01. Thông Thiên Học và Khoa Tâm Lý Học Mới

A book cover with a picture of a person

AI-generated content may be incorrect.

Theosophy and the New Psychology

A Course of Six Lectures

by

Annie Besant

LONDON AND BENARES:

THEOSOPHICAL PUBLISHING SOCIETY.

CITY AGENTS: PERCY LUND, HUMPHRIES & CO., LTD.

1904

Foreword—Lời nói đầu

These lectures are published as they were delivered, at the request of many who had heard them. They are merely a popular treatment of a large subject, but may prove useful to some who are repelled by more technical expositions. They were intended to induce the hearers to use theosophical teachings as a guide—or at least as working hypotheses—in their study of Psychology, for every theosophical student knows how useful Theosophy proves in arranging into some kind of order the chaos of facts presented by modern psychologists. Theosophy in modern Psychology is truly as a lamp in a dark place, as all who are willing to use it will find.

Những bài giảng này được ấn hành đúng như khi đã thuyết giảng, theo yêu cầu của nhiều người đã từng nghe. Chúng chỉ là một cách trình bày phổ thông về một đề tài lớn, nhưng có thể hữu ích cho một số người vốn bị đẩy lùi bởi những lối trình bày kỹ thuật hơn. Mục đích của chúng là khuyến khích thính giả dùng các giáo lý Thông Thiên Học như một kim chỉ nam—hoặc ít nhất như các giả thuyết làm việc—trong việc học Tâm lý học, vì mọi môn sinh Thông Thiên Học đều biết Thông Thiên Học hữu hiệu thế nào trong việc sắp xếp cái hỗn độn những dữ kiện mà các nhà tâm lý học hiện đại đưa ra thành một trật tự nào đó. Thông Thiên Học trong Tâm lý học hiện đại thật như một ngọn đèn nơi chốn tăm tối, như tất cả những ai sẵn lòng sử dụng sẽ nhận ra.

 ANNIE BESANT

ANNIE BESANT

London, 1904. 

London , 1904.

1. Tâm thức rộng lớn hơn.

1. The Larger Consciousness—Tâm thức Lớn Hơn

Psychology has travelled far during the last forty years: Some forty years ago it was accepted on almost all sides of the scientific world that, in order to follow safely psychological studies, you must base your psy­chology on physiology. Now there is a truth in that, which I do not want to overlook; that you cannot deal accurately and fully with consciousness without knowing some thing of the nature of its instruments. But the sense in which that famous sentence was uttered was false, if it meant that psychology grew out of physiology, that mind grew out of matter, that consciousness was the result of the mechanical arrangement of matter, and that therefore, in tracing the workings of the mind, we must start with a thorough understanding of the brain and nervous system. Far have we gone since that day, and what I have called the New Psychology is the psychology that holds its mind open to all new facts and truths; that is not content to march along a beaten [9] track; that is willing to consider facts the most abnor­mal, provided only they are demonstrated to the reason; understanding that in psychology, as elsewhere, the fact which seems to be the most abnormal, which most seems to fly in the face of knowledge already acquired, is the fact that is most likely to be of value, that is most likely to act as a signpost along the hitherto undiscovered road. That, of course, is admitted in most scientific investi­gations, but somehow people seem to have shrunk from it in the science of the mind, where, if anywhere, abnor­mal effects are likely to be the most significant. But the New Psychology walks with its eyes open; it does not reject methods because they are new, nor facts because they are unknown. Granted, it is a little in­clined to re-baptise the facts, that sometimes, along the lines of the New Psychology this tendency shows itself somewhat prominently, as will be seen in one of the cases to which I shall allude in a moment, where an ancient and well-known fact has just been admitted into scientific society under a new baptismal name. For the moment, however, let me give my reason for coupling Theosophy and the New Psychology. Theosophy, having a theory of life and of consciousness based on a very wide and very ancient investigation of nature, is able to offer to the New Psychology a theory of which it stands somewhat sadly in need. I say “a theory”, because it can only be accepted as a theory, as a hypo­thesis, so far as the scientific world is for the moment concerned. If there is presented to that world a theory in which the facts acknowledged as true all find their [10] places; if the theory offers a rational explanation for facts otherwise inexplicable; if it offers a rational solution for problems that otherwise remain unsolved; then it may surely be accepted as dealing with the facts, and held for the time until some better explanation and solution are forthcoming.

Tâm lý học đã đi một chặng dài trong bốn mươi năm qua: Cách đây chừng bốn mươi năm, hầu như toàn giới khoa học đều chấp nhận rằng, để theo đuổi việc học tâm lý một cách an toàn, phải đặt nền tảng tâm lý học lên sinh lý học. Nay, trong đó có một phần chân lý mà tôi không muốn bỏ qua; rằng bạn không thể đề cập đúng đắn và đầy đủ đến tâm thức nếu không biết đôi chút về bản chất các khí cụ của nó. Nhưng ý nghĩa mà câu nói nổi tiếng ấy được thốt ra thì lại sai, nếu nó hàm ý rằng tâm lý học nảy sinh từ sinh lý học, rằng thể trí nảy sinh từ vật chất, rằng tâm thức là kết quả của sự sắp xếp cơ học của vật chất, và rằng, vì thế, khi lần theo hoạt động của thể trí, chúng ta phải bắt đầu bằng sự thấu hiểu tường tận bộ não và hệ thần kinh. Kể từ ngày ấy chúng ta đã đi rất xa, và điều tôi gọi là Tân Tâm lý học là lối tâm lý học giữ tâm trí mình rộng mở trước mọi sự kiện và chân lý mới; không mãn nguyện khi cứ bước trên một lối mòn [9] đã định; sẵn lòng cân nhắc những sự kiện dị thường nhất, miễn là chúng được chứng minh trước lý trí; hiểu rằng trong tâm lý học, như ở nơi khác, sự kiện có vẻ dị thường nhất, dường như thách thức điều biết được trước đó, lại là sự kiện nhiều khả năng có giá trị nhất, có khả năng lớn nhất để làm một biển chỉ đường dọc theo con đường trước nay chưa khám phá. Dĩ nhiên điều đó được thừa nhận trong hầu hết các cuộc điều tra khoa học, nhưng bằng cách nào đó người ta lại dường như né tránh nó trong khoa học về thể trí, nơi mà, nếu ở đâu, thì các hiệu ứng dị thường có lẽ là ý nghĩa nhất. Nhưng Tân Tâm lý học bước đi với đôi mắt mở; nó không bác bỏ phương pháp chỉ vì chúng mới, cũng không phủ nhận sự kiện chỉ vì chúng chưa quen biết. Thừa nhận rằng nó có hơi thiên về việc “rửa tội lại” cho các sự kiện; đôi khi, dọc theo các tuyến của Tân Tâm lý học, khuynh hướng này lộ ra khá rõ, như sẽ thấy trong một trong những trường hợp mà tôi sẽ sắp nhắc tới, nơi một sự kiện cổ xưa và quen biết đã vừa được thừa nhận trong xã hội khoa học dưới một tên gọi rửa tội mới. Tuy vậy, lúc này, cho phép tôi nêu lý do vì sao tôi ghép Thông Thiên Học với Tân Tâm lý học. Thông Thiên Học, sở hữu một học thuyết về sự sống và về tâm thức dựa trên một cuộc khảo cứu thiên nhiên rất rộng và rất cổ, có khả năng hiến tặng cho Tân Tâm lý học một học thuyết mà nó đang khá buồn bã cần đến. Tôi nói “một học thuyết”, bởi đối với thế giới khoa học hiện thời, nó chỉ có thể được chấp nhận như một học thuyết, như một giả thuyết. Nếu có một học thuyết được trình ra trước thế giới ấy, trong đó những sự kiện được thừa nhận là chân thực đều tìm thấy [10] vị trí của mình; nếu học thuyết ấy đưa ra một giải minh hợp lý cho những sự kiện mà bằng cách khác thì không thể giải thích; nếu nó đưa ra một lời giải hợp lý cho những vấn đề mà bằng cách khác thì vẫn chưa có lời đáp; vậy thì chắc chắn nó có thể được chấp nhận như đang xử lý đúng các sự kiện, và được tạm thời giữ lấy cho đến khi có một giải minh và lời giải tốt hơn xuất hiện.

Now the New Psychology is terribly in need of a theory under which its facts can be arranged. For you must remember that the stage of hypothesis is a recog­nised stage in all scientific investigations. After many facts have been collected and to some extent co-ordinated a generalisation arises out of the co-ordinated facts, and our scientific teachers put forward a hypothesis based on the facts which suggest the generalisation. They then make that hypothesis the basis for further experiment, finding experiment more likely to be fruitful when it starts along lines definitely determined. If the new experiments do not strengthen and confirm the hypothesis, it is thrown aside; but if it is confirmed by them, the hypothesis gradually passes into the realm of the definite and acknowledged teachings of science. I am only claiming the position of a reasonable hypothesis for that which Theosophy lays down with regard to the facts accumulated by the New Psychology, but I do not mean that I hold it as a hypothesis myself. To pretend that would be to deceive you. I hold it as knowledge, not as hypothesis; but I present it to you as a hypothesis for you to re-examine and accept or reject.

Nay, Tân Tâm lý học đang vô cùng cần một học thuyết để theo đó có thể sắp xếp các sự kiện của mình. Bởi bạn cần nhớ rằng giai đoạn giả thuyết là một giai đoạn được thừa nhận trong mọi cuộc điều tra khoa học. Sau khi nhiều sự kiện đã được thu thập và phần nào được phối trí, một khái quát hóa nảy sinh từ các sự kiện đã phối trí, và các bậc thầy khoa học của chúng ta đưa ra một giả thuyết dựa trên các sự kiện gợi ra khái quát hóa ấy. Họ rồi lấy giả thuyết đó làm nền cho thí nghiệm tiếp theo, nhận thấy thí nghiệm sẽ nhiều khả năng đơm hoa kết quả hơn khi nó khởi sự dọc theo những đường đã định rõ. Nếu các thí nghiệm mới không củng cố và xác nhận giả thuyết, giả thuyết sẽ bị gạt bỏ; nhưng nếu được chúng xác nhận, giả thuyết dần dần đi vào lĩnh vực những tri thức xác định và được thừa nhận của khoa học. Tôi chỉ đòi cho điều mà Thông Thiên Học xác lập liên quan đến các sự kiện mà Tân Tâm lý học đã tích lũy vị thế của một giả thuyết hợp lý, nhưng tôi không có ý nói rằng chính mình tôi nắm giữ nó như một giả thuyết. Giả vờ như thế là đánh lừa quý vị. Tôi giữ nó như tri thức, không phải như giả thuyết; nhưng tôi trình nó ra với quý vị như một giả thuyết để quý vị xét lại và chấp nhận hoặc bác bỏ.

Now, that there is a larger consciousness in man is [11] a fact which is being asserted by so many, which is supported by evidence so wide and multifarious, that one is almost inclined to say that the fact is beyond dis­pute. Some will think this is going too far, yet I doubt if you will find many amongst those who look into the experiments, who carefully weigh the testimony, who are not prepared to say that, while they cannot perhaps explain and hesitate to assert, yet they cannot but admit that the evidence for a consciousness wider than the ordinary brain-consciousness is touching on the over­whelming. Sir Oliver Lodge has put forward his belief in very clear terms. He regards it as definitely estab­lished that our consciousness is much larger than the consciousness which manifests through the brain; that outside and beyond what we know normally as con­sciousness there exists a great tract to which no name save the name of consciousness can rationally be given—­part of ourselves, perhaps the most important part of ourselves, inasmuch as there come whirling down from that unknown field of consciousness statements so clear and definite, commands so imperious and compelling, that they overbear the reason and mould conduct even against the logic of the human mind. That there is such a larger field of consciousness he definitely asserts; of its existence he is definitely convinced. Or if we take such statements as those in the book of the late Mr. Myers, on Human Personality, you are confronted there with an accumulation of facts and evidence which it is impossible lightly to put on one side. Two things especially strike us in looking at that remarkable work. [12] One, that the name given by Mr. Myers to this conscious­ness is awkward, unsuitable. One wishes sometimes that he had used a clearer name, asserting his belief in a consciousness definitely higher than the brain-con­sciousness. And yet in reading Mr. Myers’ book, I cannot believe his abstinence from such a statement was due to any mental cowardice on his part. For when I remember that he asserted the probability of the truth of obsession, of the taking possession of the body by an alien and often hostile intelligence, and when he added that this brought us bark to the belief of the savage, so brave a statement seems to me to put entirely out of court the notion that he shrank from the assertion of the Spirit in man from any kind of mental fear. Some reason he had for not speaking more definitely. Per­sonally it seems to me due to mental confusion; that is, that he had a mass of facts he could not arrange, could not understand, could not explain. He could mark them off as dreams, as genius, as phantasms, and so on, but he had no theory which made them fall into a coherent and sequential view of human consciousness. Over and over again, in reading the book, I found my­self saying: “Oh! if Mr. Myers had only taken the opportunity he once had, and had become a Theo­sophist.” You will say: “Yes, because you yourself are a Theosophist.” Perhaps so. None the less; I find that when one reads that book in the light of Theo­sophy, one can answer every question that he could not answer, and show the explanation of facts which left him absolutely bewildered. This confusion falls into [13] order when the theosophical theory is accepted, even if only temporarily, as a hypothesis; and if he had arranged his facts into an order based upon that, he would not have confounded the madman and the genius, the lumber-room and the source of human inspiration. That is one of the points I hope to deal with in the forthcoming lectures.

Giờ đây, việc trong con người có một tâm thức rộng lớn hơn là [11] một sự kiện đang được nhiều người khẳng định, được hậu thuẫn bởi bằng chứng rộng khắp và đa tạp đến mức người ta hầu như muốn nói rằng sự kiện ấy vượt ngoài tranh luận. Có người sẽ nghĩ rằng như thế là đi quá xa, song tôi nghi rằng quý vị sẽ khó tìm trong số những người xem xét các thí nghiệm và cân nhắc kỹ lời chứng có nhiều ai không sẵn sàng nói rằng, dẫu họ có lẽ chưa giải thích được và còn do dự khi khẳng định, nhưng họ không thể không thừa nhận rằng bằng chứng cho một tâm thức rộng hơn tâm thức não bộ thông thường đang tới gần mức áp đảo. Ngài Oliver Lodge đã nêu niềm tin của mình bằng những lời lẽ rất minh bạch. Ngài xem như đã xác lập dứt khoát rằng tâm thức của chúng ta rộng lớn hơn nhiều so với tâm thức biểu lộ qua não; rằng bên ngoài và vượt hơn điều chúng ta biết một cách bình thường như là tâm thức, tồn tại một vùng mênh mông mà không thể lý tính mà cho một tên nào khác ngoài tên “tâm thức”—một phần của chính chúng ta, có lẽ là phần quan trọng nhất của chúng ta, bởi từ cánh đồng tâm thức chưa biết đó có những tuyên ngôn xoáy xuống rõ ràng và dứt khoát, những mệnh lệnh oai nghi và cưỡng bách đến mức lấn át lý trí và uốn nắn hành vi, thậm chí nghịch lại lôgic của tâm trí con người. Rằng có một cánh đồng tâm thức rộng lớn như thế Ngài quả quyết dứt khoát; về sự hiện hữu của nó, Ngài hoàn toàn xác tín. Hoặc nếu chúng ta xét những tuyên bố như trong cuốn sách của cố Ông Myers, về Phàm ngã Con người , ở đó bạn đối diện với một tích lũy lớn lao những sự kiện và bằng chứng mà không thể dễ dãi gạt đi. Có hai điều đặc biệt gây ấn tượng với chúng ta khi đọc tác phẩm đặc sắc ấy. [12] Một là, cái tên mà Ông Myers đặt cho tâm thức này thì vụng, không thích hợp. Đôi lúc người ta ước chi Ông dùng một tên rõ ràng hơn, khẳng định niềm tin của mình vào một tâm thức dứt khoát cao hơn tâm thức não bộ. Thế nhưng khi đọc sách của Ông Myers, tôi không thể tin rằng sự tiết chế khỏi một tuyên bố như vậy là do bất cứ nỗi hèn yếu trí tuệ nào nơi Ông. Bởi khi nhớ rằng Ông đã khẳng định khả năng có thật của tình trạng “ám chiếm”, của việc thân xác bị chiếm dụng bởi một trí năng ngoại lai và thường là thù nghịch, và khi Ông thêm rằng điều này đưa chúng ta quay lại niềm tin của người man dã, một tuyên bố dũng cảm như thế, theo tôi, loại trừ hoàn toàn ý tưởng cho rằng Ông lùi bước trước sự khẳng định về Tinh thần trong con người vì một nỗi sợ hãi trí óc nào đó. Ắt hẳn Ông có lý do để không nói dứt khoát hơn. Riêng tôi thấy dường như là do sự rối bời trong tư duy; nghĩa là Ông có một khối sự kiện mà Ông không thể sắp xếp, không thể hiểu, không thể giải minh. Ông có thể phân loại chúng thành mộng mơ, thành thiên tài, thành những “ảo ảnh”, v.v., nhưng Ông không có một học thuyết khiến chúng rơi vào một cái nhìn mạch lạc và tuần tự về tâm thức con người. Hết lần này đến lần khác, khi đọc cuốn ấy, tôi tự nhủ: “Giá như Ông Myers đã nắm lấy cơ hội mà ông từng có, và đã trở thành một nhà Thông Thiên Học.” Quý vị sẽ nói: “Vâng, vì chính bà là một người của Thông Thiên Học.” Có lẽ vậy. Tuy thế, tôi nhận thấy rằng khi người ta đọc cuốn ấy dưới ánh sáng của Thông Thiên Học, người ta có thể trả lời mọi câu hỏi mà Ông không trả lời nổi, và cho thấy lời giải thích cho những sự kiện khiến Ông hoàn toàn rối trí. Sự rối bời ấy [13] trở thành trật tự khi học thuyết Thông Thiên Học được chấp nhận, dẫu chỉ tạm thời, như một giả thuyết; và nếu Ông đã sắp xếp các sự kiện của mình thành một trật tự dựa vào đó, Ông đã không trộn lẫn kẻ điên và bậc thiên tài, kho chứa đồ bỏ đi và nguồn linh hứng của nhân loại. Đó là một trong những điểm tôi hy vọng sẽ đề cập trong những bài giảng sắp tới.

And another point I must mention is that Mr. Myers left out the very strongest part of his case—that which comes from the study of the religions of the world, and the testimony of mystics of every faith. Why? He did it deliberately, I presume, because he did not wish to bring into clash the ordinary science and the religions of the time, because he feared lest science would listen less attentively if he went into the dangerous regions of the mystic and the visionary. But in shrink­ing from these facts, he left the study of human con­sciousness incomplete. The testimony of the mystic to his own experiences, the testimony of the religious man to the facts of his own consciousness, the visions of the Sufi, of the Yogi, of the Christian Saint, are as much facts of consciousness as any that you can gather from the records of the hypnotises, any you can find in the recorded phenomena of hysteria; and it seems to me that Myers, in leaving them out, shrank from the most effective evidences of the larger consciousness which he desired so earnestly to establish. For, as a matter of fact, it is in those facts of consciousness that the highest reaches of the human consciousness are to be seen, as James has quite truly recognised. And Myers, in his [14] psychology, despite his exclusion of these, has offered in the very evidence that he has collected the justification for the religious theory, and has begun to build the foundation of a science on which the beliefs of religion will hereafter be erected.

Và một điểm nữa tôi phải nhắc là Ông Myers đã bỏ qua phần mạnh nhất trong lập luận của mình—tức phần đến từ việc nghiên cứu các tôn giáo trên thế giới và lời chứng của các nhà thần bí thuộc mọi đức tin. Vì sao? Tôi cho là Ông đã cố ý làm vậy, bởi Ông không muốn đem khoa học thường nghiệm và các tôn giáo đương thời va chạm nhau, vì Ông sợ rằng khoa học sẽ lắng nghe kém chăm chú hơn nếu Ông bước vào vùng đất nguy hiểm của những kẻ thần bí và những người thị kiến. Nhưng khi né tránh những sự kiện ấy, Ông đã để cho việc nghiên cứu tâm thức con người trở nên bất toàn. Lời chứng của nhà thần bí về những kinh nghiệm của chính mình, lời chứng của người tôn giáo về những sự kiện của chính tâm thức mình, những thị kiến của Sufi, của Yogi, của Vị Thánh Kitô giáo, cũng là những sự kiện của tâm thức không kém gì những điều bạn có thể thu thập từ các ghi chép về thôi miên, bất cứ điều gì bạn có thể thấy trong các hiện tượng đã ghi lại của chứng cuồng loạn; và theo tôi, Myers, khi bỏ qua chúng, đã lùi bước trước những bằng chứng hiệu lực nhất về tâm thức rộng lớn hơn mà Ông khao khát xác lập. Bởi, thực tế là, chính trong những sự kiện tâm thức ấy, các tầm cao nhất của tâm thức con người mới được thấy, như James đã nhận ra rất đúng. Và Myers, trong [14] tâm lý học của mình, bất chấp việc loại trừ những điều này, đã, ngay trong bằng chứng mà Ông thu thập, cống hiến sự biện minh cho học thuyết tôn giáo, và đã bắt đầu xây nền cho một khoa học mà trên đó những niềm tin của tôn giáo sẽ về sau được dựng lên.

Turn from his book to the evidence for the Larger Self. I will take first in order, what we call premonitions and intuitions, because they are so widely spread. They range from the heavy sense of gloom which hints at an impending and unknown disaster, or at some sorrow that is coming to us across the world, whose news has not come to us by the slower methods of ordinary science—they range from those vague impressions to the clear sight of what are now called phantasms of the living and of the dead. Now those premonitions and intuitions, those suggestions to us of a wider conscious­ness than the brain normally responds to, whence do they come? how do they reach us? how do they impress us? what part of our organism is it which is the organ for their sensing? These questions naturally arise, and we shall be able, I think, to give some answer to them when we study the mechanism of consciousness. It is only with the fact of their occurring that I am concerned at the moment—and how many among you can bear your own personal testimony to the fact of their hap­pening. How many of you can find amongst your friends and acquaintances some who have received such premonitions, dimly or clearly. An ever-increasing amount of testimony to them comes forward, as they are regarded with less and less ridicule by educated and [15] cultured people. We have, then, in the very first rank of our witnesses these presentiments, these intuitions of the distant. Then we come to the mass of evidence roughly included under the name of “trance”; that is to say, artificially induced and generally very deep sleep. These are so familiar to most of you that I need only remind you of their transcendent importance as estab­lishing a wider consciousness than that which speaks through the senses, the intelligence, and the emotions. Exaltation of the senses is one of the most marked characteristics of the hypnotic trance, and that leads m to a particular case which I mention because having happened only lately, it is probably less familiar than those recorded in books on hypnotic research. For a long time people have talked of “clairvoyance”, and everyone knows it is a dangerous word to use in the hearing of the scientific man. It at once suggests all kinds of fraud. Only if you can bring in the word with a suggestion of X-rays you may go a little further. But now there has come a new title from the lips of a scientific man, who has the right to baptise it. He has found some of his nervous patients endowed with “auto-­introspection” in the physical sense—a literal looking into one’s own body. And some of these people have been able to look very definitely into their own bodies, and, in one remarkable case of a disorder which is very popular at the present time, the patient not only described the disease, but stated exactly how it was caused, and described a little bit of bone which got into the passage where no bone should be. Afterwards the bone [16] was removed with the most respectable scientific forceps, and no one could doubt the materiality of the proof. But it would not do to say it was clairvoyance, so it is now called “internal autoscopy”. It does not matter at all that in the first thirty years of the nineteenth century these facts were observed over and over again, and that some doctors were even driven out of the medical profession for asserting these facts. They were branded as deceived or deceivers, but now the pheno­mena may be safely observed under the shield of “auto­scopy”. Now the foregoing is a case of exaltation of the senses. I use the word “exaltation” deliberately. It means that the senses are stimulated to a greater keenness of perception. Exaltation of the intelligence, exal­tation of the emotions, these are other steps along the same line, bearing testimony to a Larger Conscious­ness.

Hãy chuyển từ sách của Ông sang những bằng chứng cho Bản Ngã Lớn Hơn. Tôi sẽ trước hết lấy làm thứ tự những gì chúng ta gọi là các điềm báo và trực giác, bởi chúng rất phổ biến. Chúng trải dài từ cảm giác nặng nề về u ám báo hiệu một tai ương đang tới và chưa biết, hoặc một nỗi sầu đau đang đến với chúng ta từ bên kia địa cầu, mà tin tức của nó chưa đến với chúng ta theo những phương pháp chậm chạp của khoa học thông thường—chúng trải dài từ những ấn tượng mơ hồ đó đến việc thấy rõ ràng những gì nay được gọi là “ảo ảnh” của người sống và kẻ chết. Vậy những điềm báo và trực giác ấy, những gợi kêu với chúng ta về một tâm thức rộng hơn mức mà não bộ thường ngày đáp ứng, chúng đến từ đâu? làm thế nào chúng đến được với chúng ta? làm sao chúng in dấu nơi ta? bộ phận nào trong cơ cấu của chúng ta là cơ quan để cảm nhận chúng? Những câu hỏi này tự nhiên nảy sinh, và tôi nghĩ chúng ta sẽ có thể đưa ra đôi lời giải đáp khi nghiên cứu cơ chế của tâm thức. Hiện tại tôi chỉ quan tâm đến sự kiện là chúng xảy ra—và có biết bao người trong quý vị có thể làm chứng từ bản thân về sự kiện chúng xảy ra. Có bao nhiêu người trong quý vị có thể tìm thấy giữa bạn bè, người quen những người đã nhận được những điềm báo như thế, mơ hồ hoặc rõ ràng. Một lượng lời chứng ngày càng tăng đang xuất hiện, khi chúng bớt bị những người có học vấn và [15] văn hóa chế giễu. Vậy thì, ngay ở hàng đầu trong các nhân chứng của chúng ta là những linh cảm này, những trực giác về điều xa cách này. Rồi chúng ta đến khối bằng chứng được gộp một cách đại khái dưới tên “xuất thần”; nghĩa là, giấc ngủ được gây ra một cách nhân tạo và thường rất sâu. Những điều này quá quen thuộc với đa số quý vị đến nỗi tôi chỉ cần nhắc đến tầm quan trọng siêu việt của chúng như là xác lập một tâm thức rộng hơn tâm thức nói qua các giác quan, trí tuệ và cảm xúc. Sự “khai cao” của các giác quan là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của trạng thái thôi miên, và điều đó đưa tôi đến một ví dụ riêng mà tôi nhắc tới vì nó mới xảy ra gần đây, nên có lẽ ít quen thuộc hơn những trường hợp ghi trong sách về nghiên cứu thôi miên. Từ lâu, người ta đã nói về “thông nhãn”, và ai cũng biết đó là một từ hiểm nguy để dùng trước tai của nhà khoa học. Nó lập tức gợi ra đủ loại lừa đảo. Chỉ khi bạn có thể đưa từ ấy vào kèm gợi ý về tia X thì bạn có thể đi xa hơn đôi chút. Nhưng giờ đây đã xuất hiện một nhan đề mới từ miệng một nhà khoa học có quyền “rửa tội” cho nó. Ông thấy một số bệnh nhân thần kinh của mình được ban cho khả năng “tự nội quan” theo nghĩa thể chất—nghĩa là nhìn thật sự vào bên trong chính thân thể mình. Và một vài người trong số này đã có thể nhìn một cách rất xác định vào thân thể mình, và, trong một trường hợp đáng chú ý của một rối loạn rất “thịnh hành” vào thời điểm hiện tại, bệnh nhân không chỉ mô tả căn bệnh mà còn nói chính xác nó đã được gây ra như thế nào, và mô tả một mẩu xương nhỏ mắc vào một đường thông nơi vốn không hề có xương. Sau đó, mẩu xương [16] ấy được lấy ra bằng kẹp giải phẫu hết sức “đáng kính” về mặt khoa học, và chẳng ai có thể nghi ngờ tính vật chất của bằng chứng. Nhưng không thể gọi điều đó là thông nhãn, vậy nên nay nó được đặt tên là “tự nội quan bên trong”. Việc những sự kiện như vậy đã được quan sát đi đi lại lại trong ba mươi năm đầu của thế kỷ XIX, và rằng một số bác sĩ đã thậm chí bị tống khỏi giới y khoa vì khẳng định các sự kiện này, điều đó dường như không quan trọng. Họ đã bị đóng dấu là kẻ bị lừa hoặc kẻ lừa đảo, nhưng giờ các hiện tượng ấy có thể được quan sát an toàn dưới tấm khiên “nội quan”. Trường hợp vừa kể là một dạng “khai cao” của các giác quan. Tôi dùng từ “khai cao” một cách cân nhắc. Nó có nghĩa là các giác quan được kích hoạt đến độ bén nhạy nhận thức cao hơn. Khai cao của trí tuệ, khai cao của cảm xúc, đó là những nấc khác trên cùng một tuyến, đều làm chứng cho một Tâm thức Rộng Hơn.

Exaltation of the intelligence is one of the commonest things that happen in the hypnotic trance, and speaking the other day to a famous Parisian hypnotiser, the Colonel de Rochas, he told me that he had succeeded in pressing the memory of some of his subjects back into infancy in the most literal sense of the term; that the memory had been pressed back to the birth of the child. He was in search of certain facts; in search of memory of previous lives, and he is working back and back along the present, across the birth-gateway, across the inter­mediate life, across the death-gateway on the other side, back to a previous state of existence in this world. He [17] has found a greater increase of the power of memory than had been before observed, but that is already so definitely established that it is hardly necessary to dwell upon it now save as marking that it has been pushed further back than before. Memory loses nothing which has reached us through the senses or the brain.

Sự khai cao của trí tuệ là một trong những điều thường gặp nhất xảy ra trong trạng thái thôi miên, và khi nói chuyện gần đây với một nhà thôi miên danh tiếng của Paris, Đại tá de Rochas, ông cho biết mình đã thành công trong việc đẩy ký ức của một số đối tượng trở lùi về thời thơ ấu theo đúng nghĩa đen của từ; rằng ký ức đã được đẩy lùi về tận khi đứa trẻ chào đời. Ông đang tìm kiếm một số sự kiện; tìm kiếm ký ức về các đời trước, và ông đang lần ngược trở lại dọc theo hiện tại, vượt qua cửa ngõ sinh, vượt qua đời sống trung gian, vượt qua cửa ngõ tử ở phía bên kia, trở về một trạng thái hiện hữu trước đó trong thế giới này. Ông [17] đã tìm được một mức độ gia tăng năng lực ký ức lớn hơn trước đây từng quan sát, song điều ấy vốn đã được xác lập chắc chắn đến độ hầu như không cần dừng lại nữa, trừ việc ghi nhận rằng nó đã được đẩy lùi xa hơn trước. Ký ức không đánh mất điều gì đã đến với chúng ta qua các giác quan hay bộ não.

Exaltation of the intelligence carried to a further point would be genius. Press the exaltation further, make it self-stimulated, instead of stimulated from without; make it a simple heightening of the consciousness without loss of consciousness, instead of a heightening of consciousness with loss of consciousness of trance, and you have the beginning of genius, one of the most striking testimonies to the existence of a larger consciousness.

Sự khai cao của trí tuệ nếu được đẩy xa hơn nữa sẽ thành thiên tài. Hãy đẩy sự khai cao ấy xa hơn, khiến nó tự kích hoạt thay vì được kích hoạt từ bên ngoài; khiến nó chỉ là sự nâng cao tâm thức thuần túy mà không đánh mất tỉnh giác, thay vì là sự nâng cao tâm thức kèm đánh mất tỉnh giác của trạng thái xuất thần, và bạn có khởi đầu của thiên tài, một trong những chứng tích ấn tượng nhất cho sự hiện hữu của một tâm thức rộng hơn.

Then you have the exaltation of the emotions, which finds its place sometimes in sudden acts of heroic courage, of marvellous self-sacrifice, stimulated the man knows not whence; only he acts with the courage of the hero, although in his normal state an ordinary man. You can find these things scattered all over the world today. You can find in your own self, if you watch your consciousness, that there are times when you think far better than you can think normally, when your intelligence is quicker, more alert, more piercing than in the normal state; and although you may not touch the heights of genius, in that mere heightening of your, normal consciousness, there is testimony of something larger in yourself than that which is normally at work through the brain. And so with the exaltation of the [18] emotions of which I spoke. In its lower stages it is common enough. In its higher stages it reaches the ecstasy of the mystic and the saint. So that just as the highest exaltation of the intelligence is found in the man of genius, so is the highest exaltation of the emotions found in the mystic of every faith, when he passes into what is called ecstasy, beyond the stage in which he normally resides, and has there experiences more real to him than the experiences that come to him through the gateways of the senses, exercising over him a more compelling power, moulding and shaping his life without appeal.

Rồi bạn có sự khai cao của cảm xúc, điều này đôi khi biểu lộ trong những hành động anh hùng bất ngờ, những hy sinh diệu kỳ, được kích phát từ nơi mà người đó không biết; chỉ biết rằng y hành động với dũng cảm của bậc anh hùng, dẫu ở trạng thái bình thường chỉ là một người thường. Bạn có thể thấy những điều này rải rác khắp thế giới hôm nay. Bạn có thể thấy ngay trong chính mình, nếu bạn quan sát tâm thức của mình, rằng có những thời điểm bạn tư duy tốt hơn mức bình thường của bạn, khi trí tuệ của bạn nhanh nhạy, tỉnh táo, xuyên thấu hơn so với trạng thái thông thường; và dẫu bạn có thể không chạm tới những đỉnh cao của thiên tài, thì ngay trong sự nâng cao đơn thuần của tâm thức thông thường ấy cũng đã có lời chứng về điều gì đó lớn hơn trong chính bạn so với điều vốn thường hoạt động qua não bộ. Và cũng như vậy với sự khai cao của [18] cảm xúc mà tôi vừa nói. Ở những mức thấp hơn, nó khá phổ biến. Ở những mức cao hơn, nó đạt tới trạng thái xuất thần của nhà thần bí và vị thánh. Vậy cũng như sự khai cao cao nhất của trí tuệ được tìm thấy nơi người thiên tài, thì sự khai cao cao nhất của cảm xúc được gặp nơi nhà thần bí thuộc mọi đức tin, khi y bước vào điều gọi là xuất thần, vượt khỏi trạng thái mà y thường trú, và ở đó có những kinh nghiệm hiện thực đối với y hơn cả những kinh nghiệm đến qua các cửa ngõ giác quan, tác động lên y một quyền năng lôi cuốn mạnh mẽ hơn, uốn nắn và định hình đời sống y không cần viện dẫn.

Now, of the same nature as those, though at a very much lower level of evolution, you find that strange and much ridiculed fact of consciousness that is called among some religious people “conversion”, a most interesting and significant change of consciousness. Granted, much exaggeration often goes with it; granted, it is sometimes only a passing phase, and the man falls back from the exaltation of conversion into the ordinary mud of his previous evil life; nevertheless the subse­quent fall does not alter the fact of the temporary ele­vation. And when, side by side with that, you remark, in reading the records of conversions, that it is only a minority who fall back into the mud, and the majority whose whole lives are changed by that marvellous experience, then—unless you are hopelessly prejudiced with that most bigoted prejudice of all, the prejudice of the narrow-minded scientific man—you will recognise there also testimony to a larger consciousness. [19]

Giờ đây, cùng bản chất với những điều ấy, dẫu ở một nấc tiến hóa thấp hơn rất nhiều, bạn thấy cái sự kiện tâm thức kỳ lạ và thường bị chế nhạo mà trong một số giới tôn giáo gọi là “cải đạo”, một sự thay đổi tâm thức rất đáng quan tâm và giàu ý nghĩa. Thừa nhận rằng thường có nhiều cường điệu đi kèm; thừa nhận rằng đôi khi nó chỉ là một giai đoạn thoáng qua, và người ta rơi trở lại từ sự khai cao của “cải đạo” vào bùn đen bình thường của ác hạnh trước đó; tuy nhiên, sự sa giảm về sau không làm thay đổi sự kiện về sự nâng cao nhất thời. Và khi, song song với điều đó, bạn ghi nhận, khi đọc những ghi chép về các cuộc cải đạo, rằng chỉ có thiểu số rơi trở lại bùn đen, còn đa số thì cả đời họ đã đổi thay bởi kinh nghiệm kỳ diệu ấy, thì—trừ phi bạn bị định kiến vô phương cứu với thứ thành kiến hẹp hòi nhất trong mọi thứ, tức định kiến của nhà khoa học thiển cận—bạn sẽ nhận ra ở đó cũng có lời chứng cho một tâm thức rộng lớn hơn. [19]

And this conversion comes in a strange way some times. While in India I had a letter from an English missionary. He was a man whom I had met in the days when I was a freethinker. He had been one of those I had met in a Secular Society in Manchester. He had taken part in the work of that Society whilst I myself was in the Secular movement, and because of that he wrote me, and he gave me a record of a strange experience through which he had passed. Travelling in America, he had occasion to pass through that State, wonderful for scenery and marvellous natural phenomena—­Colorado. Staying there for a short time, seeing the marvels of nature on every side, his sense of beauty stimulated to a very high degree, his sense of wonder at the power of nature so marvellously displayed around him stimulated also, suddenly, without a moment’s warning, there came an opening of the whole of his consciousness, a sudden rush, as it were, or illumination, what he called a sudden revelation of God. And who shall dare to say that the Life Supreme, which breathes in every atom of the universe which is but His thought, did not reveal Himself to that Spirit which is kin to Himself, and through the marvels of external nature touch a mind and heart which were closed to the ordinary promptings of religion? This at least remained out of that marvellous experience, that it turned him into a religious man. He could not deny the fact that he himself had experienced. He could not deny the break­ing down of all the barriers of the ordinary consciousness, of the inflow of a life higher and more compelling. And [20] although it be true that, as was natural from the line of his previous thought and education, the illumination by the eternal Spirit of the Spirit encased in flesh led him on into a somewhat narrow path of a crude form of Christian belief, what matters that, provided the ETERNAL spoke to the ETERNAL, and the God without in nature manifested Himself to the God within in man?

Và sự “cải đạo” này đôi khi đến theo một cách lạ lùng. Khi ở Ấn Độ tôi nhận được thư của một nhà truyền giáo Anh. Ông là người tôi từng gặp vào thời tôi là một người tự do tư tưởng. Ông từng là một trong những người tôi gặp trong một Hội Thế tục ở Manchester. Ông đã tham gia công việc của Hội ấy khi chính tôi đang ở trong phong trào Thế tục, và bởi lẽ đó mà ông viết cho tôi, và ông thuật lại một kinh nghiệm lạ lùng mà ông vừa trải qua. Khi du hành ở Mỹ, ông tình cờ đi qua tiểu bang Colorado—một nơi kỳ diệu về phong cảnh và hiện tượng thiên nhiên trác tuyệt. Dừng lại đó trong một thời gian ngắn, chiêm ngưỡng những kỳ quan của thiên nhiên ở khắp quanh mình, cảm quan thẩm mỹ của ông được kích phát đến một mức rất cao, cảm quan kinh ngạc trước quyền năng thiên nhiên hiển lộ kỳ diệu chung quanh cũng được kích phát, thì bỗng dưng, không một lời báo trước, xảy ra một sự mở tung toàn bộ tâm thức của ông, như một làn trào dâng đột ngột, hay một sự bừng sáng, điều ông gọi là một cuộc mặc khải bất thần của Thượng đế. Và ai dám nói rằng Sự Sống Tối Thượng, Đấng thở trong mọi nguyên tử của vũ trụ vốn chỉ là Tư tưởng của Ngài, đã không tự mặc khải cho Tinh thần vốn đồng tánh với Ngài, và qua các kỳ quan của thiên nhiên bên ngoài chạm đến một tâm trí và trái tim từng khép kín trước những thúc bách thông thường của tôn giáo? Ít nhất điều còn lại sau kinh nghiệm kỳ diệu ấy là, nó biến ông thành một người tôn giáo. Ông không thể phủ nhận sự kiện mà chính ông đã trải nghiệm. Ông không thể phủ nhận sự tan vỡ của mọi rào chắn của tâm thức thông thường, của dòng trào dâng một đời sống cao hơn và lôi cuốn hơn. Và [20] dẫu đúng là, như điều tự nhiên theo tuyến tư tưởng và giáo dục trước đó của ông, sự soi sáng bởi Tinh thần vĩnh cửu cho Tinh thần bị bọc trong xác phàm đã dẫn ông vào một nẻo có phần chật hẹp của một hình thức niềm tin Kitô giáo còn thô, thì điều đó có sao, miễn là ĐẤNG VĨNH CỬU đã nói với ĐẤNG VĨNH CỬU, và Thượng đế bên ngoài trong thiên nhiên đã tự hiển lộ cho Thượng đế bên trong nơi con người?

So that I suggest to you, as a line of very interesting study, these facts of conversion. And I rejoice to see the stress Professor James laid upon them, in his work on the Varieties of Religious Experience; for it gives them their right place in the New Psychology as facts in human consciousness. And this is at least to be remembered, that the records of the history of the world show the most marvellous results from the actions of those who trace them all to what they call “conversion”, justifying that saying of Lord Rosebery; that the mystic who is also a man of the world and of intelligence is the most powerful person it is possible to find in human life. Absolutely true. For let the higher consciousness play upon a capable brain, a strong heart, a sound nervous system, and you have a union which nothing on earth is able to conquer, a force which nothing on earth is able to shake.

Vậy tôi xin gợi với quý vị, như một tuyến học hỏi rất thú vị, những sự kiện về cải đạo này. Và tôi hoan hỷ thấy Giáo sư James đặt nặng chúng trong tác phẩm về Những dạng thức khác nhau của Kinh nghiệm Tôn giáo ; vì điều đó trao cho chúng vị trí đúng đắn trong Tân Tâm lý học như những sự kiện của tâm thức con người. Và ít nhất cần nhớ điều này, rằng sử ký của thế giới cho thấy những kết quả kỳ diệu nhất từ hành động của những người truy nguyên tất cả đến điều họ gọi là “cải đạo”, biện minh cho lời nói của Ngài Rosebery; rằng nhà thần bí đồng thời là người của thế gian và của trí tuệ là con người quyền lực nhất có thể tìm thấy trong đời sống nhân loại. Hoàn toàn đúng. Bởi để cho tâm thức cao hơn vận dụng một bộ não có năng lực, một trái tim mạnh mẽ, một hệ thần kinh lành mạnh, thì bạn có một kết hợp mà không gì trên mặt đất có thể khuất phục, một lực mà không điều gì trên mặt đất có thể lay chuyển.

And then you may follow along these ever-con­verging lines of study into the strange land of dreams­—worthy of most careful consideration. For dreams deserve to be analysed, to be sorted out, to be ascribed to the various parts of the human consciousness from [21] which they take their rise, so that place may be found alike for the mere jumble of rubbish due to some physical brain disturbance and for the dream which opens up a new world of consciousness, or which supplies gaps in the knowledge of the waking consciousness, which enables the intelligence to pursue its studies with a surer foot, and with a keener insight. So that from all these different lines there comes the testimony of a larger consciousness in man.

Rồi bạn có thể lần theo những tuyến học hỏi ngày càng hội tụ này vào vùng đất kỳ lạ của chiêm bao—rất đáng được khảo sát cẩn thận. Vì mộng mơ đáng được phân tích, được phân loại, được quy về các bộ phận khác nhau của tâm thức con người [21] đã sinh ra chúng, sao cho có thể tìm ra chỗ thích đáng cả cho đống lộn xộn của rác rưởi do một rối loạn nào đó của bộ não gây ra lẫn cho giấc mơ mở ra một thế giới tâm thức mới, hoặc giấc mơ bù đắp những chỗ khuyết trong tri thức của tâm thức tỉnh, giúp trí tuệ theo đuổi học hỏi bằng bước chân vững chãi hơn và trực kiến sắc bén hơn. Vậy là, từ tất cả các tuyến khác nhau ấy, đều có lời chứng về một tâm thức rộng lớn hơn trong con người.

Now what is that consciousness? Deliberately I have simply called it here a “larger consciousness”, because I would not, as it were, commit any one of us, hearers or speaker, to a theory to start with. These varying lines along which facts may be studied force us into the admission that there is more of us than works through the human brain. What is the “more”? There are two chief views put forward. One I suppose would be called, if we must label it, the scientific; the other, the religious. I do not want to put these two words against each other as though they were still in conflict, for although in the western world the history of religion in the past has been a conflict between re­ligion and science, the most modern science of today is again becoming the handmaid and helper of religion, and that co-operation between the two will, I believe, persist until all human consciousness is illuminated by the light that comes from observation and the light that comes from the Spirit. The first view is the one which regards the unfolding consciousness of man as gradually evolving throughout the growth not only of humanity [22] but of the kingdoms that lie below humanity in evo­lution; according to some the increase of perfection of the organism leading to an increase in the manifestation of the consciousness, to growth of the consciousness; according to a growing scientific school, the exercise of the consciousness leading to an improvement in the mechanism whereby consciousness is expressed.

Vậy tâm thức đó là gì? Tôi cố ý chỉ gọi nó ở đây là “một tâm thức rộng lớn hơn”, bởi tôi không muốn, như thể, buộc bất kỳ ai trong chúng ta, người nghe hay người nói, phải chấp nhận ngay một học thuyết từ điểm khởi đầu. Những tuyến khác nhau theo đó có thể học hỏi các sự kiện buộc chúng ta phải thừa nhận rằng trong chúng ta có nhiều hơn cái phần hoạt động qua bộ não con người. “Nhiều hơn” ấy là gì? Có hai quan điểm chủ yếu được đưa ra. Một, tôi đoán, nếu phải dán nhãn, thì gọi là khoa học; quan điểm kia là tôn giáo. Tôi không muốn đặt hai từ này đối lập nhau như thể chúng vẫn còn xung đột, vì dẫu trong thế giới phương Tây, lịch sử của tôn giáo trong quá khứ là một sự xung đột giữa tôn giáo và khoa học, thì khoa học hiện đại nhất của hôm nay đang lại trở thành người tỳ nữ và trợ thủ của tôn giáo, và sự hợp tác giữa đôi bên, theo tôi, sẽ còn tiếp diễn cho đến khi toàn bộ tâm thức con người được chiếu sáng bởi ánh sáng đến từ quan sát và ánh sáng đến từ Tinh thần. Quan điểm thứ nhất là quan điểm xem tâm thức khai mở của con người như lần lượt tiến hóa trong toàn bộ quá trình tăng trưởng không chỉ của nhân loại [22] mà còn của các giới thấp hơn nhân loại trong tiến hóa; theo một số người, sự kiện hoàn thiện dần của cơ thể dẫn đến một gia tăng trong sự biểu lộ của tâm thức, đến sự tăng trưởng của tâm thức; theo một trường phái khoa học đang lớn mạnh, thì sự vận dụng tâm thức dẫn tới cải thiện bộ máy nhờ đó tâm thức được biểu lộ.

When you come to ask on this view: “What is the larger consciousness?” you will find yourself somewhat puzzled how to explain it. What we may call, for the moment, the sub-conscious, that is intelligible enough according to this first view, as we shall see hereafter. For we can readily understand that along the long line of evolution, there will be countless cases in which consciousness worked to a definite purpose, then found that that purpose could be accomplished without giving to it its whole attention; then followed a gradual withdrawal of attention as the habit of the action be­came more and more woven into the organism, until at last the consciousness was able to leave to the auto­matism of the organism all that class of acts which at one time it was compelled to superintend and direct. It is easy to see that, behind us on that evolution, there must be remnants of promptings of every kind, remnants of the promptings of the animal, of the savage, of the partly civilised man, all worked more or less into the very material of the bodies in which we live, by physical heredity. So that you may have there a vast mass of promptings coming from the evolution that lies behind us, which has fallen below the horizon of consciousness [23] into the sub-conscious self. But it is difficult along this line to explain genius. For although it may be argued that you would find in the highly complicated organism with which genius is connected greater variability than in a simpler organism; although you might argue that there will be occasional variations, forward-reaching, as we find them all through nature; although you may admit those so-called accidental variations (remembering however, that “accidental” means ignorance on our part, and not absence of law), yet genius is too far ahead of the normal evolution to be explained in that way. It is not a case of a slight forward evolution which may be picked up and emphasised; it is the leaping over of an enormous gulf between the talent of a clever man and the genius of the inspired. It is as though nature, leaping over all connecting links, suddenly out of a stone produced a plant, suddenly out of a plant an animal, suddenly out of an animal a man. Nature does not make these leaps, and why should she make them in genius more than anywhere else? Accidental variation is not sufficient to explain the transcendency of genius. And there is another difficulty with regard to it—the difficulty that genius tends to unfit its pos­sessor for the ordinary life of the world; that in the struggle for survival of the fittest (for those who believe in that as the line of evolution) genius is a distinct dis­advantage, tends even to kill out its possessor, to render him quite unable to survive and have offspring; and this outside the fact that genius is mostly sterile, outside the fact that as the intelligence of the nervous system [24] increases the fecundity of productiveness lessens. Out­side all these facts, and the possibility of the transmission of mental and moral qualities at all, let us face this fatal fact, that genius makes its possessor unfit for the struggle of the normal world. It is marked in melan­choly letters over the page of history. It comes out to us in all the irregularities of genius—the result of a larger consciousness battling with a world it does not understand, the result of forces it is unable to control when those forces are thrown down into the physical plane; it comes out as increased vitality along many channels, and not necessarily along lines which can be controlled by the will and intelligence. Those are points that need careful investigation, before you accept the view that consciousness is evolving only from below.

Khi bạn hỏi theo quan điểm này: “Tâm thức rộng lớn hơn là gì?” bạn sẽ thấy mình lúng túng đôi phần khi giải thích. Điều mà chúng ta có thể tạm gọi là “tiềm thức”, thì theo quan điểm thứ nhất này khá dễ hiểu, như chúng ta sẽ thấy sau. Vì ta có thể dễ dàng hiểu rằng, dọc theo chuỗi dài tiến hóa, sẽ có vô số trường hợp trong đó tâm thức làm việc nhằm một mục tiêu xác định, rồi nhận ra rằng mục tiêu đó có thể đạt được mà không cần dành cho nó toàn bộ sự chú ý; tiếp theo là một sự rút dần chú ý khi thói quen hành động càng lúc càng được dệt vào cơ thể, cho đến khi rốt cuộc tâm thức có thể giao phó cho tính tự động của cơ thể toàn bộ lớp hành vi mà một thời nó đã buộc phải giám thị và điều khiển. Dễ thấy rằng, đằng sau lưng chúng ta trên con đường tiến hóa ấy, hẳn còn có di tồn của đủ loại thúc bách, di tồn của thúc bách thuộc thú vật, của người man dã, của kẻ bán văn minh, tất thảy đều được dệt ít nhiều vào chính chất liệu của những thân thể ta đang sống trong đó, bởi di truyền thể chất. Do vậy, bạn có thể có một khối lớn các thúc bách đến từ phần tiến hóa nằm sau lưng, vốn đã rơi xuống dưới đường chân trời của tâm thức [23] vào cái “tự ngã” tiềm thức. Nhưng theo đường này thì khó lòng giải thích thiên tài. Vì dẫu có thể lập luận rằng bạn sẽ thấy nơi cơ cấu vô cùng phức tạp vốn gắn liền với thiên tài mức độ biến thiên cao hơn so với một cơ cấu giản đơn hơn; dẫu bạn có thể lập luận rằng thỉnh thoảng sẽ có những biến thiên, vươn tới phía trước, như ta vẫn thấy khắp thiên nhiên; dẫu bạn có thể thừa nhận những biến thiên gọi là ngẫu nhiên (tuy nhiên hãy nhớ rằng “ngẫu nhiên” nghĩa là sự không biết của chúng ta, chứ không phải vắng bóng định luật), thì thiên tài cũng vượt quá xa trước tiến hóa bình thường để có thể giải thích theo cách ấy. Nó không phải là trường hợp của một bước tiến nhẹ ở phía trước có thể được thu nhận và nhấn mạnh; nó là cú nhảy vượt qua một hố sâu ghê gớm giữa tài năng của một người khéo léo và thiên tài của người được linh hứng. Nó như thể thiên nhiên, bỏ qua hết mọi mắt xích nối kết, bỗng từ một hòn đá mà sinh ra một cái cây, bỗng từ một cái cây mà sinh ra một con vật, bỗng từ một con vật mà sinh ra một con người. Thiên nhiên không làm những cú nhảy như thế, vậy sao lại làm thế trong trường hợp thiên tài hơn là ở nơi nào khác? Biến thiên ngẫu nhiên là không đủ để giải thích tính siêu việt của thiên tài. Và có một khó khăn khác liên quan đến nó—khó khăn là thiên tài có xu hướng làm cho kẻ sở hữu nó trở nên bất xứng với đời sống thường nhật của thế gian; rằng trong cuộc chiến sinh tồn của “kẻ thích nghi nhất” (đối với những ai tin đó là tuyến tiến hóa) thì thiên tài là một bất lợi rõ rệt, thậm chí có khuynh hướng triệt hạ kẻ sở hữu, khiến người ấy hoàn toàn không thể tồn sinh và có con cái; và điều này ở ngoài sự kiện rằng thiên tài phần nhiều là bất thụ, ngoài sự kiện rằng khi trí năng của hệ thần kinh [24] gia tăng thì sức sinh sản giảm bớt. Ngoài tất cả những sự kiện này và câu hỏi về khả năng truyền thừa các phẩm tính trí tuệ và đạo đức, hãy đối diện với sự kiện chí tử này, rằng thiên tài làm cho kẻ sở hữu nó bất xứng với cuộc tranh đấu của thế giới bình thường. Điều ấy được ghi bằng những dòng u uất trên trang sử. Nó lộ ra trước chúng ta trong mọi “bất thường” của thiên tài—hệ quả của một tâm thức rộng lớn hơn đang vật lộn với một thế giới mà nó không hiểu, hệ quả của những lực mà nó không thể kiểm soát khi những lực ấy bị ném xuống mặt phẳng vật chất; nó bộc lộ như một sinh lực tăng cao dọc theo nhiều kênh, và không nhất thiết dọc theo những tuyến có thể được ý chí và trí tuệ kiểm soát. Đó là những điểm cần được khảo sát kỹ, trước khi bạn chấp nhận quan điểm cho rằng tâm thức chỉ tiến hóa từ phía dưới đi lên.

The other view is of a very different nature, telling us of a supernal entity, a living Spirit, “a portion of Myself,” it is called in a great Scripture, a divine frag­ment, a part of the Universal Life, gathering around itself veils of matter that it may come into touch with the many planes or worlds of our system. A spiritual germ; we may call it, planted in the soil of matter. I care not whether you call all matter physical and divide it off by differences of density, or whether you take the ancient and more accurate view that matter rises in an ascending scale, marked off by the difference of subtlety of the atoms that compose that matter, through all the subtler and ever subtler worlds of being. That divine fragment veiled in matter comes, by the medium of that matter, into contact with the phenomena of every plane, [25] the Spirit gradually unfolding and awakening to its inherent, unalienable divine powers. It comes thus into touch with every region of the universe. It recognises the difference between itself and others for the first time on the lowest plane, the physical. There are trans­mitted through its higher vehicles to its own Self, the consciousness, vibrations from higher planes than these. And slowly the physical vibrations organise in the physical body organs which are able to respond to them, and each new organ opens out a new avenue of know­ledge. As the vibrations of the physical plane play upon the outermost casing, consciousness answers from within with thrills of responding life, shaping the matter of its own vehicle into ever-improving organs for the reception from outside of those vibrations. As the evolution proceeds, subtler and subtler vibrations are able to affect an ever-awakening and more and more responding Spirit. And this responsiveness does not stop with the limit of the physical body. The subtler bodies belonging to the planes beyond begin to vibrate in answer to their vibrations, and those are transmitted gradually to the physical vehicle, as it becomes more and more receptive, delicate, and highly organised. As these vibrations are more and more definitely recognised by consciousness in the higher regions, it transmits them more definitely to its physical vehicle, and all that you call premonitions, intuitions, exaltations of the senses, of the intelligence, of emotion, the visions of the mystic and saint, the clear vision of the yogi and of the trained occultist, all that you get in the variety of dreams, [26] all that you get in genius, and in the loftier states of human consciousness, all are the coming down into the physical brain of vibrations received in loftier regions by loftier bodies, gradually being organised for conscious life and work upon those planes. While we are still half-evolved, the recognition of these is confused, but they are never to be confounded with the promptings that come from the evolution of the pas; they are the promise of the future, not the relics of the past; they are the struggles of the eternal Spirit within us to make his vehicles answer to his changes in con­sciousness. Genius is but the momentary grasping of the brain by that larger consciousness, forcing it into an insight, a strength of grip and a width of outlook that causes its noble reach. It is the putting down more of the larger consciousness into an organism capable of vibrating in answer to its thrills. So that we may now drop the word “larger conscious­ness” and take a truer title. This larger consciousness is our real Self; this larger consciousness is the real Man, who is not the bodily garments that he wears. And all things that we see around us that we recognise as hints of a larger consciousness, these are the whis­perings, scarce articulate as yet, but with all the promise of the future, that come from the land of our birth, from the world to which in truth we belong; they are the voice of the Higher Self who is truly the larger; they are the voice of the living Spirit, unborn, undying, ancient, perpetual and constant; they are the voice of the inner God, speaking in the body of man. [27]

Quan điểm còn lại có bản chất rất khác, nói với chúng ta về một hữu thể siêu phàm, một Tinh thần sống động, “một phần của Chính Ta”, như nó được gọi trong một Thánh thư vĩ đại, một mảnh thần quang, một phần của Sự Sống Toàn Thể, thu góp quanh mình những tấm màn của chất liệu để có thể tiếp xúc với các cõi hay thế giới đa dạng của hệ chúng ta. Một mầm tinh thần; ta có thể gọi như thế, được gieo trong thửa đất của chất liệu. Tôi không bận tâm liệu bạn gọi mọi chất liệu là hồng trần và chỉ phân biệt bằng khác biệt về độ đậm đặc, hay bạn chọn quan điểm cổ xưa và chính xác hơn rằng chất liệu tăng dần theo một thang hướng thượng, được phân định bởi độ vi tế khác nhau của các nguyên tử cấu tạo chất liệu ấy, xuyên suốt mọi thế giới vi tế hơn, vi tế hơn nữa của hiện hữu. Mảnh thần quang được che màn trong chất liệu ấy, bằng môi giới của chất liệu đó, chạm đến các hiện tượng của mọi cõi, [25] Tinh thần dần dần mở ra và tỉnh thức với những quyền năng thiêng liêng vốn hữu sẵn, bất khả chuyển nhượng của mình. Như thế, Ngài đi vào tiếp xúc với mọi miền của vũ trụ. Ngài lần đầu nhận ra sự khác biệt giữa chính mình và người khác ở cõi thấp nhất, cõi hồng trần. Những rung động từ các cõi cao hơn cõi này được truyền qua các hiện thể cao hơn của Ngài đến với Chính Ngài, tức tâm thức. Và dần dà, những rung động của cõi hồng trần tổ chức trong thể xác những cơ quan có khả năng đáp ứng với chúng, và mỗi cơ quan mới mở ra một đại lộ tri thức mới. Khi những rung động của cõi hồng trần tác động lên lớp vỏ ngoài cùng, tâm thức từ bên trong đáp ứng bằng những rung động sống động tương ứng, uốn nắn chất liệu của hiện thể riêng mình thành các cơ quan ngày càng hoàn thiện hơn để tiếp nhận những rung động đến từ bên ngoài. Khi tiến hóa tiếp diễn, những rung động vi tế hơn và vi tế hơn có thể tác động đến một Tinh thần ngày một tỉnh thức và đáp ứng hơn. Và năng lực đáp ứng này không dừng lại ở giới hạn của thể xác. Những thể vi tế hơn thuộc các cõi bên kia bắt đầu rung lên đáp ứng với những rung động của chính chúng, và chúng dần dần được truyền xuống thể xác, khi thể này trở nên ngày một tiếp nhận, tinh tế và tổ chức cao hơn. Khi những rung động ấy càng ngày càng được tâm thức nhận biết rõ rệt hơn ở các miền cao, nó truyền chúng xuống hiện thể hồng trần cũng ngày một rõ ràng hơn, và tất cả những gì bạn gọi là điềm báo, trực giác, sự khai cao của các giác quan, của trí tuệ, của cảm xúc, các thị kiến của nhà thần bí và vị thánh, cái thấy trong sáng của yogi và của nhà huyền bí học được rèn luyện, tất cả những gì bạn gặp trong nhiều dạng mộng mơ, [26] tất cả những gì bạn gặp nơi thiên tài, và trong những trạng thái cao vời của tâm thức con người—tất cả đều là việc các rung động được tiếp nhận ở những miền cao hơn bởi những hiện thể cao hơn đang dần tổ chức cho đời sống và công việc tỉnh thức trên những cõi ấy, và đang “đi xuống” não bộ hồng trần. Trong khi chúng ta vẫn còn mới nửa chặng đường tiến hóa, sự nhận biết những điều này còn lẫn lộn, nhưng chúng không bao giờ được lẫn với những thúc bách đến từ tiến hóa đã lùi lại phía sau; chúng là lời hứa của tương lai, không phải di tích của quá khứ; chúng là những nỗ lực của Tinh thần vĩnh cửu bên trong chúng ta nhằm khiến các vận cụ của Ngài đáp lời với những biến chuyển trong tâm thức của Ngài. Thiên tài chỉ là khoảnh khắc não bộ bị nắm lấy bởi tâm thức rộng lớn hơn ấy, ép nó vào một trực kiến, một sức nắm và một bề rộng viễn kiến tạo nên tầm vươn cao quý. Đó là việc “đặt xuống” nhiều hơn tâm thức rộng lớn ấy vào một cơ cấu có khả năng rung đáp với những xung động của nó. Vậy nên, giờ đây ta có thể bỏ từ “tâm thức rộng lớn hơn” mà dùng một nhan đề chân thực hơn. Tâm thức rộng lớn hơn này chính là Chân Ngã của chúng ta; tâm thức rộng lớn hơn này là Con Người thực, không phải những lớp y phục thể xác mà y khoác lên. Và mọi điều ta thấy chung quanh, mà ta nhận ra như những gợi mở về một tâm thức rộng hơn, ấy là những tiếng thì thầm, còn chưa rõ lời, nhưng hàm chứa trọn lời hứa của tương lai, đến từ miền quê sinh quán của chúng ta, từ thế giới mà thật ra chúng ta thuộc về; đó là tiếng nói của Chân Ngã Cao Hơn, vốn thật sự là phần “lớn hơn”; đó là tiếng của Tinh thần sống động, không sinh, không tử, cổ xưa, bất biến và thường hằng; đó là tiếng của vị Thần bên trong, đang lên tiếng trong thân thể con người. [27]

Leave a Comment

Scroll to Top