2. The Mechanism of Consciousness.
In the last lecture we followed certain lines of thought which converged on the idea that the consciousness of man was very much larger than the consciousness that expresses itself through the nervous system and the brain. There were three other lines which I did not mention, and which I will mention now before going on to our special subject “The Mechanism of Consciousness”. | Trong bài giảng trước chúng ta đã theo những đường tư tưởng hội tụ vào ý niệm rằng tâm thức của con người rộng lớn hơn rất nhiều so với tâm thức bộc lộ qua hệ thần kinh và não bộ. Có ba tuyến khác mà tôi chưa nhắc, và giờ tôi sẽ nêu trước khi đi vào đề tài chuyên biệt của chúng ta “Bộ máy của Tâm thức”. |
The first of those is the fixed idea, a most suggestive subject for study, for the fixed idea is an idea that takes possession of the whole man, that forces him along its own line whether he wishes to go or not, which entirely submerges the ordinary consciousness, overbears the reason, and subjugates the man’s wishes and logic, in spite of everything driving him along the road it is determined he should go. Fixed ideas divide themselves [28] into two classes. One class is called madness. You continually find persons who are called insane dominated by fixed ideas, by some idea outside all reason, all argument, an idea which overbears all appeal, all rationality, and when such an idea is found to dominate the consciousness and conduct, the person is called insane. On the other hand, there is another type (some people might say it was a subtle form of insanity, but if so insanity is very beneficial to the world at large); it is the kind of fixed idea that makes the martyr, the saint, and the hero; an idea that dominates all the ordinary attractions of life, in face of which nothing can make an effective appeal, nothing can turn aside the man’s steps from the path along which he is going. These are also fixed ideas, and we find them in the very noblest children of the race. Such ideas need explanation; we need to understand wherein they differ from the fixed ideas which we regard as madness, otherwise we shall be inclined to slip into the school of Lombroso, which declares all genius to be madness, and regards the great teachers of the world, Christ, Buddha, and so on, as what are called neuropaths. That is at once so terrible and so absurd, that it will be well if we can distinguish between the fixed idea of the madman and the fixed idea of the hero and saint. Along that line will go some of the study of the larger consciousness. | Thứ nhất trong các tuyến ấy là “ý niệm cố định”, một đề tài gợi mở bao điều đáng học, vì ý niệm cố định là một ý niệm chiếm lĩnh toàn bộ con người, cưỡng bách y đi theo đường riêng của nó dù y có muốn hay không, nó hoàn toàn nhấn chìm tâm thức thông thường, lấn át lý trí, và khuất phục ý muốn cùng lôgic của con người, mặc cho mọi thứ, vẫn xô đẩy y đi con đường nó quyết định y phải đi. Các ý niệm cố định phân [28] thành hai hạng. Một hạng được gọi là cuồng loạn. Bạn gặp thường xuyên những người được gọi là loạn trí bị chi phối bởi ý niệm cố định, bởi một ý niệm vượt ngoài mọi lý trí, mọi lập luận, một ý niệm lấn át mọi lời kêu gọi, mọi khả tính của lý lẽ, và khi một ý niệm như thế được thấy là chi phối tâm thức và hành vi, người đó bị gọi là “điên”. Mặt khác, có một kiểu khác (một số người có thể nói đó là dạng tinh vi của điên loạn, nhưng nếu thế thì điên loạn lại rất có lợi cho thế gian rộng lớn); đó là kiểu ý niệm cố định làm nên người tử đạo, vị thánh và bậc anh hùng; một ý niệm chi phối mọi hấp lực thông thường của đời sống, trước mặt nó không gì có thể làm nên một lời khẩn cầu hữu hiệu, không gì có thể bẻ lái bước chân người ấy khỏi con đường y đang đi. Đây cũng là những ý niệm cố định, và chúng ta thấy chúng nơi những người con cao quý nhất của chủng loại. Những ý niệm như vậy cần lời giải thích; ta cần hiểu xem chúng khác với những ý niệm cố định mà ta xem là điên loạn ở điểm nào, nếu không ta sẽ dễ trượt vào trường phái Lombroso, vốn tuyên bố rằng mọi thiên tài đều là điên, và xem các bậc thầy vĩ đại của thế giới—Đức Christ, Đức Phật, v.v.—như những kẻ mà người ta gọi là bệnh thần kinh. Điều đó vừa kinh khiếp vừa phi lý, vậy sẽ tốt nếu ta có thể phân biệt giữa ý niệm cố định của kẻ điên và ý niệm cố định của bậc anh hùng, vị thánh. Dọc tuyến này sẽ có một phần học hỏi về tâm thức rộng lớn hơn. |
Then comes the line of dreams, and, lastly, the line along which many, people are inclined to go today, the line of telepathy, the communication of mind with mind without so-called material or rather physical means of [29]communication. These three lines we must add to those I gave in the last lecture. All these are necessarily connected with the larger consciousness, and find their only rightful explanation when that larger consciousness is understood. | Kế đó là tuyến của mộng mơ, và sau cùng là tuyến mà ngày nay nhiều người có khuynh hướng đi theo, tức viễn cảm—sự truyền thông giữa thể trí với thể trí mà không cần các phương tiện được gọi là vật liệu hay đúng hơn là hồng trần [29] thông đạt. Ba tuyến này chúng ta phải bổ sung vào những điều tôi đã nêu trong bài giảng trước. Tất cả những điều này tất yếu liên hệ với tâm thức rộng lớn hơn, và chỉ tìm được lời giải thích đúng đắn khi tâm thức rộng lớn hơn ấy được thấu hiểu. |
Now, I have called our special subject for tonight “The Mechanism of Consciousness”. You remember that I started last week with the phrase that it was an axiom some forty years ago with regard to psychology, that all sane psychology must be founded on physiology. Now that is false when it is made to mean that the physiological conditions produce consciousness; it is true when it is meant to mean that the physiological conditions condition the manifestations of consciousness and profoundly modify it in its manifestations on the physical plane. Therefore it is true that you do need to understand the mechanism of consciousness in order to understand the manifestations of consciousness; that you must study the mechanism in order to be able dearly to follow the means of manifestation and, what is still more important, the method whereby the improvement of the mechanism may lead to the fuller manifestation of the consciousness. For just as you might study a pipe through which water was to flow, and you would not say the pipe produced the water, though unless the pipe were there the water would not come into the reservoir; just as it would be a matter of importance that the pipe should not be clogged, so that the water flowing through it should not be diminished in quantity; so it is important that the mechanism [30] whereby consciousness manifests itself shall be improved as far as possible, that it shall not clog the manifestations of consciousness, and that if clogs exist they shall be cleared away, and the circumference of the pipe shall be enlarged if enlargement be possible. To do that, we must understand the mechanism of consciousness. | Giờ đây, tôi đã đặt đề tài đặc biệt cho tối nay là “Bộ máy của Tâm thức”. Quý vị hẳn nhớ tuần trước tôi mở đầu bằng cụm từ: chừng bốn mươi năm trước, về tâm lý học, người ta cho đó như một tiên đề rằng mọi tâm lý học lành mạnh phải đặt nền trên sinh lý học. Nay điều đó là sai khi nó được hiểu theo nghĩa các điều kiện sinh lý sản sinh ra tâm thức; nó đúng khi được hiểu rằng các điều kiện sinh lý là những điều kiện hóa các biểu lộ của tâm thức và làm biến đổi sâu xa nó trong các biểu lộ ở cõi hồng trần. Vậy nên, đúng là bạn cần phải hiểu bộ máy của tâm thức để hiểu những biểu lộ của tâm thức; rằng bạn phải học bộ máy ấy để có thể theo dõi minh bạch các phương tiện biểu lộ, và, điều còn quan trọng hơn, phương cách mà nhờ đó việc cải thiện bộ máy có thể đưa tới sự biểu lộ phong phú hơn của tâm thức. Cũng như bạn có thể khảo sát một ống dẫn nước, và bạn sẽ không nói ống sản xuất ra nước, dẫu nếu không có ống thì nước không đến được bể chứa; cũng như việc ống không bị tắc là quan trọng, để dòng nước chảy qua không bị giảm lưu lượng; thì cũng vậy, việc [30] bộ máy mà nhờ đó tâm thức biểu lộ phải được cải thiện tối đa, để nó không cản trở các biểu lộ của tâm thức, và nếu có cản trở thì phải được khai thông, và chu vi của ống phải được mở rộng nếu việc mở rộng là có thể. Muốn làm thế, chúng ta phải hiểu bộ máy của tâm thức. |
In the study of that mechanism the first question that arises is: Is man, by the mechanism of his consciousness, related to more worlds than one? And it is rather interesting that some of the earliest thought here joins hands with the latest that the old Rishis of India are in line with Mr. F. W. Myers. They do not use the same words, but they make the same assertion. It is a commonplace in all the ancient Hindu teachings that man belongs not to one world but to three. Each of these three worlds, it is said, must be studied, and man, by the mechanism of his consciousness, is related to each of the three. Truly, there are higher worlds still, but those are effectively connected only with the man become superhuman. Through the normal human evolution, it is said, every man is in touch with three worlds. So also you find something of the same idea running through Christian teaching. We read of a physical world in which man is living, of a heavenly world towards which he is going, and of an intermediate world called by the Roman Catholic Purgatory, by some others Paradise. In theosophical literature you read about the three planes with which man is constantly connected, the physical, astral, and mental, corresponding with the physical body, the astral body, and [31] the mental body. And you read in the last work of Mr. Myers of “three environments”—a phrase which is more scientific and technical, but covers the same idea—the physical, the etherial, and the metetherial, using the prefix “met” in the ordinary sense of “above” or “beyond”, and that metetherial environment is, Mr. Myers says, what is called in religion the spiritual world. So we find in the most modern thought the assertion of a triple world with which man is connected, although the third is ill-defined. | Trong việc học bộ máy ấy, câu hỏi đầu tiên nảy ra là: Con người, theo bộ máy tâm thức của mình, có liên hệ với nhiều thế giới hơn một hay không? Và khá thú vị rằng một số tư tưởng sớm nhất ở đây lại nắm tay với điều tối tân nhất—các Hiền triết cổ Ấn Độ đứng chung hàng với Ông F. W. Myers. Họ không dùng cùng từ, nhưng họ khẳng định cùng điều. Điều đó là chuyện thường ngày trong mọi giáo huấn Ấn Độ cổ: con người không thuộc về một thế giới mà là ba. Mỗi trong ba thế giới này, người ta nói, phải được học, và con người, theo bộ máy tâm thức của mình, liên hệ với từng thế giới một. Quả thật có những thế giới cao hơn nữa, nhưng những thế giới ấy chỉ thực sự liên hệ với con người khi y đã thành siêu nhân. Trong tiến hóa nhân loại bình thường, người ta nói rằng mọi người đều tiếp xúc với ba thế giới. Cũng như vậy, bạn thấy điều gì đó cùng ý chạy xuyên qua giáo huấn Kitô giáo. Ta đọc về một thế giới hồng trần nơi con người đang sống, về một thế giới thiên đường nơi y đang hướng tới, và về một thế giới trung gian được người Công giáo Rôma gọi là Luyện ngục, bởi vài người khác gọi là Thiên đàng tạm. Trong văn học Thông Thiên Học bạn đọc về ba cõi mà con người liên tục liên hệ: cõi hồng trần, cõi cảm dục, và cõi trí, tương ứng với thể xác, thể cảm dục, và [31] thể trí. Và bạn đọc trong tác phẩm sau cùng của Ông Myers về “ba môi trường”—một cụm từ có phần khoa học và kỹ thuật hơn, nhưng bao hàm cùng một ý—hồng trần, dĩ thái, và siêu dĩ thái, dùng tiếp đầu ngữ “met” theo nghĩa thông thường là “bên trên” hay “bên kia”, và môi trường siêu dĩ thái ấy, Ông Myers nói, là điều mà trong tôn giáo được gọi là thế giới tinh thần. Vậy, trong tư tưởng tối tân nhất, ta thấy sự khẳng định về một thế giới bộ ba mà với nó con người liên hệ, dẫu thế giới thứ ba còn được định nghĩa mơ hồ. |
There now comes in a question which seems to me to belong only to the modern world. The ordinary Christian who talks to you today will tell you that you go out of this world into the higher worlds by death, not that you are in them now, but that you will pass into them at death; so that death is made the process of passing from one world into another. That view is almost, if not quite, peculiar to modern Christendom. No such thought is found in the older religions. In those religions you find that man is said to be living in the three worlds now, and in the latest view of Mr. Myers, you find that he is living in the three worlds now, and the New Psychology demands that, in order to give a rational explanation of the problems which confront it. And I venture to suggest that if you would take the idea that man is always living in the three worlds now, into Christian teaching, that idea would throw a flood of light upon some of Christ’s teachings which otherwise remain obscure. You remember how, when speaking of the kingdom of heaven, he presses the fact that it does [32] not come by observation, that it is not here nor there, and cannot be found by change of place; “the kingdom of heaven is within you” is His mystic phrase, pointing to a profound and spiritual truth. And so again you will find the phrase that “in Heaven the angels of the little ones do always behold the face of the Father”. And yet we are taught that the angels of the little ones are always guarding their charges upon earth, the truth being that the three worlds are not separate in space, but interpenetrate each other, so that all have a great area in space in common, and our being in the one world or in the other depends upon the fact that we are clothed upon with three kinds of mechanism, three bodies, three envelopes, each of which puts us in contact with one of the three worlds, and any one of them or all of them may be in use. It is not that at death we find another body; it is only that the physical body is struck away, and we are left in the other two bodies in which we are living, thinking, and feeling now. Death is simply the striking away of the physical envelope, and the only difference it makes to the man is that he cannot, after death, come directly into touch with the physical world, having lost his medium of communication, the physical body. Now if that thought spread among us it would sweep away for one thing very much of the fear of death, for we should not feel ourselves going into a new and strange world, but only find ourselves becoming fully conscious of a world of which we have sometimes been dimly conscious here. Moreover, it would give to religious teaching a far profounder meaning and a far deeper [33] reality. For in truth, whenever remorse burns in the human consciousness, the man is feeling the fires of purgatory, which do not wait for their purifying action until after the physical body is dropped; and whenever, amid the turmoil and trial of the world, you find a sense of peace, of joy, of serenity, it is because the blessed breezes of heaven are breathing upon your fevered brow, and telling you that heaven is around you, and that only the density of your material envelope shuts you out from your birthplace, from your real home. That is the view of our world with which I start in dealing with the mechanism of consciousness. I shall try to find three media of communication, each belonging to its own world, and each of them active in us now, and serving to some extent as a mechanism of consciousness; two of them are extremely imperfect at the present time, but would readily become more useful to consciousness if only the reality of their existence were recognised, and we were in the habit of trying to use them, and so enabling them to function. For it is the law of developing life that by the effort of the life to function, the organ of that function is gradually builded. You do not induce a child to walk by an elaborate explanation of the muscles of the leg, and of the principle of equilibrium of moving bodies. On the contrary, all you do is to hold out a toy and say: “Try to come and fetch it; you can come if you try.” And the child tries. He knows nothing about his muscles, but he makes the effort to move, and the life gradually takes control of its mechanism and the child walks, because the life [34] demands movement and nature has supplied the mechanism. Now it is the same with the mechanism of consciousness, of which you know so little because you do not use it. Try to use it, and it will gradually come under your control and serve you as the baby’s body quickly serves the demands of the expanding life; the effort of the life to know will make the mechanism of consciousness ready to be used by the mind. | Giờ đây nảy sinh một vấn đề, theo tôi, dường như chỉ thuộc về thế giới hiện đại. Người Kitô hữu bình thường hôm nay nói chuyện với bạn sẽ bảo rằng bạn rời khỏi thế giới này để đi vào các cõi cao hơn bằng cái chết, rằng bạn không ở trong các cõi ấy ngay bây giờ, mà bạn sẽ đi vào đó lúc chết; bởi thế, cái chết được coi như tiến trình đi từ một thế giới sang một thế giới khác. Quan niệm ấy hầu như, nếu không nói là hoàn toàn, là nét riêng của Kitô giáo hiện đại. Không tìm thấy ý tưởng như vậy trong các tôn giáo cổ hơn. Trong những tôn giáo ấy, người ta nói rằng con người đang sống trong ba cõi giới ngay bây giờ, và trong quan điểm gần đây nhất của Ông Myers, bạn cũng thấy Ông nói rằng con người đang sống trong ba cõi ngay bây giờ, và Tân Tâm Lý học cũng đòi hỏi điều đó để có thể đưa ra một giải thích hợp lý cho những vấn đề nó phải đối mặt. Và tôi mạn phép đề nghị rằng nếu bạn đem ý tưởng “con người luôn sống trong ba cõi ngay bây giờ” vào giáo huấn Kitô giáo, thì ý tưởng đó sẽ soi rọi một luồng ánh sáng dồi dào lên vài lời dạy của Đức Christ vốn vẫn còn tối nghĩa nếu không có nó. Bạn hẳn còn nhớ, khi nói về Thiên quốc, Ngài nhấn mạnh sự thật rằng nó [32] không đến bằng sự quan sát, rằng nó không ở đây hay ở kia, và không thể tìm ra bằng sự đổi chỗ; “Thiên quốc ở trong các ngươi” là cụm từ huyền nhiệm của Ngài, chỉ về một chân lý thâm sâu và tinh thần. Và rồi bạn lại thấy câu: “trên Trời các thiên thần của những người nhỏ bé luôn chiêm ngưỡng Tôn Nhan của Đức Cha”. Thế mà chúng ta lại được dạy rằng các thiên thần của những người nhỏ bé ấy vẫn luôn canh giữ kẻ được giao phó nơi trần thế; sự thật là ba cõi không tách biệt nhau trong không gian, mà xuyên thấu lẫn nhau, đến nỗi tất cả cùng có một vùng không gian chung rất rộng; và việc chúng ta ở trong cõi này hay cõi khác tùy thuộc vào việc chúng ta được bao bọc bằng ba loại bộ máy, ba thể, ba vỏ bọc, mỗi cái đặt chúng ta tiếp xúc với một trong ba cõi ấy, và một cái trong số đó hoặc tất cả đều có thể đang được sử dụng. Không phải là đến lúc chết chúng ta mới tìm thấy một thể khác; chỉ là thể xác bị gạt bỏ, và chúng ta còn lại trong hai thể kia, trong đó chúng ta đang sống, đang nghĩ, và đang cảm ngay bây giờ. Cái chết đơn giản là sự gạt bỏ vỏ bọc thể xác, và khác biệt duy nhất nó tạo ra cho con người là: sau chết, y không thể trực tiếp chạm vào cõi hồng trần, vì y đã mất trung gian truyền thông là thể xác. Nay, nếu tư tưởng ấy lan rộng giữa chúng ta, một điều nó sẽ quét sạch là phần lớn nỗi sợ chết, vì chúng ta sẽ không cảm thấy mình sắp đi vào một thế giới mới lạ, mà chỉ thấy mình trở nên hoàn toàn tỉnh thức trong một thế giới mà đôi khi ở đây ta mơ hồ cảm biết. Hơn nữa, điều ấy sẽ đem lại cho giáo huấn tôn giáo một ý nghĩa thâm sâu hơn nhiều và một thực tại [33] sâu dày hơn. Bởi lẽ, thật vậy, bất cứ khi nào nỗi ăn năn nung đốt trong tâm thức con người, thì người ấy đang cảm những lửa thanh luyện của luyện ngục, vốn không chờ đến sau khi bỏ thể xác mới khởi sự tác dụng thanh lọc; và bất cứ khi nào, giữa cơn xáo trộn và thử thách của đời, bạn tìm được một cảm thức bình an, hoan lạc, tĩnh tại, ấy là bởi những cơn gió phúc lành của thiên giới đang thổi trên vầng trán bừng sốt của bạn, nói với bạn rằng thiên giới ở quanh bạn, và rằng chỉ có độ đậm đặc của vỏ bọc vật chất đang khép bạn ra khỏi nơi sinh quán, khỏi ngôi nhà đích thực của bạn. Đó là cái nhìn về thế giới của chúng ta mà từ đó tôi khởi đi để đề cập đến bộ máy của tâm thức. Tôi sẽ cố tìm ba môi giới truyền thông, mỗi cái thuộc về cõi riêng của mình, và mỗi cái đang hoạt động trong chúng ta ngay bây giờ, và ở một mức độ nào đó làm bộ máy cho tâm thức; hai trong số ấy vào thời điểm hiện nay còn cực kỳ bất toàn, nhưng sẽ sẵn sàng trở nên hữu ích hơn cho tâm thức nếu chỉ cần thực tại của sự tồn tại của chúng được nhìn nhận, và chúng ta tập sử dụng chúng, nhờ thế làm cho chúng có thể vận hành. Vì đó là định luật của sự sống đang phát triển: bằng nỗ lực của sự sống để vận hành, cơ quan của chức năng ấy dần dần được kiến tạo. Bạn không dạy một đứa trẻ biết đi bằng một lời giải thích tỉ mỉ về các bắp cơ ở chân, và về nguyên lý thăng bằng của những vật thể chuyển động. Trái lại, tất cả những gì bạn làm là đưa ra một món đồ chơi và nói: “Hãy cố mà đến lấy; con có thể đến nếu con cố.” Và đứa trẻ cố. Nó chẳng biết gì về các bắp cơ của nó, nhưng nó gắng sức chuyển động, và sự sống dần dần nắm quyền điều khiển bộ máy của nó, và đứa trẻ biết đi, bởi vì sự sống [34] đòi hỏi chuyển động và tự nhiên đã cấp sẵn bộ máy. Nay cũng vậy với bộ máy của tâm thức, cái mà bạn biết quá ít vì bạn không dùng nó. Hãy cố dùng nó, và nó sẽ dần dần vào dưới quyền điều khiển của bạn và phục vụ bạn như thân thể đứa bé nhanh chóng phục tòng đòi hỏi của sự sống đang nở rộng; nỗ lực của sự sống muốn biết sẽ làm cho bộ máy của tâm thức sẵn sàng được thể trí sử dụng. |
Now what is the mechanism? I am going to take it coming down, not going up; because coming down is our natural course. We do not begin here and climb up. We are born above and we come down—an important fact. Earth is not our home, but only a foreign country into which we come from time to time for certain purposes of the Spirit. We live in our native land for the greater part of our existence, and the mere fact that we happen to be together in this foreign country just now by no means makes it the most important, or the one in which our true life is rooted. So I will begin above, and trace the man coming down to re-birth. | Vậy bộ máy đó là gì? Tôi sẽ nêu nó trong chiều đi xuống, chứ không đi lên; vì đi xuống là chiều tự nhiên của chúng ta. Chúng ta không bắt đầu ở đây rồi trèo lên. Chúng ta sinh ra ở bên trên và đi xuống—một sự kiện quan trọng. Trái Đất không phải nhà của chúng ta, mà chỉ là một xứ sở ngoại quốc, nơi chúng ta đến, theo thời, vì những mục đích nào đó của Tinh thần. Chúng ta sống trong quê nhà bản nguyên lớn phần tồn tại của mình, và chỉ vì tình cờ hiện cùng ở trong xứ sở ngoại quốc này vào lúc này tuyệt nhiên không khiến nó trở thành quan trọng nhất, hay là nơi gốc rễ sinh mệnh đích thực của chúng ta cắm vào. Vậy tôi sẽ bắt đầu ở bên trên, và lần theo con người đi xuống đến tái sinh. |
Now when he is starting on his downward journey to take again a physical body, he is a living Spirit, not wearing any of that mechanism of consciousness with which we are mostly concerned, but clothed in what is technically called the “Causal Body”, the body of causes, that name being given because in that body every experience is stored up; because there resides the memory of the Spirit, there resides everything which, during his experiences in the lower planes, he has gradually accumulated. In that spiritual body resides the [35] spiritual memory, and that includes the whole of his almost illimitable past, a past that only finds its beginning in the eternal Being of God Himself. Starting, then, as a Spirit, man clothes himself in mental matter, the matter whereby he shall think during his life in the lower worlds. He clothes himself with the matter of the heavenly or mental plane. Now how is that matter selected? By a fragment of that mental matter which has been in connection with the human Spirit through the whole of his long journeyings, “the permanent particle” we call it in our theosophical nomenclature. And those who have studied what has been said of the “permanent atom” will know the immense part it plays in the evolution of the bodies, in the mechanism of consciousness, and will see how that teaching endorses the scientific teaching of Weissmann, and gives us a true continuity of matter side by side with a continuity of enduring life, of Spirit. I have not time now to give an elaborate explanation of the permanent atom [*]; I must ask you to take it simply in this sense: that it is a material particle, like the biophor of Weissmann, which, having passed through the experiences of life on the mental, astral and physical planes, has gained the power of vibrating so that it can reproduce any of its past experiences, and according to the more complex powers of its vibration will be the complexity of the matter which it gathers round it by attraction for the building of the new mechanism of consciousness. | Khi y khởi cuộc hành trình đi xuống để lại thọ một thể xác, y là một Tinh thần đang sống, chưa khoác bất kỳ bộ máy tâm thức nào vốn là điều chúng ta thường bận tâm, mà được bao bọc trong cái về mặt chuyên môn gọi là “thể nguyên nhân”, thể của các nguyên nhân, tên ấy được đặt vì trong thể đó mọi kinh nghiệm đều được lưu trữ; bởi vì ở đó trú ngụ ký ức của Tinh thần, ở đó chứa đựng mọi điều mà, trong suốt những trải nghiệm ở các cõi thấp, y đã dần dần tích lũy. Trong thể tinh thần ấy trú ngụ [35] ký ức tinh thần, và điều đó bao gồm toàn bộ quá khứ hầu như vô biên của y, một quá khứ chỉ tìm thấy khởi điểm nơi Hữu Thể vĩnh cửu là chính Thượng đế. Khởi đi, như thế, với tư cách một Tinh thần, con người khoác lên mình chất liệu trí tuệ, chất liệu nhờ đó y sẽ tư duy trong đời sống tại các cõi thấp. Y tự khoác chất liệu của cõi thiên hay cõi trí. Thế chất liệu ấy được tuyển chọn như thế nào? Bởi một mảnh của chất liệu trí tuệ vốn đã liên kết với Tinh thần nhân loại suốt trọn những hành trình lâu dài của y, “hạt trường tồn” chúng tôi gọi như thế trong thuật ngữ Thông Thiên Học. Và những ai đã nghiên cứu điều đã được nói về “Nguyên tử trường tồn” sẽ biết phần việc to tát mà nó đảm trách trong sự tiến hóa của các thể, trong bộ máy của tâm thức, và sẽ thấy giáo huấn ấy xác chứng giáo thuyết khoa học của Weissmann, và trao cho chúng ta một tính liên tục đích thực của chất liệu song hành với tính liên tục của sự sống bền bỉ, của Tinh thần. Hiện giờ tôi không có thời gian để đưa ra một giải thích tỉ mỉ về nguyên tử trường tồn [*]; tôi phải xin bạn tạm chấp nhận theo nghĩa đơn giản này: rằng đó là một hạt vật chất, giống như đơn vị sự sống mà Weissmann nêu ra, vốn đã trải qua những kinh nghiệm sống ở các cõi trí, cảm dục và hồng trần, đã đạt năng lực rung động đến mức có thể tái hiện bất cứ kinh nghiệm nào trong quá khứ của nó; và tùy theo năng lực phức hợp của các rung động của nó mà chất liệu nó thu hút quanh mình bằng lực hấp dẫn sẽ có mức độ phức tạp tương ứng, để kiến tạo bộ máy tâm thức mới. |
Now those permanent particles are composed of [36] three units, a mental, an astral and a physical which after death are stored up in the causal body; at re-birth these are put out one after another. The first of them, the mental, vibrating with all its past experiences behind it, draws to itself matter congruous to its own expressions, so that the mental sheath may be suited, in the complexity of its material particles, for the evolved Spirit that is clothing itself with these bodies. The main idea is that the matter of which the mechanism of consciousness is formed should be congruous with the stage of advance of the consciousness itself, so that the envelope should suit the agent who is to use it; and the material of the very undeveloped man would not be identical in the complexity of its particles with that which is used by the more highly evolved. Identical chemically, yes, but in the complexity of its particles, no—an important point when you come to deal with the sensitiveness of the matter and its power of vibrating in answer to thy subtler vibrations that come to it. | Nay những hạt trường tồn ấy được cấu thành bởi [36] ba đơn vị: một trí, một cảm dục và một hồng trần, sau khi chết được cất giữ trong thể nguyên nhân; lúc tái sinh, chúng lần lượt được đưa ra. Đầu tiên là hạt trí, rung động với toàn bộ kinh nghiệm quá khứ ở phía sau nó, lôi kéo về phía mình chất liệu tương ứng với những biểu lộ riêng của nó, để cái vỏ trí có thể thích hợp, trong độ phức tạp của các hạt vật chất của nó, với Tinh thần đã tiến hóa đang tự khoác những thể này. Ý niệm chủ chốt là: chất liệu cấu thành bộ máy của tâm thức phải tương ứng với trình độ tiến bộ của chính tâm thức, để cái vỏ phù hợp với chủ thể sẽ sử dụng nó; và chất liệu của người còn rất kém phát triển sẽ không đồng nhất về độ phức tạp của các hạt với chất liệu được dùng bởi người đã tiến hóa cao hơn. Đồng nhất về mặt hóa học, vâng, nhưng không đồng nhất về độ phức tạp của các hạt—một điểm quan trọng khi bạn bắt tay [vào] đề cập đến tính nhạy cảm của chất liệu và năng lực của nó rung động đáp ứng trước những rung động vi tế hơn đến với nó. |
Now this first envelope, the mental, is the first that the Ego draws round himself as he descends for re-birth. By “descends” I do not mean movement in space, no such movement is necessary; he draws matter towards himself. To realise this, think for a moment of the difference of receptive power in the eye and in the ear. The power of vibrating which exists in the delicate mechanism of the eye which responds to light enables you to see, while the arrangement of the ear, responding to other vibrations, enables you to hear. The eye opens to you the whole world of sight; without it that world would [37] not exist to you. The ear opens up another world; without it the world of sound would be closed to you. Now that difference of mechanism shows exactly what I mean by the difference between these three envelopes. They are not separate, they are intermingled, but each of them answers to a certain range of vibrations; and just as if you had not the delicate mechanism of the eye you would be shut out from the world of vision, although you might hear perfectly well, so, if the mental envelope is not vibrating fully the man is shut out from the great mental world which is the heavenly world; and also, if the astral body does not vibrate fully in answer to the contacts from the astral world, he is shut out from that, like the deaf man from the world of sounds. It is a question of answering by vibration, not a question of space. If you will only hold steadily to that idea, you will be able to understand that, when death strikes away a beloved one, you are not separated by difference of space, but by the limitations of receptive power; we cannot vibrate in the mechanism of our consciousness to the matter of the worlds in which the departed one is dwelling at the time. | Cái vỏ đầu tiên này, tức vỏ trí, là cái đầu tiên mà Chân ngã khoác quanh mình khi y đi xuống để tái sinh. Bởi “đi xuống” tôi không hề muốn nói chuyển động trong không gian, không cần chuyển động như thế; y kéo chất liệu về phía mình. Để nhận ra điều này, hãy nghĩ trong chốc lát về sự khác nhau trong năng lực tiếp nhận của mắt và tai. Năng lực rung động tồn tại trong cơ chế tinh vi của mắt đáp ứng với ánh sáng giúp bạn thấy, còn cấu trúc của tai, đáp ứng với những rung động khác, giúp bạn nghe. Mắt mở ra cho bạn toàn bộ thế giới của thị giác; nếu không có nó, thế giới ấy sẽ [37] không tồn tại đối với bạn. Tai mở ra một thế giới khác; nếu thiếu tai, thế giới âm thanh sẽ đóng lại với bạn. Sự khác nhau của cơ chế ấy phơi bày đúng điều tôi muốn nói về sự khác nhau giữa ba cái vỏ này. Chúng không tách biệt, chúng hòa xen, nhưng mỗi cái đáp ứng với một dải rung động nhất định; và cũng như nếu bạn không có cơ chế tinh vi của mắt thì bạn sẽ bị khép ngoài thế giới thị kiến, dù bạn có thể nghe rất tốt, thì cũng vậy, nếu vỏ trí không rung động đầy đủ, con người bị khép ngoài đại giới trí tuệ vốn là cõi thiên; và tương tự, nếu thể cảm dục không rung động đầy đủ để đáp ứng các tiếp xúc từ cõi cảm dục, y bị khép ngoài nó, như người điếc đối với thế giới âm thanh. Ấy là vấn đề đáp ứng bằng rung động, chứ không phải vấn đề không gian. Nếu bạn chỉ giữ vững ý tưởng ấy, bạn sẽ hiểu rằng khi cái chết gạt bỏ một người thân yêu, bạn không bị ngăn cách bởi khác biệt về không gian, mà bởi những giới hạn của năng lực tiếp nhận; chúng ta không thể rung động trong bộ máy tâm thức của mình tương ứng với chất liệu của những cõi giới mà người đã khuất hiện đang cư ngụ. |
As the man goes down and clothes himself with this mental body, the germs of faculties, worked up from the past life’s experiences into powers of the mind, appear in the mental body—not the faculties fully developed, as some suppose, but the germs ready to develop and quick to unfold, so that under the vibrations of thought these faculties will rapidly unfold and show themselves. He begins the next stage of his [38] evolution, the astral. He puts out the permanent astral particle. That, by its vibrations, draws to him congruous astral matter, and builds his astral mechanism. Germs are there also to be found—germs of feeling, of emotion, of all the faculties that belong to that side of his nature, the mechanism of consciousness for desire, for emotion, for sensation. Then comes the building of the physical body. Here another element comes in the physical parents. The Ego builds for himself, with such aid as may be given to him by the inhabitants of those planes, his mental and astral mechanism, but when he comes down into the physical world, the father and mother there contribute to the building of the physical body. Here comes in the working of the Lords of Karma, guiding the incoming Ego to the family able to provide the physical material suitable for his stage of evolution. And here is a point of immense importance. Into that physical body will be built, by the laws of physical heredity, the physical past that lies behind: all kinds of dim and vague memories imprinted on the matter itself, far-off remnants worked into the physical body of savage experiences in semi-civilised lives, dream-like memories of that long past wrought into the very substances of the physical mechanism, dim, strange gropings and intuitions that belong to the long line of physical ancestry brought into touch with the new body, where-into they are worked from the fabrics of the bodies of the past, by that law of physical continuity contributing their quota to the mechanism of the physical consciousness. [39] So that you have working on the nervous system in man innumerable influences from the physical past, which will have much to say as to the conditioning of his consciousness, and contribute many an unintelligible fragment to the whole of the physical consciousness as it appears [†]. | Khi con người đi xuống và khoác lên mình thể trí này, những mầm mống năng lực—được chuyển hóa từ kinh nghiệm đời trước thành những quyền năng của trí—xuất hiện trong thể trí—không phải là các năng lực đã phát triển trọn vẹn, như một số người tưởng, mà là những mầm sẵn sàng phát triển và mau hé nở, để dưới những rung động của tư tưởng, các năng lực ấy sẽ nhanh chóng khai mở và lộ diện. Y bắt đầu giai đoạn kế tiếp của [38] tiến hóa, tức cõi cảm dục. Y đưa ra hạt trường tồn cảm dục. Hạt ấy, bằng các rung động của nó, kéo về phía y chất liệu cảm dục tương ứng, và xây dựng bộ máy cảm dục của y. Ở đó cũng tìm thấy các mầm—mầm của cảm thức, tình cảm, mọi năng lực thuộc về mặt ấy của bản tính y, bộ máy tâm thức cho dục vọng, cảm xúc, cảm giác. Rồi đến kiến tạo thể xác. Ở đây một yếu tố khác tham dự—cha mẹ thể xác. Chân ngã tự kiến tạo, với sự hỗ trợ có thể được từ cư dân của các cõi ấy, bộ máy trí và cảm dục của y; nhưng khi y đi xuống cõi hồng trần, người cha và người mẹ ở đó góp phần kiến tạo thể xác. Đây là nơi các Vị Chủ Quản Nghiệp Quả can dự, dẫn dắt Chân ngã nhập thế đến một gia đình có khả năng cung cấp chất liệu thể xác phù hợp với trình độ tiến hóa của y. Và đây là một điểm vô cùng quan trọng. Vào thể xác ấy sẽ được xây dựng, bởi các định luật di truyền thể xác, quá khứ thể xác nằm ở phía sau—mọi loại ký ức mờ nhạt in hằn lên chính chất liệu, những tàn dư xa xưa được đan dệt vào thể xác từ các trải nghiệm man dã trong những kiếp bán văn minh, những ký ức như mộng của quá khứ xa xăm được kết thành ngay trong các chất của bộ máy hồng trần, những mò mẫm mơ hồ, những trực giác lạ lùng thuộc về chuỗi dài tổ tiên thể xác, được đưa vào tiếp xúc với thân mới, nơi chúng được đan dệt vào từ chất liệu các thể của quá khứ, theo định luật liên tục thể xác, góp phần phần của chúng vào bộ máy của tâm thức hồng trần. [39] Như thế, bạn thấy tác động trên hệ thần kinh của con người là vô số ảnh hưởng đến từ quá khứ thể xác, vốn sẽ góp phần quan trọng vào những điều kiện hóa tâm thức của y, và đóng góp không ít mảnh vỡ khó hiểu vào toàn bộ tâm thức hồng trần như nó biểu lộ [†]. |
Then, in addition to that, you have working; on the nervous system, the subtle influences of the Ego himself, influences coming down from him through the mental and astral bodies already partially formed, contributing to the building of the nervous system in both its great divisions, the sympathetic and the cerebro-spinal. The sympathetic system is mostly connected with the astral body. There are lines of communication with the astral body, many, and subtle, and potent, and during the building of that sympathetic system currents of force have been poured down, helping and guiding to a large extent the building, so that the Ego, with his already developed emotional faculties, has much to do with the building of that system with which the emotions are so closely connected. The cerebro-spinal system comes more and more under the influence of the Ego as he advances in intellectual power, in power of the higher emotions; for as the ages go on and the intellect is developed, more of his direct influence pours on to the cerebro-spinal, and less directly on to the sympathetic system. The sympathetic is influenced more by his previous influences on the astral body, while the cerebrospinal system is more influenced by his direct working [40] at the time. Thus are these systems builded up for his purposes in his physical life. And after birth the same influences persist. Similarly, as he broods over and interpenetrates his physical vehicle, he works continually on these two great systems that are his peculiar mechanism of consciousness in the physical world. During the course of his long evolution he at one time had only the sympathetic system to work with; no other could he find in order to impress himself on his physical vehicle. Gradually, as he advanced, that fell more and more into the background, and the cerebro-spinal developed. Now comes a significant fact as the Ego more and more manifested himself through the cerebro-spinal system (the brain and the nervous systems connected with it), he gradually passed over to the sympathetic system the parts of his workings definitely established in consciousness, towards which he no longer needed to turn his attention in order to keep them in working order. Slowly the Ego handed on to the sympathetic nervous system the vital mechanism of the body. He passed on to it the management of a large part of the body with which he no longer needed to concern himself. He gave over to the sympathetic system the management of the heart, the lungs, the whole of the digestive apparatus, and other functions which no longer needed for their carrying out his immediate attention. You no longer control the ordinary beating of the heart. Why? Because the Ego has banded that over to the sympathetic system. You can regain that control if you like. The Ego can [41] easily call back, by turning his attention to it, his own direct control over the sympathetic system, and regulate the movement of the heart, lungs, etc. But the taking into consciousness that which consciousness has outgrown is taking a step backward in evolution. So that when you read of people able to control the beating of the heart, you need not think it so very wonderful. None the less this connexion is a very interesting one. | Rồi, ngoài ra, bạn còn thấy tác động trên hệ thần kinh là những ảnh hưởng vi tế của chính Chân ngã, các ảnh hưởng đi xuống từ y xuyên qua các thể trí và cảm dục vốn đã được hình thành một phần, góp phần vào kiến tạo hệ thần kinh ở cả hai phân hệ lớn, giao cảm và não-tủy. Hệ giao cảm chủ yếu liên hệ với thể cảm dục. Có nhiều đường dây truyền thông với thể cảm dục—nhiều, vi tế, và hùng mạnh—và trong khi kiến tạo hệ giao cảm ấy, các dòng lực đã được tuôn đổ xuống, giúp đỡ và dẫn dắt việc kiến tạo ở mức độ lớn, sao cho Chân ngã, với các năng lực cảm xúc đã phát triển, có rất nhiều điều phải làm với việc kiến tạo hệ thần kinh mà các cảm xúc gắn bó mật thiết ấy. Hệ não-tủy mỗi lúc một nằm nhiều hơn dưới ảnh hưởng của Chân ngã khi y tiến bộ về năng lực trí tuệ, về năng lực của các cảm xúc cao hơn; vì khi các thời đại trôi qua và trí năng được phát triển, nhiều ảnh hưởng trực tiếp của y đổ xuống hệ não-tủy hơn, và ít trực tiếp lên hệ giao cảm hơn. Hệ giao cảm được ảnh hưởng nhiều hơn bởi các tác động trước đó của y lên thể cảm dục, trong khi hệ não-tủy chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi sự vận hành trực tiếp của y [40] trong thời điểm ấy. Thế là các hệ thống này được xây dựng vì mục đích của y trong đời sống hồng trần. Và sau khi sinh ra, những ảnh hưởng ấy vẫn tiếp diễn. Tương tự, khi y ấp ủ và thâm nhập vận cụ hồng trần của mình, y liên tục tác động trên hai hệ thống lớn ấy, là bộ máy tâm thức đặc hữu của y trong cõi hồng trần. Trong dòng dài tiến hóa của mình, có một thời y chỉ có hệ giao cảm để làm việc; y không có hệ nào khác để in ấn chính mình lên vận cụ hồng trần. Dần dần, khi y tiến, cái ấy lùi vào hậu cảnh nhiều hơn, và hệ não-tủy được phát triển. Nay đến một sự kiện có ý nghĩa: khi Chân ngã càng ngày càng tự biểu hiện qua hệ não-tủy (bộ não và các hệ thần kinh liên hệ với nó), y dần dần chuyển giao cho hệ giao cảm những phần vận hành của y đã được thiết lập rõ ràng trong tâm thức, những phần mà y không còn cần hướng chú ý đến nữa để giữ cho chúng hoạt động thông suốt. Từ từ, Chân ngã đã trao tay hệ thần kinh giao cảm cơ chế sinh tồn của thân thể. Y giao cho nó quản trị một phần lớn thân thể mà y không còn cần bận tâm nữa. Y giao cho hệ giao cảm việc điều hành trái tim, lá phổi, toàn bộ bộ máy tiêu hóa, và các chức năng khác không còn cần đến sự chăm chú trực tiếp của y để được thực thi. Bạn không còn điều khiển nhịp đập thường lệ của trái tim. Tại sao? Bởi Chân ngã đã chuyển giao việc ấy cho hệ giao cảm. Bạn có thể giành lại sự điều khiển ấy nếu muốn. Chân ngã có thể [41] dễ dàng gọi lại, bằng cách hướng chú ý vào đó, quyền kiểm soát trực tiếp của chính y lên hệ giao cảm, và điều hòa vận động của tim, phổi, v.v. Nhưng việc kéo cái mà tâm thức đã vượt qua trở lại vào tâm thức là một bước lùi trên đường tiến hóa. Cho nên khi bạn đọc về những người có thể điều khiển nhịp đập của tim, bạn không cần cho đó là điều quá đỗi kỳ diệu. Dẫu vậy, mối liên hệ này rất đáng quan tâm. |
Let us now for a moment look at our fixed idea. What is a fixed idea? When it is a fixed idea that is madness, it is an idea handed over by the Ego to the sympathetic nervous system for the carrying on of some part of the physical mechanism; or, a past mood or idea which he has outgrown; or, a “forgotten” fact, suddenly asserting itself, unaccompanied by its proper surroundings; or, the connexion of two incongruous ideas; and so on. The most interesting type is the second, the resurgence of a past mood or idea. It has left its trace on the sympathetic system; and has become what is now called “sub-conscious”. Now, there are countless ideas of that sort with which the Ego has had to do in his past, and which he has not entirely thrown out of the mechanism of his consciousness; they have lingered in that mechanism although he has gone beyond them. They still have parts of that mechanism that vibrate in answer to them, and so long as any part of that mechanism responds, so long that idea may emerge over the horizon of consciousness. And when it comes up, as it does, without reason, without rationality, with the rush and surge [42] and passionate strength of the past, it overbears the subtler mechanism that the Ego has evolved for his higher purposes. For you must remember that those early manifestations which we have outgrown are ideas stronger on the physical plane than those we call the ordinary mental ones, because their corresponding vibrations being coarser, slower, produce more result from the denser matter. It is far easier to affect the physical body by the surge of a barbaric emotion than by the subtle reasoning of a philosopher. All those manifestations of the lower nature are stronger than those of the higher on the physical plane, by virtue of the length of their past. The mechanism was formed under them and is accustomed to vibrate in answer to them, and that which is building is yet scarcely ready for the higher manifestations, and is often thrown off its balance when the rush comes from below. Take it, then, for the moment, that the fixed idea of the madman is generally an idea that has left its trace on the sympathetic system, and that, during some disturbance or weakening of the cerebro-spinal system, is able to assert itself in consciousness. It arises from below. | Giờ chúng ta hãy nhìn thoáng qua “ý tưởng cố định” của chúng ta. Ý tưởng cố định là gì? Khi nó là ý tưởng cố định dẫn đến điên loạn, thì ấy là một ý tưởng đã được Chân ngã giao cho hệ thần kinh giao cảm để duy trì một phần nào đó của bộ máy hồng trần; hoặc là một tâm điệu hay ý tưởng quá khứ mà y đã vượt qua; hoặc là một “sự kiện bị lãng quên”, bỗng tự khẳng định mình, nhưng không có bối cảnh thích đáng; hoặc là sự nối kết giữa hai ý tưởng bất tương xứng; v.v. Loại thú vị nhất là loại thứ hai, tức sự trỗi dậy của một tâm điệu hay ý tưởng quá khứ. Nó đã để lại dấu vết của nó trên hệ giao cảm, và đã trở nên cái ngày nay được gọi là “tiềm thức”. Hiện có vô số ý tưởng thuộc loại ấy mà Chân ngã đã từng dính líu trong quá khứ, và y chưa hoàn toàn loại chúng khỏi bộ máy tâm thức của y; chúng còn lưu lại trong bộ máy đó dẫu y đã tiến vượt qua chúng. Chúng vẫn còn những phần của bộ máy ấy có thể rung ứng với chúng, và bao lâu còn phần nào của bộ máy ấy đáp ứng, bấy lâu ý tưởng kia còn có thể ló lên trên đường chân trời của tâm thức. Và khi nó xuất hiện, như nó vốn thế, không lý do, không hợp lẽ, với sức ùa tràn [42] và cường lực say sưa của quá khứ, nó áp đảo cơ chế vi tế hơn mà Chân ngã đã phát triển vì các mục tiêu cao hơn của y. Vì bạn phải nhớ rằng những biểu lộ nguyên sơ ấy—mà chúng ta đã vượt qua—mạnh hơn trên cõi hồng trần so với những cái mà ta gọi là ý tưởng trí tuệ thông thường, bởi vì các rung động tương ứng của chúng thô hơn, chậm hơn, nên gây tác động lớn hơn từ chất liệu đậm đặc hơn. Ảnh hưởng lên thể xác bằng cơn trào dâng của một cảm xúc man dã sơ khai thì dễ hơn rất nhiều so với bằng những lý biện tinh tế của một triết gia. Tất cả những biểu lộ của bản tính thấp đều mạnh hơn những biểu lộ của bản tính cao trên cõi hồng trần, nhờ vào chiều dài của quá khứ của chúng. Bộ máy đã được hình thành dưới ảnh hưởng của chúng và quen rung ứng trước chúng, còn cái đang được kiến tạo thì mới vừa đủ cho những biểu lộ cao hơn, và thường bị quật ngã khỏi thăng bằng khi làn sóng từ phía dưới ập lên. Vậy, tạm chấp nhận rằng ý tưởng cố định của người điên phần nhiều là một ý tưởng đã để lại dấu vết trên hệ giao cảm, và trong khi có một sự xáo trộn hay suy yếu của hệ não-tủy, nó có thể tự khẳng định trong tâm thức. Nó trỗi dậy từ bên dưới. |
But the fixed idea of the saint or martyr is a very different thing. That comes down from the Ego himself, striving to impress upon the physical brain his own loftier emotion, his own wider knowledge. The Ego, who can see further on the higher planes than he can in the physical encasement, tries to impress upon that physical encasement his own will, his own desire for the higher and nobler. It comes with all-dominating [43] power; it cannot approve itself to the reason, for the brain is not yet ready to reason on those lines of higher knowledge and of deeper vision and intuition, but it comes down with the force of the Ego on a body prepared for it, and thus asserts itself as the dominant power, guiding the man to heroic action, to martyrdom, to saintship. You can easily understand the outer likeness of the imperious over-riding of the reason, but the difference is of origin; for these fixed ideas come from above, the former from below. | Nhưng ý tưởng cố định của vị thánh hay vị tử đạo là một điều rất khác. Điều ấy đi xuống từ chính Chân ngã, nỗ lực ấn khắc vào não bộ hồng trần cảm xúc cao cả hơn của y, tri thức rộng lớn hơn của y. Chân ngã, vốn thấy xa hơn trên các cõi cao so với trong lớp vỏ hồng trần, cố gắng ấn khắc vào lớp vỏ hồng trần ấy ý chí của chính y, khát vọng của chính y hướng đến điều cao thượng và quý nhã hơn. Nó đến với quyền lực [43] chế ngự tất cả; nó không thể tự chứng trước lý trí, vì bộ não chưa sẵn sàng để lý luận theo những đường lối của tri thức cao hơn và của thị kiến sâu hơn cùng trực giác, nhưng nó đi xuống với sức mạnh của Chân ngã trên một thân thể được chuẩn bị cho nó, và nhờ đó tự khẳng định như quyền lực thống soái, dẫn dắt con người đến hành động anh hùng, đến tử đạo, đến thánh thiện. Bạn có thể dễ dàng hiểu sự tương tự bề ngoài của sự cưỡng lấn lý trí, nhưng khác biệt là ở nguồn gốc; vì những ý tưởng cố định này đến từ bên trên, còn những cái trước đó đến từ bên dưới. |
One of the great difficulties of the New Psychology is that it lumps all abnormal happenings together in the “sub-conscious”, because it does not understand the mechanism of consciousness, and because it tries to explain impulses of the consciousness that belong to three worlds, as though the whole of them were not only conditioned by, but found their origin in, the physical mechanism belonging only to the one. So long as that limitation is upon it, so long its problems will remain unanswered. | Một trong những khó khăn lớn của Tân Tâm Lý học là nó gom tất cả những hiện tượng bất thường vào “tiềm thức”, bởi nó không hiểu bộ máy của tâm thức, và bởi nó cố gắng giải thích những xung lực của tâm thức vốn thuộc về ba cõi như thể toàn bộ chúng không chỉ bị điều kiện hóa bởi, mà còn khởi nguyên nơi, bộ máy hồng trần vốn chỉ thuộc về một cõi. Bao lâu sự hạn chế ấy còn trói buộc nó, bấy lâu các vấn đề của nó sẽ vẫn chưa lời giải. |
Take another problem: Madness and genius. Now you have in both the instability which is complained of. Let us take hysteria. In studying this, the brain-conditions of hysteria at first seem so much like the brain-conditions of genius that they are lumped together as one and the same thing. In both the brain is unstable. You need not shrink from that fact. But what is the instability of hysteria due to? It is due either to the violent surge upwards from the sympathetic system, or to the pressure upon an unprepared brain [44] of the higher and subtler forces to which that brain is not able to answer without throwing itself out of gear. And there is a very important truth in the statement of Lombroso and of others of his school, that very many of the saints were neuropaths. I repeat, there is no reason to shrink from the facts. It is true. But why? It does not follow that because he has thus been labelled, the neuropath is to be a branded creature, an outcast from humanity. It is true that very often the saint and visionary have overstrained their brains, unprepared for the beating upon them of those subtle waves from higher regions, and the physical mechanism has been strained and distorted and rendered unstable. Nay, even more is true: it is sometimes true that the instability is the condition of the inspiration, because the normal brain is not yet sufficiently developed, nor delicate enough, to answer to those subtle waves of consciousness. Maudsley hit upon a great truth when he suggested: “What right have we to believe Nature under any obligation to do her work by means of complete minds only? She may find an incomplete mind a more suitable instrument for a particular purpose”. [‡] And James remarked: “If there were such a thing as inspiration from a higher realm, it might well be that the neurotic temperament would furnish the chief condition of the requisite receptivity”. [§] And, if you consider for a moment, you will see why the normal brain is not the fit brain for a mechanism of consciousness [45]from the higher regions. The normal brain is fitted by evolution for the work of the world, for buying and selling, for scheming and planning, for lending and borrowing, for speculating and trafficking, and for all the other lines of work carried on in normal society. Suppose you send down upon that brain a number of vibrations from the higher planes, suppose, beating on that normal brain, there come great waves of consciousness from the astral and mental; can you wonder that the brain prepared for earthly life becomes unbalanced under the tension, or even breaks? | Hãy xét một vấn đề khác: Điên loạn và thiên tài. Cả hai đều có sự bất ổn định vốn bị phàn nàn. Lấy chứng cuồng loạn (hysteria). Khi nghiên cứu điều này, trước hết các trạng thái não bộ của chứng cuồng loạn có vẻ rất giống các trạng thái não bộ của thiên tài đến nỗi chúng bị trộn chung làm một. Trong cả hai trường hợp, não bộ đều bất ổn. Bạn không cần né tránh sự thật đó. Nhưng sự bất ổn của cuồng loạn do đâu? Nó do làn sóng dữ dội dâng lên từ hệ giao cảm, hoặc do sức ép của các lực cao và vi tế lên một bộ não chưa được chuẩn bị [44] để đáp ứng mà không tự đánh trật cơ cấu của mình. Và có một chân lý rất quan trọng trong lời khẳng định của Lombroso và những người thuộc trường phái ông, rằng rất nhiều vị thánh là những người mang bệnh lý thần kinh. Tôi xin nhắc lại, không có lý do gì để né tránh các sự kiện. Điều đó đúng. Nhưng tại sao? Không thể suy ra rằng chỉ vì bị đóng nhãn như vậy, người bệnh lý thần kinh trở thành một sinh linh mang dấu sắt nung, một kẻ bị ruồng bỏ khỏi nhân loại. Thực tế là rất thường khi vị thánh và nhà huyền thị đã quá căng não bộ của họ, chưa được chuẩn bị để đón nhận những đợt sóng vi tế từ các miền cao hơn dội xuống, và cơ chế hồng trần đã bị căng kéo, vặn vẹo và trở nên bất ổn. Thậm chí, còn đúng hơn nữa: đôi lúc sự bất ổn là điều kiện của cảm hứng, bởi bộ não bình thường chưa phát triển đủ, chưa tinh tế đủ, để đáp ứng với những làn sóng vi tế của tâm thức ấy. Maudsley đã chạm đến một chân lý lớn khi gợi ý: “Chúng ta có quyền gì mà tin rằng Tự nhiên có bổn phận phải làm công việc của Bà bằng những khối óc hoàn chỉnh mà thôi? Có khi Bà lại thấy một khối óc chưa hoàn chỉnh là khí cụ thích hợp hơn cho một mục đích đặc thù.” [‡] Và James nhận xét: “Nếu có một điều như là cảm hứng đến từ một cõi cao hơn, thì rất có thể khí chất bệnh lý thần kinh lại cung cấp điều kiện chủ chốt của tính cảm thụ cần thiết.” [§] Và, nếu bạn suy ngẫm một lát, bạn sẽ thấy vì sao bộ não bình thường không phải là bộ não thích hợp cho một bộ máy tâm thức [45] đến từ các miền cao hơn. Bộ não bình thường được tiến hóa trang bị để phục vụ công việc của đời, để mua và bán, để mưu tính và sắp đặt, để cho vay và đi vay, để đầu cơ và buôn bán, và cho tất cả những đường lối công việc được tiến hành trong xã hội bình thường. Giả sử bạn gieo xuống bộ não ấy một loạt những rung động từ các cõi cao, giả sử những làn sóng tâm thức lớn từ cõi cảm dục và cõi trí đập vào bộ não bình thường ấy; há bạn còn ngạc nhiên rằng bộ não vốn chuẩn bị cho đời sống trần gian trở nên mất thăng bằng dưới sức căng, hay thậm chí vỡ vụn? |
On the other hand, genius has an unstable brain because the life pressing upon it in order to improve the mechanism keeps it in a state of tension which is not suitable for the vibrations it meets in the ordinary work-a-day world. The life there is pressing upon its physical limitations, is trying to expand, and just as more life goes into the muscle by the exercises of the athlete, although he may overstrain himself, so does more life flow into the cells of the brain as the consciousness strives to expand them for the expression of the genius, and it may easily go a little too far and make that unstable structure break down under the strain. But the brain of the genius is the promise of the future; it is abnormal on the right side and not on the wrong. It is the very front of the crest of the wave of evolution. | Mặt khác, bộ não của thiên tài bất ổn vì sự sống đang dồn ép lên nó nhằm cải thiện bộ máy, giữ nó trong một trạng thái căng thẳng không thích hợp cho những rung động nó gặp trong công việc thế tục thường ngày. Ở đó, sự sống đang thúc vào những giới hạn vật chất, đang cố mở rộng, và cũng như nhiều sinh lực hơn đi vào bắp thịt nhờ các bài tập của lực sĩ, dù y có thể bị quá sức, thì nhiều sinh lực hơn cũng tuôn vào các tế bào của não khi tâm thức cố nới rộng chúng để biểu hiện thiên tài, và rất có thể nó đi hơi quá xa một chút khiến cấu trúc bất ổn ấy sụp đổ dưới sức căng. Nhưng bộ não của thiên tài là lời hứa của tương lai; nó là bất thường về phía đúng chứ không về phía sai. Nó ở ngay mũi lượn sóng của làn sóng tiến hóa. |
Now in India, where these things are studied, the science of Yoga is intended to prevent the dangers of hysteria in those who are coming into touch with the [46] higher planes. It is, therefore, a science that works along two lines: a discipline and a purification of the body, in order that the nerve cells may be able to vibrate in answer to the higher impacts without disturbance and without the causing of hysteria, and a training of the mind. Therefore, it is said that the food of a man who would receive these vibrations uninjured must be what is called satvic; that is, must have in it the dominance of rhythm, of harmony. For, as you know, the Hindus regard matter—as indeed science does—as having three essential characteristics, of which rhythm is one, and rhythmic food is laid down as essential for the Yogi? Also he must use his mind in meditation, for by the strain of meditation, of fixed thought, he gradually builds up a mechanism of the brain which is necessary for the reception of those higher waves of consciousness; and gradually, so that the physical vehicle may not break under the strain, the mechanism of consciousness is trained to work in answer to the three worlds, instead of only in answer to the one. Those are the principles that underlie the science of Yoga. | Nay, ở Ấn Độ, nơi những điều này được khảo cứu, khoa Du-già nhằm ngăn ngừa các hiểm họa của chứng cuồng loạn nơi những người đang đến gần tiếp xúc với [46] các cõi cao hơn. Do đó, ấy là một khoa học vận hành trên hai tuyến: một kỷ luật và một sự thanh lọc thân xác, để các tế bào thần kinh có thể rung động đáp ứng với các va đập cao hơn mà không rối loạn, không gây cuồng loạn; và một sự rèn luyện trí. Do vậy, người ta nói rằng thực phẩm của người mong muốn tiếp nhận các rung động này mà không tổn hại phải là loại có ưu thế của nhịp điệu, của hòa điệu. Vì, như bạn biết, người Ấn xem chất liệu—khoa học cũng vậy—là có ba đặc tính chủ yếu, trong đó có nhịp điệu, và thực phẩm có tính nhịp điệu được quy định như thiết yếu cho hành giả Du-già. Đồng thời, y phải vận dụng trí trong tham thiền, vì nhờ sức căng của tham thiền, của tư tưởng nhất tâm, y dần dần kiến tạo được một cơ chế của não cần thiết để tiếp nhận những làn sóng tâm thức cao hơn; và dần dần, để vận cụ hồng trần không vỡ dưới sức căng, bộ máy của tâm thức được rèn luyện để vận hành đáp ứng với cả ba cõi, thay vì chỉ đáp ứng với một. Đó là những nguyên lý nằm dưới khoa học Du-già. |
We find, as we look at it in this way, that we are face to face with wondrous possibilities as regards our mechanism. We find it may be possible for us to make this mechanism more and more receptive to the waves that come to us from above, and gradually we shall begin to understand. All those vague premonitions, intuitions, dreams, come to us because our astral and mental bodies are being affected in their own worlds, [47] are responding to that etherial and metetherial environment of which Mr. Myer speaks. The whole of these are to be referred to those worlds, and consciousness is answering to them, and these answers affect the physical mechanism of consciousness, coming through in this vague indeterminate fashion. They could not reach us at all unless the mechanism for their reception were already in our possession, unless we were in touch with a higher world than the physical; so that, however unsatisfactory, they bear witness to this inestimable fact, that the human consciousness is not tied down to the physical plane, but stretches into greater worlds than these. But when the knowledge comes through clearly defined, distinct, then we know that it is not knowledge coming from the higher planes by way of vibrations outside the mechanism playing upon it from without; then it comes from the Spirit himself, sending down his own knowledge, his own inspirations, and we can distinguish the inspirations from within from the results of the impacts from without, by the clearness and definiteness of the coming, from the illuminating nature of the revelation. | Chúng ta thấy, khi nhìn theo cách này, rằng chúng ta đang đối diện với những khả tính kỳ diệu liên quan đến bộ máy của mình. Chúng ta thấy có thể là chúng ta có thể làm cho bộ máy này càng lúc càng dễ tiếp nhận những làn sóng đến với chúng ta từ bên trên, và dần dần chúng ta sẽ bắt đầu thấu hiểu. Tất cả những linh cảm mơ hồ, trực giác, chiêm bao ấy đến với chúng ta bởi vì các thể cảm dục và thể trí của chúng ta đang bị tác động trong các cõi riêng của chúng, [47] đang đáp ứng với môi trường dĩ thái và siêu dĩ thái mà Ông Myer đề cập. Toàn bộ những điều đó cần quy về các cõi ấy, và tâm thức đang đáp ứng với chúng, và những đáp ứng này tác động lên bộ máy tâm thức hồng trần, đi qua bằng cung cách mơ hồ, bất định này. Chúng đã không thể đến được với chúng ta chút nào nếu bộ máy để tiếp nhận chúng chưa có sẵn trong tay chúng ta, nếu chúng ta không nối được với một cõi cao hơn cõi hồng trần; do đó, dẫu có bất cập, chúng vẫn làm chứng cho một thực tại vô giá: tâm thức con người không bị trói chặt xuống cõi hồng trần, mà vươn sang những thế giới lớn hơn cõi này. Nhưng khi tri thức đi qua một cách minh nhiên, rõ ràng, thì chúng ta biết rằng ấy không phải là tri thức đi xuống từ các cõi cao bằng con đường các rung động ở ngoài bộ máy gõ vào nó từ bên ngoài; lúc ấy tri thức đến từ chính Tinh thần, giáng xuống tri thức của chính y, những cảm hứng của chính y, và chúng ta có thể phân biệt các cảm hứng đến từ bên trong với các kết quả do những va đập từ bên ngoài bằng tính rõ ràng và minh xác của sự đến, bằng tính chất soi tỏ của sự mặc khải. |
Now surely, if we grasp these facts, not only do they open new vistas of hope, but in our present life also they are full of encouragement, and give the justification for that in-eradicable instinct in humanity which seeks for Art, Beauty, and Religion, even although they may seem to be of what is sometimes called “no practical value” in the life of men. I saw a quotation from a materialist in a book some months ago, to the [48] effect that art and religion were bye-products—a most significant phrase. A bye-product is something produced in the process of manufacture, which does not conduce to the end aimed at in the manufacture, but simply comes out in the process and is cast aside. Truly are Art and Religion bye-products of human evolution, if the only mechanism of consciousness is in the physical body. Truly, if the life of man is only in this particular world, would Art and Religion be bye-products, for they would not conduce to man’s material progress, they would not conduce to man’s conquest of the earth. But if the evolution of man is not an evolution in one world but in three; if man is not only the noblest of animals but a living Spirit from God Himself; if the human consciousness is living in the three worlds and not only in the one, with a boundless glory beyond those worlds of which now we can only dream—ah! then, Art, which tells of beauty, which is harmony and therefore divine, is a process of priceless value for the evolution of the higher consciousness, and every dream of the artist, every dream of the musician, every dream of beauty which has come to the human brain, is only a glimpse of the Eternal Beauty, which is God in one of His manifestations, and has in it the promise of a future evolution, when that Beauty shall be unveiled before the eyes of men. And Religion, which is the search after God, which is the deep in-rooted belief that man can know God, and that man is one in his spiritual nature with God Himself, that, instead of being a bye-product, is the most essential [49] factor in human evolution, and its influence on man is the influence of a wider future, which makes the guidance of life reasonable in regard to the whole of this evolution, and not in regard only to the fragment of it that we see on the physical globe. For Art and Religion are only justified by this, that they belong to a greater world; that they belong to a longer evolution; that they are the evolution of the Spirit and not of the body, of the God in man, and not of the triumphant brute. And if that be true, ah! then they are all important to human kind; if that be true, then all things physical that men follow here are as dust in the balance when weighed against them. Human wealth and human power, human fame and human glory, these are only the things of a moment, unworthy of the eternal Spirit; but Art, which is the pursuit of Beauty, and Religion, which is the seeking after God, these are indeed the true ends of life; to them points our evolution; towards them our growth is tending; and the triplicity of the mechanism of consciousness reveals the ends of man’s true evolution, and the purposes of the worlds in which he lives. [50] | Vậy hẳn là, nếu chúng ta nắm bắt được những thực tại này, thì không chỉ mở ra những viễn tượng mới của hy vọng, mà ngay trong đời sống hiện tại, chúng cũng tràn đầy khích lệ, và đem lại sự minh chứng cho bản năng bất khả diệt nơi nhân loại vốn đi tìm Nghệ thuật, Cái đẹp và Tôn giáo, dẫu cho đôi lúc chúng có vẻ như là những thứ được gọi là “không có giá trị thực tiễn” trong đời sống con người. Mấy tháng trước, tôi thấy một trích dẫn từ một người duy vật, rằng [48] nghệ thuật và tôn giáo là sản phẩm phụ—một cụm từ hết sức gợi ý. Một sản phẩm phụ là cái được tạo ra trong tiến trình chế tác, không đóng góp cho cứu cánh nhắm tới trong sự chế tác, mà chỉ nảy sinh trong tiến trình và bị gạt sang bên. Thật vậy, Nghệ thuật và Tôn giáo là sản phẩm phụ của tiến hóa nhân loại, nếu bộ máy duy nhất của tâm thức chỉ nằm trong thể xác. Thật vậy, nếu đời sống của con người chỉ ở trong thế giới này, thì Nghệ thuật và Tôn giáo hẳn là sản phẩm phụ, vì chúng sẽ không đóng góp cho tiến bộ vật chất của con người, không góp phần cho cuộc chinh phục địa cầu của con người. Nhưng nếu tiến hóa của con người không phải là tiến hóa trong một cõi mà trong ba cõi; nếu con người không chỉ là con vật cao quý nhất mà còn là một Tinh thần sống từ chính Thượng đế; nếu tâm thức con người sống trong ba cõi và không chỉ trong một, với một vinh quang vô biên ở bên kia các cõi mà giờ đây ta chỉ có thể mơ tưởng—à! vậy thì, Nghệ thuật, cái nói về cái đẹp, cái là hòa điệu và do đó là thiêng liêng, là một tiến trình vô giá cho sự tiến hóa của tâm thức cao hơn, và mọi giấc mơ của người nghệ sĩ, mọi mộng khúc của nhạc sĩ, mọi giấc mơ về cái đẹp từng đến với bộ não con người, chỉ là thoáng nhìn của Vẻ đẹp Vĩnh cửu, vốn là Thượng đế trong một biểu hiện của Ngài, và hàm chứa lời hứa về một cuộc tiến hóa tương lai, khi Vẻ đẹp ấy sẽ được vén mở trước mắt nhân loại. Còn Tôn giáo, cái là cuộc truy tầm Thượng đế, cái là niềm xác tín bám rễ sâu rằng con người có thể biết Thượng đế, và rằng con người trong bản tính tinh thần của mình là một với chính Thượng đế, thì, thay vì là sản phẩm phụ, lại là [49] yếu tố thiết yếu bậc nhất trong tiến hóa nhân loại, và ảnh hưởng của nó lên con người là ảnh hưởng của một tương lai rộng lớn hơn, khiến cho sự điều hướng đời sống trở nên hợp lý xét về toàn bộ cuộc tiến hóa này, chứ không chỉ xét về mảnh đoạn của nó mà chúng ta thấy trên quả địa cầu. Vì Nghệ thuật và Tôn giáo chỉ được minh chứng bởi điều này: chúng thuộc về một thế giới lớn hơn; chúng thuộc về một tiến hóa dài hơn; chúng là tiến hóa của Tinh thần chứ không của thân xác, của Thượng đế trong con người chứ không của con thú chiến thắng. Và nếu điều đó là thật, à! vậy thì chúng vô cùng trọng yếu đối với nhân loại; nếu điều đó là thật, thì mọi thứ hồng trần mà con người đeo đuổi ở đây chỉ như cát bụi trên bàn cân khi đem cân với chúng. Phú quý và quyền lực của con người, danh tiếng và vinh quang của con người—ấy chỉ là chuyện nhất thời, không xứng với Tinh thần vĩnh cửu; còn Nghệ thuật, cuộc truy cầu Cái đẹp, và Tôn giáo, cuộc kiếm tìm Thượng đế—ấy mới chính là những cứu cánh đích thực của đời sống; về chúng mà tiến hóa của chúng ta chỉ hướng; đến chúng mà sự trưởng thành của chúng ta đang tiến về; và tính bộ ba của bộ máy tâm thức phơi bày những cứu cánh của cuộc tiến hóa chân thực của con người, và những mục đích của các thế giới trong đó y sống. [50] |
| 3. Tiềm thức và Siêu tâm thức. |