10. Bảy Nguyên Khí của Con Người—NGUYÊN KHÍ 6 và 7, ÂTMA BUDDHI, TINH THẦN

PRINCIPLES 6 and 7, ATMA BUDDHI, THE SPIRIT

As the completion of the thought of the last section, we will look at Atma-Buddhi first in its connection with Manas, and will then proceed to a somewhat more general view of it as the “Monad.” The clearest and best description of the human trinity, Atma-Buddhi-Manas, will be found in the Key to Theosophy, in which H. P. Blavatsky gives the following definitions:-

Như là sự hoàn thành của ý tưởng của phần trước, chúng ta sẽ nhìn vào Âtma-Buddhi trước tiên trong mối liên hệ của nó với Manas, và sau đó sẽ tiến tới một cái nhìn tổng quát hơn về nó như là “Chân Thần”. Mô tả rõ ràng và tốt nhất về tam vị con người, Âtma-Buddhi-Manas, sẽ được tìm thấy trong Chìa khóa Thông Thiên Học, trong đó H. P. Blavatsky đưa ra các định nghĩa sau:

THE HIGHER SELF is

Atma, the inseparable ray of the Universal and ONE SELF. It is the God above, more than within us. Happy the man who succeeds in saturating his inner Ego with it

THE SPIRITUAL divine EGO is

the spiritual soul, or Buddhi, in close union with Manas, the mind-principle, without which it is no EGO at all, but only the Atmic Vehicle.

THE INNER or HIGHER EGO is

Manas, the fifth principle, so called, independently of Buddhi. The mind-principle is only the Spiritual Ego when merged into one with Buddhi. It is the permanent individuality or the reincarnating Ego. (Page 175-176

CHÂN NGÃ CAO CẢ là

Atma, tia sáng bất khả phân của Chân Ngã Vũ Trụ và DUY NHẤT. Đó là Thượng đế ở trên, hơn là ở trong chúng ta. Hạnh phúc thay cho người thành công trong việc thấm nhuần Chân ngã bên trong của mình bằng nó.

CHÂN NGÃ tinh thần THIÊNG LIÊNG là

linh hồn tinh thần, hay Bồ đề, trong sự kết hợp mật thiết với Manas, nguyên lý thể trí, thiếu nó thì hoàn toàn không phải là Chân ngã, mà chỉ là Hiện thể Atmic.

CHÂN NGÃ BÊN TRONG hay CAO CẢ là

Manas, nguyên lý thứ năm, được gọi như vậy, tách riêng với Bồ đề. Nguyên lý thể trí chỉ là Chân ngã Tinh thần khi hợp nhất với Bồ đề. Đó là cá tính trường tồn hay Chân ngã tái sinh. (Trang 175-176)

Âtmâ must then be regarded as the most abstract part of man’s nature, the “breath” which needs a body for its manifestation. It is the one reality, that which manifests on all planes, the essence of which all our [Page 61] principles are but aspects. The one Eternal Existence, wherefrom are all things, which embodies one of its aspects in the universe, that which we speak of as the One Life – this Eternal Existence rays forth as Âtmâ, the very Self alike of the universe and of man; their innermost core, their very heart, that in which all things inhere. In itself incapable of direct manifestation on lower planes, yet That without which no lower planes could come into existence, It clothes Itself in Buddhi, as Its vehicle, or medium of further manifestation. “Buddhi is the faculty of cognising, the channel through which divine knowledge reaches the Ego, the discernment of good and evil, also divine conscience, and the spiritual Soul, which is the vehicle of Âtmâ” (Secret Doctrine, Volume I, page 2). It is often spoken of as the principle of spiritual discernment. But Atma-Buddhi, a universal principle, needs individualising ere experience can be gathered and self-consciousness attained. So the mind-principle is united to Atma-Buddhi, and the human trinity is complete. Manas becomes the spiritual Ego only when merged in Buddhi; Buddhi becomes the spiritual Ego only when united to Manas; in the union of the two lies the evolution of the Spirit, self-conscious on all planes. Hence Manas strives upward to Atma-Buddhi, as the lower Manas strives upward to the higher, and hence, in relation to the higher Manas, Atma-Buddhi, or Atma, is often spoken of as “the Father in Heaven”, as the higher Manas is itself thus described in relation to the lower. (See ante page 40) The lower Manas gathers experience to carry it back to its source; the higher Manas accumulates the store throughout the cycle of reincarnation; Buddhi becomes assimilated with the higher Manas; [Page 62] and these, permeated with the Âtmic light, one with that True Self, the trinity becomes a unity, the Spirit is self-conscious on all planes, and the object of the manifested universe is attained.

Âtmâ sau đó phải được coi là phần trừu tượng nhất của bản chất con người, “hơi thở” cần một cơ thể để biểu hiện. Nó là một thực tại duy nhất, cái mà biểu hiện trên tất cả các cõi, bản chất của tất cả các nguyên khí của chúng ta chỉ là các phương diện. Sự Tồn Tại Vĩnh Cửu duy nhất, từ đó mọi thứ đều có, cái mà thể hiện một trong những phương diện của nó trong vũ trụ, cái mà chúng ta nói đến như là Sự Sống Duy Nhất – Sự Tồn Tại Vĩnh Cửu này tỏa ra như Âtmâ, chính Tự Ngã của vũ trụ và của con người; lõi sâu nhất của chúng, trái tim thực sự của chúng, cái mà mọi thứ đều tồn tại. Tự nó không thể biểu hiện trực tiếp trên các cõi thấp hơn, nhưng không có nó thì không có cõi thấp hơn nào có thể tồn tại, Nó tự mặc lấy Buddhi, như là phương tiện của Nó, hoặc phương tiện của sự biểu hiện xa hơn. “Buddhi là khả năng nhận thức, kênh qua đó kiến thức thiêng liêng đến với Chân ngã, sự phân biện giữa thiện và ác, cũng là lương tâm thiêng liêng, và Linh hồn tinh thần, vốn là phương tiện của Âtmâ” (Giáo Lý Bí Nhiệm, Tập I, trang 2). Nó thường được nói đến như là nguyên khí của sự phân biện tinh thần. Nhưng Âtma-Buddhi, một nguyên khí phổ quát, cần được cá nhân hóa trước khi kinh nghiệm có thể được thu thập và tự ý thức đạt được. Vì vậy, nguyên khí trí tuệ được hợp nhất với Âtma-Buddhi, và tam vị con người được hoàn thành. Manas trở thành chân ngã tinh thần chỉ khi hòa nhập vào Buddhi; Buddhi trở thành chân ngã tinh thần chỉ khi hợp nhất với Manas; trong sự hợp nhất của hai cái nằm sự tiến hóa của Tinh thần, tự ý thức trên tất cả các cõi. Do đó, Manas phấn đấu lên trên đến Âtma-Buddhi, như hạ trí phấn đấu lên trên đến thượng trí, và do đó, trong mối quan hệ với thượng trí, Âtma-Buddhi, hoặc Âtma, thường được nói đến như “Cha trên Trời”, như thượng trí tự nó được mô tả như vậy trong mối quan hệ với hạ trí. (Xem trước trang 40) Hạ trí thu thập kinh nghiệm để mang nó trở lại nguồn của nó; thượng trí tích lũy kho tàng trong suốt chu kỳ tái sinh; Buddhi trở nên đồng hóa với thượng trí; và những điều này, thấm nhuần ánh sáng Âtmic, một với Tự Ngã Thực Sự đó, tam vị trở thành một, Tinh thần tự ý thức trên tất cả các cõi, và mục tiêu của vũ trụ biểu hiện được đạt tới.

But no words of mine can avail to explain or to describe that which is beyond explanation and beyond description. Words can but blunder along on such a theme, dwarfing and distorting it. Only by long and patient meditation can the student hope vaguely to sense something greater than himself, yet something which stirs at the innermost core of his being. As to the steady gaze directed at the pale evening sky, there appears after while, faintly and far away, the soft glimmer of a star, so to the patient gaze of the inner vision there may come the tender beam of the spiritual star, if but as a mere suggestion of a far off world. Only to a patient and persevering purity will that light arise, and blessed beyond all earthly blessedness is he who sees but the palest shimmer of that transcendent radiance.

Nhưng không có lời nào của tôi có thể giải thích hoặc mô tả điều gì đó vượt ra ngoài sự giải thích và vượt ra ngoài sự mô tả. Lời nói chỉ có thể lúng túng trên một chủ đề như vậy, làm nhỏ bé và bóp méo nó. Chỉ bằng cách tham thiền lâu dài và kiên nhẫn, học viên mới có thể hy vọng mơ hồ cảm nhận điều gì đó lớn hơn chính mình, nhưng điều gì đó khuấy động ở lõi sâu nhất của bản thể mình. Như đối với cái nhìn kiên định hướng về bầu trời chiều nhạt nhòa, sau một thời gian, ánh sáng mờ nhạt của một ngôi sao xuất hiện, thì đối với cái nhìn kiên nhẫn của tầm nhìn bên trong có thể đến tia sáng dịu dàng của ngôi sao tinh thần, nếu chỉ như một gợi ý đơn thuần về một thế giới xa xôi. Chỉ với sự trong sạch kiên trì và bền bỉ, ánh sáng đó mới xuất hiện, và người thấy chỉ ánh sáng mờ nhạt nhất của ánh sáng siêu việt đó là người được ban phước vượt qua mọi phước lành trần gian.

With such ideas as to “Spirit”, the horror with which Theosophists shrink from ascribing the trivial phenomena of the séance-room to “spirits” will be readily understood. Playing on musical boxes, talking through trumpets, tapping people on the head, carrying accordions round the room – these things may be all very well for astrals, spooks and elementals, but who can assign them to “spirits”, who has any conception of Spirit worthy of the name? Such vulgarisation and degradation of the most sublime conceptions as yet evolved by man are surely subjects for the keenest regret, and it may well be hoped that ere long these phenomena will be put in their true place, as evidence that the materialistic [Page 63] views of the universe are inadequate, instead of being exalted to a place they cannot fill as proofs of Spirit. No physical, no intellectual phenomena are proofs of the existence of Spirit. Only to the spirit can Spirit be demonstrated. You cannot prove a proposition in Euclid to a dog; you cannot prove Atma-Buddhi to Kâma and the lower Manas. As we climb, our view will widen, and when we stand on the summit of the Holy Mount the planes of Spirit shall lie before our opened vision. [Page 64]

Với những ý tưởng như vậy về “Tinh thần”, sự kinh hoàng mà các nhà Thông Thiên Học co rúm lại khi gán các hiện tượng tầm thường của phòng gọi hồn cho “tinh thần” sẽ được hiểu rõ. Chơi trên các hộp nhạc, nói qua kèn, gõ đầu người – những điều này có thể rất tốt cho các thể cảm dục, các hồn ma và các hành khí, nhưng ai có thể gán chúng cho “tinh thần”, ai có bất kỳ khái niệm nào về Tinh thần xứng đáng với tên gọi? Sự tầm thường hóa và sự suy đồi của những khái niệm cao cả nhất mà con người đã phát triển chắc chắn là những chủ đề đáng tiếc nhất, và có thể hy vọng rằng không lâu nữa những hiện tượng này sẽ được đặt vào vị trí thực sự của chúng, như bằng chứng rằng các quan điểm duy vật về vũ trụ là không đầy đủ, thay vì được nâng lên một vị trí mà chúng không thể lấp đầy như là bằng chứng của Tinh thần. Không có hiện tượng thể xác, không có hiện tượng trí tuệ nào là bằng chứng của sự tồn tại của Tinh thần. Chỉ có tinh thần mới có thể chứng minh Tinh thần. Bạn không thể chứng minh một định đề trong Euclid cho một con chó; bạn không thể chứng minh Âtma-Buddhi cho Kâma và hạ trí. Khi chúng ta leo lên, tầm nhìn của chúng ta sẽ mở rộng, và khi chúng ta đứng trên đỉnh Núi Thánh, các cõi của Tinh thần sẽ nằm trước tầm nhìn mở rộng của chúng ta.

Leave a Comment

Scroll to Top