03. Thông Thiên Học và Khoa Tâm Lý Học Mới —Tiềm Thức và Siêu Tâm Thức

3. Sub-Consciousness and Super-­Consciousness

I must ask you tonight to bear in mind last Sunday’s lecture, “The Mechanism of Consciousness”, so that you may be able to put into their appropriate places the phenomena with which we are this evening to deal.

Tối nay tôi phải xin các bạn ghi nhớ bài giảng Chúa nhật trước, “Bộ máy của Tâm thức”, để các bạn có thể đặt các hiện tượng mà tối nay chúng ta sẽ đề cập vào đúng chỗ tương ứng của chúng.

I have called our subject: “Sub-Consciousness and Super-Consciousness”. I do not, of course, mean to exclude from our consideration that very important part of consciousness —in fact to most people the most important part—the Waking-Consciousness. We shall want to understand the relation of the Waking-con­sciousness both to the sub-consciousness and to the super-consciousness.

Tôi đã gọi đề tài của chúng ta: “Tiềm thức và Siêu tâm thức”. Dĩ nhiên, tôi không có ý loại trừ khỏi sự xem xét của chúng ta phần rất quan trọng của tâm thức—thực ra đối với đa số người là phần quan trọng nhất—tức Tâm thức lúc thức. Chúng ta sẽ cần hiểu quan hệ của Tâm thức lúc thức với cả tiềm thức lẫn siêu tâm thức.

The difficulty you must all have in reading such works as that of the late Mr. Myers, is the difficulty of classification, the want of some arrangement under which [51] the facts may fall. And it is really that kind of framework that I desire to place, if possible, at your service. And first of all we have the necessity of distinguishing in the mass of what Mr. Myers calls the sub-conscious, between the two factors which I shall ask you to consider as the sub-conscious and the super-conscious.

Khó khăn mà tất cả các bạn hẳn gặp phải khi đọc những tác phẩm như của cố Ông Myers, là khó khăn về phân loại, sự thiếu vắng một sự sắp xếp nào đó để [51] các sự kiện có thể rơi vào. Và thật ra chính cái khung như thế là điều tôi mong muốn, nếu có thể, đặt vào sự phục vụ của các bạn. Trước hết, chúng ta cần thiết phải phân biệt, trong khối mà Ông Myers gọi là tiềm thức, giữa hai yếu tố mà tôi sẽ đề nghị các bạn xem như tiềm thức và siêu tâm thức.

Now, Mr. Myers uses one very convenient simile when dealing with the sub-conscious; he speaks of a diaphragm, below which fall those facts of consciousness which he then calls the sub-conscious, just as the dia­phragm divides the trunk of the body, and there is no immediate communication between the two halves thus divided, save the alimentary canal. So he tries, as it were, to put a diaphragm across the facts of con­sciousness. All that is below it is the sub-conscious; all that is above it is the waking-consciousness. Now we can utilise that figure, if you please; but then I shall want to have two diaphragms; one such as Mr. Myers has, below which consciousness falling shall be called sub-conscious; and another above the ordinary waking-consciousness, so that anything which is above that second diaphragm may be called the super-con­scious. I think we shall be able to distinguish clearly between the one and the other. We shall be able to find and to identify the part of the mechanism through which the sub-conscious and super-conscious arrive in the waking-consciousness; and although we shall find, especially on one point, that there will be a little doubt as to how we shall classify one set of facts, [52] still, speaking generally; the classification will serve us well enough.

Nay, Ông Myers sử dụng một ví von rất tiện khi xử lý tiềm thức; Ông nói về một cái vách hoành cách, bên dưới nó là những sự kiện của tâm thức và khi đó Ông gọi là tiềm thức; cũng như cơ hoành chia thân mình ra, và không có thông lộ trực tiếp giữa hai nửa bị ngăn cách ấy, ngoại trừ ống tiêu hóa. Thế là Ông cố, như thể, đặt một vách hoành cách ngang qua các sự kiện của tâm thức. Tất cả những gì ở bên dưới nó là tiềm thức; tất cả những gì ở bên trên nó là tâm thức lúc thức. Chúng ta có thể tận dụng hình ảnh đó, nếu bạn vui lòng; nhưng rồi tôi sẽ muốn có hai vách hoành cách; một vách như Ông Myers nói, bên dưới nó cái rơi xuống của tâm thức sẽ được gọi là tiềm thức; và một vách khác ở bên trên tâm thức lúc thức, để bất cứ điều gì ở trên vách thứ hai ấy có thể được gọi là siêu tâm thức. Tôi nghĩ chúng ta sẽ có thể phân biệt rõ ràng giữa cái này và cái kia. Chúng ta sẽ có thể tìm thấy và nhận diện phần của bộ máy mà qua đó tiềm thức và siêu tâm thức đi vào tâm thức lúc thức; và tuy rằng chúng ta sẽ thấy, nhất là ở một điểm, rằng sẽ có chút ít phân vân về cách phân loại một nhóm sự kiện, [52] nhưng, nói chung, sự phân loại sẽ phục vụ chúng ta đủ tốt.

Now, when we speak of the waking-consciousness, what do we mean? And what is it that limits that waking-consciousness? Why does some part of what we call our consciousness escape us, whether it sink below or whether it soar above? What we call the waking-consciousness is that which we find normally in or through the brain—I ought, perhaps, to say “the centre of waking-consciousness”, for that place is not always the brain; if we go back into the waking­-consciousness of very slightly developed creatures, we go farther back than the time when the brain appeared, and then the principal ganglion of the nervous system would act as the mechanism of the waking-consciousness. But for us today the brain is that through which the waking-consciousness plays. I do not say that nothing more comes through it, but that which we find normally in the brain, and of which we are aware, we shall call the “waking-consciousness”; and when we notice it, we find it is made up of percepts and concepts derived from the outer world primarily, and then manipulated by the brain—manipulated by our thought using the brain as its instrument. This will be our general definition of what constitutes the waking-consciousness. You must not forget to add to that which is derived from the outer world, the results of the working on that by the brain, for that is of enormous importance; and if it be left out, the contents of the waking-consciousness may be too narrowly defined. Nor must we forget that, [53] according to the development of consciousness, there will be a greater or less working and manipulation of that which comes into consciousness from the outer world. The faculties which we possess, that we have brought with us out of our past, which we have largely developed in our life between death and birth, these work upon the materials coming from the outside world, and work upon them to very different extents. Accord­ing to the development of these faculties will be the power of perception of the outer world. There is a very different power of perception between, say, the artist and the ploughman. The same things may present themselves to each, but the power of perceiving what is presented will depend upon the evolution of the faculties. So that we cannot leave out that question of individual evolution of faculty, when we come to consider the contents of our waking-consciousness.

Nay, khi chúng ta nói về tâm thức lúc thức, chúng ta muốn nói gì? Và điều gì giới hạn tâm thức lúc thức ấy? Tại sao một phần của cái mà chúng ta gọi là tâm thức lại vuột khỏi chúng ta, dù nó chìm xuống bên dưới hay bay vút lên bên trên? Cái mà chúng ta gọi là tâm thức lúc thức là cái mà chúng ta thường nghiệm thấy ở trong hay qua bộ não—có lẽ tôi nên nói “trung tâm của tâm thức lúc thức”, vì nơi ấy không phải lúc nào cũng là bộ não; nếu chúng ta lần ngược vào tâm thức lúc thức của những sinh linh rất ít phát triển, chúng ta sẽ đi xa hơn thời điểm khi bộ não xuất hiện, và khi ấy hạch thần kinh chủ yếu của hệ thần kinh sẽ hành xử như bộ máy của tâm thức lúc thức. Nhưng đối với chúng ta hôm nay, bộ não là cái mà qua đó tâm thức lúc thức vận hành. Tôi không nói rằng không có gì khác đi qua nó, nhưng cái mà chúng ta thường nghiệm thấy trong bộ não, và cái mà chúng ta ý thức được, chúng ta sẽ gọi là “tâm thức lúc thức”; và khi chúng ta xem xét nó, chúng ta thấy nó được kết thành bởi các tri giác và khái niệm thâu nhận từ thế giới bên ngoài trước tiên, rồi được bộ não thao tác—được tư tưởng của chúng ta thao tác khi dùng bộ não làm khí cụ. Đó sẽ là định nghĩa chung của chúng ta về cái làm thành tâm thức lúc thức. Bạn không được quên bổ sung vào cái thâu nhận từ thế giới bên ngoài là các kết quả của sự thao tác lên nó bởi bộ não, vì điều ấy vô cùng quan trọng; và nếu bỏ qua, nội dung của tâm thức lúc thức có thể bị định nghĩa quá thu hẹp. Và cũng đừng quên rằng, [53] tùy theo sự phát triển của tâm thức, sẽ có một mức độ nhiều hay ít của sự vận dụng và thao tác lên cái đi vào tâm thức từ thế giới bên ngoài. Những năng lực mà chúng ta sở hữu, cái chúng ta đã mang theo từ quá khứ, cái chúng ta đã phát triển nhiều trong đời sống giữa cái chết và sự sinh, chúng vận hành trên các vật liệu đến từ thế giới bên ngoài, và vận hành trên chúng ở mức độ rất khác nhau. Tùy theo sự phát triển của những năng lực ấy mà khả năng tri nhận thế giới bên ngoài sẽ như thế. Năng lực tri nhận giữa, thí dụ, một nghệ sĩ và một người cày ruộng, rất khác nhau. Cùng một sự vật có thể trình hiện trước cả hai, nhưng năng lực tri nhận cái được trình hiện sẽ tùy thuộc vào mức tiến hóa của năng lực. Do đó, khi xem xét nội dung của tâm thức lúc thức, chúng ta không thể loại bỏ vấn đề tiến hóa cá nhân của năng lực.

The contents of the waking-consciousness will be clear-cut and defined; that is a characteristic of thought working in and through the brain. Where the brain is concerned, the outlines of the thought can be readily seen and grasped; and it would appear that one of the reasons of this coming down of consciousness into lower planes is this obtaining of clear-cut ideas about the universe. For it is a very marked fact, in studying the evolution of consciousness, that the clearness begins on the lowest plane, the clearness of the higher planes being gradually added; and it is necessary that con­sciousness shall pass through the physical plane in order that it may definitely grasp and understand. [54] This point has a most important bearing upon evolution, for it must have struck some of you as strange, when studying the evolution of the senses, that coming down­wards the senses increase in number. The sense­-organs belong to the physical plane, and they develop one after another; but as we return homewards in our upward climbing, we lose these senses one after another, so that on reaching the mental plane the phrase is used that there is only one sense. The real meaning and interest of that lies in the fact, that we cannot first gain on the mental plane this clear-cut definition; we can only learn the outer world by coming down to the physical, developing the sense-organs, learning to use them, and by their help developing the centres in the astral body from which they originated; and after all that has been done, and clearness of vision has been attained, then the means of the gaining can be thrown aside, and we can keep the definiteness on the higher planes which we could not have obtained without the descent into the lower. And so a meaning attaches to the mystic words used in the Upanishats, where it is said of the Supreme: “Without senses enjoying sensations”. They could not be reached without the primary definition on the physical, but in the upward course of man in his evolution towards divinity, he will be able to drop the organs while still preserving the faculties evolved by the help of and through those organs.

Nội dung của tâm thức lúc thức sẽ rõ ràng, sắc nét; đó là đặc tính của tư tưởng vận hành trong và qua bộ não. Nơi nào bộ não can dự, các đường viền của tư tưởng có thể dễ dàng thấy và nắm bắt; và có vẻ như một trong những lý do của việc đi xuống của tâm thức vào các cõi thấp là để đạt được những ý niệm sắc nét về vũ trụ. Bởi vì đó là một sự kiện rất nổi bật, khi nghiên cứu sự tiến hóa của tâm thức, rằng tính rõ ràng bắt đầu ở cõi thấp nhất, còn tính rõ ràng của các cõi cao thì dần dần được cộng thêm; và tâm thức cần đi qua cõi hồng trần để có thể nắm bắt và thấu hiểu một cách minh định. [54] Điểm này có hệ quả vô cùng quan trọng đối với tiến hóa, vì hẳn đã có lúc vài bạn thấy lạ, khi học sự tiến hóa của các giác quan, rằng đi xuống thì các giác quan tăng về số lượng. Các cơ quan giác quan thuộc về cõi hồng trần, và chúng phát triển cái này sau cái kia; nhưng khi chúng ta quay về nhà trong cuộc leo lên, chúng ta đánh rơi những giác quan này cái này sau cái kia, đến nỗi khi đạt đến cõi trí, người ta dùng cụm từ rằng chỉ còn một giác quan. Ý nghĩa thực sự và hứng thú của điều đó nằm ở chỗ: chúng ta không thể đạt ngay trên cõi trí sự sắc nét định nghĩa này; chúng ta chỉ có thể học thế giới bên ngoài bằng cách đi xuống cõi hồng trần, phát triển các cơ quan giác quan, học cách sử dụng chúng, và nhờ chúng, phát triển các trung tâm trong thể cảm dục mà từ đó chúng phát sinh; và sau khi tất cả điều đó đã được thực hiện, và tính rõ ràng của thị kiến đã được đạt, thì các phương tiện của sự đạt được ấy có thể được bỏ qua, và chúng ta có thể giữ lại tính minh định trên các cõi cao mà nếu không có cuộc giáng hạ vào cõi thấp thì đã không thể có được. Và như thế, một ý nghĩa gắn với những lời huyền nhiệm dùng trong Áo Nghĩa Thư, nơi nói về Tối Thượng: “Không có giác quan mà hưởng các cảm giác”. Chúng ta không thể vươn tới điều đó nếu không có sự định nghĩa sơ khởi trên cõi hồng trần, nhưng trong cuộc thăng tiến của con người trên con đường tiến hóa hướng về thần tính, y sẽ có thể rũ bỏ các cơ quan trong khi vẫn bảo tồn các năng lực [55] được khai mở nhờ và qua những cơ quan ấy.

Returning from that slight digression—which seemed, none the less, to be needed for the grasp of our subject—we come to the fact that the content of our [55] waking-consciousness is that which comes from without, and which is worked upon by the faculties already developed in evolution. And we have one other thing to remember in dealing with the waking-consciousness, that it is ever changing as to content, that it only at each moment includes the things to which we are attending. The enormous importance of attention has come out more and more in modern Psychology. Now the atten­tion of consciousness is like the fixing of the eye on a particular spot. You can only see generally within certain limits; you can only see clearly that towards which the eye is definitely directed. But you are vaguely conscious of other things outside the clear field of vision, and this has given to psychologists a con­venient image; that that which is in waking-conscious­ness is that which is within the direct vision. There will be a fringe of which we are half-conscious, and of which at any moment we may become fully conscious by turning our attention to it. The power of attention is a thing which can be enlarged. Now, while many of you, looking at a number of objects, would be able to define only three or four of them, if you trained your physical power of attention to accurate observation, you would find you could greatly increase the number of things towards which that vision could be directed at the same time, with a perfect recognition and distinc­tion of the objects perceived. It is an area that may be enlarged by practice; and this is also true as regards the attention. You will find that by practising attention you can greatly enlarge it, and attend to more and [56] more things at one and the same time; that you can bring a larger number of ideas within the field of clear vision. It is a useful practice, whether as regards the physical or the mental eye, to seek to enlarge its area of observation, to make that field of clear vision larger in both cases.

Trở lại sau chút vòng vo—dẫu vậy dường như là cần thiết để nắm lấy đề tài của chúng ta—chúng ta đến với thực tế rằng nội dung của [56] tâm thức lúc thức là cái đến từ bên ngoài, và cái được các năng lực đã phát triển trong tiến hóa thao tác. Và có một điều nữa chúng ta cần nhớ khi xử lý tâm thức lúc thức: rằng nó luôn thay đổi về nội dung, rằng ở mỗi khoảnh khắc nó chỉ bao gồm những điều chúng ta đang chú tâm đến. Tầm quan trọng to lớn của chú ý ngày càng nổi rõ trong Tâm Lý học hiện đại. Chú ý của tâm thức giống như việc cố định con mắt trên một điểm nhất định. Bạn chỉ có thể thấy chung chung trong một giới hạn nào đó; bạn chỉ có thể thấy rõ cái mà mắt được hướng thẳng vào. Nhưng bạn mơ hồ ý thức về những điều khác nằm ngoài trường nhìn rõ, và điều này đã cho các nhà tâm lý một hình ảnh tiện dụng: cái nằm trong tâm thức lúc thức là cái ở trong trường thị giác trực tiếp. Sẽ có một vành đai mà chúng ta nửa ý thức về nó, và bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể trở nên hoàn toàn ý thức về nó bằng cách quay chú ý về phía nó. Quyền năng của chú ý là điều có thể được mở rộng. Nhiều bạn, khi nhìn một số đối tượng, có lẽ chỉ có thể phân định ba hay bốn vật; nếu bạn rèn luyện năng lực chú ý hồng trần thành quan sát chính xác, bạn sẽ thấy mình có thể tăng lớn rất nhiều số lượng những thứ mà đồng thời nhãn quan có thể hướng đến, với sự nhận biết và phân biệt hoàn toàn các đối tượng tri nhận. Đó là một phạm vi có thể được mở rộng bằng thực hành; điều này cũng đúng đối với chú ý. Bạn sẽ thấy rằng, bằng luyện tập chú ý, bạn có thể mở rộng nó rất nhiều, và chú ý đến nhiều và [ngày càng] nhiều điều hơn trong cùng một lúc; rằng bạn có thể mang một số lượng lớn hơn các ý tưởng vào trong trường thị kiến rõ ràng. Đó là một thực hành hữu ích, dù xét về mắt hồng trần hay con mắt trí, nhằm tìm cách mở rộng vùng quan sát, làm cho trường thị kiến rõ ràng lớn hơn trong cả hai trường hợp.

But still that curious question arises: What is it that limits the waking-consciousness? We are told that our consciousness is much larger than our waking-con­sciousness. But why? Why should we not be able to bring into waking-consciousness everything of which we are conscious anywhere? There are two points which we must understand in this relation: the first of them is rather analogous to the vibration of the eye. We cannot see below the red nor above the violet, although vision is possible beyond these limits, the ant normally seeing by means of vibrations for which we are blind; and there is something of the same kind with regard to the brain through which our consciousness is focussed. It can only answer to vibrations which fall within a certain range. In the first place, its power of vibrating depends on the material of which it is composed. Let me recall for a moment what is called the “permanent atom”. Remember that the atoms you draw to your­self, all the molecules made up of atoms, are conditioned by the amount of development and the power of vibra­tion in your own permanent atom, that which has passed with you through the ages, the magnet on each plane whereby you attract round yourself your new body for your use. According to the experience stored up in [57] the permanent atom will be the nature of the material that we draw to ourselves; so that there you have a very definite limitation.

Nhưng câu hỏi lạ lùng ấy vẫn khởi lên: Điều gì giới hạn tâm thức khi thức? Người ta nói rằng tâm thức của chúng ta lớn hơn rất nhiều so với tâm thức khi thức. Nhưng vì sao? Vì sao chúng ta lại không thể đưa vào tâm thức khi thức mọi điều mà chúng ta có thể có ý thức ở bất cứ đâu? Có hai điểm mà chúng ta phải thấu hiểu trong mối liên hệ này: điểm thứ nhất khá tương tự với rung động của con mắt. Chúng ta không thể thấy phía dưới màu đỏ cũng như phía trên màu tím, dù thị giác vẫn khả hữu vượt ngoài các giới hạn này; kiến bình thường thấy được nhờ các rung động mà chúng ta mù lòa; và có điều gì đó cùng loại như thế liên quan đến bộ não qua đó tâm thức của chúng ta được hội tụ. Nó chỉ có thể đáp ứng với những rung động rơi trong một phạm vi nhất định. Trước hết, năng lực rung động của nó tùy thuộc vào chất liệu cấu thành nó. Hãy để tôi gợi lại trong chốc lát điều được gọi là “Nguyên tử trường tồn”. Hãy nhớ rằng những nguyên tử mà bạn lôi kéo về mình, mọi phân tử cấu thành từ các nguyên tử, đều bị điều kiện hóa bởi mức phát triển và năng lực rung động trong chính Nguyên tử trường tồn của bạn, thứ đã đồng hành cùng bạn qua các thời đại, là nam châm trên mỗi cõi nhờ đó bạn hút về quanh mình thân thể mới để dùng. Tùy theo kinh nghiệm được tích chứa trong [57] Nguyên tử trường tồn mà bản chất chất liệu chúng ta lôi kéo về mình sẽ như thế; do đó ở đó bạn có một giới hạn rất minh định.

You are limited, moreover, by your past experiences, and the record of those, preserved in these per­manent atoms, will exercise a limiting power over your waking-consciousness; you cannot bring within it more than is permitted by those stored-up powers of vibration which govern the matter which you draw around you, the permanent atom exercising the selective action of which I spoke last week. But that is not all; another point is the absolute constitution of that atom, as regards the number of spiral strands which are active in it, according to our stage of evolution. Now, in the ordinary physical atom, at the present stage of evolution, four of these spiral strands—technically termed “spirillae”—are normally active; so that the matter around us, out of which we have to select the material of our bodies, is normally developed up to a particular point; according to the number of spirillae active in the atom will be the amount of consciousness that you can bring into the brain, the amount of thought to which those atoms will be able to respond. But the number of active spirillae in the material all around us is in­creased in the brains of those whose thought-power is more largely developed; so that those who are definitely and carefully thinking day by day are not simply improving their own brain, but also improving for others the amount of available material of a higher kind. For you must remember that we have no life-tenancy of [58] our bodies, but a tenancy which is constantly beginning and ending. Atoms are constantly coming in and going out. While those atoms form part of our brain, they are subject to every improvement, which our thought-­power can bring to bear upon them; so that we literally become helpers of the consciousness evolving in the world by the evolution of our own. We cannot live an isolated life. Nature has bound us together by bonds none is able to break; and whenever we are thinking, and thereby improving the matter in which we think, we are also acting as helpers of the world’s consciousness, and giving to our brother man, by virtue of our identity of nature, better material with which he also can work, making easier for him the coming down of the higher consciousness into the brain.

Hơn nữa, chúng ta còn bị giới hạn bởi những kinh nghiệm quá khứ của mình, và ghi chép của chúng, được lưu giữ trong các Nguyên tử trường tồn này, sẽ tác động một quyền năng giới hạn lên tâm thức khi thức; bạn không thể đưa vào đó nhiều hơn mức được cho phép bởi những năng lực rung động tích lũy vốn chi phối vật chất mà bạn lôi kéo quanh mình, Nguyên tử trường tồn thực hiện sự chọn lọc mà tôi đã nói đến vào tuần trước. Nhưng chưa phải thế đã là tất cả; một điểm khác là cấu trúc tuyệt đối của chính nguyên tử ấy, xét theo số lượng các sợi xoắn đang hoạt hóa trong đó, tùy theo giai đoạn tiến hóa của chúng ta. Nay, trong nguyên tử hồng trần thông thường, ở giai đoạn tiến hóa hiện tại, bốn trong số các sợi xoắn này—thuật ngữ kỹ thuật gọi là “xoắn tuyến”—thường hoạt hóa; do đó, vật chất quanh chúng ta, từ đó ta phải chọn chất liệu cho thân thể mình, vốn thông thường chỉ được phát triển tới một mức độ nhất định; tùy theo số lượng xoắn tuyến hoạt động trong nguyên tử mà sẽ có mức độ tâm thức bạn có thể đưa vào não, mức độ tư tưởng mà các nguyên tử ấy có thể đáp ứng. Nhưng số xoắn tuyến hoạt hóa trong vật chất chung quanh chúng ta tăng lên trong não của những người có năng lực tư tưởng phát triển mạnh hơn; vì thế những ai ngày qua ngày suy nghĩ một cách rõ ràng và cẩn trọng không chỉ đang cải thiện bộ não của riêng mình, mà còn cải thiện cho người khác lượng chất liệu cao cấp sẵn có. Bởi bạn phải nhớ rằng chúng ta không có quyền cư trú suốt đời trong [58] thân thể của mình, mà chỉ là sự cư trú tạm bợ luôn khởi đầu rồi kết thúc. Các nguyên tử luôn luôn đi vào và đi ra. Trong khi những nguyên tử ấy còn là một phần của bộ não chúng ta, chúng chịu mọi cải thiện mà năng lực tư tưởng của ta có thể tác động lên chúng; đến nỗi chúng ta thực sự trở thành những người trợ giúp cho tâm thức đang tiến hóa trong thế gian bằng sự tiến hóa của chính tâm thức mình. Chúng ta không thể sống một đời sống cô lập. Tự nhiên đã ràng buộc chúng ta với nhau bằng những mối dây không ai có thể bẻ gãy; và bất cứ khi nào chúng ta đang suy nghĩ, qua đó cải thiện vật chất trong đó ta tư duy, chúng ta cũng đang hành động như những trợ thủ cho tâm thức của thế giới, và do đồng nhất tính về bản tánh, chúng ta trao cho người anh em của mình chất liệu tốt hơn để y cũng có thể làm việc, khiến cho việc hạ giáng của tâm thức cao hơn vào não trở nên dễ dàng hơn cho y.

There we have one side of the limitation—the material: the other comes from outside us. It is the limitation set by those generally spoken of as the “Lords of Karma”, the “Archangels”, who have to do with the administering of human destinies, with the balancing of human affairs. They form one, and per­haps almost the chief, of the limiting factors; for accord­ing to our past karma is the general mould of the brain with which we are to be born, especially according to that part of our past karma selected by Them as suffi­ciently congruous to be worked out in a single earth-life. According to that will be the general shape of the brain, we supplying the material to be built into it, but not ourselves controlling that general outline, that larger moulding of the shape of the brain. And it is quite [59] possible that anyone, with some un-exhausted karma behind him which needs for its carrying out a limitation of the faculties of the waking-consciousness, might come into incarnation with only so much of the physical substratum of thought shaped in the brain as fits the working out of the karma which is to occupy that human life. That is a decided limitation, for although it be ultimately self-made, it comes from without so far as this present life is concerned. These limitations within which we are compelled to work, this lack of these faculties that often distresses and annoys us, are the signs of the limitations imposed upon us from without by the working of causes we ourselves have initiated, although their application at the moment is brought about by forces external to ourselves. Those two things seem to be an explanation of the limitation of the waking-consciousness—why so much comes down, and no more.

Ở đây chúng ta có một mặt của sự giới hạn—vật chất: mặt kia đến từ bên ngoài chúng ta. Đó là giới hạn do những vị thường được gọi là “các Chúa Tể Nghiệp Quả”, “các Đại Thiên thần” đặt định, Các Ngài can dự vào việc quản trị định mệnh nhân loại, cân bằng các công việc của con người. Các Ngài cấu thành một—và có lẽ là gần như chủ yếu—trong các yếu tố giới hạn; vì tùy theo nghiệp quá khứ của chúng ta mà sẽ có khuôn đúc chung của bộ não với đó chúng ta được sinh ra, đặc biệt tùy theo phần nghiệp quá khứ được Các Ngài chọn vì đủ tương ứng để có thể được chuyển hóa trong một đời sống trần gian. Theo đó sẽ có hình dạng chung của bộ não, chúng ta cung ứng chất liệu để xây dựng nó, nhưng không tự mình kiểm soát được đường nét tổng quát ấy, khuôn đúc rộng lớn ấy của hình thể bộ não. Và hoàn toàn [59] có thể rằng bất kỳ ai, còn mang phía sau y một phần nghiệp chưa khuất, cần cho sự thực hiện của nó một sự giới hạn các năng năng của tâm thức khi thức, có thể bước vào lâm phàm chỉ với bấy nhiêu nền tảng vật chất của tư tưởng được tạo hình trong não như phù hợp với việc chuyển hóa nghiệp là điều sẽ chiếm lĩnh đời sống con người ấy. Đó là một giới hạn dứt khoát, vì dù rốt cuộc do tự mình tạo ra, nó vẫn đến từ bên ngoài xét trong đời sống hiện tại này. Những giới hạn trong đó chúng ta buộc phải làm việc, sự thiếu hụt những năng năng này, điều thường khiến chúng ta khổ sở và bực bội, chính là dấu hiệu của những giới hạn áp đặt lên chúng ta từ bên ngoài bởi tác động của các nhân do chính chúng ta đã khởi phát, dẫu sự áp dụng của chúng vào lúc này được đưa đến bởi các lực ở ngoài bản thân ta. Hai điều đó dường như là lời giải cho sự giới hạn của tâm thức khi thức—vì sao chừng ấy hạ giáng, và không hơn.

Pass from that to the sub-consciousness. Now here we have to fare a difficulty: it contains a great mass of different things that need to be sorted out and arranged. It has well been called a “vast lumber-­room”, and in it we find all kinds of relics of the past—­all sorts of rags and tatters of yesterday, which are still attached to the vehicles in which we are working; and we need to sort out the lumber in order to recognise, when anything comes to the surface, its place in our consciousness, its root in our past evolution. First of all, there will be a mass of things—to which I hastily alluded last week—which have been handed over by [60] the waking-consciousness to the sympathetic nervous system. Those we must separate and put on one side, as they differ greatly in characteristics from those which have fallen a little out of the ordinary working cerebro­-spinal system, but lie still in the brain and nerves, which are also in the sub-consciousness, but stored up in a different part of the mechanism. There are many cup­boards in the lumber-room of sub-consciousness in which different things are stored, and from which they may come forth.

Từ đó, chuyển sang tiềm thức. Nay ở đây chúng ta gặp một khó khăn: nó chứa một khối lượng lớn các điều dị biệt cần được phân loại và sắp đặt. Nó đã được gọi rất đúng là một “kho chứa ngổn ngang”, và trong đó chúng ta tìm thấy đủ loại di tích của quá khứ—đủ thứ vải vụn và mảnh rách của ngày hôm qua, vẫn còn dính với các vận cụ trong đó chúng ta đang làm việc; và chúng ta cần phân loại đống tạp vật ấy để khi có điều gì trồi lên bề mặt, ta nhận ra vị trí của nó trong tâm thức mình, gốc rễ của nó trong tiến hóa quá khứ của mình. Trước hết, sẽ có một khối những điều—mà tuần trước tôi có lướt qua—đã được [60] tâm thức khi thức trao lại cho hệ thần kinh giao cảm. Ta phải tách riêng chúng ra và để sang một bên, vì chúng rất khác về đặc tính so với những điều đã rơi ra ngoài một chút khỏi sự vận hành thông thường của hệ não-tủy, nhưng vẫn nằm trong não và thần kinh, cũng thuộc về tiềm thức, song được lưu trữ ở một phần khác của cơ cấu. Có rất nhiều “ngăn tủ” trong kho chứa của tiềm thức, nơi các vật khác nhau được cất giữ, và từ đó chúng có thể đi ra.

Now those which are stored in the sympathetic system will include all those strange and dim relics of our past that have come down to us through our parents, and also through our own permanent atoms. They will be vague, dim, difficult to grasp—remnants of savage lives, nay, even of animal existences, dull gropings and searchings long left behind by the advancing conscious­ness of man, memories dim and blind, which still have left their marks on our physical system. To those belong very many of the so-called causeless terrors to which some sensitive people are exposed, a fear that comes they know not why, a fear which cannot be over­come by any reasoning. Reason may dominate for a time, but if the fear be very strong, the body will be carried away in spite of reason. Such causeless panic—I am not speaking of the panic that sometimes sweeps over a crowd, a very different thing—is occasionally found within ourselves when in bad health, through the exhaustion of the cerebro-spinal system. A causeless terror will sometimes rise up from the past. Sometimes [61] it takes the form of a fear of the “super-natural”. That fear may, indeed, be given rise to in another way; but there is a certain fear of the “super-natural” belonging to the remnants left in the sympathetic system from the past, from the time when men lived in constant fear of the unknown, and when, in the unknown of nature they saw armies of super-natural enemies. That fear arises sometimes from national and ancestral traits conveyed to the physical body, and things which we do not fear in our waking-con­sciousness, assert themselves at times as objects of dread. One instance of that comes to my mind in the case of the great writer, Thomas Carlyle. He said that during the day-time he did not believe in the devil, but that if he awoke in the middle of the night, he thoroughly believed in him. He did not believe in the devil; but the impressions of his Scottish ancestry, the impressing on the child-mind of that terrible enemy, and the fear of being grasped by him in some moment of folly—­that remained sub-consciously, and rose up in the mind at the time when the vitality of the physical frame was at its lowest point—during the night. Here, however, there had mingled with the ancestral reminis­cences that second form of unconsciousness belonging to the present life, where the thoughts had simply sunk into a deeper layer of the physical brain, and had not been handed over to the sympathetic system. It is possible by means of hypnotism to differentiate these two forms of unconsciousness. You cannot, in the hyp­notic trance, revive that which is in the grip of the [62] sympathetic system, but you can revive that which is in the deeper layers of the brain. Then there are all those actions alluded to last week, which were purposeful in the past, but which have been handed over to the sympathetic system to carry on, and those play a very important part in the sub-consciousness. There is very much that we used to do with attention, to which we now pay no attention. There is only a certain amount of attention available, although it may be slightly enlarged, and as the Ego finds he is able to take advantage of the automatism of nature, and hand over to the vehicles the repetition of that which he has made them do over and over again, this sub-consciousness increases, and everything which falls under the sym­pathetic control becomes sub-conscious. You know how readily in our already trained nerves and muscles this handing over a thing to the automatic power of the physical body takes place. One of the commonest instances would be the act of writing, or of playing upon the piano. You know how a child throws his whole body into the action of learning to write; how he makes all sorts of faces; how he writhes in the agony of attention. He cannot help it; the whole force of his attention has to be turned towards the difficult manipulation of his fingers. As the automatic habit is established, the fingers write without his thinking of the movement. And in the case of the trained pianist, well-known passages are performed entirely by the automatic power of the body. And that is continually going on. The Ego takes advantage of the automatism [63] of his vehicles to put into their hands as much as he can get rid of. Remember he is always striving upwards, trying to get rid of the lower planes; he is always trying to throw off the burdens that prevent his climbing. He does not want to be bothered, say, with the looking after of the vital functions of the body, and only gives his attention to the machinery he has trained when anything goes wrong. The whole of that we can put aside as sub-conscious. All such workings are recoverable with pains, but it is not worth while; on the contrary, the more we can hand over to that automatism the better. The less we have to utilise our waking­-consciousness for the things that are constantly recur­ring, the more shall we have to work with for the things that really need its attention; and it is a distinct gain, as we hand over one part of our purposive action after another into the careful mechanism of the sympathetic system, with its power of doing after a certain amount of practice that which it is most desirable that it should do.

Những gì được cất trong hệ giao cảm sẽ bao gồm mọi di tích lạ lùng và mờ tỏ của quá khứ đã truyền xuống với chúng ta qua cha mẹ, và cũng qua các Nguyên tử trường tồn của chính mình. Chúng sẽ mơ hồ, lờ mờ, khó nắm bắt—tàn dư của những đời hoang dã, thậm chí của các kiếp thú, những lần dò dẫm mờ mịt đã bị tâm thức đang tiến của con người bỏ lại từ lâu, những ký ức mù mờ, vẫn để lại dấu ấn trên hệ thống thể xác của chúng ta. Thuộc về những điều đó là rất nhiều nỗi kinh sợ vô cớ mà một số người mẫn cảm phải hứng chịu, một nỗi sợ kéo đến mà họ không biết vì sao, một nỗi sợ không thể vượt qua bằng bất kỳ lý luận nào. Lý trí có thể chế ngự trong một thời gian, nhưng nếu nỗi sợ rất mạnh, thân thể sẽ bị cuốn đi bất chấp lý trí. Cơn hoảng loạn vô cớ như thế—tôi không nói đến cơn hoảng loạn đôi khi cuốn qua một đám đông, một điều rất khác—đôi khi ta bắt gặp trong chính mình khi sức khỏe suy kém, do sự kiệt quệ của hệ não-tủy. Một nỗi kinh sợ vô cớ đôi khi sẽ trỗi dậy từ quá khứ. Lắm khi [61] nó mang hình thức sợ “siêu nhiên”. Nỗi sợ ấy thực ra có thể phát sinh theo cách khác; nhưng có một kiểu sợ “siêu nhiên” thuộc về tàn dư còn lại trong hệ giao cảm từ quá khứ, từ thời con người sống trong nỗi sợ triền miên trước cái bất khả tri, và khi, trong cái bất khả tri của thiên nhiên, họ nhìn thấy đạo binh những kẻ thù siêu nhiên. Nỗi sợ ấy đôi khi khởi lên từ đặc tính quốc gia và tổ tiên truyền vào thân thể vật chất, và những điều mà chúng ta không sợ trong tâm thức khi thức, đôi khi lại tự khẳng định như các đối tượng kinh hãi. Một ví dụ về điều ấy chợt hiện trong tâm trí tôi trong trường hợp nhà văn lớn Thomas Carlyle. Ông nói rằng ban ngày ông không tin vào ác quỷ, nhưng nếu ông thức giấc vào giữa đêm, ông hoàn toàn tin vào y. Ông không tin vào ác quỷ; nhưng những ấn tượng từ tổ tiên Scotland của ông, việc in hằn vào tâm trí trẻ thơ về kẻ thù khủng khiếp ấy, và nỗi sợ bị y chộp lấy trong một phút dại dột—điều đó vẫn còn ở tầng tiềm thức, và trỗi dậy trong tâm trí vào lúc sinh lực của khung thể xác thấp nhất—trong đêm. Tuy nhiên, ở đây, đã có sự pha trộn với các hồi ức tổ tiên ấy một dạng thứ hai của vô thức thuộc về đời sống hiện tại, nơi các tư tưởng đơn giản là chìm vào một lớp sâu hơn của não vật chất, và không bị trao cho hệ giao cảm. Bằng phương tiện thôi miên có thể phân biệt hai dạng vô thức này. Bạn không thể, trong trạng thái xuất thần thôi miên, làm sống lại những gì nằm trong sự khống chế của [62] hệ giao cảm, nhưng bạn có thể làm sống lại những gì ở trong các lớp sâu hơn của não. Rồi còn tất cả những hành động mà tuần trước đã nói đến, từng có mục đích trong quá khứ, nhưng đã được trao lại cho hệ giao cảm để tiếp tục, và những điều ấy đóng vai trò rất quan trọng trong tiềm thức. Có rất nhiều điều mà xưa kia chúng ta làm với sự chú tâm, nhưng nay ta không còn chú tâm nữa. Chỉ có một lượng chú ý nhất định sẵn có, dù nó có thể được mở rộng đôi chút; và khi Chân ngã thấy y có thể tận dụng tính tự động của tự nhiên, và trao cho các vận cụ việc lặp lại điều mà y đã bắt chúng làm đi làm lại, thì phần tiềm thức này gia tăng, và mọi thứ rơi vào sự kiểm soát của hệ giao cảm đều trở thành tiềm thức. Bạn biết rõ mức độ sẵn sàng trong các thần kinh và cơ bắp đã được rèn luyện của chúng ta, việc trao một điều cho năng lực tự động của thân thể hồng trần diễn ra như thế nào. Một trong những ví dụ phổ biến nhất sẽ là hành động viết, hoặc chơi piano. Bạn biết một đứa trẻ dồn cả thân mình vào hành động học viết ra sao; nó làm đủ kiểu mặt mày; nó quằn quại trong cơn “đau đớn” của sự chú ý. Nó không thể làm khác; toàn bộ sức mạnh chú ý của nó phải hướng vào việc điều khiển khó nhọc các ngón tay. Khi thói quen tự động được thiết lập, các ngón tay sẽ viết mà nó không cần nghĩ về động tác. Và trong trường hợp một nghệ sĩ piano được đào luyện, những đoạn nhạc quen thuộc được trình tấu hoàn toàn bằng năng lực tự động của thân thể. Và điều ấy diễn ra liên tục. Chân ngã tận dụng [63] tính tự động của các vận cụ để đặt vào tay chúng càng nhiều thứ y có thể thoái gánh. Hãy nhớ y luôn nỗ lực đi lên, cố gắng thoát khỏi các cõi thấp; y luôn cố trút bỏ những gánh nặng ngăn trở bước leo của mình. Y không muốn bị bận tâm, thí dụ, bởi việc trông nom các chức năng sinh lực của thân thể, và chỉ chú tâm đến cỗ máy mà y đã rèn luyện khi có điều gì trục trặc. Tất cả những điều đó chúng ta có thể gác sang bên như là tiềm thức. Mọi vận hành như thế đều có thể phục hồi nếu nhọc công, nhưng không đáng; trái lại, càng có thể trao cho tính tự động ấy bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Ta càng ít phải dùng tâm thức khi thức cho những việc lặp đi lặp lại, ta càng có nhiều để làm việc với những điều thật sự cần đến sự chú tâm của nó; và đó là một lợi ích rõ rệt, khi chúng ta lần lượt trao từng phần hành động có mục đích của mình vào cơ cấu cẩn trọng của hệ giao cảm, với năng lực làm sau một lượng luyện tập nhất định điều mà điều đó là đáng mong muốn nhất để nó làm.

But there is another part of the sub-consciousness a little more difficult to define. I put it rather on the border between the sub-conscious and super-conscious. It comes through the sympathetic system; therefore it has the mark of the sub-conscious upon it. On the other hand, it does not belong to the past, so that it loses one of the hall-marks of our sub-conscious; for, speaking generally, the sub-conscious comes out of the past. Now, we find coming into the waking-conscious­ness certain vague intuitions; certain vague fears—­not the same as that spoken of just now, but others [64] that we cannot grasp—the fear of impending misfortune which is often followed by news of misfortune, the half-­knowledge of the death of some friend, of an accident or illness of some one dear to us; these come to us from the sub-consciousness in this intermediate condition. We can trace exactly how they come, and you must decide for yourself, after looking at the way of their occurring, whether you classify them as sub-conscious or super-conscious. They come from the astral plane, and they come from phenomena of that plane affecting the vibrations of the surface of the astral body from outside. Some misfortune which has just occurred makes a vibrating picture on the astral plane. That picture, vibrating in astral matter, affects the astral body from without, coming up against it just as you might feel a breeze, throwing the surface of the astral body into vibrations. Those vibrations will convey themselves to the sympathetic nervous system, especi­ally by way of the solar plexus-the most important plexus, perhaps, in that system, as regards the com­munication with the astral body. By way of the sympathetic system generally and the solar plexus particularly this feeling will assert itself, will be passed on by the sympathetic system to the brain, and so, coming into the waking-consciousness, make you con­scious of the dread. It has worked itself round in this way: from outside to the vibrating astral body, through that astral body to the sympathetic nervous system, to the solar plexus, and from the solar plexus it works its way upwards through the connecting links to the [65] brain, where it emerges in our waking-consciousness. This is often accompanied by a feeling of sickness if the vibration be very strong, and that feeling of sickness is very characteristic of the place at which it enters, the solar plexus, so constantly connected with the mechanism of the stomach. You will often find, if you observe carefully, that these manifestations of dread are accompanied by a feeling of physical sickness. And so with many other sensations, especially those of fear, of a different kind from that which I mentioned, and said I would refer to again. Many people have a feeling of dread which is not the feeling of dread transmitted from our ancestors, nor a dread arising from the deeper layers of the brain, but is a dread originating in the astral plane, and working its way down on to the physical in the same way that the coming of the vibra­tion I have just described makes its way to the physical brain. There are many beings on the astral plane whose presence is antipathetic to man, whose feelings are not friendly—partly because man is so destructive an animal. The elementals having to do with the physical and animal world are all more or less hostile to the human race, because of the trouble the human race causes them. If you watch the thoughtlessly destructive action of many people, you will readily see how the hostility may arise from the astral plane, where these particular elementals have their habitat; and this feeling of hostility arouses a trembling in the astral body, and this causes vibration in the sympathetic system, and the corresponding change in consciousness [66] appears as a fear in the physical brain. This very often takes place at night for the reason alluded to, that the physical vitality is then lower than during the day. Moreover, if your nervous and muscular systems are out of order, you will often be troubled by certain fears of the senses, which give rise to what are roughly called hallucinations—visions which are often the dim catch­ing sight of beings existing in the astral world. To get rid of those, increase the health, and, by understanding whence they come, oppose your knowledge to the influence on the brain.

Nhưng còn một phần khác của tiềm thức khó định nghĩa hơn đôi chút. Tôi đặt nó như ở ranh giới giữa tiềm thức và siêu thức. Nó đến qua hệ giao cảm; vì thế nó mang dấu ấn của tiềm thức. Mặt khác, nó không thuộc về quá khứ, nên nó mất đi một trong những dấu ấn đặc trưng của phần tiềm thức của chúng ta; bởi, nói chung, tiềm thức đi ra từ quá khứ. Nay, chúng ta thấy đi vào tâm thức khi thức những trực giác mơ hồ; những nỗi sợ mơ hồ—không giống loại vừa nói, mà là những loại [64] khác ta không nắm bắt được—nỗi sợ một tai ương sắp tới vốn thường được theo sau bởi tin dữ, sự bán-tri về cái chết của một người bạn, về một tai nạn hay bệnh hoạn của người thân yêu; những điều này đến với chúng ta từ tiềm thức trong tình trạng trung gian này. Chúng ta có thể lần theo chính xác cách chúng đến, và bạn phải tự quyết định, sau khi xem xét cách thức xảy ra của chúng, liệu bạn xếp chúng vào tiềm thức hay siêu thức. Chúng đến từ cõi cảm dục, và chúng đến từ các hiện tượng của cõi ấy ảnh hưởng đến rung động của bề mặt thể cảm dục từ bên ngoài. Một tai ương vừa xảy ra tạo nên một bức tranh rung động trên cõi cảm dục. Bức tranh ấy, rung trong chất liệu cảm dục, tác động lên thể cảm dục từ bên ngoài, chạm vào nó đúng như bạn có thể cảm thấy một làn gió, làm cho bề mặt của thể cảm dục rung lên. Những rung động đó sẽ truyền sang hệ thần kinh giao cảm, đặc biệt theo đường tùng thái dương—có lẽ là đám rối quan trọng nhất trong hệ ấy, xét về khía cạnh giao tiếp với thể cảm dục. Qua hệ giao cảm nói chung và tùng thái dương nói riêng, cảm giác này sẽ tự khẳng định, sẽ được hệ giao cảm chuyển tiếp lên não, và như thế, đi vào tâm thức khi thức, khiến bạn ý thức về nỗi kinh hãi. Nó đã vận hành theo cung đường như sau: từ bên ngoài vào thể cảm dục đang rung động, qua thể cảm dục đó đến hệ thần kinh giao cảm, đến tùng thái dương, và từ tùng thái dương nó lần theo các liên kết nối tiếp đi lên [65] não, nơi nó bộc lộ trong tâm thức khi thức của chúng ta. Điều này thường đi kèm với một cảm giác buồn nôn nếu rung động rất mạnh, và cảm giác buồn nôn đó rất đặc trưng cho nơi nó đi vào, tức tùng thái dương, vốn liên hệ thường xuyên với cơ chế của dạ dày. Bạn sẽ thường thấy, nếu quan sát kỹ, rằng những biểu hiện kinh hãi này đi cùng với cảm giác buồn nôn thể chất. Và còn nhiều cảm giác khác như thế, đặc biệt là những cảm giác sợ hãi, một loại khác với điều tôi đã nêu và hẹn sẽ quay lại. Nhiều người có cảm giác kinh hãi không phải là nỗi sợ truyền từ tổ tiên, cũng không phải nỗi sợ khởi sinh từ các lớp sâu hơn của não, mà là nỗi sợ khởi đầu trên cõi cảm dục, và lần đường đi xuống thể chất theo cùng một cách như sự đi đến của rung động mà tôi vừa mô tả lần đường vào não vật chất. Có nhiều hữu thể trên cõi cảm dục có sự hiện diện gây ác cảm với con người, cảm xúc của họ không thân thiện—một phần bởi con người là giống loài quá phá hoại. Các hành khí liên quan đến thế giới thể chất và động vật đều ít nhiều thù nghịch với nhân loại, bởi những phiền toái mà nhân loại gây ra cho họ. Nếu bạn quan sát hành vi phá hủy thiếu suy nghĩ của nhiều người, bạn sẽ dễ dàng thấy vì sao sự thù nghịch có thể khởi lên từ cõi cảm dục, nơi các hành khí đặc thù này cư trú; và cảm giác thù nghịch này khơi dậy một sự run rẩy trong thể cảm dục, và điều này gây rung động trong hệ giao cảm, và thay đổi tương ứng trong tâm thức [66] bộc lộ như một nỗi sợ trong não thể chất. Điều này rất thường xảy ra vào ban đêm vì lý do đã nói đến, rằng sinh lực thể chất khi đó thấp hơn ban ngày. Hơn nữa, nếu hệ thần kinh và cơ bắp của bạn rối loạn, bạn sẽ thường bị quấy rầy bởi một số nỗi sợ của giác quan, làm phát sinh những gì đại thể được gọi là ảo giác—những thị kiến vốn thường là sự thoáng thấy mờ mịt các hữu thể tồn tại trên cõi cảm dục. Để loại bỏ những điều ấy, hãy gia tăng sức khỏe, và bằng việc hiểu rõ nguồn gốc của chúng, hãy lấy hiểu biết của mình đối kháng với ảnh hưởng của chúng lên não.

This leads us on to a consideration of the super-­conscious; and I should give as the general definition of the super-conscious, that which is in consciousness on the super-physical planes, and when sent down to the physical plane arrives directly in the brain, not through the sympathetic system; where it comes from the astral, it comes from the astral senses com­municating with the physical senses, and not from the surface of the astral body communicating with the sympathetic system. This is an important point; because here you want to increase while controlling, and not to chase away and get rid of. Now many visions and hearings of voices come in this way, and the first thing in dealing with them is not to be afraid. The moment you fear, you are losing grip of your brain, and are falling under the control of your sympathetic nervous system; so that fear is the most deadly enemy of the man who would bring the super-consciousness into connexion with his normal waking-consciousness. [67] If you are timid, leave it alone, for you may injure yourselves, causing nervous disintegration which may go on even into madness. I say that, because visions and voices are always regarded by doctors as signs of danger; and they are signs of danger if they come accompanied with instability of the nervous organisa­tion. They are not signs of danger, but signs of a widening of the brain-consciousness, if they come with health and with sanity, apart from any symptoms of hysteria, any eccentricity of thought and conduct. If you find the normal is disturbed with the coming of these visions or voices from the super-conscious, then set to work to improve your normal health. If, on the other hand, you find the normal is not upset, if you find you axe sane for your everyday work while at the same time this opening of consciousness is perceived, then you can go on without attending particularly to the question of the nervous mechanism. I do not forget, in saying this, that very often true visions from the super-consciousness come hand in hand with a dis­organised nervous system. This is perfectly true; because, as I told you last week, the stage of evolution we have reached is not yet sufficiently high for the sane vibration of the brain in connexion with these higher vibrations. Therefore, they need not be at once rejected, because you find them accompanied by some instability of the normal brain; but such nervous trouble is a danger-signal, warning you to take care of the body and not press it beyond its possibility of healthy existence; a sign only to allow them to come very slowly, [68] gradually, deliberately, to shut the door upon them to a considerable extent, until the brain accustoms itself to the reception of such messengers. You may say: “How can I do it? They come uninvited”. Still you can shut your door. Occupy the brain with some­thing else, and that normal exercise of the brain will prevent these visitors from being too insistent. It is not that you are going to shut them out altogether, but you are not going to let them break up the mechan­ism whereby hereafter they shall come normally into consciousness. You see that you are here treading difficult ground, and knowledge is absolutely necessary for safety.

Điều này dẫn chúng ta đến việc xét đến siêu thức; và tôi muốn đưa ra định nghĩa chung về siêu thức là: những gì ở trong tâm thức trên các cõi siêu hồng trần, và khi được gửi xuống cõi hồng trần thì đi thẳng vào não, không qua hệ giao cảm; nếu nó đến từ cõi cảm dục, thì nó đến qua các giác quan cảm dục giao tiếp với các giác quan thể chất, chứ không phải từ bề mặt của thể cảm dục truyền sang hệ giao cảm. Đây là một điểm quan trọng; bởi ở đây bạn muốn gia tăng đồng thời kiểm soát, chứ không phải xua đuổi và loại bỏ. Nay nhiều thị kiến và việc nghe tiếng nói đến theo cách này, và điều đầu tiên khi xử lý chúng là đừng sợ. Khoảnh khắc bạn sợ hãi, bạn đang mất sự nắm giữ đối với bộ não của mình, và rơi vào sự chi phối của hệ thần kinh giao cảm; vì thế sợ hãi là kẻ thù chết người nhất của người muốn đưa siêu thức liên hệ với tâm thức khi thức bình thường của mình. [67] Nếu bạn nhút nhát, hãy để yên, vì bạn có thể gây thương tổn cho chính mình, khiến thần kinh phân rã và thậm chí tiến tới cuồng loạn. Tôi nói điều đó, bởi các bác sĩ luôn coi thị kiến và tiếng nói như những dấu hiệu nguy hiểm; và chúng thực là dấu hiệu nguy hiểm nếu đi kèm với sự bất ổn của tổ chức thần kinh. Chúng không phải là dấu hiệu nguy hiểm, mà là dấu hiệu của sự mở rộng tâm thức não bộ, nếu chúng đến cùng với sức khỏe và sự minh mẫn, không có bất kỳ triệu chứng cuồng loạn nào, không có bất thường trong tư duy và hành vi. Nếu bạn thấy cái bình thường bị quấy đảo với sự xuất hiện của các thị kiến hay tiếng nói từ siêu thức, vậy thì hãy bắt tay cải thiện sức khỏe bình thường của bạn. Nếu mặt khác, bạn thấy cái bình thường không bị đảo lộn, nếu bạn thấy bạn vẫn minh mẫn cho công việc hằng ngày đồng thời với việc nhận thấy sự mở ra của tâm thức này, vậy bạn có thể tiếp tục mà không cần đặc biệt bận tâm đến vấn đề cơ chế thần kinh. Tôi không quên, khi nói điều này, rằng rất thường các thị kiến chân thực từ siêu thức đi đôi với một hệ thần kinh rối loạn. Điều đó hoàn toàn đúng; bởi như tôi đã nói tuần trước, giai đoạn tiến hóa mà chúng ta đạt tới còn chưa đủ cao để não rung động một cách lành mạnh trong liên hệ với các rung động cao hơn này. Vì vậy, chúng không nhất thiết phải bị loại bỏ ngay, chỉ vì bạn thấy chúng đi kèm với một mức bất ổn nào đó của não bình thường; nhưng rối loạn thần kinh như thế là một tín hiệu nguy hiểm, cảnh báo bạn hãy chăm sóc thân thể và đừng ép nó quá khả năng tồn tại khỏe mạnh; một dấu hiệu bảo bạn chỉ cho phép chúng đến thật chậm [68] rãi, dần dần, có chủ ý, đóng cánh cửa lại với chúng ở một mức độ đáng kể, cho đến khi bộ não tự làm quen với việc tiếp nhận những sứ giả như thế. Bạn có thể nói: “Làm sao tôi làm được? Chúng đến mà không mời.” Dẫu vậy bạn vẫn có thể đóng cửa của mình. Hãy khiến bộ não bận rộn với điều gì khác, và bằng việc vận dụng bình thường của bộ não, bạn sẽ ngăn những “vị khách” này trở nên quá lấn tới. Không phải là bạn sẽ khép họ hẳn ra ngoài, mà là bạn sẽ không để họ phá hỏng cơ cấu nhờ đó về sau họ sẽ đi vào tâm thức một cách bình thường. Bạn thấy rằng ở đây bạn đang bước trên địa hạt khó khăn, và tri thức là điều tuyệt đối cần thiết cho sự an toàn.

From the super-conscious region come down those impulses which are called the promptings of genius. Directly from the higher Self-conscious ‘I’ these promptings of genius come down, sometimes causing instability of the brain which is not yet fitted for the reception of them; but that is the instability of growth, not of disease. But you may say: “Sometimes with the genius we find great irregularity of moral conduct,” and that is a point which puzzles people very much. Why is it that hand in hand with these rushes from the higher planes, coming from the higher mental plane straight down into the brain, why should those be accompanied by irregularities of life? Under that strange phenomenon is working a law which it is well to understand, a law obscure in its workings, subtle in its bearing upon life, but none the less of enormous importance, and most important of all for those who [69] desire to quicken their evolution and increase the incomings from the super-consciousness. It is this: when any force comes down from a higher plane it is subject to transmutation in the vehicle into which it comes. According to the nature of the vehicle will be the transmutation of the force; not the whole of it­—some will come through in its pristine glory, and assert itself in the lower world in its spiritual splendour, but a large part of it will be changed by the vehicle into which it plays, and it will then be changed into the form of energy to which that vehicle lends itself most readily. This is the law, and a law of far-reaching importance; for it means that it is not well for a great rush of spiritual or of higher mental life to come down into the unprepared body—not now from the standpoint of the danger of nervous disorganisation, but because the ordinary channels of energy in that body will catch the flow, and will transmute part of it simply into greater vitality, strengthening the force which is accustomed to run in those channels; so that if an organism have a tendency, say, to sexual excitement, genius will immensely increase the force of that sexual excitement by that part of it which is transmuted into vitality. Some of you who are students of the past may have caught a glimpse of the fact that it was this which made necessary the coming of the Sons of Mind into the Third Race; the downfall of the spiritual life into the channels of the animal man so enormously increased his animal powers, that it was necessary that the Sons of Mind should come to the helping, or humanity would have plunged down [70] into the vilest of animal excesses, the very force of the spiritual life would have increased the depth of the plunge into degradation. So that when you are inviting, as so many are inviting today, the down-flow of the super-conscious into the waking-consciousness, take care as to the purity of the vessels into which that water of life is to flow. It was once said by a great Teacher that just as the purest water becomes polluted and muddy when it flows into vessels that are foul, so is the Divine Wisdom defiled when it flows into minds that are unprepared, into hearts that are impure. Certainly strive to bring within your being the down-­flow from the higher planes; certainly strive to open up the whole of your nature to the rays of sunshine which come from those loftier regions; but beware, in inviting that fecundating force of the sunlight, that there are no seeds of foulness within your nature, which may be quickened into growth when the sunlight falls upon them. Beware that you purify the nature, before you invite the inflow of the higher forces. Hence has it been said to the candidates for the higher teaching: “First, cease from evil.” Until you have ceased from evil, the less of the higher life that flows into you the better. After you have ceased to do evil, begin the control of the senses. Subject them absolutely to the mastery of the mind; then bring the mind under the control of the higher mind, and make the wanderings and errancies of the lower mind quiet and still, under the influence of the higher. Only when the man has thus purified the vehicles, only in the tranquility of the senses [71] and the silence of the mind, can he see with safety the glory of the Self. I do not give the warning in order to discourage you from treading the higher path, from seek­ing for the higher life; the warning is only the warning of one who has seen the dangers of the inflow of the life into the unprepared and unpurified vehicles. I repeat the warning of the ages and of the Wise, and simply put it into modern phraseology Climb! climb as you will, with full courage, with steady heart, with open eyes, fearlessly, without dread of aught that you may meet; for the Divine within you is stronger than aught that is without you. But as you climb the ladder, take care that the feet are clean with which you climb. Cleanse the feet before you climb the ladder, and do not soil its rungs with the mire of earth; for that will make your feet cling to the ladder, will prevent the climbing, or even may make you slip and fall. [**] Climb as you will; but remember that only to the pure is the vision of the Divine vouchsafed. Climb as you will; but remember that the super-consciousness must come down into a waking-consciousness that is pure. If you purify it, then climb onwards swiftly as your courage can carry you, swiftly as your enthusiasm can raise you; for to the pure there is no danger in any world, and to the heart of the pure will all Nature’s secrets be unveiled. [72]

Từ miền siêu thức giáng xuống những xung lực được gọi là những thúc động của thiên tài. Trực tiếp từ “cái Tôi” tự thức cao hơn, những thúc động thiên tài ấy giáng xuống, đôi khi gây bất ổn nơi bộ não vốn chưa thích hợp để tiếp nhận chúng; nhưng đó là sự bất ổn của trưởng thành, không phải của bệnh hoạn. Song bạn có thể nói: “Đôi khi nơi thiên tài, chúng ta thấy những bất thường lớn trong hạnh kiểm,” và đó là một điểm làm nhiều người rất bối rối. Vì sao đồng hành với những đợt xung kích từ các cõi cao hơn, giáng từ cõi thượng trí thẳng xuống não, lại là những bất thường trong đời sống? Dưới hiện tượng lạ lùng ấy là sự vận hành của một định luật mà hiểu được thì rất tốt, một định luật u uẩn trong tác động của mình, vi tế trong ảnh hưởng lên đời sống, nhưng dầu vậy có tầm quan trọng to lớn, và quan trọng nhất cho những ai [69] ước muốn gia tốc tiến hóa của mình và gia tăng dòng chảy từ siêu thức. Đó là: khi bất kỳ lực nào giáng xuống từ một cõi cao hơn, nó chịu sự chuyển hóa trong vận cụ vào đó nó đi vào. Tùy theo bản tánh của vận cụ mà lực sẽ được chuyển hóa; không phải toàn bộ—một phần sẽ xuyên qua trong vinh quang nguyên thủy của nó, và tự khẳng định mình trong cõi thấp bằng huy hoàng tinh thần của nó, nhưng một phần lớn sẽ bị biến đổi bởi vận cụ mà vào đó nó tác động, và rồi nó sẽ được chuyển thành dạng năng lượng mà vận cụ ấy dễ dàng thích ứng nhất . Đây là định luật, và là một định luật có tầm ảnh hưởng xa rộng; vì nó có nghĩa rằng không tốt khi một dòng trào mạnh mẽ của sự sống tinh thần hay của sự sống thượng trí giáng xuống một thân thể chưa được chuẩn bị—lúc này không xét từ quan điểm nguy cơ rối loạn thần kinh, mà bởi vì các kênh năng lượng thông thường trong thân thể ấy sẽ bắt lấy dòng chảy, và sẽ chuyển hóa một phần của nó đơn giản thành sinh lực lớn hơn, củng cố những lực vốn quen chảy trong các kênh ấy; đến nỗi nếu một cơ thể có khuynh hướng, thí dụ, tới kích động dục tính, thì thiên tài sẽ gia tăng khổng lồ sức mạnh của kích động dục tính ấy bằng phần lực được chuyển hóa thành sinh lực. Một số bạn là người nghiên cứu quá khứ có thể đã thoáng thấy rằng chính điều này đã khiến sự giáng lâm của Các Con của Trí Tuệ vào Giống dân thứ ba trở nên tất yếu; sự tuột dốc của sự sống tinh thần vào các kênh của thú nhân đã làm gia tăng khủng khiếp các quyền năng thú tính của hắn, đến mức cần thiết phải có Các Con của Trí Tuệ đến trợ giúp, bằng không nhân loại đã lao [70] xuống vào những phóng túng thú tính đê tiện nhất, chính sức mạnh của sự sống tinh thần sẽ làm tăng độ sâu của cú rơi vào sa đọa. Vậy nên khi bạn đang thỉnh mời, như rất nhiều người ngày nay đang thỉnh mời, dòng chảy từ siêu thức vào tâm thức khi thức, hãy cẩn trọng về sự thanh khiết của những bình chứa trong đó “nước sự sống” ấy sẽ chảy vào. Đã từng có lời một vị Huấn sư vĩ đại nói rằng cũng như nước tinh khiết nhất trở nên ô nhiễm và đục bẩn khi chảy vào những bình bẩn thỉu, thì Minh triết thiêng liêng cũng bị vẩn đục khi chảy vào những tâm trí chưa được chuẩn bị, vào những trái tim còn ô uế. Hãy nỗ lực đưa vào toàn thể hữu thể của bạn dòng chảy từ các cõi cao hơn; hãy nỗ lực mở toang toàn bộ bản tánh mình với những tia nắng đến từ những miền cao hơn ấy; nhưng hãy coi chừng, khi thỉnh mời lực thụ sinh của ánh dương, rằng không có những mầm ô uế nào trong bản tánh bạn, có thể được thúc nảy khi ánh dương chiếu tới. Hãy coi chừng, hãy thanh lọc bản tánh, trước khi bạn thỉnh mời dòng vào của các lực cao hơn. Do đó mới có lời dạy cho những người cầu học giáo huấn cao hơn: “Trước hết, hãy dứt ác.” Cho đến khi bạn đã dứt ác, thì càng ít để sự sống cao hơn tuôn vào bạn càng tốt. Sau khi bạn đã thôi làm điều ác, hãy bắt đầu chế ngự các giác quan. Hãy đặt chúng hoàn toàn dưới quyền chủ trị của trí tuệ; rồi đưa trí tuệ dưới sự điều phục của thượng trí, và khiến những lang bạt và lầm lạc của hạ trí trở nên tĩnh lặng và yên ổn dưới ảnh hưởng của thượng trí. Chỉ khi con người đã như thế mà thanh lọc các vận cụ, chỉ trong sự tĩnh lặng của các giác quan [71] và trong sự im lặng của tâm trí, y mới có thể nhìn thấy một cách an toàn vinh quang của Chân Ngã. Tôi không đưa ra lời cảnh báo này để làm bạn nản lòng trong việc bước lên con đường cao cả, tìm kiếm đời sống cao hơn; lời cảnh báo chỉ là lời cảnh báo của kẻ đã thấy những nguy hiểm của dòng sống tuôn tràn vào các vận cụ chưa chuẩn bị và chưa thanh lọc. Tôi lặp lại lời cảnh báo của các thời đại và của những Bậc Minh triết, và chỉ đơn giản đặt nó vào ngôn ngữ hiện đại: Hãy leo! hãy leo như bạn muốn, với đầy dũng khí, với trái tim vững bền, với đôi mắt mở to, không sợ hãi, không e dè bất cứ điều gì bạn có thể gặp; vì Đấng Thiêng liêng bên trong bạn mạnh hơn bất cứ điều gì ở bên ngoài bạn. Nhưng trong khi leo thang, hãy coi chừng để cho đôi chân bạn sạch sẽ khi leo. Hãy rửa sạch đôi chân trước khi leo thang, và đừng bôi bẩn các bậc thang bằng bùn đất; vì như thế sẽ làm cho chân bạn dính vào thang, sẽ cản trở việc leo, hoặc thậm chí có thể khiến bạn trượt ngã. [**] Hãy leo như bạn muốn; nhưng hãy nhớ rằng chỉ người thanh khiết mới được ban thị kiến về Đấng Thiêng liêng. Hãy leo như bạn muốn; nhưng hãy nhớ rằng siêu thức phải giáng vào một tâm thức khi thức thanh tịnh. Nếu bạn thanh lọc nó, vậy thì hãy leo nhanh tới mức dũng khí có thể đưa bạn đi, nhanh tới mức nhiệt huyết có thể nâng bạn lên; vì với người thanh khiết thì không có nguy hiểm ở bất kỳ thế giới nào, và cho trái tim của người thanh khiết mọi bí mật của Tự Nhiên sẽ được khai mở. [72]

Leave a Comment

Scroll to Top