CHƯƠNG 3: THE HIDDEN SIDE OF CHRISTIANITY (Concluded)
(b) THE TESTIMONY OF THE CHURCH | (b) CHỨNG CỨ CỦA GIÁO HỘI |
WHILE it may be that some would be willing to admit the possession by the Apostles and their immediate successors of a deeper knowledge of spiritual things than was current among the masses of the believers around them, few will probably be willing to take the next step, and, leaving that charmed circle, accept as the depository of their sacred learning the Mysteries of the Early Church. Yet we have S. Paul providing for the transmission of the unwritten teaching, himself initiating S. Timothy, and instructing S. Timothy to initiate others in his turn, [Page 60] who should again hand it on to yet others. We thus see the provision of four successive generations of teachers, spoken of in the Scriptures themselves, and these would far more than overlap the writers of the Early Church, who bear witness to the existence of the Mysteries. For among these are pupils of the Apostles themselves, though the most definite statements belong to those removed from the Apostles by one intermediate teacher. Now, as soon as we begin to study the writings of the Early Church, we are met by the facts that there are allusions which are only intelligible by the existence of the Mysteries, and then statements that the Mysteries are existing. This might, of course, have been expected, seeing the point at which the New Testament leaves the matter, but it is satisfactory to find the facts answer to the expectation. | Mặc dù có thể có một số người sẵn lòng thừa nhận rằng các Tông đồ và những người kế vị trực tiếp của họ có kiến thức sâu sắc hơn về những điều tinh thần so với những người tin xung quanh họ, nhưng có lẽ ít người sẵn lòng bước tiếp theo, và, rời khỏi vòng tròn mê hoặc đó, chấp nhận rằng các Bí Ẩn của Giáo hội Sơ khai là nơi lưu giữ kiến thức thiêng liêng của họ. Tuy nhiên, chúng ta có S. Paul chuẩn bị cho việc truyền đạt giáo lý chưa được viết ra, tự mình điểm đạo cho S. Timothy, và hướng dẫn S. Timothy điểm đạo cho người khác, người sẽ lại truyền đạt cho những người khác nữa. Chúng ta thấy sự chuẩn bị của bốn thế hệ giáo viên kế tiếp nhau, được nói đến trong chính Kinh Thánh, và những người này sẽ vượt xa hơn nhiều so với các tác giả của Giáo hội Sơ khai, những người làm chứng cho sự tồn tại của các Bí Ẩn. Trong số này có các học trò của chính các Tông đồ, mặc dù những tuyên bố rõ ràng nhất thuộc về những người cách xa các Tông đồ bởi một giáo viên trung gian. Bây giờ, ngay khi chúng ta bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm của Giáo hội Sơ khai, chúng ta gặp phải những sự thật rằng có những ám chỉ chỉ có thể hiểu được bởi sự tồn tại của các Bí Ẩn, và sau đó là những tuyên bố rằng các Bí Ẩn đang tồn tại. Điều này có thể, tất nhiên, đã được mong đợi, khi thấy điểm mà Tân Ước để lại vấn đề, nhưng thật hài lòng khi thấy các sự kiện đáp ứng kỳ vọng. |
The first witnesses are those called the Apostolic Fathers, the disciples of the Apostles; but very little of their writings, and that disputed, remains. Not being written controversially, the statements are not as categorical as those of the later writers. Their letters are for the encouragement of the believers. Polycarp, Bishop of Smyrna, and fellow-disciple with [Page 61] Ignatius of S. John, [Vol. I. The Martyrdom of Ignatius, ch. iii. – The translations used are those of Clarke’s Ante-Nicene Library, a most useful compendium of Christian antiquity. The number of the volume which stands first in the references is the number of the volume in that Series.] expresses a hope that his correspondents are “ well versed in the sacred Scriptures and that nothing is hid from you; but to me this privilege is not yet granted” [Ibid., The Epistle of Polycarp, ch. xii.] —writing, apparently, before reaching full Initiation. Barnabas speaks of communicating “some portion of what I have myself received”, [Ibid., The Epistle of Barnabas, ch. i.] and after expounding the Law mystically, declares that “we then, rightly understanding His commandments, explain them as the Lord intended”. [Ibid., ch. x.] Ignatius, Bishop of Antioch, a disciple of S. John, [Ibid., The Martyrdom of Ignatius, ch. i.] speaks of himself as “not yet perfect in Jesus Christ. For I now begin to be a disciple, and I speak to you as my fellow-disciples”, [Ibid., Epistle of Ignatius to the Ephesians, ch. iii.] and he speaks of them as “initiated into the mysteries of the Gospel with Paul, the holy, the martyred”. [Ibid., ch. xii.] Again he says: “Might I not write to you things more full of mystery? But I fear to do so, lest I should inflict injury on you who are but babes. [Page 62] Pardon me in this respect, lest, as not being able to receive their weighty import, ye should be strangled by them. For even I, though I am bound [for Christ] and am able to understand heavenly things, the angelic orders, and the different sorts of angels and hosts, the distinction between powers and dominions, and the diversities between thrones and authorities, the mightiness of the eons, and the pre-eminence of the cherubim and seraphim, the sublimity of the Spirit, the kingdom of the Lord, and above all the incomparable majesty of Almighty God—though I am acquainted with these things, yet am I not therefore by any means perfect, nor am I such a disciple as Paul or Peter”. [Ibid to the Trallians, ch. v. 2] This passage is interesting, as indicating that the organisation of the celestial hierarchies was one of the subjects in which instruction was given in the Mysteries. Again he speaks of the High Priest, the Hierophant, ‘‘to whom the holy of holies has been committed, and who alone has been entrusted with the secrets of God”. [Ibid., to the Philadelphians, ch. ix.] | Những nhân chứng đầu tiên là những người được gọi là Các Cha Tông đồ, các đệ tử của các Tông đồ; nhưng rất ít trong số các tác phẩm của họ, và điều đó còn tranh cãi, còn lại. Không được viết một cách tranh luận, các tuyên bố không rõ ràng như của các tác giả sau này. Các lá thư của họ là để khuyến khích những người tin. Polycarp, Giám mục của Smyrna, và đồng môn với Ignatius của S. John, bày tỏ hy vọng rằng những người nhận thư của ông “thông thạo Kinh Thánh thiêng liêng và không có gì bị giấu kín với các bạn; nhưng đối với tôi, đặc ân này chưa được ban cho” —viết, dường như, trước khi đạt đến Điểm Đạo đầy đủ. Barnabas nói về việc truyền đạt “một phần những gì tôi đã nhận được”, và sau khi giải thích Luật một cách thần bí, tuyên bố rằng “chúng ta sau đó, hiểu đúng các điều răn của Ngài, giải thích chúng như Chúa đã định”. Ignatius, Giám mục của Antioch, một đệ tử của S. John, nói về chính mình như “chưa hoàn hảo trong Đức Jesus Christ. Vì bây giờ tôi bắt đầu trở thành một đệ tử, và tôi nói với các bạn như những đồng môn của tôi”, và ông nói về họ như “đã được điểm đạo vào các bí ẩn của Phúc Âm với Paul, thánh, người tử đạo”. Một lần nữa ông nói: “Tôi có thể không viết cho các bạn những điều đầy bí ẩn hơn? Nhưng tôi sợ làm như vậy, kẻo tôi gây tổn thương cho các bạn, những người chỉ là trẻ sơ sinh. Xin tha thứ cho tôi về điều này, kẻo, vì không thể nhận được ý nghĩa nặng nề của chúng, các bạn sẽ bị bóp nghẹt bởi chúng. Vì ngay cả tôi, mặc dù tôi bị ràng buộc [vì Đức Christ] và có thể hiểu được những điều thiên đàng, các thứ tự thiên thần, và các loại thiên thần và quân đoàn khác nhau, sự phân biệt giữa quyền lực và quyền thống trị, và sự đa dạng giữa ngai vàng và quyền uy, sự vĩ đại của các eons, và sự ưu việt của các cherubim và seraphim, sự cao cả của Thần, vương quốc của Chúa, và trên hết là sự uy nghi vô song của Thượng đế Toàn Năng—mặc dù tôi quen thuộc với những điều này, nhưng tôi không phải vì thế mà hoàn hảo, cũng không phải là một đệ tử như Paul hay Peter”. Đoạn này thú vị, vì chỉ ra rằng tổ chức của các huyền giai thiên đàng là một trong những chủ đề được giảng dạy trong các Bí Ẩn. Một lần nữa ông nói về Thượng Tế, Hierophant, “người mà nơi thánh của các nơi thánh đã được giao phó, và người duy nhất được giao phó với các bí mật của Thượng đế”. |
We come next to S. Clement of Alexandria and his pupil Origen, the two writers of the second and third centuries who tell us most about [Page 63] the Mysteries in the Early Church; though the general atmosphere is full of mystic allusions, these two are clear and categorical in their statements that the Mysteries were a recognised institution. | Chúng ta tiếp tục đến S. Clement của Alexandria và học trò của ông, Origen, hai tác giả của thế kỷ thứ hai và thứ ba, những người nói với chúng ta nhiều nhất về các Bí Ẩn trong Giáo hội Sơ khai; mặc dù bầu không khí chung đầy những ám chỉ thần bí, hai người này rõ ràng và dứt khoát trong tuyên bố của họ rằng các Bí Ẩn là một tổ chức được công nhận. |
Now S. Clement was a disciple of Pantaenus, and he speaks of him and of two others, said to be probably Tatian and Theodotus, as “preserving the tradition of the blessed doctrine derived directly from the holy Apostles, Peter, James, John, and Paul’, [Vol. IV. Clement of Alexandria Stromata, bk. I., ch. i.] his link with the Apostles themselves consisting thus of only one intermediary. He was the head of the Catechetical School of Alexandria in A.D. 189, and died about A.D. 220. Origen, born about A.D. 185, was his pupil, and he is, perhaps, the most learned of the Fathers, and a man of the rarest moral beauty. These are the witnesses from whom we receive the most important testimony as to the existence of definite Mysteries in the Early Church. | Bây giờ S. Clement là một đệ tử của Pantaenus, và ông nói về ông và hai người khác, được cho là có thể là Tatian và Theodotus, như “bảo tồn truyền thống của giáo lý phúc lành được truyền trực tiếp từ các Tông đồ thánh, Peter, James, John, và Paul”, liên kết của ông với chính các Tông đồ chỉ bao gồm một trung gian. Ông là người đứng đầu Trường Giáo lý của Alexandria vào năm 189 sau Công nguyên, và qua đời khoảng năm 220 sau Công nguyên. Origen, sinh khoảng năm 185 sau Công nguyên, là học trò của ông, và ông có lẽ là người học rộng nhất trong số các Cha, và là một người có vẻ đẹp đạo đức hiếm có. Đây là những nhân chứng từ đó chúng ta nhận được lời chứng quan trọng nhất về sự tồn tại của các Bí Ẩn rõ ràng trong Giáo hội Sơ khai. |
The Stromata, or Miscellanies, of S. Clement are our source of information about the Mysteries in his time. He himself speaks of these writings as a “miscellany of Gnostic notes, according to the true philosophy”, [Vol. IV. Stromata, bk. I., oh. xxviii.] and also [Page 64] describes them as memoranda of the teachings he had himself received from Pantaenus. The passage is instructive: “The Lord . . . allowed us to communicate of those divine Mysteries, and of that holy light, to those who are able to receive them. He did not certainly disclose to the many what did not belong to the many; but to the few to whom He knew that they belonged, who were capable of receiving and being moulded according to them. But secret things are entrusted to speech, not to writing, as is the case with God. And if one say [It appears that even in those days there were some who objected to any truth being taught secretly!] that it is written, ‘There is nothing secret which shall not be revealed, nor hidden which shall not be disclosed,’ let him also hear from us, that to him who hears secretly, even what is secret shall be manifested. This is what was predicted by this oracle. And to him who is able secretly to observe what is delivered to him, that which is veiled shall be disclosed as truth; and what is hidden to the many shall appear manifest to the few. . . . The Mysteries are delivered mystically, that what is spoken may be in the mouth of the speaker; rather not in his voice, but in his understanding . . . The writing of these [Page 65] memoranda of mine, I well know, is weak when compared with that spirit, full of grace, which I was privileged to hear. But it will be an image to recall the archetype to him who was struck with the Thyrsus.” The Thyrsus, we may here interject, was the wand borne by Initiates, and candidates were touched with it during the ceremony of Initiation. It had a mystic significance, symbolising the spinal cord and the pineal gland in the Lesser Mysteries, and a Rod, known to Occultists, in the Greater. To say, therefore, “to him who was struck with the Thyrsus” was exactly the same as to say, “to him who was initiated in the Mysteries”. Clement proceeds: “We profess not to explain secret things sufficiently—far from it—but only to recall them to memory, whether we have forgot aught, or whether for the purpose of not forgetting. Many things, I well know, have escaped us, through length of time, that have dropped away unwritten. . . . There are then some things of which we have no recollection; for the power that was in the blessed men was great”. A frequent experience of those taught by the Great Ones, for Their presence stimulates and renders active powers which are normally latent, and which the pupil, unassisted, cannot evoke. “There are also some things which remained [Page 66] unnoted long, which have now escaped; and others which are effaced, having faded away in the mind itself, since such a task is not easy to those not experienced; these I revive in my commentaries. Some things I purposely omit, in the exercise of a wise selection, afraid to write what I guarded against speaking; not grudging—for that were wrong—but fearing for my readers, lest they should stumble by taking them in a wrong sense; and, as the proverb says, we should be found “reaching a sword to a child”. For it is impossible that what has been written should not escape [become known] , although remaining unpublished by me. But being always revolved, using the one only voice, that of writing, they answer nothing to him that makes enquiries beyond what is written; for they require of necessity the aid of some one, either of him who wrote, or of some one else who has walked in his footsteps. Some things my treatise will hint; on some it will linger; some it will merely mention. It will try to speak imperceptibly, to exhibit secretly, and to demonstrate silently”. [Ibid., bk. I, ch i.] | Stromata, hay Miscellanies, của S. Clement là nguồn thông tin của chúng ta về các Bí Ẩn trong thời của ông. Chính ông nói về những tác phẩm này như một “tập hợp các ghi chú Gnostic, theo triết học chân chính”, và cũng mô tả chúng như những ghi chú của các giáo lý mà ông đã nhận được từ Pantaenus. Đoạn văn này mang tính giáo dục: “Chúa… cho phép chúng ta truyền đạt những Bí Ẩn thiêng liêng đó, và ánh sáng thánh đó, cho những người có khả năng nhận chúng. Ngài chắc chắn không tiết lộ cho nhiều người những gì không thuộc về nhiều người; mà cho số ít người mà Ngài biết rằng chúng thuộc về, những người có khả năng nhận và được hình thành theo chúng. Nhưng những điều bí mật được giao phó cho lời nói, không phải cho văn bản, như là trường hợp với Thượng đế. Và nếu ai đó nói [Có vẻ như ngay cả trong những ngày đó cũng có một số người phản đối bất kỳ sự thật nào được dạy bí mật!] rằng nó được viết, ‘Không có gì bí mật mà sẽ không được tiết lộ, cũng không có gì ẩn giấu mà sẽ không được tiết lộ,’ hãy để người đó cũng nghe từ chúng ta, rằng đối với người nghe bí mật, ngay cả những gì bí mật cũng sẽ được tiết lộ. Đây là điều mà lời tiên tri này đã dự đoán. Và đối với người có khả năng bí mật quan sát những gì được truyền đạt cho mình, điều được che giấu sẽ được tiết lộ như sự thật; và những gì ẩn giấu với nhiều người sẽ xuất hiện rõ ràng với số ít người… Các Bí Ẩn được truyền đạt một cách thần bí, để những gì được nói có thể nằm trong miệng của người nói; không phải trong giọng nói của ông, mà trong sự hiểu biết của ông… Việc viết những ghi chú này của tôi, tôi biết rõ, là yếu khi so sánh với tinh thần đó, đầy ân sủng, mà tôi đã được đặc ân nghe. Nhưng nó sẽ là một hình ảnh để gợi nhớ lại nguyên mẫu cho người đã bị đánh với Thyrsus.” Thyrsus, chúng ta có thể xen vào đây, là cây gậy được mang bởi các Điểm đạo đồ, và các ứng viên được chạm vào với nó trong buổi lễ Điểm đạo. Nó có ý nghĩa thần bí, tượng trưng cho dây sống và tuyến tùng trong các Bí Ẩn Nhỏ, và một Cây gậy, được biết đến với các Nhà Huyền bí, trong các Bí Ẩn Lớn. Do đó, nói “với người đã bị đánh với Thyrsus” là hoàn toàn giống như nói, “với người đã được điểm đạo vào các Bí Ẩn”. Clement tiếp tục: “Chúng tôi không tuyên bố giải thích đủ các điều bí mật—xa vời điều đó—mà chỉ để gợi nhớ chúng, dù chúng tôi đã quên điều gì, hoặc để không quên. Nhiều điều, tôi biết rõ, đã thoát khỏi chúng tôi, qua thời gian dài, đã rơi rụng không được viết ra… Có những điều mà chúng tôi không nhớ; vì sức mạnh trong những người đàn ông phúc lành là lớn”. Một trải nghiệm thường xuyên của những người được dạy bởi các Đấng Cao Cả, vì sự hiện diện của Các Ngài kích thích và làm cho các năng lực thường tiềm ẩn trở nên hoạt động, và mà học trò, không được trợ giúp, không thể khơi dậy. “Cũng có những điều đã không được ghi chú lâu dài, mà bây giờ đã thoát khỏi; và những điều khác đã bị xóa nhòa, đã phai mờ trong tâm trí, vì một nhiệm vụ như vậy không dễ dàng đối với những người không có kinh nghiệm; những điều này tôi hồi sinh trong các bình luận của tôi. Một số điều tôi cố ý bỏ qua, trong việc thực hiện một sự lựa chọn khôn ngoan, sợ viết những gì tôi đã tránh nói; không phải vì keo kiệt—vì điều đó là sai—mà vì sợ cho độc giả của tôi, kẻo họ vấp ngã khi hiểu sai; và, như tục ngữ nói, chúng tôi sẽ bị phát hiện “đưa kiếm cho một đứa trẻ”. Vì không thể nào những gì đã được viết ra không thoát khỏi [trở nên được biết đến], mặc dù không được tôi công bố. Nhưng luôn luôn được xoay vòng, sử dụng giọng nói duy nhất, đó là viết, chúng không trả lời gì cho người đặt câu hỏi ngoài những gì đã được viết; vì chúng yêu cầu cần thiết sự trợ giúp của ai đó, hoặc của người đã viết, hoặc của ai đó khác đã đi theo bước chân của ông. Một số điều tác phẩm của tôi sẽ gợi ý; một số nó sẽ dừng lại; một số nó sẽ chỉ đề cập. Nó sẽ cố gắng nói một cách không thể nhận thấy, để trình bày một cách bí mật, và để chứng minh một cách im lặng”. |
This passage, if it stood alone, would suffice to establish the existence of a secret teaching in the Early Church. But it stands by no means alone. [Page 67] In Chapter xii of this same Book I, headed, “The Mysteries of the Faith not to be divulged to all” Clement declares that, since others than the wise may see his work, “it is requisite, therefore to hide in a Mystery the wisdom spoken, which the Son of God taught”. Purified tongue of the speaker, purified ears of the hearer, these were necessary. “Such were the impediments in the way of my writing. And even now I fear, as it is said to cast the pearls before swine, lest they tread them under foot and turn and rend us ‘For it is difficult to exhibit the really pure and transparent words respecting the true light, to swinish and untrained hearers. For scarcely could anything which they could hear be more ludicrous than these to the multitude; nor any subjects on the other hand more admirable or more inspiring to those of noble nature. But the wise do not utter with their mouth what they reason in council. But what ye hear in the ear said the Lord, ‘proclaim upon the houses’ bidding them receive the secret traditions of the true knowledge, and expound them aloft and conspicuously; and as we have heard in the ear” so to deliver them to whom it is requisite; but not enjoining us to communicate to all without distinction, what is said to them in parables [Page 68] But there is only a delineation in the memoranda, which have the truth sown sparse and broadcast, that it may escape the notice of those who pick up seeds like jackdaws; but when they find a good husbandman, each one of them will germinate and will produce corn”. | Đoạn văn này, nếu đứng một mình, sẽ đủ để thiết lập sự tồn tại của một giáo lý bí mật trong Giáo hội Sơ khai. Nhưng nó không đứng một mình. Trong Chương xii của cùng Quyển I này, có tiêu đề, “Các Bí Ẩn của Đức Tin không được tiết lộ cho tất cả”, Clement tuyên bố rằng, vì những người khác ngoài người khôn ngoan có thể thấy tác phẩm của ông, “nên cần thiết phải giấu trong một Bí Ẩn sự minh triết được nói, mà Con của Thượng đế đã dạy”. Lưỡi của người nói được thanh tẩy, tai của người nghe được thanh tẩy, những điều này là cần thiết. “Đó là những trở ngại trên con đường viết của tôi. Và ngay cả bây giờ tôi sợ, như đã nói, ném ngọc trai trước lợn, kẻo chúng giẫm đạp dưới chân và quay lại cắn xé chúng ta. Vì khó có thể trình bày những lời thực sự trong sáng và trong suốt về ánh sáng chân thật, cho những người nghe lợn và chưa được huấn luyện. Vì hầu như không có gì mà họ có thể nghe được hài hước hơn những điều này đối với đám đông; cũng không có chủ đề nào khác đáng ngưỡng mộ hoặc truyền cảm hứng hơn đối với những người có bản chất cao quý. Nhưng người khôn ngoan không thốt ra bằng miệng những gì họ lý luận trong hội đồng. Nhưng những gì các bạn nghe trong tai, Chúa đã nói, ‘tuyên bố trên các mái nhà’ yêu cầu họ nhận các truyền thống bí mật của tri thức chân thật, và giải thích chúng một cách cao và rõ ràng; và như chúng tôi đã nghe trong tai” để truyền đạt chúng cho những người cần thiết; nhưng không yêu cầu chúng tôi truyền đạt cho tất cả không phân biệt, những gì được nói với họ trong các dụ ngôn. Nhưng chỉ có một sự phác thảo trong các ghi chú, mà có sự thật được gieo rải và phát tán, để nó có thể thoát khỏi sự chú ý của những người nhặt hạt giống như chim ác là; nhưng khi họ tìm thấy một người nông dân giỏi, mỗi hạt sẽ nảy mầm và sẽ sản xuất ra ngô”. |
Clement might have added that to “proclaim upon the houses” was to proclaim or expound in the assembly of the Perfect, the Initiated, and by no means to shout aloud to the man in the street. | Clement có thể đã thêm rằng “tuyên bố trên các mái nhà” là tuyên bố hoặc giải thích trong hội đồng của Người Hoàn Hảo, Người Đã Được Điểm Đạo, và không phải là hét to cho người trên đường phố. |
Again he says that those who are “still blind and dumb, not having understanding, or the un-dazzled and keen vision of the contemplative soul . . . must stand outside of the divine choir. . . . Wherefore, in accordance with the method of concealment, the truly sacred Word, truly divine and most necessary for us, deposited in the shrine of truth, was by the Egyptians indicated by what were called among them adyta, and by the Hebrews by the veil. Only the consecrated . . . were allowed access to them. For Plato also thought it not lawful for ‘the impure to touch the pure. Thence the prophecies and oracles are spoken in enigmas, and the Mysteries are not exhibited incontinently to all and sundry, but only after certain [Page 69] purifications and previous instructions”. [Ibid., bk.V, ch.iv.] He then descants at great length on Symbols, expounding Pythagorean, Hebrew, Egyptian, [Ibid, ch. v-viii] and then remarks that the ignorant and unlearned man fails in understanding them. “But the Gnostic apprehends. Now then it is not wished that all things should be exposed indiscriminately to all and sundry, or the benefits of wisdom communicated to those who have not even in a dream been purified in soul (for it is not allowed to hand to every chance comer what has been procured with such laborious efforts); nor are the Mysteries of the Word to be expounded to the profane”. The Pythagoreans and Plato, Zeno, and Aristotle had exoteric and esoteric teachings. The philosophers established the Mysteries, for “was it not more beneficial for the holy and blessed contemplation of realities to be concealed?” [Ibid., ch. ix.] The Apostles also approved of “veiling the Mysteries of the Faith”, “for there is an instruction to the perfect”, alluded to in Colossians i, 9-11 and 25-27. “So that, on the one hand, then, there are the Mysteries which were hid till the time of the Apostles, and were delivered by them as they were received from the Lord, [Page 70] and, concealed in the Old Testament, were manifested to the saints. And, on the other hand, there is ‘the riches of the glory of the mystery in the Gentiles,’ which is faith and hope in Christ; which in another place he has called the ‘foundation’“. He quotes S. Paul to show that this “knowledge belongs not to all”, and says, referring to Heb. v. and vi., that “there were certainly among the Hebrews, some things delivered unwritten”; and then refers to S. Barnabas, who speaks of God, “who has put into our hearts wisdom and the understanding of His secrets”, and says that “it is but for few to comprehend these things”, as showing a “trace of Gnostic tradition”. “Wherefore instruction, which reveals hidden things, is called illumination, as it is the teacher only who uncovers the lid of the ark”. [Ibid., bk. V, ch. x] Further referring to S. Paul, he comments on his remark to the Romans that he will “come in the fullness of the blessing of Christ, [Loc. Cit, XX, 29.] ” a and says that he thus designates “the spiritual gift and the Gnostic interpretation, which being present he desires to impart to them present as ‘the fullness of Christ, according to the revelation of the Mystery sealed in the ages of eternity, but now manifested by the prophetic [Page 71] Scriptures’ [Ibid., xvi;ten, 25-26; the version quoted differs in words, but not in meaning, from the English Authorised Version] ……But only to a few of them is shown what those things are which are contained in the Mystery. Rightly, then, Plato, in the epistles, treating of God, says: ‘We must speak in enigmas; that should the tablet come by any mischance on its leaves either by sea or land, he who reads may remain ignorant’.” [Stromata, bk. V, ch. x] | Một lần nữa ông nói rằng những người “vẫn còn mù và câm, không có sự hiểu biết, hoặc tầm nhìn không bị chói và sắc bén của linh hồn chiêm ngưỡng… phải đứng ngoài dàn hợp xướng thiêng liêng… Do đó, theo phương pháp giấu giếm, Lời thiêng liêng thực sự, thực sự thiêng liêng và cần thiết nhất cho chúng ta, được đặt trong đền thờ của sự thật, đã được người Ai Cập chỉ ra bằng những gì được gọi là adyta, và bởi người Do Thái bằng tấm màn. Chỉ những người được thánh hiến… mới được phép tiếp cận chúng. Vì Plato cũng nghĩ rằng không hợp pháp cho ‘người không trong sạch chạm vào người trong sạch. Từ đó các lời tiên tri và các lời sấm được nói bằng những câu đố, và các Bí Ẩn không được trình bày ngay lập tức cho tất cả và mọi người, mà chỉ sau một số thanh tẩy và hướng dẫn trước”. Ông sau đó diễn giải dài dòng về các Biểu tượng, giải thích Pythagorean, Hebrew, Ai Cập, và sau đó nhận xét rằng người không biết và không học thất bại trong việc hiểu chúng. “Nhưng người Gnostic hiểu được. Bây giờ thì không mong muốn rằng tất cả mọi thứ nên được phơi bày một cách không phân biệt cho tất cả và mọi người, hoặc lợi ích của sự minh triết được truyền đạt cho những người chưa từng trong giấc mơ được thanh tẩy trong linh hồn (vì không được phép trao cho mọi người tình cờ những gì đã được thu thập với những nỗ lực lao động); cũng không phải các Bí Ẩn của Lời được giải thích cho những người phàm tục”. Các Pythagoreans và Plato, Zeno, và Aristotle có các giáo lý ngoại môn và nội môn. Các triết gia đã thiết lập các Bí Ẩn, vì “chẳng phải có lợi hơn cho sự chiêm ngưỡng thánh thiện và phúc lành của thực tại được giấu kín sao?” Các Tông đồ cũng tán thành “che giấu các Bí Ẩn của Đức Tin”, “vì có một sự giảng dạy cho người hoàn hảo”, được đề cập trong Colossians i, 9-11 và 25-27. “Vì vậy, một mặt, có các Bí Ẩn đã được giấu kín cho đến thời của các Tông đồ, và đã được truyền đạt bởi họ như họ đã nhận từ Chúa, và, được giấu kín trong Cựu Ước, đã được tiết lộ cho các thánh. Và, mặt khác, có ‘sự giàu có của vinh quang của bí ẩn trong người ngoại’, đó là đức tin và hy vọng vào Đức Christ; mà ở một nơi khác ông đã gọi là ‘nền tảng'”. Ông trích dẫn S. Paul để chỉ ra rằng “kiến thức này không thuộc về tất cả”, và nói, đề cập đến Heb. v. và vi., rằng “chắc chắn có những điều được truyền đạt không viết ra trong số người Do Thái”; và sau đó đề cập đến S. Barnabas, người nói về Thượng đế, “người đã đặt vào trái tim chúng ta sự minh triết và sự hiểu biết về các bí mật của Ngài”, và nói rằng “chỉ có ít người có thể hiểu được những điều này”, như cho thấy một “dấu vết của truyền thống Gnostic”. “Do đó, sự giảng dạy, mà tiết lộ những điều ẩn giấu, được gọi là sự soi sáng, vì chỉ có người thầy mới mở nắp hòm”. Tiếp tục đề cập đến S. Paul, ông bình luận về nhận xét của ông với người La Mã rằng ông sẽ “đến trong sự đầy đủ của phúc lành của Đức Christ,” và nói rằng ông do đó chỉ định “món quà tinh thần và sự giải thích Gnostic, mà khi có mặt ông mong muốn truyền đạt cho họ hiện diện như ‘sự đầy đủ của Đức Christ, theo sự mặc khải của Bí Ẩn được niêm phong trong các thời đại vĩnh cửu, nhưng bây giờ được tiết lộ bởi các văn bản tiên tri’… Nhưng chỉ có một số ít trong số họ được chỉ ra những điều đó là những gì được chứa trong Bí Ẩn. Đúng vậy, Plato, trong các bức thư, khi nói về Thượng đế, nói: ‘Chúng ta phải nói bằng những câu đố; để nếu bảng viết đến bằng bất kỳ sự cố nào trên các lá của nó, dù là trên biển hay đất liền, người đọc có thể vẫn không biết'”. |
After much examination of Greek writers, and an investigation into philosophy, S. Clement declares that the Gnosis “imparted and revealed by the Son of God, is wisdom. . . . And the Gnosis itself is that which has descended by transmission to a few, having been imparted unwritten by the Apostles”. [Ibid., bk. VI, ch. vii] A very long exposition of the life of the Gnostic, the Initiate, is given, and S. Clement concludes it by saying: “Let the specimen suffice to those who have ears. For it is not required to unfold the mystery, but only to indicate what is sufficient for those who are partakers in knowledge to bring it to mind”. [Ibid., bk. VII, ch. xiv.] | Sau nhiều cuộc kiểm tra các tác giả Hy Lạp, và một cuộc điều tra vào triết học, S. Clement tuyên bố rằng Gnosis “được truyền đạt và tiết lộ bởi Con của Thượng đế, là sự minh triết… Và chính Gnosis là điều đã được truyền lại cho một số ít, đã được truyền đạt không viết ra bởi các Tông đồ”. Một sự giải thích rất dài về cuộc sống của người Gnostic, Điểm đạo đồ, được đưa ra, và S. Clement kết luận bằng cách nói: “Hãy để mẫu vật đủ cho những người có tai. Vì không cần thiết phải mở ra bí ẩn, mà chỉ để chỉ ra những gì đủ cho những người tham gia vào kiến thức để gợi nhớ lại”. |
Regarding Scripture as consisting of allegories and symbols, and as hiding the sense in order to [Page 72] stimulate enquiry and to preserve the ignorant from danger. [Ibid., bk. VI, ch. xv.] S. Clement naturally confined the higher instruction to the learned. “Our Gnostic will be deeply learned”, [Ibid., bk. VI, x] he says. “Now the Gnostic must be erudite”. [Ibid., bk. VI, vii] Those who had acquired readiness by previous training could master the deeper knowledge, for though “a man can be a believer without learning, so also we assert that it is impossible for a man without learning to comprehend the things which are declared in the faith”. [Ibid., bk. I,ch. vi] “Some who think themselves naturally gifted, do not wish to touch either philosophy or logic; nay more, they do not wish to learn natural science. They demand bare faith alone. . . So also I call him truly learned who brings everything to bear on the truth—so that, from geometry, and music, and grammar, and philosophy itself, culling what is useful, he guards the faith against assault. How necessary is it for him who desires to be partaker of the power of God, to treat of intellectual subjects by philosophising”. [Ibid., ch. ix.] ”The Gnostic avails himself of branches of learning as auxiliary [Page 73] preparatory exercise.” [Ibid., BK. VI, ch. x.] So far was S. Clement from thinking that the teaching of Christianity should be measured by the ignorance of the unlearned. “He who is conversant with all kinds of wisdom will be pre-eminently a Gnostic”. [Ibid., bk. I, ch. xiii.] ” Thus while he welcomed the ignorant and the sinner, and found in the Gospel what was suited to their needs, he considered that only the learned and the pure were fit candidates for the Mysteries. “The Apostle, in contradistinction to Gnostic perfection, calls the common faith the foundation, and sometimes milk”, [Vol. XII. Stromata, bk. V, ch. iv.] but on that foundation the edifice of the Gnosis was to be raised, and the food of men was to succeed that of babes. There is nothing of harshness nor of contempt in the distinction he draws, but only a calm and wise recognition of the facts. | Xem Kinh Thánh như bao gồm các ẩn dụ và biểu tượng, và như giấu đi ý nghĩa để kích thích sự tìm hiểu và bảo vệ người không biết khỏi nguy hiểm. S. Clement tự nhiên giới hạn sự giảng dạy cao hơn cho những người học. “Người Gnostic của chúng ta sẽ học sâu”, ông nói. “Bây giờ người Gnostic phải là người uyên bác”. Những người đã có sự sẵn sàng thông qua đào tạo trước có thể nắm vững kiến thức sâu hơn, vì mặc dù “một người có thể là người tin mà không cần học, chúng tôi cũng khẳng định rằng không thể nào một người không học có thể hiểu được những điều được tuyên bố trong đức tin”. “Một số người nghĩ rằng mình có tài năng tự nhiên, không muốn chạm vào triết học hay logic; thậm chí hơn nữa, họ không muốn học khoa học tự nhiên. Họ chỉ yêu cầu đức tin trần trụi… Vì vậy, tôi cũng gọi người thực sự học là người mang mọi thứ để phục vụ cho sự thật—để, từ hình học, và âm nhạc, và ngữ pháp, và chính triết học, chọn lọc những gì hữu ích, ông bảo vệ đức tin khỏi sự tấn công. Cần thiết biết bao cho người mong muốn tham gia vào quyền năng của Thượng đế, để xử lý các chủ đề trí tuệ bằng cách triết lý”. “Người Gnostic sử dụng các nhánh của học tập như bài tập phụ trợ chuẩn bị.” S. Clement không nghĩ rằng việc giảng dạy Cơ đốc giáo nên được đo lường bởi sự thiếu hiểu biết của người không học. “Người quen thuộc với mọi loại minh triết sẽ là người Gnostic nổi bật nhất”. Do đó, trong khi ông chào đón người không biết và người tội lỗi, và tìm thấy trong Phúc Âm những gì phù hợp với nhu cầu của họ, ông cho rằng chỉ có người học và người trong sạch mới là ứng viên phù hợp cho các Bí Ẩn. “Tông đồ, trái ngược với sự hoàn hảo Gnostic, gọi đức tin chung là nền tảng, và đôi khi là sữa”, nhưng trên nền tảng đó, tòa nhà của Gnosis sẽ được xây dựng, và thức ăn của người lớn sẽ kế tiếp thức ăn của trẻ sơ sinh. Không có gì khắc nghiệt hay khinh miệt trong sự phân biệt mà ông vẽ ra, mà chỉ là một sự nhận thức bình tĩnh và khôn ngoan về các sự kiện. |
Even the well-prepared candidate, the learned and trained pupil, could only hope to advance step by step in the profound truths unveiled in the Mysteries. This appears clearly in his comments on the vision of Hennas, in which he also throws out some hints on methods of reading occult works. “Did not the Power also, that appeared to Hermas in the Vision, in the form [Page 74] of the Church, give for transcription the book which she wished to be made known to the elect? And this, he says, he transcribed to the letter, without finding how to complete the syllables. And this signified that the Scripture is clear to all, when taken according to base reading; and that this is the faith which occupies the place of the rudiments. Wherefore also the figurative expression is employed, ‘reading according to the letter’, while we understand that the gnostic unfolding of Scriptures, when faith has already reached an advanced state, is likened to reading according to the syllables . . . Now that the Saviour has taught the Apostles, the unwritten rendering of the written (scriptures) has been handed down also to us, inscribed by the power of God on hearts new, according to the renovation of the book. Thus those of highest repute among the Greeks dedicate the fruit of the pomegranate to Hermes, who they say is speech, on account of its interpretation. For speech conceals much. . . . That it is therefore not only to those who read simply that the acquisition of the truth is so difficult, but that not even to those whose prerogative the knowledge of the truth is, is the contemplation of it vouchsafed all at once, the history of Moses [Page 75] teaches; until accustomed to gaze, as the Hebrews on the glory of Moses, and the prophets of Israel on the visions of angels, so we also become able to look the splendours of truth in the face. ‘ [lbid., bk. VI, lh. xv.] | Ngay cả ứng viên được chuẩn bị tốt, học trò học và được đào tạo, cũng chỉ có thể hy vọng tiến bộ từng bước trong những chân lý sâu sắc được tiết lộ trong các Bí Ẩn. Điều này xuất hiện rõ ràng trong các bình luận của ông về tầm nhìn của Hennas, trong đó ông cũng đưa ra một số gợi ý về phương pháp đọc các tác phẩm huyền bí. “Chẳng phải Quyền năng cũng đã xuất hiện với Hermas trong Tầm nhìn, dưới hình thức Giáo hội, đã trao cho việc sao chép cuốn sách mà bà muốn được biết đến với những người được chọn? Và điều này, ông nói, ông đã sao chép từng chữ, mà không tìm thấy cách hoàn thành các âm tiết. Và điều này có nghĩa rằng Kinh Thánh rõ ràng với tất cả, khi được lấy theo cách đọc cơ bản; và đây là đức tin chiếm vị trí của các nguyên tắc cơ bản. Do đó, cũng có cách diễn đạt hình tượng được sử dụng, ‘đọc theo chữ cái’, trong khi chúng tôi hiểu rằng sự giải thích Gnostic của Kinh Thánh, khi đức tin đã đạt đến trạng thái tiên tiến, được ví như đọc theo các âm tiết… Bây giờ Đấng Cứu Rỗi đã dạy các Tông đồ, sự giải thích không viết ra của các văn bản (Kinh Thánh) đã được truyền lại cho chúng ta, được khắc bởi quyền năng của Thượng đế trên những trái tim mới, theo sự đổi mới của cuốn sách. Do đó, những người nổi tiếng nhất trong số người Hy Lạp dâng trái lựu cho Hermes, người mà họ nói là lời nói, vì sự giải thích của nó. Vì lời nói giấu đi nhiều điều… Do đó, không chỉ đối với những người đọc đơn giản mà việc thu nhận sự thật khó khăn như vậy, mà ngay cả đối với những người có đặc quyền là kiến thức về sự thật, sự chiêm ngưỡng của nó không được ban cho tất cả cùng một lúc, lịch sử của Moses dạy; cho đến khi quen với việc nhìn, như người Do Thái nhìn vào vinh quang của Moses, và các tiên tri của Israel nhìn vào các tầm nhìn của thiên thần, chúng ta cũng trở nên có khả năng nhìn thẳng vào sự huy hoàng của sự thật.” |
Yet more references might be given, but these should suffice to establish the fact that S. Clement knew of, had been initiated into, and wrote for the benefit of those who had also been initiated into, the Mysteries in the Church. | Còn nhiều tham chiếu khác có thể được đưa ra, nhưng những điều này nên đủ để thiết lập sự thật rằng S. Clement biết về, đã được điểm đạo vào, và viết vì lợi ích của những người cũng đã được điểm đạo vào, các Bí Ẩn trong Giáo hội. |
The next witness is his pupil Origen, that most shining light of learning, courage, sanctity, devotion, meekness, and zeal, whose works remain as mines of gold wherein the student may dig for the treasures of wisdom. | Nhân chứng tiếp theo là học trò của ông, Origen, ánh sáng rực rỡ nhất của học vấn, dũng cảm, thánh thiện, tận tụy, khiêm nhường, và nhiệt huyết, những tác phẩm của ông vẫn còn là những mỏ vàng nơi học sinh có thể đào bới để tìm kiếm kho báu của sự minh triết. |
In his famous controversy with Celsus attacks were made on Christianity which drew out a defence of the Christian position in which frequent references were made to the secret teachings. [Book I, of Against Celsus is found in Vol. X of the Ante-Nicene Library. The remaining books are in Vol. XXIII.] | Trong cuộc tranh luận nổi tiếng của ông với Celsus, các cuộc tấn công đã được thực hiện vào Cơ đốc giáo, điều này đã dẫn đến một sự bảo vệ vị trí Cơ đốc giáo trong đó có nhiều tham chiếu đến các giáo lý bí mật. |
Celsus had alleged, as a matter of attack, that Christianity was a secret system, and Origen traverses this by saying that while certain doctrines were secret, many others were public, and that this system of exoteric and esoteric teachings, adopted in Christianity, was also in general use among philosophers. The reader should note, in [Page 76] the following passage, the distinction drawn between the resurrection of Jesus, regarded in a historical light, and the “mystery of the resurrection”. | Celsus đã cáo buộc, như một vấn đề tấn công, rằng Cơ đốc giáo là một hệ thống bí mật, và Origen bác bỏ điều này bằng cách nói rằng trong khi một số giáo lý là bí mật, nhiều giáo lý khác là công khai, và rằng hệ thống giáo lý ngoại môn và nội môn này, được áp dụng trong Cơ đốc giáo, cũng được sử dụng rộng rãi trong số các triết gia. Người đọc nên chú ý, trong đoạn văn sau, sự phân biệt được vẽ ra giữa sự phục sinh của Jesus, được coi là một ánh sáng lịch sử, và “bí ẩn của sự phục sinh”. |
“Moreover, since he [Celsus] frequently calls the Christian doctrine a secret system [of belief] , we must confute him on this point also, since almost the entire world is better acquainted with what Christians preach than with the favourite opinions of philosophers. For who is ignorant of the statement that Jesus was born of a virgin, and that He was crucified, and that His resurrection is an article of faith among many, and that a general judgment is announced to come, in which the wicked are to be punished according to their deserts, and the righteous to be duly rewarded? And yet the Mystery of the resurrection, not being understood, is made a subject of ridicule among unbelievers. In these circumstances, to speak of the Christian doctrine as a secret system, is altogether absurd. But that there should be certain doctrines, not made known to the multitude, which are [revealed] after the exoteric ones have been taught, is not a peculiarity of Christianity alone, but also of philosophic systems, in which certain truths are exoteric and others esoteric. Some of the hearers of Pythagoras [Page 77] were content with his ipse dixit; while others were taught in secret those doctrines which were not deemed fit to be communicated to profane and insufficiently prepared ears. Moreover, all the Mysteries that are celebrated everywhere throughout Greece and barbarous countries, although held in secret, have no discredit thrown upon them, so that it is in vain he endeavours to calumniate the secret doctrines of Christianity, seeing that he does not correctly understand its nature”. [Vol. X. Origen against Celsus, bk. I, ch. vii.] | “Hơn nữa, vì ông [Celsus] thường gọi giáo lý Cơ đốc là một hệ thống bí mật [của niềm tin], chúng ta phải bác bỏ ông về điểm này, vì gần như toàn thế giới biết rõ hơn về những gì Cơ đốc nhân giảng dạy hơn là những ý kiến yêu thích của các triết gia. Vì ai không biết về tuyên bố rằng Jesus được sinh ra từ một trinh nữ, và rằng Ngài đã bị đóng đinh, và rằng sự phục sinh của Ngài là một điều khoản của đức tin trong số nhiều người, và rằng một sự phán xét chung được công bố sẽ đến, trong đó những kẻ ác sẽ bị trừng phạt theo công lao của họ, và những người công chính sẽ được thưởng xứng đáng? Và tuy nhiên, Bí Ẩn của sự phục sinh, không được hiểu, trở thành một chủ đề chế giễu trong số những người không tin. Trong những hoàn cảnh này, nói về giáo lý Cơ đốc như một hệ thống bí mật, là hoàn toàn vô lý. Nhưng rằng có những giáo lý nhất định, không được tiết lộ cho đám đông, mà được [tiết lộ] sau khi những giáo lý ngoại môn đã được dạy, không phải là một đặc điểm riêng của Cơ đốc giáo, mà cũng là của các hệ thống triết học, trong đó một số chân lý là ngoại môn và những chân lý khác là nội môn. Một số người nghe của Pythagoras hài lòng với ipse dixit của ông; trong khi những người khác được dạy bí mật những giáo lý mà không được coi là phù hợp để truyền đạt cho những tai không đủ chuẩn bị và phàm tục. Hơn nữa, tất cả các Bí Ẩn được tổ chức khắp Hy Lạp và các quốc gia man rợ, mặc dù được tổ chức bí mật, không bị mất uy tín, vì vậy vô ích ông cố gắng bôi nhọ các giáo lý bí mật của Cơ đốc giáo, thấy rằng ông không hiểu đúng bản chất của nó”. |
It is impossible to deny that, in this important passage, Origen distinctly places the Christian Mysteries in the same category as those of the Pagan world, and claims that what is not regarded as a discredit to other religions should not form a subject of attack when found in Christianity. | Không thể phủ nhận rằng, trong đoạn văn quan trọng này, Origen rõ ràng đặt các Bí Ẩn Cơ đốc trong cùng một danh mục với những Bí Ẩn của thế giới Ngoại giáo, và tuyên bố rằng những gì không bị coi là mất uy tín đối với các tôn giáo khác không nên trở thành một chủ đề tấn công khi được tìm thấy trong Cơ đốc giáo. |
Still writing against Celsus, he declares that the secret teachings of Jesus were preserved in the Church, and refers specifically to the explanations that He gave to His disciples of His parables, in answering Celsus’ comparison of “the inner Mysteries of the Church of God” with the Egyptian worship of Animals. “ I have not yet spoken of the observance of all that is written in [Page 78] the Gospels, each one of which contains much doctrine difficult to be understood, not merely by the multitude, but even by certain of the more intelligent, including a very profound explanation of the parables which Jesus delivered to ‘those without,’ while reserving the exhibition of their full meaning for those who had passed beyond the stage of exoteric teaching, and who came to Him privately in the house. And when he comes to understand it, he will admire the reason why some are said to be’ without,’ and others ‘in the house.’ [Vol. X. Origen against Celsus, bk. I, ch. vii.] | Vẫn viết chống lại Celsus, ông tuyên bố rằng các giáo lý bí mật của Jesus được bảo tồn trong Giáo hội, và đề cập cụ thể đến những giải thích mà Ngài đã đưa ra cho các môn đồ của Ngài về các dụ ngôn của Ngài, khi trả lời sự so sánh của Celsus về “các Bí Ẩn nội môn của Giáo hội của Thượng đế” với sự thờ phượng động vật của người Ai Cập. “Tôi chưa nói về việc tuân thủ tất cả những gì được viết trong các Phúc Âm, mỗi cái trong đó chứa đựng nhiều giáo lý khó hiểu, không chỉ đối với đám đông, mà thậm chí đối với một số người thông minh hơn, bao gồm một giải thích rất sâu sắc về các dụ ngôn mà Jesus đã truyền đạt cho ‘những người bên ngoài’, trong khi giữ lại việc trình bày ý nghĩa đầy đủ của chúng cho những người đã vượt qua giai đoạn giảng dạy ngoại môn, và đã đến với Ngài riêng tư trong nhà. Và khi ông đến để hiểu nó, ông sẽ ngưỡng mộ lý do tại sao một số người được nói là ‘bên ngoài’, và những người khác ‘trong nhà’.” |
And he refers guardedly to the “mountain” which Jesus ascended, from which he came down again to help “those who were unable to follow Him whither His disciples went”.The allusion is to “the Mountain of Initiation”, a well-known mystical phrase, as Moses also made the Tabernacle after the pattern “showed thee in the mount”. [Ex. xx.v, 40, xxvi, 30, and compare with Heb., viii, 5, and ix, 25.] Origen refers to it again later, saying that Jesus showed himself to be very different in his real appearance when on the “Mountain”, from what those saw who could not “ follow Him so high.” [Origen against Celsus, bk. IV, ch. xvi.] [Page 79] | Và ông đề cập một cách thận trọng đến “ngọn núi” mà Jesus đã leo lên, từ đó Ngài xuống lại để giúp “những người không thể theo Ngài đến nơi các môn đồ của Ngài đã đi”. Sự ám chỉ là đến “Ngọn Núi Điểm Đạo”, một cụm từ thần bí nổi tiếng, như Moses cũng đã làm Lều theo mô hình “đã chỉ cho ngươi trên núi”. Origen đề cập đến nó một lần nữa sau đó, nói rằng Jesus đã cho thấy mình rất khác biệt trong diện mạo thực sự của Ngài khi ở trên “Ngọn Núi”, so với những gì những người không thể “theo Ngài lên cao” đã thấy. |
So also, in his commentary on the Gospel of Matthew, Chap, xv, dealing with the episode of the Syro-Phoenician woman, Origen remarks: “And perhaps, also, of the words of Jesus there are some loaves which it is possible to give to the more rational, as to children, only; and others as it were crumbs from the great house and table of the well-born, which may be used by some souls like dogs”. | Cũng vậy, trong bình luận của ông về Phúc Âm Matthew, Chương xv, xử lý với sự kiện của người phụ nữ Syro-Phoenician, Origen nhận xét: “Và có lẽ, cũng có những lời của Jesus có một số bánh mà có thể được trao cho những người lý trí hơn, như cho trẻ em, chỉ; và những cái khác như thể là những mẩu vụn từ ngôi nhà lớn và bàn của những người sinh ra tốt, mà có thể được sử dụng bởi một số linh hồn như chó”. |
Celsus complaining that sinners were brought into the Church, Origen answers that the Church had medicine for those that were sick, but also the study and the knowledge of divine things for those who were in health. Sinners were taught not to sin, and only when it was seen that progress had been made, and men were “purified by the Word”, “then, and not before, do we invite them to participation in our Mysteries. For we speak wisdom among them that are perfect”. [Origen against Celsus, bk. Ill, ch. lix.] Sinners came to be healed: “For there are in the divinity of the Word some helps towards the cure of those who are sick. . . . Others, again, which to the pure in soul and body exhibit the ‘revelation of the Mystery, which was kept secret since the world began, but now is made manifest by the Scriptures of the [Page 80] prophets,’ and ‘by the appearing of our Lord Jesus Christ,’ which ‘appearing’ is manifested to each one of those who are perfect, and which enlightens the reason in the true knowledge of things”. [Origen against Celsus, bk. Ill, ch. Ixi.] Such appearances of divine Beings took place, we have seen, in the Pagan Mysteries, and those of the Church had equally glorious visitants. “God the Word”, he says, “was sent as a physician to sinners, but as a Teacher of Divine Mysteries to those who are already pure, and who sin no more”. [Ibid., ch. Ixii.] “Wisdom will not enter into the soul of a base man, nor dwell in a body that is involved in sin;” hence these higher teachings are given only to those who are “athletes in piety and in every virtue”. | Celsus phàn nàn rằng những kẻ tội lỗi được đưa vào Giáo hội, Origen trả lời rằng Giáo hội có thuốc cho những người bệnh, nhưng cũng có sự nghiên cứu và kiến thức về những điều thiêng liêng cho những người khỏe mạnh. Những kẻ tội lỗi được dạy không phạm tội, và chỉ khi thấy rằng đã có tiến bộ, và con người đã “được thanh tẩy bởi Lời”, “sau đó, và không trước đó, chúng tôi mời họ tham gia vào các Bí Ẩn của chúng tôi. Vì chúng tôi nói sự minh triết giữa những người hoàn hảo”. Những kẻ tội lỗi đến để được chữa lành: “Vì có trong thần tính của Lời một số trợ giúp cho việc chữa trị những người bệnh… Những người khác, một lần nữa, mà đối với những người trong sạch trong linh hồn và thân thể trình bày ‘sự mặc khải của Bí Ẩn, đã được giữ bí mật từ khi thế giới bắt đầu, nhưng bây giờ được tiết lộ bởi các văn bản của các tiên tri’, và ‘bởi sự xuất hiện của Chúa Jesus Christ của chúng ta’, mà ‘sự xuất hiện’ này được tiết lộ cho mỗi người trong số những người hoàn hảo, và mà soi sáng lý trí trong kiến thức chân thật về mọi thứ”. Những sự xuất hiện như vậy của các Đấng Thiêng Liêng đã diễn ra, chúng ta đã thấy, trong các Bí Ẩn Ngoại giáo, và những Bí Ẩn của Giáo hội cũng có những vị khách vinh quang tương tự. “Thượng đế Lời”, ông nói, “đã được gửi như một bác sĩ cho những kẻ tội lỗi, nhưng như một Người Thầy của các Bí Ẩn Thiêng Liêng cho những người đã trong sạch, và không còn phạm tội nữa”. “Sự minh triết sẽ không vào linh hồn của một người hèn hạ, cũng không ở trong một thân thể bị vướng vào tội lỗi”; do đó những giáo lý cao hơn này chỉ được trao cho những người là “vận động viên trong lòng mộ đạo và trong mọi đức hạnh”. |
Christians did not admit the impure to this knowledge, but said: “Whoever has clean hands, and, therefore, lifts up holy hands to God … . let him come to us ….. whoever is pure not only from all defilement, but from what are regarded as lesser transgressions, let him be boldly initiated in the Mysteries of Jesus, which properly are made known only to the holy and the pure”. Hence also, ere the ceremony of Initiation began, he who acts as Initiator, according to [Page 81] the precepts of Jesus, the Hierophant, made the significant proclamation “to those who have been purified in heart: He, whose soul has, for a long time, been conscious of no evil, especially since he yielded himself to the healing of the Word, let such a one hear the doctrines which were spoken in private by Jesus to His genuine disciples”. This was the opening of the “initiating those who were already purified into the sacred Mysteries”. [Origen against Celsus, bk. Ill, ch. Ix.] Such only might learn the realities of the unseen worlds, and might enter into the sacred precincts where, as of old, angels were the teachers, and where knowledge was given by sight and not only by words. It is impossible not to be struck with the different tone of these Christians from that of their modern successors. With them perfect purity of life, the practice of virtue, the fulfilling of the divine Law in every detail of outer conduct, the perfection of righteousness, were—as with the Pagans—only the beginning of the way instead of the end. Nowadays religion is considered to have gloriously accomplished its object when it has made the Saint; then, it was to the Saints that it devoted its highest energies, and, taking the pure in heart, it led them to the Beatific Vision. [Page 82] | Cơ đốc nhân không thừa nhận những người không trong sạch vào kiến thức này, mà nói: “Ai có đôi tay sạch, và, do đó, giơ tay thánh lên Thượng đế… hãy đến với chúng tôi… ai trong sạch không chỉ khỏi mọi ô uế, mà khỏi những gì được coi là vi phạm nhỏ hơn, hãy dũng cảm được điểm đạo vào các Bí Ẩn của Jesus, mà thực sự chỉ được biết đến với những người thánh thiện và trong sạch”. Do đó, trước khi buổi lễ Điểm Đạo bắt đầu, người thực hiện vai trò Điểm Đạo, theo các điều răn của Jesus, Hierophant, đã thực hiện lời tuyên bố có ý nghĩa “cho những người đã được thanh tẩy trong trái tim: Người mà linh hồn đã, trong một thời gian dài, không ý thức về điều ác, đặc biệt là từ khi người đó đã tự nguyện chữa lành bởi Lời, hãy để người đó nghe các giáo lý đã được nói riêng tư bởi Jesus cho các môn đồ chân chính của Ngài”. Đây là sự mở đầu của việc “điểm đạo những người đã được thanh tẩy vào các Bí Ẩn thiêng liêng”. Chỉ những người như vậy mới có thể học được thực tại của các cõi giới vô hình, và có thể bước vào các khu vực thiêng liêng nơi, như xưa, các thiên thần là những người thầy, và nơi kiến thức được trao bằng cách nhìn thấy và không chỉ bằng lời nói. Không thể không bị ấn tượng bởi giọng điệu khác biệt của những Cơ đốc nhân này so với những người kế vị hiện đại của họ. Với họ, sự trong sạch hoàn hảo của cuộc sống, việc thực hành đức hạnh, việc thực hiện Luật thiêng liêng trong mọi chi tiết của hành vi bên ngoài, sự hoàn hảo của sự công chính, là—như với người Ngoại giáo—chỉ là sự khởi đầu của con đường thay vì kết thúc. Ngày nay, tôn giáo được coi là đã hoàn thành mục tiêu của mình một cách vinh quang khi nó đã tạo ra Thánh nhân; khi đó, nó đã dành những năng lượng cao nhất của mình cho các Thánh nhân, và, dẫn dắt những người trong sạch trong trái tim, nó đã dẫn họ đến Tầm Nhìn Hạnh Phúc. |
The same fact of secret teaching comes out again, when Origen is discussing the arguments of Celsus as to the wisdom of retaining ancestral customs, based on the belief that “the various quarters of the earth were from the beginning allotted to different superintending Spirits, and were thus distributed among certain governing Powers, and in this way the administration of the world is carried on”. [Vol. XXIII. Origen against Celsus, bk. V, ch. xxv.] | Sự thật tương tự về giáo lý bí mật lại xuất hiện, khi Origen đang thảo luận về các lập luận của Celsus về sự khôn ngoan của việc duy trì các phong tục tổ tiên, dựa trên niềm tin rằng “các khu vực khác nhau của trái đất từ đầu đã được phân bổ cho các Thần giám sát khác nhau, và do đó được phân phối giữa các Quyền lực cai quản nhất định, và theo cách này việc quản lý thế giới được thực hiện”. |
Origen having animadverted on the deductions of Celsus, proceeds: “But as we think it likely that some of those who are accustomed to deeper investigation will fall in with this treatise, let us venture to lay down some considerations of a profounder kind, conveying a mystical and secret view respecting the original distribution of the various quarters of the earth among different superintending Spirits”. [Ibid., ch. xxviii.] He says that Celsus has misunderstood the deeper reasons relating to the arrangement of terrestrial affairs, some of which are even touched upon in Grecian history. Then he quotes Deut., xxxii, 8-9: “When the Most High divided the nations, when he dispersed the sons of Adam, He set the bounds of the people according to the number of the [Page 83] Angels of God; and the Lord’s portion was his people Jacob, and Israel the cord of his inheritance”. This is the wording of the Septuagint, not that of the English authorised version, but it is very suggestive of the title, the “Lord”, being regarded as that of the Ruling Angel of the Jews only, and not of the “Most High”, i.e., God. This view has disappeared, from ignorance, and hence the impropriety of many of the statements referring to the “Lord”, when they are transferred to the “Most High”, e.g., Judges, i,19. | Origen đã chỉ trích các suy luận của Celsus, tiếp tục: “Nhưng vì chúng tôi nghĩ rằng có khả năng một số người quen với việc điều tra sâu hơn sẽ gặp phải tác phẩm này, hãy để chúng tôi mạo hiểm đưa ra một số cân nhắc sâu sắc hơn, truyền đạt một quan điểm thần bí và bí mật về sự phân phối ban đầu của các khu vực khác nhau của trái đất giữa các Thần giám sát khác nhau”. Ông nói rằng Celsus đã hiểu sai các lý do sâu sắc liên quan đến sự sắp xếp của các vấn đề trần thế, một số trong đó thậm chí được đề cập trong lịch sử Hy Lạp. Sau đó, ông trích dẫn Deut., xxxii, 8-9: “Khi Đấng Tối Cao phân chia các quốc gia, khi Ngài phân tán các con trai của Adam, Ngài đã đặt ranh giới của các dân tộc theo số lượng của các Thiên thần của Thượng đế; và phần của Chúa là dân tộc của Ngài Jacob, và Israel là dây thừng của di sản của Ngài”. Đây là cách diễn đạt của Septuagint, không phải của phiên bản được ủy quyền tiếng Anh, nhưng nó rất gợi ý về việc danh hiệu “Chúa” được coi là của Thiên thần Cai quản của người Do Thái chỉ, và không phải của “Đấng Tối Cao”, tức là Thượng đế. Quan điểm này đã biến mất, do sự thiếu hiểu biết, và do đó sự không phù hợp của nhiều tuyên bố liên quan đến “Chúa”, khi chúng được chuyển cho “Đấng Tối Cao”, ví dụ, Judges, i,19. |
Origen then relates the history of the Tower of Babel, and continues: “But on these subjects much, and that of a mystical kind, might be said; in keeping with which is the following:’ It is good to keep close the secret of a king,’ Tobit, xii, 7, in order that the doctrine of the entrance of souls into bodies (not, however, that of the transmigration from one body into another) may not be thrown before the common understanding, nor what is holy given to the dogs, nor pearls be cast before swine. For such a procedure would be impious, being equivalent to a betrayal of the mysterious declarations of God’s wisdom … It is sufficient, however, to represent in the style of a historic narrative what is intended to convey a [Page 84] secret meaning in the garb of history, that those who have the capacity may work out for themselves all that relates to the subject”. [Vol. XXIII. Origen against Celsus, bk. V, ch. xxix.] He then expounds more fully the Tower of Babel story, and writes: “Now, in the next place, if any one has the capacity let him understand that in what assumes the form of history, and which contains some things that are literally true, while yet it conveys a deeper meaning. . . .” [Ibid., ch. xxxi] | Origen sau đó kể lại lịch sử của Tháp Babel, và tiếp tục: “Nhưng về những chủ đề này, nhiều điều, và điều đó mang tính thần bí, có thể được nói; phù hợp với điều này là điều sau đây: ‘Tốt để giữ kín bí mật của một vị vua,’ Tobit, xii, 7, để giáo lý về sự nhập hồn vào thân thể (tuy nhiên, không phải là sự chuyển sinh từ thân thể này sang thân thể khác) không bị ném trước sự hiểu biết chung, cũng không phải điều gì là thánh được trao cho chó, cũng không phải ngọc trai bị ném trước lợn. Vì một thủ tục như vậy sẽ là bất kính, tương đương với việc phản bội các tuyên bố bí ẩn của sự minh triết của Thượng đế… Tuy nhiên, đủ để đại diện theo phong cách của một câu chuyện lịch sử những gì được dự định để truyền đạt một ý nghĩa bí mật trong hình thức của lịch sử, để những người có khả năng có thể tự mình làm sáng tỏ tất cả những gì liên quan đến chủ đề”. Sau đó, ông giải thích đầy đủ hơn câu chuyện Tháp Babel, và viết: “Bây giờ, trong bước tiếp theo, nếu ai có khả năng hãy hiểu rằng trong những gì giả định hình thức của lịch sử, và chứa đựng một số điều là sự thật theo nghĩa đen, trong khi vẫn truyền đạt một ý nghĩa sâu sắc hơn…”. |
After endeavouring to show that the “Lord” was more powerful than the other superintending Spirits of the different quarters of the earth, and that he sent his people forth to be punished by living under the dominion of the other powers, and afterwards reclaimed them with all of the less favoured nations who could be drawn in, Origen concludes by saying: “As we have previously observed, these remarks are to be understood as being made by us with a concealed meaning, by way of pointing out the mistakes of those who assert. . . .” [Ibid., ch. xxxii] as did Celsus. | Sau khi cố gắng chỉ ra rằng “Chúa” mạnh mẽ hơn các Thánh Linh giám sát khác của các khu vực khác nhau trên trái đất, và rằng Ngài đã gửi dân Ngài ra để bị trừng phạt bằng cách sống dưới sự thống trị của các quyền lực khác, và sau đó thu hồi họ cùng với tất cả các quốc gia kém may mắn hơn có thể được thu hút vào, Origen kết luận bằng cách nói: “Như chúng ta đã quan sát trước đó, những nhận xét này được hiểu là được chúng ta thực hiện với một ý nghĩa ẩn giấu, bằng cách chỉ ra những sai lầm của những người khẳng định…”. như Celsus đã làm. |
After remarking that “ the object of Christianity is that we should become wise”, [Ibid., ch. xlv.] Origen proceeds: “If you come to the books written after [Page 85] the time of Jesus, you will find that those multitudes of believers who hear the parables are, as it were, ‘without,’ and worthy only of exoteric doctrines, while the disciples learn in private the explanation of the parables. For, privately, to His own disciples did Jesus open up all things, esteeming above the multitudes those who desired to know His wisdom. And He promises to those who believe on Him to send them wise men and scribes. . . . And Paul also in the catalogue of ‘Charismata’ bestowed by God, placed first ‘the Word of wisdom’, and second, as being inferior to it,’ the word of knowledge,’ but third, and lower down, ‘faith’. And because he regarded ‘the Word’ as higher than miraculous powers, he for that reason places ‘workings of miracles’ and ‘gifts of healings’ in a lower place than gifts of the Word”. [Vol. XXIII. Origen against Celsus, bk. V, ch. xlvi] | Sau khi nhận xét rằng “mục tiêu của Kitô giáo là chúng ta nên trở nên khôn ngoan”, Origen tiếp tục: “Nếu bạn đến với những cuốn sách được viết sau thời của Jesus, bạn sẽ thấy rằng những đám đông tín đồ nghe các dụ ngôn, như thể, ‘ở ngoài’, và chỉ xứng đáng với các giáo lý ngoại môn, trong khi các đệ tử học riêng tư sự giải thích của các dụ ngôn. Vì, riêng tư, với các đệ tử của Ngài, Jesus đã mở ra mọi điều, coi trọng hơn đám đông những người mong muốn biết sự minh triết của Ngài. Và Ngài hứa với những người tin vào Ngài sẽ gửi cho họ những người khôn ngoan và các ký lục… Và Paul cũng trong danh mục ‘Charismata’ được Thượng đế ban tặng, đặt ‘Linh từ của sự minh triết’ lên hàng đầu, và thứ hai, như là thấp hơn nó, ‘linh từ của tri thức’, nhưng thứ ba, và thấp hơn nữa, ‘đức tin’. Và vì Ngài coi ‘Linh từ’ là cao hơn các quyền năng kỳ diệu, Ngài vì lý do đó đặt ‘các phép lạ’ và ‘các món quà chữa lành’ ở vị trí thấp hơn các món quà của Linh từ”. |
The Gospel truly helped the ignorant, “but it is no hindrance to the knowledge of God, but an assistance, to have been educated, and to have studied the best opinions, and to be wise”. [Ibid., chs. xlvii-liv.] As for the unintelligent, “I endeavour to improve such also to the best of my ability, although I would not desire to build up the Christian [Page 86] community out of such materials. For I seek in preference those who are more clever and acute, because they are able to comprehend the meaning of the hard sayings”. [Vol. XXIII. Origen against Celsus, bk. V, ch, Ixxiv.] Here we have plainly stated the ancient Christian idea, entirely at one with the considerations submitted in Chapter I of this book. There is room for the ignorant in Christianity, but it is not intended only for them, and has deep teachings for the “clever and acute”. | Phúc âm thực sự đã giúp đỡ những người ngu dốt, “nhưng nó không cản trở tri thức về Thượng đế, mà là một sự hỗ trợ, để được giáo dục, và đã nghiên cứu những ý kiến tốt nhất, và trở nên khôn ngoan”. Đối với những người không thông minh, “Tôi cố gắng cải thiện những người như vậy cũng đến mức tốt nhất của khả năng của tôi, mặc dù tôi không mong muốn xây dựng cộng đồng Kitô giáo từ những vật liệu như vậy. Vì tôi tìm kiếm ưu tiên những người thông minh và sắc sảo hơn, vì họ có khả năng hiểu ý nghĩa của những lời khó hiểu”. Ở đây chúng ta có ý tưởng Kitô giáo cổ xưa được tuyên bố rõ ràng, hoàn toàn đồng nhất với những cân nhắc được trình bày trong Chương I của cuốn sách này. Có chỗ cho những người ngu dốt trong Kitô giáo, nhưng nó không chỉ dành cho họ, và có những giáo lý sâu sắc cho những người “thông minh và sắc sảo”. |
It is for these that he takes much pains to show that the Jewish and Christian Scriptures have hidden meanings, veiled under stories the outer meaning of which repels them as absurd, alluding to the serpent and the tree of life, and “the other statements which follow, which might of themselves lead a candid reader to see that all these things had, not inappropriately, an allegorical meaning”. [Ibid., bk. IV, oh. xxxix.] Many chapters are devoted to these allegorical and mystical meanings, hidden beneath the words of the Old and New Testaments, and he alleges that Moses, like the Egyptians, gave histories with concealed meanings”. [Vol. X. Origen against Celsus, bk. I, ch. xvii and others.] “He who deals candidly with histories”—this is Origen’s general canon of interpretation—”and [Page 87] would wish to keep himself also from being imposed on by them, will exercise his judgment as to what statements he will give his assent to, and what he will accept figuratively, seeking to discover the meaning of the authors of such inventions, and from what statements he will withhold his beliefs, as having been written for the gratification of certain individuals. And we have said this by way of anticipation respecting the whole history related in the Gospels concerning Jesus”. [Vol. X. Origen against Celsus, bk. I, ch. xlii.] A great part of his Fourth Book is taken up with illustrations of the mystical explanations of the Scripture stories, and anyone who wishes to pursue the subject can read through it. | Chính vì những người này mà Ngài rất nỗ lực để chỉ ra rằng Kinh Thánh Do Thái và Kitô giáo có những ý nghĩa ẩn giấu, được che giấu dưới những câu chuyện mà ý nghĩa bên ngoài của chúng đẩy lùi họ như là vô lý, ám chỉ đến con rắn và cây sự sống, và “những tuyên bố khác theo sau, vốn có thể tự chúng dẫn dắt một độc giả chân thành thấy rằng tất cả những điều này có, không không thích hợp, một ý nghĩa ẩn dụ”. Nhiều chương được dành cho những ý nghĩa ẩn dụ và thần bí này, ẩn dưới những lời của Cựu Ước và Tân Ước, và Ngài cho rằng Moses, giống như người Ai Cập, đã đưa ra những lịch sử với ý nghĩa ẩn giấu”. “Người xử lý lịch sử một cách chân thành”—đây là quy tắc chung của Origen về việc giải thích—”và muốn giữ mình cũng không bị lừa dối bởi chúng, sẽ sử dụng phán đoán của mình về những tuyên bố nào mà anh ta sẽ đồng ý, và những gì anh ta sẽ chấp nhận theo nghĩa ẩn dụ, tìm cách khám phá ý nghĩa của các tác giả của những phát minh như vậy, và từ những tuyên bố nào anh ta sẽ giữ lại niềm tin của mình, vì đã được viết để làm hài lòng một số cá nhân nhất định. Và chúng ta đã nói điều này như một cách dự đoán về toàn bộ lịch sử được kể trong các Phúc âm về Jesus”. Một phần lớn của cuốn sách thứ tư của Ngài được dành cho các minh họa về các giải thích thần bí của các câu chuyện Kinh Thánh, và bất kỳ ai muốn theo đuổi chủ đề này có thể đọc qua nó. |
In the De Principiis, Origen gives it as the received teaching of the Church “ that the Scriptures were written by the Spirit of God, and have a meaning, not only such as is apparent at first sight, but also another, which escapes the notice of most. For those [words] which are written are the forms of certain Mysteries, and the images of divine things. Respecting which there is one opinion throughout the whole Church, that the whole law is indeed spiritual; but that the spiritual meaning which the law conveys is not known to all, but to those only on whom the grace of [Page 88] the Holy Spirit is bestowed in the word of wisdom and knowledge”. [Vol. X. De Principiis, Preface, p. 8.] Those who remember what has already been quoted will see in the “Word of wisdom” and “the word of knowledge” the two typical mystical instructions, the spiritual and the intellectual. | Trong De Principiis, Origen đưa ra như là giáo lý được chấp nhận của Giáo hội “rằng Kinh Thánh được viết bởi Thần của Thượng đế, và có một ý nghĩa, không chỉ là những gì rõ ràng ngay từ cái nhìn đầu tiên, mà còn một ý nghĩa khác, vốn thoát khỏi sự chú ý của hầu hết mọi người. Vì những [lời] được viết là các hình thức của một số Bí ẩn, và các hình ảnh của những điều thiêng liêng. Về điều này có một ý kiến duy nhất trong toàn bộ Giáo hội, rằng toàn bộ luật pháp thực sự là tinh thần; nhưng ý nghĩa tinh thần mà luật pháp truyền đạt không được biết đến với tất cả mọi người, mà chỉ với những người mà ân sủng của Thánh Linh được ban cho trong linh từ của sự minh triết và tri thức”. Những người nhớ những gì đã được trích dẫn sẽ thấy trong “Linh từ của sự minh triết” và “linh từ của tri thức” hai hướng dẫn thần bí điển hình, tinh thần và trí tuệ. |
In the Fourth Book of De Principiis, Origen explains at length his views on the interpretation of Scripture. It has a “body”, which is the “common and historical sense”; a “soul”, a figurative meaning to be discovered by the exercise of the intellect; and a “ spirit,” an inner and divine sense, to be known only by those who have “the mind of Christ”. He considers that incongruous and impossible things are introduced into the history to arouse an intelligent reader, and compel him to search for a deeper explanation, while simple people would read on without appreciating the difficulties. [Ibid., ch. i.] | Trong cuốn sách thứ tư của De Principiis, Origen giải thích chi tiết quan điểm của mình về việc giải thích Kinh Thánh. Nó có một “thể”, vốn là “ý nghĩa chung và lịch sử”; một “linh hồn”, một ý nghĩa ẩn dụ cần được khám phá bằng cách sử dụng trí tuệ; và một “tinh thần”, một ý nghĩa bên trong và thiêng liêng, chỉ được biết đến bởi những người có “tâm trí của Christ”. Ngài cho rằng những điều không phù hợp và không thể xảy ra được đưa vào lịch sử để kích thích một độc giả thông minh, và buộc anh ta phải tìm kiếm một giải thích sâu hơn, trong khi những người đơn giản sẽ đọc tiếp mà không đánh giá cao những khó khăn. |
Cardinal Newman, in his Arians of the Fourth Century, has some interesting remarks on the Disciplina Arcani, but, with the deeply-rooted ingrained scepticism of the nineteenth century, he cannot believe to the full in the “riches of the glory of the Mystery”, or probably never for a moment conceived the possibility of the existence [Page 89] of such splendid realities. Yet he was a believer in Jesus, and the words of the promise of Jesus were clear and definite: “I will not leave you comfortless; I will come to you. Yet a little while, and the world seeth me no more; but ye see me: because I live, ye shall live also. At that day ye shall know that I am in my Father, and ye in me, and I in you”. [S. John, xiv, 18-20.] The promise was amply redeemed, for He came to them and taught them in His Mysteries; therein they saw Him, though the world saw Him no more, and they knew the Christ as in them, and their life as Christ’s. | Hồng y Newman, trong tác phẩm Arians of the Fourth Century, có một số nhận xét thú vị về Disciplina Arcani, nhưng, với sự hoài nghi sâu sắc của thế kỷ XIX, ông không thể tin tưởng hoàn toàn vào “sự giàu có của vinh quang của Bí ẩn”, hoặc có lẽ chưa bao giờ trong một khoảnh khắc nào đó hình dung ra khả năng tồn tại của những thực tại tuyệt vời như vậy. Tuy nhiên, ông là một tín đồ của Jesus, và những lời hứa của Jesus rõ ràng và dứt khoát: “Ta sẽ không để các ngươi mồ côi; Ta sẽ đến với các ngươi. Chỉ một chút nữa, và thế gian sẽ không thấy Ta nữa; nhưng các ngươi thấy Ta: vì Ta sống, các ngươi cũng sẽ sống. Vào ngày đó các ngươi sẽ biết rằng Ta ở trong Cha Ta, và các ngươi ở trong Ta, và Ta ở trong các ngươi”. Lời hứa đã được thực hiện đầy đủ, vì Ngài đã đến với họ và dạy họ trong các Bí ẩn của Ngài; trong đó họ đã thấy Ngài, mặc dù thế gian không còn thấy Ngài nữa, và họ đã biết Christ như ở trong họ, và cuộc sống của họ như là của Christ. |
Cardinal Newman recognises a secret tradition, handed down from the Apostles, but he considers that it consisted of Christian doctrines, later divulged, forgetting that those who were told that they were not yet fit to receive it were not heathen, nor even catechumens under instruction, but full communicating members of the Christian Church. Thus he states that this secret tradition was later “authoritatively divulged and perpetuated in the form of symbols”, and was embodied “in the creeds of the early Councils”. [Loc. cit., ch. i, Sec. Ill, p. 55.] But as the doctrines in the [Page 90] creeds are to be found clearly stated in the Gospels and Epistles, this position is wholly untenable, all these having been already divulged to the world at large; and in all of them the members of the Church were certainly thoroughly instructed. The repeated statements as to secrecy become meaningless if thus explained. The Cardinal, however, says that whatever “has not been thus authenticated, whether it was prophetical information or comment on the past dispensations, is, from the circumstances of the case, lost to the Church”. [Loc. cit., ch. i, Sec. Ill, pp. 55, 56.] That is very probably, in fact, certainly, true, so far as the Church is concerned, but it is none the less recoverable. | Hồng y Newman công nhận một truyền thống bí mật, được truyền lại từ các Tông đồ, nhưng ông cho rằng nó bao gồm các giáo lý Kitô giáo, sau này được tiết lộ, quên rằng những người được nói rằng họ chưa đủ khả năng để nhận nó không phải là người ngoại đạo, cũng không phải là những người học giáo lý, mà là những thành viên đầy đủ của Giáo hội Kitô giáo. Do đó, ông tuyên bố rằng truyền thống bí mật này sau đó đã được “tiết lộ và duy trì một cách có thẩm quyền dưới hình thức các biểu tượng”, và được thể hiện “trong các tín điều của các Công đồng đầu tiên”. Nhưng vì các giáo lý trong các tín điều được tìm thấy rõ ràng trong các Phúc âm và Thư tín, vị trí này hoàn toàn không thể chấp nhận được, tất cả những điều này đã được tiết lộ cho thế giới rộng lớn; và trong tất cả chúng, các thành viên của Giáo hội chắc chắn đã được hướng dẫn kỹ lưỡng. Những tuyên bố lặp đi lặp lại về sự bí mật trở nên vô nghĩa nếu được giải thích như vậy. Tuy nhiên, Hồng y nói rằng bất cứ điều gì “chưa được xác thực như vậy, dù là thông tin tiên tri hay bình luận về các sự phân phát quá khứ, từ hoàn cảnh của trường hợp, đã bị mất đối với Giáo hội”. Điều đó rất có thể, thực tế, chắc chắn, đúng, đối với Giáo hội, nhưng nó không kém phần có thể phục hồi. |
Commenting on Ireneeus, who in his work Against Heresies lays much stress on the existence of an Apostolic Tradition in the Church, the Cardinal writes: “He then proceeds to speak of the clearness and cogency of the traditions preserved in the Church, as containing that true wisdom of the perfect, of which S. Paul speaks, and to which the Gnostics pretended. And, indeed, without formal proofs of the existence and the authority in primitive times of an Apostolic Tradition, it is plain that there [Page 91] must have been such a tradition, granting that the Apostles conversed, and their friends had memories, like other men. It is quite inconceivable that they should not have been led to arrange the series of revealed doctrines more systematically than they record them in Scripture, as soon as their converts became exposed to the attacks and misrepresentations of heretics; unless they were forbidden to do so, a supposition which cannot be maintained. Their statements thus occasioned would be preserved as a matter of course; together with those other secret but less important truths, to which S. Paul seems to allude, and which the early writers more or less acknowledge, whether concerning the types of the Jewish Church, or the prospective fortunes of the Christian. And such recollections of apostolical teaching would evidently be binding on the faith of those who were instructed in them; unless it can be supposed that, though coming from inspired teachers, they were not of divine origin”. [Ibid., pp. 54, 55.] In a part of the section dealing with the allegorising method, he writes in reference to the sacrifice of Isaac, etc., as “typical of the New Testament revelation”: “In corroboration of this remark, let it be observed, [Page 92] that there seems to have been [“Seems to have been” is a somewhat weak expression, after what is said by Clement arid Origen, of which some specimens are given in the text.] in the Church a traditionary explanation of these historical types, derived from the Apostles, but kept among the secret doctrines, as being dangerous to the majority of hearers; and certainly S. Paul, in the Epistle to the Hebrews, affords us an instance of such a tradition, both as existing and as secret (even though it be shown to be of Jewish origin), when, first checking himself and questioning his brethren’s faith, he communicates, not without hesitation, the evangelical scope of the account of Melchisedec, as introduced into the book of Genesis”. [Ibid., p. 62.] | Bình luận về Ireneeus, người trong tác phẩm Chống Lạc giáo của mình nhấn mạnh nhiều vào sự tồn tại của một Truyền thống Tông đồ trong Giáo hội, Hồng y viết: “Sau đó, ông tiếp tục nói về sự rõ ràng và sức mạnh của các truyền thống được bảo tồn trong Giáo hội, như chứa đựng sự minh triết thực sự của những người hoàn hảo, mà S. Paul nói đến, và mà các Gnostics giả vờ. Và, thực sự, mà không có bằng chứng chính thức về sự tồn tại và thẩm quyền trong thời kỳ nguyên thủy của một Truyền thống Tông đồ, rõ ràng rằng phải có một truyền thống như vậy, giả sử rằng các Tông đồ đã trò chuyện, và bạn bè của họ có trí nhớ, giống như những người khác. Không thể tưởng tượng được rằng họ không được dẫn dắt để sắp xếp chuỗi các giáo lý được tiết lộ một cách có hệ thống hơn so với việc họ ghi lại chúng trong Kinh Thánh, ngay khi các tín đồ của họ bị tấn công và xuyên tạc bởi những kẻ lạc giáo; trừ khi họ bị cấm làm như vậy, một giả định không thể duy trì. Những tuyên bố của họ như vậy sẽ được bảo tồn như một điều tất nhiên; cùng với những sự thật bí mật khác nhưng ít quan trọng hơn, mà S. Paul dường như ám chỉ, và mà các nhà văn đầu tiên thừa nhận ít nhiều, dù là về các loại của Giáo hội Do Thái, hay các vận mệnh tương lai của Kitô giáo. Và những ký ức như vậy về giáo lý tông đồ rõ ràng sẽ ràng buộc đức tin của những người được hướng dẫn trong chúng; trừ khi có thể giả định rằng, mặc dù đến từ các giáo viên được truyền cảm hứng, chúng không có nguồn gốc thiêng liêng”. Trong một phần của phần xử lý phương pháp ẩn dụ, ông viết liên quan đến sự hy sinh của Isaac, v.v., như là “điển hình của sự tiết lộ Tân Ước”: “Để củng cố nhận xét này, hãy lưu ý rằng dường như đã có trong Giáo hội một sự giải thích truyền thống về những loại lịch sử này, được lấy từ các Tông đồ, nhưng được giữ trong các giáo lý bí mật, vì là nguy hiểm đối với đa số người nghe; và chắc chắn S. Paul, trong Thư gửi người Do Thái, cung cấp cho chúng ta một ví dụ về một truyền thống như vậy, cả khi tồn tại và khi bí mật (ngay cả khi nó được chứng minh là có nguồn gốc Do Thái), khi, đầu tiên kiềm chế bản thân và đặt câu hỏi về đức tin của anh em mình, ông truyền đạt, không mà không do dự, phạm vi phúc âm của câu chuyện về Melchisedec, như được giới thiệu vào sách Sáng thế”. |
The social and political convulsions that accompanied its dying now began to torture the vast frame of the Roman Empire, and even the Christians were caught up in the whirlpool of selfish warring interests. We still find scattered references to special knowledge imparted to the leaders and teachers of the Church, knowledge of the heavenly hierarchies, instructions given by angels, and so on. But the lack of suitable pupils caused the Mysteries to be withdrawn as an institution publicly known to exist, and teaching was [Page 93] given more and more secretly to those rarer and rarer souls, who by learning, purity, and devotion showed themselves capable of receiving it. No longer were schools to be found wherein the preliminary teachings were given, and with the disappearance of these the “door was shut”. | Các biến động xã hội và chính trị đi kèm với sự suy tàn của nó giờ đây bắt đầu tra tấn khung hình rộng lớn của Đế chế La Mã, và ngay cả các Kitô hữu cũng bị cuốn vào vòng xoáy của những lợi ích chiến tranh ích kỷ. Chúng ta vẫn tìm thấy những tham chiếu rải rác đến kiến thức đặc biệt được truyền đạt cho các lãnh đạo và giáo viên của Giáo hội, kiến thức về các huyền giai thiên đàng, các chỉ dẫn được đưa ra bởi các thiên thần, và vân vân. Nhưng sự thiếu vắng các học trò phù hợp đã khiến các Bí ẩn bị rút lại như một tổ chức được biết đến công khai, và việc giảng dạy được thực hiện ngày càng bí mật hơn cho những linh hồn hiếm hoi hơn, những người bằng học vấn, sự trong sạch, và sự tận tụy đã chứng tỏ mình có khả năng tiếp nhận nó. Không còn các trường học nào được tìm thấy nơi mà các giáo lý sơ bộ được giảng dạy, và với sự biến mất của những điều này, “cánh cửa đã đóng lại”. |
Two streams may nevertheless be tracked through Christendom, streams which had as their source the vanished Mysteries. One was the stream of mystic learning, flowing from the Wisdom, the Gnosis, imparted in the Mysteries; the other was the stream of mystic contemplation, equally part of the Gnosis, leading to the ecstasy, to spiritual vision. This latter, however, divorced from knowledge, rarely attained the true ecstasies, and tended either to run riot in the lower regions of the invisible worlds, or to lose itself amid a variegated crowd of subtle superphysical forms, visible as objective appearances to the inner vision—prematurely forced by fastings, vigils, and strained attention—but mostly born of the thoughts and emotions of the seer. Even when the forms observed were not externalised thoughts, they were seen through a distorting atmosphere of preconceived ideas and beliefs, and were thus rendered largely unreliable. None the less, some of the visions were verily of heavenly [Page 94] things, and Jesus truly appeared from time to time to His devoted lovers, and angels would sometimes brighten with their presence the cell of monk and nun, the solitude of rapt devotee and patient seeker after God. To deny the possibility of such experiences would be to strike at the very root of that “which has been most surely believed” in all religions, and is known to all Occultists—the intercommunication between Spirits veiled in flesh and those clad in subtler vestures, the touching of mind with mind across the barriers of matter, the unfolding of the Divinity in man, the sure knowledge of a life beyond the gates of death. | Tuy nhiên, hai dòng chảy vẫn có thể được theo dõi qua Kitô giáo, những dòng chảy có nguồn gốc từ các Bí ẩn đã biến mất. Một là dòng chảy của học vấn thần bí, chảy từ Minh Triết, Gnosis, được truyền đạt trong các Bí ẩn; dòng chảy kia là dòng chảy của sự chiêm ngưỡng thần bí, cũng là một phần của Gnosis, dẫn đến sự xuất thần, đến tầm nhìn tinh thần. Tuy nhiên, dòng chảy sau này, tách rời khỏi kiến thức, hiếm khi đạt được những xuất thần thực sự, và có xu hướng hoặc là chạy loạn trong các vùng thấp hơn của các thế giới vô hình, hoặc là mất mình giữa một đám đông đa dạng của các hình thức siêu vật lý tinh tế, hiện ra như những hiện tượng khách quan cho tầm nhìn bên trong—bị ép buộc sớm bởi việc nhịn ăn, canh thức, và sự chú ý căng thẳng—nhưng phần lớn được sinh ra từ những suy nghĩ và cảm xúc của nhà tiên tri. Ngay cả khi các hình thức quan sát không phải là những suy nghĩ được ngoại hiện hóa, chúng được nhìn qua một bầu không khí méo mó của những ý tưởng và niềm tin định kiến, và do đó trở nên phần lớn không đáng tin cậy. Tuy nhiên, một số tầm nhìn thực sự là về những điều thiên đàng, và Jesus thực sự đã xuất hiện từ thời gian này đến thời gian khác với những người yêu mến Ngài, và các thiên thần đôi khi sẽ làm sáng lên với sự hiện diện của họ trong phòng của các tu sĩ và nữ tu, sự cô đơn của những người tận tụy và kiên nhẫn tìm kiếm Thượng đế. Để phủ nhận khả năng của những trải nghiệm như vậy sẽ là tấn công vào gốc rễ của những gì “đã được tin chắc nhất” trong tất cả các tôn giáo, và được biết đến với tất cả các nhà huyền bí học—sự giao tiếp giữa các Thánh Linh được che giấu trong xác thịt và những người mặc áo choàng tinh tế hơn, sự chạm vào tâm trí với tâm trí qua các rào cản của vật chất, sự phát triển của Thiên tính trong con người, sự hiểu biết chắc chắn về một cuộc sống vượt qua cánh cổng của cái chết. |
Glancing down the centuries we find no time in which Christendom was left wholly devoid of mysteries. “It was probably about the end of the 5th century, just as ancient philosophy was dying out in the Schools of Athens, that the speculative philosophy of neo-Platonism made a definite lodgment in Christian thought through the literary forgeries of the Pseudo-Dionysius. The doctrines of Christianity were by that time so firmly established that the Church could look upon a symbolical or mystical interpretation of them without anxiety. The author of the Theologica Mystica and the other works ascribed to the [Page 95] Areopagite proceeds, therefore, to develop the doctrines of Proclus with very little modification into a system of esoteric Christianity. God is the nameless and supra-essential One, elevated above goodness itself. Hence ‘negative theology’, which ascends from the creature to God by dropping one after another every determinate predicate, leads us nearest to the truth. The return to God is the consummation of all things and the goal indicated by Christian teaching. The same doctrines were preached with more of churchly fervour by Maximus, the Confessor, (580-622). Maximus represents almost the last speculative activity of the Greek Church, but the influence of the Pseudo-Dionysian writing was transmitted to the West in the ninth century by Erigena, in whose speculative spirit both the scholasticism and the mysticism of the Middle Ages have their rise. Erigena translated Dionysius into Latin along with the commentaries of Maximus, and his system is essentially based upon theirs. The negative theology is adopted, and God is stated to be predicateless Being, above all categories, and therefore not improperly called Nothing [query, No-Thing] . Out of this Nothing or incomprehensible essence the world of ideas or primordial causes is eternally [Page 96] created. This is the Word or Son of God, in whom all things exist, so far as they have substantial existence. All existence is a theophany, and as God is the beginning of all things, so also is He the end. Erigena teaches the restitution of all things under the form of the Dionysian adunatio or deificatio. These are the permanent outlines of what may be called the philosophy of mysticism in Christian times, and it is remarkable with how little variation they are repeated from age to age”. [Article on “Mysticism”.— Encyc. Britan.] | Nhìn xuống qua các thế kỷ, chúng ta không thấy thời gian nào mà Kitô giáo hoàn toàn không có các bí ẩn. “Có lẽ vào cuối thế kỷ thứ 5, ngay khi triết học cổ đại đang tàn lụi trong các Trường học Athens, triết học suy đoán của tân Platonism đã có một chỗ đứng vững chắc trong tư tưởng Kitô giáo thông qua các tác phẩm giả mạo văn học của Pseudo-Dionysius. Các giáo lý của Kitô giáo vào thời điểm đó đã được thiết lập vững chắc đến mức Giáo hội có thể nhìn nhận một cách giải thích biểu tượng hoặc thần bí về chúng mà không lo lắng. Tác giả của Theologica Mystica và các tác phẩm khác được gán cho Areopagite do đó tiếp tục phát triển các giáo lý của Proclus với rất ít sự sửa đổi thành một hệ thống Kitô giáo nội môn. Thượng đế là Đấng không tên và siêu bản chất, được nâng lên trên cả sự tốt lành. Do đó, ‘thần học tiêu cực’, vốn đi lên từ sinh vật đến Thượng đế bằng cách loại bỏ từng thuộc tính xác định, dẫn chúng ta gần nhất đến sự thật. Sự trở về với Thượng đế là sự hoàn thành của mọi thứ và là mục tiêu được chỉ ra bởi giáo lý Kitô giáo. Những giáo lý tương tự đã được giảng dạy với nhiều nhiệt huyết giáo hội hơn bởi Maximus, Người Tuyên xưng, (580-622). Maximus đại diện cho gần như hoạt động suy đoán cuối cùng của Giáo hội Hy Lạp, nhưng ảnh hưởng của các tác phẩm Pseudo-Dionysian đã được truyền sang phương Tây vào thế kỷ thứ chín bởi Erigena, trong tinh thần suy đoán của ông, cả chủ nghĩa học thuật và thần bí của thời Trung cổ đều có nguồn gốc. Erigena đã dịch Dionysius sang tiếng Latin cùng với các bình luận của Maximus, và hệ thống của ông chủ yếu dựa trên của họ. Thần học tiêu cực được chấp nhận, và Thượng đế được tuyên bố là Sự tồn tại không có thuộc tính, trên tất cả các phạm trù, và do đó không không đúng khi gọi là Không có gì [câu hỏi, Không-Có gì]. Từ Không có gì này hoặc bản chất không thể hiểu được, thế giới của các ý tưởng hoặc nguyên nhân nguyên thủy được tạo ra vĩnh viễn. Đây là Linh từ hoặc Con của Thượng đế, trong đó mọi thứ tồn tại, miễn là chúng có sự tồn tại thực chất. Tất cả sự tồn tại là một sự hiện thân của Thượng đế, và vì Thượng đế là khởi đầu của mọi thứ, nên Ngài cũng là kết thúc. Erigena dạy sự hoàn nguyên của mọi thứ dưới hình thức của sự hợp nhất hoặc thần hóa Dionysian. Đây là những nét phác thảo vĩnh viễn của những gì có thể được gọi là triết học của thần bí học trong thời Kitô giáo, và điều đáng chú ý là chúng được lặp lại với rất ít biến đổi từ thời đại này sang thời đại khác”. |
In the eleventh century Bernard of Clairvaux (A.D. 1091-1153) and Hugo of S. Victor carry on the mystic tradition, with Richard of S. Victor in the following century, and S. Bonaventura the Seraphic Doctor, and the great S. Thomas Aquinas (A.D. 1227-1274) in the thirteenth. Thomas Aquinas dominates the Europe of the Middle Ages, by his force of character no less than by his learning and piety. He asserts “Revelation” as one source of knowledge, Scripture and tradition being the two channels in which it runs, and the influence, seen in his writings, of the Pseudo-Dionysius links him to the Neo-Platonists. The second source is Reason, and here the channels are the Platonic philosophy [Page 97] and the methods of Aristotle—the latter an alliance that did Christianity no good, for Aristotle became an obstacle to the advance of the higher thought, as was made manifest in the struggles of Giordano Bruno, the Pythagorean. Thomas Aquinas was canonised in A.D. 1323, and the great Dominican remains as a type of the union of theology and philosophy—the aim of his life. These belong to the great Church of western Europe, vindicating her claim to be regarded as the transmitter of the holy torch of mystic learning. Around her there also sprang up many sects, deemed heretical, yet containing true traditions of the sacred secret learning, the Cathari and many others, persecuted by a Church jealous of her authority, and fearing lest the holy pearls should pass into profane custody. In this century also S. Elizabeth of Hungary shines out with sweetness and purity, while Eckhart (A.D. 1260-1329) proves himself a worthy inheritor of the Alexandrian Schools. Eckhart taught that “the Godhead is the absolute Essence (Wesen), unknowable not only by man but also by Itself; It is darkness and absolute indeterminateness, Nicht in contrast to Icht, or definite and knowable existence. Yet It is the potentiality of all things, and Its nature is, in a triadic process, to come to [Page 98] consciousness of Itself as the triune God. Creation is not a temporal act, but an eternal necessity, of the divine nature. I am as necessary to God, Eckhart is fond of saying, as God is necessary tome. In my knowledge and love God knows and loves Himself”. [Article “Mysticism”. Encyclopaedia Britannica.] | Trong thế kỷ thứ mười một, Bernard của Clairvaux (A.D. 1091-1153) và Hugo của S. Victor tiếp tục truyền thống thần bí, với Richard của S. Victor trong thế kỷ tiếp theo, và S. Bonaventura, Tiến sĩ Seraphic, và đại S. Thomas Aquinas (A.D. 1227-1274) trong thế kỷ thứ mười ba. Thomas Aquinas thống trị châu Âu thời Trung cổ, không chỉ bằng sức mạnh của tính cách mà còn bằng học vấn và lòng mộ đạo của ông. Ông khẳng định “Sự mặc khải” là một nguồn tri thức, Kinh Thánh và truyền thống là hai kênh mà nó chảy qua, và ảnh hưởng, được thấy trong các tác phẩm của ông, của Pseudo-Dionysius liên kết ông với các nhà tân Platonists. Nguồn thứ hai là Lý trí, và ở đây các kênh là triết học Platonic và các phương pháp của Aristotle—liên minh sau này không mang lại lợi ích cho Kitô giáo, vì Aristotle trở thành một trở ngại cho sự tiến bộ của tư tưởng cao hơn, như đã được thể hiện trong các cuộc đấu tranh của Giordano Bruno, nhà Pythagorean. Thomas Aquinas được phong thánh vào năm A.D. 1323, và đại Dominican vẫn là một hình mẫu của sự kết hợp giữa thần học và triết học—mục tiêu của cuộc đời ông. Những người này thuộc về Giáo hội lớn của Tây Âu, khẳng định quyền của mình để được coi là người truyền tải ngọn đuốc thánh của học vấn thần bí. Xung quanh bà cũng xuất hiện nhiều giáo phái, bị coi là dị giáo, nhưng chứa đựng những truyền thống thực sự của học vấn bí mật thánh, Cathari và nhiều người khác, bị Giáo hội ghen tị với quyền lực của mình, và sợ rằng những viên ngọc thánh sẽ rơi vào tay phàm tục. Trong thế kỷ này cũng có S. Elizabeth của Hungary tỏa sáng với sự ngọt ngào và trong sáng, trong khi Eckhart (A.D. 1260-1329) chứng tỏ mình là một người thừa kế xứng đáng của các Trường học Alexandria. Eckhart dạy rằng “Thần tính là Bản chất tuyệt đối (Wesen), không thể biết không chỉ bởi con người mà còn bởi Chính Nó; Nó là bóng tối và sự không xác định tuyệt đối, Nicht đối lập với Icht, hoặc sự tồn tại xác định và có thể biết. Tuy nhiên, Nó là tiềm năng của mọi thứ, và bản chất của Nó là, trong một quá trình tam phân, để đến nhận thức về Chính Nó như là Thượng đế ba ngôi. Sự sáng tạo không phải là một hành động tạm thời, mà là một sự cần thiết vĩnh cửu, của bản chất thiêng liêng. Tôi cần thiết cho Thượng đế, Eckhart thường nói, như Thượng đế cần thiết cho tôi. Trong tri thức và tình yêu của tôi, Thượng đế biết và yêu Chính Ngài”. |
Eckhart is followed, in the fourteenth century, by John Tauler, and Nicolas of Basel, “the Friend of God in the Oberland”. From these sprang up the Society of the Friends of God, true mystics and followers of the old tradition. Mead remarks that Thomas Aquinas, Tauler, and Eckhart followed the Pseudo-Dionysius, who followed Plotinus, lamblichus, and Proclus, who in turn followed Plato and Pythagoras. [Orpheus, pp. 53, 54.] So linked together are the followers of the Wisdom in all ages. It was probably a “Friend” who was the author of Die Deutsche Theologie, a book of mystical devotion, which had the curious fortune of being approved by Staupitz, the Vicar-General of the Augustiman Order, who recommended it to Luther and by Luther himself, who published it A.D. 1516, as a book which should rank immediately after the Bible and the writings of S. Augustine of Hippo. [Page 99] Another “Friend” was Ruysbroeck, to whose influence with Groot was due the founding of the Brethren of the Common Lot or Common Life —a Society that must remain ever memorable, as it numbered among its members that prince of mystics, Thomas a Kempis (A. D. 1380-1471), the author of the immortal Imitation of Christ. | Eckhart được theo sau, trong thế kỷ thứ mười bốn, bởi John Tauler, và Nicolas của Basel, “Người Bạn của Thượng đế ở Oberland”. Từ những người này đã nảy sinh Hội Những Người Bạn của Thượng đế, những người thần bí thực sự và những người theo truyền thống cũ. Mead nhận xét rằng Thomas Aquinas, Tauler, và Eckhart theo Pseudo-Dionysius, người theo Plotinus, lamblichus, và Proclus, người lần lượt theo Plato và Pythagoras. Vì vậy, những người theo Minh Triết trong mọi thời đại được liên kết với nhau. Có lẽ một “Người Bạn” là tác giả của Die Deutsche Theologie, một cuốn sách về sự tận tụy thần bí, vốn có số phận kỳ lạ là được Staupitz, Tổng Đại diện của Dòng Augustiman, chấp thuận, người đã giới thiệu nó cho Luther và bởi chính Luther, người đã xuất bản nó vào năm A.D. 1516, như một cuốn sách nên được xếp ngay sau Kinh Thánh và các tác phẩm của S. Augustine của Hippo. Một “Người Bạn” khác là Ruysbroeck, người có ảnh hưởng với Groot đã dẫn đến việc thành lập Hội Anh Em của Lô Đất Chung hoặc Cuộc Sống Chung—một Hội mà phải luôn được ghi nhớ, vì nó có trong số các thành viên của mình hoàng tử của những người thần bí, Thomas a Kempis (A.D. 1380-1471), tác giả của cuốn Imitation of Christ bất tử. |
In the fifteenth century the more purely intellectual side of mysticism comes out more strongly than the ecstatic—so dominant in these societies of the fourteenth—and we have Cardinal Nicolas of Cusa, with Giordano Bruno, the martyred knight-errant of philosophy, and Paracelsus, the much slandered scientist, who drew his knowledge directly from the original eastern fountain, instead of through Greek channels. | Trong thế kỷ thứ mười lăm, khía cạnh trí tuệ thuần túy hơn của thần bí học xuất hiện mạnh mẽ hơn so với sự xuất thần—vốn chiếm ưu thế trong các hội này của thế kỷ thứ mười bốn—và chúng ta có Hồng y Nicolas của Cusa, với Giordano Bruno, hiệp sĩ tử đạo của triết học, và Paracelsus, nhà khoa học bị vu khống nhiều, người đã rút kiến thức của mình trực tiếp từ nguồn gốc phương Đông nguyên thủy, thay vì thông qua các kênh Hy Lạp. |
The sixteenth century saw the birth of Jacob Bohme (A.D. 1575-1624), the “inspired cobbler”, an Initiate in obscuration truly, sorely persecuted by unenlightened men; and then too came S. Teresa, the much-oppressed and suffering Spanish mystic; and S. John of the Cross, a burning flame of intense devotion; and S. Francois de Sales. Wise was Rome in canonising these, wiser than the Reformation that persecuted Bõhme, but the spirit of the Reformation was ever intensely anti-mystical, and wherever its breath [Page 100] hath passed the fair flowers of mysticism have withered as under the sirocco. | Thế kỷ thứ mười sáu chứng kiến sự ra đời của Jacob Bohme (A.D. 1575-1624), “người thợ giày được truyền cảm hứng”, một Điểm đạo đồ trong sự che giấu thực sự, bị bức hại nặng nề bởi những người không được khai sáng; và sau đó cũng đến S. Teresa, người thần bí Tây Ban Nha bị áp bức và đau khổ nhiều; và S. John of the Cross, một ngọn lửa cháy rực của sự tận tụy mãnh liệt; và S. Francois de Sales. Rome đã khôn ngoan khi phong thánh cho những người này, khôn ngoan hơn so với Cải cách đã bức hại Bõhme, nhưng tinh thần của Cải cách luôn cực kỳ chống lại thần bí học, và bất cứ nơi nào hơi thở của nó đã đi qua, những bông hoa đẹp của thần bí học đã héo úa như dưới cơn gió nóng. |
Borne, however, who, though she canonised Teresa dead, had sorely harried her while living—did ill with Mme. de Guyon (A. D. 1648-1717), a true mystic, and with Miguel de Molinos (1627-1696), worthy to sit near S. John of the Cross, who carried on in the seventeenth century the high devotion of the mystic, turned into a peculiarly passive form—the Quietist. | Tuy nhiên, Rome, người mặc dù đã phong thánh cho Teresa khi chết, đã quấy rối bà rất nhiều khi còn sống—đã làm điều tồi tệ với Mme. de Guyon (A.D. 1648-1717), một người thần bí thực sự, và với Miguel de Molinos (1627-1696), xứng đáng ngồi gần S. John of the Cross, người đã tiếp tục trong thế kỷ thứ mười bảy sự tận tụy cao của người thần bí, chuyển thành một hình thức thụ động đặc biệt—Quietist. |
In this same century arose the school of Platonists in Cambridge, of whom Henry More (A. D. 1614-1687) may serve as salient example; also Thomas Vaughan, and Robert Fludd the Rosicrucian; and there is formed also the Philadelphian Society, and we see William Law (A.D. 1686-1761) active in the eighteenth century, and overlapping S. Martin (A. D. 1743-1803), whose writings have fascinated so many nineteenth century students. [Obligation must be here acknowledged to the Article “Mysticism”, in the Encyc. Brit., though that publication is by no means responsible for the opinions expressed.] | Trong thế kỷ này cũng xuất hiện trường phái Platonists ở Cambridge, trong đó Henry More (A.D. 1614-1687) có thể phục vụ như một ví dụ nổi bật; cũng có Thomas Vaughan, và Robert Fludd, nhà Rosicrucian; và cũng hình thành Hội Philadelphian, và chúng ta thấy William Law (A.D. 1686-1761) hoạt động trong thế kỷ thứ mười tám, và chồng chéo với S. Martin (A.D. 1743-1803), người có các tác phẩm đã mê hoặc rất nhiều học giả thế kỷ XIX. |
Nor should we omit Christian Rosenkreutz (d. A.D. 1484), whose mystic Society of the Rosy Cross, appearing in 1614, held true knowledge, and whose spirit was reborn in the “Comte de [Page 101] S. Germain”, the mysterious figure that appears and disappears through the gloom, lit by lurid flashes, of the closing eighteenth century. Mystics too were some of the Quakers, the much-persecuted sect of Friends, seeking the illumination of the Inner Light, and listening ever for the Inner Voice. And many another mystic was there, “of whom the world was not worthy”, like the wholly delightful and wise Mother Juliana of Norwich, of the fourteenth century, jewels of Christendom, too little known, but justifying Christianity to the world. | Cũng không nên bỏ qua Christian Rosenkreutz (mất năm A.D. 1484), người có Hội Thánh Rosy Cross thần bí, xuất hiện vào năm 1614, nắm giữ kiến thức thực sự, và tinh thần của người đã tái sinh trong “Comte de S. Germain”, nhân vật bí ẩn xuất hiện và biến mất qua bóng tối, được chiếu sáng bởi những tia sáng chói lóa, của thế kỷ thứ mười tám đang kết thúc. Một số Quakers cũng là những người thần bí, giáo phái Bạn bè bị bức hại nhiều, tìm kiếm sự soi sáng của Ánh sáng Nội tại, và luôn lắng nghe Tiếng nói Nội tại. Và còn nhiều người thần bí khác, “mà thế gian không xứng đáng”, như Mẹ Juliana của Norwich hoàn toàn đáng yêu và khôn ngoan, của thế kỷ thứ mười bốn, những viên ngọc của Kitô giáo, quá ít được biết đến, nhưng biện minh cho Kitô giáo trước thế giới. |
Yet, as we salute reverently these Children of the Light, scattered over the centuries, we are forced to recognise in them the absence of that union of acute intellect and high devotion which were welded together by the training of the Mysteries, and while we marvel that they soared so high, we cannot but wish that their rare gifts had been developed under that magnificent disciplina arcani. | Tuy nhiên, khi chúng ta kính cẩn chào đón những Đứa Con của Ánh sáng này, rải rác qua các thế kỷ, chúng ta buộc phải nhận ra trong họ sự thiếu vắng của sự kết hợp giữa trí tuệ sắc bén và sự tận tụy cao, vốn được rèn luyện cùng nhau bởi sự đào tạo của các Bí ẩn, và trong khi chúng ta ngạc nhiên rằng họ đã bay cao như vậy, chúng ta không thể không mong rằng những món quà hiếm hoi của họ đã được phát triển dưới sự kỷ luật tuyệt vời của disciplina arcani. |
Alphonse Louis Constant, better known under his pseudonym, Eliphas Levi, has put rather well the loss of the Mysteries, and the need for their re-institution. “A great misfortune befell Christianity. The betrayal of the Mysteries by the false Gnostics—for the Gnostics, that is, those [Page 102] who know, were the Initiates of primitive Christianity—caused the Gnosis to be rejected, and alienated the Church from the supreme truths of the Kabbala, which contain all the secrets of transcendental theology ….. Let the most absolute science, let the highest reason, become once more the patrimony of the leaders of the people; let the sacerdotal art and the royal art take the double sceptre of antique initiations, and the social world will once more issue from its chaos. Burn the holy images no longer; demolish the temples no more; temples and images are necessary for men; but drive the hirelings from the house of prayer; let the blind be no longer leaders of the blind, reconstruct the hierarchy of intelligence and holiness, and recognise only those who know as the teachers of those who believe”. [The Mysteries of Magic. Trans, by A. E. Waite, pp. 58 and 60.] | Alphonse Louis Constant, được biết đến nhiều hơn dưới bút danh của mình, Eliphas Levi, đã diễn đạt khá tốt sự mất mát của các Bí ẩn, và sự cần thiết của việc tái lập chúng. “Một tai họa lớn đã xảy ra với Kitô giáo. Sự phản bội của các Bí ẩn bởi những Gnostics giả—vì Gnostics, tức là những người biết, là những Điểm đạo đồ của Kitô giáo nguyên thủy—đã khiến Gnosis bị từ chối, và làm xa lánh Giáo hội khỏi những chân lý tối cao của Kabbala, vốn chứa đựng tất cả các bí mật của thần học siêu việt… Hãy để khoa học tuyệt đối nhất, hãy để lý trí cao nhất, trở thành một lần nữa tài sản của các lãnh đạo của dân chúng; hãy để nghệ thuật giáo sĩ và nghệ thuật hoàng gia nắm giữ cây quyền trượng kép của các điểm đạo cổ xưa, và thế giới xã hội sẽ một lần nữa thoát khỏi sự hỗn loạn của nó. Đừng đốt cháy các hình ảnh thánh nữa; đừng phá hủy các đền thờ nữa; đền thờ và hình ảnh là cần thiết cho con người; nhưng hãy đuổi những kẻ thuê khỏi nhà cầu nguyện; đừng để người mù dẫn dắt người mù nữa, hãy tái cấu trúc huyền giai của trí tuệ và thánh thiện, và chỉ công nhận những người biết như là những người dạy dỗ của những người tin tưởng”. |
Will the Churches of today again take up the mystic teaching, the Lesser Mysteries, and so prepare their children for the re-establishment of the Greater Mysteries, again drawing down the Angels as Teachers, and having as Hierophant the Divine Master, Jesus? On the answer to that question depends the future of Christianity. [Page 103] | Liệu các Giáo hội ngày nay có lại tiếp nhận giáo lý thần bí, các Bí ẩn Nhỏ, và do đó chuẩn bị con cái của họ cho việc tái lập các Bí ẩn Lớn, một lần nữa thu hút các Thiên thần làm Giáo viên, và có Hierophant là Huấn Sư Thiêng Liêng, Jesus? Câu trả lời cho câu hỏi đó quyết định tương lai của Kitô giáo. |