi như vậy có thể được tìm thấy. Ai Cập cổ đại cũng có những hầm mộ của sự điểm đạo, và những kim tự tháp vĩ đại trong một hoặc hai trường hợp đứng trên những nơi cổ xưa, mà bây giờ bị ẩn giấu khỏi mắt người. Những sự điểm đạo sau này diễn ra ở Ai Cập, những điều mà bạn có thể đọc trong lịch sử Hy Lạp và lịch sử Ai Cập, những điều mà bạn có thể đã nghe rằng một hoặc một số nhà triết học vĩ đại đã được điểm đạo ở đó—những điều đó diễn ra trong các tòa nhà bên ngoài được biết đến với người dân, bao phủ các Đền Thờ Điểm Đạo thực sự. Vào những nơi này, không thể vào được bằng kiến thức bên ngoài, mà dưới các điều kiện đã tồn tại từ thời cổ đại xa xưa nhất và tồn tại ngày nay thực sự như chúng đã tồn tại khi đó; vì như tất cả lịch sử làm chứng cho thực tế của sự điểm đạo, lịch sử cũng làm chứng cho thực tế của Điểm Đạo Đồ. Đứng đầu của mỗi tôn giáo lớn là Những Người không chỉ là người bình thường, Những Người đã trao Kinh Thánh cho người dân, Những Người đã vạch ra các tín ngưỡng ngoại môn, Những Người Nổi bật trong lịch sử vượt trội hơn đồng loại của Họ bởi sự minh triết tinh thần đã mang lại cho Họ vinh quang và sự thấu hiểu tinh thần mà qua đó Họ đã thấy, và đã làm chứng về những gì Họ đã thấy; vì có một nốt nhạc mà chúng ta thường nhận thấy liên quan đến tất cả các Huấn Sư vĩ đại này. Họ không tranh luận, Họ tuyên bố; Họ không thảo luận, Họ tuyên bố; Họ không đạt được kết luận của mình bằng các quá trình logic, Họ đạt được chúng bằng các trực giác tinh thần; Họ xuất hiện và nói với quyền uy tự biện minh trong chính lời nói, và trái tim con người nhận ra sự thật của giáo lý của Họ, ngay cả khi nó vượt quá khả năng trí tuệ của họ để theo dõi. Vì trong trái tim của mỗi người có nguyên tắc tinh thần mà mỗi Huấn Sư thiêng liêng kêu gọi, và nó đáp lại sự thật của tuyên bố tinh thần, ngay cả khi mắt trí tuệ không đủ sắc bén để nhận ra thực tế của điều mà Tinh Thần thấy. Những Guru vĩ đại đó, những người được tìm thấy trong lịch sử như những Huấn Sư vĩ đại nhất, cũng như Những Người mà chúng ta thấy nổi bật như những nhà triết học vĩ đại nhất, Những Người đó là Điểm Đạo Đồ, những người đã trở thành hơn cả con người; những Điểm Đạo Đồ như vậy tồn tại ngày nay như họ đã từng tồn tại. Không, làm sao cái chết có thể chạm vào Họ, những người đã vượt qua sự sống và cái chết, và là Chủ nhân của tất cả bản chất thấp kém? Họ đã tiến hóa ra khỏi nhân loại trong suốt hàng thiên niên kỷ đã qua, một số ra khỏi nhân loại của chúng ta và một số ra khỏi các nhân loại trước đó của chúng ta. Một số trong số Họ đến từ các thế giới khác, từ các hành tinh khác, khi nhân loại của chúng ta còn là một đứa trẻ; những người khác lớn lên khi nhân loại này đã đi đủ lâu trên con đường tiến hóa để tạo ra các Điểm Đạo Đồ của riêng mình, các Guru của chủng tộc của chúng ta để giúp đỡ nhân loại mà Họ tự thuộc về. Khi con đường đó được đi và mục tiêu đó được đạt, đối với một Người như vậy không còn khả năng cái chết có thể có quyền lực đối với Ngài, và rằng đã từng tồn tại Ngài sẽ không tiếp tục tồn tại; chính thực tế rằng Họ được tìm thấy trong lịch sử là sự đảm bảo cho sự tồn tại hiện tại của Họ; điều đó đủ để cho thấy rằng Họ tồn tại, mà không cần đến chứng cứ đang ngày càng tăng của những người đã tìm thấy Họ, và những người biết Họ, những người được Họ dạy dỗ, những người học bài học dưới Chân Họ. Vì trong thời đại của chúng ta và trong ngày của chúng ta, từng người một tìm thấy con đường cổ xưa; trong thời đại của chúng ta và trong ngày của chúng ta, từng người một tìm thấy con đường cổ xưa và hẹp, sắc bén như lưỡi dao cạo, dẫn đến cánh cổng của địa vị đệ tử và làm cho việc bước vào Con Đường Đệ Tử trở thành một khả năng cho con người; khi từng người một tìm thấy nó, từng nhân chứng một trong thời hiện đại có thể tuyên bố sự thật của các văn bản cổ xưa, và bước vào Con Đường đó, họ có thể theo nó từng giai đoạn.

But for the moment we are concerned with find­ing what qualifications are demanded ere entrance to the Path may be gained. Now the first of these qualifications is one which must be met to a very considerable extent at least before discipleship in any sense is possible. One of these qualifications is what is called control of the mind, and my first task now is to explain to you very definitely what control of the mind means, what the mind is which is controlled, and who it is that controls it. For you must remem­ber that for the great mass of people the mind is the representative of the man. When he speaks of “himself”, he really means his mind. When he says “I”, he is identifying that “I” with the mind, the conscious intelligence that knows; and when he says “I think, I feel, I know”, you will not find, if you inquire closely into the meaning, that he goes beyond the limits of his consciousness in his waking hours. That is what he means by the “I”, for the most part. Certainly those who have studied carefully know that such an “I” is illusory; but while they know it as an intellectual proposition, they do not realize it as a practical matter in life. They may admit it as philosophers, they do not live it as men in the world. And in order that we may understand clearly what this control of mind is, and how we may control the mind, let us just for a moment pause at what we call self-control when we are dealing with the man of the world; and we shall see how very inadequate that is when it is compared with the self-control which is one of the qualifications for discipleship. When we say a man is self-controlled we mean that his mind is stronger than his passions; that if you take the lower nature, the passions and the emotions, and over against that you set the intellectual nature, the mind and the will and the reasoning power and the judgment, that these last are stronger than the first; that the man is able in a moment of tempta­tion, under an appeal to his passions, to say: “No, I will not yield to that; I will not permit myself to be carried away by passion, I will not allow myself to be run away with by means of the senses; these senses are simply the horses that draw my chariot; I am the driver, and I will not permit them to gallop along the road they desire”; and then we say that that man is self-controlled. That is the ordinary sense of the word, and mind you, that self-control is an admirable quality. It is a stage through which every man must pass. The uncontrolled and un­regulated man, who is subject entirely to the senses, he indeed has much to do ere even this quality of worldly self-control will be acquired; but very, very much more than that is wanted. When we talk about a strong-willed man and a weak-willed man, we mean for the most part that the man who has got a strong will is a man who under the ordinary cir­cumstances of temptation and difficulty will choose his path by reason and by judgment, and will guide himself by the memory of the past and by conclusions which are based thereon; then we say a man has a strong will; he is not a man who is at the mercy of circumstances; he is not a prey to every impulse, he is not like a ship carried by the currents of the river or driven about by the winds as they blow upon it. He is rather like a ship controlled by a seaman who understands his duty, who utilizes the currents and the winds to drive his ship in the direction in which he desires to go, who uses the rudder of the will to make the ship follow the path on which he himself has determined. And it is true that this difference of strong and of weak will is a mark of growing indi­viduality; as the man himself grows, as the indivi­duality increases, this power of direction from within is one of the clearest marks of the growth. I remem­ber H. P. Blavatsky saying in one of her articles when she was dealing with individuality, that you might recognize individuality in man and the absence of individuality in the lower animals by observing the way in which the man and the lower animals act under certain circumstances. If you take a number of wild animals and surround them with similar cir­cumstances, you will find them all act in the same general way. Their action is determined by the circumstances that surround them; each does not arrange his own action to modify the circumstances, balancing the one against the other in order to make the path which he selects; they act all alike. If you know the nature of the animal, and if you know the circumstances, you might judge of the action of the whole class by the actions of one or two. Now that distinctly shows the absence of individuality. But if you take men, a number of men, you cannot judge beforehand that they will all act in the same way; for according to the development of the individuals will be the variety of the action taken by them under the same circumstances. One individual is different from another, therefore he acts differently; he has a will of his own, therefore he chooses differently; the man who is weak-willed has less individuality, he is less developed, he is not as far advanced on the road of evolution.

Nhưng trong lúc này, chúng ta đang quan tâm đến việc tìm kiếm những điều kiện nào được yêu cầu trước khi có thể bước vào Con Đường. Giờ đây, điều kiện đầu tiên trong số này là một điều phải được đáp ứng ở mức độ rất đáng kể ít nhất trước khi địa vị đệ tử có thể thực hiện được theo bất kỳ nghĩa nào. Một trong những điều kiện này là điều được gọi là kiểm soát thể trí, và nhiệm vụ đầu tiên của tôi bây giờ là giải thích cho bạn rất rõ ràng kiểm soát thể trí có nghĩa là gì, thể trí là gì được kiểm soát, và ai là người kiểm soát nó. Vì bạn phải nhớ rằng đối với đại đa số người, thể trí là đại diện của con người. Khi y nói về “bản thân”, y thực sự có ý nói đến thể trí của mình. Khi y nói “tôi”, y đang đồng hóa “tôi” đó với thể trí, trí thông minh có ý thức biết; và khi y nói “tôi nghĩ, tôi cảm thấy, tôi biết”, bạn sẽ không tìm thấy, nếu bạn điều tra kỹ lưỡng ý nghĩa, rằng y đi xa hơn giới hạn của tâm thức của mình trong những giờ thức giấc. Đó là điều mà y có ý nói bằng “tôi”, phần lớn. Chắc chắn những người đã nghiên cứu kỹ lưỡng biết rằng một “tôi” như vậy là ảo tưởng; nhưng trong khi họ biết điều đó như một đề xuất trí tuệ, họ không nhận ra điều đó như một vấn đề thực tế trong cuộc sống. Họ có thể thừa nhận điều đó như những nhà triết học, họ không sống điều đó như những người trong thế giới. Và để chúng ta có thể hiểu rõ kiểm soát thể trí là gì, và làm thế nào chúng ta có thể kiểm soát thể trí, hãy dừng lại một chút ở điều mà chúng ta gọi là tự kiểm soát khi chúng ta đang đối phó với người của thế giới; và chúng ta sẽ thấy điều đó rất không đầy đủ khi nó được so sánh với tự kiểm soát là một trong những điều kiện cho địa vị đệ tử. Khi chúng ta nói một người tự kiểm soát, chúng ta có ý nói rằng thể trí của y mạnh hơn những đam mê của y; rằng nếu bạn lấy bản chất thấp kém, những đam mê và cảm xúc, và đối lập với điều đó, bạn đặt bản chất trí tuệ, thể trí và ý chí và sức mạnh lý luận và phán đoán, rằng những điều cuối cùng này mạnh hơn những điều đầu tiên; rằng người đó có thể trong một khoảnh khắc cám dỗ, dưới một lời kêu gọi đến những đam mê của mình, nói: “Không, tôi sẽ không nhượng bộ điều đó; tôi sẽ không cho phép mình bị cuốn đi bởi đam mê, tôi sẽ không cho phép mình bị cuốn đi bởi các giác quan; những giác quan này chỉ là những con ngựa kéo xe của tôi; tôi là người lái xe, và tôi sẽ không cho phép chúng chạy dọc theo con đường mà chúng mong muốn”; và sau đó chúng ta nói rằng người đó tự kiểm soát. Đó là ý nghĩa thông thường của từ này, và hãy nhớ rằng, tự kiểm soát đó là một phẩm chất đáng ngưỡng mộ. Đó là một giai đoạn mà mỗi người phải trải qua. Người không được kiểm soát và không được điều chỉnh, người hoàn toàn phụ thuộc vào các giác quan, y thực sự có nhiều việc phải làm trước khi thậm chí có được phẩm chất tự kiểm soát thế gian này; nhưng rất, rất nhiều hơn thế nữa là cần thiết. Khi chúng ta nói về một người có ý chí mạnh mẽ và một người có ý chí yếu đuối, chúng ta có ý nói phần lớn rằng người có ý chí mạnh mẽ là người trong những hoàn cảnh cám dỗ và khó khăn thông thường sẽ chọn con đường của mình bằng lý trí và phán đoán, và sẽ hướng dẫn bản thân bằng ký ức về quá khứ và bằng những kết luận dựa trên đó; sau đó chúng ta nói rằng người đó có ý chí mạnh mẽ; y không phải là người bị hoàn cảnh chi phối; y không phải là con mồi của mọi xung động, y không giống như một con tàu bị dòng chảy của sông cuốn đi hoặc bị gió thổi đi khi chúng thổi vào nó. Y giống như một con tàu được điều khiển bởi một thủy thủ hiểu nhiệm vụ của mình, người sử dụng dòng chảy và gió để lái con tàu theo hướng mà y mong muốn đi, người sử dụng bánh lái của ý chí để làm cho con tàu theo con đường mà y đã quyết định. Và điều đó đúng rằng sự khác biệt này giữa ý chí mạnh mẽ và ý chí yếu đuối là dấu hiệu của sự phát triển cá nhân ngày càng tăng; khi người đó tự phát triển, khi cá nhân ngày càng tăng, sức mạnh điều hướng từ bên trong này là một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất của sự phát triển. Tôi nhớ H. P. Blavatsky đã nói trong một trong những bài viết của mình khi bà đang đề cập đến cá nhân, rằng bạn có thể nhận ra cá nhân trong con người và sự vắng mặt của cá nhân trong động vật thấp hơn bằng cách quan sát cách mà con người và động vật thấp hơn hành động trong những hoàn cảnh nhất định. Nếu bạn lấy một số động vật hoang dã và bao quanh chúng với những hoàn cảnh tương tự, bạn sẽ thấy chúng hành động theo cùng một cách chung. Hành động của chúng được quyết định bởi những hoàn cảnh xung quanh chúng; mỗi con không sắp xếp hành động của mình để điều chỉnh hoàn cảnh, cân nhắc cái này với cái kia để tạo ra con đường mà nó chọn; chúng hành động giống nhau. Nếu bạn biết bản chất của động vật, và nếu bạn biết hoàn cảnh, bạn có thể đánh giá hành động của cả lớp bằng hành động của một hoặc hai con. Điều đó rõ ràng cho thấy sự vắng mặt của cá nhân. Nhưng nếu bạn lấy con người, một số người, bạn không thể đánh giá trước rằng họ sẽ hành động giống nhau; vì theo sự phát triển của các cá nhân sẽ là sự đa dạng của hành động được thực hiện bởi họ trong cùng một hoàn cảnh. Một cá nhân khác với một cá nhân khác, do đó, y hành động khác nhau; y có ý chí của riêng mình, do đó, y chọn khác nhau; người có ý chí yếu đuối có ít cá nhân hơn, y ít phát triển hơn, y không tiến xa trên con đường tiến hóa.

Now supposing that this is realized, then a man may go a step further than the control of the lower nature by the higher, and he may begin to realize something of the creative power of thought. This will imply more than the thought of the ordinary man of the world; it will imply knowledge of some philosophy. If for instance he has studied the great writings of the Hindus he will there gain a definite intellectual apprehension of the creative power of thought, but the moment he has seen that he will further see that there is something behind what he calls his mind; for if there be a creative power of thought, if a man can generate thought through the mind, then there must be something that generates, and that is hidden behind the mind producing these thoughts. The very fact that there is such a crea­tive power of thought, that a man is able to influence and train his own mind and the mind of others by this creative power is enough to show that there is some­thing behind the mind, something which is as it were separable from it, and something that will use the mind as its instrument. And then there dawns on the student who is endeavouring to understand him­self, that he has to deal with a mind which is exceed­ingly difficult to deal with, and that thoughts come unbidden, and spring up as it were without choice of his own; when he begins to study the workings of the mind he finds thoughts come rushing into it without his asking them to come; he finds himself possessed of ideas which he would wish very different. All kinds of fancies come into his mind which he wants to expel; he finds himself helpless, he cannot get rid of them. He finds himself compelled to grind on at thoughts that dominate the mind and which are by no means at his bidding nor under his authority. And he begins to observe these thoughts; he begins to ask: whence come they? how do they work? how may they be controlled? and he gradually learns that many thoughts that come to his mind have their origin in the minds of other men, and that according to the line of his own thinking so will he attract from the outer world of thought the thoughts of others; in turn he influences the minds of others by the thoughts that are generated by himself, and he begins to un­derstand that this responsibility is much greater than he ever dreamed. He used to think that only when he spoke did he affect the minds of others, only when he acted did he by example influence the actions of others; but as he learns more and more he begins to understand that there is an invisible power which goes out from the thinking man and plays on the minds of other people. Modern science tells us something of this, and to the same effect; modern science in many of its experiments has learned that thought may be sent from brain to brain without the spoken word or without the written message, and that there is something in thought which is palpable, which is observable, which is like a vibration that sets other things vibrating, although no word be formulated, no articulate speech be uttered. Science has discovered that in silence thought may be sent from man to man, that without any outer communi­cation—or as Professor Lodge said, without material means of communication, using the word “material” in its physical sense—it is possible for mind to affect mind.

Giờ đây, giả sử rằng điều này được nhận ra, thì một người có thể đi một bước xa hơn kiểm soát bản chất thấp kém bởi bản chất cao hơn, và y có thể bắt đầu nhận ra điều gì đó về sức mạnh sáng tạo của tư tưởng. Điều này sẽ ngụ ý nhiều hơn tư tưởng của người bình thường trong thế giới; nó sẽ ngụ ý kiến thức về một số triết lý. Nếu ví dụ, y đã nghiên cứu các tác phẩm vĩ đại của người Hindu, y sẽ ở đó có được một sự hiểu biết trí tuệ rõ ràng về sức mạnh sáng tạo của tư tưởng, nhưng ngay khi y thấy điều đó, y sẽ thấy rằng có điều gì đó đằng sau điều mà y gọi là thể trí của mình; vì nếu có một sức mạnh sáng tạo của tư tưởng, nếu một người có thể tạo ra tư tưởng qua thể trí, thì phải có điều gì đó tạo ra, và điều đó ẩn sau thể trí tạo ra những tư tưởng này. Chính thực tế rằng có một sức mạnh sáng tạo của tư tưởng, rằng một người có thể ảnh hưởng và rèn luyện thể trí của mình và thể trí của người khác bằng sức mạnh sáng tạo này đủ để cho thấy rằng có điều gì đó đằng sau thể trí, điều gì đó như thể tách rời khỏi nó, và điều gì đó sẽ sử dụng thể trí như công cụ của nó. Và sau đó, điều đó lóe lên trong tâm trí của người học đang cố gắng hiểu bản thân, rằng y phải đối phó với một thể trí cực kỳ khó đối phó, và rằng tư tưởng đến không mời mà đến, và xuất hiện như thể không có sự lựa chọn của riêng y; khi y bắt đầu nghiên cứu hoạt động của thể trí, y thấy tư tưởng đến ào ạt vào đó mà không cần y mời gọi; y thấy mình có những ý tưởng mà y muốn rất khác. Mọi loại tưởng tượng đến trong thể trí của y mà y muốn loại bỏ; y thấy mình bất lực, y không thể loại bỏ chúng. Y thấy mình bị buộc phải nghiền ngẫm những tư tưởng chi phối thể trí và không phải lúc nào cũng theo ý muốn của y hay dưới quyền của y. Và y bắt đầu quan sát những tư tưởng này; y bắt đầu hỏi: chúng đến từ đâu? chúng hoạt động như thế nào? làm thế nào chúng có thể được kiểm soát? và y dần dần học rằng nhiều tư tưởng đến trong thể trí của y có nguồn gốc từ thể trí của người khác, và rằng theo dòng tư tưởng của riêng y, y sẽ thu hút từ thế giới tư tưởng bên ngoài những tư tưởng của người khác; lần lượt y ảnh hưởng đến thể trí của người khác bằng những tư tưởng được tạo ra bởi chính y, và y bắt đầu hiểu rằng trách nhiệm này lớn hơn nhiều so với y từng mơ ước. Y từng nghĩ rằng chỉ khi y nói, y mới ảnh hưởng đến thể trí của người khác, chỉ khi y hành động, y mới ảnh hưởng đến hành động của người khác bằng ví dụ; nhưng khi y học nhiều hơn và nhiều hơn, y bắt đầu hiểu rằng có một sức mạnh vô hình phát ra từ người suy nghĩ và tác động lên thể trí của người khác. Khoa học hiện đại nói với chúng ta điều gì đó về điều này, và theo cùng một hướng; khoa học hiện đại trong nhiều thí nghiệm của nó đã học rằng tư tưởng có thể được truyền từ não này sang não khác mà không cần lời nói hoặc thông điệp viết, và rằng có điều gì đó trong tư tưởng có thể cảm nhận được, có thể quan sát được, giống như một rung động làm cho các vật khác rung động, mặc dù không có từ nào được hình thành, không có lời nói rõ ràng nào được thốt ra. Khoa học đã phát hiện ra rằng trong im lặng, tư tưởng có thể được truyền từ người này sang người khác, rằng không cần bất kỳ giao tiếp bên ngoài nào—hoặc như Giáo sư Lodge đã nói, không cần phương tiện giao tiếp vật chất, sử dụng từ “vật chất” theo nghĩa vật lý của nó—có thể cho thể trí ảnh hưởng đến thể trí.

If that be so, we are all affecting each other by thought without either word or action; for the thought that we have generated goes out into the world to affect the minds of other men; the thoughts that they think come to us to affect in turn our think­ing, and we begin to realize that for the most part thinking is a very small part of the life of most people, and that the mere receiving of other people’s thoughts is what we are apt to call thinking. In fact men’s minds are very much like houses, rest-houses, through which travellers pass and in which they stay for a night; most men’s minds are not very much more than that. The thought comes in and goes out. The man contributes very little towards the thought he receives. He receives it, harbours it, and it passes away. But what we ought to be doing is to be thinking deliberately, and thinking with a purpose behind the thought to accomplish that which we determine.

Nếu điều đó là như vậy, tất cả chúng ta đều ảnh hưởng lẫn nhau bằng tư tưởng mà không cần lời nói hay hành động; vì tư tưởng mà chúng ta đã tạo ra phát ra thế giới để ảnh hưởng đến thể trí của người khác; những tư tưởng mà họ nghĩ đến với chúng ta để ảnh hưởng lần lượt đến tư tưởng của chúng ta, và chúng ta bắt đầu nhận ra rằng phần lớn tư tưởng chỉ là một phần rất nhỏ của cuộc sống của hầu hết mọi người, và rằng việc chỉ nhận tư tưởng của người khác là điều mà chúng ta thường gọi là tư tưởng. Thực tế, thể trí của con người rất giống như những ngôi nhà, những nhà nghỉ, nơi mà những người lữ hành đi qua và ở lại qua đêm; thể trí của hầu hết mọi người không nhiều hơn thế. Tư tưởng đến và đi. Người đó đóng góp rất ít cho tư tưởng mà y nhận được. Y nhận nó, chứa chấp nó, và nó đi qua. Nhưng điều mà chúng ta nên làm là suy nghĩ một cách có chủ đích, và suy nghĩ với một mục đích đằng sau tư tưởng để thực hiện điều mà chúng ta quyết định.

Why should this control of mind, this control of thought, this stopping of thought, this refusing of harbourage to the thoughts of others, be so valuable? Why should this be a condition of discipleship? Because when a man becomes a disciple his thoughts gain added power; because when a man becomes a disciple his individuality is growing, is increasing, is becoming mightier; and every thought that he thinks has increased vitality and increased energy and in­fluence on the outer world of man. By a thought a man can kill; by a thought a man can heal a dis­ease; by a thought a man can influence a crowd; by a thought a man can create a visible illusion which shall deceive other men and lead them astray. As thought has such mighty power as the individual grows and increases, and as discipleship means the rapid growth and the increase of individuality, so that a man accomplishes in a few lives what other­wise would take millennia of years to accomplish, it is necessary, before these added powers come within his reach, that he should learn to control his thoughts, that he should learn to check all that is evil in them, that he should learn to harbour nothing save that which is pure and beneficent and useful. Control then of the mind by the Self is made a condition of discipleship, because ere a man has the added power of thought that comes from the teaching of the Guru, he must have obtained control over the instrument by which the thoughts are produced, so that it may make what he determines that it shall make, and produce nothing without his full consent.

Tại sao kiểm soát thể trí, kiểm soát tư tưởng, ngăn chặn tư tưởng, từ chối chứa chấp tư tưởng của người khác lại có giá trị như vậy? Tại sao điều này lại là điều kiện của địa vị đệ tử? Bởi vì khi một người trở thành đệ tử, tư tưởng của y có thêm sức mạnh; bởi vì khi một người trở thành đệ tử, cá nhân của y đang phát triển, đang tăng lên, đang trở nên mạnh mẽ hơn; và mỗi tư tưởng mà y nghĩ đến có thêm sinh lực và năng lượng và ảnh hưởng đến thế giới bên ngoài của con người. Bằng một tư tưởng, một người có thể giết; bằng một tư tưởng, một người có thể chữa lành bệnh; bằng một tư tưởng, một người có thể ảnh hưởng đến đám đông; bằng một tư tưởng, một người có thể tạo ra một ảo tưởng có thể nhìn thấy để lừa dối người khác và dẫn họ đi lạc. Vì tư tưởng có sức mạnh mạnh mẽ như vậy khi cá nhân phát triển và tăng lên, và vì địa vị đệ tử có nghĩa là sự phát triển nhanh chóng và sự tăng trưởng của cá nhân, do đó một người thực hiện trong vài cuộc sống điều mà nếu không sẽ mất hàng thiên niên kỷ để thực hiện, cần thiết, trước khi những sức mạnh bổ sung này đến trong tầm tay của y, rằng y phải học cách kiểm soát tư tưởng của mình, rằng y phải học cách kiểm tra tất cả những điều xấu xa trong chúng, rằng y phải học cách không chứa chấp gì ngoài những điều tinh khiết và có lợi và hữu ích. Do đó, kiểm soát thể trí bởi Chân Ngã được đặt làm điều kiện của địa vị đệ tử, vì trước khi một người có sức mạnh bổ sung của tư tưởng đến từ sự giảng dạy của Guru, y phải đạt được kiểm soát đối với công cụ mà qua đó các tư tưởng được tạo ra, để nó có thể tạo ra điều mà y quyết định rằng nó sẽ tạo ra, và không tạo ra gì mà không có sự đồng ý đầy đủ của y.

I know that on this point people will feel difficulty. They will say: what is this individual that is always growing? What is this individual who develops will and power of control over the mind, who, you say, is not the mind but is greater than the mind? May I take a picture from the outer world so as to help you to image in your thinking the way in which the individual comes to be and the way in which he grows? Suppose that you went into an atmosphere supercharged with watery vapour, but the atmosphere was so hot that the water remained in suspension, invisible, so that the place seemed to you to be empty; nothing is there, you would say, it is empty air. You know quite well that if a chemist took some of that air thus charged with vapour, enclosed it, and gradually cooled it down, you would see appear out of the emptiness a faint mist or cloudi­ness, and that faint mist would gradually grow a little denser and a little denser, until, as more and more the atmosphere was chilled, there would be formed a drop of water where before nothing was seen. Now that may serve as one of the clumsy physical images that one may take to illustrate the formation of the individual. Out of that Invisible which is the One from which all proceeds, appears as it were a faint cloud becoming visible, a faint mist condensing, which separates itself from the invisible vapour around it, and gradually condenses more and more till it becomes the individual drop, that we recognize as a unit; out of that which is All comes the separated and distinct; one indeed in its nature with the All, the same in its essence but separated by its conditions, and so individualized out of the whole. And the individual soul of man is such an individualization from the One Self, and it grows and grows by experience. It grows and increases and develops as it is re-born life after life and time after time, hundreds of times into the world. And what we call the mind is just a little out-putting of this individual into the world of matter. As the amoeba when it wants food thrusts out a portion of itself and takes in a little particle of nutritive matter and draws the protruded part containing the food back into its own substance, thus nourishing itself with the food that it takes in, so does the individual put out into the world—the physical world—a little protrusion from itself, to gather experience as food for the individual, and draw it in again in what we call death, absorbing this gained experience to nour­ish its growth. And the mind is this out-putting into the physical world, it is part of the individual, of the soul; the consciousness that is you is greater than your mind, the consciousness that is you is greater than that which you recognize as the intellect. All your past, all the experience that you have gained, is garnered in consciousness. All the knowledge that you have acquired is treasured in the consciousness that is really you. You put out at your birth a little part of yourself to gather new experience and to increase this; consciousness still more; this the soul takes for its own growth, and in each life out of its wider consciousness it tries to influence that out-put portion of itself; what we call the voice of conscience is nothing but this greater Self speaking to the lower self, and trying to guide the lower self in its ignorance by the wisdom which the Higher Self has acquired life after life.

Tôi biết rằng về điểm này, mọi người sẽ cảm thấy khó khăn. Họ sẽ nói: cá nhân này là gì mà luôn phát triển? Cá nhân này là gì mà phát triển ý chí và sức mạnh kiểm soát thể trí, người mà bạn nói không phải là thể trí mà lớn hơn thể trí? Tôi có thể lấy một hình ảnh từ thế giới bên ngoài để giúp bạn hình dung trong suy nghĩ của mình cách mà cá nhân hình thành và cách mà y phát triển không? Giả sử rằng bạn đi vào một bầu không khí quá tải với hơi nước, nhưng bầu không khí quá nóng đến mức nước vẫn còn trong trạng thái treo, vô hình, để nơi đó dường như trống rỗng đối với bạn; không có gì ở đó, bạn sẽ nói, đó là không khí trống rỗng. Bạn biết rất rõ rằng nếu một nhà hóa học lấy một ít không khí đó được nạp hơi nước, đóng kín nó, và dần dần làm lạnh nó, bạn sẽ thấy xuất hiện từ sự trống rỗng một làn sương mờ hoặc mây mờ, và làn sương mờ đó sẽ dần dần trở nên đậm đặc hơn và đậm đặc hơn, cho đến khi, khi bầu không khí ngày càng lạnh hơn, sẽ hình thành một giọt nước nơi trước đó không có gì được thấy. Bây giờ điều đó có thể phục vụ như một trong những hình ảnh vật lý vụng về mà người ta có thể lấy để minh họa sự hình thành của cá nhân. Từ cái Vô Hình là Một từ đó tất cả phát sinh, xuất hiện như thể một đám mây mờ nhạt trở nên nhìn thấy, một làn sương mờ ngưng tụ, tách ra khỏi hơi nước vô hình xung quanh nó, và dần dần ngưng tụ nhiều hơn và nhiều hơn cho đến khi nó trở thành giọt nước cá nhân, mà chúng ta nhận ra là một đơn vị; từ cái là Tất Cả xuất hiện cái tách biệt và riêng biệt; một thực sự trong bản chất của nó với Tất Cả, giống nhau trong bản chất nhưng tách biệt bởi các điều kiện của nó, và do đó được cá nhân hóa ra khỏi toàn thể. Và linh hồn cá nhân của con người là một sự cá nhân hóa như vậy từ Chân Ngã Duy Nhất, và nó phát triển và phát triển qua kinh nghiệm. Nó phát triển và tăng lên và phát triển khi nó được tái sinh cuộc sống sau cuộc sống và thời gian sau thời gian, hàng trăm lần vào thế giới. Và điều mà chúng ta gọi là thể trí chỉ là một phần nhỏ của cá nhân này vào thế giới vật chất. Như con amip khi nó muốn thức ăn đẩy ra một phần của chính nó và lấy vào một hạt nhỏ của vật chất dinh dưỡng và kéo phần nhô ra chứa thức ăn trở lại vào bản thân nó, do đó nuôi dưỡng chính nó bằng thức ăn mà nó lấy vào, cũng như cá nhân đẩy ra vào thế giới—thế giới vật chất—một phần nhô ra từ chính nó, để thu thập kinh nghiệm như thức ăn cho cá nhân, và kéo nó vào lại trong điều mà chúng ta gọi là cái chết, hấp thụ kinh nghiệm thu được này để nuôi dưỡng sự phát triển của nó. Và thể trí là sự đẩy ra này vào thế giới vật chất, nó là một phần của cá nhân, của linh hồn; tâm thức là bạn lớn hơn thể trí của bạn, tâm thức là bạn lớn hơn điều mà bạn nhận ra là trí tuệ. Tất cả quá khứ của bạn, tất cả kinh nghiệm mà bạn đã thu được, được lưu trữ trong tâm thức. Tất cả kiến thức mà bạn đã thu được được lưu trữ trong tâm thức thực sự là bạn. Bạn đẩy ra khi sinh ra một phần nhỏ của chính mình để thu thập kinh nghiệm mới và để tăng cường điều này; tâm thức vẫn còn nhiều hơn; điều này linh hồn lấy để phát triển của chính nó, và trong mỗi cuộc sống từ tâm thức rộng lớn hơn của nó, nó cố gắng ảnh hưởng đến phần đẩy ra của chính nó; điều mà chúng ta gọi là tiếng nói của lương tâm không gì khác ngoài Chân Ngã lớn hơn này nói với phàm ngã, và cố gắng hướng dẫn phàm ngã trong sự ngu dốt của nó bằng sự minh triết mà Chân Ngã Cao hơn đã thu được cuộc sống sau cuộc sống.

But we know there is a difficulty about this lower self of ours, the mind. Do you remember what Arjuna said to Shri Krishna when he was dealing with this control of the lower Manas that we are studying? You remember how he said to his divine Teacher that Manas was so restless; “Manas is verily restless”, he said, “O Krishna; it is impetu­ous, strong, and difficult to bend; I deem it as hard to curb as the wind”. And that is true; every one knows it to be true who tries to curb the mind. Every one who tries to control Manas knows how restless, impetuous, and strong it is, and how hard to curb. But do you remember how the Blessed Lord gave answer to Arjuna when he said it was hard as the wind to curb? His answer was: “Without doubt Manas is hard to curb and restless, O mighty ­armed; but it may be curbed by constant practice and by indifference”. There is no other way. Con­stant practice: no one can do it for you; no Teacher can accomplish it for you. You yourselves must do it, and until you begin to take it in hand no finding of the Guru is possible for you. It is useless to cry out and desire to find, if you will not take the steps that are laid down in the published words of all the great Teachers in order to guide you to Their Feet. Here is a mighty Teacher, an Avatara, who lays down what must be done and who says it may be done. And when an Avatara says it may be done, He means that it can be done by the man who wills it; for He knows the powers of those whom He can see, and whom He as the Supreme has brought into the world; and when He gives His divine word that the conquest is possible, shall we dare to say that we cannot do it, and so as it were give the lie to the God that speaks?

Nhưng chúng ta biết có một khó khăn về phàm ngã này của chúng ta, thể trí. Bạn có nhớ Arjuna đã nói gì với Shri Krishna khi y đang đối phó với sự kiểm soát của Manas thấp mà chúng ta đang nghiên cứu không? Bạn nhớ làm thế nào y đã nói với Huấn Sư thiêng liêng của mình rằng Manas rất không yên; “Manas thực sự không yên”, y nói, “O Krishna; nó là bốc đồng, mạnh mẽ, và khó uốn cong; tôi cho rằng nó khó kiềm chế như gió”. Và điều đó đúng; mọi người đều biết điều đó là đúng khi cố gắng kiềm chế thể trí. Mọi người cố gắng kiểm soát Manas đều biết nó không yên, bốc đồng và mạnh mẽ như thế nào, và khó kiềm chế như thế nào. Nhưng bạn có nhớ làm thế nào Đức Chúa đã trả lời Arjuna khi y nói rằng nó khó như gió để kiềm chế không? Câu trả lời của Ngài là: “Không nghi ngờ gì Manas khó kiềm chế và không yên, O người có cánh tay mạnh mẽ; nhưng nó có thể được kiềm chế bằng thực hành liên tục và bằng sự điềm nhiên”. Không có cách nào khác. Thực hành liên tục: không ai có thể làm điều đó cho bạn; không Huấn Sư nào có thể hoàn thành điều đó cho bạn. Chính bạn phải làm điều đó, và cho đến khi bạn bắt đầu thực hiện nó, không có việc tìm kiếm Guru nào có thể thực hiện được cho bạn. Vô ích khi kêu lên và mong muốn tìm thấy, nếu bạn không thực hiện các bước đã được đặt ra trong những lời đã được công bố của tất cả các Huấn Sư vĩ đại để hướng dẫn bạn đến Chân của Họ. Đây là một Huấn Sư vĩ đại, một Avatara, người đặt ra điều phải được thực hiện và người nói rằng nó có thể được thực hiện. Và khi một Avatara nói rằng nó có thể được thực hiện, Ngài có ý rằng nó có thể được thực hiện bởi người có ý chí; vì Ngài biết sức mạnh của những người mà Ngài có thể thấy, và những người mà Ngài như Đấng Tối Cao đã đưa vào thế giới; và khi Ngài trao lời thiêng liêng của Ngài rằng chiến thắng là có thể, chúng ta có dám nói rằng chúng ta không thể làm điều đó, và do đó như thể nói dối với Thượng đế đang nói không?

How then shall it be done? “By constant prac­tice”, says the Lord; that is to say in your daily life as you have it, in the busy life of men, you are to begin to train this restless mind of yours and make it subject to your will. Try for a moment to think steadily. You will find your thoughts fly away. What shall you do? bring them back again to the point on which you desire to fix them. Choose a subject and then think definitely and consecutively upon it. Remember you have an immense advan­tage in this training of the mind; you have the ancient Hindu traditions, you have the physical heredity which has been moulded under these conditions, and the training in your youth which ought to have accustomed you to this regulation of the mind. It is far harder for a western-born person to conquer the restlessness of the mind than it ought to be for you, because there the control of mind has not been taught, there the training of the mind is not part of the religious education in the same way, and men are in­clined to fly from one subject to another. The habit—to take a trivial case—of constant newspaper read­ing, three or four papers, perhaps, a day, is one of the things that makes very difficult the control of the mind. You fly from one subject to another; here a number of telegrams that whirl the mind off to England, to France, to Spain, to Kamskatcha, to New Zealand, to America; when you have read that column or half-column you find another kind of news. Accounts of the doings of well-known people. Re­ports of plays in the theatres, of cases in the law ­courts. Here a race of ships or of men; there de­scriptions of sports or athletics, and so on. You all know the varied contents of the newspaper. Men do not understand the harm they do themselves by wast­ing the energies of the mind as they habitually waste them on these trivial and unimportant matters. You will find men in England, I know, who will read half a dozen papers every day; that means more than that they are for the time scattering the powers of the mind; for if you scatter them day after day you get into the habit of scattering, and you cannot then readily concentrate your thoughts on one idea. In addition to that there is the waste of time which might be given to higher matters. I do not mean to say that as men in the world you should not know what is going on in the world around you; but it is quite enough to take up a single paper which deals with the more important matters of the outer world, and read quietly through for a few minutes; if you know how to read, that is enough so far as these outside things go.

Làm thế nào để thực hiện điều đó? “Bằng cách thực hành liên tục”, Đức Chúa nói; nghĩa là trong cuộc sống hàng ngày của bạn, trong cuộc sống bận rộn của con người, bạn phải bắt đầu rèn luyện tâm trí không yên của mình và khiến nó phục tùng ý chí của bạn. Hãy thử suy nghĩ một cách ổn định trong một khoảnh khắc. Bạn sẽ thấy suy nghĩ của mình bay đi. Bạn sẽ làm gì? Đưa chúng trở lại điểm mà bạn muốn tập trung vào. Chọn một chủ đề và sau đó suy nghĩ một cách rõ ràng và liên tục về nó. Hãy nhớ rằng bạn có một lợi thế lớn trong việc rèn luyện tâm trí này; bạn có truyền thống cổ xưa của người Hindu, bạn có di truyền thể chất đã được hình thành dưới những điều kiện này, và sự rèn luyện trong tuổi trẻ của bạn đáng lẽ đã quen thuộc với việc điều chỉnh tâm trí này. Đối với một người sinh ra ở phương Tây, việc chinh phục sự không yên của tâm trí khó khăn hơn nhiều so với bạn, vì ở đó việc kiểm soát tâm trí không được dạy, ở đó việc rèn luyện tâm trí không phải là một phần của giáo dục tôn giáo theo cùng cách, và con người có xu hướng bay từ chủ đề này sang chủ đề khác. Thói quen—để lấy một ví dụ nhỏ—đọc báo liên tục, có lẽ ba hoặc bốn tờ mỗi ngày, là một trong những điều làm cho việc kiểm soát tâm trí trở nên rất khó khăn. Bạn bay từ chủ đề này sang chủ đề khác; đây là một số điện tín khiến tâm trí bay đến Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Kamskatcha, New Zealand, Mỹ; khi bạn đã đọc xong cột hoặc nửa cột đó, bạn tìm thấy một loại tin tức khác. Các báo cáo về những việc làm của những người nổi tiếng. Báo cáo về các vở kịch trong nhà hát, các vụ án trong tòa án. Đây là một cuộc đua thuyền hoặc của con người; đó là mô tả về thể thao hoặc điền kinh, và cứ thế. Tất cả các bạn đều biết nội dung đa dạng của tờ báo. Con người không hiểu được tác hại mà họ tự gây ra bằng cách lãng phí năng lượng của tâm trí như họ thường lãng phí chúng vào những vấn đề tầm thường và không quan trọng này. Bạn sẽ thấy những người ở Anh, tôi biết, sẽ đọc nửa tá tờ báo mỗi ngày; điều đó có nghĩa là nhiều hơn thế, họ đang phân tán sức mạnh của tâm trí; vì nếu bạn phân tán chúng ngày này qua ngày khác, bạn sẽ quen với việc phân tán, và sau đó bạn không thể dễ dàng tập trung suy nghĩ của mình vào một ý tưởng. Ngoài ra còn có sự lãng phí thời gian có thể được dành cho những vấn đề cao hơn. Tôi không có ý nói rằng là người trong thế giới bạn không nên biết những gì đang diễn ra xung quanh bạn; nhưng chỉ cần lấy một tờ báo duy nhất xử lý các vấn đề quan trọng hơn của thế giới bên ngoài, và đọc một cách yên tĩnh trong vài phút; nếu bạn biết cách đọc, đó là đủ đối với những điều bên ngoài này.

In order that you may fight against this modern tendency of scattering thought you should make it a daily habit to think consecutively and to concentrate your attention for some time on one subject; make it a serious practice in the training of your mind to read every day some part of a book that deals with the graver matters of life, with the eternal rather than with the transitory; fix the mind upon it while you are reading. Do not allow it to wander, do not allow it to scatter. If it travels off bring it back, and place it again on the same idea, and in that way you will strengthen the mind, you will begin to curb it, you will by constant practice learn to control it, and make it go along the path that you desire it should follow. Even in things of the world this quality is of great advantage. It is not only that in doing this you are preparing yourself for the greater life which is open to you, but even in the common things of life the man of concentrated thought is the more successful man; the man who is able to think con­secutively, clearly and definitely, he is the man who even in the lower world will be able to make his way. So you will find this constant practice in training the mind useful in this unimportant world as well as in greater things. And then you will gradually learn the control which is one of the conditions of discipleship.

Để bạn có thể chống lại xu hướng hiện đại của việc phân tán suy nghĩ, bạn nên tạo thói quen hàng ngày là suy nghĩ liên tục và tập trung sự chú ý của mình trong một thời gian vào một chủ đề; thực hành nghiêm túc trong việc rèn luyện tâm trí của bạn để đọc mỗi ngày một phần của một cuốn sách liên quan đến những vấn đề nghiêm trọng của cuộc sống, với những điều vĩnh cửu hơn là những điều tạm thời; tập trung tâm trí vào nó trong khi bạn đang đọc. Đừng để nó lang thang, đừng để nó phân tán. Nếu nó đi lạc, hãy đưa nó trở lại, và đặt nó lại vào cùng một ý tưởng, và theo cách đó bạn sẽ củng cố tâm trí, bạn sẽ bắt đầu kiềm chế nó, bạn sẽ học cách kiểm soát nó bằng cách thực hành liên tục, và khiến nó đi theo con đường mà bạn muốn nó đi theo. Ngay cả trong những điều của thế giới, phẩm chất này cũng có lợi rất lớn. Không chỉ là khi làm điều này bạn đang chuẩn bị cho cuộc sống lớn hơn đang mở ra cho bạn, mà ngay cả trong những điều bình thường của cuộc sống, người có suy nghĩ tập trung là người thành công hơn; người có khả năng suy nghĩ liên tục, rõ ràng và dứt khoát, là người ngay cả trong thế giới thấp hơn cũng có thể tiến lên. Vì vậy, bạn sẽ thấy việc thực hành liên tục trong việc rèn luyện tâm trí hữu ích trong thế giới không quan trọng này cũng như trong những điều lớn hơn. Và sau đó bạn sẽ dần dần học được sự kiểm soát là một trong những điều kiện của địa vị đệ tử.

As you thus train the mind you will perhaps take another step—meditation. Meditation is the deliberate and formal training of the mind in concen­tration and in fixity of thought. You are to do it every day, because if you do it every day you are helped by what is called the automatism of the body and mind. That which you do daily becomes a habit; that which is done daily is done without an effort after a time; that which is hard to begin with becomes easy by practice. Now meditation may be taken partly as devotional and partly as intellectual, and the wise man who is training himself for disciple­ship will meditate in both ways. He will concentrate his mind, fix his thought, on the divine ideal, on the Teacher whom, unknown at present, he still ulti­mately hopes to find; and keeping before him this perfect ideal, he will fix his lower mind on that ideal in the hour of meditation, and will aspire upwards towards it with fixed and unswerving thought. As the mind grows, this will become easier and easier; as he keeps this ideal before the mind in meditation he will begin to reflect it, to grow a little like it. That is one of the creative powers of the mind—the man becomes that upon which he reflects; and if he reflects daily on the perfect ideal of humanity he will begin to grow towards that perfect ideal himself. Then he will gradually find that as he fixes the mind steadily on this ideal, as he aspires upwards towards it, and longs to come into contact with it, he will find during this time of meditation that the lower mind will become peaceful, that the lower mind will sink into quietude, that the outside world will fade away from consciousness, and that the deeper con­sciousness will shine as it were from within—the higher consciousness, that of the individual himself, realizing and knowing what he is. For as the lower mind is thus quieted, as its restlessness is con­quered, it becomes like a still lake of water which is unruffled by any wind, unmoved by any currents. That lake is like a mirror; on that mirror-like surface, unruffled, tranquil, the sun which is in heaven shines down, reflecting itself in the quiet water; so also the higher consciousness reflects itself in the mirror of the tranquillized lower mind. And then the man knows, no longer by authority but of his own knowledge, that he is more than the mind which he has realized as intellect, that his consciousness is greater than the passing consciousness of the mind; then it becomes possible for him to begin to identify himself with the higher, and if only for a moment to catch a glimpse of the majesty of the Self. For re­member how in the great Scriptures you are always taught that you yourself are the higher and not the lower. What means the saying that we read in the Chhandogyopanishad and elsewhere, the proclamation: “Thou art Brahman”, “Thou art That”? so the Buddhists repeat also: “Thou art Buddha”. That will never be a fact of consciousness to you, however much you may intellectually realize it, until by meditation you have made the lower mind the mirror in which the higher may be reflected; then, in a further stage of meditation you yourself will con­sciously become the higher, and then you will know what every great Teacher has meant by that famous phrase, which has in it the assertion of the inherent divinity of man.

Khi bạn rèn luyện tâm trí như vậy, bạn có thể thực hiện một bước khác—tham thiền. Tham thiền là việc rèn luyện có chủ ý và chính thức của tâm trí trong việc tập trung và cố định suy nghĩ. Bạn phải làm điều đó mỗi ngày, vì nếu bạn làm điều đó mỗi ngày, bạn sẽ được hỗ trợ bởi cái gọi là tự động của cơ thể và tâm trí. Những gì bạn làm hàng ngày trở thành thói quen; những gì được làm hàng ngày sẽ được thực hiện mà không cần nỗ lực sau một thời gian; những gì khó khăn để bắt đầu sẽ trở nên dễ dàng nhờ thực hành. Bây giờ tham thiền có thể được thực hiện một phần như là sự sùng đạo và một phần như là trí tuệ, và người khôn ngoan đang rèn luyện bản thân cho địa vị đệ tử sẽ tham thiền theo cả hai cách. Y sẽ tập trung tâm trí, cố định suy nghĩ, vào lý tưởng thiêng liêng, vào Huấn Sư mà hiện tại chưa biết, y vẫn hy vọng cuối cùng sẽ tìm thấy; và giữ trước mặt y lý tưởng hoàn hảo này, y sẽ cố định hạ trí của mình vào lý tưởng đó trong giờ tham thiền, và sẽ khao khát vươn lên với suy nghĩ cố định và không lay chuyển. Khi tâm trí phát triển, điều này sẽ trở nên dễ dàng hơn và dễ dàng hơn; khi y giữ lý tưởng này trước tâm trí trong tham thiền, y sẽ bắt đầu phản ánh nó, trở nên giống nó một chút. Đó là một trong những sức mạnh sáng tạo của tâm trí—con người trở thành những gì y phản ánh; và nếu y phản ánh hàng ngày về lý tưởng hoàn hảo của nhân loại, y sẽ bắt đầu phát triển hướng tới lý tưởng hoàn hảo đó. Sau đó, y sẽ dần dần nhận thấy rằng khi y cố định tâm trí một cách ổn định vào lý tưởng này, khi y khao khát vươn lên hướng tới nó, và mong muốn tiếp xúc với nó, y sẽ nhận thấy trong thời gian tham thiền này rằng hạ trí sẽ trở nên yên bình, rằng hạ trí sẽ chìm vào sự yên tĩnh, rằng thế giới bên ngoài sẽ phai mờ khỏi tâm thức, và rằng tâm thức sâu sắc hơn sẽ chiếu sáng như thể từ bên trong—tâm thức cao hơn, của chính cá nhân, nhận ra và biết y là gì. Vì khi hạ trí được yên tĩnh như vậy, khi sự không yên của nó bị chinh phục, nó trở nên giống như một hồ nước tĩnh lặng không bị gió làm xao động, không bị dòng chảy nào làm lay động. Hồ nước đó giống như một tấm gương; trên bề mặt giống như gương đó, không bị xao động, yên tĩnh, mặt trời trên trời chiếu xuống, phản chiếu chính nó trong nước yên tĩnh; cũng vậy, tâm thức cao hơn phản chiếu chính nó trong tấm gương của hạ trí đã được yên tĩnh hóa. Và sau đó con người biết, không còn bằng quyền uy mà bằng chính tri thức của mình, rằng y là nhiều hơn tâm trí mà y đã nhận ra là trí tuệ, rằng tâm thức của y lớn hơn tâm thức thoáng qua của tâm trí; sau đó y có thể bắt đầu đồng hóa mình với cái cao hơn, và nếu chỉ trong một khoảnh khắc để bắt gặp một cái nhìn thoáng qua về sự uy nghi của Chân Ngã. Vì hãy nhớ rằng trong các Kinh điển vĩ đại, bạn luôn được dạy rằng chính bạn là cái cao hơn chứ không phải cái thấp hơn. Câu nói mà chúng ta đọc trong Chhandogyopanishad và những nơi khác có ý nghĩa gì, lời tuyên bố: “Ngươi là Brahman”, “Ngươi là Đó”? Vì vậy, các Phật tử cũng lặp lại: “Ngươi là Phật”. Điều đó sẽ không bao giờ là một thực tế của tâm thức đối với bạn, dù bạn có nhận ra nó về mặt trí tuệ đến đâu, cho đến khi bằng tham thiền bạn đã biến hạ trí thành tấm gương trong đó cái cao hơn có thể được phản chiếu; sau đó, trong một giai đoạn tham thiền xa hơn, chính bạn sẽ trở thành cái cao hơn một cách có ý thức, và sau đó bạn sẽ biết điều mà mọi Huấn Sư vĩ đại đã muốn nói bằng cụm từ nổi tiếng đó, trong đó có sự khẳng định về thiên tính vốn có của con người.

When this is done daily, is practised by meditation followed day after day, month after month, year after year, it gradually permeates all the life and becomes constant instead of partial. First, confined to the time of meditation; then spreading over into the life led in the world. You may say: How can I be conscious of that when I am busy in the outer world? How can I keep consciousness of the higher when the lower is in full activity? Do you not know how, bowing before the altar you may use your body to offer flowers, whilst the mind is concentrated on the Deity Himself? The outer activity of the body is there, yet your thought is not on the flowers that you are offering but on the Object of the offering; the hands perform their duty and offer their flowers perfectly, although the mind is fixing its thoughts on the Divine itself. And so in the outer world of man, you may offer the flowers of duty in a life of constant activities, of daily work; you may offer these flowers with the body and with the mind, fulfilling to the utmost your duty in the outer world, but you your­selves will be fixed ever in meditation and in worship. Once learn to separate your higher consciousness from your lower, yourself from your mind, and your will gradually acquire the power of carrying on men­tal activities without losing the real “I” in them; the mind working perfectly at its appropriate duties while the Self remains at a loftier height. You will never leave the inner sanctuary, however much the outer life is busy in the world of men. In this way the man is preparing himself for discipleship.

Khi điều này được thực hiện hàng ngày, được thực hành bằng tham thiền theo ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, nó dần dần thấm nhuần toàn bộ cuộc sống và trở nên liên tục thay vì từng phần. Đầu tiên, bị giới hạn trong thời gian tham thiền; sau đó lan rộng vào cuộc sống được dẫn dắt trong thế giới. Bạn có thể nói: Làm thế nào tôi có thể ý thức được điều đó khi tôi bận rộn trong thế giới bên ngoài? Làm thế nào tôi có thể giữ ý thức về cái cao hơn khi cái thấp hơn đang hoạt động đầy đủ? Bạn không biết làm thế nào, cúi đầu trước bàn thờ, bạn có thể sử dụng cơ thể của mình để dâng hoa, trong khi tâm trí tập trung vào chính Thượng đế? Hoạt động bên ngoài của cơ thể vẫn ở đó, nhưng suy nghĩ của bạn không phải về những bông hoa mà bạn đang dâng mà là về Đối tượng của sự dâng hiến; đôi tay thực hiện nhiệm vụ của chúng và dâng hoa một cách hoàn hảo, mặc dù tâm trí đang cố định suy nghĩ của mình vào chính Thần thánh. Và vì vậy trong thế giới bên ngoài của con người, bạn có thể dâng hoa của bổn phận trong một cuộc sống của các hoạt động liên tục, của công việc hàng ngày; bạn có thể dâng những bông hoa này với cơ thể và với tâm trí, hoàn thành tối đa bổn phận của mình trong thế giới bên ngoài, nhưng chính bạn sẽ luôn cố định trong tham thiền và thờ phượng. Một khi học cách tách biệt tâm thức cao hơn của bạn khỏi tâm thức thấp hơn, bản thân bạn khỏi tâm trí của bạn, và bạn sẽ dần dần có được khả năng thực hiện các hoạt động trí tuệ mà không đánh mất cái “Tôi” thực sự trong chúng; tâm trí hoạt động hoàn hảo trong các nhiệm vụ thích hợp của nó trong khi Chân Ngã vẫn ở một độ cao cao hơn. Bạn sẽ không bao giờ rời khỏi thánh địa bên trong, dù cuộc sống bên ngoài có bận rộn đến đâu trong thế giới của con người. Theo cách này, con người đang chuẩn bị cho địa vị đệ tử.

There is another stage which we must just glance at, that which I call the intellectual side of medi­tation, concerned with the gradual and conscious building of character. Again I turn to the great treatise of Karma-Yoga, the teachings of Shri Krishna in the Bhagavad Gita. If you turn to the 16th discourse you may find the long list of qualities there given which a man must develop in himself so that he may be born with them in the future. They are called “the divine properties”, and Arjuna is told: “Thou art born with divine properties, O Pandava”. Now in order that you may be born with them in future births you must make them in the birth that is; if you are to bring them back with you into life you must gradually create them in lives as they come one after another, and the man of the world who wants to know how to build his character can do nothing better than take this list of qualities, the divine properties which are wanted in discipleship, and build them one by one in his daily life by a conjoint process of medita­tion and action. Purity for instance is one of them. How shall a man build himself into purity? By, in his morning meditation, taking purity as part of the subject on which he thinks, realizing what it means. No impurity of thought must ever touch him; no impurity of action must ever stain him, he must be pure in the threefold thread of action, word and thought. That is the threefold cord of duty, as I once reminded you, and is that which the Brahmanas threefold thread is intended to represent. In the morning he thinks of purity as a thing that is desirable, that he must accomplish; and when he goes out into the world he carries the memory of his meditation with him. He watches his actions; he allows no impure action to stain his body; he commits no impure action all through the day, for he steadily watches every action that no touch of impurity may soil it. He watches his words. He speaks no word that is impure; he makes no refer­ence in his talk to an unclean subject; he never permits his tongue to be soiled by making an unclean suggestion. Every word of his is pure, so that he would dare to speak it in the presence of his Master, whose eye sees every lightest stain of impurity which the ordinary mortal eye would miss. He will watch every word that it may be the purest that he can utter, and he will never foul himself or others by a single word or phrase coarse with impure suggestion. His thought will be pure. He will never allow an unclean thought to come into his mind, or if it comes into his mind it will at once be cast out; the moment the thought comes he will cast it out; and as he knows that it could not come into his mind unless there was in his mind something to attract it, he purifies his own mind, so that no unclean thought of any one else may be able to gain entrance. Thus he watches on this one point through the whole of his day. And then again he will take truth in his morning meditation; he will think of truth, its value in the world, its value in society, its value in his own character; and when he goes out into the world of men he will never commit an action that will give a false impression, he will never speak a word that conveys a false idea. Not only will he not lie, but he will not even be inaccurate, because that also is speaking a falsehood. To be inaccurate in recount­ing what you have seen is to speak untruth. All exaggeration and painting up of a story, everything that is not perfectly consistent with fact, so far as he knows it, everything which has any shade of untruth­fulness, may not be used by him who would become a disciple. And so in thought again he must be true. Every thought must be as true as he can make it, with no shadow of falsehood to pollute his mind. So with compassion. He will meditate on compassion in the morning and during the day he will seek to practise it; he will show all kindness to people around him; he will do all service to family and friends and neighbours. Wherever he sees want he will try to relieve it; wherever he sees sorrow he will try to comfort it; wherever he sees misery he will strive to lighten it. He will live compassion as well as think it, and so make it part of his character. So with fortitude. He will think of the nobility of the strong man, the man whom no outer circum­stances can depress or elate, the man who is not joyful over success nor miserable over failure, who is not at the mercy of circumstances, sad today because things are troublesome and joyful tomorrow because things are easy. He will try to be himself, always balanced and strong; as he goes out into the world he will practise; if trouble comes he will think of the Eternal where no trouble is; if loss of money comes, he will think of the wealth of wisdom that cannot be taken away from him; if a friend be snatched by death, he will consider that no living soul can die and that the body that dies is only the garment which is thrown aside when it is out-worn, and another taken, and that his friend shall be found again. And so with all the other virtues of self­-restraint, of peaceableness, of fearlessness—all these things he will think of and practise. Not all at once. No man living in the world would be able to give sufficient time to meditate on each of these every day; but take them one by one, and build them into your character. Work on steadily: do not be afraid of giving time to it; do not be afraid of giving trouble to it. Everything that you build you are building for eternity, and you may well be patient in time when eternity spreads before you. Everything you gain, you gain for evermore. Meditation alone or practice alone is insufficient for the building of the character. Both must go together; both must form part of the daily life, and in this way a noble character is made.

Có một giai đoạn khác mà chúng ta phải chỉ lướt qua, đó là điều tôi gọi là khía cạnh trí tuệ của tham thiền, liên quan đến việc xây dựng tính cách một cách có ý thức và dần dần. Một lần nữa tôi quay lại với luận thuyết vĩ đại của Karma-Yoga, những lời dạy của Shri Krishna trong Bhagavad Gita. Nếu bạn quay lại bài giảng thứ 16, bạn có thể tìm thấy danh sách dài các phẩm chất được đưa ra ở đó mà một người phải phát triển trong bản thân mình để có thể được sinh ra với chúng trong tương lai. Chúng được gọi là “các thuộc tính thiêng liêng”, và Arjuna được bảo: “Ngươi được sinh ra với các thuộc tính thiêng liêng, hỡi Pandava”. Bây giờ để bạn có thể được sinh ra với chúng trong các kiếp sau, bạn phải tạo ra chúng trong kiếp hiện tại; nếu bạn muốn mang chúng trở lại cuộc sống, bạn phải dần dần tạo ra chúng trong các kiếp sống nối tiếp nhau, và người trong thế giới muốn biết cách xây dựng tính cách của mình không thể làm gì tốt hơn là lấy danh sách các phẩm chất này, các thuộc tính thiêng liêng cần thiết trong địa vị đệ tử, và xây dựng chúng từng cái một trong cuộc sống hàng ngày của mình bằng một quá trình kết hợp giữa tham thiền và hành động. Ví dụ, sự trong sạch là một trong số đó. Làm thế nào một người có thể xây dựng bản thân thành sự trong sạch? Bằng cách, trong buổi tham thiền buổi sáng của mình, lấy sự trong sạch làm một phần của chủ đề mà y suy nghĩ, nhận ra ý nghĩa của nó. Không có sự ô uế nào của suy nghĩ được phép chạm vào y; không có hành động ô uế nào được phép làm vấy bẩn y, y phải trong sạch trong ba sợi dây hành động, lời nói và suy nghĩ. Đó là sợi dây ba của bổn phận, như tôi đã nhắc nhở bạn một lần, và đó là điều mà sợi dây ba của Brahmanas được dự định để đại diện. Vào buổi sáng, y nghĩ về sự trong sạch như một điều đáng khao khát, mà y phải hoàn thành; và khi y ra ngoài thế giới, y mang theo ký ức về buổi tham thiền của mình. Y quan sát hành động của mình; y không cho phép bất kỳ hành động ô uế nào làm vấy bẩn cơ thể của mình; y không thực hiện bất kỳ hành động ô uế nào suốt cả ngày, vì y quan sát kỹ mọi hành động để không có sự ô uế nào có thể làm bẩn nó. Y quan sát lời nói của mình. Y không nói lời nào ô uế; y không đề cập đến một chủ đề không sạch trong cuộc trò chuyện của mình; y không bao giờ cho phép lưỡi của mình bị ô uế bằng cách đưa ra một gợi ý không sạch. Mọi lời nói của y đều trong sạch, để y dám nói nó trước mặt Huấn Sư của mình, người có mắt nhìn thấy mọi vết ô uế nhẹ nhất mà mắt thường không thể thấy. Y sẽ quan sát mọi lời nói để nó có thể là lời nói trong sạch nhất mà y có thể thốt ra, và y sẽ không bao giờ làm ô uế bản thân hoặc người khác bằng một lời nói hoặc cụm từ thô tục với gợi ý ô uế. Suy nghĩ của y sẽ trong sạch. Y sẽ không bao giờ cho phép một suy nghĩ không sạch đi vào tâm trí của mình, hoặc nếu nó đi vào tâm trí của y, y sẽ ngay lập tức loại bỏ nó; ngay khi suy nghĩ xuất hiện, y sẽ loại bỏ nó; và vì y biết rằng nó không thể đi vào tâm trí của mình trừ khi có điều gì đó trong tâm trí của y thu hút nó, y thanh lọc tâm trí của mình, để không có suy nghĩ không sạch nào của người khác có thể xâm nhập. Do đó, y quan sát điểm này suốt cả ngày. Và sau đó y sẽ lấy sự thật trong buổi tham thiền buổi sáng của mình; y sẽ suy nghĩ về sự thật, giá trị của nó trong thế giới, giá trị của nó trong xã hội, giá trị của nó trong tính cách của y; và khi y ra ngoài thế giới của con người, y sẽ không bao giờ thực hiện một hành động nào tạo ra ấn tượng sai lầm, y sẽ không bao giờ nói một lời nào truyền đạt một ý tưởng sai lầm. Không chỉ y không nói dối, mà y cũng không nói không chính xác, vì điều đó cũng là nói dối. Nói không chính xác khi kể lại những gì bạn đã thấy là nói không đúng sự thật. Mọi sự phóng đại và tô điểm câu chuyện, mọi thứ không hoàn toàn nhất quán với sự thật, theo như y biết, mọi thứ có bất kỳ bóng dáng nào của sự không trung thực, không thể được sử dụng bởi người muốn trở thành đệ tử. Và vì vậy trong suy nghĩ, y cũng phải trung thực. Mọi suy nghĩ phải trung thực nhất có thể, không có bóng dáng nào của sự không trung thực để làm ô uế tâm trí của y. Cũng như với lòng từ bi. Y sẽ suy nghĩ về lòng từ bi vào buổi sáng và trong suốt cả ngày y sẽ cố gắng thực hành nó; y sẽ thể hiện mọi lòng tốt với những người xung quanh; y sẽ làm mọi việc phục vụ cho gia đình và bạn bè và hàng xóm. Bất cứ nơi nào y thấy thiếu thốn, y sẽ cố gắng giảm bớt nó; bất cứ nơi nào y thấy đau khổ, y sẽ cố gắng an ủi nó; bất cứ nơi nào y thấy khốn khổ, y sẽ cố gắng làm nhẹ nó. Y sẽ sống lòng từ bi cũng như suy nghĩ về nó, và do đó làm cho nó trở thành một phần của tính cách của y. Cũng như với sự kiên cường. Y sẽ suy nghĩ về sự cao quý của người mạnh mẽ, người mà không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể làm suy sụp hoặc phấn khích, người không vui mừng vì thành công cũng không khốn khổ vì thất bại, người không bị hoàn cảnh chi phối, buồn bã hôm nay vì mọi thứ rắc rối và vui mừng ngày mai vì mọi thứ dễ dàng. Y sẽ cố gắng trở thành chính mình, luôn cân bằng và mạnh mẽ; khi y ra ngoài thế giới, y sẽ thực hành; nếu rắc rối đến, y sẽ nghĩ về Vĩnh Cửu nơi không có rắc rối; nếu mất tiền, y sẽ nghĩ về sự giàu có của minh triết không thể bị lấy đi; nếu một người bạn bị cướp đi bởi cái chết, y sẽ xem xét rằng không có linh hồn sống nào có thể chết và rằng cơ thể chết chỉ là chiếc áo choàng bị bỏ lại khi nó đã cũ, và một chiếc khác được lấy, và rằng y sẽ tìm thấy người bạn của mình một lần nữa. Và như vậy với tất cả các đức tính khác của sự tự kiềm chế, của sự hòa bình, của sự không sợ hãi—tất cả những điều này y sẽ suy nghĩ và thực hành. Không phải tất cả cùng một lúc. Không ai sống trong thế giới có thể dành đủ thời gian để suy nghĩ về từng điều này mỗi ngày; nhưng hãy lấy chúng từng cái một, và xây dựng chúng vào tính cách của bạn. Làm việc một cách kiên trì: đừng sợ dành thời gian cho nó; đừng sợ dành công sức cho nó. Mọi thứ bạn xây dựng, bạn đang xây dựng cho vĩnh cửu, và bạn có thể kiên nhẫn trong thời gian khi vĩnh cửu trải dài trước bạn. Mọi thứ bạn đạt được, bạn đạt được mãi mãi. Chỉ tham thiền hoặc chỉ thực hành là không đủ để xây dựng tính cách. Cả hai phải đi cùng nhau; cả hai phải là một phần của cuộc sống hàng ngày, và theo cách này một tính cách cao quý được hình thành.

A man who has thus trained himself, a man who has thus done the utmost that he can do, who has given his time and thought and trouble to make him­self fit to find the Teacher, even by him the Teacher shall verily be found; or rather, the Teacher shall find him and manifest Himself to his soul. For do you imagine in blindness and in ignorance that these Teachers desire to be hidden? Do you imagine, veiled in illusion, that They deliberately hide Them­selves from the eyes of men in order to leave humanity to stumble helpless, unwishful to aid it and to guide? I tell you that much as you may for a moment desire to find your Teacher, the Teacher is a thousand-fold more constant in His desire to find you, in order that He may help. Looking out over the world of men, They see so many helpers are wanted and so few are found. The masses perish in ignorance; teachers are wanted for them and they perish by myriads; there is none to help them. The great Teachers need disciples who are living in the lower world, and who, trained by the Teachers, shall go out into the world of men, and bring help to the suffering, bring knowledge to the darkened minds. They are always looking out into the world to find one soul that is willing and ready to be helped; always looking over the world in order that They may at once come to the souls that are ready to receive Them, and will not shut the doors of their hearts against Them. For our hearts are closed against Them and fast-locked, so that They cannot enter. They may not break down the doors and come in by force. If a man choose his own way and if he lock the doors, none other may turn the key; we are locked up by worldly desire; we are locked up by grasping after the things of the earth; we are locked up with the keys of sin and indifference and sloth; and the Teacher stands waiting till the door be opened in order that He may cross the threshold and illuminate the mind.

Một người đã tự rèn luyện mình như vậy, một người đã làm hết sức mình, đã dành thời gian và suy nghĩ và công sức để làm cho mình phù hợp để tìm thấy Huấn Sư, ngay cả bởi y Huấn Sư cũng sẽ thực sự được tìm thấy; hoặc đúng hơn, Huấn Sư sẽ tìm thấy y và hiện diện với linh hồn của y. Vì bạn có tưởng tượng trong sự mù quáng và vô minh rằng những Huấn Sư này muốn bị ẩn giấu? Bạn có tưởng tượng, bị che phủ trong ảo tưởng, rằng Các Ngài cố ý ẩn mình khỏi mắt người để bỏ mặc nhân loại vấp ngã trong vô vọng, không muốn giúp đỡ và hướng dẫn? Tôi nói với bạn rằng dù bạn có thể mong muốn tìm thấy Huấn Sư của mình trong một khoảnh khắc, Huấn Sư còn mong muốn tìm thấy bạn gấp ngàn lần, để Ngài có thể giúp đỡ. Nhìn ra thế giới của con người, Các Ngài thấy cần rất nhiều người giúp đỡ và rất ít người được tìm thấy. Đám đông chết trong vô minh; cần có những người dạy dỗ cho họ và họ chết hàng loạt; không có ai giúp đỡ họ. Các Huấn Sư vĩ đại cần những đệ tử sống trong thế giới thấp hơn, và những người được Các Ngài rèn luyện, sẽ ra đi vào thế giới của con người, và mang lại sự giúp đỡ cho những người đau khổ, mang lại tri thức cho những tâm trí tối tăm. Các Ngài luôn tìm kiếm trong thế giới để tìm một linh hồn sẵn sàng và sẵn sàng được giúp đỡ; luôn tìm kiếm trong thế giới để Các Ngài có thể ngay lập tức đến với những linh hồn sẵn sàng tiếp nhận Các Ngài, và sẽ không đóng cửa trái tim của họ trước Các Ngài. Vì trái tim của chúng ta đóng kín trước Các Ngài và khóa chặt, để Các Ngài không thể vào. Các Ngài không thể phá cửa và vào bằng vũ lực. Nếu một người chọn con đường của mình và nếu y khóa cửa, không ai khác có thể xoay chìa khóa; chúng ta bị khóa bởi ham muốn thế gian; chúng ta bị khóa bởi sự tham lam những thứ của trái đất; chúng ta bị khóa bằng chìa khóa của tội lỗi và sự thờ ơ và lười biếng; và Huấn Sư đứng chờ đợi cho đến khi cửa được mở để Ngài có thể bước qua ngưỡng cửa và chiếu sáng tâm trí.

Do you say: How do They know among the myriads of men one soul that works for Them and makes itself fit for Their coming? The answer was once given in the form of a picture; that as a man standing on a mountain-top looking over the adja­cent valley sees a light in a single cottage because the light shines out against the surrounding darkness, so does the soul that has made itself ready show the light in the darkness of the surrounding world which catches the eye of the Watcher on the mountain side and draws his attention by its own light. You must light the soul, in order that the Teacher may see it. He stands watching, but you must give the signal in order that He may become your Teacher and guide you on the way. How great the need you will per­haps understand better at the end of the remaining work that lies before us, as I trace the work of the disciple and what may really be done by him: but let me leave you this morning with this thought in your minds: that the Teacher is watching, is wait­ing, is desiring to find you, desiring to teach you that you have the power to draw Him to you, that only you can let Him come. He may knock at the door of your heart, but you must cry out the word that bids Him enter; and if you would follow the path I have traced for you this morning, if step by step you would thus learn control of mind, medi­tation, building of character, there you would have spoken the threefold word which makes it possible for the Teacher to reveal Himself. When that word is breathed out in the silence of the soul then the Master appears before it, and the feet of the Guru are found.

Bạn có nói: Làm thế nào Các Ngài biết trong số hàng triệu người một linh hồn làm việc cho Các Ngài và làm cho mình phù hợp cho sự đến của Các Ngài? Câu trả lời đã từng được đưa ra dưới dạng một bức tranh; rằng như một người đứng trên đỉnh núi nhìn ra thung lũng bên cạnh thấy một ánh sáng trong một ngôi nhà nhỏ vì ánh sáng chiếu ra chống lại bóng tối xung quanh, cũng vậy linh hồn đã làm cho mình sẵn sàng chiếu sáng trong bóng tối của thế giới xung quanh thu hút ánh mắt của Người Quan Sát trên sườn núi và thu hút sự chú ý của Ngài bằng chính ánh sáng của nó. Bạn phải thắp sáng linh hồn, để Huấn Sư có thể thấy nó. Ngài đứng quan sát, nhưng bạn phải đưa ra tín hiệu để Ngài có thể trở thành Huấn Sư của bạn và hướng dẫn bạn trên con đường. Bạn sẽ hiểu rõ hơn về nhu cầu lớn lao này vào cuối công việc còn lại trước mắt chúng ta, khi tôi vạch ra công việc của đệ tử và những gì thực sự có thể được thực hiện bởi y: nhưng hãy để tôi để lại cho bạn sáng nay với suy nghĩ này trong tâm trí của bạn: rằng Huấn Sư đang quan sát, đang chờ đợi, đang mong muốn tìm thấy bạn, mong muốn dạy bạn rằng bạn có sức mạnh để thu hút Ngài đến với bạn, rằng chỉ có bạn mới có thể để Ngài đến. Ngài có thể gõ cửa trái tim của bạn, nhưng bạn phải thốt ra lời mời Ngài vào; và nếu bạn muốn theo con đường mà tôi đã vạch ra cho bạn sáng nay, nếu từng bước bạn muốn học cách kiểm soát tâm trí, tham thiền, xây dựng tính cách, thì bạn đã nói ra lời ba phần khiến Huấn Sư có thể hiện diện. Khi lời đó được thốt ra trong sự im lặng của linh hồn thì Chân sư xuất hiện trước nó, và đôi chân của Guru được tìm thấy.

Leave a Comment

Scroll to Top