PHẦN I

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
📘DOCX📕PDF

SECTION THREE – THE SIX STAGES OF DISCIPLESHIP

SECTION THREE [673]

THE SIX STAGES OF DISCIPLESHIP


Giới Thiệu: Phần III của quyển Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới I viết về các giai đoạn trên Con Đường Đệ Tử, gồm tất cả 9 phần, dài hơn 100 trang. Thầy Hiệu trưởng đã bình giảng toàn bộ các phần này cả bằng văn viết lẫn video.

Tôi dịch phần bình giảng của Thầy Hiệu trưởng để các bạn tham khảo, và để tiện việc học, tôi tách ra từng phần một. Cách trình bày là đầu tiên nguyên văn của Chân sư DK trích trong DINA I, trình bày theo dạng song ngữ, có đánh số trang. Các số trang này là các link dẫn đến phần bình giảng ở phần sau của file, cũng có số trang, và các số trang này cũng là các link dẫn trở lại đến nguyên văn của Chân sư DK.

Phần I này, đa phần là các câu kệ Stanzas trích từ Cổ Luận và các văn bản thời xa xưa của Thánh Đoàn, do đó ngôn ngữ cực kỳ trừu tượng và khó hiểu, và dường như tất cả các sách của Chân sư DK đếu như vậy, bắt đầu với những gì phổ quát và trừu tượng đi dần đến cụ thể.

Các file WORD sử dụng font chữ Bookerly của Amazon Kindle để dễ đọc trên màn hình máy tính, do đó để thể hiện chính xác, các bạn nên download font Bookerly về cài vào máy (copy vào thư mục Fonts trên Windows).


THE SIX STAGES OF DISCIPLESHIP— Sáu giai đoạn trên Đường Đạo

1. The stage wherein a disciple is contacted by the Master through another chela on the physical plane. This is the stage of “Little Chelaship.”

1. Giai đoạn mà một đệ tử được Chân Sư tiếp xúc xuyên qua một vị đệ tử khác ở cõi trần. Đó là giai đoạn “Tiểu Đệ Tử”

2. The stage wherein a higher disciple directs the chela from the egoic level. This is the stage called a “Chela in the Light.”

2. Giai đoạn mà một đệ tử cao hơn hướng dẫn đệ tử từ cấp độ chân ngã. Đây là giai đoạn được gọi là “Đệ Tử trong Ánh Sáng.”

3. The stage wherein, according to necessity, the Master contacts the chela through:

3. Giai đoạn mà, theo nhu cầu, Chân sư liên lạc với đệ tử thông qua:

a. A vivid dream experience.

a. Một trải nghiệm giấc mơ sống động.

b. A symbolic teaching.

b. Một lời dạy biểu tượng.

c. A using of a thoughtform of the Master.

c. Việc sử dụng một hình tư tưởng của Chân sư.

d. A contact in meditation.

d. Một sự tiếp xúc trong thiền định.

e. A definite remembered interview in the Master’s Ashram.

e. Một cuộc gặp gỡ chắc chắn được ghi nhớ trong ashram của Chân sư.

This is definitely the stage of Accepted Disciple.

Đây chắc chắn là giai đoạn của Đệ Tử được Chấp nhận.

4. The stage wherein, having shown his wisdom in work, and his appreciation of the Master’s problem, the chela is taught how (in emergencies) to attract the Master’s attention and thus draw on His strength, knowledge and advice. This is an instantaneous happening, and practically takes none of the Master’s time. This stage has the peculiar name of a “Chela on the Thread” or sutratma.

4. Giai đoạn mà sau khi thể hiện minh triết trong công việc và đánh giá cao vấn đề của Chân sư, đệ tử được dạy (trong trường hợp khẩn cấp) cách thu hút sự chú ý của Chân sư và do đó dựa vào sức mạnh, kiến thức và lời khuyên của Ngài. Đây là một sự kiện tức thời, và thực tế không mất thời gian của Chân sư. Giai đoạn này có tên gọi đặc biệt là “Đệ tử trên đường dây” hay sutratma.

5. The stage wherein the chela is permitted to know the method whereby he may set up a vibration and call which will entitle him to an interview with the Master. This is only permitted to those trusted chelas who can be depended upon not to use the knowledge for anything except the need of the work; no personality reason or distress would prompt them to use it. At this stage the chela is called “one within the aura.”

5. Giai đoạn mà đệ tử được phép biết phương pháp mà họ có thể thiết lập rung động và lời kêu gọi sẽ cho phép họ được gặp Chân sư. Điều này chỉ được phép đối với những đệ tử đáng tin cậy, những người có thể tin tưởng rằng sẽ không sử dụng kiến thức cho bất cứ điều gì ngoại trừ nhu cầu của công việc; không có lý do cá nhân hay đau khổ nào sẽ thúc đẩy họ sử dụng nó. Ở giai đoạn này, đệ tử được gọi là “đệ tử trong hào quang.

6. The stage wherein the chela can get his Master’s ear at any time. He is in close touch always. This is the stage wherein a chela is being definitely prepared for an immediate initiation or, having taken initiation, is being given specialised [674] work to do in collaboration with his Master. The chela at this stage is described as “one within his Master’s heart.”

6. Giai đoạn mà người đệ tử có thể được Chân Sư lắng nghe vào bất cứ lúc nào. Y luôn luôn giao cảm mật thiết với Ngài. Đây là giai đoạn mà người đệ tử được chuẩn bị cho cuộc điểm đạo trước mắt hay đã được điểm đạo, đang được giao phó công tác đặc biệt [674] để thi hành trong sự hợp tác với Chân Sư của y. Giai đoạn này người đệ tử được mô tả là “Đệ Tử trong Tâm của Chân Sư”.

There is a later stage of still closer identification, where there is a blending of the Lights, but there is no adequate paraphrase of the terms used to cover the name. The six stages above mentioned have been paraphrased for occidental understanding and must in no way be considered as translations of the ancient terms.

Về sau có một giai đoạn đồng hóa với Chân Sư còn chặt chẽ hơn nữa, ở đó có một sự hòa hợp các Ánh Sáng, nhưng không có sự diễn giải thích hợp của thuật ngữ được dùng để thể hiện tên gọi. Sáu giai đoạn kể trên đã được diễn tả và đặt tên cho dễ hiểu đối với độc giả Tây phương, chớ không phải là dịch những danh từ cổ.

SIX WORDS FOR DISCIPLES— SÁU TỪ CHO CÁC ĐỆ TỬ

1.  Recollection, resulting in concentration.

1. Sự hồi tưởng, đưa đến sự định trí.

2. Response, resulting in an interaction between higher and lower.

2. Sự đáp ứng, đưa đến một sự tương tác giữa cái cao và cái thấp.

3. Radiation, resulting in a sounding forth.

3. Sự phát xạ, đưa đến một sự phát ra âm thanh.

4. Respiration, resulting in creative work.

4. Hơi thở, đưa đến công việc sáng tạo.

5. Reunion, resulting in the at-one-ment.

5. Sự tái hòa hợp, đưa đến sự hợp nhất.

6. Reorientation, resulting in a clear vision of the Plan.

6. Sự tái định hướng, đưa đến một linh thị rõ ràng về Thiên Cơ.

THE SUBLIMATION OF THE FIVE HUMAN STAGES— SỰ THĂNG HOA CỦA NĂM GIAI ĐOẠN CỦA CON NGƯỜI

Stage I.

Giai đoạn I

The life has climbed the stairway long through daily use of form. Through the lesser three, with progress slow, the long path has been travelled. Another door stands open now. The words sound forth: “Enter upon the way of real desire.”

Sự sống đã leo lên cầu thang dài thông qua việc sử dụng hình tướng hàng ngày. Thông qua ba cái thấp hơn, với sự tiến bộ chậm chạp, con đường dài đã được đi qua. Một cánh cửa khác giờ đây đang mở ra. Những lời vang lên: “Hãy bước vào con đường của ham muốn thực sự.”

The life, that only knows itself as form, enshrouds itself in vivid red, the red of known desire, and through the red all longed-for forms approach, are grasped and held, used and discarded, until the red changes to rose and rose to palest pink, and pink to white. Forth flowers then the pure white rose of life.

Sự sống, vốn chỉ biết đến bản thân như là hình tướng, bao phủ bản thân trong màu đỏ rực rỡ, màu đỏ của dục vọng đã biết, và thông qua màu đỏ, tất cả các hình tướng được khao khát đều đến gần, được nắm bắt và giữ lấy, sử dụng và vứt bỏ, cho đến khi màu đỏ chuyển sang màu hồng và màu hồng chuyển sang màu hồng nhạt nhất, và màu hồng chuyển sang màu trắng. Sau đó, bông hồng trắng tinh khiết của sự sống nở rộ.

The tiny rose of living life is seen in bud; not yet the full blown flower.

Bông hồng nhỏ bé của sự sống đang sống được nhìn thấy đang hé nở; vẫn chưa phải là bông hoa nở rộ hoàn toàn.

Stage II.

Giai đoạn II.

The picture changes form. Another voice, coming from close at hand utters another phrase. The life continues on its way. “Enter the field where children play and join their game.” Awakened to the game of life, the soul passes the gate. [675]

Bức tranh thay đổi hình dạng. Một giọng nói khác, đến từ gần đó, thốt ra một cụm từ khác. Sự sống tiếp tục con đường của mình. “Hãy bước vào cánh đồng nơi trẻ em chơi đùa và tham gia trò chơi của chúng.” Thức tỉnh với trò chơi cuộc sống, linh hồn đi qua cánh cổng.

The field is green and on its broad expanse the many forms of the one moving Life disport themselves; they weave the dance of life, the many patterned forms God takes. The soul enters “the playground of the Lord” and plays thereon until he sees the star with five bright points, and says: “My Star.”

Cánh đồng có màu xanh lục và trên dải đất rộng lớn của nó, nhiều hình tướng của Sự sống di chuyển duy nhất đang vui đùa; chúng dệt nên vũ điệu của sự sống, nhiều hình tướng theo khuôn mẫu mà Thượng đế mang lấy. Linh hồn bước vào “sân chơi của Chúa” và chơi trên đó cho đến khi nhìn thấy ngôi sao với năm điểm sáng, và nói: “Ngôi sao của tôi.”

Stage III.

Giai đoạn III.

The way of red desire fails. It loses its allure. The playground of the sons of God no longer holds appeal. The voice which has twice sounded from out the world of form sounds now within the heart. The challenge comes: “Prove thine own worth. Take to thyself the orange ball of thy one-pointed purpose.” Responsive to the sounded word, the living soul, immersed in form, emerges from the many forms and hews its onward way. The way of the destroyer comes, the builder and again the tearer down of forms. The broken forms hold not the power to satisfy. The soul’s own form is now the great desire, and thus there comes the entering of the playground of the mind.

Con đường của ham muốn màu đỏ thất bại. Nó mất đi sức hấp dẫn. Sân chơi của những người con của Thượng đế không còn giữ được sức hấp dẫn. Giọng nói đã hai lần vang lên từ thế giới hình tướng giờ đây vang lên trong tim. Thử thách đến: “Hãy chứng minh giá trị của chính ngươi. Hãy nắm lấy quả bóng màu cam của mục đích nhất tâm của ngươi.” Đáp lại lời nói đã vang lên, linh hồn đang sống, đắm chìm trong hình tướng, thoát ra khỏi nhiều hình tướng và tiến lên con đường phía trước. Con đường của kẻ hủy diệt đến, người xây dựng và một lần nữa là kẻ xé nát hình tướng. Các hình tướng bị phá vỡ không giữ được sức mạnh để thỏa mãn. Hình tướng của chính linh hồn giờ đây là khát vọng lớn lao, và do đó, sự bước vào sân chơi của trí tuệ đến.

But in these dreams and fantasies, at times a vision comes—a vision of a folded lotus flower, close petalled, tightly sealed, lacking aroma yet, but bathed in cold blue light.

Nhưng trong những giấc mơ và tưởng tượng này, đôi khi một linh ảnh đến — một linh ảnh về một hoa sen khép lại, cánh hoa khép chặt, được niêm phong chặt chẽ, chưa có hương thơm, nhưng được tắm trong ánh sáng xanh lạnh lẽo.

Orange and blue in some more distant time will blended be, but far off yet the date. Their blending bathes the bud in light and causes future opening. Let the light shine.

Màu cam và màu xanh lam trong một thời gian xa hơn nữa sẽ được hòa trộn, nhưng ngày đó còn xa vời. Sự pha trộn của chúng tắm nụ hoa trong ánh sáng và khiến nó mở ra trong tương lai. Hãy để ánh sáng tỏa sáng.

Stage IV.

Giai đoạn IV.

Into the dark the life proceeds. A different voice seems to sound forth. “Enter the cave and find your own; walk in the dark and on your head carry a lighted lamp.” The cave is dark and lonely; cold is it and a place of many sounds and voices. The voices of the many sons of God, left playing on the playground of the Lord, make their appeal for light. The cave is long and narrow. The air is full of fog. The sound of running water meets the rushing sound of wind, and frequent roll of thunder.

Sự sống tiến vào bóng tối. Một giọng nói khác dường như vang lên. “Hãy vào hang động và tìm thấy chính mình; hãy bước đi trong bóng tối và trên đầu hãy mang theo một ngọn đèn sáng.” Hang động tối tăm và cô đơn; nó lạnh lẽo và là nơi có nhiều âm thanh và giọng nói. Giọng nói của nhiều người con của Thượng đế, vẫn còn chơi đùa trên sân chơi của Chúa, kêu gọi ánh sáng. Hang động dài và hẹp. Không khí đầy sương mù. Âm thanh của nước chảy gặp âm thanh ào ạt của gió, và tiếng sấm rền thường xuyên.

Far off, dim and most vaguely seen, appears an oval opening, its colour blue. Stretched athwart this space of blue, a rosy cross is seen, and at the centre of the cross, where four [676] arms meet, a rose. Upon the upper limb, a vibrant diamond shines, within a star five-pointed.

Xa xa, mờ ảo và nhìn rất mơ hồ, xuất hiện một lối mở hình bầu dục, màu xanh lam. Trải dài trên khoảng không gian màu xanh lam này, một cây thập tự giá màu hồng được nhìn thấy, và ở trung tâm của cây thập tự giá, nơi bốn [676] cánh gặp nhau, một bông hồng. Trên nhánh trên, một viên kim cương rung động tỏa sáng, bên trong một ngôi sao năm cánh.

The living soul drives forward towards the cross which bars his way to life, revealed and known.

Linh hồn đang sống tiến về phía cây thập tự giá chắn ngang con đường dẫn đến sự sống, được tiết lộ và được biết đến.

Not yet the cross is mounted and, therefore, left behind. But onward goes the living soul, eyes fixed upon the cross, ears open to the wailing cries of all his brother souls.

Cây thập tự giá vẫn chưa được leo lên và do đó, bị bỏ lại phía sau. Nhưng linh hồn đang sống tiếp tục tiến lên, mắt nhìn chằm chằm vào cây thập tự giá, tai lắng nghe tiếng kêu than của tất cả các linh hồn huynh đệ của mình.

Stage V.

Giai đoạn V.

Out into radiant life and light! The cave is left behind; the cross is overturned; the way stands clear. The word sounds clear within the head and not within the heart. “Enter again the playground of the Lord and this time lead the games.” The way upon the second tier of stairs stands barred, this by the soul’s own act. No longer red desire governs all the life, but now the clear blue flame burns strong. Upon the bottom step of the barred way he turns back and passes down the stairs on to the playground, meeting dead shells built in an earlier stage, stepping upon forms discarded and destroyed, and holding forth the hands of helpfulness. Upon his shoulder sits the bird of peace; upon his feet the sandals of the messenger.

Hãy bước vào sự sống và ánh sáng rực rỡ! Hang động bị bỏ lại phía sau; cây thập tự giá bị lật đổ; con đường hiện ra rõ ràng. Lời nói vang lên rõ ràng trong đầu chứ không phải trong tim. “Hãy vào lại sân chơi của Chúa và lần này hãy dẫn dắt các trò chơi.” Con đường trên tầng cầu thang thứ hai bị chặn lại, điều này do hành động của chính linh hồn. Khát vọng đỏ không còn chi phối toàn bộ sự sống, mà giờ đây ngọn lửa xanh trong vắt bùng cháy mạnh mẽ. Trên bậc thang dưới cùng của con đường bị chặn, Ngài quay lưng lại và đi xuống cầu thang đến sân chơi, gặp những lớp vỏ chết chóc được xây dựng trong giai đoạn trước đó, bước lên những hình tướng bị vứt bỏ và phá hủy, và chìa ra đôi tay giúp đỡ. Trên vai Ngài đậu con chim của hòa bình; trên chân Ngài là đôi dép của sứ giả.

Not yet the utter glory of the radiant life! Not yet the entering into everlasting peace! But still the work, and still the lifting of the little ones.

Vẫn chưa phải là vinh quang tột đỉnh của sự sống rực rỡ! Vẫn chưa phải là bước vào sự bình an vĩnh cửu! Nhưng vẫn là công việc, và vẫn là nâng đỡ những người bé nhỏ.

DISCIPLESHIP AND PAIN—CON ĐƯỜNG ĐỆ TỬ VÀ SỰ ĐAU KHỔ

“The sons of God, who know and see and hear (and knowing, know they know) suffer the pain of conscious limitation. Deep in the inmost depths of conscious being, their lost estate of liberty eats like a canker. Pain, sickness, poverty and loss are seen as such, and from them every son of God revolts. He knows that in himself, as once he was before he entered prisoner into form, he knew not pain. Sickness and death, corruption and disease, they touched him not. The riches of the universe were his, and naught he knew of loss.

Những người con của Thượng đế, những người biết, thấy và nghe (và biết rằng họ biết) chịu đựng nỗi đau của sự hạn chế có ý thức. Sâu trong tận cùng tâm thức, sự mất mát tự do gặm nhấm như một chứng ung nhọt. Nỗi đau, bệnh tật, nghèo khó và mất mát được nhận thức như thế, và mỗi người con của Thượng đế đều chống lại chúng. Y biết rằng trong chính mình, như một thời đã từng trước khi trở thành tù nhân trong hình tướng, y không biết đến đau khổ. Bệnh tật và cái chết, sự hủy hoại và bệnh dịch không chạm đến y. Sự giàu có của vũ trụ thuộc về y, và y không hề biết đến mất mát.

“The lives that enter into form along with lives self-conscious, the deva lives which build the forms indwelt by all the sons of God, they know not pain or loss or poverty. [677] The form decays, the other forms retire, and that which is required to nourish and keep strong the outer, lacks. But lacking also will and planned intent, they feel no aggravation and know not clear revolt.”

“Những sự sống bước vào hình tướng cùng với những sự sống tự ý thức, những sự sống thiên thần xây dựng nên những hình tướng được tất cả những người con của Thượng đế trú ngụ, chúng không biết đến nỗi đau hay mất mát hay nghèo đói. [677] Hình tướng suy tàn, những hình tướng khác rút lui, và những gì cần thiết để nuôi dưỡng và giữ cho bên ngoài mạnh mẽ, đều thiếu hụt. Nhưng cũng thiếu ý chí và ý định được lên kế hoạch, chúng không cảm thấy khó chịu và không biết đến sự nổi loạn rõ ràng.”

A word about pain might be in place here, though I have naught of an abstruse nature to communicate anent the evolution of the human hierarchy through the medium of pain. The devas do not suffer pain as does mankind. Their rate of rhythm is steadier although in line with the Law. They learn through application to the work of building and through incorporation into the form of that which is built. They grow through appreciation of and joy in the forms built and the work accomplished. The devas build and humanity breaks and through the shattering of the forms man learns through discontent. Thus is acquiescence in the work of the greater Builders achieved. Pain is that upward struggle through matter which lands a man at the Feet of the Logos; pain is the following of the line of the greatest resistance and thereby reaching the summit of the mountain; pain is the smashing of the form and the reaching of the inner fire; pain is the cold of isolation which leads to the warmth of the central Sun; pain is the burning in the furnace in order finally to know the coolness of the water of life; pain is the journeying into the far country, resulting in the welcome to the Father’s Home; pain is the illusion of the Father’s disowning, which drives the prodigal straight to the Father’s heart; pain is the cross of utter loss, that renders back the riches of the eternal bounty; pain is the whip that drives the struggling builder to carry to utter perfection the building of the Temple.

Một vài lời về nỗi đau có thể được đề cập ở đây, mặc dù tôi không có gì mang tính trừu tượng để truyền đạt liên quan đến sự tiến hóa của Huyền Giai Nhân Loại thông qua phương tiện của nỗi đau. Các thiên thần không chịu đựng nỗi đau như nhân loại. Tốc độ nhịp điệu của họ ổn định hơn mặc dù phù hợp với Định luật. Họ học hỏi thông qua việc áp dụng vào công việc xây dựng và thông qua việc kết hợp vào hình tướng của những gì được xây dựng. Họ phát triển thông qua sự đánh giá cao và niềm vui trong các hình tướng được xây dựng và công việc đã hoàn thành. Các thiên thần xây dựng và nhân loại phá vỡ, và thông qua sự tan vỡ của các hình tướng, con người học hỏi qua sự bất mãn. Do đó, sự đồng thuận với công việc của các Đấng Xây Dựng vĩ đại hơn đã đạt được[1]. Nỗi đau là cuộc đấu tranh đi lên xuyên qua vật chất, đưa con người đến Dưới Chân của Thượng đế; nỗi đau là việc đi theo con đường có trở lực lớn nhất và nhờ đó đạt đến đỉnh núi; nỗi đau là sự phá vỡ hình tướng và việc chạm đến lửa bên trong; nỗi đau là cái lạnh của sự cô lập dẫn đến sự ấm áp của Mặt Trời Trung Tâm; nỗi đau là sự thiêu đốt trong lò lửa để cuối cùng cảm nhận được sự mát mẻ của nước sự sống; nỗi đau là hành trình đến vùng đất xa xôi, dẫn đến sự chào đón tại Nhà của Cha; nỗi đau là ảo tưởng về sự chối bỏ của Cha, đẩy người con hoang đàng thẳng đến trái tim của Cha; nỗi đau là cây thập giá của sự mất mát tận cùng, mang lại sự giàu có của ân huệ vĩnh cửu; nỗi đau là roi quất thúc đẩy người thợ xây đấu tranh để hoàn thiện tột cùng việc xây dựng Ngôi Đền.

The uses of pain are many, and they lead the human soul out of darkness into light, out of bondage into liberation, out of agony into peace. That peace, that light and that liberation, within the ordered harmony of the cosmos are for all the sons of men.

Công dụng của nỗi đau thì nhiều, chúng dẫn dắt linh hồn con người ra khỏi bóng tối đến với ánh sáng, ra khỏi sự ràng buộc đến với sự giải thoát, ra khỏi đau khổ đến với bình an. Sự bình an đó, ánh sáng đó và sự giải thoát đó, trong sự hài hòa có trật tự của vũ trụ là dành cho tất cả những người con của nhân loại.

FROM THE OLD COMMENTARY—TRÍCH TỪ CỔ LUẬN

“The assuaging waters cool. They slowly bring relief, abstracting form from all that can be touched. The quivering [678] fever heat of long repressed desire yields to the cooling draught. Water and pain negate each other. Long is the process of the cooling draught.

Những dòng nước xoa dịu mang lại sự mát lành. Chúng dần dần đem đến sự nhẹ nhõm, tách hình tướng khỏi tất cả những gì có thể chạm đến. Cơn sốt run rẩy [678] của ham muốn đã bị đè nén lâu nhường chỗ cho dòng nước mát lành. Nước và nỗi đau triệt tiêu lẫn nhau. Quá trình của dòng nước mát lành kéo dài vô tận.

“The burning fire releases all that blocks the way of life. Bliss comes and follows after fire, as fire upon the waters. Water and fire together blend and cause the great Illusion. Fog is the product of mist and steam and noise, veiling the Light, hiding the Truth and shutting out the Sun.

“Ngọn lửa thiêu đốt giải phóng mọi thứ cản trở con đường của sự sống. Hạnh phúc đến và theo sau lửa, như lửa trên mặt nước. Nước và lửa cùng hòa quyện và tạo nên Đại Ảo Tưởng. Sương mù là sản phẩm của hơi nước, sương khói và tiếng động, che phủ Ánh Sáng, ẩn giấu Chân Lý và ngăn chặn ánh Mặt Trời.”

“The fire burns fiercely. Pain and the waters disappear. Cold, heat, the light of day, the radiance of the rising sun and perfect knowledge of the Truth appear.

“Lửa cháy dữ dội. Nỗi đau và nước biến mất. Cái lạnh, sức nóng, ánh sáng ban ngày, ánh sáng rực rỡ của mặt trời mọc và kiến thức hoàn hảo về Chân lý xuất hiện.

“This is the path for all who seek the Light. First form, and all its longing. Then pain. Then the assuaging waters and the appearance of a little fire. The fire grows, and heat is then active within the tiny sphere and does its fiery work. Moisture likewise is seen; dense fog, and to the pain is added sad bewilderment, for they who use the fire of mind during the early stage are lost within a light illusory.

“Đây là con đường dành cho tất cả những ai tìm kiếm Ánh sáng. Đầu tiên là hình tướng, và tất cả ham muốn của nó. Sau đó là nỗi đau. Sau đó là nước làm dịu và sự xuất hiện của một ngọn lửa nhỏ. Ngọn lửa lớn dần, và sức nóng sau đó hoạt động bên trong quả cầu nhỏ bé và thực hiện công việc rực lửa của nó. Độ ẩm cũng được nhìn thấy; sương mù dày đặc, và nỗi đau được thêm vào sự hoang mang buồn bã, vì những người sử dụng ngọn lửa của trí tuệ trong giai đoạn đầu bị lạc lối trong ánh sáng huyễn ảo.

“Fierce grows the heat; next comes the loss of power to suffer. When this stage has been outgrown, there comes the shining of the unobstructed Sun and the clear bright light of Truth. This is the path back to the hidden centre.

“Sức nóng tăng lên dữ dội; tiếp theo là sự mất khả năng chịu đựng đau khổ. Khi giai đoạn này đã được vượt qua, sự tỏa sáng của Mặt trời không bị cản trở và ánh sáng trong trẻo, rực rỡ của Chân lý sẽ đến. Đây là con đường trở về trung tâm tiềm ẩn.

“Use pain. Call for the fire, O Pilgrim, in a strange and foreign land. The waters wash away the mud and slime of nature’s growth. The fires burn the hindering forms which seek to hold the pilgrim back and so bring release. The living waters, as a river, sweep the pilgrim to the Father’s Heart. The fires destroy the veil, hiding the Father’s Face.”

“Hãy sử dụng nỗi đau. Hãy kêu gọi ngọn lửa, hỡi Khách hành hương, ở vùng đất xa lạ và xa xôi. Nước cuốn trôi bùn đất và chất nhờn của sự phát triển của tự nhiên. Lửa thiêu rụi những hình tướng cản trở đang tìm cách giữ chân người hành hương và do đó mang lại sự giải thoát. Dòng nước sống, như một dòng sông, cuốn người hành hương đến Trái tim của Cha. Lửa thiêu hủy bức màn che, che giấu Khuôn mặt của Cha.”

DISCIPLESHIP AND ITS END—CON ĐƯỜNG ĐỆ TỬ VÀ MỤC TIÊU CỦA NÓ

There is a curious and ancient Atlantean chant which is no longer used but in those far off times was chanted by the initiate who took the third initiation—the consummating initiation of that period. It goes as follows. The translation of the symbols in which it was written necessitates the loss of rhythm and potency.

Có một bài thánh ca Atlantis cổ xưa và kỳ lạ không còn được sử dụng nữa nhưng trong những thời kỳ xa xưa đó đã được xướng lên bởi điểm đạo đồ đã thực hiện lần điểm đạo thứ ba — lần điểm đạo hoàn thiện của thời kỳ đó. Nó như sau. Việc dịch các biểu tượng mà nó được viết ra tất yếu phải mất đi nhịp điệu và sức mạnh.

“I stand between the Heavens and Earth! I vision God; I see the forms God took. I hate them both. Naught do [679] they mean to me, for one I cannot reach, and for the lower of the two I have no longer any love.

“Tôi đứng giữa Trời và Đất! Tôi hình dung Thượng đế; Tôi thấy những hình tướng mà Thượng đế đã khoác lấy. Tôi ghét cả hai. Chúng không [679] có ý nghĩa gì đối với tôi, vì một cái tôi không thể đạt được, và với điều thấp kém hơn tôi không còn bất kỳ tình yêu thương nào nữa.

“Torn I am. Space and its Life I cannot know, and so I want it not. Time and its myriad forms, I know too well. Pendant I hang betwixt the two, desiring neither.

“Tôi bị giằng xé. Tôi không thể biết Không Gian và Sự Sống của nó, và vì vậy tôi không cần nó. Thời gian và vô số hình tướng của nó, tôi biết quá rõ. Tôi treo đung đưa giữa cả hai, tôi không muốn cái nào.

“God from high Heaven speaks. There is a change. I hear with ear attentive, and, listening, turn my head. That which I visioned, yet visioning could not reach, is nearer to my heart. Old longings come again, yet die. Old chains of glamour snap. Forward I rush.

“Thượng đế từ Trời cao cất tiếng. Có một sự thay đổi. Tôi nghe với tai chăm chú, và lắng nghe, quay đầu lại. Điều mà tôi đã hình dung, nhưng hình dung vẫn không thể với tới, giờ đã gần với trái tim tôi hơn. Những khát khao cũ xưa lại đến, nhưng rồi chết đi. Những xiềng xích ảo cảm cũ kỹ đứt đoạn. Tôi lao về phía trước.

“Myriads of voices speak and halt me in my tracks. The thunder of the sounds of earth shuts out the voice of God. I turn me on my forward path, and vision once again the long held joys of earth, and flesh and kin. I lose the vision of eternal things. The voice of God dies out.

“Vô số giọng nói cất lên và ngăn tôi lại trên đường đi. Tiếng sấm của những âm thanh của trái đất át đi tiếng nói của Thượng đế. Tôi quay đầu lại trên con đường phía trước của mình, và một lần nữa hình dung những niềm vui lâu dài của trái đất, xác thịt và dòng họ. Tội đánh mất tầm nhìn về những điều vĩnh cửu. Tiếng nói của Thượng đế tắt dần.

“Torn again am I, but only for a little time. Backward and forward shifts my little self, e’en as a bird soars into heaven and settles back again upon the tree. Yet God, in His high place, outlasts the little bird. Thus do I know that God will victor be and later hold my mind and me in thrall.

“Tôi lại bị giằng xé, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Cái tôi nhỏ bé của Tôi dịch chuyển tới lui, giống như một con chim bay vút lên trời rồi lại đậu xuống cây. Nhưng Thượng đế, ở nơi cao vời của Ngài, tồn tại lâu hơn con chim nhỏ bé. Do đó, tôi biết rằng Thượng đế sẽ là người chiến thắng và sau này sẽ giữ tâm trí tôi và tôi trong sự kìm kẹp.

“Hark to the joyous paean that I chant; the work is done. My ear is deaf to all the calls of earth, except to that small voice of all the hidden souls within the outer forms, for they are as myself; with them I am at-one.

“Hãy lắng nghe bài ca chiến thắng mà tôi xướng lên; công việc đã hoàn thành. Tai tôi điếc với tất cả những lời kêu gọi của đất, ngoại trừ tiếng nói nhỏ bé đó của tất cả những linh hồn tiềm ẩn bên trong các hình tướng bên ngoài, vì họ giống như tôi; tôi hòa làm một với họ.

“God’s voice rings clear, and in its tones and overtones the little voices of the little forms dim and fade out. I dwell within a world of unity. I know all souls are one.

“Tiếng nói của Thượng đế vang lên rõ ràng, và trong âm sắc và âm bội của nó, những giọng nói nhỏ bé của những hình tướng nhỏ bé mờ dần và biến mất. Tôi trú ngụ trong một thế giới của sự hợp nhất. Tôi biết tất cả các linh hồn là một.

“Swept am I by the universal Life and as I sweep upon my onward way—the way of God—I see all lesser energies die out. I am the One; I, God. I am the form in which all forms are merged. I am the soul in which all souls are fused. I am the Life, and in that Life, all little lives remain.”

“Tôi bị cuốn theo Sự sống phổ quát và khi tôi cuốn theo con đường phía trước của mình — con đường của Thượng đế — tôi thấy tất cả những năng lượng thấp kém hơn đều lụi tàn. tôi là Đấng Duy nhất; Tôi, Thượng đế. Tôi là hình tướng mà trong đó tất cả các hình tướng được hợp nhất. Tôi là linh hồn mà trong đó tất cả các linh hồn được hợp nhất. Tôi là Sự sống, và trong Sự sống đó, tất cả những sự sống nhỏ bé vẫn còn.”

These words, chanted in the ancient formulas on peculiar and selected notes, were most potent and brought definite results in certain ancient ceremonies that have long since died out. [680]

Những từ này, được xướng lên trong các công thức cổ xưa trên những nốt đặc biệt và được lựa chọn, rất mạnh mẽ và mang lại những kết quả nhất định trong một số nghi lễ cổ xưa đã lụi tàn từ lâu.

Commentary

THE SIX STAGES OF DISCIPLESHIP

13. PART I

Commentary by Michael D. Robbins

[673]

Introductory Notes

THE SIX STAGES OF DISCIPLESHIP

1. The stage wherein a disciple is contacted by the Master through another chela on the physical plane. This is the stage of “Little Chelaship.”

1. Giai đoạn mà một đệ tử được Chân sư liên lạc thông qua một đệ tử khác trên cõi trần. Đây là giai đoạn “Tiểu Đệ Tử.”

1. It is interesting that there should be six stages of discipleship. Discipleship relates to the training of the form to be rightly responsive to the soul. The number of the form is six. Six is also a number of sentiency, associated with the sixth plane, which can be considered the primary plane of touch.

1. Điều thú vị là có sáu giai đoạn đệ tử. Giai đoạn đệ tử liên quan đến việc huấn luyện hình tướng để đáp ứng đúng đắn với linh hồn. Con số của hình tướng là sáu. Sáu cũng là một con số của cảm giác, liên kết với cõi thứ sáu, có thể được coi là cõi xúc chạm chủ yếu.

2. Further, the two signs which we can most reasonable associate with discipleship are Scorpio and Virgo. Starting with the Ascendant of the astrological chart in Aries (which is the archetypal position for Aries) we reach Scorpio by counting six signs in a clockwise direction and Virgo, by counting six signs in a counter-clockwise direction.

2. Hơn nữa, hai dấu hiệu mà chúng ta có thể hợp lý nhất liên kết với giai đoạn đệ tử là Hổ Cáp và Xử Nữ. Bắt đầu với Điểm Mọc của lá số chiêm tinh ở Bạch Dương (là vị trí nguyên mẫu cho Bạch Dương), chúng ta đến Hổ Cáp bằng cách đếm sáu cung theo chiều kim đồng hồ, và Xử Nữ, bằng cách đếm sáu cung theo chiều ngược kim đồng hồ.

Ü Ý ƒ   ; Ü Š ˆ

3. The Moon is related to the Lunar Lords, the sixth of the manifested Creative Hierarchies. We find the Moon to be interestingly related to the sixth plane, the astral plane, which for all of humanity is the foremost battle ground.

3. Mặt trăng có liên quan đến các Nguyệt tinh quân, Huyền Giai Sáng Tạo thứ sáu trong số các Huyền Giai Sáng Tạo đã biểu hiện. Chúng ta thấy Mặt trăng có liên quan thú vị đến cõi thứ sáu, cõi cảm dục, là chiến trường quan trọng nhất đối với toàn thể nhân loại.

4. Further, the Moon is closely related to the two signs here mentioned as related to Discipleship—Scorpio and Virgo, for the Moon “falls” in the sign Scorpio (where its ancient tendencies are overcome) and is the esoteric ruler of Virgo (where the Moon stands for the process of purifying the personality in preparation for the Birth of the Christ in the Hear)t. We also find that Scorpio and Virgo are closely related to the sixth ray—for Virgo transmits that ray and the exoteric and esoteric ruler of Scorpio, Mars, is a sixth ray planet.

4. Hơn nữa, Mặt trăng có liên quan chặt chẽ đến hai cung được đề cập ở đây liên quan đến Giai đoạn đệ tử — Hổ Cáp và Xử Nữ, vì Mặt trăng “tử” trong dấu hiệu Hổ Cáp (nơi những khuynh hướng cổ xưa của nó bị khắc phục) và là chủ tinh nội môn của Xử Nữ (nơi Mặt trăng tượng trưng cho quá trình thanh lọc phàm ngã để chuẩn bị cho sự Giáng Sinh của Đức Christ trong Trái Tim). Chúng ta cũng thấy rằng Hổ Cáp và Xử Nữ có liên quan chặt chẽ đến cung sáu — vì Xử Nữ truyền tải cung đó và chủ tinh ngoại môn và nội môn của Hổ Cáp, Sao Hỏa, là một hành tinh cung sáu.

5. “Chelaship” is the state of being a disciple who actually in training. It is beyond the stage of aspirant, for it means that the disciple has a Teacher, recognizes (in some manner) his Teacher, and is recognized by his Teacher—however ‘mediately’ this recognition may occur, for there are often a number of intermediaries between the disciple and his Teacher—the Master.

5. “Giai đoạn đệ tử” là trạng thái của một đệ tử thực sự đang được huấn luyện. Nó vượt ra ngoài giai đoạn người chí nguyện, vì nó có nghĩa là đệ tử có một Huấn sư, và y nhận ra (theo một cách nào đó) Huấn sư của mình, và được Huấn sư của mình công nhận — tuy nhiên sự công nhận này có thể xảy ra ‘gián tiếp’, vì thường có một số trung gian giữa đệ tử và Huấn sư của mình — Chân sư.

6. During “Little Chelaship” the Master somehow seeks to contact the disciple—though not yet directly.

6. Trong giai đoạn “Tiểu Đệ Tử”, Chân sư bằng cách nào đó tìm cách liên lạc với đệ tử — mặc dù chưa trực tiếp.

7. “Little Chelaship” is a relatively physical stage of discipleship and the contact, therefore, between the Master and the chela will be physical, though mediated. In this case, another chela on the physical plane serves as the intermediary between the Master and the chela to be contacted.

7. “Tiểu Đệ Tử” là một giai đoạn tương đối “trần gian” của giai đoạn đệ tử và do đó, sự tiếp xúc giữa Chân sư và đệ tử sẽ là cõi trần, mặc dù được trung gian. Trong trường hợp này, một đệ tử khác trên cõi trần đóng vai trò trung gian giữa Chân sư và đệ tử được liên lạc.

8. The term “little” is important, for it indicates that the chela is as yet very immature and limited. Such a chela has a small spiritual scope, but is definitely “on the way”

8. Thuật ngữ “tiểu” rất quan trọng, vì nó chỉ ra rằng đệ tử vẫn còn rất non nớt và hạn chế. Một đệ tử như vậy có phạm vi tinh thần nhỏ, nhưng chắc chắn “đang trên đường”.

2. The stage wherein a higher disciple directs the chela from the egoic level. This is the stage called a “Chela in the Light.”

2. Giai đoạn mà một đệ tử cao hơn hướng dẫn đệ tử từ cấp độ chân ngã. Đây là giai đoạn được gọi là “Đệ Tử trong Ánh Sáng.”

1. We are at first only dealing with naming these stages of discipleship.

1. Trong phần đầu tiên này, chúng ta chỉ đề cập đến việc đặt tên cho các giai đoạn đệ tử này.

2. The second stage is definitely a step above the first, because the chela is directed “from the egoic level” by a higher order of disciple. This means that the higher disciple (of an unspecified rank—it could be a Master) has influence over the chela (considered as soul) and not just over the chela’s personality.

2. Giai đoạn thứ hai chắc chắn là một bước tiến so với giai đoạn thứ nhất, bởi vì đệ tử được hướng dẫn “từ cõi chân ngã” bởi một đệ tử cao hơn. Điều này có nghĩa là đệ tử cao hơn (có cấp bậc không xác định — có thể là một Chân sư) có ảnh hưởng đến đệ tử (được coi là linh hồn) chứ không chỉ đối với phàm ngã của đệ tử.

3. While this is occurring, the chela on the physical plane may also be guided by a more advanced chela in physical incarnation, who supervises his personality activity.

3. Trong khi điều này xảy ra, đệ tử trên cõi trần cũng có thể được hướng dẫn bởi một đệ tử cao cấp hơn đang nhập thế trong thể xác, người giám sát hoạt động phàm ngã của họ.

4. It is possible that the higher disciple directing the chela from egoic levels, may also be the incarnated higher chela who is supervising the lesser chela’s personality.

4. Có thể đệ tử cao hơn hướng dẫn đệ tử từ cõi chân ngã, cũng có thể là đệ tử cao cấp nhập thể đang giám sát phàm ngã của đệ tử thấp hơn.

5. The name for this stage of discipleship, “Chela in the Light”, suggest that the light of the soul is having an increasingly powerful effect upon the chela’s outer behavior and that the higher disciples who have influence over the lesser chela are focusing the light upon him with intention.

5. Tên cho giai đoạn đệ tử này, “Đệ Tử trong Ánh Sáng”, gợi ý rằng ánh sáng của linh hồn đang có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến hành vi bên ngoài của đệ tử và rằng các đệ tử cao hơn có ảnh hưởng đến đệ tử thấp hơn đang tập trung ánh sáng vào họ một cách có chủ ý.

3. The stage wherein, according to necessity, the Master contacts the chela through:

3. Giai đoạn mà, theo nhu cầu, Chân sư liên lạc với đệ tử thông qua:

a. A vivid dream experience.

a. Một trải nghiệm giấc mơ sống động.

b. A symbolic teaching.

b. Một lời dạy biểu tượng.

c. A using of a thoughtform of the Master.

c. Việc sử dụng một hình tư tưởng của Chân sư.

d. A contact in meditation.

d. Một sự tiếp xúc trong thiền định.

e. A definite remembered interview in the Master’s Ashram.

e. Một cuộc gặp gỡ chắc chắn được ghi nhớ trong ashram của Chân sư.

This is definitely the stage of Accepted Disciple.

Đây chắc chắn là giai đoạn của Đệ Tử được Chấp nhận.

1. This is a stage of great interest to the average disciple and one towards which he aspires.

1. Đây là một giai đoạn được nhiều đệ tử trung bình quan tâm và là giai đoạn mà họ khao khát.

2. The stage discussed is one of “accepted discipleship”. In various places Master DK speaks much of the “accepting”, the “pledged” and “accepted” disciple. He does not needlessly repeat Himself, so it does well for us to remember what He has said in this respect. He places much emphasis upon the importance of the attitude of “acceptance”, requiring of spiritual aspirants that they become “accepting disciples”. This is a stage on the way to actual “acceptance” by the Master after long years of inner recognition (on the part of the Master). The “accepted disciple” definitely shares in the energy of the Ashram (with varying degrees of effectiveness).

2. Giai đoạn được thảo luận là một trong những giai đoạn “đệ tử được chấp nhận”. Ở nhiều nơi khác nhau, Chân sư DK nói nhiều về đệ tử “chấp nhận”, “cam kết” và “được chấp nhận”. Ngài không lặp lại một cách không cần thiết, vì vậy chúng ta nên nhớ những gì Ngài đã nói về khía cạnh này. Ngài rất coi trọng thái độ “chấp nhận”, yêu cầu những người có nguyện vọng tâm linh phải trở thành “những đệ tử chấp nhận”. Đây là một giai đoạn trên con đường dẫn đến việc thực sự “được chấp nhận” bởi Chân sư sau nhiều năm được công nhận nội tại (về phía Chân sư). Đệ tử “được chấp nhận” chắc chắn chia sẻ năng lượng của Ashram (với các mức độ hiệu quả khác nhau).

3. We are given five methods by which the Master can, and does, contact the chela (according to necessity). We, therefore, note that the contact is not casual but purposeful, and closely subject to the Law of Economy.

3. Chúng ta được cung cấp năm phương pháp mà Chân sư có thể, và thực sự, liên lạc với đệ tử (theo nhu cầu). Do đó, chúng ta lưu ý rằng sự tiếp xúc không phải là ngẫu nhiên mà là có mục đích, và tuân theo nghiêm ngặt Định luật Tiết Kiệm.

4. We will analyze these five stages in depth in succeeding commentaries, For the moment it is sufficient for us to note that all of these modes of contact are “inner modes” and involve the subtle bodies rather than the physical body. The first involves the astral plane; the second may occur on the physical plane but is more an event in consciousness than a physical event; the third also is an event in consciousness; the fourth (though meditation is occurring in such a way as to involve the physical brain) is an event involving the mental body as it becomes sensitive to the higher mental and buddhic planes; the fifth type of occurrence, again, is experienced in relation to the astral plane, though, we must remember that, presently, the majority of the Masters’ Ashrams are located on the buddhic plane. On the buddhic plane, form as we know it does not exist, so whatever kind of transmission between Master and chela is occurring, there is out-pictured as an astral experience, since the astral plane is easily resonant to the buddhic plane. As there is an inner understanding of the experience, and the experience is definitely remembered, the mental component must be included.

4. Chúng ta sẽ phân tích sâu năm giai đoạn này trong các bài bình luận tiếp theo. Hiện tại, chúng ta chỉ cần lưu ý rằng tất cả các phương thức tiếp xúc này đều là “phương thức nội tại” và liên quan đến các thể vi tế hơn là thể xác. Phương thức đầu tiên (“Một trải nghiệm giấc mơ sống động”) liên quan đến cõi cảm dục; phương thức thứ hai (“Một lời dạy biểu tượng”) có thể xảy ra trên cõi trần nhưng là một sự kiện trong tâm thức hơn là một sự kiện vật lý; phương thức thứ ba (“Việc sử dụng một hình tư tưởng của Chân sư”) cũng là một sự kiện trong tâm thức; phương thức thứ tư (“Một sự tiếp xúc trong thiền định”, mặc dù thiền định đang xảy ra theo cách liên quan đến bộ não vật lý) là một sự kiện liên quan đến thể trí khi nó trở nên nhạy cảm với cõi thượng trí và cõi Bồ đề; loại hình thứ năm (“Một cuộc gặp gỡ chắc chắn được ghi nhớ trong ashram của Chân sư”), một lần nữa, được trải nghiệm liên quan đến cõi cảm dục, mặc dù, chúng ta phải nhớ rằng, hiện tại, phần lớn các Ashram của Chân sư đều nằm trên cõi Bồ đề. Trên cõi Bồ đề, hình tướng như chúng ta biết không tồn tại, vì vậy bất kỳ loại truyền tải nào giữa Chân sư và đệ tử xảy ra, đều được mô tả như một trải nghiệm cảm dục, vì cõi cảm dục dễ dàng cộng hưởng với cõi Bồ đề. Vì có một sự thấu hiểu nội tại về trải nghiệm, và trải nghiệm chắc chắn được ghi nhớ, nên thành phần trí tuệ phải được bao gồm.

5. Therefore, in the fifth and highest experience, three planes—the astral, mental and (to a degree) the buddhic are all involved.

5. Do đó, trong trải nghiệm thứ năm và cao nhất, ba cõi — cảm dục, trí tuệ và (ở một mức độ nào đó) Bồ đề đều có liên quan.

4. The stage wherein, having shown his wisdom in work, and his appreciation of the Master’s problem, the chela is taught how (in emergencies) to attract the Master’s attention and thus draw on His strength, knowledge and advice. This is an instantaneous happening, and practically takes none of the Master’s time. This stage has the peculiar name of a “Chela on the Thread” or sutratma.

4. Giai đoạn mà, sau khi thể hiện minh triết trong công việc và đánh giá cao vấn đề của Chân sư, đệ tử được dạy cách (trong trường hợp khẩn cấp) thu hút sự chú ý của Chân sư và do đó dựa vào sức mạnh, kiến thức và lời khuyên của Ngài. Đây là một sự kiện tức thời, và thực tế không mất thời gian của Chân sư. Giai đoạn này có tên gọi đặc biệt là “Đệ tử trên đường dây” hay sutratma.

1. We can say that at this fourth stage (that of “Chela on the Thread”) the real esoteric work begins.

1. Chúng ta có thể nói rằng ở giai đoạn thứ tư này (giai đoạn “Đệ Tử trên đường dây”) công việc thực sự bí truyền bắt đầu.

2. We note that to reach this state the chela must have demonstrated “wisdom in work”, thus for some time he has been put to the test. In order to demonstrate such wisdom, he has to be capable of an assured soul contact, and of understanding the use of soul energy in practical affairs. Such will have been his curriculum during the stage of “accepted discipleship”.

2. Chúng ta lưu ý rằng để đạt đến trạng thái này, đệ tử phải thể hiện “minh triết trong công việc”, do đó trong một thời gian, họ đã được thử thách. Để thể hiện minh triết như vậy, họ phải có khả năng tiếp xúc với linh hồn một cách chắc chắn, và hiểu được cách sử dụng năng lượng linh hồn trong các vấn đề thực tế. Đó sẽ là chương trình học của họ trong giai đoạn “đệ tử được chấp nhận”.

3. It must be obvious that no one can attain to the stage of “Chela on the Thread” unless the ‘antahkaranic thread’ is built and functioning. The actual thread involved in this stage is different from the antahkarana, but the functioning antahkarana allows the disciple to ‘reach into’ the world where the Master may be found—the levels of the spiritual triad, and to be accessible to the Master’s energy.

3. Rõ ràng là không ai có thể đạt đến giai đoạn “Đệ tử trên đường dây” trừ khi ‘cầu antahkarana’ được xây dựng và hoạt động. Sợi dây hay tuyến thực sự liên quan đến giai đoạn này khác với antahkarana, nhưng antahkarana đang hoạt động cho phép đệ tử ‘tiếp cận’ thế giới nơi Chân sư có thể được tìm thấy — các cõi của tam nguyên tinh thần, và có thể tiếp cận với năng lượng của Chân sư.

4. We note that a significant degree of decentralization characterizes the “Chela on the Thread” for he no longer thinks only in terms of himself and his own problem, but in terms of the Ashram and the Master’s problem. This type of chela is rapidly becoming a trusted spiritual worker in some Ashram or other.

4. Chúng ta lưu ý rằng một mức độ phi tập trung hóa đáng kể đặc trưng cho “Đệ tử trên đường dây” vì họ không còn chỉ nghĩ về bản thân và vấn đề của mình, mà còn nghĩ về Ashram và vấn đề của Chân sư. Loại đệ tử này đang nhanh chóng trở thành một người công tác tinh thần đáng tin cậy trong Ashram này hay Ashram khác.

5. The “Chela on the Thread” has a significant degree of access to the Master’s strength, knowledge and advice. He is taught how to attract the Master’s attention in emergencies. Such emergencies will not be personal emergencies but related to the Great Work (the Plan) and his responsibility within that Plan.

5. “Đệ tử trên đường dây” có khả năng tiếp cận đáng kể với sức mạnh, kiến thức và lời khuyên của Chân sư. Họ được dạy cách thu hút sự chú ý của Chân sư trong trường hợp khẩn cấp. Những trường hợp khẩn cấp như vậy sẽ không phải là trường hợp khẩn cấp cá nhân mà liên quan đến Đại Sự (Thiên Cơ) và trách nhiệm của họ trong Thiên Cơ đó.

6. Again, the Law of Economy continues to be observed, as practically none of the Master’s time is taken by the importunity of the ‘demanding’ chela. Full access to the Master is only permitted to those who stand very close to Him and, because of their deep understanding of the Ashram’s work and the Master’s objectives and problems, can be trusted to ask for individual attention only when the work absolutely requires it.

6. Một lần nữa, Định luật Tiết Kiệm tiếp tục được tuân thủ, vì thực tế không mất thời gian của Chân sư bởi sự khẩn khoản của đệ tử ‘đòi hỏi’. Việc tiếp cận đầy đủ với Chân sư chỉ được phép đối với những người đứng rất gần Ngài và, do sự hiểu biết sâu sắc của họ về công việc của Ashram và các mục tiêu cũng như vấn đề của Chân sư, có thể tin tưởng để yêu cầu sự quan tâm cá nhân chỉ khi công việc thực sự yêu cầu.

7. DK refers to the thread in relation to the “sutratma”—the “life thread”. Along this thread the Master’s spiritual vitality, energy and knowledge can reach the disciple instantly, according to need.

7. Chân sư DK đề cập đến sợi dây (hay tuyến) liên quan đến “sutratma” — “sinh mệnh tuyến”. Dọc theo tuyến này, sức sống, năng lượng và kiến thức tinh thần của Chân sư có thể đến với đệ tử ngay lập tức, tùy theo nhu cầu.

8. It becomes increasingly clear that when a Master accepts a chela, He links that chela to him by a thread of energy which can be used in various ways. This linking is a very great act of responsibility on the part of the Master; the chela should appreciate this and do all he can to avoid disturbing either the Ashram or the Master.

8. Ngày càng rõ ràng rằng khi một Chân sư chấp nhận một đệ tử, Ngài liên kết đệ tử đó với mình bằng một sợi dây năng lượng có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Sự liên kết này là một hành động trách nhiệm rất lớn về phía Chân sư; đệ tử nên đánh giá cao điều này và làm tất cả những gì có thể để tránh làm phiền Ashram hoặc Chân sư.

5. The stage wherein the chela is permitted to know the method whereby he may set up a vibration and call which will entitle him to an interview with the Master. This is only permitted to those trusted chelas who can be depended upon not to use the knowledge for anything except the need of the work; no personality reason or distress would prompt them to use it. At this stage the chela is called “one within the aura.”

5. Giai đoạn mà đệ tử được phép biết phương pháp mà họ có thể thiết lập rung động và lời kêu gọi sẽ cho phép họ được gặp Chân sư. Điều này chỉ được phép đối với những đệ tử đáng tin cậy, những người có thể tin tưởng rằng sẽ không sử dụng kiến thức cho bất cứ điều gì ngoại trừ nhu cầu của công việc; không có lý do cá nhân hay đau khổ nào sẽ thúc đẩy họ sử dụng nó. Ở giai đoạn này, đệ tử được gọi là “đệ tử trong hào quang.”

1. The fifth stage of “one within the aura” entitles the chela (now certainly initiate) to an interview with the Master when necessity demands.

1. Giai đoạn thứ năm của “đệ tử trong hào quang” cho phép đệ tử (giờ chắc chắn là điểm đạo đồ) được gặp Chân sư khi cần thiết.

2. The expenditure of energy on the part of the Master will be, therefore, much greater than for the ‘Chela on the Thread”.

2. Do đó, năng lượng tiêu hao của Chân sư sẽ lớn hơn nhiều so với “Đệ tử trên đường dây”.

3. We see that it is no easy matter to invoke an interview with the Master. There is a hidden method by which a vibration or call may be sent forth. This method is obviously one of the secrets of ashramic life and is closely guarded.

3. Chúng ta thấy rằng việc khẩn cầu một cuộc gặp gỡ với Chân sư không phải là điều dễ dàng. Có một phương pháp bí mật mà rung động hoặc lời kêu gọi có thể được gửi đi. Phương pháp này rõ ràng là một trong những bí mật của cuộc sống đạo viện và được bảo vệ chặt chẽ.

4. The moment of the Master’s response will not be known by the chela who sends for the call; but the “interview” will come at the correct time (according to the Master’s judgment, schedule and responsibilities).

4. Người đệ tử gửi lời kêu gọi sẽ không biết được thời điểm Chân sư đáp lại; nhưng “cuộc gặp gỡ” sẽ đến vào đúng thời điểm (theo phán đoán, lịch trình và trách nhiệm của Chân sư).

5. The “aura” here referenced is clearly the “aura of the Master”. Such a disciple/initiate will quite intimately know the Master’s will and intention, and will be closely identified with the major energy qualities of the Master.

5. “Hào quang” được đề cập ở đây rõ ràng là “hào quang của Chân sư”. Một đệ tử / điểm đạo đồ như vậy sẽ biết khá rõ ràng ý chí và ý định của Chân sư, và sẽ đồng nhất chặt chẽ với các phẩm chất năng lượng chính của Chân sư.

6. “One within the aura” will be able to wield ashramic energies with accuracy, and will be able to represent to the world the Master’s quality and vibration.

6. “Đệ tử trong hào quang” sẽ có thể sử dụng năng lượng đạo viện một cách chính xác, và sẽ có thể đại diện cho thế giới phẩm chất và rung động của Chân sư.

6. The stage wherein the chela can get his Master’s ear at any time. He is in close touch always. This is the stage wherein a chela is being definitely prepared for an immediate initiation or, having taken initiation, is being given specialised [674] work to do in collaboration with his Master. The chela at this stage is described as “one within his Master’s heart.”

6. Giai đoạn mà đệ tử có thể được Chân sư lắng nghe bất cứ lúc nào. Y luôn ở trong sự tiếp xúc chặt chẽ. Đây là giai đoạn mà một đệ tử đang được chuẩn bị chắc chắn cho một cuộc điểm đạo ngay lập tức hoặc, sau khi đã điểm đạo, đang được giao công việc chuyên biệt [674] để thực hiện cùng với Chân sư của mình. Đệ tử ở giai đoạn này được mô tả là “đệ tử trong tâm của Chân sư.”

1. The sixth stage is advanced. It is unlikely that students of our kind know such people very well. Such a disciple will certainly have passed the third initiation and very likely the fourth.

1. Giai đoạn thứ sáu là giai đoạn cao cấp. Không chắc rằng những học viên như chúng ta biết rõ những người như vậy. Một đệ tử như vậy chắc chắn sẽ đã vượt qua lần điểm đạo thứ ba và rất có thể là lần thứ tư.

2. Those at this stage will be highly experienced workers. They have proven themselves in all the more usual ways and have elevated themselves to the point where they can be trusted to carry our important specialized work on behalf of the Master and the Ashram.

2. Những người ở giai đoạn này sẽ là những người hoạt động có kinh nghiệm cao. Họ đã chứng tỏ bản thân theo tất cả những cách thông thường hơn và đã nâng cao bản thân đến mức họ có thể được tin tưởng để thực hiện công việc chuyên biệt quan trọng thay mặt Chân sư và Ashram.

3. Numbered among them are those who are being prepared for “immediate initiation”. This does not mean, however, that all who are affiliated with an Ashram and who are being prepared for Initiation are necessarily at the stage of “one within the Master’s heart”. Depending upon the initiation, they might not even be “one within the aura”.

3. Trong số đó có những người đang được chuẩn bị cho “cuộc điểm đạo trước mắt”. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả những người liên kết với một Ashram và đang được chuẩn bị cho Điểm đạo nhất thiết phải ở giai đoạn “người trong tâm Chân sư”. Tùy thuộc vào cuộc điểm đạo, họ thậm chí có thể không phải là “người trong hào quang”.

4. To be within the Master’s heart, one would be sensitive to the central motive and heart’s desire of the Master, and probably to His monadic vibration. Such an initiate would also response, via the heart of the Master, to the Heart of the Hierarchy—the Christ.

4. Để ở trong tâm Chân sư, người ta sẽ nhạy cảm với động cơ trung tâm và khát vọng từ trái tim của Chân sư, và có thể là với rung động chân thần của Ngài. Một điểm đạo đồ như vậy cũng sẽ đáp ứng, thông qua trái tim của Chân sư, với Trái tim của Thánh đoàn — Đức Christ.

5. Whatever the Master is in essence, this, such an initiate would know, and to this he would whole-heartedly respond.

5. Bất cứ điều gì Chân sư thực sự là, một điểm đạo đồ như vậy sẽ biết, và với điều này, họ sẽ hết lòng đáp ứng.

There is a later stage of still closer identification, where there is a blending of the Lights, but there is no adequate paraphrase of the terms used to cover the name. The six stages above mentioned have been paraphrased for occidental understanding and must in no way be considered as translations of the ancient terms.

Có một giai đoạn sau đó của sự đồng nhất chặt chẽ hơn nữa, nơi có sự hòa trộn Ánh sáng, nhưng không có cách diễn đạt thỏa đáng nào cho các thuật ngữ được sử dụng để bao hàm tên gọi. Sáu giai đoạn được đề cập ở trên đã được diễn giải để người phương Tây hiểu và không được coi là bản dịch của các thuật ngữ cổ xưa.

1. Master DK is staid to have five Masters working within His Ashram. It would be such as these who could participate with Him in “a blending of the Lights”.

1. Chân sư DK được cho là có năm Chân sư làm việc trong Ashram của Ngài. Chính những người như vậy mới có thể tham gia cùng Ngài trong “sự hòa trộn Ánh sáng”.

2. Master DK hints that we may search oriental spiritual literature for alternative names for the Six Stages of Discipleship. Probably the book or books which He is referencing have never seen any large circulation, and probably belong to ‘inner libraries’ which only few have seen. The Tibetan has translated arcane terms with which He is familiar for the benefit of occidental understanding.

2. Chân sư DK gợi ý rằng chúng ta có thể tìm kiếm trong các tài liệu tâm linh phương Đông để tìm các tên gọi thay thế cho Sáu Giai đoạn Đệ Tử. Có lẽ cuốn sách hoặc những cuốn sách mà Ngài đang tham khảo chưa bao giờ được lưu hành rộng rãi, và có lẽ thuộc về ‘thư viện nội môn’ mà ít người được thấy. Chân sư Tây Tạng đã dịch các thuật ngữ bí truyền mà Ngài quen thuộc để người phương Tây hiểu rõ hơn.

3. We now begin the consideration of certain phrases, words of power and stanzas which, in a profound way, throw light on the nature of discipleship.

3. Bây giờ chúng ta bắt đầu xem xét một số cụm từ, từ quyền năng và các khổ thơ mà, theo một cách sâu sắc, soi sáng bản chất của giai đoạn đệ tử.

4. We will simply offer our impressions, realizing that it is for the individual disciple to meditate on these words, phrases and stanzas and come up with his own interpretation.

4. Chúng tôi sẽ chỉ đưa ra những ấn tượng của mình, nhận ra rằng mỗi đệ tử phải tự mình thiền định về những từ ngữ, cụm từ và khổ thơ này và đưa ra cách giải thích của riêng mình.

5. Only the deepest pondering will reveal essential meaning.

5. Chỉ có sự suy ngẫm sâu sắc nhất mới tiết lộ ý nghĩa thiết yếu.

SIX WORDS FOR DISCIPLES

1. For the sake of mnemonics, Master DK offers six words which begin with the same letter.

1. Vì mục đích ghi nhớ, Chân sư DK đưa ra sáu từ bắt đầu bằng cùng một chữ cái.

2. All of the words (except one) begin with the syllable “Re”, indicating that the action being performed is, in a way, a kind of repetition, or doing again—performed, it would seem, in such a manner as to be the opposite of some involutionary process.

2. Tất cả các từ (trừ một từ) đều bắt đầu bằng âm tiết “Re”, cho biết rằng hành động đang được thực hiện, theo một cách nào đó, là một kiểu lặp lại, hoặc thực hiện lại — dường như được thực hiện theo cách đối lập với một số quá trình giáng hạ tiến hóa.

3. Given the fact that we have been talking about the Six Stages of Discipleship, it would seem worthwhile to attempt to link these six words to the Six Stages

3. Với thực tế là chúng ta đang nói về Sáu Giai đoạn Đệ Tử, dường như đáng để thử liên kết sáu từ này với Sáu Giai đoạn

4. Each of the words stands for an initial action which, when occurring, leads to, or results in, a specific result. It will be our task to see the relation between the initial state and the state to which it leads.

4. Mỗi từ đại diện cho một hành động ban đầu mà khi xảy ra, sẽ dẫn đến một kết quả cụ thể. Nhiệm vụ của chúng ta là xem mối quan hệ giữa trạng thái ban đầu và trạng thái mà nó dẫn đến.

1. Recollection, resulting in concentration.

1. Hồi tưởng lại, dẫn đến sự tập trung.

1. Recollection is a regathering, in this case, a regathering of the attention which can be scattered over many points of perception or preoccupation.

1. Hồi tưởng là một sự tập hợp lại, trong trường hợp này, là sự tập hợp lại sự chú ý có thể bị phân tán trên nhiều điểm nhận thức hoặc mối bận tâm.

2. We are dealing here with a movement from the periphery to the center.

2. Ở đây chúng ta đang đề cập đến một chuyển động từ ngoại vi vào trung tâm.

3. If any kind of penetration is to be possible, the forces at the disposal of the disciple must be centralized for strengthening.

3. Nếu bất kỳ loại thâm nhập nào có thể xảy ra, các mãnh lực mà đệ tử có được phải được tập trung để củng cố.

4. When the attention is scattered and discontinuous, a registration of uncorrelated impressions is the result; illumination is not achieved. Recollection intensifies light.

4. Khi sự chú ý bị phân tán và không liên tục, kết quả là sự ghi nhận những ấn tượng không tương quan; sự soi sáng không đạt được. Hồi tưởng làm tăng cường ánh sáng.

5. The first word can be correlated with the first stage of discipleship, “Little Chelaship”. The aspirant begins to ‘recollect’ something he has long forgotten—his internal spiritual identity.

5. Từ đầu tiên có thể tương quan với giai đoạn đầu tiên của giai đoạn đệ tử, “Tiểu Đệ Tử”. Người chí nguyện bắt đầu ‘hồi tưởng’ lại điều gì đó mà họ đã lãng quên từ lâu — bản sắc tâm linh nội tại của họ.

6. This self-gathering sends forth a light demonstration or a note which makes it possible for a more advanced disciple on the physical plane to contact him. All this occurs under the consciously or unconsciously registered impression and guidance of the Master, Who has recognized the aspirant’s increasing light and the note that has gone forth..

6. Sự tự tập hợp này gửi đi một ánh sáng minh chứng hoặc một nốt âm điệu giúp cho một đệ tử cao cấp hơn trên cõi trần có thể liên lạc với họ. Tất cả điều này xảy ra dưới ấn tượng và sự hướng dẫn được ghi nhận một cách có ý thức hoặc vô thức của Chân sư, Đấng đã nhận ra ánh sáng ngày càng tăng của người chí nguyện và âm điệu đã được phát ra.

2. Response, resulting in an interaction between higher and lower.

2. Đáp ứng, dẫn đến sự tương tác giữa cái cao và thấp.

1. The meaning of the term, “response” (particularly in this context) is a change of state following upon the reception of a stimulus.

1. Ý nghĩa của thuật ngữ “đáp ứng” (đặc biệt trong ngữ cảnh này) là sự thay đổi trạng thái sau khi tiếp nhận một kích thích.

2. In this case, the stimulus is the energy of the soul ‘descending into’ or emerging within the personality, or the lighted energy of an inner worker directed towards the personality of an outer worker.

2. Trong trường hợp này, kích thích là năng lượng của linh hồn ‘giáng xuống’ hoặc xuất hiện trong phàm ngã, hoặc năng lượng được soi sáng của một người hoạt động nội giới hướng về phàm ngã của một người hoạt động bên ngoài.

3. An inner light is now shining upon the disciple, and if he recognizes it and responds properly, he becomes a “Chela in the Light”. As well, due to his training during the stage of “Little Chelaship”, a light is slowly growing within his aura. The light shining upon him increases the potency of the light growing within him.

3. Một ánh sáng nội tại giờ đây đang chiếu sáng đệ tử, và nếu họ nhận ra nó và đáp ứng đúng cách, họ sẽ trở thành “Đệ Tử trong Ánh Sáng”. Đồng thời, do sự huấn luyện của họ trong giai đoạn “Tiểu Đệ Tử”, một ánh sáng đang dần phát triển trong hào quang của họ. Ánh sáng chiếu vào họ làm tăng sức mạnh của ánh sáng đang phát triển bên trong họ.

4. It is not, however, for the ‘impressible’ disciple to remain passive to the light which is directed to, and shines upon him. An interplay must be set up in which the light growing within the disciple consistently invokes the greater light of the guiding advanced chela and that of the supervising Master—as well, of course, as the light of the soul.

4. Tuy nhiên, không phải để đệ tử ‘dễ bị ảnh hưởng’ thụ động trước ánh sáng được hướng đến và chiếu vào họ. Một sự tương tác phải được thiết lập, trong đó ánh sáng phát triển bên trong đệ tử liên tục khơi gợi ánh sáng lớn hơn của đệ tử cao cấp đang hướng dẫn và ánh sáng của Chân sư giám sát — cũng như, tất nhiên, ánh sáng của linh hồn.

5. A point of waxing light is being established within the disciple’s consciousness, and through the presence of that light he can be guided.

5. Một điểm ánh sáng đang tăng dần được thiết lập trong tâm thức của đệ tử, và thông qua sự hiện diện của ánh sáng đó, họ có thể được hướng dẫn.

6. There is something Mercurian or Geminian about this word, “response”, and the stage that represents.

6. Có điều gì đó thuộc Sao Thủy hoặc Song Tử trong từ “đáp ứng” này và giai đoạn mà nó đại diện.

7. Also the idea of an older brother inwardly guiding a younger brother has a definitely Geminian cast.

7. Ngoài ra, ý tưởng về một người anh đang hướng dẫn một người em từ bên trong chắc chắn có tính chất Song Tử.

8. From a still loftier perspective, the Solar Angel is an elder brother to the human monad in incarnation; similarly, the more advanced inner disciple involved in the work of inner supervision of the ‘younger’ chela, is, as well, an elder brother (though not nearly so advanced as the Solar Angel).

8. Từ một góc độ cao hơn nữa, Thái dương Thiên Thần là huynh trưởng của Chân thần nhân loại đang nhập thể; tương tự, đệ tử nội tại cao cấp hơn tham gia vào công việc giám sát bên trong của đệ tử ‘nhỏ tuổi hơn’, cũng là một huynh trưởng (mặc dù không cao cấp bằng Thái dương Thiên Thần).

9. Although it cannot be said that the stage of “Chela in the Light” relates to the second initiation (as this second stage of discipleship occurs before that initiation, as does even “Accepted Discipleship”), the ideas of response and interplay can be reasonably related to the second initiation. Further the sign Gemini is often found present in those taking the second imitation.

9. Mặc dù không thể nói rằng giai đoạn “Đệ Tử trong Ánh Sáng” liên quan đến lần điểm đạo thứ hai (vì giai đoạn thứ hai này, cũng như giai đoạn “Đệ Tử được Chấp nhận”, của địa vị đệ tử xảy ra trước lần điểm đạo đó), nhưng ý tưởng về sự đáp ứng và tương tác có thể hợp lý liên quan đến lần điểm đạo thứ hai. Hơn nữa, dấu hiệu Song Tử thường được tìm thấy ở những người thực hiện lần điểm đạo thứ hai.

3. Radiation, resulting in a sounding forth.

3. Phát xạ, dẫn đến sự vang lên.

1. In this phrase light and sound are related. We have often heard the interesting idea that joy sounds or resounds.

1. Trong cụm từ này, ánh sáng và âm thanh có liên quan với nhau. Chúng ta thường nghe ý tưởng thú vị rằng niềm vui phát ra âm thanh hoặc vang vọng.

2. When there is a condition of ‘energic constraint’—when forces present to each other hamper or constrain each other—then light is obscured, and radiation (in the sense here meant) does not occur. Under such conditions the sound issuing forth from the disciple will also be constrained and will not project.

2. Khi có một điều kiện ‘hạn chế năng lượng’ — khi các lực lượng hiện diện với nhau cản trở hoặc hạn chế lẫn nhau — thì ánh sáng bị che khuất và sự phát xạ (theo nghĩa ở đây) không xảy ra. Trong những điều kiện như vậy, âm thanh phát ra từ đệ tử cũng sẽ bị hạn chế và sẽ không phát ra.

3. When, however, there is a clarification and harmonization of forces, and when forces (technically understood) enter into harmony with energies(technically understood), then light is released and the note of the disciplesounds forth.

3. Tuy nhiên, khi có sự làm sáng tỏ và hài hòa các mãnh lực, và khi các mãnh lực (được hiểu về mặt kỹ thuật) hòa hợp với các năng lượng (được hiểu về mặt kỹ thuật), thì ánh sáng được giải phóng và nốt của đệ tử vang lên.

4. We might reasonably relate the word “radiation” to the stage of “Accepted Discipleship”, at which stage the relationship of the disciple to the work of the Ashram has found acceptance because it has become ‘occultly acceptable’.

4. Chúng ta có thể hợp lý liên hệ từ “phát xạ” với giai đoạn “Đệ Tử được Chấp nhận”, giai đoạn mà mối quan hệ của đệ tử với công việc của Ashram đã được chấp nhận bởi vì nó đã trở nên ‘có thể chấp nhận được về mặt huyền bí’.

5. The “Accepted Disciple” is one whose note has truly gone forth because his life has become occultly radiatory. He is reaching his fellow men, lightening their path. He stands as a beacon to those who are still searching for what he has found.

5. “Đệ Tử được Chấp nhận” là người có nốt âm điệu thực sự đã phát ra bởi vì cuộc sống của họ đã trở nên phát xạ về mặt huyền bí. Họ đang tiếp cận đồng loại của mình, soi sáng con đường của họ. Họ đứng như một ngọn hải đăng cho những ai vẫn đang tìm kiếm những gì họ đã tìm thấy.

6. During this stage of discipleship the Master may be quite assured of the disciple’s motive and orientation. He has passed many tests, and with respect to those tests, has been found true and reliable.

6. Trong giai đoạn đệ tử này, Chân sư có thể hoàn toàn yên tâm về động cơ và định hướng của đệ tử. Họ đã vượt qua nhiều bài kiểm tra, và với những bài kiểm tra đó, họ đã chứng minh là trung thực và đáng tin cậy.

7. It should be said that the stage of “radiation resulting in a sounding forth” finds its higher correspondence in the third initiation, at which time a significant augmentation in radiation occurs, and the initiated disciple’s note is heard sounding forth in a way that truly represents the Spiritual Hierarchy, and in a manner relatively uncompromised by personal conditions.

7. Cần phải nói rằng giai đoạn “phát xạ dẫn đến sự vang lên” tìm thấy sự tương ứng cao hơn của nó trong lần điểm đạo thứ ba, tại thời điểm đó, sự phát xạ tăng lên đáng kể, và nốt âm điệu của đệ tử đã điểm đạo được nghe thấy vang lên theo cách thực sự đại diện cho Thánh đoàn, và theo cách tương đối không bị ảnh hưởng bởi các điều kiện cá nhân.

4. Respiration, resulting in creative work.

4. Hô hấp, dẫn đến công việc sáng tạo.

1. This occult phrase refers to the process of accessing the sources of inspiration.

1. Cụm từ huyền bí này đề cập đến quá trình tiếp cận nguồn cảm hứng.

2. Because there is now mutual response and interplay between soul and personality, the disciple may breathe occultly. The higher ethers begin to be exchanged for the lower.

2. Bởi vì bây giờ có sự đáp ứng và tương tác lẫn nhau giữa linh hồn và phàm ngã, đệ tử có thể thở một cách huyền bí. Các dĩ thái cao hơn bắt đầu được trao đổi cho các chất dĩ thái thấp hơn.

3. The ‘life line’ along which this breath occurs is the antahkarana, with its relationship to those astrological factors which relate to (or “rule”) the breath—Gemini and Mercury.

3. ‘Tuyến sự sống’ mà dọc theo đó hơi thở này xảy ra là antahkarana, với mối quan hệ của nó với những yếu tố chiêm tinh liên quan đến (hoặc “cai quản”) hơi thở — Song Tử và Sao Thủy.

4. The first part of the antahkarana relates the egoic lotus (functioning under the influence of the Solar Angel) to the personality. The second phase in the building of the antahkarana (the building of the ‘antahkarana proper’) relates the personality to the spiritual triad.

4. Phần đầu tiên của antahkarana liên kết hoa sen chân ngã (hoạt động dưới ảnh hưởng của Thái dương Thiên Thần) với phàm ngã. Giai đoạn thứ hai trong việc xây dựng antahkarana (việc xây dựng ‘antahkarana đúng nghĩa’) liên kết phàm ngã với tam nguyên tinh thần.

5. Some creative work of an individual/supra-individual kind emanates from the causal body. It might be called ‘transpersonal creativity’.

5. Một số công việc sáng tạo thuộc loại cá nhân / siêu cá nhân bắt nguồn từ thể nguyên nhân. Nó có thể được gọi là ‘sáng tạo siêu cá nhân’.

6. However, the kind of creative work here referenced brings the Divine Plan into manifestation. It is the work of intuiting the Plan through accessing the spiritual triad (an impersonal matter) and finding ways to bring that which is accessed into expression.

6. Tuy nhiên, loại hình công việc sáng tạo được đề cập ở đây mang Thiên Cơ vào biểu hiện. Đó là công việc trực nhận Thiên Cơ thông qua việc tiếp cận tam nguyên tinh thần (một vấn đề phi cá nhân) và tìm cách đưa những gì được tiếp cận vào biểu hiện.

7. The word, “respiration” suggests that this phase of work necessitates the establishment of a correct rhythm between the processes of invocation and evocation.

7. Từ “hô hấp” gợi ý rằng giai đoạn công việc này đòi hỏi phải thiết lập một nhịp điệu chính xác giữa các quá trình khẩn cầu và khơi gợi.

8. If, following the sequential pattern we have established, we relate this word and its result to the disciplic stage of “Chela on the Thread”, we can easily understand that the process of invocation and evocation occur, as it were, ‘along the antahkarana’.

8. Nếu, theo mô hình tuần tự mà chúng ta đã thiết lập, chúng ta liên hệ từ này và kết quả của nó với giai đoạn “Đệ tử trên đường dây”, chúng ta có thể dễ dàng hiểu rằng quá trình khẩn cầu và khơi gợi xảy ra, như nó vốn là, ‘dọc theo antahkarana’.

9. The disciple achieves the state called “on the thread” because he is registered as a creator working on behalf of the Divine Plan. This stage of discipleship has nothing to do with achieving greater ‘personal intimacy’ with the Master for no especially useful purpose.

9. Đệ tử đạt đến trạng thái được gọi là “trên đường dây” bởi vì họ được ghi nhận là một người sáng tạo đang làm việc vì Thiên Cơ. Giai đoạn đệ tử này không liên quan gì đến việc đạt được ‘sự thân mật cá nhân’ lớn hơn với Chân sư mà không vì mục đích đặc biệt hữu ích nào.

10. A higher correspondence of this word, “respiration”, can be considered the fourth initiation, at which point the initiated disciple begins truly to ‘breathe’ the “air” of the buddhic plane—the first plane through which the “life aspect of divinity” can be contacted. Just as “fire” is the element associated with the mental plane, so “air” is associated with the buddhic.

10. Một sự tương ứng cao hơn của từ “hô hấp” này có thể được coi là lần điểm đạo thứ tư, tại thời điểm đó, đệ tử đã điểm đạo bắt đầu thực sự ‘hít thở’ ‘không khí’ của cõi Bồ đề — cõi đầu tiên mà qua đó ‘khía cạnh sự sống của thiên tính’ có thể được tiếp xúc. Giống như ‘lửa’ là nguyên tố liên kết với cõi trí, thì ‘không khí’ được liên kết với cõi Bồ đề.

5. Reunion, resulting in the at-one-ment.

5. Tái hợp nhất, dẫn đến sự nhất quán.

1. The word “reunion” (resulting in the at-onement) definitely suggests access to the buddhic plane—the plane of at-onement.

1. Từ “tái hợp nhất” (dẫn đến sự nhất quán) chắc chắn gợi ý sự tiếp cận với cõi Bồ đề — cõi hợp nhất.

2. What is re-united? There are many unions along the Occult Path, but what seems to be suggested here is the reunion of the disciple with that which represents his spirit aspect—namely, the spiritual triad. The spiritual triad represents the monad just as the personality is meant to represent the soul.

2. Điều gì được tái hợp nhất? Có nhiều sự hợp nhất trên Thánh đạo Huyền bí, nhưng điều dường như được gợi ý ở đây là sự tái hợp của đệ tử với điều đại diện cho khía cạnh tinh thần của họ — cụ thể là tam nguyên tinh thần. Tam nguyên tinh thần đại diện cho chân thần giống như phàm ngã được cho là đại diện cho linh hồn.

3. We note that what is written is “the at-onement” and not simply “at-onement”. Because the word “the” is used, a specific stage upon the Path is suggested.

3. Chúng ta lưu ý rằng những gì được viết là “sự hòa hợp” chứ không chỉ đơn giản là “hòa hợp”. Bởi vì từ “sự” được sử dụng, một giai đoạn cụ thể trên Thánh đạo được gợi ý.

4. A higher correspondence of this stage can also be considered the fourth initiation, ruled as it is by the fourth ray, the ‘Ray of At-one-ment’. One of the words of power related to the fourth initiation is “at-one-ment”.

4. Một sự tương ứng cao hơn của giai đoạn này cũng có thể được coi là lần điểm đạo thứ tư, được cai quản bởi cung bốn, ‘Cung của sự Hòa hợp’. Một trong những từ quyền năng liên quan đến lần điểm đạo thứ tư là “hợp nhất”.

5. From another perspective, Mastership itself (the fifth initiation) can be considered a great “Reunion” in which all five aspects of the “superman” are united. Mastership climaxes the process of strictly human development. From an important perspective, the number five is the number of humanity (a being individualized by the fifth Creative Hierarchy.

5. Từ một góc độ khác, chính giai đoạn Chân sư (lần điểm đạo thứ năm) có thể được coi là một “Tái hợp nhất” vĩ đại, trong đó tất cả năm khía cạnh của “siêu nhân” được hợp nhất. Giai đoạn Chân sư đạt đến đỉnh cao của quá trình phát triển hoàn toàn thuộc con người. Từ một góc độ quan trọng, số năm là con số của nhân loại (một sinh mệnh được cá thể hóa bởi Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm).

6. The Stage of Discipleship to which we will relate this the word “reunion” (and is result) is “Chela within the aura”. The ‘occult distance’ between the chela and the Master has been greatly reduced. The initiated disciple is ‘taken in’; his will is rapidly merging with the Will of the Ashram, which reflects the Will of the Master (which, itself, reflects the higher Wills of the Christ and Sanat Kumara).

6. Giai đoạn Đệ tử mà chúng ta sẽ liên hệ với từ “tái hợp” này (và là kết quả của nó) là “Đệ Tử trong hào quang”. ‘Khoảng cách huyền bí’ giữa đệ tử và Chân sư đã được thu hẹp rất nhiều. Đệ tử đã điểm đạo được ‘đón nhận’; ý chí của họ đang nhanh chóng hòa vào Ý chí của Ashram, phản ánh Ý chí của Chân sư (mà bản thân nó, phản ánh Ý chí cao hơn của Đức Christ và Đức Sanat Kumara).

6. Reorientation, resulting in a clear vision of the Plan.

6. Tái định hướng, dẫn đến tầm nhìn rõ ràng về Thiên Cơ.

1. The term “reorientation” is used to describe a number of phases on the Path of Evolution. Every time there is a significant change of objective, we can justify the use of this term.

1. Thuật ngữ “tái định hướng” được sử dụng để mô tả một số giai đoạn trên Thánh đạo Tiến hóa. Mỗi khi có một sự thay đổi mục tiêu đáng kể, chúng ta có thể biện minh cho việc sử dụng thuật ngữ này.

2. Long before reaching the stage correlated with the word and phrase here given, the disciple has worked according to his understanding of the Divine Plan. The question is, “has his vision of the Divine Plan been really clear?”

2. Rất lâu trước khi đạt đến giai đoạn tương quan với từ và cụm từ được đưa ra ở đây, đệ tử đã làm việc theo sự hiểu biết của họ về Thiên Cơ. Câu hỏi đặt ra là, “tầm nhìn của họ về Thiên Cơ đã thực sự rõ ràng chưa?”

3. Those who are still limited by consciousness as focussed within the causal body do not yet see the Plan as it really is.

3. Những người vẫn bị giới hạn bởi tâm thức tập trung trong thể nguyên nhân vẫn chưa nhìn thấy Thiên Cơ như nó vốn là.

4. We might say that the subplane of the cosmic physical plane related especially to the Divine Plane is the atmic plane. We know that atmic consciousness is no easy attainment, and is certainly beyond the reach of one who is classified as a “disciple” in the ordinary use of the term.

4. Chúng ta có thể nói rằng cõi phụ của cõi vũ trụ hồng trần liên quan đặc biệt đến Thiên Cơ là cõi atma. Chúng ta biết rằng tâm thức atma không phải là điều dễ dàng đạt được, và chắc chắn nằm ngoài tầm với của một người được xếp vào loại “đệ tử” theo cách sử dụng thông thường của thuật ngữ này.

5. The atmic plane is ruled by the planet Saturn, which students of astrology will recognize as having a close relation to the Plan, and to the duty or dharma of bringing that Plan into manifestation.

5. Cõi atma được cai quản bởi Sao Thổ, mà những người nghiên cứu chiêm tinh học sẽ nhận ra là có mối quan hệ chặt chẽ với Thiên Cơ, và với bổn phận hay dharma là đưa Thiên Cơ đó vào biểu hiện.

6. If we look at the last three words in this series of Words for Disciples, we find “respiration”, “reunion” and “reorientation”. These three can reasonably be related to the three aspects of the spiritual triad—manas, buddhi and atma respectively. We will relate the word “radiation” to the egoic lotus and the causal sphere as a whole.

6. Nếu chúng ta nhìn vào ba từ cuối cùng trong loạt Từ dành cho Đệ tử này, chúng ta sẽ thấy “hô hấp”, “tái hợp” và “tái định hướng”. Ba từ này có thể hợp lý liên quan đến ba khía cạnh của tam nguyên tinh thần — Manas, Bồ đề và atma tương ứng. Chúng ta sẽ liên hệ từ “phát xạ” với hoa sen chân ngã và toàn bộ cõi nguyên nhân.

7. Atma is the triadal expression ‘nearest’ the monadic life. We can think of the word, “reorientation”, as signifying a new orientation towards the “Will Aspect of Divinity”—a movement away from an orientation towards the second aspect to and orientation towards the first aspect. The monadic principle embodies for man the first aspect of divinity, and atma is its closest ‘outward’ expression.

7. Atma là biểu hiện tam nguyên ‘gần nhất’ với sự sống chân thần. Chúng ta có thể nghĩ về từ “tái định hướng” như biểu thị một định hướng mới đối với “Khía cạnh Ý chí của Thiên tính” — một sự chuyển động ra khỏi định hướng đối với khía cạnh thứ hai sang định hướng đối với khía cạnh thứ nhất. Nguyên lý chân thần là hiện thân của khía cạnh thứ nhất của thiên tính đối với con người, và atma là biểu hiện ‘hướng ngoại’ gần nhất của nó.

8. We should realize that we are discussing stages of development which pertain to the initiate consciousness. The six Words for Disciples are, therefore, being extended into areas of development which lie beyond the work of the normal disciple. The term “disciple” is, thus, being extended to include those who are initiated disciples—though disciples nonetheless, as are even the Christ and higher beings still.

8. Chúng ta nên nhận ra rằng chúng ta đang thảo luận về các giai đoạn phát triển thuộc về tâm thức điểm đạo đồ. Do đó, sáu Từ dành cho Đệ tử đang được mở rộng sang các lĩnh vực phát triển nằm ngoài công việc của đệ tử bình thường. Do đó, thuật ngữ “đệ tử” đang được mở rộng để bao gồm những người là đệ tử đã điểm đạo — mặc dù vẫn là đệ tử, như Đức Christ và những bậc cao hơn vẫn vậy.

9. If we continue our correlation, we will find the phrase, “Reorientation resulting in a clear vision of the Plan” relating to the stage of “Chela within the Master’s Heart”. The atmic or ‘nirvanic’ plane will be involved, and the meaning of the term “heart” begins to suggest the monad.

9. Nếu chúng ta tiếp tục sự tương quan của mình, chúng ta sẽ thấy cụm từ “Tái định hướng dẫn đến tầm nhìn rõ ràng về Thiên Cơ” liên quan đến giai đoạn “Đệ Tử trong Tâm Chân sư”. Cõi atma hoặc ‘cõi niết bàn’ sẽ có liên quan, và ý nghĩa của thuật ngữ “tim” bắt đầu gợi ý về chân thần.

10. A higher correspondence of the term “Reorientation” is the sixth initiation—the Decision. At that time, a choice is made by the Master; this choice, in most cases, reorients Him towards solar-systemic and cosmic destinations far beyond our Earth (the welfare of which served as his orientation for so many millennia).

10. Một sự tương ứng cao hơn của thuật ngữ “Tái định hướng” là lần điểm đạo thứ sáu — Lần Điểm đạo Quyết định. Vào thời điểm đó, Chân sư đưa ra lựa chọn; sự lựa chọn này, trong hầu hết các trường hợp, định hướng lại Ngài đối với các đích đến thuộc hệ mặt trời và vũ trụ vượt xa Trái đất của chúng ta (nơi mà phúc lợi của nó từng là định hướng của Ngài trong rất nhiều thiên niên kỷ).

11. A sixth degree initiate becomes a Planetary Life, and is placed in relation to the Divine Plan in an entirely new way. He begins to understand the Plan from the perspective of an assured “monadic awareness” and is brought into greater intimacy with Sanat Kumara’s Divine Vision.

11. Điểm đạo đồ cấp sáu trở thành một Sự Sống Hành Tinh, và được đặt trong mối quan hệ với Thiên Cơ theo một cách hoàn toàn mới. Ngài bắt đầu hiểu Thiên Cơ từ góc độ của ‘nhận thức chân thần’ chắc chắn và được đưa vào sự thân mật hơn với Tầm Nhìn của Đức Sanat Kumara.

12. We can see, therefore, that “reorientation” interpreted in this manner would bring a far clearer vision of the Divine Plan as Sanat Kumara conceives it.

12. Do đó, chúng ta có thể thấy rằng “tái định hướng” được hiểu theo cách này sẽ mang lại tầm nhìn rõ ràng hơn nhiều về Thiên Cơ như Đức Sanat Kumara hình dung.

THE SUBLIMATION OF THE FIVE HUMAN STAGES— SỰ THĂNG HOA CỦA NĂM GIAI ĐOẠN CỦA CON NGƯỜI

Stage I.

Giai đoạn I.

The life has climbed the stairway long through daily use of form. Through the lesser three, with progress slow, the long path has been travelled. Another door stands open now. The words sound forth: “Enter upon the way of real desire.”

Sự sống đã leo lên cầu thang dài thông qua việc sử dụng hình tướng hàng ngày. Thông qua ba cái thấp hơn, với sự tiến bộ chậm chạp, con đường dài đã được đi qua. Một cánh cửa khác giờ đây đang mở ra. Những lời vang lên: “Hãy bước vào con đường của ham muốn thực sự.”

The life, that only knows itself as form, enshrouds itself in vivid red, the red of known desire, and through the red all longed-for forms approach, are grasped and held, used and discarded, until the red changes to rose and rose to palest pink, and pink to white. Forth flowers then the pure white rose of life.

Sự sống, vốn chỉ biết đến bản thân như là hình tướng, bao phủ bản thân trong màu đỏ rực rỡ, màu đỏ của dục vọng đã biết, và thông qua màu đỏ, tất cả các hình tướng được khao khát đều đến gần, được nắm bắt và giữ lấy, sử dụng và vứt bỏ, cho đến khi màu đỏ chuyển sang màu hồng và màu hồng chuyển sang màu hồng nhạt nhất, và màu hồng chuyển sang màu trắng. Sau đó, bông hồng trắng tinh khiết của sự sống nở rộ.

The tiny rose of living life is seen in bud; not yet the full blown flower.

Bông hồng nhỏ bé của sự sống đang sống được nhìn thấy đang hé nở; vẫn chưa phải là bông hoa nở rộ hoàn toàn.

1. The “stairway” is one of the common symbols for the evolutionary process. Through this symbol, we understand the graded nature of the evolutionary ascent of humanity.

1. “Cầu thang” là một trong những biểu tượng phổ biến cho quá trình tiến hóa. Thông qua biểu tượng này, chúng ta hiểu được bản chất phân cấp của sự tiến hóa đi lên của nhân loại.

2. It is a familiar thought that progress in the earlier phases of evolution requires more time than in later phases. The time expended fulfilling the program of the third aspect of divinity takes longer than the program for the second and first aspects.

2. Có một ý tưởng quen thuộc rằng sự tiến bộ trong các giai đoạn đầu của quá trình tiến hóa đòi hỏi nhiều thời gian hơn so với các giai đoạn sau. Thời gian dành cho việc hoàn thành chương trình của khía cạnh thứ ba của thiên tính lâu hơn so với chương trình cho khía cạnh thứ hai và thứ nhất.

3. The “stairway long” can be seen as progress through the lower three kingdoms of nature. The door that “stands open” now can be understood as entry into the human kingdom, which, if true, would be the way of “real desire”.

3. “Cầu thang dài” có thể được coi là sự tiến bộ thông qua ba giới tự nhiên thấp hơn. Cánh cửa “đang mở ra” giờ đây có thể được hiểu là sự bước vào giới nhân loại, mà nếu đúng, sẽ là con đường của “ham muốn thực sự”.

4. The early human being knows itself only as form. The enshrouding red is the red of Mars (of rude desire) found in the desire body of unevolved people.

4. Con người sơ khai chỉ biết đến bản thân như là hình tướng. Màu đỏ bao phủ là màu đỏ của Sao Hỏa (của khát vọng thô sơ) được tìm thấy trong thể khát vọng của những người chưa tiến hóa.

5. The approach at first is crude, grasping and holding, using and discarding. Crude desire determines, almost exclusively, all life processes.

5. Cách tiếp cận lúc đầu là thô sơ, nắm bắt và giữ lấy, sử dụng và vứt bỏ. Dục vọng thô sơ quyết định gần như hoàn toàn tất cả các quá trình sống.

6. A transformation then occurs as red changes to rose. When rose changes to pink or “palest pink”, Venus and Neptune have begun to positively condition the desire nature. The person is focussed on the higher levels of the higher astral plane.

6. Sau đó, một sự biến đổi xảy ra khi màu đỏ chuyển sang màu hồng. Khi màu hồng chuyển sang màu hồng nhạt hoặc “màu hồng nhạt nhất”, Sao Kim và Sao Hải Vương đã bắt đầu điều hòa một cách tích cực bản chất dục vọng. Con người được tập trung vào các tầng cao hơn của cõi cảm dục cao hơn.

7. When pink moves to white, the desire nature is entirely subdued, and the man is able to live the impersonal life. Not alone the soul influences the desire nature, but the spirit as well.

7. Khi màu hồng chuyển sang màu trắng, bản chất dục vọng hoàn toàn bị khuất phục, và con người có thể sống một cuộc sống phi cá nhân. Không chỉ linh hồn ảnh hưởng đến bản chất ham muốn, mà cả tinh thần cũng vậy.

8. Eventually, the “pure white rose of life” flowers forth. Perhaps the rose of the soul might be considered to be pink in color or a deep and beautiful red. The rose of spirit is white—white representing the all-inclusiveness of the spirit.

8. Cuối cùng, “bông hồng trắng tinh khiết của sự sống” nở rộ. Có lẽ bông hồng của linh hồn có thể được coi là có màu hồng hoặc màu đỏ đậm và đẹp. Bông hồng của tinh thần có màu trắng — màu trắng đại diện cho sự bao hàm tất cả của tinh thần.

9. We know of the egoic lotus, but it would seem that in the monadic sphere there is another flower, which could be called the “flower of life”.

9. Chúng ta biết về hoa sen chân ngã, nhưng dường như trong cõi chân thần cũng có một bông hoa khác, có thể được gọi là “bông hoa của sự sống”.

10. At the conclusion of the description of State I, we are brought back to the early stages. The rose is in bud and will have to wait for many incarnations to be full-blown.

10. Khi kết thúc mô tả về Giai đoạn I, chúng ta được đưa trở lại các giai đoạn đầu. Bông hồng đang hé nở và sẽ phải đợi nhiều kiếp để nở rộ hoàn toàn.

Stage II.

Giai đoạn II.

The picture changes form. Another voice, coming from close at hand utters another phrase. The life continues on its way. “Enter the field where children play and join their game.” Awakened to the game of life, the soul passes the gate.

Bức tranh thay đổi hình dạng. Một giọng nói khác, đến từ gần đó, thốt ra một cụm từ khác. Sự sống tiếp tục con đường của mình. “Hãy bước vào cánh đồng nơi trẻ em chơi đùa và tham gia trò chơi của chúng.” Thức tỉnh với trò chơi cuộc sống, linh hồn đi qua cánh cổng.

[675]

[675]

The field is green and on its broad expanse the many forms of the one moving Life disport themselves; they weave the dance of life, the many patterned forms God takes. The soul enters “the playground of the Lord” and plays thereon until he sees the star with five bright points, and says: “My Star.”

Cánh đồng có màu xanh lục và trên dải đất rộng lớn của nó, nhiều hình tướng của Sự sống di chuyển duy nhất đang vui đùa; chúng dệt nên vũ điệu của sự sống, nhiều hình tướng theo khuôn mẫu mà Thượng đế mang lấy. Linh hồn bước vào “sân chơi của Chúa” và chơi trên đó cho đến khi nhìn thấy ngôi sao với năm điểm sáng, và nói: “Ngôi sao của tôi.”

1. As consciousness changes, the “picture changes”. Every change in consciousness can be described as a changing picture, a changing scene.

1. Khi tâm thức thay đổi, “bức tranh thay đổi”. Mọi sự thay đổi trong tâm thức đều có thể được mô tả như một bức tranh thay đổi, một cảnh tượng thay đổi.

2. The voice, which signals the onset of a new phase, comes from “close at hand”. It does not yet seem to be the voice of the soul.

2. Giọng nói, báo hiệu sự khởi đầu của một giai đoạn mới, đến từ “gần đó”. Dường như nó vẫn chưa phải là tiếng nói của linh hồn.

3. The rising life is to become as a child and play the games of children upon the field of green.

3. Sự sống đang trỗi dậy sẽ trở nên giống như một đứa trẻ và chơi các trò chơi của trẻ em trên cánh đồng xanh.

4. The soul is passing through the broad gate into incarnation. It is the Gate of Cancer ruled in part by the third ray, the green ray.

4. Linh hồn đang đi qua cánh cổng rộng vào sự nhập thể. Đó là Cổng Cự Giải, được cai quản một phần bởi cung ba, cung màu xanh lục.

5. The soul in incarnation is now subject to the third ray, the ray of ‘games’ (for a true seriousness [‘Sirius-ness’] has not entered the consciousness of the immature human being).

5. Linh hồn đang nhập thể giờ đây chịu sự chi phối của cung ba, cung của ‘trò chơi’ (vì sự nghiêm túc thực sự [‘Sirius-ness’] chưa đi vào tâm thức của con người non nớt).

6. The man desires to ‘play the game’ without really knowing its nature or cause.

6. Con người mong muốn ‘chơi trò chơi’ mà không thực sự biết bản chất hoặc nguyên nhân của nó.

7. The third ray is strongly involved, as we can understand by focussing on the phrase “the many forms of the one moving Life”. These forms search for pleasure, the satisfaction of personality desire, hence they “disport themselves”.

7. Cung ba có liên quan mạnh mẽ, như chúng ta có thể hiểu bằng cách tập trung vào cụm từ “nhiều hình tướng di chuyển của Sự sống duy nhất”. Những hình tướng này tìm kiếm niềm vui, sự thỏa mãn khát vọng của phàm ngã, do đó chúng “vui đùa”.

8. The term “weave” is also connected with the third ray, the Ray of the “Weaver”. It is the “Ray of Activity”, and the “dance of life” reflects this activity. The “many patterned forms God takes” reflect the multiplicity and fecundity of the third ray.

8. Thuật ngữ “dệt” cũng được kết nối với cung ba, Cung của “Người thợ dệt”. Đó là “Cung Hoạt động”, và “vũ điệu của sự sống” phản ánh hoạt động này. “Nhiều hình tướng theo khuôn mẫu mà Thượng đế mang lấy” phản ánh tính đa dạng và phong phú của cung ba.

9. So many today are disporting themselves upon the “playground of the Lord” (the Lord, understood as the Planetary Logos). Playing is as a rehearsal. The meaning of it all is unknown to the playing life.

9. Ngày nay có rất nhiều người đang vui đùa trên “sân chơi của Chúa” (Chúa, được hiểu là Hành Tinh Thượng đế). Chơi đùa giống như một buổi diễn tập. Ý nghĩa của tất cả những điều này không được sự sống đang chơi đùa biết đến.

10. A star with five bright points is seen. The fifth principle of mind is now becoming more powerful. Man begins to understand his separateness and uniqueness (Leo, the fifth sign) and wants to cultivate himself—ambitiously.

10. Một ngôi sao với năm điểm sáng được nhìn thấy. Nguyên lý thứ năm của trí tuệ giờ đây đang trở nên mạnh mẽ hơn. Con người bắt đầu hiểu được sự tách biệt và độc đáo của mình (Sư Tử, cung năm) và muốn trau dồi bản thân — một cách đầy tham vọng.

11. He can now begin to become serious—serious about himself.

11. Giờ đây, họ có thể bắt đầu trở nên nghiêm túc — nghiêm túc về bản thân.

Stage III.

Giai đoạn III.

The way of red desire fails. It loses its allure. The playground of the sons of God no longer holds appeal. The voice which has twice sounded from out the world of form sounds now within the heart. The challenge comes: “Prove thine own worth. Take to thyself the orange ball of thy one-pointed purpose.” Responsive to the sounded word, the living soul, immersed in form, emerges from the many forms and hews its onward way. The way of the destroyer comes, the builder and again the tearer down of forms. The broken forms hold not the power to satisfy. The soul’s own form is now the great desire, and thus there comes the entering of the playground of the mind.

Con đường của ham muốn màu đỏ thất bại. Nó mất đi sức hấp dẫn. Sân chơi của những người con của Thượng đế không còn giữ được sức hấp dẫn. Giọng nói đã hai lần vang lên từ thế giới hình tướng giờ đây vang lên trong tim. Thử thách đến: “Hãy chứng minh giá trị của chính ngươi. Hãy nắm lấy quả bóng màu cam của mục đích nhất tâm của ngươi.” Đáp lại lời nói đã vang lên, linh hồn đang sống, đắm chìm trong hình tướng, thoát ra khỏi nhiều hình tướng và tiến lên con đường phía trước. Con đường của kẻ hủy diệt đến, người xây dựng và một lần nữa là kẻ xé nát hình tướng. Các hình tướng bị phá vỡ không giữ được sức mạnh để thỏa mãn. Hình tướng của chính linh hồn giờ đây là khát vọng lớn lao, và do đó, sự bước vào sân chơi của trí tuệ đến.

But in these dreams and fantasies, at times a vision comes—a vision of a folded lotus flower, close petalled, tightly sealed, lacking aroma yet, but bathed in cold blue light.

Nhưng trong những giấc mơ và tưởng tượng này, đôi khi một linh ảnh đến — một linh ảnh về một hoa sen khép lại, cánh hoa khép chặt, được niêm phong chặt chẽ, chưa có hương thơm, nhưng được tắm trong ánh sáng xanh lạnh lẽo.

Orange and blue in some more distant time will blended be, but far off yet the date. Their blending bathes the bud in light and causes future opening. Let the light shine.

Màu cam và màu xanh lam trong một thời gian xa hơn nữa sẽ được hòa trộn, nhưng ngày đó còn xa vời. Sự pha trộn của chúng tắm nụ hoa trong ánh sáng và khiến nó mở ra trong tương lai. Hãy để ánh sáng tỏa sáng.

1. The rising life tires of that which is not of the essence. Red desire is the first to fail—a desire for inconsequential things. The “playground of the sons of God” is also seen to be insubstantial.

1. Sự sống đang trỗi dậy mệt mỏi với những gì không thuộc về bản chất. Dụcvọng đỏ là thứ đầu tiên thất bại — ham muốn đối với những thứ không quan trọng. “Sân chơi của những người con của Thượng đế” cũng được coi là không có thật.

2. The voice has twice sounded, once in relation to red and once in relation to green. Red and green (in this context) have represented the inclinations of the lunar lords, per se, and they have sounded exclusively in the world of form.

2. Giọng nói đã vang lên hai lần, một lần liên quan đến màu đỏ và một lần liên quan đến màu xanh lục. Màu đỏ và màu xanh lục (trong ngữ cảnh này) đã đại diện cho những khuynh hướng của chính các nguyệt tinh quân, và chúng đã vang lên hoàn toàn trong thế giới hình tướng.

3. A new ‘locus of sounding’ emerges; it is the heart. Thus, it is closer to the essence, to the “heart of the matter”.

3. Một ‘vị trí vang lên’ mới xuất hiện; đó là trái tim. Do đó, nó gần với bản chất hơn, với “trái tim của vấn đề”.

4. The man is now more fully an individuality, and is relating to the orange of Leo by seizing the “orange ball of one-pointed purpose”.

4. Con người giờ đây hoàn toàn là một cá thể, và đang liên hệ với màu cam của Sư Tử bằng cách nắm lấy “quả bóng màu cam của mục đích nhất tâm”.

5. The will is now stimulated and personal purpose emerges.

5. Ý chí giờ đây được kích thích và mục đích cá nhân xuất hiện.

6. The ambitious unit of life emerges from the mass consciousness of Cancer and, with emphasis upon his personal will, “hews” his way—meaning that he knocks others out of his way as he concentrates upon the fulfillment of his own desires. Caring little about the impact of his actions on others, he naturally generates a great deal of negative karma.

6. Đơn vị sự sống đầy tham vọng thoát ra khỏi tâm thức đại chúng của Cự Giải và, với sự nhấn mạnh vào ý chí cá nhân của mình, “tiến lên” con đường của mình — nghĩa là họ loại bỏ những người khác ra khỏi con đường của mình khi họ tập trung vào việc hoàn thành những ham muốn của chính mình. Ít quan tâm đến tác động của hành động của mình đối với người khác, họ tự nhiên tạo ra rất nhiều nghiệp quả tiêu cực.

7. The personality becomes most important to the indwelling consciousness, and that personality, in order to assert itself, often turns destructive to the surrounding environment. Leo transmits the separative fifth ray and the powerful, egocentric first ray.

7. Phàm ngã trở nên quan trọng nhất đối với tâm thức nội tại, và phàm ngã đó, để khẳng định bản thân, thường trở nên hủy hoại môi trường xung quanh. Sư Tử truyền tải cung năm phân biệt và cung một mạnh mẽ, vị kỷ.

8. But no desired form, willfully approached and grasped, can satisfy, because, really, the power of spirit (though distorted) is at work.

8. Nhưng không có hình tướng mong muốn nào, được tiếp cận và nắm bắt một cách cố ý, có thể thỏa mãn, bởi vì thực sự sức mạnh của tinh thần (mặc dù bị bóp méo) đang hoạt động.

9. This way of life, however, fails to satisfy. At time, emerging in dreams and fantasies, the soul’s form comes into view and a subtle inner longing arises. The outer playground gives way to the inner playground, the mind, much closer to the soul.

9. Tuy nhiên, cách sống này không thể thỏa mãn. Đôi khi, xuất hiện trong những giấc mơ và tưởng tượng, hình tướng của linh hồn hiện ra và một khát khao nội tại tinh tế xuất hiện. Sân chơi bên ngoài nhường chỗ cho sân chơi bên trong, trí tuệ, gần với linh hồn hơn nhiều.

10. The vision of the soul is presented as a closed lotus, lacking aroma, and surrounded by the deep blue of spirit. (In an astrological chart, the triangles representing spirit are to be dawn in blue!)

10. Tầm nhìn về linh hồn được thể hiện như một bông hoa sen khép kín, không có hương thơm và được bao quanh bởi màu xanh đậm của tinh thần. (Trong lá số chiêm tinh, các hình tam giác đại diện cho tinh thần phải được vẽ bằng màu xanh lam!)

11. The “cold blue light” which bathes the flower also suggests the clear cold light of the buddhic plane. Buddhi is sometimes considered blue, just as the monad is.

11. “Ánh sáng xanh lạnh lẽo” tắm cho bông hoa cũng gợi ý về ánh sáng lạnh lẽo, trong trẻo của cõi Bồ đề. Bồ đề đôi khi được coi là màu xanh lam, giống như chân thần.

12. The words about the tightly sealed flower must be symbolic, because by the time a man begins to be interested in the soul, certain of the petals have necessarily unfolded, thus could not be “tightly sealed”. As for lack of aroma, this is possible, as a person in incarnation becomes (causally) a “Lotus with Perfume” only in stages of evolution quite beyond the stage here described..

12. Những từ về bông hoa được niêm kín chặt chẽ chắc hẳn mang tính biểu tượng, bởi vì vào thời điểm con người bắt đầu quan tâm đến linh hồn, một số cánh hoa nhất thiết phải mở ra, do đó không thể “được niêm kín chặt chẽ”. Về việc thiếu hương thơm, điều này là có thể, vì một người đang nhập thể (về mặt nguyên nhân) trở thành “Hoa sen có hương thơm” chỉ trong các giai đoạn tiến hóa vượt xa giai đoạn được mô tả ở đây.

13. The orange relates to Leo and the personality. A personality is distinct (under the cleaving power of the fifth ray) from others. But blue is of the soul and spirit, and must be blended with the orange. This blending would signal the blending of the fifth and second rays. In general, orange and blue are complementary colours.

13. Màu cam liên quan đến Sư Tử và phàm ngã. Một phàm ngã khác biệt (dưới sức mạnh phân chia của cung năm) với những người khác. Nhưng màu xanh lam thuộc về linh hồn và tinh thần, và phải được pha trộn với màu cam. Sự pha trộn này sẽ báo hiệu sự pha trộn của cung năm và cung hai. Nhìn chung, màu cam và màu xanh lam là những màu bổ sung cho nhau.

14. This blending cannot occur until soul culture is well on its way.

14. Sự pha trộn này không thể xảy ra cho đến khi sự nuôi dưỡng linh hồn đang diễn ra tốt đẹp.

15. The blending of blue and orange, as symbol of soul culture, contributes to the opening of the lotus bud, and the causal body unfolds fully.

15. Sự pha trộn giữa màu xanh lam và màu cam, như biểu tượng của sự nuôi dưỡng linh hồn, góp phần vào việc khia mở nụ hoa sen, và thể nguyên nhân mở ra hoàn toàn.

16. What is suggested is that many lives must be spent in the orange period before the chastened personality begins to follow its subjective visions leading to the merging of soul and personality.

16. Điều được gợi ý là nhiều kiếp phải được trải qua trong giai đoạn màu cam trước khi phàm ngã được tôi luyện bắt đầu đi theo những tầm nhìn chủ quan của mình dẫn đến sự hợp nhất giữa linh hồn và phàm ngã.

Stage IV.

Giai đoạn IV.

Into the dark the life proceeds. A different voice seems to sound forth. “Enter the cave and find your own; walk in the dark and on your head carry a lighted lamp.” The cave is dark and lonely; cold is it and a place of many sounds and voices. The voices of the many sons of God, left playing on the playground of the Lord, make their appeal for light. The cave is long and narrow. The air is full of fog. The sound of running water meets the rushing sound of wind, and frequent roll of thunder.

Sự sống tiến vào bóng tối. Một giọng nói khác dường như vang lên. “Hãy vào hang động và tìm thấy chính mình; hãy bước đi trong bóng tối và trên đầu hãy mang theo một ngọn đèn sáng.” Hang động tối tăm và cô đơn; nó lạnh lẽo và là nơi có nhiều âm thanh và giọng nói. Giọng nói của nhiều người con của Thượng đế, vẫn còn chơi đùa trên sân chơi của Chúa, kêu gọi ánh sáng. Hang động dài và hẹp. Không khí đầy sương mù. Âm thanh của nước chảy gặp âm thanh ào ạt của gió, và tiếng sấm rền thường xuyên.

Far off, dim and most vaguely seen, appears an oval opening, its colour blue. Stretched athwart this space of blue, a rosy cross is seen, and at the centre of the cross, where four [676] arms meet, a rose. Upon the upper limb, a vibrant diamond shines, within a star five-pointed.

Xa xa, mờ ảo và nhìn rất mơ hồ, xuất hiện một lối mở hình bầu dục, màu xanh lam. Trải dài trên khoảng không gian màu xanh lam này, một cây thập tự giá màu hồng được nhìn thấy, và ở trung tâm của cây thập tự giá, nơi bốn [676] cánh gặp nhau, một bông hồng. Trên nhánh trên, một viên kim cương rung động tỏa sáng, bên trong một ngôi sao năm cánh.

The living soul drives forward towards the cross which bars his way to life, revealed and known.

Linh hồn đang sống tiến về phía cây thập tự giá chắn ngang con đường dẫn đến sự sống, được tiết lộ và được biết đến.

Not yet the cross is mounted and, therefore, left behind. But onward goes the living soul, eyes fixed upon the cross, ears open to the wailing cries of all his brother souls.

Cây thập tự giá vẫn chưa được leo lên và do đó, bị bỏ lại phía sau. Nhưng linh hồn đang sống tiếp tục tiến lên, mắt nhìn chằm chằm vào cây thập tự giá, tai lắng nghe tiếng kêu than của tất cả các linh hồn huynh đệ của mình.

1. We note that the human unit, having achieved much through mental cultivation and soul culture, now purposefully enters the dark—the dark of ignorance and mass consciousness which he has long transcended. A voice only “seems” to speak. It is a different kind of voice than spoke to him at first, and is, initially, heard more faintly. It is the still, small voice of the soul.

1. Chúng ta lưu ý rằng đơn vị con người, đã đạt được nhiều thành tựu thông qua việc trau dồi trí tuệ và sự nuôi dưỡng của linh hồn, giờ đây cố tình bước vào bóng tối — bóng tối của sự thiếu hiểu biết và tâm thức đại chúng mà họ đã vượt qua từ lâu. Một giọng nói chỉ “dường như” cất lên. Đó là một loại giọng nói khác với giọng nói đã nói với họ lúc đầu, và ban đầu, được nghe thấy yếu ớt hơn. Đó là tiếng nói nhỏ nhẹ, tĩnh lặng của linh hồn.

2. The dark is the dark of normal life—for the playground of life is really a darkened place. The way of red desire is even darker.

2. Bóng tối là bóng tối của cuộc sống bình thường — vì sân chơi của cuộc sống thực sự là một nơi tối tăm. Con đường của dục vọng đỏ thậm chí còn tối tăm hơn.

3. The rising life, the advancing human being, now sensitive to the soul, is meant to carry a lighted lamp on his head. He is to be a light-bearer to others who are trapped on the playground which is really pervaded by glamor. (He is equipped with both intelligence and a measure of love. We note that in the Law of Repulse formula for the third ray; the Weaver supports a candle on his head. There has been progress, however, now that the unit of life is willing to enter the darkness. The candle of concrete intelligence has become “a lighted lamp” radiating the illumination of the soul through the mind.)

3. Sự sống đang trỗi dậy, con người đang tiến bộ, giờ đây nhạy cảm với linh hồn, được cho là mang theo một ngọn đèn sáng trên đầu. Họ phải là người mang ánh sáng cho những người khác đang bị mắc kẹt trên sân chơi thực sự bị bao trùm bởi ảo cảm. (Y được trang bị cả trí thông minh và một mức độ tình thương. Chúng ta lưu ý rằng trong công thức Định luật Đẩy lùi cho cung ba; Người thợ dệt mang một ngọn nến trên đầu. Tuy nhiên, đã có sự tiến bộ, giờ đây đơn vị sống sẵn sàng bước vào bóng tối. Ngọn nến của trí tuệ cụ thể đã trở thành “một ngọn đèn sáng” tỏa ra sự soi sáng của linh hồn thông qua trí tuệ.)

4. The advancing man walks through the long cave. There is really no escape; he has very little latitude for movement. There is little to be seen, for the air is full of fog. The running water in the cave is the effect of the turbulent astral plane and the rushing wind, of the uncontrolled mind. The thunder can be understood as a threatening storm caused by incompatible energies, but it can also be the voice of the soul (speaking generally and in relation to the second ray). The second ray is symbolically related to thunder.

4. Con người đang tiến bộ bước qua hang động dài. Thực sự không có lối thoát; họ có rất ít không gian để di chuyển. Có rất ít thứ để nhìn thấy, vì không khí đầy sương mù. Dòng nước chảy trong hang động là tác động của cõi cảm dục hỗn loạn và gió ào ạt, của tâm trí không được kiểm soát. Sấm sét có thể được hiểu là một cơn bão đe dọa gây ra bởi các năng lượng không tương thích, nhưng nó cũng có thể là tiếng nói của linh hồn (nói chung và liên quan đến cung hai). Cung hai có liên quan đến sấm sét một cách biểu tượng.

5. The far off oval can be associated with the oval nature of the aura. This image also suggests that opening called the “cave” within the head. The blue suggests the wide spiritual life beyond the human condition, but before that life can be accessed, the rosy cross must be encountered and traversed.

5. Hình bầu dục xa xôi có thể được liên kết với bản chất hình bầu dục của hào quang. Hình ảnh này cũng gợi ý về lối mở được gọi là “hang động” bên trong đầu. Màu xanh lam gợi ý về cuộc sống tinh thần rộng lớn vượt ra ngoài điều kiện con người, nhưng trước khi có thể tiếp cận được cuộc sống đó, cây thập tự giá màu hồng phải được đối mặt và vượt qua.

6. The rosy cross suggests the need for loving sacrifice. It cannot be left behind until the necessary sacrifice is made.

6. Cây thập tự giá màu hồng gợi ý về sự cần thiết của sự hy sinh đầy yêu thương. Nó không thể bị bỏ lại phía sau cho đến khi sự hy sinh cần thiết được thực hiện.

7. Now the rising life is named a “living soul” (so great has been the advancement through the process of illumining the way for others).

7. Giờ đây, sự sống đang trỗi dậy được gọi là “linh hồn đang sống” (sự tiến bộ thông qua quá trình soi sáng con đường cho những người khác thật vĩ đại).

8. Despite the difficulty and danger, the living soul goes forward, with eyes fixed upon the cross, thus intent on sacrifice.

8. Bất chấp khó khăn và nguy hiểm, linh hồn đang sống vẫn tiến về phía trước, mắt nhìn chằm chằm vào cây thập tự giá, do đó quyết tâm hy sinh.

9. The “ears” of the living soul are focussed on the wailing cries of his brother souls”. He has forgotten himself in the fulfilling of his brother’s needs.

9. “Đôi tai” của linh hồn đang sống tập trung vào “tiếng kêu than của các linh hồn huynh đệ của mình”. Họ đã quên mình trong việc đáp ứng nhu cầu của anh em mình.

Stage V.

Giai đoạn V.

Out into radiant life and light! The cave is left behind; the cross is overturned; the way stands clear. The word sounds clear within the head and not within the heart. “Enter again the playground of the Lord and this time lead the games.” The way upon the second tier of stairs stands barred, this by the soul’s own act. No longer red desire governs all the life, but now the clear blue flame burns strong. Upon the bottom step of the barred way he turns back and passes down the stairs on to the playground, meeting dead shells built in an earlier stage, stepping upon forms discarded and destroyed, and holding forth the hands of helpfulness. Upon his shoulder sits the bird of peace; upon his feet the sandals of the messenger.

Hãy bước vào sự sống và ánh sáng rực rỡ! Hang động bị bỏ lại phía sau; cây thập tự giá bị lật đổ; con đường hiện ra rõ ràng. Lời nói vang lên rõ ràng trong đầu chứ không phải trong tim. “Hãy vào lại sân chơi của Chúa và lần này hãy dẫn dắt các trò chơi.” Con đường trên tầng cầu thang thứ hai bị chặn lại, điều này do hành động của chính linh hồn. Khát vọng đỏ không còn chi phối toàn bộ sự sống, mà giờ đây ngọn lửa xanh trong vắt bùng cháy mạnh mẽ. Trên bậc thang dưới cùng của con đường bị chặn, Ngài quay lưng lại và đi xuống cầu thang đến sân chơi, gặp những lớp vỏ chết chóc được xây dựng trong giai đoạn trước đó, bước lên những hình tướng bị vứt bỏ và phá hủy, và chìa ra đôi tay giúp đỡ. Trên vai Ngài đậu con chim của hòa bình; trên chân Ngài là đôi dép của sứ giả.

Not yet the utter glory of the radiant life! Not yet the entering into everlasting peace! But still the work, and still the lifting of the little ones.

Vẫn chưa phải là vinh quang tột đỉnh của sự sống rực rỡ! Vẫn chưa phải là bước vào sự bình an vĩnh cửu! Nhưng vẫn là công việc, và vẫn là nâng đỡ những người bé nhỏ.

1. The limiting cave is left behind. No longer is there dark and fog, but wide vision.

1. Hang động giới hạn bị bỏ lại phía sau. Không còn bóng tối và sương mù, mà là tầm nhìn rộng mở.

2. He can now truly see and knows exactly the way he must go.

2. Giờ đây, y có thể thực sự nhìn thấy và biết chính xác con đường mình phải đi.

3. The word, once sounding in his heart, now sounds within his head—for the spiritual will has awakened within him and he can function through the heart within the head—the organ which intuitively reveals the future..

3. Lời nói, từng vang lên trong tim y, giờ đây vang lên trong đầu y — vì ý chí tinh thần đã thức tỉnh trong y và y có thể hoạt động thông qua trái tim trong đầu — cơ quan trực giác tiết lộ tương lai.

4. He is to follow the voice of the higher will, entering the playground of the Lord as a leader and director. Thus, the significance of the head, through which leadership and directive power are focussed.

4. Y sẽ đi theo tiếng nói của ý chí cao hơn, bước vào sân chơi của Chúa với tư cách là người lãnh đạo và chỉ đạo. Do đó, ý nghĩa của cái đầu, thông qua đó khả năng lãnh đạo và sức mạnh chỉ đạo được tập trung.

5. There is a second tier of stairs, which relates to the Way of Higher evolution, but the sacrificial soul resolves not to tread those stairs until its quota of redemptive work is fulfilled.

5. Có một tầng cầu thang thứ hai, liên quan đến Con đường Tiến hóa Cao hơn, nhưng linh hồn hy sinh quyết tâm không bước lên những bậc thang đó cho đến khi hoàn thành hạn ngạch công việc cứu chuộc của mình.

6. His merit has brought him to the bottom step of the Higher Way, but voluntarily he turns his back and passes down the stairs he has successfully ascended, meeting his past in the form of the many shells (from which he is completely detached).

6. Công đức của y đã đưa y đến bậc thang dưới cùng của Con đường Cao hơn, nhưng y tự nguyện quay lưng lại và đi xuống cầu thang mà y đã leo lên thành công, gặp lại quá khứ của mình dưới dạng nhiều lớp vỏ (mà y hoàn toàn tách rời).

7. His task is now entirely benevolent. He offers “the hands of helpfulness”, helping others to ascend the stairs he ascended long ago.

7. Nhiệm vụ của y giờ đây hoàn toàn là nhân từ. Y chìa ra “đôi tay giúp đỡ”, giúp đỡ người khác leo lên những bậc thang mà y đã leo lên từ lâu.

8. The “bird of peace” which sits upon his shoulders has alighted there because he serves the Christ and can focus the buddhic energy (the energy of peace and harmony).

8. “Con chim của hòa bình” đậu trên vai y vì y phụng sự Đức Christ và có thể tập trung năng lượng Bồ đề (năng lượng của hòa bình và hòa hợp).

9. He wears the “sandals of the messenger”—the messenger of Hierarchy. He is toiling in the ‘area’ of the Common Cross, and thus the significance of the signs Pisces (the feet), and Gemini and Sagittarius (both associated, at a certain stage of evolution, with the bearing of messages from above). He is filled with love and can bring that love to those struggling upon the Mutable Cross—the Cross whereon the third aspect of divinity is developed and expressed.

9. Y mang “đôi dép của sứ giả” — sứ giả của Thánh đoàn. Y đang làm việc trong ‘khu vực’ của Thập tự giá Thông thường, và do đó ý nghĩa của dấu hiệu Song Ngư (bàn chân), và Song Tử và Nhân Mã (cả hai đều được liên kết, ở một giai đoạn tiến hóa nhất định, với việc mang thông điệp từ trên cao). Y tràn đầy tình yêu thương và có thể mang tình yêu thương đó đến với những người đang đấu tranh trên Thập tự giá Biến đổi — Thập tự giá mà trên đó khía cạnh thứ ba của thiên tính được phát triển và thể hiện.

10. The “utter glory of radiant life” comes to the liberated monad. He stands nearly at that level of liberation, but chooses to remain ‘below’ rather than release himself from the area of urgent need focussed in the lower worlds. Thus, the utter peace of the monad is not yet his. Instead he remains as a great toiler on behalf of humanity and the “little ones”. His, the task to uplift, and this he pursues until his term of service is ended.

10. “Vinh quang tột đỉnh của sự sống rực rỡ” đến với chân thần được giải thoát. Y gần như đứng ở cấp độ giải thoát đó, nhưng lại chọn ở lại ‘bên dưới’ thay vì giải thoát bản thân khỏi khu vực nhu cầu cấp bách tập trung ở các cõi thấp hơn. Do đó, sự bình an tột đỉnh của chân thần vẫn chưa thuộc về y. Thay vào đó, y vẫn là một người lao động vĩ đại vì nhân loại và “những người bé nhỏ”. Nhiệm vụ của y là nâng đỡ, và y theo đuổi điều này cho đến khi nhiệm kỳ phụng sự của y kết thúc.

DISCIPLESHIP AND PAIN— GIAI ĐOẠN ĐỆ TỬ VÀ NỖI ĐAU

“The sons of God, who know and see and hear (and knowing, know they know) suffer the pain of conscious limitation. Deep in the inmost depths of conscious being, their lost estate of liberty eats like a canker. Pain, sickness, poverty and loss are seen as such, and from them every son of God revolts. He knows that in himself, as once he was before he entered prisoner into form, he knew not pain. Sickness and death, corruption and disease, they touched him not. The riches of the universe were his, and naught he knew of loss.

Những người con của Thượng đế, những người biết, thấy và nghe (và biết rằng họ biết) chịu đựng nỗi đau của sự hạn chế có ý thức. Sâu trong tận cùng tâm thức, sự mất mát tự do gặm nhấm như một chứng ung nhọt. Nỗi đau, bệnh tật, nghèo khó và mất mát được nhận thức như thế, và mỗi người con của Thượng đế đều chống lại chúng. Y biết rằng trong chính mình, như một thời đã từng trước khi trở thành tù nhân trong hình tướng, y không biết đến đau khổ. Bệnh tật và cái chết, sự hủy hoại và bệnh dịch không chạm đến y. Sự giàu có của vũ trụ thuộc về y, và y không hề biết đến mất mát.

1. The individualized, self-conscious human being can stand back from himself and know that he knows. His is a particular pain—the pain ofconscious limitation, arising because deep within his nature, he ‘knows’ himself to be spirit.

1. Con người cá thể hóa, tự ý thức có thể lùi lại khỏi bản thân và biết rằng mình biết. Nỗi đau của y là một nỗi đau đặc biệt — nỗi đau của sự hạn chế có ý thức, phát sinh bởi vì sâu thẳm trong bản chất của mình, y ‘biết’ mình là tinh thần.

2. Spirit rebels at its confinement in matter. The states to which it is subjected through its voluntary sacrifice (pain, sickness, poverty and loss) are not natural to spirit.

2. Tinh thần nổi loạn chống lại sự giam cầm của nó trong vật chất. Các trạng thái mà nó phải chịu đựng thông qua sự hy sinh tự nguyện của nó (đau đớn, bệnh tật, nghèo đói và mất mát) không phải là tự nhiên đối với tinh thần.

3. The factor of comparison, in this and many cases, is a great cause of pain.

3. Yếu tố so sánh, trong trường hợp này và nhiều trường hợp khác, là một nguyên nhân lớn gây ra đau đớn.

4. Pain and duality are inseparable. It has been said in the Vedantic Teaching, “Wherever there are two, there is fear.” We might also say, “Wherever there are two, there is pain”, however subtle that pain may be.

4. Nỗi đau và tính nhị nguyên không thể tách rời. Trong Giáo lý Vệ Đà có câu: “Nơi nào có hai, nơi đó có sợ hãi.” Chúng ta cũng có thể nói, “Nơi nào có hai, nơi đó có đau đớn”, dù nỗi đau đó có thể tinh tế đến đâu.

5. We are told that the psychology of the “Divine Rebel” is most prominent on our planet because of the limitation of expression sensed by our Planetary Logos. This rebellion transfers to all Sons of God under His sway.

5. Chúng ta được cho biết rằng tâm lý của “Đấng Nổi Loạn Thiêng Liêng” là nổi bật nhất trên hành tinh của chúng ta bởi vì sự hạn chế về biểu hiện mà Hành Tinh Thượng đế của chúng ta cảm nhận được. Sự nổi loạn này chuyển sang tất cả những Người con của Thượng đế dưới sự cai quản của Ngài.

“The lives that enter into form along with lives self-conscious, the deva lives which build the forms indwelt by all the sons of God, they know not pain or loss or poverty[2]. [677] The form decays, the other forms retire, and that which is required to nourish and keep strong the outer, lacks. But lacking also will and planned intent, they feel no aggravation and know not clear revolt.”

“Những sự sống bước vào hình tướng cùng với những sự sống tự ý thức, những sự sống thiên thần xây dựng nên những hình tướng được tất cả những người con của Thượng đế trú ngụ, họ không biết đến nỗi đau hay mất mát hay nghèo đói. [677] Hình tướng suy tàn, những hình tướng khác rút lui, và những gì cần thiết để nuôi dưỡng và giữ cho bên ngoài mạnh mẽ, đều thiếu hụt. Nhưng cũng thiếu ý chí và ý định được lên kế hoạch, chúng không cảm thấy khó chịu và không biết đến sự nổi loạn rõ ràng.”

1. The stanza above brings the nature of the “deva lives” into focus. They enter into form with the self-conscious lives, but do not suffer pain and loss as do these self-conscious lives.

1. Khổ thơ trên làm nổi bật bản chất của “những sự sống thiên thần”. Chúng bước vào hình tướng cùng với những sự sống tự ý thức, nhưng không chịu đựng nỗi đau và mất mát như những sự sống tự ý thức này.

2. The devas are participants in the process of decay and disintegration, just as man is, but the kind of devas here under discussion lack “will and planned intent”, so they do not experience pain and conscious revolt. If their plans and intentions opposed the disintegration of form, a painful duality in consciousness would be created, but since the factors of will and planned intent are lacking, the sense of duality is also missing.

2. Các thiên thần tham gia vào quá trình suy tàn và tan rã, giống như con người, nhưng loại thiên thần được thảo luận ở đây thiếu “ý chí và ý định được lên kế hoạch”, vì vậy chúng không trải qua nỗi đau và sự nổi loạn có ý thức. Nếu kế hoạch và ý định của chúng chống lại sự tan rã của hình tướng, một nhị nguyên đau đớn trong tâm thức sẽ được tạo ra, nhưng vì thiếu các yếu tố ý chí và ý định được lên kế hoạch, nên cảm giác nhị nguyên cũng không có.

A word about pain might be in place here, though I have naught of an abstruse nature to communicate anent the evolution of the human hierarchy through the medium of pain. The devas do not suffer pain as does mankind. Their rate of rhythm is steadier although in line with the Law. They learn through application to the work of building and through incorporation into the form of that which is built. They grow through appreciation of and joy in the forms built and the work accomplished. The devas build and humanity breaks and through the shattering of the forms man learns through discontent. Thus is acquiescence in the work of the greater Builders achieved. Pain is that upward struggle through matter which lands a man at the Feet of the Logos; pain is the following of the line of the greatest resistance and thereby reaching the summit of the mountain; pain is the smashing of the form and the reaching of the inner fire; pain is the cold of isolation which leads to the warmth of the central Sun; pain is the burning in the furnace in order finally to know the coolness of the water of life; pain is the journeying into the far country, resulting in the welcome to the Father’s Home; pain is the illusion of the Father’s disowning, which drives the prodigal straight to the Father’s heart; pain is the cross of utter loss, that renders back the riches of the eternal bounty; pain is the whip that drives the struggling builder to carry to utter perfection the building of the Temple.

Một vài lời về nỗi đau có thể được đề cập ở đây, mặc dù tôi không có gì mang tính trừu tượng để truyền đạt liên quan đến sự tiến hóa của Huyền Giai Nhân Loại thông qua phương tiện của nỗi đau. Các thiên thần không chịu đựng nỗi đau như nhân loại. Tốc độ nhịp điệu của họ ổn định hơn mặc dù phù hợp với Định luật. Họ học hỏi thông qua việc áp dụng vào công việc xây dựng và thông qua việc kết hợp vào hình tướng của những gì được xây dựng. Họ phát triển thông qua sự đánh giá cao và niềm vui trong các hình tướng được xây dựng và công việc đã hoàn thành. Các thiên thần xây dựng và nhân loại phá vỡ, và thông qua sự tan vỡ của các hình tướng, con người học hỏi qua sự bất mãn. Do đó, sự đồng thuận với công việc của các Đấng Xây Dựng vĩ đại hơn đã đạt được. Nỗi đau là cuộc đấu tranh đi lên xuyên qua vật chất, đưa con người đến Dưới Chân của Thượng đế; nỗi đau là việc đi theo con đường có trở lực lớn nhất và nhờ đó đạt đến đỉnh núi; nỗi đau là sự phá vỡ hình tướng và việc chạm đến lửa bên trong; nỗi đau là cái lạnh của sự cô lập dẫn đến sự ấm áp của Mặt Trời Trung Tâm; nỗi đau là sự thiêu đốt trong lò lửa để cuối cùng cảm nhận được sự mát mẻ của nước sự sống; nỗi đau là hành trình đến vùng đất xa xôi, dẫn đến sự chào đón tại Nhà của Cha; nỗi đau là ảo tưởng về sự chối bỏ của Cha, đẩy người con hoang đàng thẳng đến trái tim của Cha; nỗi đau là cây thập giá của sự mất mát tận cùng, mang lại sự giàu có của ân huệ vĩnh cửu; nỗi đau là roi quất thúc đẩy người thợ xây đấu tranh để hoàn thiện tột cùng việc xây dựng Ngôi Đền..

1. It is clear that because of pain the human hierarchy evolves more rapidly. Pain is a great corrective, signaling deviation from the archetype.

1. Rõ ràng là nhờ nỗi đau mà nhân loại tiến hóa nhanh hơn. Nỗi đau là một sự điều chỉnh tuyệt vời, báo hiệu sự sai lệch so với nguyên mẫu.

2. DK tells us that the devas do not suffer pain “as does mankind”. Reading carefully, we might infer that there may be some manner in which they do suffer pain, but “not as does mankind”.

2. Chân sư DK nói với chúng ta rằng các thiên thần không chịu đựng nỗi đau “như nhân loại”. Đọc kỹ, chúng ta có thể suy ra rằng có thể có một cách nào đó mà họ chịu đựng nỗi đau, nhưng “không giống như nhân loại”.

3. The steadiness of the devas’ rate of rhythm is important to note, That rhythm is in line with the Law. Without the participating of the devas, universal laws on all levels would not be the invariable factors they are.

3. Sự ổn định của tốc độ nhịp điệu của các thiên thần là điều quan trọng cần lưu ý. Nhịp điệu đó phù hợp với Định luật. Không có sự tham gia của các thiên thần, các định luật phổ quát ở mọi cấp độ sẽ không phải là các yếu tố bất biến như chúng vốn có.

4. We are told how the devas learn and grow. For the devas, learning and growing are directly related to experiencing the forms into which they build themselves. They take joy in the forms built and the work accomplished. We see that the devas are essentially the builders, and we see their close connection to the magical seventh ray—though naturally there are devas on all seven rays.

4. Chúng ta được cho biết cách các thiên thần học hỏi và phát triển. Đối với các thiên thần, học hỏi và phát triển có liên quan trực tiếp đến việc trải nghiệm các hình tướng mà chúng xây dựng nên chính mình. Họ vui mừng trong các hình tướng được xây dựng và công việc đã hoàn thành. Chúng ta thấy rằng các thiên thần về cơ bản là những người xây dựng, và chúng ta thấy mối liên hệ chặt chẽ của họ với cung bảy huyền diệu — mặc dù tự nhiên có các thiên thần trên cả bảy cung.

5. The contrast between the ways in which devas and men learn is most significant. We can see why the devas are considered a feminine kingdom and man a masculine one. From the perspective we achieve by contrasting devic acquiescence with human revolt, we can see the devas as generically correlated with the second ray and rebellious man with the first.

5. Sự tương phản giữa cách thức học hỏi của thiên thần và con người là rất đáng kể. Chúng ta có thể thấy lý do tại sao các thiên thần được coi là một giới âm và con người là một giới dương. Từ góc độ mà chúng ta thành tựu bằng cách đối chiếu sự tuân phục của thiên thần với sự nổi loạn của con người, chúng ta có thể thấy các thiên thần nói chung tương quan với cung hai và con người nổi loạn với cung một.

6. There follow many beautiful descriptions of the nature of pain and its many uses. These descriptions apply to man especially.

6. Tiếp theo là nhiều mô tả đẹp về bản chất của nỗi đau và nhiều công dụng của nó. Những mô tả này đặc biệt áp dụng cho con người.

7. Studying carefully the descriptions of pain, we find the presence of what might be called ‘sacrificial duality’. The pairs of opposites are fundamentally involved in each description. Through pain, the opposites are contained and unified. Pain produces a salutary effect which is opposite to its apparent nature.

7. Nghiên cứu kỹ lưỡng các mô tả về nỗi đau, chúng ta thấy sự hiện diện của cái mà có thể gọi là ‘tính nhị nguyên hy sinh’. Các cặp đối lập về cơ bản có liên quan đến từng mô tả. Thông qua nỗi đau, những điều đối lập được chứa đựng và thống nhất. Nỗi đau tạo ra một tác dụng có lợi trái ngược với bản chất bề ngoài của nó.

8. Pain seems to epitomize everything that is objectionable to man, but if endured and understood, brings him to his heart’s desire .

8. Nỗi đau dường như là hình ảnh thu nhỏ của mọi thứ gây khó chịu cho con người, nhưng nếu chịu đựng và hiểu được, nó sẽ đưa họ đến khát vọng của trái tim mình.

9. Of one is to struggle against the limitations of matter, there will necessarily be pain. All pain is not necessarily upward tending, but there is a beneficent kind of pain which is caused by the aspiration of the imbedded spirit. This is particularly the kind of pain experienced by the disciple.

9. Nếu người ta phải đấu tranh chống lại những hạn chế của vật chất, chắc chắn sẽ có đau đớn. Không phải tất cả nỗi đau đều nhất thiết có xu hướng đi lên, nhưng có một loại nỗi đau có lợi do khát vọng của tinh thần được gửi gắm gây ra. Đây đặc biệt là loại nỗi đau mà đệ tử trải qua.

10. Few of us, perhaps, wish to follow the “line of greatest resistance” which will bring us to the mountain top and to the “Feet of the Logos”, but at length the pain of trying to avoid pain becomes greater than thepain to be endured in ascent. Then the change comes and we do what we must do.

10. Có lẽ ít người trong chúng ta mong muốn đi theo “con đường có trở lực lớn nhất” sẽ đưa chúng ta lên đỉnh núi và đến “Chân Thượng đế”, nhưng cuối cùng nỗi đau của việc cố gắng tránh né nỗi đau trở nên lớn hơn nỗi đau phải chịu đựng khi đi lên. Sau đó, sự thay đổi đến và chúng ta làm những gì chúng ta phải làm.

11. Pain is the path to the “inner fire” reached through the “smashing” of the form. This is a potent image suggestive of the first ray deeply imbedded in the nature of man. I have often wondered whether the monadic nature of the human kingdom is not the first (associated as humanity is with Scorpio and Hercules, that great first ray disciple). Perhaps there are few of us who wish to smash the form, but this unpleasant result will necessarily occur if we strive to attain our essence.

11. Nỗi đau là con đường dẫn đến “ngọn lửa bên trong” đạt được thông qua “sự phá vỡ” của hình tướng. Đây là một hình ảnh mạnh mẽ gợi ý về cung một ăn sâu vào bản chất của con người. Tôi thường tự hỏi liệu bản chất chân thần của nhân loại có phải là cung một hay không (nhân loại được liên kết với Hổ Cáp và Hercules, đệ tử cung một vĩ đại đó). Có lẽ ít người trong chúng ta mong muốn phá vỡ hình tướng, nhưng kết quả khó chịu này chắc chắn sẽ xảy ra nếu chúng ta cố gắng đạt được bản chất của mình.

12. How will the pain of isolation lead to the “warmth of the central Sun”? That cold will release us from the heat of fire by friction and open us to the warming influence of solar love. When we think of the “central Sun” we usually think of electric fire. The central Sun, however, can be considered our monad, which is ultimately a solar factor (having its home within the Sun). Moreover, the Solar Logos is a powerfully ray two being. Thus, indeed, there will be warmth associated with the “central Sun”, simply because of the nature of the Solar Logos.

12. Làm thế nào nỗi đau của sự cô lập sẽ dẫn đến “hơi ấm của Mặt trời trung tâm”? Cái lạnh đó sẽ giải thoát chúng ta khỏi sức nóng của lửa do ma sát và mở ra cho chúng ta ảnh hưởng ấm áp của tình yêu thương mặt trời. Khi chúng ta nghĩ về “Mặt trời trung tâm”, chúng ta thường nghĩ về lửa điện. Tuy nhiên, Mặt trời trung tâm có thể được coi là chân thần của chúng ta, cuối cùng là một yếu tố mặt trời (có nhà của nó bên trong Mặt trời). Hơn nữa, Thái dương Thượng đế là một sinh mệnh cung hai mạnh mẽ. Do đó, thực sự, sẽ có hơi ấm liên quan đến “Mặt trời trung tâm”, đơn giản chỉ vì bản chất của Thái dương Thượng đế.

13. How will burning in the fiery furnace lead to knowledge of the coolness of the “water of life”? And why is the “water of life” cool? Fiery burning releases us from heated experience under fire by friction. We are released towards the buddhic plane, where the clear cold light is found. The “water of life” (which can be understood as the energies of the buddhic plane as fed by still higher planes) cools all desire for life in the world of form. The coolness of buddhi is a relief to the consciousness aflame with lower desire.

13. Làm thế nào việc thiêu đốt trong lò lửa sẽ dẫn đến kiến thức về sự mát mẻ của “nước sự sống”? Và tại sao “nước sự sống” lại mát mẻ? Sự thiêu đốt trong lửa giải thoát chúng ta khỏi trải nghiệm nóng nực dưới lửa do ma sát. Chúng ta được giải thoát về phía cõi Bồ đề, nơi tìm thấy ánh sáng lạnh lẽo, trong trẻo. “Nước sự sống” (có thể được hiểu là năng lượng của cõi Bồ đề được nuôi dưỡng bởi các cõi cao hơn nữa) làm nguội đi mọi khát vọng đối với sự sống trong thế giới hình tướng. Sự mát mẻ của Bồ đề là một sự giải thoát cho tâm thức đang bốc cháy với khát vọng thấp hơn.

14. How is pain the “the journeying into the far country, resulting in the welcome to the Father’s Home”? In this case the “journeying into the far country” is not the departure of the “Prodigal Son” into a wasteland. Rather, in this case, it can be interpreted as a painful departure from ordinary, though cherished, life (through the processes of abstraction), leading eventually to the attainment of that point of inner abstraction which is the Father’s Home, the home of the monad. (Of course, it must also be said that to “leave the Father’s home” is perhaps the most painful of all experiences; only the intensity of monadic love can offset this pain of separation. Since the human monads gladly separate themselves for the sake of lesser lives, we can assume that the intensity of monadic love is sufficiently strong to negate the existential pain of separation.)

14. Làm thế nào nỗi đau là “hành trình đến miền đất xa xôi, dẫn đến sự chào đón đến Ngôi nhà của Cha”? Trong trường hợp này, “hành trình đến miền đất xa xôi” không phải là sự ra đi của “Đứa con hoang đàng” vào vùng đất hoang. Thay vào đó, trong trường hợp này, nó có thể được hiểu là sự ra đi đầy đau đớn khỏi cuộc sống bình thường, mặc dù được trân trọng (thông qua quá trình trừu tượng hóa), cuối cùng dẫn đến việc đạt được điểm trừu tượng hóa nội tại đó là Ngôi nhà của Cha, ngôi nhà của chân thần. (Tất nhiên, cũng phải nói rằng “rời khỏi nhà của Cha” có lẽ là trải nghiệm đau đớn nhất trong tất cả; chỉ có cường độ của tình yêu thương chân thần mới có thể bù đắp cho nỗi đau chia ly này. Vì các chân thần nhân loại vui vẻ tách mình ra vì lợi ích của những sự sống thấp kém hơn, chúng ta có thể giả định rằng cường độ của tình yêu thương chân thần đủ mạnh để phủ nhận nỗi đau hiện sinh của sự chia ly.)

15. How is pain “the illusion of the Father’s disowning, which drives the prodigal straight to the Father’s heart”? There is That within every Son of God which is connected to the Father. When the consciousness is in a benighted condition in the outer world, it may seem that all connection with the Father has been lost. But because the Father is already deeply within the one who feels disowned and disconnected, a deep pain arises (again the pain of perceived duality). Under the pressure of this pain, the inherent connection with the Father is intensely activated and the Prodigal Son resolves to return to the Father (i.e., return to that which he really is).

15. Làm thế nào nỗi đau là “ảo tưởng về việc bị Cha từ chối, điều này đưa đứa con hoang đàng thẳng đến trái tim của Cha”? Có Cái đó bên trong mỗi Người con của Thượng đế được kết nối với Cha. Khi tâm thức ở trong trạng thái u ám trong thế giới bên ngoài, có vẻ như mọi kết nối với Cha đã bị mất. Nhưng bởi vì Cha đã ở sâu thẳm bên trong người cảm thấy bị từ chối và mất kết nối, một nỗi đau sâu sắc nảy sinh (một lần nữa là nỗi đau của nhị nguyên được nhận thức). Dưới áp lực của nỗi đau này, mối liên hệ cố hữu với Cha được kích hoạt mạnh mẽ và Đứa con hoang đàng quyết tâm trở về với Cha (tức là trở về với con người thật của mình).

16. How is pain “the cross of utter loss that renders back the riches of the eternal bounty”? It is clear that the riches of eternal bounty cannot fill the hands of the one who is grasping for lesser things. Pain is the process which forces the dropping of those lesser things, freeing the hands to receive the bounty.

16. Làm thế nào nỗi đau là “cây thập tự giá của sự mất mát hoàn toàn, trả lại sự giàu có của ân huệ vĩnh cửu”? Rõ ràng là sự giàu có của ân huệ vĩnh cửu không thể lấp đầy đôi tay của người đang nắm bắt những thứ thấp kém hơn. Nỗi đau là quá trình buộc phải từ bỏ những thứ thấp kém hơn đó, giải phóng đôi tay để nhận lấy ân huệ.

17. How is pain “the whip that drives the struggling builder to carry to utter perfection the building of the Temple”? We have all been slaves. It is a compulsory servitude which leads to an understanding of true service. We are all building the Temple, whether the temple of the causal body or the Temple of Humanity. Our inner will is that our outer mechanism comply with the Divine Will (which, essentially, is our will). Inwardly, we will the completion of the divine task, regardless of the cost to our own outer mechanism. As souls, we adopt the attitude that the outer man must conform to inner intention. This is painful to the outer man, but it would be far more painful to the inner man were he unable to express his divinely inspired intention in the lower worlds.

17. Làm thế nào nỗi đau là “chiếc roi thúc đẩy người xây dựng đang đấu tranh để hoàn thiện công trình xây dựng Ngôi đền”? Tất cả chúng ta đều đã từng là nô lệ. Chính sự nô dịch bắt buộc dẫn đến sự hiểu biết về sự phụng sự thực sự. Tất cả chúng ta đều đang xây dựng Ngôi đền, cho dù đó là ngôi đền của thể nguyên nhân hay Ngôi đền của Nhân loại. Ý chí bên trong của chúng ta là để cơ chế bên ngoài của chúng ta tuân theo Thiên Ý (về cơ bản, đó là ý chí của chúng ta). Bên trong, chúng ta mong muốn hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng, bất kể cái giá phải trả cho cơ chế bên ngoài của chính chúng ta. Là linh hồn, chúng ta chấp nhận thái độ rằng con người bên ngoài phải phù hợp với ý định bên trong. Điều này gây đau đớn cho con người bên ngoài, nhưng sẽ đau đớn hơn nhiều đối với con người bên trong nếu họ không thể thể hiện ý định được truyền cảm hứng thiêng liêng của mình trong các cõi thấp hơn.

The uses of pain are many, and they lead the human soul out of darkness into light, out of bondage into liberation, out of agony into peace. That peace, that light and that liberation, within the ordered harmony of the cosmos are for all the sons of men.

Công dụng của nỗi đau thì nhiều, chúng dẫn dắt linh hồn con người ra khỏi bóng tối đến với ánh sáng, ra khỏi sự ràng buộc đến với sự giải thoát, ra khỏi đau khổ đến với bình an. Sự bình an đó, ánh sáng đó và sự giải thoát đó, trong sự hài hòa có trật tự của vũ trụ là dành cho tất cả những người con của nhân loại.

1. From all this we may learn that pain is the indicator of true direction.

1. Từ tất cả những điều này, chúng ta có thể học được rằng nỗi đau là chỉ báo của phương hướng đúng đắn.

2. Like chastening karma, pain seems to be one thing but, in disguise, is really another.

2. Giống như nghiệp quả tôi luyện, nỗi đau dường như là một thứ nhưng thực chất lại là một thứ khác.

3. Pain—a perceived negativity—has the goal of ultimate positivity. It is a prime tool of the Lords of Karma. It is in the study of pain and its uses that we discover the truth of the old Heraclitian maxim: “everything turns into its opposite”.

3. Nỗi đau — một sự tiêu cực được nhận thức — có mục tiêu là sự tích cực cuối cùng. Nó là một công cụ chính của các Đấng Chúa tể Nghiệp quả. Chính trong việc nghiên cứu nỗi đau và công dụng của nó, chúng ta khám phá ra sự thật của câu châm ngôn Heraclitus cổ xưa: “mọi thứ đều biến thành điều trái ngược với nó”.

4. Pain arises from duality, and humanity, more than any other kingdom, is beset by duality. Scorpio, humanity’s astrological sign produces the “Conflict with duality. The Fighter.”

4. Nỗi đau phát sinh từ nhị nguyên, và nhân loại, hơn bất kỳ giới nào khác, bị nhị nguyên vây hãm. Hổ Cáp, dấu hiệu chiêm tinh của nhân loại tạo ra “Xung đột với nhị nguyên. Người chiến đấu.”

5. Because the opposites are so clearly presented to us, we can more rapidly and decisively choose the higher of the pairs of opposites. The whole process of human progress is a redemptive one, facilitated bypain.

5. Bởi vì những điều đối lập được thể hiện rõ ràng với chúng ta, chúng ta có thể lựa chọn một cách nhanh chóng và dứt khoát hơn điều cao hơn trong các cặp đối lập. Toàn bộ quá trình tiến bộ của con người là một quá trình cứu chuộc, được tạo điều kiện thuận lợi bởi nỗi đau.

FROM THE OLD COMMENTARY—TRÍCH TỪ CỔ LUẬN

“The assuaging waters cool. They slowly bring relief, abstracting form from all that can be touched. The quivering [678] fever heat of long repressed desire yields to the cooling draught. Water and pain negate each other. Long is the process of the cooling draught.

Những dòng nước xoa dịu mang lại sự mát lành. Chúng dần dần đem đến sự nhẹ nhõm, tách hình tướng khỏi tất cả những gì có thể chạm đến. Cơn sốt run rẩy [678] của ham muốn đã bị đè nén đã lâu nhường chỗ cho dòng nước mát lành. Nước và nỗi đau triệt tiêu lẫn nhau. Quá trình của dòng nước mát lành kéo dài vô tận.

1. This selection from the Old Commentary deals in symbolic terms with certain stages of the ‘Path of Release’.

1. Đoạn trích này từ Cổ Luận đề cập đến các thuật ngữ biểu tượng với một số giai đoạn nhất định của ‘Con đường Giải thoát’.

2. “All that can be touched” constitutes all within the three lower worlds from which one must release oneself—all that normal sentiency reveals.

2. “Tất cả những gì có thể chạm tới” tạo thành tất cả những gì trong ba cõi thấp hơn mà người ta phải giải thoát bản thân khỏi đó— tất cả những gì mà cảm giác bình thường tiết lộ.

3. The abstracting from form seems to be the abstractive elevation of consciousness so that it can express through ever subtler forms.

3. Sự trừu xuất khỏi hình tướng dường như là sự nâng cao trừu tượng của tâm thức để nó có thể biểu hiện thông qua các hình tướng ngày càng tinh tế hơn.

4. What are the “assuaging waters”? These waters have to do with the realizations achievable in the higher worlds; they bring a melting, a fusing and an identification with all souls. To the one who has long struggled to tread the Path, disciplining himself, suppressing desire (acting as if lower desire does not exist), higher realizations of the fusing and blending powers greatly lessens the pain of unfulfilled or repudiated desire. These ‘waters’ negates the fiery pain of desire.

4. “Nước xoa dịu” là gì? Những dòng nước này liên quan đến những sự giác ngộ có thể đạt được trong các cõi cao hơn; chúng mang lại sự tan chảy, sự dung hợp và sự đồng nhất với tất cả các linh hồn. Đối với người đã đấu tranh lâu dài để bước đi trên Thánh đạo, kỷ luật bản thân, kìm nén dục vọng (hành động như thể dục vọng thấp hơn không tồn tại), những sự giác ngộ cao hơn về sức mạnh hợp nhất và hòa trộn sẽ làm giảm bớt nỗi đau của khát vọng không được thỏa mãn hoặc bị từ chối. Những ‘dòng nước’ này phủ nhận nỗi đau rực lửa của ham muốn.

5. The “heat” here referenced is “fire by friction”; the “water” can be meaningfully related to the energy of solar fire.

5. “Sức nóng” được đề cập ở đây là “lửa do ma sát”; “nước” có thể liên quan một cách có ý nghĩa đến năng lượng của lửa thái dương.

6. The fusing and blending love of the soul has much to do to cool, tranquilize and, eventually, offset and negate the fiery urgency of personal desire. The process can take many lives.

6. Tình yêu thương hợp nhất và hòa trộn của linh hồn có nhiều việc phải làm để làm dịu mát, trấn tĩnh và cuối cùng là hoá giải và phủ nhận sự thôi thúc rực lửa của ham muốn cá nhân. Quá trình này có thể mất nhiều kiếp.

“The burning fire releases all that blocks the way of life. Bliss comes and follows after fire, as fire upon the waters. Water and fire together blend and cause the great Illusion. Fog is the product of mist and steam and noise, veiling the Light, hiding the Truth and shutting out the Sun.

“Ngọn lửa thiêu đốt giải phóng mọi thứ cản trở con đường của sự sống. Hạnh phúc đến và theo sau lửa, như lửa trên mặt nước. Nước và lửa cùng hòa quyện và tạo nên Đại Ảo Tưởng. Sương mù là sản phẩm của hơi nước, sương khói và tiếng động, che phủ Ánh Sáng, ẩn giấu Chân Lý và ngăn chặn ánh Mặt Trời.”

1. There are many fires. What are the burning fires here referenced? If the “burning fire” releases all that blocks the way of “life”, then we are speaking of the fires that open the door for the entrance of the life aspect of divinity. One reasonable interpretation is that these fires are the fires which consume the causal body.

1. Có nhiều loại lửa. Những ngọn lửa rực cháy được đề cập ở đây là gì? Nếu “ngọn lửa rực cháy” giải phóng tất cả những gì cản trở con đường của “sự sống”, thì chúng ta đang nói về những ngọn lửa mở ra cánh cửa cho sự đi vào của khía cạnh sự sống của thiên tính. Một cách giải thích hợp lý là những ngọn lửa này là những ngọn lửa thiêu rụi thể nguyên nhân.

2. The “waters’ mentioned in this section refer to personality sentiency, especially the sentiency of the astral body. On a higher turn of the spiral, the waters may also refer to the soul’s sense of ‘touch’ which, though relatively advanced in nature, gives way to a higher octave of sentiency after the releasing fire has done its work.

2. “Nước” được đề cập trong phần này đề cập đến cảm thức của phàm ngã, đặc biệt là cảm giác của thể cảm xúc. Trên một vòng xoắn ốc cao hơn, nước cũng có thể đề cập đến giác quan ‘chạm’ của linh hồn, mặc dù có bản chất tương đối cao cấp, nhưng nhường chỗ cho một quãng tám cao hơn của sự cảm giác sau khi ngọn lửa giải phóng đã hoàn thành công việc của nó.

3. The fact that bliss comes and follows after the fire is another hint that we are here discussing a very high stage of evolution. Bliss is directly related to the life aspect of divinity and supervenes in a more continuous way after passing through the fires which accompany the fourth initiation.

3. Việc chí phúc đến và theo sau ngọn lửa là một gợi ý khác rằng chúng ta đang thảo luận về một giai đoạn tiến hóa rất cao. Chí phúc có liên quan trực tiếp đến khía cạnh sự sống của thiên tính và xuất hiện theo cách liên tục hơn sau khi đi qua những ngọn lửa đi kèm với lần điểm đạo thứ tư.

4. There are processes necessitating the application of fire and water which belong to the ‘curricula’ of both the second initiation and the fourth.

4. Có những quá trình cần thiết phải áp dụng lửa và nước thuộc về ‘chương trình giảng dạy’ của cả lần điểm đạo thứ hai và lần điểm đạo thứ tư.

5. We must study these stanzas carefully. In one paragraph a lengthy period of time, perhaps spanning many lives, may be indicated.

5. Chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng những khổ thơ này. Trong một đoạn văn, một khoảng thời gian dài, có lẽ kéo dài nhiều kiếp, có thể được chỉ ra.

6. One product of the union of water and fire is kama-manas. The kama-manasic mind is deluded by the Great Illusion. Neither feeling nor thought are pure when combined as kama-manas; glamor and illusion are the result of this combining.

6. Một sản phẩm của sự kết hợp giữa nước và lửa là trí-cảm. Cái trí trí-cảm bị Ảo tưởng vĩ đại đánh lừa. Cả cảm xúc lẫn suy nghĩ đều không thuần khiết khi kết hợp thành trí-cảm; ảo cảm và ảo tưởng là kết quả của sự kết hợp này.

7. When mind (fire) is combined with water (i.e., with kama, feeling, desire), bias is the result, leading to distorted perception. Only the mind detached and illumined by the soul can begin to perceive reality.

7. Khi trí tuệ (lửa) được kết hợp với nước (tức là với kama, cảm xúc, khát vọng), sự thiên vị là kết quả, dẫn đến nhận thức bị bóp méo. Chỉ có trí tuệ tách rời và được linh hồn soi sáng mới có thể bắt đầu nhận thức được thực tại.

8. A very interesting definition of the nature of “fog” is given: “Fog is the product of mist and steam and noise.” We may judge “fog” to be denser than mist. Steam is super-heated water, but only when it combines with mist (which consists of visible, airborne water droplets) does a vision-obscuring “fog” result.

8. Một định nghĩa rất thú vị về bản chất của “sương mù” được đưa ra: “Sương mù là sản phẩm của sương và hơi nước và tiếng ồn.” Chúng ta có thể đánh giá “sương mù” đậm đặc hơn sương. Hơi nước là nước được làm nóng quá mức, nhưng chỉ khi nó kết hợp với sương (bao gồm các giọt nước có thể nhìn thấy được trong không khí) thì “sương mù” che khuất tầm nhìn mới xuất hiện.

9. Noise is incoherent sound; it lacks regular vibration (musical tone) and order. Noise is always sound which is either inharmonious with the present sonic ‘atmosphere’ or disruptive of it.

9. Tiếng ồn là âm thanh không mạch lạc; nó thiếu rung động đều đặn (âm sắc) và trật tự. Tiếng ồn luôn là âm thanh không hài hòa với ‘bầu không khí’ âm thanh hiện tại hoặc phá vỡ nó.

10. This stanza tells us that “fog” (obscurative glamor and illusion) has a discordant, disruptive sonic content.

10. Khổ thơ này cho chúng ta biết rằng “sương mù” (ảo cảm và ảo tưởng che khuất) có nội dung âm thanh hỗn loạn, gây rối.

11. “Fog” from the perspective of consciousness, veils Light, hides Truth and shuts out the Sun. The first light to be veiled is the light of the soul. Truth, also, is focussed, initially, in the soul realm, though later in progressively higher realms. And the “Sun”, here given, is the soul.

11. “Sương mù” từ góc độ của tâm thức, che lấp Ánh sáng, che giấu Chân lý và che khuất Mặt trời. Ánh sáng đầu tiên bị che lấp là ánh sáng của linh hồn. Chân lý, ban đầu, cũng được tập trung trong cõi linh hồn, mặc dù sau đó ở các cõi cao hơn dần dần. Và “Mặt trời” được đưa ra ở đây là linh hồn.

12. Water and fire are necessary in the purificatory and redemptive process, but there are times in the evolutionary process when their mutual interaction produces temporary, undesirable results.

12. Nước và lửa là cần thiết trong quá trình thanh lọc và cứu chuộc, nhưng có những lúc trong quá trình tiến hóa mà sự tương tác lẫn nhau của chúng tạo ra những kết quả tạm thời, không mong muốn.

13. Kama, or feeling, must be purified and rendered responsive to the heart and soul. Fire, or mind, must be infused by the higher light so that it serves the truth-seeing soul consciousness.

13. Kama, hay cảm xúc, phải được thanh lọc và đáp ứng với trái tim và linh hồn. Lửa, hay trí tuệ, phải được truyền ánh sáng cao hơn để nó phục vụ tâm thức linh hồn nhìn thấy sự thật.

“The fire burns fiercely. Pain and the waters disappear. Cold, heat, the light of day, the radiance of the rising sun and perfect knowledge of the Truth appear.

“Lửa cháy dữ dội. Nỗi đau và nước biến mất. Cái lạnh, sức nóng, ánh sáng ban ngày, ánh sáng rực rỡ của mặt trời mọc và kiến thức hoàn hảo về Chân lý xuất hiện.

1. Of the many possible burning grounds, these two sentences seem to reference one of the final ones—final where humanity, per se, is concerned.

1. Trong số nhiều vùng đất cháy có thể có, hai câu này dường như đề cập đến một trong những vùng đất cuối cùng — vùng đất cuối cùng liên quan đến nhân loại, tự thân.

2. Pain disappears with the disappearance of the normal personality (which is not the ‘mayavirupic personality’ which still may be used by a Master). Pain is most associated with the number four—the number symbolizing the personality (though that number symbolizes the buddhic plane as well, and other higher energy fields).

2. Nỗi đau biến mất cùng với sự biến mất của phàm ngã bình thường (không phải là ‘phàm ngã huyễn ảnh’ mà Chân sư vẫn có thể sử dụng). Nỗi đau chủ yếu liên quan đến số bốn — con số tượng trưng cho phàm ngã (mặc dù con số đó cũng tượng trưng cho cõi Bồ đề, và các trường năng lượng cao hơn khác).

3. The “waters” which disappear are all types of magnetisms and contacts which relate not only to personality but to the soul within the causal body—for it is the destruction of the causal body which is the subject of this short section of the stanza.

3. “Nước” biến mất là tất cả các loại từ tính và tiếp xúc không chỉ liên quan đến phàm ngã mà còn với linh hồn trong thể nguyên nhân — vì sự hủy diệt của thể nguyên nhân là chủ đề của phần ngắn này của khổ thơ.

4. The “cold” is the influence of buddhi—the clear, cold light of the buddhic plane. The “heat” is spiritual energy, not (in this section) personality heat or force. The “light of day” can only be seen from the perspective of the spiritual triad. Interestingly, the type of light associated with the triumphant sign Scorpio is the “light of day”.

4. “Cái lạnh” là ảnh hưởng của Bồ đề — ánh sáng trong trẻo, lạnh lẽo của cõi Bồ đề. “Sức nóng” là năng lượng tinh thần, không phải (trong phần này) là sức nóng hay lực lượng của phàm ngã. “Ánh sáng ban ngày” chỉ có thể được nhìn thấy từ góc độ của tam nguyên tinh thần. Điều thú vị là loại ánh sáng liên quan đến cung Hổ Cáp chiến thắng là “ánh sáng ban ngày”.

5. The “rising sun” is not alone the soul-as-sun, but the suns of triad and monad. The “perfect knowledge of Truth” is buddhic in nature, or higher. It is not given to the consciousness within the causal body (relatively advanced though such consciousness may be) to grasp Truth as it can be known within the spiritual triad—a field of spiritual experience unencumbered by all that which has been generated from ‘below’. The spiritual triad is more a transcendental than a transpersonal field.

5. “Mặt trời mọc” không chỉ là linh hồn-như-mặt trời, mà là mặt trời của tam nguyên và chân thần. “Kiến thức hoàn hảo về Chân lý” có bản chất Bồ đề, hoặc cao hơn. Tâm thức trong thể nguyên nhân (mặc dù tâm thức đó có thể tương đối cao cấp) không được ban cho để nắm bắt Chân lý như nó có thể được biết đến trong tam nguyên tinh thần — một trường trải nghiệm tinh thần không bị cản trở bởi tất cả những gì đã được tạo ra từ ‘bên dưới’. Tam nguyên tinh thần siêu việt hơn là một trường siêu cá nhân.

“This is the path for all who seek the Light. First form, and all its longing. Then pain. Then the assuaging waters and the appearance of a little fire. The fire grows, and heat is then active within the tiny sphere and does its fiery work. Moisture likewise is seen; dense fog, and to the pain is added sad bewilderment, for they who use the fire of mind during the early stage are lost within a light illusory.

“Đây là con đường dành cho tất cả những ai tìm kiếm Ánh sáng. Đầu tiên là hình tướng, và tất cả ham muốn của nó. Sau đó là nỗi đau. Sau đó là nước làm dịu và sự xuất hiện của một ngọn lửa nhỏ. Ngọn lửa lớn dần, và sức nóng sau đó hoạt động bên trong quả cầu nhỏ bé và thực hiện công việc rực lửa của nó. Độ ẩm cũng được nhìn thấy; sương mù dày đặc, và nỗi đau được thêm vào sự hoang mang buồn bã, vì những người sử dụng ngọn lửa của trí tuệ trong giai đoạn đầu bị lạc lối trong ánh sáng huyễn ảo.

1. In this case the “Light” may be looked at generically and as occurring at all stages. The “Light” eventually sought is the “Highest Light”.

1. Trong trường hợp này, “Ánh sáng” có thể được nhìn nhận một cách chung chung và xảy ra ở mọi giai đoạn. “Ánh sáng” cuối cùng được tìm kiếm là “Ánh sáng Cao nhất”.

2. The developmental sequence is given. The curriculum of form comes first. Form is subject to desire, and intensified desire is understood as “longing”.

2. Trình tự phát triển được đưa ra. Chương trình giảng dạy của hình tướng đến trước. Hình tướng chịu sự chi phối của khát vọng, và khát vọng được tăng cường được hiểu là “khát khao”.

3. The following of desire and longing can only lead to “pain”, because such a pursuit keeps a human being divided from his/her higher nature; that division creates dissonance; dissonance (prolonged and unresolved) is pain.

3. Việc đi theo khát vọng và khao khát chỉ có thể dẫn đến “nỗi đau”, bởi vì việc theo đuổi như vậy khiến con người bị chia cắt khỏi bản chất cao hơn của họ; sự chia cắt đó tạo ra sự bất hòa; sự bất hòa (kéo dài và không được giải quyết) là nỗi đau.

4. “Assuaging waters” in their first mode, represent the harmonizing of the emotional/desire nature, through the incipient power of love. The aspiring soul-in-incarnation touches the realm of beauty, the realm of soul.

4. “Nước làm dịu” ở chế độ đầu tiên của chúng, đại diện cho sự hài hòa hóa bản chất cảm xúc / khát vọng, thông qua sức mạnh sơ khai của tình yêu thương. Linh hồn-đang-nhập-thể đầy khát vọng chạm đến cõi của cái đẹp, cõi của linh hồn.

5. The “little fire” is the preliminary use of the mind to clarify the path of life.

5. “Ngọn lửa nhỏ” là việc sử dụng trí tuệ sơ bộ để làm rõ con đường sự sống.

6. It is clear that we are here describing an alchemical formula.

6. Rõ ràng là chúng ta đang mô tả một công thức giả kim.

7. The “tiny sphere” may be thought of as the ‘sphere of mind’. The entire aura is, relatively, also a “tiny sphere”.

7. “Quả cầu nhỏ bé” có thể được coi là ‘quả cầu của trí tuệ’. Toàn bộ hào quang, tương đối, cũng là một “quả cầu nhỏ bé”.

8. The “tiny fire” grows in intensity and the unsuspected “moisture” within the sphere condenses. The moisture is “seen” because of condensation. Conditions grow more opaque as visible moisture turns into “dense fog”. This happens because desire and feeling become inflamed by the growing fire. Intensified desire blots out the light.

8. “Ngọn lửa nhỏ” tăng cường độ và “độ ẩm” không ngờ tới bên trong quả cầu ngưng tụ lại. Độ ẩm được “nhìn thấy” do sự ngưng tụ. Các điều kiện trở nên mờ đục hơn khi độ ẩm có thể nhìn thấy biến thành “sương mù dày đặc”. Điều này xảy ra bởi vì khát vọng và cảm xúc bị viêm nhiễm bởi ngọn lửa ngày càng lớn. Khát vọng mạnh mẽ che khuất ánh sáng.

9. The ascending unit is temporarily lost. Harmony with soul remains unachieved, prevented by intensified desire; hence, the sad bewilderment.

9. Đơn vị đang đi lên tạm thời bị lạc lối. Sự hài hòa với linh hồn vẫn chưa đạt được, bị ngăn cản bởi khát vọng mạnh mẽ; do đó, sự hoang mang buồn bã.

10. A light is shining, but it is an illusory light, though seeming to such individuals, real enough.

10. Một ánh sáng đang chiếu sáng, nhưng đó là một ánh sáng huyễn ảo, mặc dù đối với những cá nhân như vậy, nó có vẻ đủ thực.

“Fierce grows the heat; next comes the loss of power to suffer. When this stage has been outgrown, there comes the shining of the unobstructed Sun and the clear bright light of Truth. This is the path back to the hidden centre.

“Sức nóng tăng lên dữ dội; tiếp theo là sự mất khả năng chịu đựng đau khổ. Khi giai đoạn này đã được vượt qua, sẽ đến sự tỏa sáng của Mặt trời không bị cản trở và ánh sáng trong trẻo, rực rỡ của Chân lý. Đây là con đường trở về trung tâm tiềm ẩn.

1. The burning intensifies until all personality sentiency is burned away. Fire has eliminated all ‘watery’ attachments. Only when there is some form of attachment can there be pain because attachment makes the rending process possible. Attachment is a dualistic act.

1. Sự thiêu đốt tăng cường độ cho đến khi tất cả cảm giác của phàm ngã bị thiêu rụi. Lửa đã loại bỏ tất cả những chấp trước ‘ướt át’. Chỉ khi có một số hình thức chấp trước thì mới có đau đớn bởi vì chấp trước làm cho quá trình chia cắt trở nên khả thi. Chấp trước là một hành động nhị nguyên.

2. The power to suffer is can be understood as preoccupation with evident inharmonies. Suffering can cease in two ways; inharmonies can be harmonized, bringing release; or, inharmonies may for a time remain, but the consciousness has learned to abstract itself from them. When desire for life in the lower worlds ceases, suffering ceases. This, the Buddha has taught us through His Four Noble Truths.

2. Khả năng chịu đựng đau khổ có thể được hiểu là sự bận tâm với những điều bất hòa hiển nhiên. Đau khổ có thể chấm dứt theo hai cách; những điều bất hòa có thể được hài hòa, mang lại sự giải thoát; hoặc, những điều bất hòa có thể tồn tại trong một thời gian, nhưng tâm thức đã học cách rút lui bản thân khỏi chúng. Khi khát vọng đối với sự sống trong các cõi thấp hơn chấm dứt, đau khổ chấm dứt. Điều này, Đức Phật đã dạy chúng ta thông qua Tứ Diệu Đế của Ngài.

3. The power of soul love will also contribute to the negation of suffering.

3. Sức mạnh của tình yêu thương linh hồn cũng sẽ góp phần phủ nhận đau khổ.

4. The “Sun” is referenced throughout the various sections of the stanza. The clue to the meaning of the “unobstructed Sun” comes when we realize that not only the personality, but the causal body, too, is an obstruction. The spiritual triad is the “unobstructed Sun”, and on a still higher turn of the spiral, the monad is that Sun.

4. “Mặt trời” được đề cập đến trong suốt các phần khác nhau của khổ thơ. Manh mối về ý nghĩa của “Mặt trời không bị cản trở” đến khi chúng ta nhận ra rằng không chỉ phàm ngã, mà cả thể nguyên nhân, cũng là một sự cản trở. Tam nguyên tinh thần là “Mặt trời không bị cản trở”, và trên một vòng xoắn ốc cao hơn nữa, chân thần là Mặt trời đó.

5. The symbol of the “Sun” is closely related to buddhic energy and to the plane of buddhi. When we hear of the clear bright light of Truth”, buddhi is again suggested.

5. Biểu tượng của “Mặt trời” có liên quan chặt chẽ đến năng lượng Bồ đề và cõi Bồ đề. Khi chúng ta nghe về “ánh sáng trong trẻo, rực rỡ của Chân lý”, Bồ đề một lần nữa được gợi ý.

6. The light shed by the rising of the “unobstructed Sun” throws light upon the Path leading back to the monad, the “hidden center”. The deepest center of any system is always hidden.

6. Ánh sáng tỏa ra bởi sự xuất hiện của “Mặt trời không bị cản trở” soi sáng Con đường dẫn trở về chân thần, “trung tâm tiềm ẩn”. Trung tâm sâu nhất của bất kỳ hệ thống nào luôn bị ẩn giấu.

“Use pain. Call for the fire, O Pilgrim, in a strange and foreign land. The waters wash away the mud and slime of nature’s growth. The fires burn the hindering forms which seek to hold the pilgrim back and so bring release. The living waters, as a river, sweep the pilgrim to the Father’s Heart. The fires destroy the veil, hiding the Father’s Face.”

“Hãy sử dụng nỗi đau. Hãy kêu gọi ngọn lửa, hỡi Người hành hương, ở vùng đất xa lạ và xa xôi. Nước cuốn trôi bùn đất và chất nhờn của sự phát triển của tự nhiên. Lửa thiêu rụi những hình tướng cản trở đang tìm cách giữ chân người hành hương và do đó mang lại sự giải thoát. Dòng nước sống, như một dòng sông, cuốn người hành hương đến Trái tim của Cha. Lửa thiêu hủy bức màn che, che giấu Khuôn mặt của Cha.”

1. We end this beautiful alchemical stanza with directives and injunctions for the earnest Pilgrim. In fact, the human being is being addressed as if he/she were the monad, the Pilgrim in the “strange and foreign land”—the deserts, seas and fires of the three lower worlds. Eventually, even the world of the spiritual triad comes to be regarded as a “foreign land”.

1. Chúng ta kết thúc khổ thơ luyện kim thuật tuyệt đẹp này bằng những chỉ thị và mệnh lệnh dành cho Người hành hương nhiệt thành. Trên thực tế, con người đang được đề cập đến như thể họ là chân thần, Người hành hương ở “vùng đất xa lạ và xa xôi” — sa mạc, biển cả và lửa của ba cõi thấp hơn. Cuối cùng, ngay cả thế giới của tam nguyên tinh thần cũng được coi là một “vùng đất xa lạ”.

2. The right response to pain is not suffering but use. All is to be used. This, of course, will require the detachment which only a focus within the soul and spiritual triad can provide.

2. Phản ứng đúng đắn đối với nỗi đau không phải là đau khổ mà là sử dụng. Tất cả đều được sử dụng. Tất nhiên, điều này sẽ đòi hỏi sự tách rời mà chỉ có sự tập trung trong linh hồn và tam nguyên tinh thần mới có thể cung cấp.

3. In this summary section, two kinds of fires and two kinds of waters are referenced.

3. Trong phần tóm tắt này, hai loại lửa và hai loại nước được đề cập đến.

4. The first waters are the ‘waters of grief’, the ‘tears of purification’, which eventually harmonize the astral body of the aspiring human being, washing away the unholy mixture of earth and water we call “mud” and “slime”. We have only to recall from the Secret Doctrinethe loathsome ‘creations’ wrought by “Nature unaided” to realize the nature of “mud” and “slime”.

4. Loại nước đầu tiên là ‘nước mắt của đau buồn’, ‘nước mắt của sự thanh lọc’, cuối cùng sẽ hài hòa thể cảm xúc của con người đầy khát vọng, cuốn trôi hỗn hợp ô uế của đất và nước mà chúng ta gọi là “bùn đất” và “chất nhờn”. Chúng ta chỉ cần nhớ lại từ Giáo Lý Bí Nhiệm những ‘sinh vật’ ghê tởm do “Tự nhiên không được hỗ trợ” tạo ra để nhận ra bản chất của “bùn đất” và “chất nhờn”.

5. The first fires are the quasi-liberating fires of mind which burn through lesser and inhibiting forms created by the benighted indwelling consciousness. Such forms are ‘seen through’ and, thus, repudiated.

5. Những ngọn lửa đầu tiên là những ngọn lửa của trí tuệ mang tính giải phóng tạm thời, thiêu đốt các hình tướng thấp kém và hạn chế được tạo ra bởi tâm thức ngụ cư tăm tối. Những hình tướng như vậy được “nhìn thấu” và do đó bị từ bỏ.

6. The “living waters” are entirely higher than the waters of the first kind. These are the “waters” of the buddhic plane. Buddhi is connected with the “Heart of God”, which can be found in an even more intensive form on the monadic plane, where the “Father’s Heart” and the “Father’s Home” are united.

6. “Dòng nước sống” hoàn toàn cao hơn loại nước thứ nhất. Đây là “nước” của cõi Bồ đề. Bồ đề được kết nối với “Trái tim của Thượng đế”, có thể được tìm thấy ở dạng mãnh liệt hơn nữa trên cõi chân thần, nơi “Trái tim của Cha” và “Ngôi nhà của Cha” được hợp nhất.

7. Those who have experienced buddhi know the flow of love which belongs to the experience. This “flow” is a river of liquid love uniting and harmonizing all aspects of creation.

7. Những người đã trải nghiệm Bồ đề biết dòng chảy của tình yêu thương thuộc về trải nghiệm đó. “Dòng chảy” này là một dòng sông của tình yêu thương lỏng hợp nhất và hài hòa tất cả các khía cạnh của tạo hóa.

8. The final fire may, itself, be considered to occur in two forms. The first of these higher fires (really a union of fire by friction, solar fire and, especially, electric fire) destroys the causal body. But it can be asked, when this destruction occurs, is the “Father’s Face” really revealed?

8. Bản thân Ngọn lửa cuối cùng có thể được coi là xảy ra ở hai dạng. Ngọn lửa đầu tiên trong số những ngọn lửa cao hơn này (thực sự là sự kết hợp của lửa do ma sát, lửa mặt trời và đặc biệt là lửa điện) phá hủy thể nguyên nhân. Nhưng có thể hỏi, khi sự hủy diệt này xảy ra, “Khuôn mặt của Cha” có thực sự được tiết lộ không?

9. The “Father’s Face” is, we are told, only revealed at the fifth initiation, when the candidate, now a Master, can “see the Father face to face”. Thus there is another burning ground, following that of the fourth initiation, which makes this possible.

9. Chúng ta được cho biết, “Khuôn mặt của Cha” chỉ được tiết lộ tại lần điểm đạo thứ năm, khi ứng viên, giờ là một Chân sư, có thể “nhìn thấy Cha mặt đối mặt”. Do đó, có một vùng đất cháy khác, theo sau vùng đất cháy của lần điểm đạo thứ tư, làm cho điều này trở nên khả thi.

10. A still higher fire, not only reveals the “Father in Heaven” (our monadic aspect), but brings about complete identification with the monad. This is the fire which burns through the spiritual triad, considering that triad as the personality of the monad and, therefore, at length, an obstruction. It requires, however, a very high stage of evolution, if the permanent atoms of the spiritual triad are no longer to be necessary. Anything that would be said about such a stage and the process of the monad’s divestiture of the triadal permanent atoms would necessarily be entirely speculative.

10. Một ngọn lửa cao hơn nữa, không chỉ tiết lộ “Cha trên Trời” (khía cạnh chân thần của chúng ta), mà còn mang lại sự đồng nhất hoàn toàn với chân thần. Đây là ngọn lửa thiêu rụi tam nguyên tinh thần, coi tam nguyên đó là phàm ngã của chân thần và do đó, cuối cùng, là một sự cản trở. Tuy nhiên, nó đòi hỏi một giai đoạn tiến hóa rất cao, nếu các nguyên tử trường tồn của tam nguyên tinh thần không còn cần thiết nữa. Bất cứ điều gì được nói về một giai đoạn như vậy và quá trình chân thần từ bỏ các nguyên tử trường tồn tam nguyên chắc chắn sẽ hoàn toàn là suy đoán.

DISCIPLESHIP AND ITS END—CON ĐƯỜNG ĐỆ TỬ VÀ MỤC TIÊU CỦA NÓ

There is a curious and ancient Atlantean chant which is no longer used but in those far off times was chanted by the initiate who took the third initiation—the consummating initiation of that period. It goes as follows. The translation of the symbols in which it was written necessitates the loss of rhythm and potency.

Có một bài thánh ca Atlantis cổ xưa và kỳ lạ không còn được sử dụng nữa nhưng trong những thời kỳ xa xưa đó đã được xướng lên bởi điểm đạo đồ đã thực hiện lần điểm đạo thứ ba — lần điểm đạo hoàn thiện của thời kỳ đó. Nó như sau. Việc dịch các biểu tượng mà nó được viết ra tất yếu phải mất đi nhịp điệu và sức mạnh.

1. There is much beauty in the following “chant” (as the Tibetan calls it). We no longer know the melody, if there was one, or the ‘pitch’ on which it was chanted or intoned. Nor do we know the rhythm. All these would be of great interest. The meaning, however, we can grasp.

1. Có rất nhiều vẻ đẹp trong “bài thánh ca” sau đây (như Chân sư Tây Tạng gọi). Chúng ta không còn biết giai điệu, nếu có, hoặc ‘cao độ’ mà nó được xướng lên hoặc ngâm nga. Chúng ta cũng không biết nhịp điệu. Tất cả những điều này sẽ rất thú vị. Tuy nhiên, chúng ta có thể nắm bắt được ý nghĩa.

2. One wonders how Master DK knows about such ancient forms of words. Does He find them in the inner libraries to which He has access? Or does He, perhaps, remember using them?

2. Người ta tự hỏi làm thế nào Chân sư DK biết về những dạng từ ngữ cổ xưa như vậy. Ngài có tìm thấy chúng trong các thư viện nội môn mà Ngài có quyền truy cập không? Hay có lẽ Ngài nhớ đã sử dụng chúng?

3. The times were, indeed, far off, because the end of the last part of the Atlantean Civilization occurred more than 800,000 years ago according to The Secret Doctrine.

3. Thời gian đó thực sự đã rất xa, bởi vì phần cuối cùng của Nền văn minh Atlantis đã kết thúc cách đây hơn 800.000 năm theo Giáo lý Bí Nhiệm.

4. We learn that the third initiation was the consummating initiation of the Atlantean period. This stands to reason when we learn that both the Christ and the Buddha (the most advanced of our present dual humanity) took the third initiation during the Atlantean period.

4. Chúng ta biết được rằng lần điểm đạo thứ ba là lần điểm đạo hoàn thiện của thời kỳ Atlantis. Điều này là hợp lý khi chúng ta biết rằng cả Đức Christ và Đức Phật (những người tiên tiến nhất trong nhân loại nhị nguyên hiện tại của chúng ta) đã thực hiện lần điểm đạo thứ ba trong thời kỳ Atlantis.

5. After studying the chant, we must wonder why it is no longer in use. It is probably the result of our present inability to read the symbols in which it is written.

5. Sau khi nghiên cứu bài ca chiến thắng, chúng ta phải tự hỏi tại sao nó không còn được sử dụng nữa. Có lẽ đó là kết quả của việc chúng ta hiện tại không có khả năng đọc các biểu tượng mà nó được viết ra.

6. The right use of mantric chant with full rhythm and potency will probably emerge during the New Age. Many ancient practices will be restored and will probably appear entirely new to us.

6. Việc sử dụng đúng cách bài ca thần chú với đầy đủ nhịp điệu và sức mạnh có thể sẽ xuất hiện trong Kỷ nguyên Mới. Nhiều thực hành cổ xưa sẽ được khôi phục và có thể sẽ hoàn toàn mới đối với chúng ta.

“I stand between the Heavens and Earth! I vision God; I see the forms God took. I hate them both. Naught do [679] they mean to me, for one I cannot reach, and for the lower of the two I have no longer any love.

“Tôi đứng giữa Trời và Đất! Tôi hình dung Thượng đế; Tôi thấy những hình tướng mà Thượng đế đã khoác lấy. Tôi ghét cả hai. Chúng không [679] có ý nghĩa gì đối với tôi, vì một cái tôi không thể đạt được, và với điều thấp kém hơn tôi không còn bất kỳ tình yêu thương nào nữa.

1. The state of wretchedness of the disciple poised between heaven and ‘hell’ is suggested.

1. Trạng thái khốn khổ của đệ tử đang ở giữa thiên đường và ‘địa ngục’ được gợi ý.

2. Heaven is the world of the soul on its own plane. Earth is the three lower worlds.

2. Trời là thế giới của linh hồn trên cõi của chính nó. Đất là ba cõi thấp hơn.

3. We are presented with a vivid description of the disciple’s dual consciousness.

3. Chúng ta được trình bày một mô tả sống động về tâm thức nhị nguyên của người đệ tử.

4. There is some sense of the divine, “God”, and also a realization of the forms taken during the long and repetitive processes of incarnation.

4. Có một cảm giác nào đó về sự thiêng liêng, “Thượng Đế”, và cũng có sự nhận thức về các hình tướng được tạo ra trong suốt các quá trình luân hồi dài lâu và lặp đi lặp lại.

5. The wretchedness of the experience is dramatized in the sentence, “I hate them both.” The disciple hates not only that which imprisons him but the good that he cannot yet achieve.

5. Sự khốn khổ của trải nghiệm được thể hiện rõ trong câu: “Tôi ghét cả hai.” Đệ tử không chỉ ghét những gì giam cầm họ mà còn ghét cả những điều tốt đẹp mà họ chưa thể đạt được.

6. The disciple approaching the third degree is repelled by life in the lower worlds, and at the same time incapable of achieving his fondest dreams. Despair temporarily accompanies this inability, and the strange psychological rejection of that which is so much coveted.

6. Đệ tử đang tiến đến cấp độ thứ ba bị đẩy lùi bởi cuộc sống trong các cõi thấp hơn, đồng thời không có khả năng đạt được những giấc mơ ấp ủ của mình. Sự tuyệt vọng tạm thời đi kèm với sự bất lực này, và sự từ chối tâm lý kỳ lạ đối với những gì được thèm muốn đến vậy.

7. The disciple here described stands in a no-man’s-land of existential dissatisfaction. This condition, however, is temporary.

7. Đệ tử được mô tả ở đây đang đứng trong vùng đất không bóng người của sự bất mãn hiện sinh. Tuy nhiên, tình trạng này chỉ là tạm thời.

“Torn I am. Space and its Life I cannot know, and so I want it not. Time and its myriad forms, I know too well. Pendant I hang betwixt the two, desiring neither.

“Tôi bị giằng xé. Không thể biết Không gian và Sự sống của nó, vì vậy tôi không cần nó. Thời gian và vô số hình tướng của nó, tôi biết quá rõ. Tôi treo lơ lửng giữa hai điều đó, không mong muốn điều gì.

1. The chant continues to describe the painful rending process.

1. Bài thánh ca tiếp tục mô tả quá trình xé rời đau đớn.

2. The disciple is torn, interestingly, between Time and Space. In the chant Space is given a superior position. It represents freedom and expansion. It is associated with “Ouranos” (Uranus), Lord of “Heaven”.

2. Thú vị là vị Đệ tử bị giằng xé  giữa Thời gian và Không gian. Trong bài thánh ca, Không gian được ưu tiên hơn. Nó đại diện cho sự tự do và mở rộng. Nó được liên kết với “Ouranos” (Sao Thiên Vương), Chúa tể của “Thiên đường”.

3. Time, however, is associated with Saturn and all the limitation for which it is renowned.

3. Tuy nhiên, Thời gian được liên kết với Sao Thổ và tất cả những hạn chế làm cho nó nổi tiếng.

4. Saturn represents the familiar in relation to which the disciple experiences disgust, even hatred. He is functioning under the “Law of Repulse”.

4. Sao Thổ đại diện cho sự quen thuộc mà liên quan đến nó, đệ tử cảm thấy ghê tởm, thậm chí là căm ghét. Y đang hoạt động theo “Định luật Đẩy lùi”.

5. Uranus/Space, represents the new and all that is, paradoxically, hated because it is unachievable.

5. Sao Thiên Vương / Không gian, đại diện cho cái mới và tất cả những gì, nghịch lý thay, bị ghét bỏ vì nó không thể đạt được.

6. The aspiring disciple is swinging between the pairs of opposites. He is pendant, the “Hanged Man”, Caught between an attraction to things which cannot be consummated, and a repulsion from that which has been long experienced, his is the depression of desirelessness.

6. Đệ tử đầy khát vọng đang dao động giữa các cặp đối lập. Y đang lơ lửng, “Người bị treo”, bị mắc kẹt giữa sự thu hút đối với những thứ không thể được hoàn thành, và sự chán ghét đối với những gì đã được trải nghiệm từ lâu, đó là sự trầm cảm của sự vô dục.

“God from high Heaven speaks. There is a change. I hear with ear attentive, and, listening, turn my head. That which I visioned, yet visioning could not reach, is nearer to my heart. Old longings come again, yet die. Old chains of glamour snap. Forward I rush.

“Thượng đế từ Trời cao cất tiếng. Có một sự thay đổi. Tôi nghe với tai chăm chú, và lắng nghe, quay đầu lại. Điều mà tôi đã hình dung, nhưng hình dung vẫn không thể với tới, giờ đã gần với trái tim tôi hơn. Những khát khao cũ xưa lại đến, nhưng rồi chết đi. Những xiềng xích ảo cảm cũ kỹ đứt đoạn. Tôi lao về phía trước.

1. Fortunately, the disciple need not do all to remedy this pendant state.

1. May mắn thay, đệ tử không cần phải làm tất cả để khắc phục trạng thái lơ lửng này.

2. The “Voice of God” is heard. The energy changes. The disciple hearkens to the heavenly Word.

2. “Tiếng nói của Thượng đế” được nghe thấy. Năng lượng thay đổi. Đệ tử lắng nghe Lời thiêng liêng.

3. The effect of this Word makes it possible for him to turn his head. The vision of Heaven comes closer and seems more attainable. He is encouraged.

3. Tác dụng của Lời này giúp họ có thể quay đầu lại. Tầm nhìn về Thiên đường đến gần hơn và dường như có thể đạt được hơn. Họ được khuyến khích.

4. Although the forces of the ancient past rise again, they easily fade away and die.

4. Mặc dù các mãnh lực của quá khứ cổ xưa trỗi dậy trở lại, nhưng chúng dễ dàng phai nhạt và chết đi.

5. An advance is made against glamor. This powerful phrase describes the advance: “The chains of glamour snap.”

5. Một bước tiến được thực hiện chống lại ảo cảm. Cụm từ mạnh mẽ này mô tả bước tiến: “Những xiềng xích ảo cảm đứt đoạn.”

6. Released, temporarily, from the slavery of past magnetisms, the disciple who would be initiate rushes forward towards Heaven and the Voice.

6. Được giải thoát tạm thời khỏi sự nô dịch của những sức hút trong quá khứ, đệ tử sẽ là điểm đạo đồ lao về phía trước hướng tới Thiên đường và Tiếng nói.

“Myriads of voices speak and halt me in my tracks. The thunder of the sounds of earth shuts out the voice of God. I turn me on my forward path, and vision once again the long held joys of earth, and flesh and kin. I lose the vision of eternal things. The voice of God dies out.

“Vô số giọng nói cất lên và ngăn tôi lại trên đường đi. Tiếng sấm của những âm thanh của trái đất át đi tiếng nói của Thượng đế. Tôi quay đầu lại trên con đường phía trước của mình, và một lần nữa hình dung những niềm vui lâu dài của trái đất, xác thịt và dòng họ. Tội đánh mất tầm nhìn về những điều vĩnh cửu. Tiếng nói của Thượng đế tắt dần.

1. But the experience of duality is not over. The lower forces and energies have not been overcome and they pull with strength upon the disciple who thought he was advancing.

1. Nhưng trải nghiệm về nhị nguyên vẫn chưa kết thúc. Các mãnh lực và năng lượng thấp hơn vẫn chưa bị khắc phục và chúng lôi kéo mạnh mẽ người đệ tử, người đã nghĩ rằng mình đang tiến bộ.

2. He is halted in his tracks. The many sounds of earth overpower the “voice of God”.

2. Y bị chặn lại trên đường đi. Nhiều âm thanh của trần gian (của đất) át đi “tiếng nói của Thượng đế”.

3. The disciple revolves and faces towards the conditions which have for so long imprisoned him.

3. Đệ tử quay lại và đối mặt với những điều kiện đã giam cầm y quá lâu.

4. But now, again under the sway of glamor and illusion, they seem attractive to him.

4. Nhưng giờ đây, một lần nữa dưới sự chi phối của ảo cảm và ảo tưởng, chúng dường như trở nên hấp dẫn đối với y.

5. He capitulates to the appeal of the familiar: the joys of earth, flesh and kin hold him once again, and his vision of things eternal dies. He no longer hears the voice of God.

5. Y đầu hàng trước sự hấp dẫn của những điều quen thuộc: những niềm vui của trần gian, xác thịt và dòng y một lần nữa níu giữ y, và tầm nhìn của y về những điều vĩnh cửu chết đi. Y không còn nghe thấy tiếng nói của Thượng đế nữa.

6. If we turn our concentration towards that which long has held us, the vision we are seeking to cultivate is weakened. “Heaven” is not so strongly established in the lives of most of us that it cannot be overcome by the force of the familiar. If we turn our eyes to earth, we shall strengthen its hold over us. One cannot contemplate with equal love the energies which oppose each other.

6. Nếu chúng ta hướng sự tập trung của mình vào những gì đã níu giữ chúng ta từ lâu, thì tầm nhìn mà chúng ta đang tìm cách trau dồi sẽ bị suy yếu. “Thiên đường” không được thiết lập vững chắc trong cuộc sống của hầu hết chúng ta đến mức nó không thể bị khắc phục bởi sức mạnh của những điều quen thuộc. Nếu chúng ta hướng mắt về mặt đất, chúng ta sẽ củng cố sự kìm kẹp của nó đối với chúng ta. Người ta không thể chiêm nghiệm với tình yêu thương như nhau những năng lượng đối lập nhau.

“Torn again am I, but only for a little time. Backward and forward shifts my little self, e’en as a bird soars into heaven and settles back again upon the tree. Yet God, in His high place, outlasts the little bird. Thus do I know that God will victor be and later hold my mind and me in thrall.

“Tôi lại bị giằng xé, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Cái tôi nhỏ bé của Tôi dịch chuyển tới lui, giống như một con chim bay vút lên trời rồi lại đậu xuống cây. Nhưng Thượng đế, ở nơi cao vời của Ngài, tồn tại lâu hơn con chim nhỏ bé. Do đó, tôi biết rằng Thượng đế sẽ là người chiến thắng và sau này sẽ giữ tâm trí tôi và tôi trong sự kìm kẹp.

1. The rending and tearing process continues. The duration of the changes shortens.

1. Quá trình chia cắt và giằng xé vẫn tiếp tục. Thời lượng của những thay đổi rút ngắn lại.

2. The little self is the area of fluctuation, not the Higher Self.

2. Cái tôi nhỏ bé là khu vực dao động, không phải là Chân ngã.

3. The image of a bird periodically attempting to fly to heaven only to seek the security of the branch is most descriptive of the disciple’s state.

3. Hình ảnh một con chim định kỳ cố gắng bay lên trời chỉ để tìm kiếm sự an toàn của cành cây mô tả rõ nhất trạng thái của đệ tử.

4. God and the little bird (the personality that would soar) are contrasted. God (the spirit/soul) is mighty, and, of course, will outlast the little bird.

4. Thượng đế và con chim nhỏ bé (phàm ngã muốn bay vút lên) được đối chiếu. Thượng đế (tinh thần / linh hồn) là toàn năng, và tất nhiên, sẽ tồn tại lâu hơn con chim nhỏ bé.

5. The one in thrall to the lower worlds shall be in thrall to God. When God captures us and enslaves us in a higher way, not only is God the victor but so are we.

5. Người bị các cõi thấp hơn kìm kẹp sẽ bị Thượng đế kìm kẹp. Khi Thượng đế bắt giữ và nô dịch chúng ta theo cách cao hơn, thì không chỉ Thượng đế là người chiến thắng mà chúng ta cũng vậy.

6. Despite his fluctuating experience, a firm faith arises within struggling disciple. He senses that God’s victory is imminent.

6. Bất chấp trải nghiệm dao động của mình, một niềm tin vững chắc nảy sinh trong đệ tử đang đấu tranh. Y cảm thấy rằng chiến thắng của Thượng đế sắp xảy ra.

“Hark to the joyous paean that I chant; the work is done. My ear is deaf to all the calls of earth, except to that small voice of all the hidden souls within the outer forms, for they are as myself; with them I am at-one.

“Hãy lắng nghe bài ca chiến thắng mà tôi xướng lên; công việc đã hoàn thành. Tai tôi điếc với tất cả những lời kêu gọi của đất, ngoại trừ tiếng nói nhỏ bé đó của tất cả những linh hồn tiềm ẩn bên trong các hình tướng bên ngoài, vì họ giống như tôi; tôi hòa làm một với họ.

1. The disciple breaks through. He consciousness is filled with joyous song—the paean of victory.

1. Đệ tử đột phá. Tâm thức của y tràn ngập bài ca vui mừng — bài ca chiến thắng.

2. The lower voices and sounds have no more hold over him. He need no longer struggle with them because, in fact, his ear has become deaf to those sounds.

2. Những giọng nói và âm thanh thấp hơn không còn kìm kẹp y nữa. Y không cần phải đấu tranh với chúng nữa bởi vì, trên thực tế, tai y đã trở nên điếc với những âm thanh đó.

3. He is now deaf to all allurement, but still sensitive to the still small voice of soul imbedded within every form.

3. Giờ đây, y điếc với mọi sự cám dỗ, nhưng vẫn nhạy cảm với tiếng nói nhỏ nhẹ, tĩnh lặng của linh hồn ẩn chứa trong mọi hình tướng.

4. Though free now himself, he realizes his oneness with the souls still imprisoned in form.

4. Mặc dù giờ đây đã tự do, y nhận ra sự hợp nhất của mình với những linh hồn vẫn bị giam cầm trong hình tướng.

5. A great sense of unity descends upon him. He identifies with all humanity. He is swept by buddhic energy; the first great at-one-ment has occurred.

5. Một cảm giác hợp nhất to lớn giáng xuống y. Y đồng nhất với toàn thể nhân loại. Y bị cuốn theo năng lượng Bồ đề; sự hợp nhất vĩ đại đầu tiên đã xảy ra.

“God’s voice rings clear, and in its tones and overtones the little voices of the little forms dim and fade out. I dwell within a world of unity. I know all souls are one.

“Tiếng nói của Thượng đế vang lên rõ ràng, và trong âm sắc và âm bội của nó, những giọng nói nhỏ bé của những hình tướng nhỏ bé mờ dần và biến mất. Tôi trú ngụ trong một thế giới của sự hợp nhất. Tôi biết tất cả các linh hồn là một.

1. The chant uses a musical analogy. The triumphant disciple hears all the rich variety of God’s voice.

1. Bài thánh ca sử dụng một phép ẩn dụ âm nhạc. Đệ tử chiến thắng nghe thấy tất cả sự phong phú đa dạng trong giọng nói của Thượng đế.

2. These heavenly tones are far more real than the “voices of the little forms” which dim and fade. The greater Sound has overcome the myriad lesser sounds.

2. Những âm sắc thiên đường này thực hơn nhiều so với “những giọng nói của những hình tướng nhỏ bé” đang mờ dần và biến mất. Âm thanh vĩ đại hơn đã khắc phục vô số âm thanh nhỏ bé hơn.

3. The disciple, now initiate, lives in ‘uni-son’—the sonic equivalent of unity.

3. Đệ tử, giờ là điểm đạo đồ, sống trong ‘hợp âm’ — sự tương đương về âm thanh của sự hợp nhất.

4. Oneness is no longer a theory. It is known.

4. Sự hợp nhất không còn là lý thuyết nữa. Nó được biết đến.

5. The second principle of the Secret Doctrine is established in consciousness: “All souls are one with the Oversoul.”

5. Nguyên lý thứ hai của Giáo Lý Bí Nhiệm được thiết lập trong tâm thức: “Tất cả các linh hồn là một với Đại hồn.”

“Swept am I by the universal Life and as I sweep upon my onward way—the way of God—I see all lesser energies die out. I am the One; I, God. I am the form in which all forms are merged. I am the soul in which all souls are fused. I am the Life, and in that Life, all little lives remain.”

“Tôi bị cuốn theo Sự sống phổ quát và khi tôi cuốn theo con đường phía trước của mình — con đường của Thượng đế — tôi thấy tất cả những năng lượng thấp kém hơn đều lụi tàn. tôi là Đấng Duy nhất; Tôi, Thượng đế. Tôi là hình tướng mà trong đó tất cả các hình tướng được hợp nhất. Tôi là linh hồn mà trong đó tất cả các linh hồn được hợp nhất. Tôi là Sự sống, và trong Sự sống đó, tất cả những sự sống nhỏ bé vẫn còn.”

1. The Presence of Divinity intensifies. The initiate experiences a taste of “universal Life”—the life which lies even beyond the life of our Planetary Logos.

1. Sự Hiện diện của Thiên tính tăng cường độ. Điểm đạo đồ trải nghiệm hương vị của “Sự sống phổ quát” — sự sống nằm ngoài sự sống của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta.

2. A vast vision of unity, reminiscent of the Great Vision in the Bhagavad Gita, presents itself.

2. Một tầm nhìn bao la về sự hợp nhất, gợi nhớ đến Đại Tầm nhìn trong Bhagavad Gita, tự thể hiện.

3. The Way of God appears. But it is a Way which reveals the divinity not only of spirit/soul but of form.

3. Con đường của Thượng đế xuất hiện. Nhưng đó là Con đường tiết lộ thiên tính không chỉ của tinh thần / linh hồn mà còn của hình tướng.

4. God and Form are one. The initiate knows that he is God, Form, and all-inclusive Life. He embraces all forms of Life. The sense of separation is forever ended.

4. Thượng đế và Hình tướng là một. Điểm đạo đồ biết rằng y là Thượng đế, Hình tướng và Sự sống bao trùm tất cả. Y bao gồm tất cả các hình tướng của Sự sống. Cảm giác chia cắt vĩnh viễn kết thúc.

5. The Many and the One are revealed to be identical. Synthesis supervenes. The great Pairs of Opposites are resolved. “Two Merge with One.”

5. Cái Nhiều và Cái Một được tiết lộ là giống hệt nhau. Sự tổng hợp xảy ra. Các Cặp đối lập vĩ đại được giải quyết. “Hai hòa vào Một.”

These words, chanted in the ancient formulas on peculiar and selected notes, were most potent and brought definite results in certain ancient ceremonies that have long since died out.

Những từ này, được xướng lên trong các công thức cổ xưa trên những nốt đặc biệt và được lựa chọn, rất mạnh mẽ và mang lại những kết quả nhất định trong một số nghi lễ cổ xưa đã lụi tàn từ lâu.

1. The Tibetan’s description of the ancient practices is extremely interesting.

1. Mô tả của Chân sư Tây Tạng về các thực hành cổ xưa là vô cùng thú vị.

2. One senses that, although these practices have long since died out, they would still be of great value in the coming Age. Otherwise, why would He tell us about such chants, practices and ceremonies?

2. Người ta cảm thấy rằng, mặc dù những thực hành này đã lụi tàn từ lâu, nhưng chúng vẫn sẽ có giá trị lớn lao trong Kỷ nguyên sắp tới. Nếu không, tại sao Ngài lại nói với chúng ta về những bài thánh ca, thực hành và nghi lễ như vậy?

3. One senses that the chant not only described a process leading to the third initiation, but induced processes leading thereto.

3. Người ta cảm thấy rằng bài thánh ca không chỉ mô tả một quá trình dẫn đến lần điểm đạo thứ ba, mà còn tạo ra các quá trình dẫn đến đó.

4. It is clear that humanity has forgotten much of value which must be restored with the Restoration of the Mysteries.

4. Rõ ràng là nhân loại đã quên đi nhiều điều có giá trị cần phải được khôi phục cùng với việc Phục hồi các Bí ẩn.

5. A greatness of culture and civilization presently inconceivable to us is on its way. Our task is to do all we can to ensure that the Hierarchy can externalize as expediently and beautifully as possible. More is not within our power. When Hierarchy is again visibly present with us, the longed for revelations will come and the world will be transformed—made anew. Surely this is worth our intensive labor.

5. Một nền văn hóa và văn minh vĩ đại mà hiện tại chúng ta không thể tưởng tượng được đang trên đường đến. Nhiệm vụ của chúng ta là làm tất cả những gì có thể để đảm bảo rằng Thánh đoàn có thể ngoại hiện một cách thuận lợi và đẹp đẽ nhất có thể. Nhiều hơn nữa là ngoài khả năng của chúng ta. Khi Thánh đoàn một lần nữa hiện diện rõ ràng với chúng ta, những điều mặc khải được mong đợi từ lâu sẽ đến và thế giới sẽ được biến đổi — được tạo ra mới. Chắc chắn điều này xứng đáng với công sức lao động

[680]

 

Scroll to Top