Bình giảng về Lửa Vũ Trụ S5S11 (559-563)

Đọc các trang Cosmic Fire liên quan ở đây

TCF 550-563: S5S11

28 August 2007 – 12 September 2007

28 Tháng Tám 2007 – 12 Tháng Chín 2007

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16, để tăng độ dễ đọc khi chiếu trong lớp. Các chú thích và tham chiếu từ các Sách của AAB và từ những trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Lời bình xuất hiện ở cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph.

Đề nghị rằng Lời bình này được đọc kèm với cuốn TCF trong tầm tay, để bảo toàn mạch lạc. Khi việc phân tích văn bản được tiến hành, nhiều đoạn văn được chia nhỏ, và hình thức trình bày cô đọng trong chính cuốn sách sẽ truyền đạt ý nghĩa tổng thể của đoạn văn.

1. We now begin Division D of Section Two, the Fire of Mind, Solar Fire.

1. Giờ đây chúng ta bắt đầu Phần D của Mục Hai, Lửa của Trí, Lửa Thái dương.

2. Semester 5; Section 10 was a review section.

2. Học kỳ 5; Mục 10 là một mục điểm lại.

DIVISION D – THOUGHT ELEMENTALS AND FIRE ELEMENTALS [550]

PHẦN D – CÁC HÀNH KHÍ TƯ TƯỞNG VÀ CÁC HÀNH KHÍ LỬA

I. THOUGHT FORMS

I. HÌNH TƯ TƯỞNG

3. It seems of importance to bear in mind the function of something we create and use every day—thoughtforms.

3. Có vẻ quan trọng là ghi nhớ chức năng của một điều mà chúng ta tạo ra và dùng mỗi ngày—các hình tư tưởng.

1. Their function.

1. Chức năng của chúng.

a. To respond to vibration.

a. Đáp ứng với rung động.

b. To provide the vehicle for an idea.

b. Cung cấp vận cụ cho một ý niệm.

4. This is a thought of critical importance.

4. Đây là một tư tưởng có tầm quan trọng then chốt.

c. To carry out specific purpose.

c. Thi hành mục đích chuyên biệt.

2. The Laws of Thought.

2. Các Định luật của Tư tưởng.

a. Three cosmic laws.

a. Ba định luật vũ trụ.

b. Seven systemic laws.

b. Bảy định luật hệ thống.

II. THOUGHT ELEMENTALS AND DEVAS

II. CÁC HÀNH KHÍ TƯ TƯỞNG VÀ CÁC THIÊN THẦN

1. The Ruler of Fire . . . Agni.

1. Vị Cai Quản của Lửa . . . Agni.

5. We will have under discussion a Being to Whom many meanings have been assigned. We shall have to understand Him in relation to occultism and not so much in relation to popular Hindu Mythology.

5. Chúng ta sẽ bàn về một Đấng mà có nhiều ý nghĩa đã được gán cho Ngài. Chúng ta sẽ phải thấu hiểu Ngài trong liên hệ với huyền bí học chứ không quá trong liên hệ với Thần thoại Ấn giáo phổ thông.

6. The varied meanings are somewhat intricate. Agni seems to appear in many guises.

6. Các ý nghĩa đa tạp thì phần nào rắc rối. Agni dường như xuất hiện trong nhiều hình tướng.

a. Agni and the solar Logos.

a. Agni và Thái dương Thượng đế.

b. Agni and the mental plane.

b. Agni và cõi trí.

c. Agni and the three Fires.

c. Agni và ba loại Lửa.

2. The Fire Devas . . . the Greater Builders.

2. Các Thiên thần Lửa . . . các Nhà Kiến tạo Lớn.

a. Introductory statements.

a. Những tuyên bố dẫn nhập.

b. The functions of the devas.

b. Các chức năng của các thiên thần.

c. The devas and the planes.

c. Các thiên thần và các cõi.

3. The Solar Angels . . . the Agnishvattas.

3. Các Thiên Thần Thái dương . . . các Agnishvattas.

7. It is clear that we are discriminating the Greater Builders from the Agnishvattas (presumably the Solar Angels), though the Fifth Creative Hierarchy is a dual Hierarchy and this problem must be solved.

7. Rõ ràng là chúng ta đang phân biệt các Nhà Kiến tạo Lớn với các Agnishvattas (có lẽ là các Thái dương Thiên Thần), dẫu Huyền Giai Sáng Tạo Thứ Năm là một Huyền Giai kép và vấn đề này phải được giải quyết.

8. Yet, as will be seen, there are contexts in which the Solar Angels are precisely called “Greater Builders”, which they are when compared with the unconscious devas and elemental lives.

8. Tuy vậy, như sẽ thấy, có những ngữ cảnh trong đó các Thái dương Thiên Thần được gọi chính xác là “Các Nhà Kiến tạo Lớn”, điều mà Các Ngài là khi so với các thiên thần vô thức và các sự sống hành khí.

Introductory remarks.

Lời nhận xét dẫn nhập.

a. On the fifth Principle.

a. Về Nguyên khí thứ năm.

b. On Individualisation.

b. Về Biệt ngã hoá.

c. On Incarnation.

c. Về Lâm phàm.

d. On the Building of the Causal Body.

d. Về Việc Xây dựng Thể Nguyên nhân.

4. The Fire Elementals . . . the Lesser Builders.

4. Các Hành khí Lửa . . . các Nhà Kiến tạo Nhỏ.

a. Introductory.

a. Dẫn nhập.

b. Physical plane elementals.

b. Các hành khí của cõi hồng trần.

c. Elementals of the ethers.

c. Các hành khí của cõi dĩ thái.

d. Elementals and the Microcosm.  [551]

d. Các hành khí và Tiểu thiên địa. [551]

III. MAN, AS A CREATOR IN MENTAL MATTER

III. CON NGƯỜI, NHƯ MỘT ĐẤNG KIẾN TẠO TRONG CHẤT LIỆU TRÍ

1. The creation of thought forms.

1. Sự tạo tác các hình tư tưởng.

2. The process of thought form building.

2. Tiến trình xây dựng hình tư tưởng.

IV. MAN AND THE FIRE SPIRITS

IV. CON NGƯỜI VÀ CÁC THẦN LINH LỬA

1. The Will aspect and creation.

1. Phương diện Ý chí và sáng tạo.

a. The condition of the magician.

a. Tình trạng của nhà huyền thuật.

b. Construction of thought forms.

b. Kiến trúc các hình tư tưởng.

c. The occult significance of speech.

c. Thâm nghĩa huyền bí của ngôn từ.

2. The nature of Magic.

2. Bản tính của Huyền thuật.

9. Here we will have the root material on which A Treatise on White Magic was formulated. Both presentations are necessary and supplementary. The Tibetan did not repeat Himself when writing TWM.

9. Ở đây chúng ta sẽ có chất liệu gốc trên đó Luận về Chánh Thuật được hình thành. Cả hai trình bày đều cần thiết và bổ sung cho nhau. Chân sư không lặp lại Chính Mình khi viết TWM.

a. Black magicians and white.

a. Các nhà hắc thuật và chánh thuật.

b. The source of black magic.

b. Nguồn cội của hắc thuật.

c. Conditions for white magic.

c. Các điều kiện cho chánh thuật.

3. Fifteen rules for Magic.

3. Mười lăm quy luật cho Huyền thuật.

10. These are always worth memorizing and pondering. They cannot yet be fully lived because the ancient formulas have not been restored to the consciousness of the average student (and far less so to the average human consciousness).

10. Những quy luật này luôn đáng để ghi nhớ và suy ngẫm. Chúng vẫn chưa thể được sống trọn vẹn vì các công thức cổ xưa chưa được phục hồi vào tâm thức của đạo sinh trung bình (và càng ít hơn nữa vào tâm thức con người trung bình).

a. Six rules for the mental plane.

a. Sáu quy luật cho cõi trí.

b. Five rules for the astral plane.

b. Năm quy luật cho cõi cảm dục.

c. Four rules for the physical plane.

c. Bốn quy luật cho cõi hồng trần.

Under this division we shall briefly give an outline of the study which we will undertake upon this vast and stupendous subject, for, as it definitely concerns the evolution of man and his power eventually to create, it will be wise for us to take up the matter in some detail.

Dưới mục này chúng ta sẽ phác thảo vắn tắt dàn bài của việc nghiên cứu mà chúng ta sẽ tiến hành về chủ đề bao la và hùng vĩ này, vì, khi nó liên hệ một cách xác định đến tiến hoá của con người và quyền năng cuối cùng để sáng tạo của y, sẽ là khôn ngoan nếu chúng ta bàn vấn đề với một số chi tiết.

11. Man, coming largely under the fourth ray, is, essentially a Creator animated by the fourth Rule for Inducing Soul Control—the “urge to creative life through the divine faculty of imagination”

11. Con người, vốn phần lớn thuộc cung bốn, về bản chất là một Đấng Kiến Tạo được linh hoạt bởi Quy luật thứ tư để Gây Dẫn Sự Kiểm Soát của Linh Hồn—“xung lực hướng tới sự sống sáng tạo qua năng lực thiêng liêng của sự tưởng tượng”

This section is not intended to give interesting bits of information anent the devas;

Phần này không nhằm cung cấp những mẩu thông tin thú vị liên quan đến các thiên thần;

12. DK knows too well the tendency of the untrained and irresponsible human mind.

12. Chân sư DK quá hiểu xu hướng của tâm trí con người chưa được rèn luyện và thiếu trách nhiệm.

I only seek to deal with the matter in its practical application to man, and to give as much of the necessary knowledge as will enable a man to control and build his own system, to understand the method of creation and to comprehend somewhat the lesser lives and the paralleling deva evolution with which he may be concerned.

Tôi chỉ tìm cách xử lý vấn đề ở sự ứng dụng thực tiễn với con người, và đưa ra chừng mực tri thức cần thiết đủ để cho phép con người kiểm soát và tự xây dựng hệ thống của mình, để hiểu phương pháp sáng tạo và phần nào thấu hiểu các sự sống thấp hơn và cuộc tiến hoá thiên thần song hành mà y có thể có liên hệ.

13. In these many pages, DK intends to do the following.

13. Trong nhiều trang này, Chân sư DK dự định làm những điều sau.

a. Give man knowledge so that he can control his system

a. Trao tri thức để con người có thể kiểm soát hệ thống của mình

b. Give man knowledge so that he can build his system

b. Trao tri thức để con người có thể xây dựng hệ thống của mình

c. Give man knowledge so that he can understand the method of creation

c. Trao tri thức để con người có thể hiểu phương pháp sáng tạo

d. Give man knowledge so that he can comprehend somewhat the lesser lives and paralleling deva evolution

d. Trao tri thức để con người có thể phần nào thấu hiểu các sự sống thấp và cuộc tiến hoá thiên thần song hành

14. Obviously, the process will be a long one and many details will not be presented. For all the voluminosity of His writings, DK has presented only the ABC’s of scientific occultism.

14. Rõ ràng tiến trình sẽ còn dài và nhiều chi tiết sẽ không được trình bày. Dẫu trước sự đồ sộ của Trước tác của Ngài, Chân sư DK mới chỉ đưa ra các mẫu tự vỡ lòng của huyền bí học khoa học.

I. THOUGHT FORMS

I. HÌNH TƯ TƯỞNG

1. Their Function.

1. Chức năng của chúng.

It will be noted that in studying this matter we have not started with that which is most apparent, the exoteric form in mental matter, but with the inner life or Idea within the form and with the Laws that govern the creative [552] aspect.

Cần lưu ý rằng khi nghiên cứu vấn đề này chúng ta đã không bắt đầu với điều hiển nhiên nhất, là hình tướng ngoại môn trong chất liệu trí, mà với sinh mệnh bên trong hay Ý Niệm bên trong hình tướng và với các Định luật cai quản phương diện sáng tạo [552] .

15. DK is calling our attention to the fact that His initial approach is not concrete and strictly exoteric

15. Chân sư DK đang kêu gọi chúng ta chú ý rằng cách tiếp cận ban đầu của Ngài không mang tính cụ thể và thuần ngoại môn

16. We begin with:

16. Chúng ta bắt đầu với:

b.  The inner life or idea within the thoughtform

b. Sự sống nội tại hay ý niệm bên trong hình tư tưởng

c.  The Laws that govern the creative aspect

c. Các Định luật cai quản phương diện sáng tạo

17. Increasingly, it will be necessary for us to discriminate between thoughtforms and their impelling, living idea.

17. Càng ngày chúng ta càng cần phân biệt giữa các hình tư tưởng và ý niệm sống động thúc đẩy chúng.

This function of every thought form is threefold:

Chức năng của mọi hình tư tưởng là tam phân:

To respond to vibration

Đáp ứng với rung động

18. This will render the thoughtform a medium of reception.

18. Điều này sẽ khiến hình tư tưởng trở thành một trung thể tiếp thu.

19. The human being, itself, is a thoughtform and responds to a wide range of vibrations.

19. Bản thân con người là một hình tư tưởng và đáp ứng với một dải rộng các rung động.

To provide a body for an idea

Cung cấp một thân thể cho một ý niệm

20. This will make of the thoughtform a medium for the implementation of the creative process and an instrument for communication between the higher and lower planes.

20. Điều này sẽ khiến hình tư tưởng trở thành một trung thể để thực thi tiến trình sáng tạo và một khí cụ truyền thông giữa các cõi cao và thấp.

21. The Divine Purpose is to be embodied; this occurs via thoughtforms.

21. Thiên Cơ cần được hiện thân; điều này diễn ra qua các hình tư tưởng.

To carry out specific purpose.

Thi hành mục đích chuyên biệt.

22. This will render the thoughtform an agent of its creator. Presumably, we are speaking of thoughtforms which have beneficent intent.

22. Điều này sẽ làm cho hình tư tưởng trở thành tác viên của người tạo ra nó. Giả định rằng chúng ta đang nói về những hình tư tưởng có chủ đích lợi ích.

Let us first study the logoic thought form and then turn our attention to the thought forms fabricated by the Thinker from the systemic mental planes and in mental matter.

Trước hết chúng ta hãy nghiên cứu hình tư tưởng logoic rồi chuyển sự chú ý đến các hình tư tưởng do Vị Tư Duy gia tạo tác từ các cõi trí của hệ và trong chất liệu trí.

23. Our method is the occult one, beginning from a large and encompassing perspective and moving to a more confined and specific point of view.

23. Phương pháp của chúng ta là phương pháp huyền bí, khởi đi từ phối cảnh lớn bao trùm và chuyển dần đến điểm nhìn giới hạn và chuyên biệt hơn.

24. The “logoic thoughtform” is fabricated by a Thinker on the cosmic mental plane.

24. “Hình tư tưởng logoic” được Vị Tư Duy gia kiến tạo trên cõi trí vũ trụ .

We have to note that, in the case of the Logos, all upon which we have to base our conclusions are His physical manifestation, and His quality, psychic nature, aroma, emanation or magnetism, as we see it working out through the form. Hence we are very much handicapped.

Chúng ta cần lưu ý rằng, trong trường hợp của Logos, tất cả những gì chúng ta có để làm nền cho các kết luận của mình là Sự biểu lộ hồng trần của Ngài, và phẩm tính, bản tính thông linh, hương khí, phát xạ hay từ tính của Ngài, như chúng ta thấy nó tác động xuyên qua hình tướng. Do đó chúng ta bị hạn chế rất nhiều.

18. We do not come into contact with very much of our Logos’ true nature. We only contact that which is confined to the cosmic physical plane.

18. Chúng ta không tiếp xúc được nhiều với chân tướng đích thực của Logos chúng ta. Chúng ta chỉ tiếp xúc với cái bị giới hạn trong cõi hồng trần vũ trụ.

19. Even His quality is not contacted directly, but only through its physical expression.

19. Ngay cả phẩm tính của Ngài cũng không được tiếp xúc trực tiếp, mà chỉ qua biểu hiện hồng trần của nó.

20. This is even true for those great souls who are known as Chohans.

20. Điều này thậm chí đúng với những linh hồn vĩ đại được gọi là Chohans.

21. DK lists that which we can contact, albeit through the physical-etheric form:

21. Chân sư DK liệt kê điều mà chúng ta có thể tiếp xúc, dẫu thông qua hình tướng hồng trần-dĩ thái:

a.  The quality of the Logos

a. Phẩm tính của Logos

b.  The psychic nature of the Logos

b. Bản tính thông linh của Logos

c.  The aroma of the Logos

c. Hương khí của Logos

d.  The emanation of the Logos

d. Phát xạ của Logos

e.  The magnetism of the Logos

e. Từ tính của Logos

22. Contact, we realize, is made through the five senses and their numerous extensions, which we studied earlier in TCF.

22. Chúng ta nhận ra rằng tiếp xúc được thực hiện qua năm giác quan và vô số phần mở rộng của chúng, điều mà trước đó chúng ta đã nghiên cứu trong TCF.

23. Do we have some idea concerning all of these logoic expressions or only some? Or any?

23. Chúng ta có hiểu đôi điều liên quan đến tất cả những biểu lộ logoic này hay chỉ một vài? Hoặc chẳng điều nào?

24. At least we gather that our Logos is an unfathomably (to us) stupendous Life.

24. Ít nhất chúng ta cũng rút ra rằng Logos của chúng ta là một Sự sống đối với chúng ta là khôn dò khôn lường.

a. Response to Vibration. It is always recognised in occult circles that the whole object of human evolution is to enable the Thinker to respond to every contact fully and consciously, and thus to utilise his material sheath, or sheaths, as adequate transmitter of such contact.

a. Đáp ứng với Rung động. Trong các giới huyền môn luôn thừa nhận rằng toàn bộ mục tiêu của tiến hoá con người là để Vị Tư Duy gia có thể đáp ứng một cách trọn vẹn và ý thức với mọi tiếp xúc, và nhờ đó sử dụng vận cụ chất liệu, hay các vận cụ, như những bộ truyền dẫn đầy đủ của tiếp xúc ấy.

25. There is no occultism without sensitive and accurate response to vibration.

25. Không có huyền bí học nếu không có sự đáp ứng nhạy bén và chính xác đối với rung động.

26. The condition of our sheaths, however, veils many possible contacts. This is all part of the “veiling” process as it is discussed in esoteric astrology.

26. Tình trạng của các vận cụ chúng ta, tuy vậy, che phủ nhiều tiếp xúc khả hữu. Tất cả điều này đều thuộc quá trình “bức màn” như được bàn trong chiêm tinh học nội môn.

27. Contact received is to be appropriately transmitted; this, too, depends upon the condition and conditioning of the sheaths.

27. Tiếp xúc nhận được phải được truyền đạt thích đáng; điều này cũng tùy thuộc tình trạng và sự quy định của các vận cụ.

The most easily studied human thought-form is the one the Ego creates through which to function. He builds his sheaths by the power of thought, and the dense physical body is the best sheath that—at any particular stage of evolution—he can at the time manufacture.

Hình tư tưởng của con người dễ nghiên cứu nhất là hình tư tưởng mà Chân ngã tạo ra để hoạt động. Y xây dựng các vận cụ bằng quyền năng tư tưởng, và thể xác đậm đặc là vận cụ tốt nhất mà—tại bất kỳ giai đoạn tiến hoá nào—vào thời điểm ấy y có thể chế tạo được.

28. We are speaking of the creative process as it concerns the creation of man’s vehicles of expression. The Ego creates them all through the agency of the permanent atoms.

28. Chúng ta đang nói về tiến trình sáng tạo liên quan đến việc tạo ra các hiện thể biểu lộ của con người. Chân ngã tạo ra tất cả chúng thông qua cơ quan của các nguyên tử trường tồn.

29. We may be saying that any creator does as well as he can at any particular point in the evolutionary process to manufacture a physical body which is as responsive as possible.

29. Chúng ta có thể nói rằng bất kỳ đấng kiến tạo nào cũng làm tốt nhất có thể tại điểm tiến hoá nhất định để chế tạo một thể xác đáp ứng tối đa.

30. Obviously, the physical bodies of human beings will show increasing refinement as the soul grows in experience and maturity. The creating Ego is limited in His creation by the vibratory potential that is stored in the permanent atoms and also by the karma which previous personalities have incurred.

30. Rõ ràng, các thể xác của con người sẽ cho thấy sự tinh luyện tăng dần khi linh hồn lớn lên trong kinh nghiệm và thành thục. Chân ngã tạo tác bị giới hạn trong công trình của mình bởi tiềm năng rung động được tích trữ trong các nguyên tử trường tồn và cũng bởi nghiệp quả mà các phàm ngã trước đó đã tạo ra.

The same can be predicated of the solar Logos. He builds by the power of thought a body which can respond to that group of vibrations which are concerned with the cosmic physical plane (the only one we can study). It is not yet adequate, and does not fully express the logoic Thinker.

Điều tương tự có thể được khẳng định về Thái dương Thượng đế. Ngài xây dựng bằng quyền năng tư tưởng một thân thể có thể đáp ứng với nhóm rung động liên quan đến cõi hồng trần vũ trụ (cõi duy nhất chúng ta có thể nghiên cứu). Nó vẫn chưa thích đáng, và chưa biểu lộ đầy đủ Vị Tư Duy gia logoic.

25. Just as the logoic physical body (including the etheric, presumably) is not yet adequate to fully “express the logoic Thinker”, the same can be said of the physical-etheric body manufactured by the human Ego, who is as the Logos to his own microcosmic system.

25. Cũng như thân thể hồng trần của Logos (bao gồm cả dĩ thái, theo lẽ) vẫn chưa đủ để “biểu lộ Vị Tư Duy gia logoic” trọn vẹn, điều tương tự có thể nói về thể hồng trần-dĩ thái do Chân ngã con người tạo ra, Đấng đối với hệ thống vi mô của mình như Logos đối với hệ thống vĩ mô.

26. We might say (for both the macrocosm and microcosm) that the physical-etheric body built is inadequate in both response and expression.

26. Chúng ta có thể nói (cho cả đại thiên địa và tiểu thiên địa) rằng thể hồng trần-dĩ thái được xây dựng hiện thời chưa thích đáng cả về đáp ứng lẫn biểu lộ .

27. If the physical-etheric is, thus far, the best sheath that the Thinker can create, and it is inadequate to express the intention of the Thinker, this must be even more the case for the astral and lower mental vehicles.

27. Nếu thể hồng trần-dĩ thái cho đến nay là vận cụ tốt nhất mà Vị Tư Duy gia có thể tạo ra, và nó chưa đủ để biểu đạt ý định của Vị Tư Duy gia, thì điều này lại càng đúng hơn với các hiện thể cảm dục và hạ trí.

The vibrations to which the systemic thought-form must respond are many in number, but for our purposes might be enumerated as mainly seven:

Các rung động mà hình tư tưởng hệ thống phải đáp ứng thì nhiều vô kể, nhưng cho mục đích của chúng ta có thể liệt kê chủ yếu là bảy:

31. Master DK knows much more than He has time to express, nor would a complete compendium of all He knows serve His limited educational objectives. A Master, though above time/space in his consciousness, is still subject to time and space when attempting to do His part in manifesting the Divine Plan.

31. Chân sư DK biết nhiều hơn mức Ngài có thời gian để trình bày, và một bộ toàn thư về tất cả những gì Ngài biết cũng không phục vụ được các mục tiêu giáo dục hữu hạn của Ngài. Một Chân sư, tuy vượt trên thời-không trong tâm thức, vẫn còn bị lệ thuộc thời gian và không gian khi cố gắng làm phần việc của Ngài trong việc hiện thực Thiên Cơ.

1. The vibrations of the cosmic physical plane, viewing it as all the matter of that plane which exists [553] outside the logoic ring-pass-not. It concerns the pranic and akashic fluids and currents.

1. Các rung động của cõi hồng trần vũ trụ, xem đó là toàn bộ chất liệu của cõi ấy vốn tồn tại [ 553] bên ngoài vòng-giới-hạn logoic . Nó liên quan đến các lưu chất và các dòng lưu chuyển prana và akasha.

28. The physical-etheric ring-pass-not of the Solar Logos exists within the vast cosmic etheric-physical plane. These influences (pranic and akashic) flow throughout the cosmic etheric-physical plane (i.e., simply, the cosmic physical plane) and encounter that portion of the cosmic physical plane which has been appropriated by the Solar Logos as His etheric-physical vehicle.

28. Vòng-giới-hạn hồng trần-dĩ thái của Thái dương Thượng đế tồn tại trong cõi hồng trần vũ trụ mênh mông. Những ảnh hưởng (prana và akasha) này lưu chảy xuyên suốt cõi hồng trần-dĩ thái vũ trụ (tức đơn giản là cõi hồng trần vũ trụ) và gặp phần cõi hồng trần vũ trụ đã được Thái dương Thượng đế đoạt thọ làm vận cụ hồng trần-dĩ thái của Ngài.

29. Obviously our relatively tiny Logos does not respond to all vibrations transmitted through the universal cosmic etheric planes. Limitations apply.

29. Rõ ràng Logos nhỏ bé tương đối của chúng ta không đáp ứng với tất cả các rung động được truyền tải qua các cõi dĩ thái vũ trụ phổ quát . Các giới hạn là có thật.

30. This type of vibration is strictly cosmic etheric? As well as a type of vibration is it also an order or vibration?

30. Loại rung động này nghiêm ngặt là dĩ thái vũ trụ? Ngoài là một loại rung động, nó cũng là một bậc rung động chăng?

2. The vibrations of the cosmic astral plane as they affect the physical form of divine manifestation. This involves cosmically the action upon our solar Logos of the emotional quality of other cosmic entities, and concerns the magnetic effect upon Him of their psychic emanation. This, in view of the fact that His dense physical body is not a principle, is of a more potent nature than the first set of vibrations, as is the case also in man’s evolution.

2. Các rung động của cõi cảm dục vũ trụ khi chúng ảnh hưởng đến hình tướng hồng trần của sự biểu lộ thiêng liêng. Điều này hàm ý, trên bình diện vũ trụ, tác động lên Thái dương Thượng đế của chúng ta của phẩm tính cảm xúc của các thực thể vũ trụ khác, và liên quan đến hiệu ứng từ tính lên Ngài của phát xạ thông linh của họ. Điều này, xét đến thực tế là thể xác đậm đặc của Ngài không phải là một nguyên khí, có bản chất mạnh hơn tập hợp rung động thứ nhất, như cũng là trường hợp trong tiến hoá của con người.

31. Here we are discussing cosmic astral vibrations. Not only does the Logos respond to the energies and forces of His own astral body, but to the “emotional quality of other cosmic entities”. He is magnetically and psychically affected by other great Beings, just as man is affected by the emotional quality, magnetism and psychic emanation of others of his kind—i.e., other human individuals.

31. Ở đây chúng ta đang bàn các rung động cảm dục vũ trụ. Không chỉ Logos đáp ứng với các năng lượng và mãnh lực của chính thể cảm dục của Ngài, mà còn với “phẩm tính cảm xúc của các thực thể vũ trụ khác”. Ngài bị ảnh hưởng một cách từ tính và thông linh bởi các Đấng vĩ đại khác, như con người bị ảnh hưởng bởi phẩm tính cảm xúc, từ tính và phát xạ thông linh của những đồng loại—tức các cá nhân nhân loại khác.

32. We live in an astral-buddhic solar system. Our Solar Logos is largely astrally polarized (we are told) hence the importance of this kind of cosmic influence.

32. Chúng ta sống trong một Thái dương hệ cảm dục-Bồ đề. Thái dương Thượng đế của chúng ta phần lớn phân cực cảm dục (chúng ta được cho biết) nên tầm quan trọng của kiểu ảnh hưởng vũ trụ này là điều dễ hiểu.

33. Man, too, is largely astrally polarized (even though he represents the throat center of Sanat Kumara), and so the emotional impacts from other human beings are more important than the strictly physical impacts.

33. Con người cũng phần lớn phân cực cảm dục (dù y là trung tâm cổ họng của Sanat Kumara), do vậy các tác động cảm xúc từ những con người khác quan trọng hơn các tác động thuần hồng trần.

34. Some of the cosmic entities which most affect our Solar Logos (whether etherically or emotionally) are the six other major members of the Seven Solar Systems of Which Ours is One, and also the quality of the twelve zodiacal constellations. All these interchanges are occurring within the energy system of the Great Being known as the One About Whom Naught May Be Said.

34. Một số thực thể vũ trụ tác động mạnh nhất lên Thái dương Thượng đế của chúng ta (dù dĩ thái hay cảm dục) là sáu thành viên lớn khác của Bảy Thái dương Hệ mà Hệ của Chúng ta là Một, và cũng là phẩm tính của mười hai chòm sao hoàng đạo. Tất cả những trao đổi này đang diễn ra trong hệ năng lượng của Đấng Vĩ Đại được biết là Đấng Bất Khả Tư Nghị.

35. This second type of vibration to which the Solar Logos responds has its origin on the cosmic astral plane? Is this second type also a second order of vibration, indicating that the orders of vibration to which the Solar Logos responds relate to a pattern of ascent from one cosmic plane to the next?

35. Loại rung động thứ hai mà Thái dương Thượng đế đáp ứng có nguồn trên cõi cảm dục vũ trụ? Liệu loại thứ hai này cũng là một bậc rung động thứ hai, cho thấy các bậc rung động mà Thái dương Thượng đế đáp ứng liên hệ với một mô thức thăng dần từ cõi vũ trụ này lên cõi khác?

3. Vibrations from that which, within the logoic conscious­ness, is recognised as the logoic Higher Self, or His emanating source. This brings the solar system within the vibratory radius of certain constellations which have a position of profound importance in the general evolution of the system.

3. Các rung động từ cái, vốn trong tâm thức logoic, được nhận biết là Chân ngã Cao của Logos, hay nguồn xuất lộ của Ngài. Điều này đưa Thái dương hệ vào bán kính rung động của những chòm sao nhất định vốn có vị trí cực kỳ quan trọng trong tiến hoá tổng quát của hệ.

36. Here we speak of the “logoic Higher Self”, focussed, presumably, on the first level of the cosmic higher mental plane. This would be the Egoic Lotus or causal body of the Solar Logos.

36. Ở đây chúng ta nói về “Chân ngã Cao của Logos”, có điểm tập trung, theo lẽ, trên cõi thượng trí vũ trụ. Đó sẽ là Hoa Sen Chân Ngã hay thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế.

37. This vibration may also involve Solar Angels of a cosmic order just as the vibrations of the Higher Self of man involves the influence of the Solar Angel Who is training that man.

37. Rung động này cũng có thể liên hệ đến các Thái dương Thiên Thần thuộc cấp vũ trụ như cách các rung động của Chân ngã con người liên hệ đến ảnh hưởng của Thái dương Thiên Thần Đấng đang huấn luyện người ấy.

38. Interestingly, in this tabulations of influences to which a Solar Logos must respond, the influence of the lower sub-planes of the cosmic mental plane is not mentioned.

38. Thú vị rằng, trong bảng liệt kê ảnh hưởng mà một Thái dương Thượng đế phải đáp ứng, ảnh hưởng của các cõi phụ thấp của cõi trí vũ trụ không được nhắc đến.

39. DK speaks of the influence of “certain constellations” which are profoundly important to the general evolution of the system (presumably our system). This influence may be mentioned in a section discussing the solar logoic causal body because the influences are mediated via that causal body.

39. Chân sư DK nói về ảnh hưởng của “những chòm sao nhất định” có tầm quan trọng sâu xa với tiến hoá tổng thể của hệ (hàm chỉ hệ của chúng ta). Ảnh hưởng này có thể được nhắc đến trong phần bàn về thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế bởi vì các ảnh hưởng được truyền qua thể nguyên nhân ấy.

40. There are three great constellations about which we read in Esoteric Astrology. Certainly the Great Bear, the Pleiades, Sirius, Capricorn, Draco, etc., have a profound influence on the evolution of our Solar Logos and His solar system.

40. Có ba chòm sao vĩ đại mà chúng ta đọc trong Chiêm Tinh Học Nội Môn. Chắc chắn Đại Hùng, Pleiades, Sirius, Ma Kết, Draco, v.v., có ảnh hưởng sâu xa lên tiến hoá của Thái dương Thượng đế chúng ta và Thái dương hệ của Ngài.

41. We have read in Esoteric Astrology that the soul nature of man is very receptive to the twelve zodiacal constellations as is his monadic nature. No doubt there are parallels when dealing with the causal body of the Solar Logos.

41. Chúng ta đã đọc trong Chiêm Tinh Học Nội Môn rằng bản tính linh hồn của con người rất cảm thụ với mười hai chòm sao hoàng đạo, cũng như bản tính chân thần của y. Chắc chắn có những tương đồng khi bàn về thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế.

42. There are certain systemic influences which influence the causal body of man (affecting primarily the man’s soul nature) and are meditated to his physical body through the general causal influence.

42. Có những ảnh hưởng hệ thống nhất định tác động lên thể nguyên nhân của con người (ảnh hưởng chủ yếu lên bản tính linh hồn của người ấy) và được truyền xuống thể xác thông qua ảnh hưởng tổng quát của thể nguyên nhân.

43. This third type of vibration to which the Solar Logos responds relates to the cosmic mental plane, for that is where the logoic Higher Self is located.

43. Loại rung động thứ ba mà Thái dương Thượng đế đáp ứng liên hệ đến cõi trí vũ trụ, vì đó là nơi Chân ngã Cao của Logos an trụ.

44. So far, in discussing types of vibrations to which the Solar Logos responds in His etheric body, we have been ascending through the cosmic planes.

44. Cho đến nay, khi bàn về các loại rung động mà Thái dương Thượng đế đáp ứng trong thể dĩ thái của Ngài, chúng ta đã đang thăng dần qua các cõi vũ trụ.

4. Vibrations from Sirius via the cosmic mental plane.

4. Các rung động từ Sirius qua cõi trí vũ trụ.

45. The Sirian vibration is largely cosmic mental. The causal body of the Solar Logos is focussed on the cosmic mental plane.

45. Rung động Sirian phần lớn là trí vũ trụ. Thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế đặt trọng tâm trên cõi trí vũ trụ.

46. DK seems to be saying that the Sirian influence reaches our solar system (the etheric-physical body of our Solar Logos) via the Egoic Lotus of the Solar Logos on the cosmic mental plane.

46. Chân sư DK dường như nói rằng ảnh hưởng Sirian đi vào Thái dương hệ của chúng ta (thể hồng trần-dĩ thái của Thái dương Thượng đế) qua Hoa Sen Chân Ngã của Thái dương Thượng đế trên cõi trí vũ trụ.

47. The cosmic astral of the Sirian Logos cannot be overlooked.

47. Cõi cảm dục vũ trụ của Logos Sirian không thể bị bỏ qua.

48. This is the fourth type of vibration to which our Logos responds, but our ascent through the cosmic planes has stopped. The third type of vibration also related to the cosmic mental plane. If this fourth type of vibration is the same as a fourth order of vibration, then the third type/order and the fourth/type order both relate to the same cosmic plane.

48. Đây là loại rung động thứ tư mà Logos chúng ta đáp ứng, nhưng đà thăng qua các cõi vũ trụ đã dừng. Loại rung động thứ ba cũng liên hệ đến cõi trí vũ trụ. Nếu loại rung động thứ tư là cùng một bậc rung động thứ tư, thì loại/bậc thứ ba và thứ tư đều liên hệ cùng một cõi vũ trụ.

5. Vibrations from the seven Rishis of the Great Bear, and primarily from those two Who are the Prototypes of the Lords of the seventh and fifth Rays. This is a most important point, and finds its microcosmic correspon­dence in the place which the seventh Ray has in the building of a thoughtform, and the use of the fifth Ray in the work of concretion.

5. Các rung động từ bảy Rishi của chòm Gấu Lớn, và chủ yếu từ hai Vị vốn là Nguyên mẫu của các Đấng Chúa Tể Cung bảy và Cung năm. Đây là một điểm tối quan trọng, và tìm thấy tương ứng vi mô của nó ở vị trí mà Cung bảy có trong việc xây dựng một hình tư tưởng, và việc sử dụng Cung năm trong công trình cụ thể hoá.

32. It would seem that all the energies of the Seven Rishis reach our Solar Logos, but the ones which have the most important influence on His etheric-physical vehicle are the energies of the fifth and seventh rays because these rays are most in line with the ethero-physicality of our Solar Logos.

32. Có vẻ như mọi năng lượng của Bảy Rishi đều đến với Thái dương Thượng đế của chúng ta, nhưng những năng lượng có ảnh hưởng quan trọng nhất lên vận cụ hồng trần-dĩ thái của Ngài là năng lượng của cung năm và cung bảy vì các cung này hoà điệu nhất với tính dĩ thái-hồng trần của Thái dương Thượng đế chúng ta.

33. The seventh ray is the most etheric and physical of the seven and is also the “builder”—in this case the builder of the logoic thoughtform we call the solar system. The fifth ray deals with that factor of organization which produces the relationship we call “concretion”.

33. Cung bảy là cung dĩ thái và hồng trần nhất trong bảy cung và cũng là “nhà kiến tạo”—trong trường hợp này là nhà kiến tạo hình tư tưởng logoic mà chúng ta gọi là Thái dương hệ. Cung năm xử lý yếu tố tổ chức tạo ra mối liên hệ mà chúng ta gọi là “cụ thể hoá”.

34. We have been alerted to the fact that the fifth and seventh rays often work closely with each other as do the representatives of these rays.

34. Chúng ta đã được lưu ý rằng cung năm và cung bảy thường làm việc gần nhau như các vị đại diện của các cung này.

35. When we speak of the fifth and seventh rays we immediately think of the planet Uranus and its influence. We also think of Masters R. and H. and Their etheric-physical skill and effectiveness.

35. Khi chúng ta nói đến cung năm và cung bảy, lập tức nghĩ đến hành tinh Uranus và ảnh hưởng của nó. Chúng ta cũng nghĩ đến các Chân sư R. và H. cùng kỹ năng và hiệu quả hồng trần-dĩ thái của Các Ngài.

36. All the extra-systemic influences tabulated above, whether specifically etheric or originating on higher planes, eventually reach the etheric level on which our Solar Logos functions.

36. Mọi ảnh hưởng ngoài-hệ được liệt kê ở trên, dù cụ thể là dĩ thái hay khởi nguyên ở các cõi cao hơn, rốt cuộc đều đến được cõi dĩ thái nơi Thái dương Thượng đế của chúng ta hoạt động.

37. This fifth type of vibration may relate to the cosmic buddhic plane. In Chart V we notice that the Seven Rishis are portrayed upon the cosmic buddhic plane. However, there is reason to believe that they really belong on the cosmic atmic plane, in which case the fifth type of vibration would correspond to a fifth order or vibration.

37. Loại rung động thứ năm này có thể liên hệ đến cõi Bồ đề vũ trụ. Trong Biểu đồ V chúng ta thấy Bảy Rishi được mô tả trên cõi Bồ đề vũ trụ. Tuy nhiên, có lý do để tin rằng các Ngài thực sự thuộc về cõi atma vũ trụ, trong trường hợp đó loại rung động thứ năm sẽ tương ứng với một bậc rung động thứ năm.

38. We are looking to see whether there is a correspondence between: the seven types of vibrations here listed; seven orders of vibration; and seven cosmic planes. We shall not find such an easy fit.

38. Chúng ta đang tìm xem liệu có một tương ứng giữa: bảy loại rung động được liệt kê; bảy bậc rung động; và bảy cõi vũ trụ. Chúng ta sẽ không tìm thấy một sự khớp nối dễ dàng như vậy.

All magicians who work with matter and who are occupied with form-building (either consciously or unconsciously) call in these two types of force or energy.

Mọi nhà huyền thuật làm việc với chất liệu và bận tâm với kiến tạo hình tướng (hoặc có ý thức hoặc vô thức) đều triệu thỉnh hai loại mãnh lực hay năng lượng này.

49. DK is telling us something important about energies which, in the future, will be necessary to engage in magical processes and produce magical results.

49. Chân sư DK đang bảo chúng ta điều gì đó quan trọng về những năng lượng mà trong tương lai, sẽ cần được huy động trong các tiến trình huyền thuật để tạo ra các kết quả huyền thuật.

50. Magicians call in the energies and forces of the fifth and seventh rays.

50. Các nhà huyền thuật triệu thỉnh năng lượng và mãnh lực của cung năm và cung bảy.

6. Certain very remote vibrations, as yet no more ap­pre­ciable in the logoic Body than is monadic influence in that of average man, from the ONE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID, that cosmic [554] Existence Who is expressing Himself through seven centres of force, of which our solar system is one.

6. Những rung động rất xa xôi, hiện nay không dễ cảm nhận hơn trong Thể logoic so với ảnh hưởng chân thần trong thể của con người trung bình, từ ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ, Vị Hiện thể vũ trụ đang biểu lộ chính Ngài qua bảy trung tâm năng lực, trong đó Thái dương hệ của chúng ta là một.

51. We are given some scale for greater understanding. The One About Whom Naught May Be Said is as remote from the consciousness of the Solar Logos as the Monad is from the consciousness of man. This, at least, gives a sense of proportion.

51. Chúng ta được cho một thước tỷ xứng để hiểu rộng hơn. Đấng Bất Khả Tư Nghị xa xôi đối với tâm thức của Thái dương Thượng đế như Chân thần đối với tâm thức của con người. Ít nhất điều này cho một ý thức về tỉ lệ.

52. We gather from this that no human being (no matter how exalted his consciousness relatively) will be registering impressions from this Super-Constellational Logos.

52. Từ đây chúng ta hiểu rằng không một con người nào (dù tâm thức của y siêu việt đến đâu theo tương đối) sẽ ghi nhận các ấn tượng từ vị Logos Siêu-đại này.

53. We have to question, however, what type of One About Whom Naught May Be Said is meant? There is a kind of One About Whom Naught May Be Said Who has solar systems for chakras. There is another and greater kind of One About Whom Naught May Be Said (the One, I think, most often referenced) Who has constellations for chakras.

53. Tuy nhiên, chúng ta phải tự vấn, đang nói đến kiểu Đấng Bất Khả Tư Nghị nào? Có một dạng Đấng Bất Khả Tư Nghị có các Thái dương hệ là các luân xa của Ngài. Lại có một dạng khác và vĩ đại hơn (theo tôi, dạng hay được ám chỉ hơn) có các chòm sao là các luân xa.

54. We may remember that the term “solar system” can be a generic blind. It can refer simply to a normal solar system (which has one or two suns at its center—for most systems are actually binaries), OR it can refer to a system of stars—i.e., to a constellation. If the latter reference is meant, the “our solar system” is really the system of a Cosmic Logos (a great Being for Whom suns are chakras).

54. Chúng ta có thể nhớ rằng thuật ngữ “Thái dương hệ” có thể là một sự che giấu quy ước . Nó có thể chỉ một Thái dương hệ thông thường (có một hay hai Thái dương ở trung tâm—vì phần lớn các hệ thực ra là hệ đôi), HOẶC có thể chỉ một hệ sao —tức một chòm sao. Nếu hiểu theo nghĩa sau, thì “Thái dương hệ của chúng ta” thực ra là hệ của một Thiên Thần Vũ trụ (một Đấng Vĩ đại mà các Thái dương là các luân xa).

55. Whichever One About Whom Naught May Be Said is meant, we can understand that it is remote from the consciousness of our Solar Logos and incredibly remote from the consciousness of man.

55. Dù đang nói đến dạng nào của Đấng Bất Khả Tư Nghị, chúng ta có thể hiểu rằng đó là điều xa xôi đối với tâm thức của Thái dương Thượng đế chúng ta và vô cùng xa xôi đối với tâm thức của con người.

56. Continuing our search for the possible correlation between types of vibration, orders of vibration and cosmic planes correlated to the number of these types and orders, it is interesting to note that (one Chart V, TCF 344) that which we call a One About Whom Naught May Be Said, is hypothetically ‘located’ on the sixth cosmic plane—the cosmic monadic plane—so this category of vibration does, indeed, correlate with ascent through the cosmic planes.

56. Tiếp tục tìm kiếm tương quan khả hữu giữa các loại rung động, các bậc rung động và các cõi vũ trụ gắn với số lượng các loại và bậc này, điều thú vị là (trên Biểu đồ V, TCF 344) cái mà chúng ta gọi là Đấng Bất Khả Tư Nghị giả-thuyết ‘định vị’ trên cõi chân thần vũ trụ—cõi vũ trụ thứ sáu—vậy nên hạng mục rung động này quả thật có tương ứng với sự thăng qua các cõi vũ trụ.

57. After this, however, the correlation breaks down when considering the seventh type of vibration to which the Solar Logos responds in His etheric body.

57. Sau đó, tuy vậy, sự tương ứng bị phá vỡ khi xét đến loại rung động thứ bảy mà Thái dương Thượng đế đáp ứng trong thể dĩ thái của Ngài.

7. A series of vibrations which will become more potent as our Logos nears that period which is occultly called “Divine Maturity,” which emanate from that constellation in the Heavens which embodies His polar opposite. This is a deep mystery and concerns the cosmic marriage of the Logos.

7. Một loạt rung động sẽ trở nên mạnh mẽ hơn khi Logos của chúng ta đến gần giai đoạn được gọi một cách huyền bí là “Trưởng thành Thiêng liêng,” vốn phát xuất từ chòm sao trên Trời là đối cực của Ngài. Đây là một huyền nhiệm thâm sâu và liên quan đến “cuộc hôn phối vũ trụ” của Logos.

58. We are considering the solar system as a logoic thoughtform and we are considering the receptive capacity of that thoughtform.

58. Chúng ta đang xét Thái dương hệ như một hình tư tưởng logoic và đang xét năng lực cảm thụ của hình tư tưởng ấy.

59. The term “constellation” can also be blinded. It may not mean a group of stars, but is sometimes used to indicate only that which we call a solar system.

59. Thuật ngữ “chòm sao” cũng có thể là từ bị che. Nó không nhất thiết chỉ một nhóm sao, đôi khi dùng để chỉ điều mà chúng ta gọi là một Thái dương hệ.

60. We can imagine that the polar opposite of our Logos is also a Solar Logos. Is it the Logos of Sirius? Is the Logos of a star still closer than Sirius—namely Alpha Centauri?

60. Chúng ta có thể hình dung rằng đối cực của Logos chúng ta cũng là một Thái dương Thượng đế. Liệu đó có phải là Logos của Sirius? Hay là Logos của một sao còn gần hơn Sirius—tức Alpha Centauri?

61. It is that the there a “constellation in the Heavens which embodies His polar opposite”. Does this mean that that constellation contains the Solar Logos Who is His polar opposite, or that the entire constellation is the embodiment of the Logos Who is the polar opposite of our Logos? Perhaps the latter. But it is not reasonably conceivable that an entire constellation should be the polar opposite of a single star. So we have an issue of proportion. If we wish to evade the difficulty, we must imagine that the word “constellation” is used in a blinded manner and indicates a solar system rather than a constellation of stars.

61. Nói rằng có “một chòm sao trên Trời thể hiện đối cực của Ngài”. Điều này có nghĩa chòm sao đó bao hàm Thái dương Thượng đế đối cực với Ngài, hay toàn bộ chòm sao là hiện thân của Thái dương Thượng đế đối cực với Logos của chúng ta? Có lẽ là nghĩa sau. Nhưng khó mà hợp lý rằng toàn bộ một chòm sao lại là đối cực của một đơn nhất mặt trời. Nên chúng ta gặp một vấn đề về tỉ lệ. Nếu muốn tránh khó khăn, ta phải giả như từ “chòm sao” được dùng theo lối che và thực ra chỉ một Thái dương hệ hơn là một chòm sao.

62. Sometime the star Sirius (because it has a companion star and also, probably, a dark star called Sirius “C”) may be called a constellation. But influences from Sirius have already been mentioned in this listing, so why mention them again?

62. Đôi khi sao Sirius (vì có một sao đồng hành và có lẽ còn một sao tối gọi là Sirius “C”) có thể được gọi là một chòm sao nhỏ. Nhưng ảnh hưởng từ Sirius đã được nêu trước trong danh sách này, vậy tại sao nhắc lại?

63. If our solar system is as a heart center, what is the polar opposite of a heart center? Is it a solar plexus center, in which case we might have to consider a star such as Fomalhaut (which some have assigned to the solar plexus center of the Seven Solar Systems of Which Ours is One).

63. Nếu Thái dương hệ của chúng ta như một trung tâm tim, thì đối cực của một trung tâm tim là gì? Có phải là một trung tâm tùng thái dương, trong trường hợp đó ta có thể cân nhắc một ngôi sao như Fomalhaut (mà có người gán cho trung tâm tùng thái dương của Bảy Thái dương Hệ mà Hệ của Chúng ta là Một).

64. Or is the opposite of the heart center the head center, in which case Sirius might be suitable.

64. Hoặc đối cực của trung tâm tim là trung tâm đầu , trong trường hợp đó Sirius có thể phù hợp.

65. Or if Sirius is not the head center of the seven systems, might the star Vega be? We are told that our solar system is moving in the direction of Vega.

65. Hoặc nếu Sirius không phải là trung tâm đầu của bảy hệ, liệu sao Vega có thể là? Chúng ta được cho biết Thái dương hệ của chúng ta đang di chuyển theo hướng Vega.

66. It would seem that a star which was a solar plexus center or a head center would be most suitable for a “marriage” with out Solar Logos, but there can be no certainty about how to assign relatively local stars to the chakric system of the Logos of the Seven Solar Systems.

66. Có vẻ một ngôi sao vốn là trung tâm tùng thái dương hoặc trung tâm đầu sẽ thích hợp nhất cho “cuộc hôn phối” với Thái dương Thượng đế của chúng ta, nhưng không thể chắc chắn trong việc gán các sao địa phương tương đối cho hệ luân xa của Logos của Bảy Thái dương Hệ.

67. We can see why the Tibetan said this is a very deep mystery.

67. Chúng ta có thể thấy vì sao Chân sư Tây Tạng nói đây là một huyền nhiệm rất sâu.

It will be apparent, therefore, how little can as yet be predi­cated anent the future of the solar system until the vibrations of the sixth and seventh order become more powerful, and their effects can consequently be studied more easily.

Do đó sẽ hiển nhiên thấy rằng ít điều có thể, vào lúc này, được khẳng định về tương lai của Thái dương hệ cho đến khi các rung động bậc sáu và bảy trở nên mạnh mẽ hơn, và do vậy các hiệu ứng của chúng có thể được nghiên cứu dễ dàng hơn.

68. We are told that vibrations of the sixth and seventh order have to become more powerful, but more powerful for whom? For man? So that he can fathom these great mysteries?

68. Chúng ta được cho biết rằng các rung động bậc sáu và bảy phải trở nên mạnh hơn, nhưng mạnh hơn đối với ai ? Đối với con người? Hầu cho y có thể thấu triệt những huyền nhiệm lớn lao này?

69. Vibrations of the sixth and seventh order may refer to solar logoic spirillae and, thus, indicate the vibrations of the monadic and logoic planes—the sixth and seventh systemic planes, respectively.

69. Các rung động bậc sáu và bảy có thể liên hệ đến các tiểu tuyến logoic và, như thế, chỉ đến các rung động của các cõi chân thần và logoic—các cõi hệ thứ sáu và thứ bảy, tương ứng.

70. If the fourth or fifth cosmic initiations are taken by our Solar Logos in this our major second (or fifth) solar system, then the next solar system will concern the solar logoic Monad and will naturally involve the sixth and seventh planes—the plane which is presently the plane of the Monad and the plane which may be home to the ‘disembodied Monad’—the ‘liberated’ Monad.

70. Nếu các lần điểm đạo vũ trụ thứ tư hoặc thứ năm được Thái dương Thượng đế của chúng ta trải qua trong hệ mặt trời chính thứ hai (hay thứ năm) này của chúng ta, thì hệ mặt trời kế tiếp sẽ liên quan đến Chân Thần của Thái dương Thượng đế và tự nhiên sẽ bao gồm cõi thứ sáu và thứ bảy—cõi hiện nay là cõi của Chân thần và cõi có thể là ‘ngôi nhà’ của ‘Chân thần vô thân’—Chân thần ‘được giải thoát’.

71. If we wish to expand the vision, we could say that vibrations of the sixth and seventh order pertain to the cosmic monadic plane and the cosmic logoic, and would be reflected in the physical vehicle of the Solar Logos through the sixth and seventh systemic planes.

71. Nếu chúng ta muốn mở rộng tầm nhìn, chúng ta có thể nói rằng các rung động bậc sáu và bảy thuộc về cõi chân thần vũ trụ và cõi logoic vũ trụ , và sẽ được phản chiếu trong vận cụ hồng trần của Thái dương Thượng đế qua cõi hệ thống thứ sáu và thứ bảy.

72. Our Solar Logos is a Logos of the “fourth order”, so could the Tibetan be speaking of the reception of vibrations from stars of the sixth and seventh order which are related to our Logos?

72. Thái dương Thượng đế của chúng ta là một Thượng đế thuộc “thứ bậc thứ tư”, vậy có thể chăng Chân sư Tây Tạng đang nói về sự tiếp nhận các rung động từ những vì sao thuộc bậc sáu và bảy có liên hệ với Thượng đế của chúng ta?

73. However, the term “order” seems to be used differently in this context than when describing the status of our Logos.

73. Tuy nhiên, thuật ngữ “thứ bậc” dường như được dùng khác trong ngữ cảnh này so với khi mô tả địa vị của Thượng đế của chúng ta.

74. In this context, types of vibrations seem to be orders of vibrations.

74. Trong ngữ cảnh này, các loại rung động dường như là các thứ bậc của rung động.

It is not possible here to do more than indicate the seven types of vibrations to which our solar Logos (functioning in a material body) will in due course of time consciously, and fully, respond. He responds to vibrations of the first, second, third and fourth order quite fully at this time,

Ở đây không thể làm gì hơn ngoài việc chỉ nêu bảy loại rung động mà Thái dương Thượng đế của chúng ta (đang hoạt động trong một thể vật chất) rồi sẽ, theo thời gian, đáp ứng một cách có ý thức và trọn vẹn. Hiện tại Ngài đáp ứng khá trọn vẹn với các rung động thuộc thứ bậc thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư,

75. This response pattern probably indicates the development of His spirillae. That He is an astral-buddhic Logos probably has something to do with the fact that he responds to four orders of vibration.

75. Kiểu mẫu đáp ứng này có lẽ chỉ ra sự phát triển các tiểu luân của Ngài. Rằng Ngài là một Thượng đế cảm dục–Bồ đề hẳn có liên quan đến sự kiện là Ngài đáp ứng với bốn thứ bậc rung động.

76. From a larger perspective, responses of the first, second, third and fourth orders would include cosmic buddhic responses.

76. Từ một viễn cảnh rộng hơn, các đáp ứng thuộc thứ bậc thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư sẽ bao gồm những đáp ứng Bồ đề vũ trụ.

77. Is it then possible that the seven types of vibrations to which our Solar Logos is either now responding or to which He will respond are, in fact, orders of vibrations. A close study of the seven sources indicates that something of this nature may be operative, but there is an unevenness in the tabulation which seems to cause problems with this interpretation. For instance, the sixth type of vibration to which He responds is the incredibly elevated vibration of the One About Whom Naught May Be Said. The seventh type, however, is merely the vibration of His polar opposite.

77. Vậy có thể chăng bảy loại rung động mà Thái dương Thượng đế của chúng ta hoặc hiện đang đáp ứng, hoặc sẽ đáp ứng, thực chất là các thứ bậc của rung động? Nghiên cứu kỹ bảy nguồn chỉ ra rằng điều gì đó theo chiều hướng này có thể đang vận hành, song có một sự không đồng đều trong bảng liệt kê dường như gây vấn đề cho cách diễn giải này. Chẳng hạn, loại rung động thứ sáu mà Ngài đáp ứng là rung động vô cùng cao siêu của Đấng Bất Khả Tư Nghị. Tuy nhiên, loại thứ bảy chỉ là rung động của Cực Đối Nghịch của Ngài.

but as yet (though responding) cannot fully, and consciously, utilise these types of energy.

nhưng cho đến nay (dẫu có đáp ứng) vẫn chưa thể vận dụng một cách trọn vẹn và có ý thức các loại năng lượng này.

78. Response is not the same as utilization. If the orders simply related to the first four systemic planes, a very limited range of energies would be indicated and there would be no reason why the Solar Logos could not “utilise these types of energy”.

78. Đáp ứng không đồng nghĩa với vận dụng. Nếu các thứ bậc chỉ liên hệ đến bốn cõi hệ thống đầu tiên, thì chỉ một dải năng lượng rất hạn hẹp sẽ được hàm ý và sẽ chẳng có lý do gì khiến Thái dương Thượng đế không thể “vận dụng các loại năng lượng này”.

79. So perhaps, it is best to think of the term “orders” as related to the vibrations of the various cosmic planes.

79. Vì vậy, có lẽ tốt nhất là hiểu thuật ngữ “thứ bậc” như gắn với các rung động của các cõi vũ trụ khác nhau.

80. There might be other ways to count cosmic “orders” other than one order per cosmic plane. Perhaps the orders relate to cosmic principles, and therefore the first four orders might only concern the personality levels of Beings who express upon the cosmic planes.

80. Có thể có những cách khác để đếm các “thứ bậc” vũ trụ ngoài lối gán một thứ bậc cho mỗi cõi vũ trụ. Có lẽ các thứ bậc liên hệ đến các nguyên khí vũ trụ , và do đó bốn thứ bậc đầu có thể chỉ liên quan đến các cấp độ phàm ngã của những Đấng biểu lộ trên các cõi vũ trụ.

81. We have explored the matter from several perspectives.

81. Chúng ta đã khảo sát vấn đề này từ vài viễn cảnh.

The vibration of the fifth order is recognised by Him, particularly in three of His centres, but is not as yet fully under His control.

Rung động thuộc thứ bậc thứ năm được Ngài nhận biết, đặc biệt trong ba trung tâm của Ngài, nhưng hiện vẫn chưa hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Ngài.

82. It may be that the Logos of Sirius is of the fifth order, counting from below, because Sirius, we are often told, is focussed on the cosmic mental plane. Also Sirius is involved with the wielding of the cosmic fifth principle.

82. Có thể rằng Thượng đế của Sirius thuộc thứ bậc thứ năm, nếu đếm từ dưới lên, bởi Sirius, như chúng ta thường được nói, tập trung trên cõi trí vũ trụ. Hơn nữa, Sirius liên quan đến việc vận dụng nguyên khí vũ trụ thứ năm.

83. We might question which three of His “centres” or planetary schemes respond to vibrations of the fifth order. Would it be the three synthesizing schemes? Or would a planet such as Venus which has so much of the fifth principle involve in its expression, be a likely candidate? If so, perhaps, Mercury would also be involved.

83. Chúng ta có thể đặt câu hỏi ba “trung tâm” hay các hệ hành tinh nào của Ngài đáp ứng với các rung động thuộc thứ bậc thứ năm. Liệu đó có phải là ba hệ thống tổng hợp? Hay một hành tinh như Sao Kim, vốn có rất nhiều nguyên khí thứ năm can dự trong biểu lộ của nó, sẽ là ứng viên khả dĩ? Nếu vậy, có lẽ Sao Thủy cũng sẽ liên hệ.

84. We may infer but we cannot yet know.

84. Chúng ta có thể suy diễn nhưng chưa thể biết.

85. In any case “the vibration of the fifth order” seems to correlate well with a Sirian vibration.

85. Dù thế nào, “rung động thuộc thứ bậc thứ năm” dường như tương ứng tốt với một rung động từ Sirius.

86. However, Sirius is definitely not located on the fifth cosmic plane counting from below, so if we decide to correlate Sirius with vibrations of the fifth order, we will have to abandon the idea of ascent through the cosmic planes as indicating “orders” of vibration.

86. Tuy nhiên, Sirius chắc chắn không nằm trên cõi vũ trụ thứ năm nếu đếm từ dưới lên, nên nếu chúng ta quyết định liên hệ Sirius với các rung động bậc thứ năm, chúng ta sẽ phải từ bỏ ý niệm thăng thượng qua các cõi vũ trụ như là chỉ dấu cho các “thứ bậc” rung động.

87. On the other hand, it might be well to consider the vibrations relating to the Great Bear, and especially to two of the stars, as being of the fifth order. We have already discussed the possible relationship of the Great Bear to the fifth cosmic plane, the cosmic atmic plane.

87. Mặt khác, cũng nên xem các rung động liên hệ đến chòm Đại Hùng, đặc biệt là đến hai ngôi sao của nó, như thuộc bậc thứ năm. Chúng ta đã bàn về mối liên hệ khả dĩ giữa chòm Đại Hùng với cõi vũ trụ thứ năm, tức cõi atma vũ trụ.

88. Further Sirius is already mentioned in relation to the cosmic mental plane.

88. Hơn nữa, Sirius đã được nhắc đến trong liên hệ với cõi trí vũ trụ.

89. Interestingly, the Pleiades as transmitters of cosmic buddhi, are not mentioned.

89. Điều thú vị là Pleiades, với tư cách là các truyền dẫn Bồ đề vũ trụ, lại không được nhắc đến.

The other two are sensed, and felt, but so remotely as to be almost outside the range of His consciousness.

Hai bậc còn lại được Ngài cảm nhận và cảm thọ, nhưng xa xôi đến mức hầu như nằm ngoài phạm vi tâm thức của Ngài.

90. We human beings are beginning to come in touch with influences of the lower fifth order through the Solar Angels and through the fifth kingdom. When it comes to finding rapport with members of the sixth and seventh kingdoms, it can be said of us that such vibrations are “almost outside the range of [our] consciousness”.

90. Chúng ta, những con người, đang bắt đầu tiếp xúc với các ảnh hưởng của bậc thứ năm thấp qua các Thái dương Thiên Thần và qua giới thứ năm. Khi nói đến việc tìm sự giao cảm với các thành viên của giới thứ sáu và thứ bảy, có thể nói về chúng ta rằng các rung động như thế “hầu như nằm ngoài phạm vi tâm thức [của chúng ta]”.

91. Just as there are systemic kingdoms so there are cosmic kingdoms. Perhaps the orders we are here discussing represent a kind of ascent through cosmic kingdoms.

91. Cũng như có các giới hệ thống , thì cũng có các giới vũ trụ . Có lẽ các thứ bậc chúng ta đang bàn đến ở đây biểu trưng cho một kiểu thăng thượng qua các giới vũ trụ .

92. The term “order” is definitely used in different ways. In the present context, vibrations of the second order are lower than vibrations of the fourth or fifth. But elsewhere in the book, Betelgeuse is said to be a Logos the “second order”, and Sol (our Logos) a Logos of the fourth order. Betelgeuse is, obviously, a much greater Logos than Sol! So the lower the number or the order (in this way of using the term) the higher the Being.

92. Thuật ngữ “thứ bậc” chắc chắn được dùng theo nhiều cách. Trong ngữ cảnh hiện tại, các rung động bậc hai thấp hơn các rung động bậc bốn hay bậc năm. Nhưng ở nơi khác trong sách này, Betelgeuse được nói là một Thượng đế thuộc “thứ bậc thứ hai”, còn Sol (Thái dương Thượng đế của chúng ta) là một Thượng đế thuộc thứ bậc thứ tư. Hiển nhiên Betelgeuse là một Thượng đế lớn lao hơn Sol! Vậy nên số bậc càng thấp (theo cách dùng thuật ngữ này) thì Đấng lại càng cao.

93. In the present context, the higher the order the higher the vibration.

93. Trong ngữ cảnh hiện tại, bậc càng cao thì rung động càng cao.

In carrying out these ideas in connection with man and the thought forms which he fabricates (such as his material sheaths),

Trong việc thực thi các ý tưởng này liên quan đến con người và các hình tư tưởng mà y kiến tạo (như các vỏ vật chất của y),

94. Man as a soul or Ego fabricates his sheaths. In this context, sheaths are called thoughtforms.

94. Con người như một linh hồn hay Chân ngã kiến tạo các vỏ của mình. Trong ngữ cảnh này, các vỏ được gọi là các hình tư tưởng.

the correspondence can be worked out within the system, and from the point of view of the planetary schemes in which man has his place. The work of man as he builds in mental thought matter and constructs forms extraneous to himself, we shall deal with later.

sự tương ứng có thể được triển khai trong nội vi hệ thống, và từ quan điểm của các hệ hành tinh trong đó con người có vị trí của mình. Công việc của con người khi y xây dựng bằng chất liệu tư tưởng-trí tuệ và kiến tạo các hình tướng ngoại tại đối với chính mình, chúng ta sẽ bàn sau.

95. Thus far we are dealing with the fundamental forms of Creation—the vehicles of the Solar Logos, the Planetary Logos and man. We are not yet focussed on the construction of extraneous thoughtforms—the thoughtforms which are not vehicles for the principles of these B/beings.

95. Cho đến giờ, chúng ta đang đề cập đến các hình thể căn bản của Sáng tạo—các vận cụ của Thái dương Thượng đế, của Hành Tinh Thượng đế và của con người. Chúng ta chưa tập trung vào việc kiến tạo các hình tư tưởng ngoại lai—những hình tư tưởng không phải là vận cụ cho các nguyên khí của các Đấng/sinh linh này.

The methods whereby vibratory response is brought about might be enumerated as follows:

Các phương pháp nhờ đó đưa đến sự đáp ứng rung động có thể liệt kê như sau:

[555]

[555]

Through the factor of time in evolution.

Qua yếu tố thời gian trong tiến hoá.

96. Over time during the evolutionary process, responsiveness increases. Vehicles are refined over time.

96. Theo thời gian trong tiến trình tiến hoá, năng lực đáp ứng gia tăng. Các vận cụ được tinh luyện theo thời gian.

Through extra-systemic stimulation and intensive training, whether for a Logos or a man.

Qua sự kích thích ngoài-hệ thống và sự huấn luyện chuyên sâu, dù đối với một Thượng đế hay một con người.

97. The impacts of vibrations from without any system, and training in the manner of reception, will bring about increasing response to vibration.

97. Những va đập của các rung động đến từ bên ngoài bất kỳ hệ thống nào, và sự huấn luyện về cách thức tiếp nhận, sẽ mang lại sự gia tăng đáp ứng đối với rung động.

Through the process of Initiation, and the application of the Rods of Initiation.

Qua tiến trình Điểm đạo, và việc áp dụng các Thần Trượng Điểm đạo.

98. The application of the rod is intended to increase sensitivity and response capacity. Heightened vibration leads to heightened response-ability. The Rod of Initiation definitely heightens vibration.

98. Việc áp dụng Thần Trượng nhằm gia tăng độ nhạy cảm và năng lực đáp ứng. Rung động được nâng cao dẫn đến khả-năng-đáp-ứng được nâng cao. Thần Trượng Điểm đạo chắc chắn nâng cao rung động.

99. We have listed four means of enhancing vibratory response:

99. Chúng ta đã liệt kê bốn phương tiện tăng cường sự đáp ứng rung động:

a.  The factor of time

a. Yếu tố thời gian

b.  Extra-systemic stimulation, including:

b. Sự kích thích ngoài-hệ thống, bao gồm:

i.  Group stimulation (listed below)

i. Kích thích theo nhóm (liệt kê bên dưới)

ii.  Stimulation from a more advanced “Kingdom in Nature” (listed below)

ii. Kích thích từ một “Giới trong Tự nhiên” tiến hoá hơn (liệt kê bên dưới)

c.  Intensive training

c. Huấn luyện chuyên sâu

d.  The process of initiation and, with it, the application of the Rod of Initiation.

d. Tiến trình điểm đạo và, đi kèm, việc áp dụng Thần Trượng Điểm đạo.

The factor of evolution is recognised and studied by many schools of thought, esoteric or exoteric.

Yếu tố của tiến hoá được nhiều trường phái tư tưởng, nội môn hay ngoại môn, công nhận và nghiên cứu.

100. The key thought is that the processes of evolution promote sensitization and, thus, response to vibration.

100. Tư tưởng then chốt là các quá trình tiến hoá thúc đẩy sự mẫn cảm và, do đó, sự đáp ứng với rung động.

The extra-systemic stimulation involves a large number of factors, but the main two to be remembered are that this stimulation will be applied:

Sự kích thích ngoài-hệ thống bao hàm nhiều yếu tố, nhưng hai điểm chính cần ghi nhớ là sự kích thích này sẽ được áp dụng:

Through the group to the unit.

Qua nhóm đến đơn vị.

Through a more evolved “Kingdom of Nature” to a less evolved.

Qua một “Giới trong Tự nhiên” tiến hoá hơn đến một giới kém tiến hoá hơn.

101. The group in which a unit finds itself can be considered a source of stimulation. The Ashram is an example of such a group. It stimulates those who form part of it. The group of Solar Logoi to which our Solar Logos belongs will also be such a group—though on a cosmic level.

101. Nhóm mà một đơn vị ở trong đó có thể được xem là một nguồn kích thích. Ashram là một ví dụ về một nhóm như vậy. Nó kích thích những ai là thành phần của nó. Nhóm các Thái dương Thượng đế mà Thái dương Thượng đế của chúng ta thuộc về cũng sẽ là một nhóm như vậy—dẫu ở cấp độ vũ trụ.

102. The influence of a superior “Kingdom of Nature” will, of course, promote sensitization and increasing responsiveness.

102. Ảnh hưởng của một “Giới trong Tự nhiên” cao hơn dĩ nhiên sẽ thúc đẩy sự mẫn cảm và khả năng đáp ứng ngày càng tăng.

As regards the third factor of Initiation, it must be borne in mind that we are here considering only the great initiations, and not the numerous expansions of consciousness which can be traced through all kingdoms and all manifestations.

Liên quan đến yếu tố thứ ba là Điểm đạo, cần ghi nhớ rằng ở đây chúng ta chỉ đang xét đến những lần điểm đạo lớn, chứ không phải những sự mở rộng tâm thức muôn vàn vốn có thể được lần theo qua mọi giới và mọi biểu lộ.

103. Expansion of consciousness occurs continuously, but DK is speaking (as regards humanity) of the “great manasic initiations” administered by the Hierophant with Members of the Hierarchy in attendance.

103. Sự mở rộng tâm thức diễn ra liên tục, nhưng Chân sư DK đang nói (xét về nhân loại) đến “những lần điểm đạo manasic lớn” do Đấng Chủ Tế cử hành với các Thành viên của Thánh Đoàn hiện diện.

In connection with what we have considered above, anent the primary function of a thought-form (the power to respond to vibration)

Liên hệ đến điều chúng ta đã xét ở trên, về chức năng sơ đẳng của một hình tư tưởng (năng lực đáp ứng rung động)

104. We note that DK has given a few functions of a thoughtform but considers as primary the thoughtform’s ability to respond to vibration.

104. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK đã nêu ra một vài chức năng của một hình tư tưởng nhưng xem chủ yếu là năng lực của hình tư tưởng ấy đáp ứng rung động.

I would emphasise the necessity of remember­ing that, and that it will then through a complex reflex action, bring about response from the material sheath which veils it.

Tôi muốn nhấn mạnh sự cần thiết phải ghi nhớ điều đó, và rằng rồi thông qua một phản xạ phức hợp, nó sẽ gây nên sự đáp ứng từ lớp vỏ vật chất đang che phủ nó.

105. From one perspective a thoughtform is veiled by a material sheath and the response of that material sheath is brought about by means of the responsiveness of the thoughtform which the material sheath veils.

105. Từ một góc nhìn, một hình tư tưởng được che kín bởi một vỏ vật chất và sự đáp ứng của vỏ vật chất ấy được tạo ra nhờ vào tính đáp ứng của chính hình tư tưởng mà vỏ vật chất bao che.

106. But another question arises: Is it the thoughtform, per se, which responds or the “inner embodied idea” which responds?

106. Nhưng lại nảy sinh một câu hỏi khác: Có phải bản thân hình tư tưởng đáp ứng hay là “ý niệm bên trong đã được hiện thân” đáp ứng?

107. DK indicates that it is the “inner embodied idea that must respond”. Man, himself, or any being is an “inner embodied idea”.

107. Chân sư DK chỉ ra rằng chính “ý niệm bên trong đã được hiện thân” phải đáp ứng. Con người, tự thân, hay bất kỳ sinh linh nào, đều là một “ý niệm bên trong đã được hiện thân”.

108. The definition of an idea (and let us see to what extent it applied to man) is as follows:

108. Định nghĩa về một ý niệm (và chúng ta hãy xem nó áp dụng đến mức nào đối với con người) như sau:

“An idea is a being incorporeal, which has no subsistence by itself, but gives figure and form unto shapeless matter, and becomes the cause of the manifestation.” (COA 55)

“Một ý niệm là một sinh linh phi vật thể, không tự nó có tồn tại, nhưng ban cho chất liệu vô dạng hình thể và dáng vẻ, và trở thành nguyên nhân của sự biểu lộ.” (COA 55)

109. We are dealing with the interplay between three factors:

109. Chúng ta đang xử lý sự tương giao giữa ba yếu tố:

a.  An inner embodied idea

a. Một ý niệm bên trong đã được hiện thân

b.  A thoughtform which represents that inner embodied idea

b. Một hình tư tưởng biểu thị ý niệm bên trong đã được hiện thân ấy

c.  A material sheath that veils the thoughtform

c. Một vỏ vật chất che phủ hình tư tưởng

110. Perhaps we can say that man is an idea in the Mind of the Universal Logos.

110. Có lẽ chúng ta có thể nói con người là một ý niệm trong Trí của Thượng đế Vũ Trụ.

111. Ultimately, it is the being that responds, and ideas are really beings.

111. Sau cùng, chính sinh linh đáp ứng, và các ý niệm thực ra là những sinh linh .

Vibration is the result of subjective impulse, and makes its appeal to the subjective consciousness through impact upon whatever may be understood as substance;

Rung động là kết quả của xung lực chủ quan, và gây ấn tượng lên tâm thức chủ quan thông qua sự va đập lên bất cứ thứ gì có thể được hiểu là chất liệu;

112. The subjective consciousness becomes aware of the impact on substance, and through that impact comes en rapport with the original “subjective impulse” and the vibration resulting from it.

112. Tâm thức chủ quan trở nên hay biết về tác động lên chất liệu, và qua tác động đó thiết lập giao cảm với “xung lực chủ quan” nguyên thủy và với rung động phát sinh từ đó.

113. In this respect, vibration is mediatory. Response to vibration in substance makes a subjective consciousness aware of another subjective consciousness which sent the vibration forth.

113. Ở phương diện này, rung động mang tính trung giới. Sự đáp ứng đối với rung động trong chất liệu làm cho một tâm thức chủ quan hay biết một tâm thức chủ quan khác vốn đã phát ra rung động ấy.

114. What form does “subjective impulse” take? Is it a vibratory form or not? Are all things that are, characterized by vibration or are some things that are, not derived from vibration?

114. “Xung lực chủ quan” mang hình thái nào? Nó có hình thái rung động hay không? Mọi cái hiện hữu đều được đặc trưng bởi rung động chăng, hay có những cái hiện hữu không phát sinh từ rung động?

this impact is transmitted direct to the inner life, and in due turn is retransmitted to substance in the form of recognition or realisation.

tác động này được truyền trực tiếp đến đời sống nội tại, và đến lượt nó lại được truyền trở lại cho chất liệu dưới hình thức sự nhận biết hay nhận thực.

115. The sequence under discussion seems to be as follows:

115. Trình tự đang được bàn dường như như sau:

a.  Subjective impulse

a. Xung lực chủ quan

b.  Vibration

b. Rung động

c.  Impact upon substance

c. Va đập lên chất liệu

d.  Direct transmission from impacted substance to the recipient inner life

d. Truyền trực tiếp từ chất liệu bị tác động đến đời sống nội tại tiếp nhận

e.  Re-transmission from the recipient inner life to substance. This re-transmission appears in the form of recognition of realization.

e. Truyền ngược từ đời sống nội tại tiếp nhận trở lại chất liệu. Sự truyền ngược này biểu hiện thành sự nhận biết hay nhận thực.

116. We are speaking of the modus operandi of transmission from subjective life to subjective life. One might wonder if there were a direct means of transmission between subjective consciousnesses—one that did not involve vibration and substance.

116. Chúng ta đang nói về phương thức vận hành của sự truyền dẫn từ đời sống chủ quan này sang đời sống chủ quan khác. Người ta có thể tự hỏi liệu có một phương tiện trực tiếp nào để truyền giữa các tâm thức chủ quan—một phương tiện không liên quan đến rung động và chất liệu—hay không.

An analogous process may be studied in the nerve reactions of the physical frame, and their alliance with the brain consciousness.

Một tiến trình tương tự có thể được khảo sát nơi các phản ứng thần kinh của khung thể hồng trần và sự liên kết của chúng với tâm thức bộ não.

117. In general we are dealing with the process of invocation and evocation.

117. Nói chung, chúng ta đang đề cập đến tiến trình Khẩn Cầu và Gợi Lên.

118. There are centers of consciousness and agents of those centers which allow the centers to communicate with other centers.

118. Có các trung tâm tâm thức và có những tác nhân của các trung tâm ấy, cho phép các trung tâm giao tiếp với các trung tâm khác.

As will be seen in the three worlds of man’s emprise, man will work as a Creator and will follow a similar procedure. [556] His thought forms will be constructed of mental matter, chosen specifically because it vibrates to the same type of vibration as the Idea seeking embodiment, and these forms will persist—as does the logoic thought form, the solar system—for just as long as the factor of Will, or dynamic vitality, continues to hold it together.

Như sẽ thấy trong ba cõi thuộc phạm vi hoạt động của con người, con người sẽ làm việc như một Đấng Sáng tạo và sẽ theo một quy trình tương tự. [556] Các hình tư tưởng của y sẽ được kiến tạo bằng chất liệu tư tưởng-trí tuệ, được chọn lựa một cách chuyên biệt vì nó rung ứng với cùng loại rung động như Ý niệm đang tìm sự hiện thân , và các hình tư tưởng ấy sẽ tồn tại—như hình tư tưởng logoic, tức Thái dương hệ—chừng nào yếu tố Ý Chí, hay sinh lực năng động, vẫn tiếp tục giữ nó kết tụ.

119. A created thoughtform is sustained by will.

119. Một hình tư tưởng được tạo ra được duy trì bởi ý chí .

120. It seems that another definition of will is being offered—will as “dynamic vitality”.

120. Có vẻ như một định nghĩa khác về ý chí đang được đưa ra—ý chí như là “sinh lực năng động”.

121. We are introduced to an important idea. Thought forms must be constructed of that type of mental matter which “vibrates to the same type of vibration as the Idea seeking embodiment”.

121. Chúng ta được giới thiệu một ý tưởng quan trọng. Các hình tư tưởng phải được cấu tạo từ loại chất liệu trí tuệ “rung ứng với cùng loại rung động như Ý niệm đang tìm sự hiện thân”.

122. If a high Idea is embodied in substance that is too low, the idea will not be fully or properly expressed.

122. Nếu một Ý niệm cao được hiện thân trong chất liệu quá thấp, ý niệm ấy sẽ không được biểu lộ đầy đủ hay đúng đắn.

123. Is it also possible to embody a ‘low’ idea in mental matter which is vibratorily higher than necessary? In polite discourse and diplomacy this seems to happen all the time.

123. Cũng có thể hiện thân một ý niệm ‘thấp’ trong chất liệu trí tuệ rung cao hơn mức cần thiết không? Trong lời nói lịch thiệp và ngoại giao, điều này dường như diễn ra thường xuyên.

124. Thus far we have considered thoughtforms as sheaths which are instruments by means of which an entity can respond to vibration (and transmit vibration).

124. Cho đến đây, chúng ta đã xét các hình tư tưởng như là các vỏ che vốn là khí cụ nhờ đó một thực thể có thể đáp ứng với rung động (và truyền rung động).

This brings us to our next point:

Điều này đưa chúng ta đến điểm kế tiếp:

b. To Provide a Body for an Idea. In this statement we have latent the basic principle of incarnation, and of activity, even of existence itself.

b. Cung cấp một Thân thể cho một Ý niệm . Trong mệnh đề này tiềm ẩn nguyên lý căn bản của sự nhập thể, của hoạt động, thậm chí của chính sự hiện hữu.

125. In other words, incarnation is the provision of a body for an idea.

125. Nói cách khác, nhập thể là việc cung cấp một thân thể cho một ý niệm.

126. The entirety of Creation is naught but a hierarchy of embodied ideas within a great Embodied Idea. The Universal Logos (the God of the entire Universe) is an Idea borne of the FOUNT OF ALL IDEATION.

126. Toàn bộ Sáng tạo chẳng là gì khác ngoài một hệ thống huyền giai của các ý niệm đã được hiện thân nằm trong một Ý Niệm Vĩ Đại đã được Hiện thân. Thượng đế Vũ Trụ (Thượng đế của toàn thể Vũ trụ) là một Ý Niệm phát sinh từ SUỐI NGUỒN CỦA MỌI Ý NIỆM.

127. The One Universal Existence, which we are calling the Universal Logos, is the Ultimate Universal Idea seeking embodiment

127. Sự Hiện Hữu Vũ Trụ Duy Nhất, mà chúng ta đang gọi là Thượng đế Vũ Trụ, là Ý Niệm Vũ Trụ Tối Hậu đang tìm sự hiện thân

128. DK is saying that the statement that ‘the purpose of incarnation is to provide a body for an idea’ is, itself, an idea.

128. Chân sư DK đang nói rằng mệnh đề ‘mục đích của nhập thể là cung cấp một thân thể cho một ý niệm’ tự thân nó cũng là một ý niệm .

It involves the expansion of our idea to include the cosmic mental plane as we consider the Logos, and as the creative faculty of man is studied we are taken to the mental plane of the solar system.

Điều này bao hàm việc mở rộng ý niệm của chúng ta để bao gồm cõi trí vũ trụ khi chúng ta xét đến Thượng đế, và khi năng lực sáng tạo của con người được nghiên cứu thì chúng ta được đưa đến cõi trí của Thái dương hệ.

129. On the mental plane (whether cosmic or systemic) we find the first embodiments of ideas.

129. Trên cõi trí (dù vũ trụ hay hệ thống) chúng ta tìm thấy những sự hiện thân đầu tiên của các ý niệm.

One fundamental thought must here be given and. pondered upon: This creative impulse, this tendency towards the concretion of the abstract, this inherent ability to “take form” has its fullest expression as yet in physical matter. The “raison d’être” is that—for man—all substances with which he creates, all forms which he builds, and all processes of concretion which he carries on, are created, built and carried on within the physical body of the Logos.

Một tư tưởng căn bản cần được nêu ra ở đây và được chiêm ngẫm: Xung lực sáng tạo này, khuynh hướng hướng tới việc kết chất cái trừu tượng này, khả năng bẩm sinh để “nhận lấy hình tướng” này, cho đến nay có biểu lộ đầy đủ nhất trong vật chất hồng trần. “Lý do hiện hữu” là—đối với con người—mọi chất liệu mà y dùng để sáng tạo, mọi hình tướng y xây dựng, và mọi tiến trình kết chất mà y tiến hành, đều được tạo dựng, xây dựng và tiến hành trong thân thể hồng trần của Thái dương Thượng đế.

130. We have a fundamental statement. Eventually, in other types of matter, there will be a full expression of the tendency towards the concretion of the abstract. Thus far, and at this time, the fullest expression of this tendency occurs within physical matter. For the Solar Logos, physical matter is found on the cosmic physical plane—our seven systemic planes within which proceeds all spiritual evolution possible for man at this time

130. Chúng ta có một phát biểu căn bản. Rốt cuộc, trong các loại chất liệu khác, sẽ có một sự biểu lộ trọn vẹn của khuynh hướng kết chất cái trừu tượng. Cho đến nay, và ở thời điểm này, sự biểu lộ đầy đủ nhất của khuynh hướng này diễn ra trong vật chất hồng trần. Đối với Thái dương Thượng đế, vật chất hồng trần được tìm thấy trên cõi hồng trần vũ trụ—bảy cõi hệ thống của chúng ta, trong đó diễn tiến mọi cuộc tiến hoá tinh thần khả hữu cho con người vào lúc này

131. DK continually emphasizes the fact that all the creating, building and concretizing which man performs takes place upon the cosmic physical plane. This ever preserves for us a sense of proportion.

131. Chân sư DK liên tục nhấn mạnh rằng mọi việc tạo tác, xây dựng và kết tụ mà con người thực hiện đều xảy ra trên cõi hồng trần vũ trụ. Điều này luôn giữ cho chúng ta một ý thức về tỉ lệ.

Herein can be found the reason for the emphasis laid in nature on the sex aspect, and on that of physical reproduction; it can be seen in all the kingdoms of nature, with the exception of the first and fifth. This is a most significant point and the exceptions should be studied in their widest connotation, for they contain the basic mystery of sex on the involutionary path, and on the evolutionary. In them we have the two extremes.

Ở đây có thể tìm thấy lý do của sự nhấn mạnh trong Tự nhiên về phương diện tính dục và về phương diện sinh sản hồng trần; điều ấy có thể thấy trong mọi giới tự nhiên, ngoại trừ giới thứ nhất và giới thứ năm. Đây là một điểm hết sức hệ trọng và những ngoại lệ này nên được nghiên cứu theo nghĩa rộng nhất của chúng, vì chúng chứa đựng huyền nhiệm căn bản của tính dục trên con đường giáng hạ tiến hoá, và trên con đường thăng thượng tiến hoá. Trong chúng ta có hai cực đoan.

132. By the first kingdom, DK means presumably, the mineral kingdom.

132. Khi nói giới thứ nhất, Chân sư DK ám chỉ, có lẽ, giới kim thạch.

133. When He speaks of the “kingdoms in nature”, does He include the sixth and seventh? It would hard to conceive that sex and physical reproduction do not occur in the fifth kingdom, but do occur in kingdoms above that kingdom. Perhaps, when discussing man, DK considers the Fifth Kingdom—the Kingdom of Souls—to be the limit of that which can concern man as man.

133. Khi Ngài nói đến “các giới trong thiên nhiên”, liệu Ngài có bao gồm cả giới thứ sáu và thứ bảy không? Sẽ khó mà hình dung rằng tính dục và sinh sản hồng trần không xảy ra trong giới thứ năm, nhưng lại xảy ra trong các giới ở trên giới đó. Có lẽ, khi bàn về con người, Chân sư DK xem Giới thứ Năm—Giới của các Linh hồn—là giới hạn của những gì có thể liên quan đến con người như con người.

134. As man enters the fifth kingdom, the Kingdom of Souls, there is a tendency towards a spiritual hermaphroditism which eventually transforms the six-pointed star into the five-pointed star, thus eliminating the factor of physical plane sex.

134. Khi con người bước vào giới thứ năm, Giới của các Linh hồn, có một khuynh hướng hướng đến lưỡng tính tinh thần, cuối cùng chuyển ngôi sao sáu cánh thành ngôi sao năm cánh, do đó loại bỏ yếu tố tính dục trên cõi hồng trần.

135. We are told in the Secret Doctrine that Narada, the great Exponent of the fifth kingdom, counseled human beings against reproduction of their own kind and, instead, sought to make of them continent yogis.

135. Trong Giáo Lý Bí Nhiệm chúng ta được cho biết rằng Narada, bậc Đại Biểu của giới thứ năm, đã khuyên con người không sinh sản đồng loại của mình và thay vào đó, tìm làm những du-già giữ khiết.

It will have been noted that as the idea that the solar system is the physical vehicle of the Logos and His body of manifestation is grasped, many problems become elucidated, and two points especially will gradually be apprehended by the student, if he meditates and studies:

Sẽ được lưu ý rằng khi ý niệm cho rằng Thái dương hệ là vận cụ hồng trần của Thái dương Thượng đế và là thân thể biểu lộ của Ngài được nắm bắt, nhiều vấn đề trở nên minh giải, và hai điểm đặc biệt sẽ dần được môn sinh lĩnh hội, nếu y tham thiền và học hỏi:

136. Again, it is necessary to emphasize that, when speaking of the physical body of the Logos, we are speaking of the etheric-physical vehicle of the Logos—both the ethers and the dense aspects are included.

136. Một lần nữa, cần nhấn mạnh rằng, khi nói về thân thể hồng trần của Thái dương Thượng đế, chúng ta đang nói về vận cụ dĩ thái-hồng trần của Ngài—bao gồm cả phần dĩ thái lẫn phần đậm đặc.

First. That in due course of time, as the Logos [557] achieves liberation from the trammels of physical matter, the whole objective system will come to be regarded as an idea or concept, clothed in a veil or sheath of subtler matter than the physical, and the logoic body will be viewed as the product of will and desire, and physical matter in any of its grades will not enter into its composition; it will simply be a desire body. This will bring about a condition of affairs inconceivable to us, and only to be somewhat apprehended by the man who can function upon the systemic buddhic plane the fourth cosmic ether.

Thứ nhất. Rằng theo thời gian thích hợp, khi Thái dương Thượng đế [557] đạt được giải thoát khỏi những ràng buộc của vật chất hồng trần, toàn bộ hệ khách quan sẽ dần được xem như một ý niệm hay một khái niệm, được khoác một màn che hay một vỏ của chất liệu vi tế hơn chất liệu hồng trần, và thể của Thái dương Thượng đế sẽ được nhìn như sản phẩm của ý chí và dục vọng, và vật chất hồng trần ở bất kỳ cấp nào cũng sẽ không đi vào thành phần cấu tạo của nó; nó đơn giản sẽ là một thể dục vọng. Điều này sẽ đem lại một tình trạng sự việc không thể hình dung đối với chúng ta, và chỉ có thể phần nào được người có thể hoạt động trên cõi Bồ đề hệ thống—cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư—lĩnh hội.

137. DK prophesies.

137. Chân sư DK tiên tri.

138. Our Solar Logos intends (or is intended) to take at least the fourth cosmic initiation in this particular solar system and perhaps the fifth. A mode of living far more etheric than the one He pursues at present will supervene. Even that which is etheric will appear as dense and unnecessary.

138. Thái dương Thượng đế của chúng ta dự định (hoặc được dự định) sẽ trải qua tối thiểu lần điểm đạo vũ trụ thứ tư trong Thái dương hệ đặc thù này và có thể cả lần thứ năm. Một lối sống mang tính dĩ thái hơn nhiều so với lối sống Ngài đang theo đuổi hiện nay sẽ tiếp nối. Ngay cả cái vốn là dĩ thái cũng sẽ hiện ra như đậm đặc và không cần thiết.

139. When we look at a physical form and see, instead of a form, an embodied idea, we shall have some idea of the concept DK is trying to convey.

139. Khi chúng ta nhìn một hình thể hồng trần và thấy, thay vì một hình thể, một ý niệm đã được hiện thân, chúng ta sẽ có phần nào hình dung về khái niệm mà Chân sư DK cố gắng truyền đạt.

140. It is easy to see how the logoic body can come to be viewed as a “product of will and desire”, but what do we mean by “physical matter in any of its grades will not enter into its composition”? Do we mean physical matter as the Solar Logos conceives it—i.e., matter of the lowest twenty one systemic sub-planes? Or do we mean dense physical matter (solid, liquid and gas) systemically considered? Or, when speaking of solid, liquid and gas, will we also add systemic etheric matter to those vibratory dimensions which will not enter into the composition of the logoic body.

140. Dễ thấy thể của Thái dương Thượng đế có thể được xem như “sản phẩm của ý chí và dục vọng”, nhưng chúng ta muốn nói gì khi nói “vật chất hồng trần ở bất kỳ cấp nào cũng sẽ không đi vào thành phần cấu tạo của nó”? Chúng ta muốn nói vật chất hồng trần theo quan niệm của Thái dương Thượng đế—tức là vật chất của hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp nhất? Hay chúng ta muốn nói vật chất hồng trần đậm đặc (rắn, lỏng và khí) theo quan niệm hệ thống ? Hoặc, khi nói rắn, lỏng và khí, chúng ta cũng sẽ thêm cả vật chất dĩ thái hệ thống vào các chiều kích rung động sẽ không đi vào thành phần thể của Thái dương Thượng đế.

141. We can easily see how any type of physical vehicle (whether dense of etheric) can be considered a ‘desire-form’—i.e., that which has been created as a result of the magnetic power of desire.

141. Dễ thấy rằng bất kỳ loại vận cụ hồng trần nào (dù đậm đặc hay dĩ thái) cũng có thể được xem là một ‘hình thức dục vọng’—tức cái được tạo nên do năng lực từ lực của dục vọng.

142. If such a state of affairs can only be somewhat apprehended by a man who can function on the buddhic plane (i.e., an Arhat or Master or still higher Initiate), then it may be that no matter of the lower twenty-one systemic sub-planes will go to the composition of the logoic body, because the buddhic plane is within the cosmic etheric vehicle of the Solar Logos and ‘above’ His dense physical vehicle, cosmically considered.

142. Nếu một trạng thái như vậy chỉ có thể phần nào được một người có thể hoạt động trên cõi Bồ đề (tức một A-la-hán hay một Chân sư hay một điểm đạo đồ còn cao hơn) lĩnh hội, thì có thể rằng sẽ không có vật chất nào của hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp đi vào thành phần cấu tạo của thể Thái dương Thượng đế, bởi cõi Bồ đề nằm trong vận cụ dĩ thái vũ trụ của Thái dương Thượng đế và ‘ở trên’ vận cụ hồng trần đậm đặc của Ngài, xét vũ trụ mà nói.

143. A fourth degree initiate does not need physical or etheric matter for expression. He need no longer take physical incarnation. When his principles are enumerated, the etheric body and prana are dropped from the enumeration and the desire body is the lowest vehicle enumerated.

143. Một điểm đạo đồ bậc bốn không cần vật chất hồng trần hay dĩ thái để biểu lộ. Y không còn cần thọ thân hồng trần nữa. Khi các nguyên khí của y được liệt kê, thể dĩ thái và prana bị loại khỏi bản liệt kê và thể dục vọng là hiện thể thấp nhất được kể đến.

144. Will this be so for the Solar Logos when He takes His fourth cosmic initiation? Will the entire cosmic physical plane no longer be a necessity, because it is no longer necessary for him to take cosmic physical incarnation?

144. Liệu điều này sẽ đúng với Thái dương Thượng đế khi Ngài thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ tư chăng? Liệu toàn bộ cõi hồng trần vũ trụ sẽ không còn là một tất yếu nữa, bởi không còn cần thiết cho Ngài thọ nhập thể hồng trần vũ trụ?

145. Let us tabulate the various possibilities:

145. Chúng ta hãy bảng hóa các khả năng khác nhau:

a.  Our Solar Logos takes His fourth cosmic initiation and drops all connection with the lower three systemic planes (from His perspective the truly dense physical levels), but does retain His cosmic etheric expression.

a. Thái dương Thượng đế của chúng ta thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ tư và rũ bỏ mọi liên hệ với ba cõi hệ thống thấp (theo quan điểm của Ngài là những tầng thực sự đậm đặc của cõi hồng trần), nhưng vẫn duy trì biểu lộ dĩ thái vũ trụ của Ngài.

b.  Our Solar Logos takes His fourth cosmic initiation and drops even His cosmic etheric body—his cosmic astral body now being His lowest sheath.

b. Thái dương Thượng đế thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ tư và thậm chí rũ bỏ cả thân dĩ thái vũ trụ của Ngài—khi ấy thể cảm dục vũ trụ là vỏ thấp nhất của Ngài.

c.  One could be tempted analogically to say that once the cosmic fourth initiation was taken, there would be no need for the Logos to have even a cosmic astral body or a cosmic lower mental body, but when plans for the next solar system are discussed (and in that system our Logos will already be a cosmic Initiate of the fourth degree) the systemic mental and monadic planes are definitely involved, hence we must question which vehicles the Solar Logos sheds at His fourth cosmic initiation.

c. Người ta có thể bị cám dỗ theo lối tương đồng mà nói rằng một khi lần điểm đạo vũ trụ thứ tư đã được thọ, sẽ không cần cho Thượng đế phải có cả thể cảm dục vũ trụ hay thể hạ trí vũ trụ, nhưng khi các kế hoạch cho Thái dương hệ kế tiếp được bàn (và trong hệ ấy Thượng đế của chúng ta đã là một Điểm đạo đồ vũ trụ bậc bốn) thì các cõi trí hệ thống và cõi chân thần được xác quyết là có can dự, do đó chúng ta phải đặt lại vấn đề là những hiện thể nào Thái dương Thượng đế loại bỏ ở lần điểm đạo vũ trụ thứ tư của Ngài.

d.  That which the Solar Logos drops in one solar system as He passes through increasing phases of obscuration, He may again generate in a future system. The question is, “Will the next solar system be in the nature of a cosmic Mayavirupa”, or, given the capability of the Solar Logos to create “Mind-born Sons”, are all His solar systems “Mind-born” and not at all the result of ‘cosmic generation’ (involving the ‘sexual union’) of the kind through which humanity passes?

d. Cái mà Thái dương Thượng đế rũ bỏ trong một Thái dương hệ khi Ngài đi qua các giai đoạn che khuất ngày càng tăng, Ngài có thể lại tạo lập trong một hệ tương lai. Câu hỏi được đặt ra là, “Liệu Thái dương hệ kế tiếp sẽ có bản chất của một Mayavirupa vũ trụ”, hay, xét đến khả năng của Thái dương Thượng đế tạo ra “các Con do Trí sinh”, thì mọi Thái dương hệ của Ngài đều là “do Trí sinh” và hoàn toàn không phải là kết quả của ‘sự sinh sản vũ trụ’ (hàm ý ‘kết hợp tính dục’) như cách nhân loại trải qua?

Bear in mind here that our astral plane is but the sixth subplane of the cosmic physical plane and that this provides us with no real grounds from which to reason concerning the cosmic astral plane.

Hãy ghi nhớ ở đây rằng cõi cảm dục của chúng ta chỉ là cõi phụ thứ sáu của cõi hồng trần vũ trụ và điều đó không cung cấp cho chúng ta nền tảng thực thụ nào để lý luận về cõi cảm dục vũ trụ.

146. The vibratory ‘distance’ is too great and conditions on our systemic reflection of the cosmic astral plane too different.

146. ‘Khoảng cách’ rung động quá lớn và các điều kiện trên phản ảnh hệ thống của cõi cảm dục vũ trụ nơi hệ thống của chúng ta quá khác biệt.

Only when the astral plane is a calm receiver of buddhic impulse, or a liquid reflector of that plane (which will not be till the close of the mahamanvantara) shall we be able to formulate any ideas anent the cosmic astral plane.

Chỉ khi cõi cảm dục trở thành một kẻ tiếp nhận an tĩnh các xung lực Bồ đề, hay một tấm gương lỏng phản chiếu cõi ấy ( điều này sẽ không có cho đến khi kết thúc đại giai kỳ sinh hóa ) thì chúng ta mới có thể hình thành bất kỳ ý niệm nào liên quan đến cõi cảm dục vũ trụ.

147. We can gather that the cosmic astral plane is far more ‘buddhic’ in its nature than anything we usually call “astral”.

147. Chúng ta có thể nhận thấy rằng cõi cảm dục vũ trụ có bản chất ‘Bồ đề’ nhiều hơn rất xa so với bất kỳ điều gì chúng ta thường gọi là “cảm dục”.

148. We also need to know what DK means by “the mahamanvantara”. He could mean an occult century, one hundred years of Brahma, or he could mean a shorter period. These terms are flexible and are frequently applied to longer or shorter cycles.

148. Chúng ta cũng cần biết Chân sư DK hiểu “đại giai kỳ sinh hóa” là gì. Ngài có thể muốn nói đến một thế kỷ huyền bí—một trăm năm của Brahma—hoặc Ngài có thể muốn nói đến một thời kỳ ngắn hơn. Những thuật ngữ này linh hoạt và thường được áp dụng cho những chu kỳ dài hoặc ngắn.

149. Can we say that an initiate of the second degree is capable of rendering His astral vehicle “a calm receiver of buddhic impulse, or a liquid reflector of that plane”? Perhaps not, because our Solar Logos has already taken His second cosmic initiation and apparently systemic astral conditions in our solar system are not such that we can “formulate any ideas anent the cosmic astral plane”.

149. Chúng ta có thể nói rằng một điểm đạo đồ bậc hai có khả năng khiến thể cảm dục của y trở thành “kẻ tiếp nhận an tĩnh xung lực Bồ đề, hay một tấm gương lỏng phản chiếu cõi ấy” chăng? Có lẽ là không, vì Thái dương Thượng đế của chúng ta đã trải qua lần điểm đạo vũ trụ thứ hai và hiển nhiên các điều kiện cảm dục hệ thống trong Thái dương hệ của chúng ta chưa đến mức chúng ta có thể “hình thành bất kỳ ý niệm nào liên quan đến cõi cảm dục vũ trụ”.

150. Out Solar Logos is to take either the fourth or fifth cosmic initiation in this solar system (depending upon which reference one consults). We might say that at the fourth initiation the astral body (to the extent that it or any of the lower vehicles exist once the fourth initiation has been taken) can, indeed, become a calm receiver and reflector of buddhic energy. As for the astral body of a Master, what is it? It may exist if the fourth and fifth initiations are taken in the same ‘incarnation’ (as is sometimes the case) but it may, as well, be a will-created astral body (part of a Mayavirupa). In such a case, it certainly could be considered a calm receiver and reflector.

150. Thái dương Thượng đế của chúng ta sẽ trải qua hoặc lần điểm đạo vũ trụ thứ tư hoặc thứ năm trong Thái dương hệ này (tùy theo tham chiếu nào người ta xem). Chúng ta có thể nói rằng ở lần điểm đạo thứ tư, thể cảm dục (trong chừng mực nó, hay bất kỳ hiện thể thấp nào, còn tồn tại sau khi lần điểm đạo thứ tư đã được thọ) quả thật có thể trở thành kẻ tiếp nhận và phản chiếu an tĩnh năng lượng Bồ đề. Còn thể cảm dục của một Chân sư là gì? Nó có thể tồn tại nếu lần điểm đạo thứ tư và thứ năm được thọ trong cùng một “nhập thể” (như đôi khi xảy ra) nhưng nó cũng có thể là một thể cảm dục do ý chí tạo (một phần của Mayavirupa). Trong trường hợp như vậy, nó chắc chắn có thể được xem là kẻ tiếp nhận và phản chiếu an tĩnh.

151. DK seems to be pointing ahead to a time (perhaps at the close of this occult century) when the Solar Logos has taken the fourth and/or fifth cosmic initiation and when (as a result) the astral plane of our solar system will be entirely reconditioned.

151. Chân sư DK dường như đang chỉ tới một thời kỳ phía trước (có lẽ vào cuối thế kỷ huyền bí này) khi Thái dương Thượng đế đã trải qua lần điểm đạo vũ trụ thứ tư và/hoặc thứ năm và khi (do kết quả đó) cõi cảm dục của Thái dương hệ chúng ta sẽ được tái điều kiện hoàn toàn.

Second. That the entire sex aspect of manifestation, as we understand it in the different kingdoms of nature, is an expression of the energy of the Logos, as it flows through and stimulates that centre in His body which corresponds to the generative organs.

Thứ hai. Rằng toàn bộ phương diện tính dục của biểu lộ , như chúng ta hiểu trong các giới tự nhiên khác nhau, là một biểu lộ của năng lượng của Thái dương Thượng đế, khi nó tuôn chảy qua và kích thích trung tâm trong thân thể của Ngài tương ứng với cơ quan sinh sản.

152. This will naturally be His sacral center. It has been speculated that the planetary scheme of Mars is strongly correlated with the solar logoic sacral center.

152. Điều này dĩ nhiên là trung tâm xương cùng của Ngài. Người ta đã suy đoán rằng hệ hành tinh của Hỏa Tinh có liên hệ mạnh với trung tâm xương cùng của Thái dương Thượng đế.

153. We come to understand that that which we call the sex aspect does not originate with those life-forms through which it demonstrates. Rather it originates within the all-pervading Logos of the solar system Who is the Life of all such forms.

153. Chúng ta hiểu ra rằng cái mà chúng ta gọi là phương diện tính dục không khởi nguyên từ những hình thái sự sống qua đó nó biểu lộ. Đúng hơn, nó khởi nguyên trong Thượng đế bao trùm toàn hệ, Đấng vốn là Sự sống của mọi hình thể như thế.

154. Will there come a time when the planet Mars is absorbed into the planet Earth (prior to Earth’s absorption into Saturn)? Will this (if it happens in this way) signal an end to sexual generation within our solar system?

154. Liệu sẽ có thời điểm khi hành tinh Hỏa Tinh được hấp thụ vào hành tinh Trái Đất (trước khi Trái Đất được hấp thụ vào Thổ Tinh) chăng? Liệu (nếu diễn ra như vậy) điều này sẽ báo hiệu sự kết thúc của sinh sản tính dục trong Thái dương hệ của chúng ta chăng?

All the creative functions of the vegetable, animal, and human family, viewing them as a whole, are as yet purely physical, and based on lower desire.

Tất cả các chức năng sáng tạo của ba giới: thực vật, động vật và nhân loại, xét như một toàn thể, hiện vẫn thuần túy hồng trần và đặt nền trên dục vọng thấp .

155. DK appears to be speaking of lower logoic desire.

155. Chân sư DK dường như đang nói về dục vọng thấp của Thái dương Thượng đế .

The desire of the Logos for physical incarnation is as yet the dominant note.

Dục vọng của Thái dương Thượng đế đối với việc nhập thể hồng trần hiện vẫn là chủ âm trội bật.

156. Just as a man will repeatedly seek physical incarnation until the time approaches for his fourth initiation, so it is with the Logos, Who is only a cosmic initiate of the second degree.

156. Cũng như con người sẽ nhiều lần tìm kiếm nhập thể hồng trần cho đến khi thời điểm cho lần điểm đạo thứ tư đến gần, thì cũng vậy đối với Thái dương Thượng đế, Đấng hiện chỉ là một Điểm đạo đồ vũ trụ bậc hai.

157. If within the energy system of the Solar Logos, Mars is the planet of physical generation, it must at this time still be very powerful.

157. Nếu trong hệ năng lượng của Thái dương Thượng đế, Hỏa Tinh là hành tinh của sinh sản hồng trần, thì vào lúc này nó hẳn vẫn còn rất mạnh mẽ.

158. If analogy holds good, however, an initiate of the second degree has completed, by far, the vast majority of his incarnations in the human kingdom. Is it also true, then, that the Logos has completed (in terms of time elapsed) the greater proportion of His developmental cycle scheduled for this solar system? Perhaps yes, perhaps no—we will have to proceed carefully.

158. Tuy nhiên, nếu phép tương đồng đứng vững, một điểm đạo đồ bậc hai đã hoàn tất, tính đại thể, phần lớn các lần nhập thể của y trong giới nhân loại. Vậy liệu có đúng rằng Thái dương Thượng đế cũng đã hoàn tất (xét về thời gian đã trôi qua) phần lớn chu trình phát triển của Ngài dự trù cho Thái dương hệ này? Có lẽ đúng, có lẽ không—chúng ta sẽ phải thận trọng.

159. By analogy, it could seem to be necessary, and yet we are told that our Solar Logos is only about half way through His solar systemic process:

159. Theo phép tương đồng, điều đó có thể dường như là cần thiết, thế nhưng chúng ta được cho biết rằng Thái dương Thượng đế của chúng ta mới chỉ đi được chừng nửa chặng đường trong tiến trình Thái dương hệ của Ngài:

By a close scrutiny of chart V, it will be apparent wherein lies the problem of the Logos, and wherein lies the accuracy of the correspondence between Him and His reflection Man.

Qua sự khảo sát kỹ sơ đồ V, sẽ hiển lộ ở đâu có vấn đề của Thái dương Thượng đế, và ở đâu có sự chính xác của tương đồng giữa Ngài và phản ảnh của Ngài là Con người.

First. Both are in objective manifestation on the physical plane.

Thứ nhất . Cả hai đều đang biểu lộ khách quan trên cõi hồng trần.

Second. Both are at their point of deepest involution. (TCF 282)

Thứ hai . Cả hai đều ở điểm giáng hạ sâu nhất của mình. (TCF 282)

Fourth. Man has to bring down into conscious full control, the God within. Through that control he must dominate circumstance, make his environment his instrument and manipulate matter. On cosmic levels the Logos does likewise. Both are far from achievement. (TCF 282)

Thứ tư. Con người phải đưa Thượng đế nội tại xuống sự kiểm soát đầy đủ có ý thức. Thông qua sự kiểm soát ấy y phải chế ngự hoàn cảnh, biến môi trường thành khí cụ của mình và thao luyện chất liệu. Ở các cấp vũ trụ, Thái dương Thượng đế cũng làm như vậy. Cả hai đều còn xa mới đạt được. (TCF 282)

160. Of our Planetary Logos we are told the following and then the progress of the/a Solar Logos is likened to the progress of the Planetary Logos:

160. Về Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, chúng ta được cho biết như sau rồi tiến trình của một Thái dương Thượng đế được ví với tiến trình của Hành Tinh Thượng đế:

b. He is midway through His career upon the cosmic Path of Initiation, and consequently is to take the fourth Initiation in this chain. Well may this globe, therefore, be considered the globe of sorrow and of pain, for through it our planetary Logos is undergoing that which the mystic calls “the Crucifixion.”

b. Ngài đang ở lưng chừng sự nghiệp của mình trên Thánh Đạo Điểm Đạo vũ trụ,  và do đó sẽ thọ lần Điểm đạo thứ tư trong dãy này. Vì thế, quả đúng khi xem địa cầu này là quả cầu của sầu khổ và đau đớn, bởi qua nó Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang trải nghiệm điều mà nhà thần bí gọi là “Sự Đóng Đinh”.

c. The cells in His body—those cells through which He feels, and senses, and experiences,—are, in this world period, rent by pain and suffering, for His is the consciousness at the centre of the Body, and theirs is the capacity to suffer, so that by means of them He may learn the meaning of systemic dispassion, be dissociated from all forms and material substance, and upon the cross of matter eventually find liberation and the freedom of the Spirit.

c. Những tế bào trong Thân Ngài—những tế bào mà qua đó Ngài cảm, và tri giác, và kinh nghiệm,—trong thời kỳ thế giới này đang bị xé toạc bởi đau đớn và khổ nạn, vì Ngài là tâm thức ở trung tâm của Thể, còn họ có năng lực chịu khổ, để bằng phương tiện của họ Ngài có thể học nghĩa của vô tham hệ thống, ly biệt khỏi mọi hình tướng và chất liệu, và sau cùng trên thập giá của vật chất tìm được giải thoát và tự do của Tinh thần.

The same equally can be predicated of a solar Logos (TCF 384)

Điều tương tự cũng có thể được khẳng quyết như nhau đối với một Thái dương Thượng đế (TCF 384)

161. Did our Solar Logos enter this solar system as a cosmic Initiate of the second degree? Perhaps not, as it does not seem that the previous solar system (so mentally and personally based) would have given Him the opportunity to take this initiation. The contact with the solar logoic causal body may not have been sufficient. The contact with the cosmic Solar Angel (working on the cosmic mental plane) may also not have been sufficient.

161. Thái dương Thượng đế của chúng ta có nhập vào Thái dương hệ này như một Điểm đạo đồ vũ trụ bậc hai chăng? Có lẽ không, vì dường như Thái dương hệ trước (vốn quá thiên về trí và phàm ngã) sẽ không cho Ngài cơ hội để thọ lần điểm đạo này. Sự tiếp xúc với thể nguyên nhân logoic có thể chưa đủ. Sự tiếp xúc với Thái dương Thiên Thần vũ trụ (hoạt động trên cõi trí vũ trụ) cũng có thể chưa đủ.

162. Probably, the second initiation was to be taken in this solar system—and the third, fourth and perhaps the fifth. If we look at man’s initiations, we shall find that the span from the first to second can be contrasted with a much shorter span between the second and fifth. This solar system seems to be given to the enactment of those initiations found in this second span.

162. Có lẽ, lần điểm đạo thứ hai được thọ trong Thái dương hệ này—và lần thứ ba, thứ tư và có thể cả lần thứ năm. Nếu chúng ta nhìn vào các lần điểm đạo của con người, chúng ta sẽ thấy khoảng cách từ lần thứ nhất đến lần thứ hai có thể được đối chiếu với một khoảng ngắn hơn nhiều giữa lần thứ hai và thứ năm. Thái dương hệ này dường như được dành cho việc diễn trình những lần điểm đạo thuộc khoảng thứ hai ấy.

163. Perhaps we are coming closer to the answer to our question: “according to His initiatory schedule for this solar system, should our Solar Logos have already completed the great majority of Brahmic “Years” allotted to Him in a occult century?

163. Có lẽ chúng ta đang đến gần câu trả lời cho câu hỏi của mình: “theo lịch trình điểm đạo của Ngài dành cho Thái dương hệ này, liệu Thái dương Thượng đế của chúng ta đã phải hoàn tất phần lớn các ‘Năm’ của Brahma được phân bổ cho Ngài trong một thế kỷ huyền bí chăng?

164. I think we can come up with an answer that confirms that He is (for this mahamanvantara) at His deepest point of immersion and is only about halfway through His process.

164. Tôi nghĩ chúng ta có thể đi đến một câu trả lời khẳng định rằng Ngài (đối với đại giai kỳ sinh hóa này) đang ở điểm chìm sâu nhất và mới chỉ đi được khoảng nửa chặng đường trong tiến trình của Ngài.

165. DK tells us that the second, third and fourth initiations of the human being can be taken in one incarnation. In various references, He tells us that the second and third initiation can be taken in one life; that the third and fourth initiations can be taken in one life; that the fourth and fifth initiations can be taken in one life.

165. Chân sư DK cho chúng ta biết rằng các lần điểm đạo thứ hai, thứ ba và thứ tư của con người có thể được thọ trong một kiếp. Ở nhiều tham chiếu, Ngài nói rằng lần điểm đạo thứ hai và thứ ba có thể được thọ trong một đời; rằng lần thứ ba và thứ tư có thể được thọ trong một đời; rằng lần thứ tư và thứ năm có thể được thọ trong một đời.

166. We have (it would seem) a very short span, therefore, between these initiations—two at the least, with three or four probable or perhaps a few more.

166. Vậy nên, có vẻ như chúng ta có một khoảng rất ngắn giữa những lần điểm đạo này—ít nhất là hai, với ba hoặc bốn là điều có khả năng, hoặc có lẽ vài lần nữa.

167. In any case, if our Solar Logos came in about to take the second cosmic initiation (or just having taken it) and has not taken the third cosmic initiation (His “goal”), then, we can see how (if He is to take the fourth cosmic initiation and if the fourth and fifth can easily be taken in one life) He would be about halfway through the initiatory process slated for this particular mahamanvantara.

167. Dù thế nào, nếu Thái dương Thượng đế của chúng ta đi vào (hệ này) ở ngưỡng thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ hai (hoặc vừa mới thọ) và chưa thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ ba (mục tiêu của Ngài), thì chúng ta có thể thấy rằng (nếu Ngài sẽ thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ tư và nếu lần thứ tư và thứ năm có thể dễ dàng được thọ trong một “đời”) Ngài sẽ vào khoảng nửa chặng đường của tiến trình điểm đạo dành cho đại giai kỳ sinh hóa đặc thù này.

168. We know that each succeeding solar system takes a shorter time than the preceding one. They all take an “occult century”, but the actual duration of these occult centuries seems somewhat elastic (depending upon cosmic requirements).

168. Chúng ta biết rằng mỗi Thái dương hệ kế tiếp mất ít thời gian hơn hệ trước đó. Tất cả đều chiếm trọn một “thế kỷ huyền bí”, nhưng thời lượng thực tế của các thế kỷ huyền bí này dường như có phần đàn hồi (tùy thuộc các yêu cầu vũ trụ).

169. For the moment, our Solar Logos keenly desires physical incarnation through a solar system, and hence the sex impulse is strong throughout our solar system.

169. Hiện thời, Thái dương Thượng đế của chúng ta khao khát mạnh mẽ việc nhập thể hồng trần qua một Thái dương hệ, và do đó xung lực tính dục mạnh mẽ khắp Thái dương hệ của chúng ta.

Later His desire for that will be less and will become transmuted into desire for creation on mental levels only.

Sau này, dục vọng ấy của Ngài sẽ giảm và sẽ được chuyển hoá thành dục vọng về sáng tạo chỉ trên các cấp độ trí tuệ.

170. Whether or not there is perpetuated a dense physical vehicle for the Logos depends much on His desire nature.

170. Việc có duy trì một vận cụ hồng trần đậm đặc cho Thái dương Thượng đế hay không phần lớn tùy thuộc vào bản chất dục vọng của Ngài.

171. For now, that desire nature may work strongly in alliance with such a sixth ray planet as Mars. Later, there may be a change of emphasis from Mars to another partially sixth ray planet, Neptune. Neptune has an influence which elevates desire towards the transcendental.

171. Hiện tại, bản chất dục vọng ấy có thể vận hành mạnh mẽ trong liên minh với một hành tinh cung sáu như Hỏa Tinh. Về sau, có thể có một đổi trọng tâm từ Hỏa Tinh sang một hành tinh cũng phần nào cung sáu khác, Hải Vương Tinh. Hải Vương Tinh có ảnh hưởng thăng hoa dục vọng hướng về cái siêu nghiệm.

172. There are analogies in human living to the process here described. In the early days of their long evolutionary cycle, human beings tend to be ‘procreative’, producing large families. Later, as they achieve mental polarization, they incline to be more creative than procreative; if they are married, the size of their families lessens. Their sex impulse may also lessen because much of their sexual energy will be transferred into acts of mental creativity. They may seek to avoid the marriage relation altogether.

172. Có những tương đồng trong đời sống con người với tiến trình được mô tả ở đây. Trong những ngày đầu của chu trình tiến hoá dài, con người có khuynh hướng ‘sinh sản’, sinh ra những gia đình lớn. Sau này, khi đạt phân cực trí tuệ, họ thiên về sáng tạo hơn là sinh sản; nếu lập gia đình, quy mô gia đình của họ giảm. Xung lực tính dục của họ cũng có thể giảm vì phần lớn năng lượng tính dục được chuyển dịch vào các hành vi sáng tạo trí tuệ. Họ có thể tìm cách tránh hẳn quan hệ hôn nhân.

173. Another planetary relationship may describe this process both for the Logos and man. Just as Mars and Neptune could be compared through the sixth ray they share, so Mars and Uranus can be compared because (in man at least) they both have rulership over the sacral center. When Mars rules the sacral center the tendency is to be procreative. But Uranus is the ‘alchemical planet’ and, perhaps, the major planet of transmutation. When, later in evolution, Uranus influences the sacral center more strongly, the creative urge supersedes the procreative urge and the life of man changes. These planets may also be involved in the Logos’ ‘change of life’.

173. Một mối liên hệ hành tinh khác cũng có thể mô tả tiến trình này cả đối với Thái dương Thượng đế lẫn con người. Cũng như Hỏa Tinh và Hải Vương Tinh có thể được so sánh do cùng chung cung sáu, Hỏa Tinh và Thiên Vương Tinh cũng có thể được so sánh vì (ít nhất nơi con người) cả hai đều cai quản trung tâm xương cùng. Khi Hỏa Tinh cai quản trung tâm xương cùng, khuynh hướng là sinh sản. Nhưng Thiên Vương Tinh là ‘hành tinh luyện đan’ và, có lẽ, hành tinh chủ chuyển hoá . Khi, về sau trong tiến hoá, Thiên Vương Tinh ảnh hưởng trung tâm xương cùng mạnh hơn, thúc đẩy sáng tạo thay thế sinh sản và đời sống con người thay đổi. Những hành tinh này cũng có thể liên đới đến ‘thời kỳ thay đổi’ của Thái dương Thượng đế.

This is what brings the Destroyer aspect into activity, leading to eventual obscuration, and the physical “death” of the solar system.

Chính điều này đưa phương diện Hủy Diệt vào hoạt động, dẫn tới sự che khuất rốt ráo, và “cái chết” hồng trần của Thái dương hệ.

174. So, a change in the type of creativity (transferring it from ‘procreative’ to mentally creative) corresponds with the obscuration of the solar system. This makes sense as it is procreation which creates the physical body of the Logos and it is this physical body which is obscured through the processes of obscuration.

174. Vậy, một thay đổi trong loại hình sáng tạo (chuyển từ ‘sinh sản’ sang sáng tạo bằng trí tuệ) tương ứng với sự che khuất của Thái dương hệ. Điều này hợp lý vì chính sinh sản tạo nên thân thể hồng trần của Thái dương Thượng đế, và chính thân thể hồng trần này bị che khuất qua các tiến trình che khuất.

175. With this change of creativity, an aspect of the “Destroyer aspect” comes into play. This is true also in the life of man, for when this higher form of creativity supervenes, it may mean that man is approaching his third and then fourth initiations (and after this latter initiation, physical incarnation is no longer necessary). The “Destroyer aspect” emerges and either prevents future physical incarnation or sets the stage for a change in the manner in which such incarnation occurs.

175. Với sự thay đổi kiểu sáng tạo này, một phương diện của “Phương diện Hủy Diệt” nhập cuộc và hoặc ngăn ngừa những lần nhập thể hồng trần trong tương lai, hoặc chuẩn bị cho một đổi thay trong cách mà việc nhập thể như thế diễn ra.

Indication that this aspect is coming into power will be seen when two great events transpire:

Dấu hiệu cho thấy phương diện này đang lên quyền lực sẽ thấy khi hai biến cố lớn xảy ra:

176. We are still speaking of the developmental progress of our Solar Logos.

176. Chúng ta vẫn đang nói về tiến trình phát triển của Thái dương Thượng đế của chúng ta.

177. We are looking for evidence that the “Destroyer aspect” is coming into power.

177. Chúng ta đang tìm bằng chứng rằng “Phương diện Hủy Diệt” đang đi vào quyền năng.

[558]

[558]

a. The ability of man consciously to create on mental levels, and the consequent transmutation of his lower sex impulses into higher.

a. Khả năng của con người tạo tác một cách có ý thức trên các cấp trí tuệ, và do đó chuyển hoá các xung lực tính dục thấp của y lên cao hơn.

178. We must question whether we are considering the entire solar system and, thus, man on a number of planets. If we are speaking of the Solar Logos, then this broader consideration would be necessary.

178. Chúng ta phải tự hỏi liệu chúng ta có đang xét tới toàn bộ hệ mặt trời và, như vậy, con người trên nhiều hành tinh hay không. Nếu chúng ta đang nói về Thái dương Thượng đế, thì cần có sự xét đến rộng hơn này.

179. We may well know what man in our Earth-scheme is doing, but if we are speaking of the “death” of a Solar Logos, we will also have to find evidence of this type of creative development in relation to the humanity which exists in other planetary schemes.

179. Chúng ta có thể khá tường tận con người trong Hệ Trái Đất của chúng ta đang làm gì, nhưng nếu chúng ta đang nói về “cái chết” của một Thái dương Thượng đế, chúng ta cũng sẽ phải tìm bằng chứng của loại phát triển sáng tạo này liên hệ với nhân loại vốn hiện hữu trong các hệ hành tinh khác.

b. The mental vitalisation of another large section of the animal kingdom.

b. Sự tiếp sinh lực bằng trí tuệ cho một bộ phận lớn khác của giới động vật.

180. Again, are we speaking of a system-wide phenomenon, or only of our particular planetary scheme? If we are not speaking of the entire solar system it is difficult to imagine how we could say that the “Destroyer aspect” is coming into expression in relation to the Solar Logos and not just in relation to one of His chakras.

180. Một lần nữa, chúng ta đang nói về một hiện tượng toàn hệ, hay chỉ của riêng hệ hành tinh của chúng ta? Nếu chúng ta không nói về toàn bộ hệ mặt trời thì khó có thể hình dung làm sao chúng ta có thể nói rằng “Phương diện Hủy Diệt” đang biểu lộ liên quan đến Thái dương Thượng đế chứ không chỉ liên quan đến một trong các luân xa của Ngài.

When these two things can be seen working out in any round, it will be indicative of a decided mental polarisation of the Logos;

Khi hai điều này có thể được thấy là đang triển khai trong bất kỳ cuộc tuần hoàn nào, điều đó sẽ chỉ thị một sự phân cực trí tuệ rõ rệt của Thượng đế;

181. For what types of Beings do “rounds” exist? We know with certainty that there are chain rounds. We have inferred based on a number of quite explicit references that there are scheme rounds.

181. “Các cuộc tuần hoàn” hiện hữu đối với những loại Đấng Sự Sống nào? Chúng ta biết chắc rằng có các cuộc tuần hoàn của Dãy . Chúng ta đã suy diễn, dựa vào một số chỉ dẫn khá minh bạch, rằng có các cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh .

182. Now, it seems evident, from this reference (and a few others) that there are systemic rounds.

182. Nay, có vẻ hiển nhiên, từ tham chiếu này (và một vài tham chiếu khác) rằng có các cuộc tuần hoàn toàn hệ .

183. A systemic round would be a progression of logoic attention from planetary scheme to planetary scheme until the progression has passed through all the planetary schemes.

183. Một cuộc tuần hoàn toàn hệ sẽ là sự tiến trình chuyển dời chú tâm của Thượng đế từ hệ hành tinh này sang hệ hành tinh khác cho đến khi tiến trình ấy đã đi qua tất cả các hệ hành tinh.

184. It does not seem probable that the transmutation of the sex impulse into a higher form of creativity (if occurring on one planet only) and the mental vitalization of another large section of the animal kingdom (if occurring on one planet only) would be a sufficient indicator of “a decided mental polarisation of the Logos”.

184. Có vẻ không hợp lý khi cho rằng sự chuyển hóa xung lực tính dục thành một hình thức sáng tạo cao hơn ( nếu chỉ diễn ra trên một hành tinh ) và sự tiếp sinh lực trí tuệ cho một bộ phận lớn khác của giới động vật ( nếu chỉ diễn ra trên một hành tinh ) lại đủ để chỉ thị “một sự phân cực trí tuệ rõ rệt của Thượng đế”.

185. Such things have already occurred on some planets and have yet to occur on others. And yet there is no mental polarization for the Logos now, even though planetarily (on Venus and perhaps on Mercury) the requirements have been met. Such requirements also are more likely to be met on Earth before they are met on Mars or some of the larger planets which are further behind in their unfoldment.

185. Những điều như vậy đã từng xảy ra trên vài hành tinh và còn chưa xảy ra trên những hành tinh khác. Thế nhưng hiện nay vẫn chưa có sự phân cực trí tuệ dành cho Thượng đế, mặc dù về phương diện hành tinh (tại Kim Tinh và có lẽ tại Thủy Tinh) các yêu cầu đã được đáp ứng. Những yêu cầu như thế cũng có khả năng được đáp ứng trên Trái Đất trước khi chúng được đáp ứng trên Hỏa Tinh hoặc một vài hành tinh lớn khác vốn tụt hậu hơn trong khai mở của chúng.

186. If, however, we are speaking of a solar systemic round in which the general requirements are met, then the process seems more reasonable.

186. Tuy nhiên, nếu chúng ta đang nói về một cuộc tuần hoàn toàn hệ Thái dương trong đó các yêu cầu tổng quát được thỏa mãn, thì tiến trình có vẻ hợp lẽ hơn.

187. These are speculations, but it is important to realize that one cannot simply look at a word like “round” and imagine that it must be applied to a chain or scheme merely because the word has previously been used mostly in connection with a chain or scheme.

187. Đây là những suy đoán, nhưng điều quan trọng là nhận ra rằng người ta không thể chỉ nhìn một từ như “cuộc tuần hoàn” rồi tưởng rằng nó phải được áp dụng cho một Dãy hoặc một hệ hành tinh chỉ vì trước đây từ này phần lớn được dùng liên hệ với một Dãy hay một hệ hành tinh.

188. In general, it would seem that we are still relatively far from the time that our Solar Logos will achieve polarization on the cosmic mental plane—especially upon the higher levels of the cosmic mental plane.

188. Nhìn chung, có vẻ như chúng ta vẫn còn tương đối xa thời điểm Thái dương Thượng đế của chúng ta đạt đến phân cực trên cõi trí tuệ vũ trụ—đặc biệt là ở các cấp độ cao của cõi trí tuệ vũ trụ.

189. Overall, it seems wise not to take our planet as the touchstone for solar logoic development.

189. Tổng thể mà xét, có vẻ khôn ngoan nếu không lấy hành tinh của chúng ta làm hòn đá thử vàng cho sự phát triển của Thượng đế Thái dương.

190. We judge that when there is a “decided mental polarization” for our Logos, the process of obscuration will be progressing.

190. Chúng ta phán đoán rằng khi có “sự phân cực trí tuệ rõ rệt” đối với Thượng đế của chúng ta, thì tiến trình che khuất sẽ đang tiến hành.

we can only become cognisant of this by studying His body of manifestation in its component parts.

chúng ta chỉ có thể trở nên nhận biết điều này bằng cách nghiên cứu thân thể biểu lộ của Ngài trong các bộ phận cấu thành của nó.

191. We are seeking to learn how we may become cognizant of an achieved cosmic mental polarization of our Logos. We are advised to study “His body of manifestation and its component parts”. This means that we shall have to know a lot more about His planetary schemes and their interrelation than we now know.

191. Chúng ta đang tìm hiểu xem làm thế nào chúng ta có thể nhận biết một sự phân cực trí tuệ vũ trụ đã đạt được của Thượng đế của chúng ta. Chúng ta được khuyên hãy nghiên cứu “thân thể biểu lộ của Ngài và các bộ phận cấu thành”. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ phải biết nhiều hơn rất nhiều về các hệ hành tinh của Ngài và mối tương liên giữa chúng hơn là những gì chúng ta biết hiện nay.

192. When studying TCF, many levels are involved. DK seems to change His level focus quite frequently and so one must remain alert to these changes.

192. Khi nghiên cứu “Luận về Lửa Vũ Trụ”, có nhiều cấp độ can dự. Chân sư DK dường như thay đổi tiêu điểm cấp độ của Ngài khá thường xuyên và do đó người học phải luôn tỉnh giác trước những thay đổi này.

What is here predicated anent the logoic thought form can be equally well stated about that of a Heavenly Man, and a planetary scheme.

Điều được khẳng quyết ở đây về hình tư tưởng của Thượng đế cũng có thể được phát biểu tương tự về của một Đấng Thiên Nhân, và một hệ hành tinh.

193. From this it is clear that He has been speaking of the Solar Logos, called, simply, “the Logos”.

193. Từ đây rõ ràng rằng Ngài đã nói về Thái dương Thượng đế, đơn giản gọi là “Thượng đế”.

As His cosmic polarisation becomes more mental, and as His cosmic desire nature becomes transmuted, the force that plays through His centres will correspondingly be seen to vary in direction;

Khi sự phân cực vũ trụ của Ngài trở nên trí tuệ hơn, và khi bản chất dục vọng vũ trụ của Ngài được chuyển hóa, mãnh lực lưu chuyển qua các trung tâm của Ngài sẽ tương ứng được thấy là thay đổi phương hướng;

194. Lower forces will be elevated. Higher chakras will attract the energy one expressed through lower chakras.

194. Các lực thấp sẽ được nâng thượng. Các luân xa cao hơn sẽ hấp dẫn năng lượng vốn từng biểu lộ qua các luân xa thấp hơn.

195. Thus it is within the energy system of any type of ‘M/man’.

195. Như thế là trong hệ năng lượng của bất kỳ kiểu “Người/người” nào.

He will withdraw force from certain of His lower centres and globes;

Ngài sẽ rút lực khỏi một vài trung tâm và các bầu hành tinh thấp của Ngài;

196. The planetary chains are the centers. The globes are lesser centers.

196. Các Dãy hành tinh là các trung tâm. Các bầu hành tinh là những trung tâm thứ cấp.

197. If this statement had been made of a Solar Logos, it would have read, “He will withdraw force from certain of His lower centers (i.e., planetary schemes) and chains.

197. Nếu phát biểu này được nói về một Thái dương Thượng đế, nó hẳn sẽ là: “Ngài sẽ rút lực khỏi một vài trung tâm thấp (tức các hệ hành tinh) và các Dãy của Ngài”.

He will cease to be interested in physical incarnation, and He will eventually withdraw within Himself.

Ngài sẽ thôi quan tâm đến sự lâm phàm trên cõi hồng trần, và cuối cùng Ngài sẽ rút vào trong Chính Mình.

198. And, thus it is for a man as well.

198. Và, như thế cũng đúng đối với một con người.

199. Interest is determining in the process of incarnation and the process of release from incarnation.

199. Sở thích/quan tâm là yếu tố quyết định trong tiến trình lâm phàm và tiến trình giải thoát khỏi lâm phàm.

His thought-form will show a gradual diminution of vitality;

Hình tư tưởng của Ngài sẽ biểu lộ sự suy giảm sinh lực một cách tuần tự;

200. As the Planetary Logos shifts His attention onto cosmic mental levels, His outer form becomes devitalized.

200. Khi Hành Tinh Thượng đế chuyển dời chú tâm của Ngài lên các cấp trí tuệ vũ trụ, hình tướng ngoại tại của Ngài trở nên giảm sinh lực.

201. This is often the case for a human being unless he takes remedial action to keep his physical form (i.e., the thoughtform created by the soul) in vital condition.

201. Điều này thường đúng với một con người trừ khi y có hành động hiệu chỉnh để giữ cho hình tướng vật lý của y (tức hình tư tưởng do linh hồn tạo ra) ở trong tình trạng tràn đầy sinh lực.

202. Mind is an extension of the will; mental polarization indicates that one has begun to abstract along the will line.

202. Trí tuệ là một sự mở rộng của ý chí; phân cực trí tuệ chỉ thị rằng người ta đã bắt đầu trừu ly theo tuyến ý chí.

the dense physical globe will die and pass out of objectivity, and other globes will temporarily hold His life, though not for long.

bầu hành tinh hồng trần đậm đặc sẽ chết và rời khỏi tình trạng khách quan,  và các bầu khác sẽ tạm thời nắm giữ Sự sống của Ngài, dù không lâu.

203. For the Planetary Logos, it would seem that the Earth-globe will die and pass out of objectivity (and life will be transferred, perhaps, to other etheric globes or perhaps to the etheric levels of the Earth-globe).

203. Đối với Hành Tinh Thượng đế, có vẻ như Bầu Địa Cầu sẽ chết và rời khỏi tình trạng khách quan (và Sự sống sẽ được chuyển, có lẽ, sang các bầu dĩ thái khác hoặc có lẽ lên các cõi dĩ thái của chính Bầu Địa Cầu).

204. The life of the Planetary Logos will pass from lesser globes to greater—from globes which have etheric vehicles to those whose lowest sheath is astral, then mental, etc. A study of Chart VII will reveal, due to the size of the globes depicted, that there are lesser globes and greater.

204. Sự sống của Hành Tinh Thượng đế sẽ chuyển từ các bầu thấp sang các bầu cao hơn—từ các bầu có hiện thể dĩ thái sang những bầu có vỏ thấp nhất là cảm dục, rồi đến trí tuệ, v.v. Nghiên cứu Biểu đồ VII sẽ cho thấy, nhờ kích thước các bầu được vẽ, rằng có những bầu nhỏ và những bầu lớn.

205. We can ask, “if the dense physical globe, our globe, dies, what of the subtle aspects of our globe (for we have well established that our globe does have subtle aspects)? Can it be said that these subtle aspects of our globe will only progressively die as the life of the Planetary Logos is withdrawn to even higher dimensions?

205. Chúng ta có thể hỏi: “nếu bầu trần hồng trần đậm đặc—bầu của chúng ta—chết đi, thì còn các phương diện vi tế của bầu chúng ta (vì chúng ta đã chứng minh khá rõ rằng bầu của chúng ta các phương diện vi tế) thì sao? Có thể nói rằng các phương diện vi tế này của bầu chúng ta sẽ chỉ lần hồi ‘chết’ khi Sự sống của Hành Tinh Thượng đế được rút về các chiều không gian còn cao hơn không?”

206. As the life of the Planetary Logos is abstracted, will globes die all at once or will only those portions of globes ‘die’ which correspond to the dimension from which abstraction is occurring?

206. Khi Sự sống của Hành Tinh Thượng đế được trừu ly, liệu các bầu sẽ chết tức khắc cả khối hay chỉ những phần của các bầu ‘chết’ tương ứng với chiều kích từ đó sự trừu ly đang diễn ra?

207. For instance, if within the planetary scheme there is a general abstraction from the astral level, will that abstraction occur in all globe which have an astral dimension, leaving such globes with only dimensions higher than the astral? OR, will those globes for which the astral level is the lowest sheath simply disappear—relatively quickly?

207. Chẳng hạn, nếu trong hệ hành tinh có một sự trừu ly tổng quát khỏi cõi cảm dục, thì sự trừu ly đó sẽ xảy ra trên mọi bầu vốn có chiều kích cảm dục, khiến các bầu ấy chỉ còn các chiều kích cao hơn cảm dục? HAY, các bầu mà nơi đó cõi cảm dục là vỏ thấp nhất sẽ đơn giản biến mất—tương đối nhanh?

208. There is something more logically appealing about the first possibility.

208. Khả năng thứ nhất có vẻ hợp lý hơn về mặt luận lý.

In due course of time the entire scheme will be obscured, and He will function only in His cosmic astral body.

Đến thời hạn, toàn bộ hệ hành tinh sẽ bị che khuất, và Ngài sẽ chỉ còn hoạt động trong thể cảm dục vũ trụ của Ngài.

209. We learn here that all the vehicles of all chains within a planetary scheme rise no higher than the cosmic physical plane. None of them (i.e., the chains and globes with which have gained some academic familiarity) are manifesting on the cosmic astral plane.

209. Ở đây chúng ta học được rằng tất cả các hiện thể của mọi Dãy trong một hệ hành tinh đều không vượt khỏi cõi hồng trần vũ trụ. Không Dãy nào (tức các Dãy và các bầu mà chúng ta đã quen biết ở cấp học thuật) đang biểu lộ trên cõi cảm dục vũ trụ.

210. We could wonder, however, whether there are corresponding chakras on the cosmic astral plane, as such chakras would be the higher correspondence to the astral chakras of man. A Planetary Logos necessarily has an astral vehicle made of cosmic astral substance, and every vehicle is directed by a permanent atom and is vitalized by seven chakric whorls. So, in a way, it is impossible for a Planetary Logos to have an astral body (or a mental body) without correspondences to the astral or mental chakras of man.

210. Tuy nhiên, chúng ta có thể tự hỏi, liệu có các luân xa tương ứng trên cõi cảm dục vũ trụ không, vì các luân xa như thế sẽ là tương quan cao đối với các luân xa cảm dục của con người. Một Hành Tinh Thượng đế tất yếu có một thể cảm dục làm bằng chất liệu cảm dục vũ trụ, và mọi hiện thể đều được chỉ đạo bởi một Nguyên tử trường tồn và được tiếp sinh lực bởi bảy vành xoáy luân xa. Vậy, theo một nghĩa nào đó, một Hành Tinh Thượng đế không thể có thể cảm dục (hay thể trí) nếu không có các tương ứng với các luân xa cảm dục hay trí tuệ của con người.

Such is the case too with a chain and its informing Life, viewing a chain as simply a centre in the body of the planetary Logos, yet having its own central factor.

Điều này cũng đúng với một Dãy và Sự Sống thấm nhuần nó, xem một Dãy như chỉ đơn giản là một trung tâm trong thân thể của Hành Tinh Thượng đế, tuy vẫn có yếu tố trung tâm riêng của nó.

211. Chains die as well (through, we hypothesize, gradually, just as globes die gradually—at least this is the hypothesis we are entertaining)..

211. Các Dãy cũng chết (mặc dù, theo giả thuyết của chúng ta, dần dần , cũng như các bầu chết dần dần—ít nhất đó là giả thuyết chúng ta đang cân nhắc)..

212. We have attempted to establish in these commentaries that there are no strictly homogenous globes—i.e., globes made of matter of only one kind without other substantial sheaths.

212. Chúng ta đã cố gắng xác lập trong các chú giải này rằng không có các bầu đồng chất theo nghĩa nghiêm ngặt—tức các bầu cấu tạo chỉ bởi một loại vật chất mà không có những vỏ vật chất khác.

213. The “central factor” of a chain is a Chain-Lord. The central factor of a globe is a Globe-Lord.

213. “Yếu tố trung tâm” của một Dãy là một Vị Chúa Tể Dãy. Yếu tố trung tâm của một bầu là một Vị Chúa Tể Bầu.

This can be seen in the Moon in a most interesting way. The desire of its Occupant was no longer for physical manifestation; He therefore withdrew His life.

Điều này có thể thấy nơi Mặt Trăng theo một cách rất lý thú. Dục vọng của Đấng Cư ngụ nơi đó không còn hướng đến sự biểu lộ hồng trần; do vậy Ngài rút Sự sống của Ngài.

214. The “Occupant” of the Moon was, we hypothesize, a Chain-Lord—the “Lord of the Moon-chain”

214. “Đấng Cư ngụ” của Mặt Trăng, chúng ta giả thuyết, là một Vị Chúa Tể Dãy—“Chúa Tể của Dãy Mặt Trăng”.

All that is left is the devitalised shell; the two other aspects have gone

Điều còn lại chỉ là cái vỏ đã mất sinh lực; hai phương diện kia đã rời đi

215. Gone where? We have been told that the life of the Moon-chain eventually merged with the life of the Earth-chain. This is surely a deep mystery.

215. Rời đi đâu? Chúng ta đã được cho biết rằng Sự sống của Dãy Mặt Trăng rốt cuộc đã dung hợp với Sự sống của Dãy Địa Cầu. Đây hẳn là một huyền nhiệm sâu xa.

216. Surely, these two higher aspects must remain inherent in the life of the Planetary Logos. They are simply emanations of that Life.

216. Chắc chắn, hai phương diện cao hơn ấy vẫn phải hàm tàng trong Sự sống của Hành Tinh Thượng đế. Chúng chỉ là những xuất lộ của Sự Sống đó.

and only the third aspect, the inherent life of matter itself, remains gradually to dissipate also as the centuries elapse.

và chỉ phương diện thứ ba, tức Sự sống cố hữu của chính vật chất, là còn lại để rồi cũng dần dần tiêu tán theo năm tháng.

217. The higher principles have been withdrawn. The dissipation has been going on for millions of years and will be completed, we are told, by the seventh round (whether of our planetary chain or our planetary scheme—it is not stated).

217. Các nguyên khí cao hơn đã được rút về. Sự tiêu tán đã diễn ra qua hàng triệu năm và, như chúng ta được cho biết, sẽ hoàn tất vào cuộc tuần hoàn thứ bảy (dù của Dãy hành tinh của chúng ta hay của hệ hành tinh của chúng ta—điều này không được nêu rõ).

In connection with man, a similar condition [559] is seen in the gradual disintegration of the physical body after death; the two other aspects are removed, and the form decays.

Liên quan đến con người, một tình trạng tương tự [559] được thấy trong sự phân rã từ từ của thể xác sau khi chết; hai phương diện kia được rút đi, và hình tướng rã mục.

218. However, just as the two removed aspects (soul and Spirit) in the case of a man still survive and are not disintegrated, we must imagine that the higher two aspects of the Lord of the Moon-chain have also survived and are still to be considered as part of the Planetary Logos.

218. Tuy nhiên, cũng như hai phương diện bị rút đi (linh hồn và Thần) trong trường hợp con người vẫn tồn tại và không bị phân rã, chúng ta phải hình dung rằng hai phương diện cao hơn của Chúa Tể Dãy Mặt Trăng cũng vẫn tồn tại và vẫn được xem là bộ phận của Hành Tinh Thượng đế.

As these fundamental facts are grasped, and man begins to appreciate his position as Creator, the entire aspect of the sex question will also change; and emphasis will be laid upon the laws of mental creation, on the formulation of thought-forms in a scientific manner, and the dense physical aspect of creation will be in abeyance.

Khi các sự thật căn bản này được nắm bắt, và con người bắt đầu đánh giá vị trí của mình như một Nhà Tạo Hóa, toàn bộ phương diện của vấn đề tính dục cũng sẽ đổi khác; và trọng tâm sẽ đặt vào các định luật của sự sáng tạo trí tuệ  , vào sự hình thành các hình tư tưởng theo cách khoa học, và phương diện hồng trần đậm đặc của sự sáng tạo sẽ tạm bị gác lại.

219. It is required that man’s image of himself change.

219. Đòi hỏi hình ảnh của con người về chính mình phải thay đổi.

220. Let us tabulate the results which will occur when man begins to appreciate his position as Creator:

220. Chúng ta hãy liệt kê những kết quả sẽ xảy ra khi con người bắt đầu đánh giá vị trí của mình như một Nhà Tạo Hóa:

a.  The entire aspect of the sex question will change

a. Toàn bộ phương diện của vấn đề tính dục sẽ đổi khác

b.  Emphasis will be laid upon the laws of mental creation

b. Trọng tâm sẽ đặt vào các định luật của sự sáng tạo trí tuệ

c.  Emphasis will be laid upon the formulation of thoughtforms in a scientific manner

c. Trọng tâm sẽ đặt vào sự hình thành các hình tư tưởng theo cách khoa học

d.  The dense physical aspect of creation will be in abeyance.

d. Phương diện hồng trần đậm đặc của sự sáng tạo sẽ tạm bị gác lại.

221. The time will come, we are told, when the creation of physical forms through which the souls of men can express will involve the throat center and, thus, obviously, the mental plane.

221. Sẽ đến lúc, như chúng ta được cho biết, việc tạo các hình tướng hồng trần qua đó các linh hồn của con người có thể biểu lộ sẽ liên quan đến luân xa cổ họng và, do đó, hiển nhiên, đến cõi trí .

222. Creation will then be in line with Purpose and the Law. It will be a far more planned and more rational process.

222. Khi ấy sự sáng tạo sẽ phù hợp với Thiên Ý và Định luật. Đó sẽ là một tiến trình có kế hoạch hơn nhiều và có lý tính hơn nhiều.

223. The magical methods of precipitating thought will be understood. Precipitation will be an automatic process. The important questions will focus on what is to be precipitated.

223. Các phương pháp huyền thuật để ngưng tụ tư tưởng sẽ được thấu hiểu. Sự ngưng tụ sẽ là một tiến trình tự động. Các câu hỏi quan trọng sẽ tập trung vào cái gì cần được ngưng tụ.

When this is so, then will man be coming into his divine right, and the human kingdom be fulfilling its legitimate function.

Khi điều này xảy ra, con người sẽ bước vào quyền thiêng liêng của mình, và giới nhân loại sẽ hoàn tất chức năng chính đáng của nó.

224. That function involves mediation between the three higher and three lower kingdoms.

224. Chức năng ấy liên hệ đến sự trung giới giữa ba giới cao và ba giới thấp.

225. Man must also learn to function creatively upon the buddhic plane—the chosen field of expression of the Fourth Creative Hierarchy.

225. Con người cũng phải học vận dụng sáng tạo trên cõi Bồ đề—trường biểu lộ được chọn của Huyền Giai Sáng Tạo Thứ Tư.

226. The term “legitimate” suggests ‘under the Law’ which reflects Purpose and Plan.

226. Từ “chính đáng” gợi ý ‘dưới Định luật’ vốn phản ánh Thiên Ý và Thiên Cơ.

The sex aspect — as at present expressing itself — and the whole process of reproduction is one which man shares with the animal kingdom, and is based upon his animal instincts, and his dense physical nature, which is not a principle.

Phương diện tính dục — như hiện nay nó đang biểu lộ — và toàn bộ tiến trình sinh sản là điều con người chia sẻ với giới động vật, và được đặt nền trên các bản năng thú tánh của y, và trên bản chất hồng trần đậm đặc của y, vốn không phải là một nguyên khí.

227. We gather that man is presently prompted by much that arose in the previous solar system. He is, in a way, urged on by the patterns of the past. He has not yet begun to live in a principled manner.

227. Chúng ta hiểu rằng hiện nay con người đang được thôi thúc bởi nhiều điều phát sinh trong hệ mặt trời trước. Về một phương diện, y bị thúc đẩy bởi các mô hình của quá khứ. Y vẫn chưa bắt đầu sống một cách hướng nguyên khí .

228. The whole meaning of the term “principle” takes on greater depth. When that which prompts so much of man’s activity is not (in terms of this solar system) even a principle, it cannot be expected that humanity (as a whole) will be an expression of principled living—in both senses of the term “principled”.

228. Toàn bộ ý nghĩa của từ “nguyên khí” trở nên sâu sắc hơn. Khi cái thôi thúc phần lớn hoạt động của con người thậm chí (xét theo hệ mặt trời này) không phải là một nguyên khí, thì không thể trông đợi rằng nhân loại (như một tổng thể) sẽ là biểu hiện của đời sống hướng nguyên khí —theo cả hai nghĩa của thuật ngữ “hướng nguyên khí”.

When he is totally emancipated from the animal kingdom, and the third and fourth kingdoms stand distinct from each other,

Khi y hoàn toàn thoát ly khỏi giới động vật, và giới thứ ba và thứ tư đứng tách bạch nhau,

229. Just as the life patterns generated on the Moon-chain and those generated on the Earth-chain must stand distinct from each other…

229. Cũng như các mô hình sự sống được tạo ra trên Dãy Mặt Trăng và những mô hình được tạo ra trên Dãy Địa Cầu phải đứng tách bạch với nhau…

then the sex nature, and the organs of reproduction will be viewed by the average man in a very different manner than at present.

bấy giờ bản chất tính dục, và các cơ quan sinh sản sẽ được người thường nhìn nhận theo một cách rất khác so với hiện nay.

230. Man is now swayed by these instincts. He does not yet govern them adequately.

230. Hiện nay con người còn bị các bản năng này chi phối. Y vẫn chưa điều ngự chúng một cách đầy đủ.

231. This emancipation from the animal kingdom occurs at the third initiation after a tremendous battle with the energies represented by Mars and the Moon.

231. Sự thoát ly khỏi giới động vật này xảy ra ở lần điểm đạo thứ ba sau một cuộc chiến đấu ghê gớm với các năng lượng do Sao Hỏa và Mặt Trăng tượng trưng.

Creation will eventually be the result of thought impulses and not desire impulses; the process will be then (once the initial impulse on the mental plane has been given), as normal, as safe, and as unconscious as the act of breathing is now.

Sự sáng tạo rốt cuộc sẽ là kết quả của các xung lực tư tưởng chứ không phải của các xung lực dục vọng; khi ấy tiến trình (một khi xung lực sơ khởi trên cõi trí đã được phát ra) sẽ tự nhiên, an toàn, và vô thức như hành vi thở hiện nay vậy.

232. DK speaks of a process which can only be conceived with difficulty; it is so unlike the present process so much driven by animal instinct and so unsafe for both mother and child.

232. Chân sư DK nói về một tiến trình chỉ có thể được hình dung với nhiều khó khăn; nó quá khác với tiến trình hiện tại vốn bị bản năng thú tánh thúc đẩy và quá thiếu an toàn cho cả mẹ lẫn con.

233. DK is also alluding to the fact that reproduction and death are so closely related. Over the ages, millions upon millions of human beings have died in the act of giving birth. This, He implies, will be a thing of the past.

233. Chân sư cũng ám chỉ đến sự kiện rằng sinh sản và chết chóc liên hệ gần gũi với nhau. Qua các thời đại, hàng triệu triệu con người đã chết trong lúc sinh nở. Ngài hàm ý rằng điều này sẽ thuộc về quá khứ.

234. We have a long way to go, but the rulership of the sacral center (and throat center!) by Uranus will take us in the right direction.

234. Chúng ta còn một chặng đường dài, nhưng sự chủ trị của luân xa xương cùng (và luân xa cổ họng!) bởi Sao Thiên Vương sẽ đưa chúng ta đi đúng hướng.

When this is so (and the time is a long way ahead), physical reproduction will still continue, but the physical form will be spoken of in terms of concretion and of energy, and the emphasis will be laid upon that which is to be embodied.

Khi điều này xảy ra (và thời gian ấy còn rất xa phía trước), sự sinh sản hồng trần vẫn sẽ tiếp tục , nhưng hình tướng hồng trần sẽ được nói đến theo các thuật ngữ về sự ngưng tụ vật chất và về năng lượng , và trọng tâm sẽ đặt vào cái cần được thọ thể.

235. We can see here a highly mental and purposeful process.

235. Ở đây chúng ta thấy một tiến trình rất trí tuệ và đầy mục đích.

236. The attention will turn to the subjective factor rather than the objective. The consciousness of humanity will turn increasingly esoteric; it will be the ‘idea’ that counts the most, and, only secondarily, the form which is to embody the idea (though this will not be neglected).

236. Sự chú tâm sẽ quay về yếu tố chủ quan hơn là khách quan. Tâm thức nhân loại sẽ ngày càng chuyển sang nội môn; ‘ý niệm’ sẽ là điều hệ trọng nhất, và chỉ thứ yếu mới là hình tướng sẽ thọ thể ý niệm (dù điều này cũng không bị xem nhẹ).

This stage will be entered upon when the functions of the etheric body are scientifically grasped and understood and the laws of creative thought are a matter of public knowledge and discussion; it will coincide with a period wherein the animal kingdom will again be under manasic impression, and individualisation will again be permitted.

Giai đoạn này sẽ được bước vào khi các chức năng của thể dĩ thái được nắm bắt và thấu hiểu một cách khoa học và các định luật của tư tưởng sáng tạo trở thành điều tri thức công cộng và được bàn luận công khai; nó sẽ trùng thời với một thời kỳ trong đó giới động vật lại chịu ấn tượng manas, và biệt ngã hóa lại được cho phép.

237. We are speaking of the emergence of new methods of physical reproduction (the providing of physical vehicles for the incarnating life).

237. Chúng ta đang nói về sự xuất hiện của những phương pháp mới trong sinh sản hồng trần (việc cung ứng các vận cụ hồng trần cho sự sống nhập thể).

238. Let us tabulate regarding the time and requirements for the emergence of these new approaches:

238. Chúng ta hãy liệt kê về thời điểm và các yêu cầu cho sự xuất hiện của các tiếp cận mới này:

a.  At that time the emotional body will be scientifically understood

a. Khi đó thể cảm xúc sẽ được thấu hiểu một cách khoa học

b.  At that time, the laws of creative thought will be a matter of public knowledge and discussion

b. Khi đó các định luật của tư tưởng sáng tạo sẽ là điều tri thức công cộng và được bàn luận công khai

c.  At that time the animal kingdom will again be under manasic impression

c. Khi đó giới động vật sẽ lại chịu ấn tượng manas

d.  At that time individualisation will again be permitted.

d. Khi đó biệt ngã hóa sẽ lại được cho phép.

239. While a few members of the animal kingdom may enter the human kingdom in the fourth round, the next wave of animal individualization is to occur in the fifth round. We seem to be speaking of developments which will materialize in the fifth round.

239. Dẫu một ít phần tử của giới động vật có thể bước vào giới nhân loại trong cuộc tuần hoàn thứ tư, làn sóng biệt ngã hóa động vật kế tiếp sẽ xảy ra trong cuộc tuần hoàn thứ năm. Có vẻ như chúng ta đang nói về những phát triển sẽ hiện thực trong cuộc tuần hoàn thứ năm.

240. We might ask, “Will it be that long before the public speaks intelligently of things etheric?” Some speak of these matters now, but they are, over all, a tiny minority. Yet the word is spreading fast…

240. Chúng ta có thể hỏi, “Có phải sẽ lâu đến thế trước khi công chúng nói một cách thông tuệ về các điều thuộc cõi dĩ thái?” Một số người đang nói về các vấn đề này ngay bây giờ, nhưng nhìn chung, họ vẫn là thiểu số rất nhỏ. Tuy vậy, thông tin đang lan truyền nhanh chóng…

[560]

[560]

It will be generally recognised at that time that Spirit-matter are two aspects of the one Unity, and the present terminol­ogy of Spirit, and material substance, will have given place to the broader concept of negative and positive energy as the two aspects of the One Energy.

Khi ấy sẽ được nhìn nhận rộng rãi rằng Thần–chất là hai phương diện của một Nhất Thể, và thuật ngữ hiện nay về Thần Linh và chất liệu vật chất sẽ nhường chỗ cho khái niệm rộng hơn về năng lượng âm và dương như hai phương diện của Một Năng Lượng .

241. This way of understanding is common fare for the average student of esotericism or occultism.

241. Cách hiểu này là điều thường thức đối với người học huyền môn hay huyền bí học trung bình.

242. We begin to see how far ahead of public thought is the esoteric world view, yet for all that, more rapid assimilation of even this forward-looking perspective is very possible.

242. Chúng ta bắt đầu thấy thế giới quan nội môn vượt trước tư tưởng đại chúng bao xa; dẫu vậy, việc lĩnh hội nhanh hơn viễn kiến tiến bộ này là hoàn toàn khả hữu.

243. DK is advising us that we should not be thinking so much in terms of Spirit and material substance as in terms of “negative and positive energy as the two aspects of the One Energy”.

243. Chân sư DK đang khuyên chúng ta rằng chúng ta không nên nghĩ quá nhiều theo các thuật ngữ Thần Linh và chất liệu vật chất mà nên nghĩ theo “năng lượng âm và dương như hai phương diện của Một Năng Lượng”.

244. We can see the emergence into practical understanding of the mantram, “Two Merge With One”.

244. Chúng ta có thể thấy sự xuất lộ vào hiểu biết thực hành của mantram, “Hai Hợp làm Một”.

All phenomena will then be expressed in force terms, and the sex question—or the union of the male and female, the negative and the positive, on the physical plane—will be redeemed and purified.

Bấy giờ mọi hiện tượng sẽ được diễn tả bằng các thuật ngữ về lực, và vấn đề tính dục—hay sự kết hợp của nam và nữ, âm và dương, trên cõi hồng trần—sẽ được cứu chuộc và tinh luyện.

245. This purification will occur through the application of an illumined mentality. The whole process will be removed from passion, glamor and instinctual compulsion.

245. Sự tinh luyện này sẽ xảy ra nhờ áp dụng một trí tuệ được soi sáng. Toàn bộ tiến trình sẽ được đưa ra khỏi đam mê, ảo cảm và sự thôi thúc bản năng.

246. As this can expected some time in the fifth round, we can see that the power of Venus (a fifth ray planet) will be very much involved in such a transformation.

246. Vì điều này được mong đợi vào một lúc nào đó trong cuộc tuần hoàn thứ năm, chúng ta có thể thấy quyền lực của Kim Tinh (một hành tinh cung năm) sẽ dính dự rất nhiều vào sự chuyển hóa như vậy.

An embodied idea, therefore, is literally a positive impulse, emanating from mental levels, and clothing itself in a veil of negative substance.

Vậy một ý niệm được thọ thể, theo đúng nghĩa, là một xung lực dương, xuất lộ từ các cấp trí tuệ, và tự khoác lên mình một tấm màn chất liệu âm.

247. Here the Tibetan speaks in terms of electricity.

247. Ở đây Chân sư Tây Tạng nói theo các thuật ngữ điện học.

248. We are given a still more advanced definition of an “embodied idea”.

248. Chúng ta được trao cho một định nghĩa còn tiến bộ hơn về một “ý niệm được thọ thể”.

249. In this type of embodiment, positive and negative come together as in the production of a human incarnational embodiment.

249. Trong kiểu thọ thể này, dương và âm kết hợp với nhau như trong sự sản sinh một lần thọ thể nhập thế của con người.

250. In studying this definition, we can understand something of the mental creativity of the sign Aries. Aries is called “the birthplace of ideas” and certainly it is a sign of great positivity in the electrical sense.

250. Khi nghiên cứu định nghĩa này, chúng ta có thể thấu hiểu đôi điều về sáng tạo trí tuệ của dấu hiệu Bạch Dương. Bạch Dương được gọi là “nơi sinh của các ý niệm” và chắc chắn đó là một dấu hiệu rất dương theo nghĩa điện học.

These two factors in turn will be regarded as emanations from a still greater force centre, which is expressing purpose through them both.

Hai yếu tố này tiếp đó sẽ được xem là các xuất lộ từ một trung tâm Lực còn lớn hơn, trung tâm này đang biểu lộ mục đích qua cả đôi bên.

251. In this manner the pairs of opposites will be transcended. Polarity will be seen to serve a higher unity.

251. Bằng cách này, cặp đối đãi sẽ được siêu vượt. Tính lưỡng cực sẽ được nhìn như đang phục vụ một nhất thể cao hơn.

A thought form, as constructed by man, is the union of a positive emanation and a negative. These two are the emanations of a Unity, the coherent Thinker.

Một hình tư tưởng, như do con người cấu tạo, là sự kết hợp của một xuất lộ dương và một xuất lộ âm. Hai cái này là những xuất lộ của một Nhất thể, Vị Tư Tưởng nhất quán.

252. Unity almost always represents the middle principle. “The One between comes forth and knows both Time and God”.

252. “Nhất thể” hầu như luôn đại diện cho nguyên lý ở giữa. “Đấng Ở Giữa xuất hiện và biết cả Thời Gian lẫn Thượng đế”.

253. The positive emanation and the negative produce a unity (i.e., the thoughtform) and are the production of a “Unity”.

253. Xuất lộ dương và âm tạo ra một nhất thể (tức hình tư tưởng) và chính chúng là sản phẩm của một “Nhất thể”.

254. We now consider the third purpose of thoughtforms.

254. Nay chúng ta xét mục đích thứ ba của các hình tư tưởng.

c. To Carry Out Specific Purpose. We touch here upon the most vital element in the building of thoughtforms.

c. Để Thi Hành Một Mục Đích Cụ Thể . Ở đây chúng ta chạm tới yếu tố sinh động nhất trong sự kiến tạo các hình tư tưởng.

255. When DK uses the term “vital” here, He may be linking it to the first aspect of divinity, to which “Purpose” is also linked.

255. Khi Chân sư DK dùng từ “sinh động” ở đây, Ngài có thể liên hệ nó với phương diện thứ nhất của Thiêng tính, mà “Mục đích” cũng được liên hệ.

In our first point we touched upon the aspect of consciousness, or “response to sensation, or feeling,” and thus brought into our study of the building process the second aspect logoic, that of the Ego, or the realisation of essential duality.

Trong điểm thứ nhất chúng ta đã chạm tới phương diện tâm thức, hay “đáp ứng với cảm xúc, hay cảm giác,” và do đó đưa vào nghiên cứu của chúng ta về tiến trình kiến tạo phương diện thứ hai của Thượng đế, tức phương diện của Chân ngã, hay sự nhận thức về nhị nguyên tính cốt yếu.

256. DK is reviewing the divine aspects touched upon in describing the purposes of thoughtforms.

256. Chân sư DK đang điểm lại các Phương diện thiêng liêng đã được chạm tới khi mô tả các mục đích của hình tư tưởng.

257. The first purpose discussed is linked to the second aspect—the consciousness aspect.

257. Mục đích thứ nhất đã được bàn tới gắn với phương diện thứ hai—phương diện tâm thức.

258. Through sensitivity to vibration and the receptivity to vibration the building process goes forward.

258. Nhờ tính cảm ứng với rung động và nhờ khả năng tiếp thu rung động, tiến trình kiến tạo được đẩy tới.

In our second point the more objective aspect was somewhat elaborated, and the tangible form dealt with, thus bringing in the third logoic aspect, that of intelligent substance, or that through which consciousness seeks expression.

Trong điểm thứ hai phương diện khách quan hơn được triển khai phần nào, và hình tướng hữu hình được xử lý, nhờ đó đưa vào phương diện thứ ba của Thượng đế, tức phương diện của chất liệu thông tuệ, hay phương diện mà qua đó tâm thức tìm cách biểu lộ.

259. The second point was entitled: “To provide a body for an idea”. This purpose corresponded with the third aspect of divinity—“that of intelligent substance, or that through which consciousness seeks expression”.

259. Điểm thứ hai mang tựa: “Để cung cấp một thể cho một ý niệm”. Mục đích này tương ứng với phương diện thứ ba của Thiêng tính—“phương diện của chất liệu thông tuệ, hay phương diện mà qua đó tâm thức tìm cách biểu lộ”.

260. Embodiment occurs via the third aspect; response to contact, via the second.

260. Sự thọ thể xảy ra qua phương diện thứ ba; sự đáp ứng tiếp xúc, qua phương diện thứ hai.

Now the will or purpose aspect is to be considered, bringing therefore the first aspect logoic, or the “will-to-be” to the fore.

Nay phương diện ý chí hay mục đích được đưa ra xem xét, vì vậy mang phương diện thứ nhất của Thượng đế , hay “ý chí-hướng-hiện-hữu” ra phía trước.

261. This is why DK called the purpose entitled, “To Carry Forth a Specific Purpose”, the most vital element in the building of thoughtforms.

261. Đây là lý do tại sao Chân sư gọi mục đích mang tựa “Để Thi Hành Một Mục Đích Cụ Thể” là yếu tố sinh động nhất trong sự kiến tạo hình tư tưởng.

When this third point is meditated upon with care, it will be noted (as might be expected) that it includes the other two, and synthesises them.

Khi điểm thứ ba này được tham thiền một cách cẩn trọng, cần lưu ý rằng (như có thể trông đợi) nó bao gồm hai điểm kia, và tổng hợp chúng.

262. The first aspect brings in the factor of synthesis, and includes both responsiveness to vibration and embodiment. All is subsumed within the purpose.

262. Phương diện thứ nhất đưa yếu tố tổng hợp vào, và bao gồm cả cảm ứng với rung động lẫn sự thọ thể. Mọi sự đều được bao hàm trong mục đích.

263. To fulfill a specific purpose the thoughtform must be receptive and responsive and properly embodied.

263. Để hoàn thành một mục đích cụ thể, hình tư tưởng phải có tính cảm ứng và đáp ứng, và phải được thọ thể đúng cách.

Certain factors must be borne in mind as we consider these words “specific purpose.” By their tabulation [561] we shall endeavour to make as clear as may be, this very complex matter. The ideas involved are:

Một vài yếu tố cần ghi nhớ khi chúng ta xét những từ này “mục đích cụ thể.” Qua việc biên mục [561] chúng ta sẽ cố làm sáng tỏ hết mức có thể vấn đề rất phức tạp này. Những ý tưởng dính dự là:

264. The matter of purpose seems simple at first. DK tells us it is complex.

264. Vấn đề mục đích xem ra giản đơn lúc đầu. Chân sư DK cho biết nó phức tạp.

265. When dealing with the issue of “specific purpose” there are three ideas or factors involved (at least in this Commentary) and one factor to be taken up in the next Commentary—“The Factor of the Lesser Builders”.

265. Khi xử lý vấn đề “mục đích cụ thể” có ba ý tưởng hay yếu tố dính dự (ít nhất trong Chú giải này) và một yếu tố sẽ được nêu ở Chú giải kế tiếp—“Yếu Tố của Các Nhà Kiến Tạo Nhỏ”.

a.  The Factor of Identity

a. Yếu Tố Đồng Nhất

b.  The Factor of Time

b. Yếu Tố Thời Gian

c.  The Factor of Karma

c. Yếu Tố Nghiệp Quả

The Factor of Identity. Specific purpose is the practical application of the will, or intent, of a conscious intelligent Existence as it shows itself in:

Yếu Tố Đồng Nhất. Mục đích cụ thể là sự áp dụng thực tiễn của ý chí, hay chủ ý, của một Đấng Hiện Hữu có tâm thức và thông tuệ khi nó biểu lộ qua:

266. The practical application of the will which is here called “purpose” shows itself in—

266. Sự áp dụng thực tiễn của ý chí, vốn được gọi ở đây là “mục đích”, biểu lộ qua—

a. Its source

a. Nguồn xuất phát của nó

b. Its mission

b. Sứ mệnh của nó

c. Its method

c. Phương pháp của nó

d. Its objective.

d. Mục tiêu của nó.

267. When speaking of any “conscious intelligent Existence” it has a source, a mission, a method and an objective”.

267. Khi nói về bất kỳ “Đấng Hiện Hữu có tâm thức và thông tuệ” nào thì Ngài có một nguồn, một sứ mệnh, một phương pháp và một mục tiêu”.

268. A thoughtform going forth from such an Existence will also have a source, a mission, a method and an objective. “Mission” may seem similar to “objective” but is broader and more encompassing.

268. Một hình tư tưởng phóng xuất từ Đấng Hiện Hữu như vậy cũng sẽ có nguồn, sứ mệnh, phương pháp và mục tiêu. “Sứ mệnh” có vẻ tương tự “mục tiêu” nhưng rộng và bao quát hơn.

269. In this presentation, purpose is linked to practicality. There is a willed intent, and the specific purpose ensures that this willed intent is practically applied.

269. Trong trình bày này, mục đích gắn với tính thực tiễn. Có một chủ ý do ý chí hình dung, và mục đích cụ thể đảm bảo chủ ý đó được áp dụng thực tiễn.

270. Sometimes (in other contexts) purpose is considered the envisioned intent.

270. Đôi khi (trong những văn cảnh khác) mục đích được xem là chủ ý được kiến tưởng.

All these will vary according to the nature of the emanating Identity. All thought forms—logoic, planetary, and human—(for no other entities of lesser grade work as mental creators),

Tất cả những điều này sẽ thay đổi tùy theo bản chất của Đấng Đồng Nhất phát xạ. Mọi hình tư tưởng —thuộc Thượng đế, thuộc hành tinh, và của con người—(vì không có những thực thể thấp hơn nào hoạt động như các nhà sáng tạo trí tuệ),

271. Man is the lowest of the “mental creators”.

271. Con người là cấp thấp nhất trong các “nhà sáng tạo trí tuệ”.

emanate from a mind, are built for the purpose of carrying out some active work, demonstrate under set rules and laws, and have a definite goal, or expected consum­mation.

đều xuất lộ từ một tâm trí, được kiến tạo nhằm thi hành một công việc năng động nào đó, biểu lộ theo những quy tắc và định luật ấn định, và có một mục tiêu nhất định, hay một sự thành tựu viên mãn được trông đợi.

272. Let us tabulate the characteristics of an emanated thoughtform

272. Chúng ta hãy liệt kê các đặc tính của một hình tư tưởng được xuất lộ

a.  They emanate from a mind

a. Chúng xuất lộ từ một tâm trí

b.  They are build for the purpose of carrying out some active work

b. Chúng được kiến tạo nhằm thi hành một công việc năng động nào đó

c.  They demonstrate under set rules and laws

c. Chúng biểu lộ theo các quy tắc và định luật ấn định

d.  They have a definite goal

d. Chúng có một mục tiêu nhất định

e.  They have an expected consummation

e. Chúng có một sự viên mãn được trông đợi

The Factor of Time.

Yếu Tố Thời Gian.

273. This is the second of the three ideas related to the term “specific purpose”.

273. Đây là yếu tố thứ hai trong ba ý tưởng liên hệ đến thuật ngữ “mục đích cụ thể”.

Specific purpose in the solar system is the gradual evolution of a definite plan originating in the Mind of the Logos, and slowly, and cyclically, achieving consum­ma­tion.

Mục đích cụ thể trong hệ mặt trời là sự tiến hóa tuần tự của một Thiên Cơ xác định khởi sinh trong Tâm Trí của Thượng đế, và chậm rãi, theo chu kỳ, đạt đến sự viên mãn .

274. “Time and form agree. Being and Time do not agree”.

274. “Thời gian và hình tướng tương hợp. Bản Thể và Thời Gian không tương hợp”.

275. The Divine Purpose pre-exists the Divine Plan which executes in time and space (in all their different guises) the Divine Purpose.

275. Thiên Ý có trước Thiên Cơ, và Thiên Cơ thi triển Thiên Ý trong thời gian và không gian (dưới mọi dạng thức khác nhau của chúng).

276. The Divine Plan is strongly conditioned by time whereas the Divine Purpose is not.

276. Thiên Cơ bị điều kiện mạnh bởi thời gian, trong khi Thiên Ý thì không.

Three vast periods of time are consumed in the process:

Ba thời kỳ mênh mông của thời gian được tiêu dùng trong tiến trình:

277. There are a huge number of cycles, but within the many cycles certain great cycles stand out as most prominent.

277. Có một số lượng khổng lồ các chu kỳ, nhưng giữa muôn chu kỳ đó, vài chu kỳ lớn trội bật nhất.

The period of construction, wherein the form is built.

Thời kỳ kiến tạo, nơi hình tướng được xây dựng.

The period of utilisation, wherein the form is occupied, vitalised by a central Life, and employed.

Thời kỳ sử dụng, nơi hình tướng được cư ngụ, được một Sự Sống trung tâm tiếp sinh lực, và được dùng.

The period of dissolution, wherein the form is devitalised, destroyed and dissipated.

Thời kỳ phân hủy, nơi hình tướng bị rút sinh lực, bị phá hủy và tiêu tán.

278. Naturally, these three do not divide the time of total manifestation equally. The greatest amount of time is spent during the “period of utilisation”. Perhaps there is some parallel between the period of construction and the period of dissolution.

278. Tự nhiên, ba thời kỳ này không chia đều tổng thời gian biểu lộ. Phần lớn thời gian được tiêu dùng trong “thời kỳ sử dụng”. Có lẽ có một đối ứng nào đó giữa thời kỳ kiến tạo và thời kỳ phân hủy.

In the first stage, that which concerns the tangible, that which deals with objectivity, is the more emphasised, and of supreme importance.

Trong giai đoạn đầu, cái liên quan tới cái hữu hình, cái xử lý với khách quan, được nhấn mạnh hơn, và có tầm quan trọng tối thượng.

279. At the outset, the third aspect of divinity is paramount. During early years the physical factors attract most the attention of consciousness.

279. Lúc khởi thủy, phương diện thứ ba của Thiêng tính trội cao. Trong những năm đầu, các yếu tố vật chất thu hút nhất sự chú ý của tâm thức.

In the second stage, the life within the form, or the subjective consciousness, comes gradually to the fore, and the quality, or the psyche of the thought-form, becomes apparent.

Trong giai đoạn thứ hai, sự sống bên trong hình tướng, hay tâm thức chủ quan, dần dần trồi lên phía trước, và phẩm tính, hay tâm hồn (psyche) của hình tư tưởng trở nên hiển lộ.

280. The second aspect relates to the psyche, the subjective consciousness. This is the period in which inherent quality is expressed for the purpose of contributing to the development of the whole.

280. Phương diện thứ hai liên hệ đến tâm hồn, đến tâm thức chủ quan. Đây là thời kỳ mà phẩm tính nội tại được biểu lộ nhằm đóng góp cho sự phát triển của toàn thể.

281. When dealing with that thoughtform known as a human being, the qualities inherent in the psyche emerge only slowly as the thoughtform grows from its earliest years to maturity.

281. Khi xét hình tư tưởng được gọi là một con người, các phẩm tính hàm tàng nơi tâm hồn chỉ xuất lộ chậm rãi khi hình tư tưởng tăng trưởng từ những năm đầu cho tới khi trưởng thành.

In the final stage, the thought form (having performed its mission), separates into its basic duality, and will or energy (which lies, as a unity, back of duality), ceases in intent.

Trong giai đoạn cuối, hình tư tưởng (sau khi đã hoàn tất sứ mệnh của mình), phân ly thành nhị nguyên căn bản của nó, và ý chí hay năng lượng (vốn, như một nhất thể, nằm phía sau nhị nguyên) chấm dứt trong ý hướng.

282. The tern “unity” can apply to the first or second aspect. Spirit is an indivisible unity. And yet, soul creates a unification between Spirit and substance.

282. Thuật ngữ “nhất thể” có thể áp dụng cho phương diện thứ nhất hay thứ hai. Thần Linh là một nhất thể bất khả phân. Tuy nhiên, linh hồn kiến tạo một sự hợp nhất giữa Thần Linh và chất liệu.

283. When will ceases in intent, it disengages from substance. The psyche remains vitalized by Spirit; substance loses its internal form (and, hence, its outer form) and disintegrates.

283. Khi ý chí chấm dứt trong ý hướng, nó thoát ly khỏi chất liệu. Tâm hồn vẫn được Thần Linh tiếp sinh lực; chất liệu đánh mất hình thể nội tại (và, do đó, hình tướng bên ngoài) và tan rã.

[562]

[562]

The objective life (spiritual life where cosmic thought-forms are concerned; manasic life when solar thought-forms are constructed; and elemental life where human thought-forms are built) withdraws and the form dissipates.

Sự sống khách quan (là sự sống tinh thần khi xét các hình tư tưởng vũ trụ; là sự sống manas khi các hình tư tưởng thái dương được kiến tạo; và là sự sống hành khí khi các hình tư tưởng của con người được xây dựng) rút lui và hình tướng tiêu tán.

284. The main idea here is that “objective life…withdraws and form dissipates”.

284. Ý tưởng chính ở đây là “sự sống khách quan…rút lui và hình tướng tiêu tán”.

285. However, we must note the three categories of “objective life”

285. Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý ba phân loại của “sự sống khách quan”

a.  Where cosmic thoughtforms are concerned, objective life is “spiritual life”.

a. Khi xét các hình tư tưởng vũ trụ, sự sống khách quan là “sự sống tinh thần”.

b.  Where solar thoughtforms are concerned, objective life is “manasic life”. It is the soul which withdraws.

b. Khi các hình tư tưởng thái dương được xét, sự sống khách quan là “sự sống manas”. Chính linh hồn rút lui.

c.  Where human thoughtforms are concerned, objective life is “elemental life”.

c. Khi các hình tư tưởng của con người được xét, sự sống khách quan là “sự sống hành khí”.

286. In this classification, are we saying that man (as manas) is a “solar thought-form”, created by a Solar Angel?

286. Trong bảng phân loại này, chúng ta có đang nói rằng con người (như manas) là một “hình tư tưởng thái dương”, do một Thái dương Thiên Thần tạo ra chăng?

In all these cases it will be apparent that only in the study of the development of the quality of the thought-form will its inherent purpose be revealed;

Trong tất cả các trường hợp này sẽ hiển hiện rằng chỉ qua việc nghiên cứu sự phát triển của phẩm tính của hình tư tưởng thì mục đích nội tại của nó mới được bày lộ ;

287. “No man commeth to the Father except through Me.” If we study the second aspect of divinity, the quality aspect, it will reveal the inherent purpose behind the demonstration of quality and form.

287. “Không ai đến được cùng Cha nếu không qua Ta.” Nếu chúng ta nghiên cứu phương diện thứ hai của Thiêng tính, tức phương diện phẩm tính , nó sẽ bày lộ mục đích nội tại đằng sau sự biểu dương phẩm tính và hình tướng.

288. I have often thought that purpose is that factor (among will, purpose and intention) which is most related to the quality aspect and hence to the second sub-ray of the first ray.

288. Tôi thường nghĩ rằng mục đích là yếu tố (giữa ý chí, mục đích và ý định) gắn bó nhất với phương diện phẩm tính và do đó với cung phụ thứ hai của Cung Thứ Nhất.

only as its emanative processes are comprehended will the nature of its mission become recognisable.

chỉ khi các tiến trình xuất lộ của nó được thông hiểu thì bản chất sứ mệnh của nó mới trở nên có thể nhận ra .

289. A thoughtform comes forth. To what end? Why was it emanated? The answer to these questions reveals its “mission”.

289. Một hình tư tưởng xuất lộ. Để làm gì? Vì lẽ gì nó được phát xạ? Câu trả lời cho các câu hỏi này bày lộ “sứ mệnh” của nó.

290. What was/is the mission of the human Monad? May we say that on its long elliptical Pilgrimage, it sets forth to redeem lower lives, all the while gaining experience in lower worlds with which it is unfamiliar? “I leave the Father’s Home and turning back, I save”.

290. Sứ mệnh của Chân thần con người là gì? Có thể nói rằng, trên cuộc Lữ Hành hình elip dài lâu của mình, Chân thần xuất hành để cứu chuộc các sự sống thấp, đồng thời tích lũy kinh nghiệm trong các cõi thấp vốn xa lạ với Ngài? “Ta rời Nhà của Cha và khi quay trở lại, Ta cứu rỗi”.

This is true fundamentally of all forms. Where the relatively unimportant forms—such as those constructed by man at this time—are concerned, this [the nature of its inherent purpose and mission] can easily be discovered,

Điều này đúng một cách căn bản đối với mọi hình tướng. Khi những hình tướng tương đối không quan trọng—như những hình tướng do con người kiến tạo vào thời điểm hiện tại—được xét đến, [bản chất mục đích nội tại và sứ mệnh của nó] có thể dễ dàng được phát hiện,

291. Man creates thoughtforms but those thoughtforms are relatively unimportant “at this time”. The Tibetan implies that the day will come when the thoughtforms created by man will be of some importance. Before that day comes man must learn much more about the Divine Plan and the Divine Purpose.

291. Con người kiến tạo các hình tư tưởng nhưng những hình tư tưởng ấy tương đối không quan trọng “vào thời điểm hiện tại”. Chân sư ám chỉ rằng sẽ đến ngày các hình tư tưởng do con người tạo ra sẽ có tầm quan trọng. Trước khi ngày ấy đến, con người phải học nhiều hơn nữa về Thiên Cơ và Thiên Ý.

and to the trained clairvoyant each form reveals:

và đối với nhà thông nhãn được rèn luyện, mỗi hình tướng bày lộ:

By its colour,

Qua màu sắc của nó,

292. This is the visual factor. The domain of life to which the thoughtform applies can be discerned.

292. Đây là yếu tố thị giác. Có thể nhận ra lĩnh vực sự sống mà hình tư tưởng áp dụng.

By its vibration,

Qua rung động của nó,

293. This is its fundamental energy. Is the vibration high or low and with what other vibrations does it accord or not accord?

293. Đây là năng lượng căn bản của nó. Rung động cao hay thấp và nó hòa hợp hay bất hòa với những rung động nào?

By its direction,

Qua định hướng của nó,

294. This is the purposive factor. What life patterns is the thoughtform intended to influence?

294. Đây là yếu tố mục đích. Hình tư tưởng dự định ảnh hưởng những mô hình sự sống nào?

By its keynote,

Qua chủ âm của nó,

295. This is the sound factor. The keynote of a thoughtform suggests the role it plays in cooperating with or disrupting the creation of harmony.

295. Đây là yếu tố âm thanh . Chủ âm của một hình tư tưởng gợi ý vai trò nó đóng trong việc cộng tác hay làm rối loạn sự kiến tạo hòa điệu.

the nature of the inner life, the quality of its vibration and the nature of its goal.

bản chất sự sống nội tại, phẩm tính rung động của nó và bản chất mục tiêu của nó.

296. If we are to put these thoughts together we will see that the nature of the inner life of a thoughtform, the quality of it vibration and the nature of its goal are revealed by its colour, its vibration, its direction and its keynote.

296. Nếu chúng ta ghép các ý nghĩ này lại, chúng ta sẽ thấy rằng bản chất sự sống nội tại của một hình tư tưởng, phẩm tính rung động của nó và bản chất mục tiêu của nó được bày lộ qua màu sắc, rung động, định hướng và chủ âm của nó.

297. We can see that we have much to study if we wish to understand thoughtforms.

297. Chúng ta có thể thấy rằng chúng ta còn nhiều điều để học nếu muốn hiểu các hình tư tưởng.

298. Every man (as manifesting in the three worlds) is a thoughtform; therefore every man has a colour, a vibration, a direction and a keynote.

298. Mỗi con người (như biểu lộ trong ba cõi) một hình tư tưởng; do đó mỗi con người có một màu sắc, một rung động, một định hướng và một chủ âm.

299. Right direction places a man rightly within the pattern of his purpose.

299. Định hướng đúng đặt một con người đúng chỗ trong mô hình mục đích của y.

300. When studying any thoughtform, we have been shown the criteria on which it can be evaluated.

300. Khi nghiên cứu bất kỳ hình tư tưởng nào, chúng ta đã được chỉ cho các tiêu chí để có thể thẩm định nó.

301. We wish to know the nature of its inner life, the quality of its vibration and the nature of its goal, and, therefore, we study its color, vibration, direction and keynote.

301. Chúng ta muốn biết bản chất sự sống nội tại của nó, phẩm tính rung động của nó và bản chất mục tiêu của nó, vậy nên chúng ta nghiên cứu màu sắc, rung động, định hướng và chủ âm của nó.

302. We can think of all thoughtforms we may encounter in these terms.

302. Chúng ta có thể nghĩ về mọi hình tư tưởng mà chúng ta gặp theo các thuật ngữ này.

In the summation of all these points will the purpose reveal itself.

Trong sự tổng hợp của tất cả những điểm này, mục đích sẽ tự bày lộ.

303. Purpose is the overarching factor. Many factors must be synthesized before purpose will be correctly revealed.

303. Mục đích là yếu tố bao trùm. Nhiều yếu tố phải được tổng hợp trước khi mục đích được bày lộ đúng đắn.

304. How many of us know or understand our purpose within a larger soul context, or within the context of our globe or chain or scheme?

304. Có bao nhiêu người trong chúng ta biết hay hiểu mục đích của mình trong bối cảnh lớn hơn của linh hồn, hay trong bối cảnh của Bầu hay Dãy hay Hệ hành tinh của chúng ta?

305. We must fulfil the injunction “Know Thyself” before such extended knowledge will be possible.

305. Chúng ta phải hoàn tất lời huấn lệnh “Hãy Tự Biết Mình” trước khi tri thức mở rộng như vậy trở nên khả hữu.

306. The third idea to be taken in relation to “specific purpose” is “The Factor of Karma”

306. Ý tưởng thứ ba cần nắm khi liên hệ với “mục đích cụ thể” là “Yếu Tố Nghiệp Quả”

The Factor of Karma. Every thought-form comes under the law of Karma through the effect it produces.

Yếu Tố Nghiệp Quả. Mọi hình tư tưởng đều chịu dưới định luật Nghiệp Quả thông qua hiệu ứng nó tạo ra.

307. Thoughtforms are an effect and produce effects.

307. Các hình tư tưởng là một hiệu quả và tạo ra các hiệu quả.

At this stage in the history of the system—that vast transitional stage between dense physical life and existence in the logoic etheric body

Vào giai đoạn này trong lịch sử của hệ thống—giai đoạn chuyển tiếp mênh mông giữa đời sống hồng trần đậm đặc và cuộc hiện hữu trong thể dĩ thái của Thượng đế—

308. Here is a most important statement which tells much about the developmental process of man and the Solar Logos.

308. Đây là một tuyên bố hết sức quan trọng, vốn cho biết nhiều điều về tiến trình phát triển của con người và Thái dương Thượng đế.

309. Man is certainly working largely within the dense sub-planes of the solar logoic dense vehicle. He strives to center himself within the “logoic etheric body” (beginning with the buddhic plane).

309. Con người chắc chắn đang hoạt động phần lớn trong các cõi phụ đậm đặc của vận cụ đậm đặc của Thái dương Thượng đế. Y nỗ lực đặt trung tâm của mình trong “thể dĩ thái của Thượng đế” (bắt đầu với cõi Bồ đề).

310. The Solar Logos too, still desires to be in physical incarnation and hence His twenty-one lower systemic sub-planes will continue to manifest.

310. Thái dương Thượng đế cũng vẫn mong muốn ở trong tình trạng lâm phàm hồng trần, do đó hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp của Ngài sẽ tiếp tục biểu lộ.

311. When this desire cease, the Solar Logos will focus His life in His cosmic etheric vehicle and the time will come when even this vehicle will be dropped and the logoic astral body will serve as the outermost body of logoic manifestation.

311. Khi ước muốn này chấm dứt, Thái dương Thượng đế sẽ tập trung Sự sống của Ngài trong vận cụ dĩ thái vũ trụ của Ngài, và sẽ đến lúc ngay cả vận cụ này cũng được bỏ xuống, và thể cảm dục của Thượng đế sẽ làm thể ngoài cùng của sự hiện lộ thuộc Thượng đế.

it is not easy for us to differentiate between those thought forms which are effects and those which are causes.

không dễ cho chúng ta phân biệt giữa những hình tư tưởng vốn là hiệu quả và những hình tư tưởng vốn là nguyên nhân.

312. Such differentiation would require a keen intuition which can only develop when man is focussed buddhically. Right now, he is participating in a process of transition between physical focus and cosmic etheric focus.

312. Sự phân biệt như vậy đòi hỏi một trực giác sắc bén chỉ có thể phát triển khi con người đặt điểm tập trung ở Bồ đề. Hiện tại, y đang tham dự vào một tiến trình chuyển tiếp giữa tập trung hồng trần và tập trung dĩ thái vũ trụ.

It should be remembered here that only cosmic and solar lords formulate thoughts. The lunar Lords and all lesser intelligences do not do so.

Cần ghi nhớ ở đây rằng chỉ các Đấng vũ trụ và Thái dương mới hình thành tư tưởng. Các Nguyệt tinh quân và mọi trí tuệ thấp hơn đều không làm như vậy.

313. This statement reveals much about the status of man. Since man formulates thought, man must necessarily be a solar lord.

313. Mệnh đề này phơi bày nhiều điều về địa vị của con người. Vì con người hình thành tư tưởng, nên con người tất yếu phải là một nhật tinh quân .

314. The Solar Logos, the Planetary Logos, and even the Chain-Lords are cosmic lords.

314. Thái dương Thượng đế, Hành Tinh Thượng đế, và thậm chí cả các Chúa Tể của Dãy đều là các Đấng vũ trụ.

315. Lunar Lords and all lesser intelligences respond to thoughts which have been formulated.

315. Các Nguyệt tinh quân và mọi trí tuệ thấp hơn đáp ứng với những tư tưởng đã được hình thành.

316. Before man can think clearly, he is more akin to the deva kingdom than the human; he responds to thoughts which have been created—by others.

316. Trước khi con người có thể tư duy minh bạch, y gần giống với giới deva hơn là giới nhân loại; y đáp ứng với những tư tưởng đã được tạo ra—bởi kẻ khác .

Therefore, the two above mentioned groups come under karmic law. They only are self-conscious, and therefore responsible. Where self-consciousness is not, there is no responsibility.

Do đó, hai nhóm vừa nêu chịu sự chi phối của định luật nghiệp quả. Chỉ họ là những kẻ tự ý thức, nên có trách nhiệm. Ở nơi nào không có tự ý thức, ở đó không có trách nhiệm.

317. Beings who are not self-consciousness are not yet the authors of their destiny. They respond; they do not originate.

317. Các hữu thể chưa tự ý thức thì chưa phải là tác giả của định mệnh mình. Họ chỉ đáp ứng; họ không khởi phát.

318. It is cosmic and solar lords, therefore, who come under karmic law.

318. Vì vậy, chính các Đấng vũ trụ và Thái dương chịu định luật nghiệp quả.

Hence animals are not held to be responsible, and though they [563] suffer on the physical plane and in their physical vehicles, on the subtler planes they are freed from karma, for they have neither memory nor anticipation;

Do đó, loài vật không bị xem là có trách nhiệm, và dẫu chúng [563] chịu đau khổ trên cõi hồng trần và trong các vận cụ hồng trần của chúng, thì trên những cõi vi tế hơn chúng được giải thoát khỏi nghiệp, vì chúng không có ký ức cũng không có sự tiên liệu;

319. As has been pointed out, animals do have memory but no center of consciousness to which to relate the memory; they also have at least embryonic anticipation, but again no center of consciousness to which to relate the anticipation. Memory is; anticipation is; but there is no-one who remembers or who anticipates.

319. Như đã được chỉ ra, loài vật có ký ức nhưng không có trung tâm tâm thức để gắn kết ký ức ấy; chúng cũng có ít nhất một sự tiên liệu ở dạng phôi thai, nhưng một lần nữa lại không có trung tâm tâm thức để liên hệ với sự tiên liệu đó . Có ký ức; có tiên liệu; nhưng không có ai nhớ hay tiên liệu.

320. Is DK saying that when animals incarnate they do not bring into a particular incarnation any individual karma?

320. Có phải Chân sư DK nói rằng khi loài vật lâm phàm, chúng không mang vào một kiếp lâm phàm cụ thể nào bất kỳ nghiệp cá nhân nào chăng?

321. Do animals live on the subtler planes as well as the physical? Certainly they live emotionally and in an embryonic sense, mentally (at least some of them do).

321. Loài vật có sống trên các cõi vi tế cũng như trên cõi hồng trần không? Chắc chắn chúng sống bằng cảm xúc và, theo nghĩa phôi thai, bằng trí tuệ (ít nhất một số loài thì có).

322. In relation to the animal, where does karma reside? Might it reside within that greater intelligence which informs the animal kingdom as a whole, or within lesser but still great intelligences who inform different divisions of the animal kingdom?

322. Liên quan đến loài vật, nghiệp trú ngụ ở đâu? Có thể chăng nó trú nơi trí tuệ lớn hơn vốn thấm nhuần toàn thể giới động vật như một tổng thể, hoặc nơi những trí tuệ kém hơn nhưng vẫn vĩ đại, vốn thấm nhuần các phân hệ khác nhau của giới động vật?

they lack the correlating faculty and as the spark of mind is missing, they are held free from the law of retribution, except where the physical body is concerned.

chúng thiếu năng lực liên kết-tổng hợp và vì thiếu tia lửa của trí tuệ, nên chúng được coi là thoát khỏi định luật báo ứng, trừ những gì liên quan đến thể xác.

323. It appears that that which animals inflict physically is physically inflicted upon them.

323. Có vẻ như điều gì loài vật gây ra về mặt thể xác thì sẽ được đáp trả trên chính chúng về mặt thể xác.

324. In general, the law of retribution is present only when there is self-consciousness and, thus, individual responsibility.

324. Nói chung, định luật báo ứng chỉ hiện diện khi có tự ý thức và do đó có trách nhiệm cá nhân.

325. We may also gather that the correlating faculty is dependent upon the “spark of mind”.

325. Chúng ta cũng có thể rút ra rằng năng lực liên kết-tổng hợp tùy thuộc vào “tia lửa của trí tuệ”.

326. Of course, even in our present era some human beings of lower developmental caliber have the correlating faculty but the “spark of mind” was never implanted—the mental unit was merely fanned until it became as a spark of mind—at least sufficiently stimulated to sustain a rudimentary self-consciousness.

326. Dĩ nhiên, ngay trong thời đại hiện nay, một số con người có trình độ phát triển thấp vẫn có năng lực liên kết-tổng hợp nhưng “tia lửa của trí tuệ” đã không bao giờ được gieo—đơn vị hạ trí chỉ được quạt cho đến khi nó trở thành như một tia lửa của trí tuệ—ít nhất được kích thích đủ để duy trì một tự ý thức sơ khai.

The reason for the suffering in the animal kingdom is hidden in the mystery of the sin of the mindless,80 and in that terrible period spoken of in the Secret Doctrine, which resulted in abortions and distortions of all kinds. Had this period not occurred, and this particular type of “miscarriage of purpose” not taken place, we should not have had the fearful karmic relationship which now exists between the third and the fourth kingdom.

Nguyên nhân của đau khổ trong giới động vật ẩn giấu trong huyền nhiệm về tội lỗi của kẻ vô trí,80 và trong giai đoạn kinh hoàng được nói đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm , vốn dẫn đến những chuyện sẩy thai và mọi thứ dị dạng. Nếu giai đoạn ấy đã không xảy ra, và kiểu “sẩy thai của mục đích” đặc thù này đã không diễn ra, thì chúng ta đã chẳng có mối liên hệ nghiệp quả đáng kinh sợ hiện đang tồn tại giữa giới thứ ba và giới thứ tư.

327. Here is an amazing section of text.

327. Đây là một đoạn văn kinh ngạc.

328. There was a period in history in which:

328. Đã có một thời kỳ trong lịch sử trong đó:

a.  The sin of the mindless was committed

a. Tội lỗi của kẻ vô trí đã bị phạm

b.  Abortions and distortions of all kinds resulted

b. Những vụ sẩy thai và những méo mó thuộc mọi loại đã xảy ra

329. Two results seem to have eventuated from the commission of the sin of the mindless:

329. Có vẻ như hai kết quả đã phát sinh từ việc phạm tội của kẻ vô trí:

a.  Suffering in the animal kingdom

a. Đau khổ trong giới động vật

b.  A “fearful karmic relationship” between the animal and human kingdoms

b. Một “mối liên hệ nghiệp quả đáng kinh sợ” giữa giới động vật và giới nhân loại

330. The relationship between the animal and human kingdoms is called a “fearful karmic relationship”. May we judge, then, that this relationship is characterized by fear experienced by each of the two kingdoms with respect to the other?

330. Mối liên hệ giữa giới động vật và giới nhân loại được gọi là một “mối liên hệ nghiệp quả đáng kinh sợ”. Vậy chúng ta có thể phán đoán rằng mối liên hệ này được đặc trưng bởi nỗi sợ mà mỗi giới trải nghiệm đối với giới kia chăng?

331. Fear is an irrational repulsion. One could expect that animals would have fear in relation to the human kingdom, but the irrational aspect should not be present in humanity.

331. Sợ hãi là một ly cách phi lý. Người ta có thể trông đợi các loài vật sẽ sợ hãi khi đối diện với giới nhân loại, nhưng phương diện phi lý ấy không nên hiện diện nơi nhân loại.

332. In any case a sustained irrational and debilitating repulsion existing between the two kingdoms is a definite impediment to the establishing of right relations between these kingdoms.

332. Dù thế nào, một sự ly cách dai dẳng, phi lý và làm suy kiệt tồn tại giữa hai giới là một chướng ngại rõ rệt cho việc thiết lập các liên hệ đúng đắn giữa các giới này.

80: The sin of the Mindless. See S. D., II, 195, 201. This sin has to do with the period of the Separation of the Sexes in the early third rootrace, the Lemurian. The same historical fact is hinted at also in the Bible in Genesis VI, 2:4.

80: Tội lỗi của Kẻ Vô Trí. Xem S. D., II, 195, 201. Tội này liên hệ đến thời kỳ Phân Ly Giới Tính vào giai đoạn đầu của giống dân gốc thứ ba, Lemuria. Cùng sự kiện lịch sử này cũng được ám chỉ trong Kinh Thánh, Sáng Thế Ký VI, 2:4.

333. How early in the third root race were the sexes separated? Some theorists consider that the separation occurred in the fifth sub-race of the third root race. Can the fifth sub-race be considered “early”?

333. Sớm đến mức nào trong giống dân gốc thứ ba thì các giới tính được phân ly? Một số nhà lý thuyết cho rằng sự phân ly xảy ra ở giống dân phụ thứ năm của giống dân gốc thứ ba. Liệu giống dân phụ thứ năm có thể được xem là “sớm” chăng?

334. And yet, it is possible that the first two sub-races of the third root race are not counted in the same way. Thus, the human process is considered to begin during the third root race of the third sub-race. In this case the fifth sub-race of the third root race could be considered to have occurred in the “early third root race”.

334. Tuy vậy, có thể rằng hai giống dân phụ đầu của giống dân gốc thứ ba không được tính theo cùng một cách. Như thế, tiến trình nhân loại được xem là bắt đầu trong giống dân gốc thứ ba của giống dân phụ thứ ba. Trong trường hợp này, giống dân phụ thứ năm của giống dân gốc thứ ba có thể được coi là đã xảy ra trong “giai đoạn đầu của giống dân gốc thứ ba”.

“They (the sexes) had already separated before the ray of divine reason had enlightened the dark region of their hitherto slumbering minds, and had sinned.

“Họ (các giới tính) đã phân ly rồi trước khi tia của lý trí thiêng liêng soi sáng miền tối tăm của những tâm trí bấy lâu ngủ yên của họ, và đã phạm tội.

335. From this explanation, it would seem that the separation of the sexes occurred before individualization or before the fanning of the “fanning of the spark of mind” (TCF 1174) Yet, some serious scholars say that individualization occurred before the separation of the sexes, when man was still in the hermaphroditic state.

335. Từ lời giải thích này, dường như việc phân ly giới tính xảy ra trước khi biệt ngã hóa hay trước khi “quạt bùng tia lửa của trí tuệ” (TCF 1174). Tuy nhiên, một số học giả nghiêm túc nói rằng biệt ngã hóa xảy ra trước sự phân ly giới tính, khi con người vẫn còn trong trạng thái lưỡng tính.

That is to say, they had committed evil unconsciously by producing an effect which was unnatural.”

Nghĩa là, họ đã phạm ác một cách vô thức bằng việc tạo ra một hệ quả vốn là phi tự nhiên.”

See also S. D., II, 721, 728.

Xem thêm S. D., II, 721, 728.

336. In some texts certain of the great Angels who should have either sent the spark of mind to such mindless units (or have fanned the flame) are blamed for this disaster. It is thought that if such relatively mindless animal men had had more light from ‘above’, the sin of the mindless would not have occurred.

336. Trong một số văn bản, một vài Vị Đại Thiên Thần vốn đáng lẽ phải hoặc gửi tia lửa của trí tuệ đến những đơn vị vô trí như thế (hoặc đã quạt cho ngọn lửa bùng lên) bị quy trách cho tai họa này. Người ta cho rằng nếu những người thú tương đối vô trí ấy có được nhiều ánh sáng hơn từ ‘thượng giới’, thì tội lỗi của kẻ vô trí đã không xảy ra.

The effect of the life and persistence of a thought-form, if maleficent and destructive, works out as “evil karma”; if beneficent it works as “good karma” in the group in which the emanator has a place.

Tác dụng của sự sống và sự tồn tại bền bỉ của một hình tư tưởng, nếu là bất thiện và phá hoại, sẽ biểu lộ thành “ác nghiệp”; nếu là lợi lạc thì sẽ biểu lộ thành “thiện nghiệp” trong nhóm mà người phát xạ thuộc về.

337. One of our tasks is to discriminate between maleficent and beneficent thoughtforms and to be sure that we create the latter.

337. Một trong những nhiệm vụ của chúng ta là phân biện giữa các hình tư tưởng bất thiện và lợi lạc, và bảo đảm rằng chúng ta tạo ra loại sau.

338. We note the group effect of generated thoughtforms. Beneficent thoughtforms, for instance, work out as “good karma” within the group in which the emanator has a place. We can see that we can affect our group(s) for good or for ill depending upon the nature of the thoughtforms we create.

338. Chúng ta lưu ý hiệu ứng nhóm của các hình tư tưởng được tạo ra. Chẳng hạn, những hình tư tưởng lợi lạc sẽ biểu lộ thành “thiện nghiệp” trong nhóm mà người phát xạ thuộc về. Rõ ràng là chúng ta có thể tác động đến nhóm (các nhóm) của mình theo hướng tốt hay xấu tùy theo bản chất các hình tư tưởng mà chúng ta tạo ra.

This is what is meant by there being no karma attached to the working out of a good and altruistic deed.

Đây là ý nghĩa của việc không có nghiệp gắn với sự triển khai của một hành vi thiện lành và vị tha.

339. Beneficent thoughtforms tend towards harmony; the working out of karma tends also towards harmony.

339. Các hình tư tưởng lợi lạc thiên về hoà điệu; sự triển khai của nghiệp cũng hướng về hoà điệu.

340. “Good karma” then is much closer to the balanced condition (which is the goal of all karmic process) than is “evil karma”.

340. Vậy “thiện nghiệp” gần với trạng thái quân bình (vốn là mục tiêu của mọi tiến trình nghiệp) hơn “ác nghiệp” rất nhiều.

Scroll to Top