4. Clairvoyance and Clairaudience.
We are to study tonight certain phenomena very well known in their outline, and becoming more and more common in our day. They are still more common if we travel across the Atlantic, and even commoner yet as we go West across America. This increase of people who possess powers at present abnormal and unusual is very marked if you follow along the line I have suggested. This increase appears to be partly due to the climatic conditions, and partly, perhaps, to the temporary instability that is the result of crossing races with each other—more, however, I am inclined to think, is due to climatic influences than to the other causes. The electric tension in the atmosphere has a remarkable effect upon the nerves, and the condition of the nerves is closely concerned with the lower forms of clairvoyance. I am told that the proportion of people who show capacity in this way has increased even in late years. When I myself was on the Californian [73] Coast some eight years ago, I noticed, in dealing with a public audience, that there was no need to argue as to the reality of the facts; so many people having had experiences of their own, so many more having heard of the experiences of relatives or friends, the task of the Theosophist there changes its character. One had to explain things which they accepted, and not to argue, as you still must on this side of the Atlantic, as to the reality of the happenings. So far as the reality of them goes, however, we find a great change is coming over public opinion here as well. The facts are so well authenticated, they have been subjected to such careful analysis and scrutiny, that when you come to the irreducible minimum you have facts, that even scepticism can hardly challenge. | Tối nay chúng ta sẽ khảo sát một số hiện tượng rất quen biết về đại cương, và đang trở nên ngày càng phổ biến trong thời đại của chúng ta. Chúng còn phổ biến hơn nữa nếu chúng ta vượt qua Đại Tây Dương, và còn phổ biến hơn nữa khi đi tiếp về phía Tây qua châu Mỹ. Sự gia tăng số người sở hữu những năng lực hiện còn bất thường và hiếm có này rất rõ rệt nếu bạn đi theo lộ trình mà tôi vừa gợi ý. Sự gia tăng này dường như một phần do điều kiện khí hậu, và có lẽ một phần do sự bất ổn tạm thời là kết quả của sự pha trộn các chủng với nhau—tuy vậy, tôi thiên về nghĩ rằng nhiều hơn là do ảnh hưởng khí hậu hơn là các nguyên nhân khác. Điện thế căng thẳng trong khí quyển có ảnh hưởng kỳ lạ lên thần kinh, và tình trạng của thần kinh liên quan mật thiết đến các dạng thông nhãn thấp. Tôi được cho biết rằng tỷ lệ người biểu lộ năng lực theo cách này đã tăng lên ngay cả trong những năm gần đây. Khi chính tôi ở Bờ biển California [73] cách đây chừng tám năm, tôi nhận thấy, khi diễn thuyết trước công chúng, rằng không cần phải tranh luận về thực tại của các sự kiện; vì quá nhiều người đã có những kinh nghiệm của riêng mình, còn nhiều người khác đã nghe những kinh nghiệm của người thân hay bạn bè, nên nhiệm vụ của người theo Thông Thiên Học ở đó thay đổi bản chất của nó. Người ta phải giải thích những điều họ đã chấp nhận, chứ không phải tranh luận, như bạn vẫn còn phải làm ở phía bên này của Đại Tây Dương, về thực tại của các biến cố. Tuy nhiên, xét riêng về thực tại của chúng, chúng ta thấy một thay đổi lớn cũng đang đến với dư luận ở đây. Các sự kiện được chứng thực quá vững vàng, chúng đã được đặt dưới sự phân tích và khảo sát cẩn trọng đến mức khi bạn đi tới mức tối thiểu bất khả giản lược, bạn có những sự kiện mà ngay cả chủ nghĩa hoài nghi cũng khó lòng thách thức. |
This evening I want, if possible, to classify these phenomena, and show you the lines along which they appear to go; to show you the part of us which is concerned with them, as I may say, and so perhaps, by giving you an outline of that kind, I may make it easy for you hereafter to put such phenomena in their proper places; to deal intelligently with them; and to explain to those who have not studied the theosophical theory how luminous it is with regard to these abnormal happenings. | Tối nay tôi muốn, nếu có thể, phân loại các hiện tượng này, và chỉ cho bạn những đường hướng mà chúng dường như đi theo; chỉ cho bạn phần nào trong chúng ta liên hệ với chúng, có thể nói như vậy, và như thế có lẽ, bằng việc cho bạn một dàn bài theo kiểu ấy, tôi có thể giúp bạn về sau dễ dàng đặt các hiện tượng như vậy vào đúng vị trí; xử lý chúng một cách thông minh; và giải thích cho những người chưa học thuyết Thông Thiên Học thấy nó sáng tỏ dường nào đối với các biến cố bất thường này. |
Let us recognise, then, that we are to deal now with a perceiver, an inner Man, who is going to perceive as much as he can through his available organs. He is well accustomed to use his physical organs—for tens and hundreds of thousands of years he has been working [74] with these, so that he has comparatively no difficulty with them; he understands fairly well the phenomena that surround him on the physical plane. He can sort them out according to reiterated observations, and he knows quite well that he answers to these whenever the vibrations that come from them strike upon a part of his body able to vibrate in the same fashion, whenever he is able to reproduce within his body vibrations similar to those that strike on that body from without. He knows that the power of perceiving varies in himself and in others, even within the familiar physical senses. He knows perfectly well, by innumerable scientific experiments, that the power of hearing is not the same in all the people around him, but varies very much, although it is not called “clairaudience” until it goes far beyond the normal. Before that point it would simply be called “exceptional acuteness of hearing”, and no sort of difficulty arises in the way of the most scientific mind accepting these differences. Of course you know how the siren is used to test hearing; higher and higher notes are given out, and as the notes become higher and higher; one after another of the listeners drops out, and says: “There is silence.” Now, there is not silence, but only incapacity to hear; the machine is going on, and some are able to hear the note after the first person has dropped out. A second says: “There is silence,” but others still hear. So you can go on and on, until at last you reach a note which no one present is able to hear. You have gone beyond the limits of even acute physical hearing. What do we need, then, [75] to go a little farther? We simply need to have the organ of physical hearing made a little more tense, so that it responds to rather swifter vibrations. And similarly with sight. Here we need to make the organ of sight a little more delicate, so that we may be able to respond to vibrations to which at present it is insensible; for the whole thing turns on that—the organ of sensation, the nature of the vibration—endless vibrations are around us to which we are wholly insensible. They do not exist for us. | Vậy hãy công nhận rằng bây giờ chúng ta sẽ đề cập đến một chủ thể nhận biết, một Con Người nội tại, kẻ sắp nhận biết bao nhiêu tùy y có thể qua các cơ quan sẵn có của mình. Y đã quen sử dụng các cơ quan thể chất—trong hàng chục, hàng trăm ngàn năm y đã làm việc [74] với chúng, nên y hầu như không gặp khó khăn với chúng; y khá hiểu các hiện tượng bao quanh mình trên cõi hồng trần. Y có thể phân loại chúng theo những quan sát lặp đi lặp lại, và y biết rất rõ rằng y sẽ đáp ứng với chúng bất cứ khi nào những rung động đến từ chúng đánh vào một phần trong thân y có khả năng rung động theo cùng một cung bậc, bất cứ khi nào y có thể tái tạo trong thân mình những rung động tương tự với những rung động từ bên ngoài đánh vào thân. Y biết rằng năng lực tri nhận biến thiên nơi chính y và nơi kẻ khác, ngay trong phạm vi các giác quan thể chất quen thuộc. Y biết rất rõ, qua vô số thí nghiệm khoa học, rằng năng lực nghe không như nhau ở mọi người quanh y, mà biến thiên rất nhiều, dù nó không được gọi là “thông nhĩ” cho đến khi nó vượt xa mức bình thường. Trước điểm đó, người ta đơn giản gọi là “thính lực đặc biệt tinh nhạy”, và chẳng có khó khăn nào trong việc để cho một bộ óc khoa học nhất chấp nhận các sai khác này. Dĩ nhiên bạn biết còi thử âm (siren) được dùng để kiểm tra thính lực như thế nào; âm sắc càng lúc càng cao được phát ra, và khi âm sắc cao dần; người nghe này rồi người khác rời cuộc, và nói: “Im lặng.” Nay, không phải im lặng, mà chỉ là bất năng nghe; chiếc máy vẫn vận hành, và một số người vẫn nghe được nốt nhạc sau khi người đầu tiên đã bỏ cuộc. Một người thứ hai nói: “Im lặng,” nhưng những người khác vẫn còn nghe. Cứ như thế, đến cuối cùng bạn đạt tới một nốt mà không ai trong phòng có thể nghe được. Bạn đã đi vượt quá giới hạn của ngay cả thính giác thể chất tinh nhạy. Vậy chúng ta cần gì [75] để đi xa hơn một chút? Chúng ta đơn giản cần làm cho cơ quan nghe thể chất căng hơn đôi chút, để nó đáp ứng với những rung động nhanh hơn. Và tương tự với thị giác. Ở đây chúng ta cần làm cho cơ quan thị giác tinh tế hơn đôi chút, để ta có thể đáp ứng với những rung động mà hiện tại nó không nhạy; vì toàn bộ vấn đề xoay quanh điều đó—cơ quan cảm giác, bản chất của rung động—vô số rung động ở quanh ta mà chúng ta hoàn toàn không nhạy biết. Chúng không tồn tại đối với chúng ta. |
Let us try, then, first of all, to classify, with regard to sight, the phenomena which present themselves under the general name of “clairvoyance”. The first of these will come when what you may call the ordinary physical sight becomes a little sharper; and it can be made a little sharper by treatment. I want to take you step by step, so that you may see that there is nothing really marvellous here, but a ladder, the steps of which are perfectly intelligible. The first thing is to make the physical sight a little more acute by dealing with it in a particular way. One successful way has been to shut the person up in a cellar for a time. The darkness has a certain effect upon the retina, rendering it more sensitive. This was observed by Baron von Reichenbach many years ago, but he came a little too early. He shut people up for hours in the dark, and found that a considerable portion of these people could thereafter see that which they could not see when they went in; and the thing that they saw was simply the light emanating from a magnet. He took his people from [76] all classes of society, and he found a large number of them could see the magnet in the dark, and notice that there was more light round the poles than in the middle. Those experiments you can read at your leisure. And they have never really been disproved, or improved upon. Among other things he noticed was that people could not only see the light of the magnet, but could see the mesmeric fluid emanating from the finger tips of the mesmerist. | Vậy trước hết, hãy thử phân loại, liên quan tới thị giác, những hiện tượng xuất hiện dưới tên gọi chung “thông nhãn”. Điều thứ nhất trong số này sẽ đến khi cái mà bạn có thể gọi là thị giác thể chất thông thường trở nên sắc sảo hơn đôi chút; và nó có thể được làm sắc hơn bằng việc rèn luyện. Tôi muốn dẫn các bạn đi từng bước, để bạn thấy rằng ở đây chẳng có gì thực sự thần kỳ, mà là một chiếc thang với những bậc hoàn toàn dễ hiểu. Điều đầu tiên là làm cho thị giác thể chất nhạy hơn một chút bằng cách xử lý nó theo một cách riêng. Một cách làm thành công là cho người ấy ở một thời gian trong hầm tối. Bóng tối có một tác dụng nhất định lên võng mạc, làm cho nó nhạy cảm hơn. Điều này được Nam tước von Reichenbach quan sát từ nhiều năm trước, nhưng ông đến hơi sớm. Ông cho người ta ở hàng giờ trong bóng tối, và thấy rằng một bộ phận đáng kể trong số họ sau đó có thể thấy điều mà khi bước vào họ không thấy; và điều mà họ thấy đơn giản là ánh sáng phát ra từ một nam châm. Ông tuyển người [76] từ mọi tầng lớp xã hội, và ông thấy một số đông có thể thấy nam châm trong bóng tối, và nhận ra rằng có nhiều ánh sáng quanh các cực hơn là ở giữa. Những thí nghiệm đó bạn có thể đọc lúc rảnh. Và thật ra chúng chẳng khi nào bị bác bỏ thực sự, hay được cải tiến. Trong số những điều khác ông lưu ý là người ta không chỉ có thể nhìn thấy ánh sáng của nam châm, mà còn có thể thấy lưu chất thôi miên phát ra từ các đầu ngón tay của nhà thôi miên. |
Then we come to a modern experiment, an interesting one, the details of which I was told the other day by a well-known French scientist, who was interested in the debated question of the “N” rays. As you may probably know from the reports, some people can see those rays, and some cannot; therefore the first thing the scientist says is: “Oh! they are a delusion.” But a little breach was made in that favourite and accustomed attitude by finding that two or three of the scientific men, who could not see at first, could be made to see by subjecting them to the same training in a cellar, so that after sitting in darkness for three or four hours, they were able to see the rays. And this seems to me a point of enormous importance to the regular scientific man—that there is a possibility of training the body to see more than it can normally see. For that is the beginning of quite a new system: that a man may come into touch with subtler vibrations, not by proving a physical apparatus outside himself, but by improving the physical apparatus of his own body—a very popular way of working in Eastern lands, [77] where the method of science is to improve the body of the scientist rather than to make more delicate instruments with which he can experiment outside. Of course, I do not say that those experiments have established to the universal satisfaction of scientific men the existence of the “N” rays; they have not. But they have done much in that direction, and their repetition over and over again will make the matter more definite and more generally accepted. You have there, then, a slight increase of the delicacy of ordinary human sight by subjecting it to certain conditions. | Rồi chúng ta đến một thí nghiệm hiện đại, thú vị, mà chi tiết của nó tôi được một nhà khoa học Pháp nổi tiếng kể cho nghe gần đây, người quan tâm đến vấn đề còn tranh cãi về các tia “N”. Như bạn có lẽ đã biết qua các báo cáo, một số người có thể thấy các tia ấy, và một số thì không; do đó điều đầu tiên nhà khoa học nói là: “Ồ! đó là ảo tưởng.” Nhưng một vết rạn nhỏ đã xuất hiện trong thái độ ưa thích và quen thuộc ấy khi người ta phát hiện rằng hai ba nhà khoa học, vốn lúc đầu không thể thấy, có thể được làm cho thấy bằng cách đặt họ vào quá trình rèn luyện tương tự trong hầm tối, đến nỗi sau khi ngồi trong bóng tối ba bốn giờ, họ có thể thấy các tia. Và điều này, theo tôi, là một điểm có tầm quan trọng rất lớn đối với nhà khoa học chính thống—rằng có khả năng rèn luyện thân thể để thấy nhiều hơn mức nó thường thấy. Bởi đó là sự khởi đầu của cả một hệ thống mới: một người có thể tiếp xúc với các rung động vi tế hơn, không phải bằng cách cải tiến một thiết bị bên ngoài mình, mà bằng việc cải thiện chính cỗ máy thể chất của thân y—một cách làm rất được ưa chuộng ở các xứ phương Đông, [77] nơi phương pháp khoa học là cải thiện thân thể của chính nhà khoa học hơn là chế tạo các khí cụ tinh tế hơn để y có thể thí nghiệm bên ngoài. Dĩ nhiên, tôi không nói rằng các thí nghiệm ấy đã thiết lập, một cách làm thỏa mãn phổ quát với giới khoa học, sự hiện hữu của các tia “N”; chúng chưa. Nhưng chúng đã làm được nhiều theo hướng đó, và sự lặp lại của chúng hết lần này qua lần khác sẽ khiến vấn đề trở nên rõ ràng và được chấp nhận rộng rãi hơn. Vậy là bạn có một sự gia tăng nhẹ về độ tinh tế của thị giác con người thông thường bằng cách đặt nó trong những điều kiện nhất định. |
The next stage is that by changing the balance between the muscular and the nervous systems a little, you can sometimes obtain a greater keenness of vision, or a greater delicacy of hearing, than is normal to the individual concerned. Where the person is in strong and robust health, he will be blind and deaf to these delicate vibrations. Supposing the muscular strength diminishes and a tension is put upon his nerves, either deliberately by artificial action, such as fasting—a favourite way in the Middle Ages—which lowers the bodily vitality and tends to, make the nerves more sensitive; or accidentally, as in cases of nervous tension, either by mental worry or in any other way. Under these conditions a partial clairvoyance will show itself, which decreases when healthier conditions are recovered. An old friend of mine, a materialist, was rather remarkable in this way for her occasional clairvoyant sight—remarkable because she remained a materialist in spite of it. If she were very anxious, worried, over-worked, [78] or a little ill, she would find herself seeing where; as she said, there was nothing. She saw in a very peculiar way a friend of hers who had lately passed over. She saw what we call the “etheric double”, and she described exactly the disintegration the etheric double undergoes as the physical body decays; so that anyone knowing anything about the break-up of the etheric double could trace from her description what she had seen. At the time, I had nothing by which to explain these facts, but later on I came to understand what it was she had seen. Another of her experiences was one concerning a man she had known fairly well, and with whom she had often gone to concerts. The man died. To her great surprise, this gentleman one day appeared to her and walked with her, discussing musical points, so that she could hardly convince herself that he was dead, or that she herself was under a delusion. She told me that the whole thing was so common-place and natural that she looked upon it as a most extraordinary happening, and left it as a thing she could not explain. That experience also I put by as an interesting and to the materialist an unexplained, fact. There was in this case the change of balance I mentioned, the lack of vigour of the ordinary muscular system, and the overstrained condition of the nerves. It is no answer to that to say: “hallucination”; for that explains nothing; because when you have said “hallucination”, the next question that arises is: “What is hallucination?” These hallucinations are very instructive. The fact that they come to people with overstrained [79] nerves is very significant, for it means that the nerve is vibrating at a higher tension, and that if it were possible to get that higher tension without loss of physical health we should make a distinct step forward in evolution, so far as normal vision is concerned. | Giai đoạn kế là bằng cách thay đổi một chút thế cân bằng giữa hệ cơ bắp và hệ thần kinh, bạn đôi khi có thể đạt được độ sắc bén thị giác lớn hơn, hoặc độ tinh tế thính giác cao hơn mức bình thường đối với cá nhân liên hệ. Khi người ấy khỏe mạnh cường tráng, y sẽ mù và điếc với những rung động tế vi này. Giả sử sức mạnh cơ bắp giảm và một sự căng thẳng được đặt lên thần kinh, hoặc cố ý bằng hành động nhân tạo, như nhịn ăn—một cách làm ưa chuộng vào thời Trung Cổ—vốn hạ thấp sinh lực thân xác và khiến thần kinh nhạy cảm hơn; hoặc vô tình, như trong các trường hợp căng thẳng thần kinh, bởi lo nghĩ tinh thần hoặc bằng bất kỳ cách nào khác. Dưới những điều kiện này, một phần thông nhãn sẽ lộ diện, và sẽ giảm đi khi các điều kiện khỏe mạnh được phục hồi. Một người bạn cũ của tôi, một người theo chủ nghĩa duy vật, khá đáng chú ý theo kiểu này do thỉnh thoảng bà có thị kiến—đáng chú ý vì bà vẫn duy vật bất chấp điều đó. Nếu bà rất lo lắng, bận tâm, làm việc quá sức, [78] hoặc hơi bệnh, bà thấy mình “trông thấy” nơi mà, như bà nói, “chẳng có gì”. Bà thấy theo một cách rất kỳ lạ một người bạn của bà mới qua đời. Bà nhìn thấy cái mà chúng ta gọi là “bản đôi dĩ thái”, và bà mô tả chính xác sự phân rã mà bản đôi dĩ thái trải qua khi thân thể vật chất phân hủy; đến nỗi bất kỳ ai biết chút ít về sự tan rã của bản đôi dĩ thái đều có thể lần theo mô tả của bà mà thấy bà đã nhìn thấy điều gì. Vào thời điểm ấy, tôi không có gì để giải thích các sự kiện đó, nhưng về sau tôi hiểu ra điều bà đã thấy. Một kinh nghiệm khác của bà liên quan đến một người đàn ông bà quen khá rõ, và với ông ta bà thường đến các buổi hòa nhạc. Người đàn ông qua đời. Đến điều bà hết sức ngạc nhiên, một ngày kia ông này hiện ra trước mặt và đi cùng bà, bàn luận những điểm âm nhạc, đến nỗi bà khó lòng tự thuyết phục mình rằng ông đã chết, hoặc rằng chính bà đang bị ảo tưởng. Bà nói với tôi rằng toàn bộ sự việc bình thường và tự nhiên đến mức bà xem nó như một hiện tượng cực kỳ lạ lùng, và gác lại như một điều bà không sao giải thích được. Kinh nghiệm đó tôi cũng gác lại như một sự kiện thú vị và, đối với người duy vật, không thể giải thích. Trong trường hợp này đã có sự thay đổi thế cân bằng mà tôi vừa nói, thiếu sinh lực nơi hệ cơ bắp thông thường, và trạng thái quá tải của thần kinh. Không thể trả lời điều đó bằng cách nói: “ảo giác”; bởi điều đó chẳng giải thích gì cả; vì khi bạn đã nói “ảo giác”, câu hỏi kế tiếp khởi lên là: “Thế nào là ảo giác?” Những “ảo giác” như thế rất đáng để học hỏi. Sự kiện chúng đến với những người thần kinh quá tải là điều hết sức có ý nghĩa, vì nó có nghĩa rằng dây thần kinh đang rung với một lực căng cao hơn, và nếu có thể đạt đến lực căng cao hơn ấy mà không làm mất sức khỏe thể chất thì chúng ta sẽ tiến thêm một bước rõ rệt trong tiến hóa, xét riêng về thị giác bình thường. [79] |
We now come to another class of cases where the nature of the clairvoyance is what we call “astral”, the foregoing being classed under the head of “etheric”. Under the heading of “astral vision” you will have a large number of those appearances of people at the moment of death, or shortly before or after it, together with a large number of other phenomena, the seeing of thought-forms, and so on; and among these will come that very curious phenomenon called “second sight”, the more significant because it generally, although not invariably, takes place with people who are somewhat uncultivated, whose intelligence is not very highly developed, and in whom the emotional character somewhat predominates over the intellectual. In such a person the astral body will be very active, and readily thrown into violent vibration. Moreover, it will answer readily to vibrations coming to it from outside, when it is itself fairly quiet. Looked at still more closely, we notice that for the most part in the phenomenon of “second sight”, you do not get what we Theosophists should speak of as definite and clear astral vision. You have a vibration in the astral body which is somewhat general in its character, rather than an action of those centres in the astral body which are specially connected with astral vision. But you do have action [80] in the astral centres connected with the physical eye, and that is an interesting point; for you must remember that the physical sense organs have astral counterparts, astral centres which are not the same as those we call distinctively the astral “chakras”, or wheels. These astral chakras are the organs of the astral body as such, and are used for clear vision, etc., on the astral plane, as the physical eye is used for clear vision on the physical plane; but the others that I have called simply “astral centres” are centres connected with the physical organs. They are not distinctively astral, although they are aggregations of astral matter in the astral body. They do not receive direct impressions of astral happenings, which are then clearly seen and responded to on the astral plane; they do receive astral vibrations which, being once taken into them pass on to the physical centres with which they are in communication, so that they are of the nature of connecting bridges between the astral and physical planes, and are not developed astral senses in the proper sense of the term. Second sight belongs to these—a movement in the astral sense centres which passes on to the physical sight; and there is one characteristic thing which points to this difference, and that is that second sight is largely symbolical; it is not often the record of a distinct happening, but a symbolical presentation of that which is going to happen. Some Highlander sees a number of his neighbours pass by him, perhaps on a certain day in the year when it is supposed that anyone who will die during the year will be seen—and seen how? [81] With a shroud round him; and the height to which the shroud is raised over the figure is taken as representing the time which will elapse before that person will die. It is symbolical; it is not a scene of what is actually taking place on the astral plane, but the perceiver, who does see what is going on, transmits his knowledge in this curious symbolical way. Where you get clear vision, there will be a seeing of the thing as it takes place, and that is not usually, although it is sometimes, put under this heading of second sight—where a person, for instance, sees a sinking ship with a loved one on board, or where any distinct vision of that kind is obtained. Pass a step farther in clairvoyance, and you come to mental clairvoyance, the coming down into the physical brain of vibrations from the mental plane; but this usually happens in the case of genius. You come across it largely in connection with painters. The painter sees and tries to reproduce, and the greater the genius of the painter the greater will be his disgust at his imperfect representation of what he has seen in the moment of inspiration. Now that cannot be called astral clairvoyance, but rather mental clairvoyance. Closely connected with that is a subtle form of clairvoyance which enables a person to recognise a truth and a principle; where a scientific man suddenly sees one principle which unites and explains a large number of facts. When he catches sight of an underlying law which classifies and renders orderly a chaos of observations, that man is, unconsciously to himself, using a very beautiful form of mental clairvoyance, and it is [82] in a very literal sense of the term that he sees, although he himself would not recognise it as sight. | Giờ đây chúng ta chuyển sang một hạng trường hợp khác, nơi bản chất của thông nhãn là điều chúng ta gọi là “cảm dục”, còn phần trước được xếp dưới đầu đề “dĩ thái”. Dưới đầu đề “thị kiến cảm dục” bạn sẽ gặp một số lượng lớn những lần xuất hiện của người vào khoảnh khắc lâm chung, hoặc ngay trước hay sau đó, cùng với một số rất lớn hiện tượng khác, việc thấy các hình tư tưởng, v.v.; và trong số này sẽ có hiện tượng rất lạ gọi là “thị kiến thứ hai”, càng đáng lưu ý vì nó thường, dù không phải luôn luôn, xuất hiện nơi những người ít được giáo dục, trí năng không phát triển cao, và trong đó tính cách cảm xúc phần nào trội hơn lý trí. Ở một người như vậy, thể cảm dục sẽ rất năng động, và dễ bị quăng vào những rung động mãnh liệt. Hơn nữa, nó sẽ đáp ứng dễ dàng với các rung động đến từ bên ngoài khi tự nó khá yên tĩnh. Quan sát kỹ hơn nữa, chúng ta nhận thấy rằng phần lớn trong hiện tượng “thị kiến thứ hai”, bạn không có được điều mà chúng ta, những nhà Thông Thiên Học, sẽ gọi là thị kiến cảm dục minh bạch và rõ ràng. Bạn có một rung động trong thể cảm dục mang tính chất khá tổng quát, hơn là một sự vận hành của những trung tâm trong thể cảm dục vốn liên hệ đặc biệt với thị kiến cảm dục. Nhưng quả thật có sự vận hành [80] nơi các trung tâm cảm dục liên kết với con mắt thể xác, và đó là một điểm thú vị; vì bạn phải nhớ rằng các cơ quan giác quan thể xác có những đối phần cảm dục, các trung tâm cảm dục không đồng nhất với những gì chúng ta gọi là các “luân xa” cảm dục, hay những bánh xe theo nghĩa riêng. Những luân xa cảm dục này là các cơ quan của thể cảm dục như thế, và được dùng để thấy rõ, v.v., trên cõi cảm dục, cũng như mắt thể xác được dùng để thấy rõ trên cõi hồng trần; còn các trung tâm khác mà tôi vừa gọi đơn giản là “các trung tâm cảm dục” thì là những trung tâm liên hệ với các cơ quan thể xác. Chúng không phải là cảm dục theo nghĩa riêng, dù chúng là những tập hợp chất liệu cảm dục trong thể cảm dục. Chúng không tiếp nhận trực tiếp ấn tượng của các biến cố cảm dục rồi sau đó được thấy rõ và được đáp ứng trên cõi cảm dục; chúng tiếp nhận những rung động cảm dục và, một khi đã tiếp nhận, truyền chúng sang các trung tâm thể xác mà chúng liên thông, nên chúng thuộc bản chất những chiếc cầu nối giữa các cõi cảm dục và hồng trần, chứ không phải là các giác quan cảm dục đã phát triển theo đúng nghĩa của thuật ngữ. Thị kiến thứ hai thuộc về loại này—một chuyển động nơi các trung tâm cảm giác cảm dục truyền qua thị giác thể xác; và có một đặc điểm chỉ ra sự khác biệt này, ấy là thị kiến thứ hai phần lớn mang tính biểu tượng; nó không thường là ghi chép một biến cố phân minh, mà là một trình hiện mang tính biểu tượng về điều sắp xảy ra. Một người Highlander thấy một số hàng xóm của mình đi ngang qua, có lẽ vào một ngày nào đó trong năm mà người ta cho rằng ai sẽ chết trong năm thì sẽ được thấy—và thấy như thế nào? [81] Với một tấm liệm quấn quanh y; và độ cao mà tấm liệm được kéo lên trên hình người được xem như biểu thị thời gian còn lại trước khi người đó sẽ chết. Đó là biểu tượng; nó không phải là một cảnh tượng đang thực sự diễn ra trên cõi cảm dục, mà người tri nhận, kẻ quả thật thấy điều đang diễn ra, truyền đạt hiểu biết của mình bằng cách biểu tượng lạ lùng này. Khi bạn có thị kiến minh bạch, sẽ có việc thấy sự việc như nó diễn ra, và điều đó thường không, dù đôi khi có, được xếp dưới đầu đề thị kiến thứ hai—như trường hợp một người, chẳng hạn, thấy một con tàu đang chìm với người thân yêu ở trên đó, hoặc nơi có được bất kỳ thị kiến nào rõ ràng thuộc loại ấy. Tiến thêm một bước nữa trong thông nhãn, bạn đi đến thông nhãn trí, tức là các rung động từ cõi trí đi xuống bộ não hồng trần; nhưng điều này thường xảy ra trong trường hợp thiên tài. Bạn gặp nó rất nhiều nơi các họa sĩ. Họa sĩ thấy và cố gắng tái hiện, và thiên tài của họa sĩ càng lớn thì y càng chán ghét sự trình bày không hoàn hảo của mình về điều y đã thấy trong khoảnh khắc cảm hứng. Điều đó nay không thể gọi là thông nhãn cảm dục, mà đúng hơn là thông nhãn trí. Gắn bó chặt chẽ với điều đó là một hình thái thông nhãn vi tế cho phép một người nhận ra một chân lý và một nguyên khí; nơi đó một nhà khoa học đột nhiên thấy một nguyên khí thống nhất và giải thích một số lượng lớn các dữ kiện. Khi y bắt gặp một định luật nền tảng phân loại và làm cho trật tự một mớ quan sát hỗn độn, người ấy, dù không tự biết, đang sử dụng một dạng thông nhãn trí rất đẹp, và đó là [82] theo nghĩa rất đen của thuật ngữ rằng y đang “thấy”, dù chính y sẽ không công nhận đó là thị kiến. |
We find, then, an etheric clairvoyance which can be reached by a slight strain on the ordinary vision; which can be reached also by unbalancing the normal healthy relation between the muscular and nervous systems, and which comes about very readily in cases of nervous tension and overstrain. Then we find the purely astral clairvoyance, which may be symbolical and more or less vague, but which may be, by training, precise, definite, and clear. And all these cases I have been taking are cases in which I am thinking of the person as being in what you would roughly call his normal state; that is, he is not in a trance, and when astral vision is developed by careful methods; by deliberately adopted means, then you will have this astral vision going hand in hand with ordinary physical vision, so that you practically have an expansion of sight. I mean that the man in the normal state will then see all the people round him, but will see in addition the astral people; so that the world to him will be far more thickly populated, as he will see the astral crowds intermingling with the physical, the normal consciousness being in full play, no kind of blinding of that consciousness being necessary to observe the astral phenomena. | Vậy, chúng ta thấy có một thông nhãn dĩ thái có thể đạt được bằng một chút gắng sức đối với thị giác thông thường; cũng có thể đạt được bằng cách làm mất cân bằng mối liên hệ bình thường khỏe mạnh giữa hệ cơ và hệ thần kinh, và điều này xảy ra rất dễ dàng trong các trường hợp căng thẳng thần kinh và quá sức. Rồi chúng ta thấy thông nhãn thuần cảm dục, có thể mang tính biểu tượng và ít nhiều mơ hồ, nhưng có thể nhờ rèn luyện mà trở nên chính xác, dứt khoát và rõ ràng. Và tất cả những trường hợp tôi đang nêu đều là những trường hợp mà tôi nghĩ về người ấy như đang ở trong cái bạn có thể gọi đại khái là trạng thái bình thường của y; tức là, y không ở trong trạng thái xuất thần, và khi thị kiến cảm dục được phát triển bằng các phương pháp cẩn trọng, bằng những phương tiện được cố ý áp dụng, thì bạn sẽ có thị kiến cảm dục song hành cùng thị giác hồng trần thông thường, để rồi bạn hầu như có một sự mở rộng tầm thấy. Ý tôi là người đang ở trạng thái bình thường khi ấy sẽ thấy tất cả những người xung quanh y, nhưng sẽ thấy thêm cả những người cảm dục; nhờ thế, thế giới đối với y sẽ đông đúc hơn nhiều, vì y sẽ thấy các đám đông cảm dục xen lẫn với đám đông hồng trần, còn tâm thức bình thường vẫn vận hành đầy đủ, chẳng cần đến bất kỳ sự làm mù lòa nào đối với tâm thức ấy để quan sát các hiện tượng cảm dục. |
You may have astral, and even mental, vision induced in very ordinary people by certain means which throw them into trance; and this is very interesting, because if you can evolve from persons in trance faculties which in their waking state they do not possess, you [83] show the presence of those faculties in the people, and then it is only a question of evolution, how soon those faculties will appear in the normal way. There are many cases known to some of us where trained clairvoyance has followed the stimulation of the astral faculties by means of the mesmeric trance. Under these conditions the person would become “lucid”, able to see in trance. That, repeated over and over again, will very often cause such a development of the astral faculties as to enable that person first to throw himself into the trance and see, and secondly to see without going into the trance condition at all; so that you get in that case the three definite stages; clairvoyance when thrown by another into trance; clairvoyance when thrown by himself into trance; and lastly, clairvoyance so established in the person by practice that it appears without the trance at all, in the normal condition of the waking-consciousness. That seems to me specially interesting, because it is so common; so many people become lucid in the mesmeric trance. I should like to give you one case which seems to me interesting and significant, because of the people concerned, and also because of its triviality; so that all questions of thought-transference are entirely put on one side. It happened to my friend, the late Charles Bradlaugh. As you all know, he was not a believer in any life outside this life. He was a materialist in the philosophic sense of the term, an unbeliever in the existence of the human soul; but he was also a very strong mesmerist and performed a considerable number [84] of rather remarkable cures. At one time he was rather fond of experiments with this mesmeric power of his. He did not understand it, but he was an open-minded man and could not deny the facts which took place under his own observation. He used occasionally to mesmerise his wife, and at one time he threw her into trance when they were both many hundreds of miles away from London. In the trance his wife used to become “lucid”, which greatly puzzled him. Throwing her thus into the trance condition, he asked her to go to London—he used to use these phrases as they produced the desired effect, although he did not believe they represented the facts—and to go to the office of the National Reformer, and tell him what she saw there. Presently she said she was in the office of the National Reformer, and then, remaining silent for a moment or two, she suddenly called out: “Oh! the stupid woman, she has put the ‘R’ in upside down.” Next morning, the proofs arrived by post. When he came to this particular proof, he found the letter turned upside down exactly as she had stated had been done by the woman compositor, and that always remained with him an unexplained fact. He knew it was true. He certainly did not know of the setting up of the article, nor of the woman turning the letter upside down in one of the words, so that thought-transference was entirely excluded; and yet there remained the very material fact that the proof contained the trivial error which had been observed by his wife hundreds of miles away the day before in the condition of trance. To me, that is a [85] valuable instance because of the people concerned, who did not believe, and because there is no other explanation possible except that she really saw that which she said she saw. There, of course, you have clairvoyance at a distance in a state of trance, and if you can get it in trance there is no reason why you should not have it out of the state of trance. In throwing persons into a trance we have merely rendered them insensitive to the strong vibrations of the physical plane, so that the delicate vibrations to which normally they are insensitive become the only vibrations able to effect them; and it is very easy to understand how that happens. If you were in the tumult of Covent Garden Market you would not clearly follow a very delicate tune softly played on the violin; but in the middle of the night that same tune, played no more loudly, would be perfectly distinct, and every note would fall clearly on the ear. That is exactly what happens to the perceiver when his body is entranced. The vibrations that normally strike on him, but are drowned by the tumultuous vibrations of the physical plane, strike on him when these tumultuous vibrations are still. While in trance, he is insensible to these physical vibrations; you cannot make him feel, or see, or hear. Being insensitive to these, he can become sensitive to the subtle vibrations that otherwise are drowned. It is not that they normally do not reach him; it is that he does not observe them, and a man is only conscious of that which he observes. If, then, in the trance condition, it is possible to gain this from most people, surely it is a fair [86] presumption that these faculties are in a rudimentary condition in man today. If evolution be true, and if Nature’s powers are not exhausted, and if we are not so perfect that no higher perfection can be imagined than the possession of five senses, then it is surely not impossible that these acuter senses are in a rudimentary stage within us at the present moment, and in the course of evolution will evolve in all of us. The idea I want to impress upon you is that these things are on the line of evolution; they are not supernatural but perfectly natural, only not as common now as they will be in the future. | Bạn có thể có thị kiến cảm dục, thậm chí thị kiến trí, được gây nên ở những người rất bình thường bằng những phương tiện khiến họ rơi vào xuất thần; và điều này rất thú vị, bởi nếu bạn có thể khai triển nơi những người trong trạng thái xuất thần các năng lực mà trong trạng thái thức họ không có, bạn [83] chứng tỏ sự hiện diện của những năng lực ấy nơi con người, và khi đó chỉ còn là câu hỏi của tiến hóa: bao lâu nữa thì những năng lực ấy sẽ xuất hiện theo cách bình thường. Có nhiều trường hợp quen thuộc với một số chúng ta, nơi thông nhãn được rèn luyện đã theo sau sự kích thích các năng lực cảm dục bằng trạng thái xuất thần thôi miên. Trong những điều kiện này, người ấy sẽ trở nên “minh kiến”, có thể thấy trong xuất thần. Điều đó, lặp đi lặp lại nhiều lần, sẽ rất thường gây nên một sự phát triển các năng lực cảm dục đủ để cho người ấy trước hết có thể tự mình rơi vào xuất thần mà thấy, và kế đến có thể thấy mà không cần rơi vào trạng thái xuất thần chút nào; nhờ thế, trong trường hợp ấy bạn có ba giai đoạn rõ ràng: thông nhãn khi bị người khác đưa vào xuất thần; thông nhãn khi tự mình đưa mình vào xuất thần; và sau cùng, thông nhãn được thiết lập vững nơi người ấy nhờ thực hành đến mức nó xuất hiện mà không cần xuất thần, trong trạng thái bình thường của tâm thức khi thức. Điều đó dường như với tôi đặc biệt thú vị, vì nó rất phổ biến; rất nhiều người trở nên minh kiến trong trạng thái xuất thần thôi miên. Tôi muốn đưa ra một trường hợp mà tôi thấy thú vị và có ý nghĩa, vì những người liên hệ, và cũng vì tính vụn vặt của nó; do đó mọi câu hỏi về chuyển ý đều hoàn toàn bị gạt sang một bên. Nó đã xảy ra với bạn tôi, quá cố Charles Bradlaugh. Như tất cả các bạn đều biết, Ông không tin vào bất kỳ đời sống nào ngoài đời sống này. Ông là một nhà duy vật theo nghĩa triết học của thuật ngữ, không tin vào sự tồn tại của linh hồn con người; nhưng Ông cũng là một nhà thôi miên rất mạnh và đã thực hiện [84] một số khá lớn những ca chữa trị đáng chú ý. Đã có lúc Ông khá thích các thí nghiệm với quyền năng thôi miên này. Ông không hiểu nó, nhưng Ông là một người cởi mở và không thể phủ nhận những sự kiện diễn ra ngay dưới mắt mình. Thỉnh thoảng Ông thôi miên vợ, và một lần Ông đưa Bà vào xuất thần khi cả hai đang ở cách London hàng trăm dặm. Trong xuất thần, vợ Ông thường trở nên “minh kiến”, điều này làm Ông rất bối rối. Đưa Bà vào trạng thái xuất thần như thế, Ông yêu cầu Bà đi tới London—Ông thường dùng những cụm từ này vì chúng tạo ra hiệu quả mong muốn, dù Ông không tin chúng phản ánh đúng sự thật—và đi đến văn phòng của National Reformer , rồi nói cho Ông biết Bà thấy gì ở đó. Chẳng mấy chốc Bà nói Bà đang ở trong văn phòng của National Reformer , rồi, sau khi im lặng chốc lát, Bà bỗng kêu lên: “Ôi! người đàn bà ngốc, bà ta đã đặt chữ ‘R’ ngược.” Sáng hôm sau, bản in thử tới qua bưu điện. Khi Ông đến bản in thử đặc biệt này, Ông thấy chữ cái bị đảo ngược đúng như Bà đã nói về người thợ sắp chữ, và điều đó luôn ở lại với Ông như một sự kiện không giải thích được. Ông biết điều đó là thật. Ông chắc chắn không biết việc sắp bài, cũng không biết người đàn bà đã lật ngược chữ cái trong một từ nào đó, nên khả năng chuyển ý hoàn toàn bị loại trừ; vậy mà vẫn còn đó sự kiện rất vật chất rằng bản in thử chứa lỗi vụn vặt đã được vợ Ông trông thấy cách xa hàng trăm dặm một ngày trước đó trong trạng thái xuất thần. Với tôi, đó là một [85] ví dụ có giá trị vì những người liên hệ vốn không tin, và vì không có lời giải thích khả dĩ nào khác ngoại trừ việc Bà thực sự đã thấy điều Bà nói Bà thấy. Ở đây, dĩ nhiên, bạn có thông nhãn ở xa trong trạng thái xuất thần, và nếu bạn có thể có nó trong xuất thần thì không có lý do gì bạn lại không có nó ngoài trạng thái xuất thần. Khi đưa người ta vào xuất thần, chúng ta chỉ đơn giản làm cho họ không nhạy cảm trước những rung động mạnh của cõi hồng trần, để cho những rung động tinh tế mà bình thường họ không nhạy cảm trở thành những rung động duy nhất có thể tác động đến họ; và rất dễ hiểu vì sao điều đó xảy ra. Nếu bạn ở giữa cảnh ồn ào của Chợ Covent Garden, bạn sẽ không thể theo rõ một giai điệu rất tinh tế được chơi nhẹ trên vĩ cầm; nhưng vào giữa đêm, giai điệu ấy, dù không chơi to hơn, sẽ hoàn toàn rõ ràng, và mọi nốt sẽ rơi vào tai thật trong trẻo. Đó chính xác là điều xảy ra với người tri nhận khi thân thể y được đưa vào xuất thần. Những rung động vốn thường đánh vào y, nhưng bị nhấn chìm bởi các rung động ầm ầm của cõi hồng trần, nay đánh vào y khi các rung động ầm ầm kia lắng xuống. Trong xuất thần, y không còn nhạy với các rung động hồng trần; bạn không thể khiến y cảm, hay thấy, hay nghe. Vì không nhạy với những rung động ấy, y có thể trở nên nhạy với những rung động tinh tế vốn dĩ bị nhấn chìm. Không phải là bình thường chúng không đến được với y; mà là y không ghi nhận chúng, và con người chỉ có tâm thức về điều y ghi nhận. Vậy, nếu trong trạng thái xuất thần, có thể có được điều này nơi hầu hết mọi người, hẳn đó là một [86] suy đoán hợp lý rằng những năng lực ấy đang ở trong tình trạng phôi thai nơi con người hôm nay. Nếu tiến hóa là thật, và nếu năng lực của Tự Nhiên không cạn kiệt, và nếu chúng ta không hoàn hảo đến mức không thể tưởng tượng được một sự hoàn thiện cao hơn là sở hữu năm giác quan, thì hẳn không phải là bất khả rằng những giác quan tinh tế hơn này đang trong giai đoạn phôi thai trong chúng ta ngay lúc này, và trong tiến trình tiến hóa sẽ phát triển nơi tất cả chúng ta. Ý tưởng tôi muốn nhấn mạnh với bạn là những điều này nằm trên tuyến tiến hóa; chúng không “siêu nhiên” mà hết sức tự nhiên, chỉ là hiện giờ chưa phổ biến như chúng sẽ trở nên trong tương lai. |
The same is true of clairaudience. We have, with respect to that, two famous historical examples mentioned by Mr. Myers, when dealing with this particular kind of hearing—interesting because historical, and because the evidence is so undeniable. I refer, of course, to the cases of Socrates and of Joan of Arc. The case of Socrates is interesting, because of the nature of the communications he received. He saw nothing, but heard a voice, and the voice only interfered with him when he was either going wrong, or when the action he was going to take would have prevented something happening that was useful. As you know, he has left a number of these cases on record, two of which seem to me to be of the profoundest interest: one, the famous case where a man, sitting at supper with him, was proposing to commit an assassination known to no one in the room except himself; the man rose from the table, and the voice spoke to Socrates to stop him, and he did stop [87] him, and kept him still sitting there. A second time the man rose to go, and a second time the voice called the attention of Socrates, and again he stopped him. On the third time he rose the voice remained silent, and the man, determined as he was to go after a double warning—for Socrates on each occasion had told him the voice had spoken—went to his doom. The other case comes near his own death. His speech has been handed down to us. He said a voice, which generally interfered when he was going to make a mistake, did not interfere with him when going down to the place where he made the speech which led to his death; and while he was making his speech and saying things which provoked his sentence, the voice remained silent; so that when he got to the end of that speech which meant his condemnation, he declared that, as the voice had not interrupted, it meant that death was no evil,—surely one of the most splendid conclusions ever drawn by a human brain on the policy of a “supernatural” happening. He recognised what it meant: that death was only a passage to a higher state, which was not to be avoided. | Điều tương tự cũng đúng với thông nhĩ. Chúng ta có, liên quan đến điều đó, hai ví dụ lịch sử nổi tiếng được Ông Myers nêu khi đề cập đến loại thính giác đặc biệt này—thú vị vì tính lịch sử, và vì bằng chứng không thể chối cãi. Tôi muốn nói, dĩ nhiên, đến các trường hợp của Socrates và của Joan of Arc. Trường hợp của Socrates đáng chú ý, do bản chất các thông điệp Ông nhận. Ông không thấy gì, mà nghe một tiếng nói, và tiếng nói chỉ can thiệp khi Ông sắp đi sai, hoặc khi hành động Ông sắp làm sẽ ngăn trở một điều hữu ích xảy ra. Như các bạn biết, Ông đã để lại một số trường hợp như vậy, trong đó có hai trường hợp theo tôi là rất đáng quan tâm: một, trường hợp nổi tiếng khi một người, ngồi ăn tối cùng Ông, đang dự định thực hiện một vụ ám sát mà không ai trong phòng biết ngoài chính y; người ấy đứng dậy rời bàn, và tiếng nói đã bảo Socrates ngăn y lại, và Ông quả đã ngăn [87] y, giữ y ngồi yên tại chỗ. Lần thứ hai y lại đứng dậy định đi, và lần thứ hai tiếng nói lại kêu gọi sự chú ý của Socrates, và lần nữa Ông ngăn y lại. Lần thứ ba y đứng dậy thì tiếng nói im lặng, và người ấy, vốn quyết tâm đi sau hai lần cảnh báo—vì Socrates mỗi lần đều nói với y rằng tiếng nói đã cất lên—đã đi đến chỗ diệt vong. Trường hợp kia đến gần lúc Ông chết. Bài diễn từ của Ông đã được truyền lại cho chúng ta. Ông nói một tiếng nói, vốn thường can thiệp khi Ông sắp mắc lỗi, đã không can thiệp khi Ông đi xuống nơi Ông đọc bài diễn từ dẫn tới cái chết của mình; và khi Ông đang đọc và nói những điều khơi dậy bản án kết tội, tiếng nói vẫn im lặng; đến nỗi khi Ông kết thúc bài diễn từ ấy, vốn đồng nghĩa với bản án, Ông kết luận rằng, vì tiếng nói đã không cắt ngang, điều đó có nghĩa là cái chết không phải là điều ác,—hẳn là một trong những kết luận tráng lệ nhất từng được một bộ não con người rút ra về chính sách của một biến cố “siêu nhiên”. Ông nhận ra ý nghĩa của nó: rằng cái chết chỉ là một cuộc chuyển qua một trạng thái cao hơn, điều không cần tránh. |
The other case—that of Joan of Arc—must be familiar to all of you; but the interesting point of it is that you have the whole thing in a legal form—the evidence of the woman herself, knowing that her evidence threatened her with death; the cross-examination by the subtlest minds in order that her testimony might be shaken; the examination carried on day after day, repeated over and over again, in case, by any possibility, [88] she could be forced to a retraction or contradiction; the clinging to it right through that terrible trial; and when, giving way in a moment of weakness, she denied it, coming back to it again and reiterating the reality of the voices she heard. There you have definite, clear, repeated testimony. The reality you might prove by the facts of her life; by the fact that the untrained peasant girl did the things the voices commanded her to do. When you put the evidence given under such mental stress side by side with the splendid deeds of her life before the trial, then, it seems to me, you get a mass of evidence impossible to shake, evidence of the most important and convincing kind which could be put forward before any jury as proving the fact alleged. | Trường hợp kia—của Joan of Arc—ắt hẳn quen thuộc với tất cả các bạn; nhưng điểm thú vị là bạn có cả sự việc trong hình thức pháp lý—lời chứng của chính người phụ nữ, biết rằng lời chứng ấy đe dọa Bà bằng cái chết; sự đối chất của những trí tuệ sắc sảo nhất để làm lung lay lời khai của Bà; cuộc thẩm vấn kéo dài ngày này qua ngày khác, lặp đi lặp lại, để lỡ bằng bất cứ cách nào [88] Bà có thể bị buộc rút lại hoặc tự mâu thuẫn; sự bám chặt lấy nó suốt cuộc xử án khủng khiếp; và khi, yếu lòng trong một khoảnh khắc, Bà chối bỏ nó, Bà lại quay về với nó và nhắc lại tính hiện thực của những tiếng nói Bà nghe thấy. Ở đó bạn có lời chứng xác định, rõ ràng, lặp lại. Tính hiện thực bạn có thể chứng minh bằng các sự kiện trong đời Bà; bằng việc cô gái nông dân chưa được đào tạo đã làm những điều các tiếng nói truyền lệnh Bà làm. Khi bạn đặt lời chứng được đưa ra dưới áp lực tâm lý như thế cạnh những kỳ công rực rỡ trong đời Bà trước phiên tòa, thì, theo tôi, bạn có được một khối bằng chứng không thể lay chuyển, loại bằng chứng quan trọng và thuyết phục nhất có thể được đem ra trước bất kỳ bồi thẩm đoàn nào để chứng minh sự kiện được nêu. |
Recognising, then, that these facts are so, let us look, before leaving them, at a certain danger connected with them. It is well known that the hearing of voices is one of the commonest signs of impending insanity. When people begin to hear voices, the mad-doctors shake their heads; and in a way it is, of course, a sign of danger, and means an overstrained nervous system which may pass readily into insanity. But leaving that aside, what is it such people bear? They are hearing voices from the astral plane. But you may say: “They often say very foolish things.” But do not you hear foolish things said on the physical plane? I do not think any things heard spoken by the astral voices are more profoundly silly than many of the things said day after day by people on the physical plane. Sometimes a voice gives an incitement to crime. That is a very [89] interesting question. A person with still enough hold over himself to realise the danger says: “I feel a terrible impulse to murder some one.” If you ask him: “Is it any particular person?” He will say: “No.” The utter irrationality of that inclination to commit a murder without motive is very naturally put down as a sign of madness; and certainly a person in that condition should be under control, since he readily passes from the prompting of the voice to the execution of the deed. | Nhận ra, vậy, rằng các sự kiện ấy là như thế, trước khi rời chúng, hãy nhìn một mối nguy nhất định gắn với chúng. Người ta biết rõ rằng việc nghe tiếng nói là một trong những dấu hiệu phổ biến nhất của chứng điên cận kề. Khi người ta bắt đầu nghe tiếng nói, các bác sĩ tâm thần lắc đầu; và theo một nghĩa nào đó, dĩ nhiên, đó là dấu hiệu nguy hiểm, và có nghĩa là một hệ thần kinh quá căng có thể dễ dàng rơi vào điên loạn. Nhưng gác điều đó sang bên, những người như vậy nghe gì? Họ đang nghe những tiếng nói từ cõi cảm dục. Nhưng bạn có thể nói: “Họ thường nói những điều rất ngu xuẩn.” Nhưng chẳng phải bạn cũng nghe những điều ngu xuẩn được nói trên cõi hồng trần sao? Tôi không cho rằng bất kỳ điều gì được nghe từ các tiếng nói cảm dục lại ngớ ngẩn sâu sắc hơn nhiều so với những điều được nói ngày qua ngày bởi người ta trên cõi hồng trần. Đôi khi một tiếng nói xúi giục phạm tội. Đó là một [89] câu hỏi rất đáng chú ý. Một người vẫn còn đủ khả năng tự chế để nhận ra nguy hiểm nói: “Tôi cảm thấy một thúc bách khủng khiếp muốn giết ai đó.” Nếu bạn hỏi y: “Có phải một người cụ thể nào không?” Y sẽ nói: “Không.” Sự vô lý tuyệt đối của xu hướng muốn giết người không có động cơ rất tự nhiên bị xem là dấu hiệu của điên; và chắc chắn một người trong tình trạng đó nên được kiểm soát, vì y dễ dàng đi từ sự xúi giục của tiếng nói đến việc thi hành hành vi. |
Whence come these promptings? They are often nothing more than this: that some one who has committed a murder has been, by the folly of our law, thrown on to the astral plane, when he should be within the walls of a prison, and is left there free to roam about, trying to get others to repeat his crime. It is a characteristic of the criminal that he repeats over and over again in his astral body the crime which has sent him out of the world. Repeating this time after time in the astral body, he will try to impress it upon some one who seems a likely person to respond, and especially upon a person whose energies are overstrained, and who has not, therefore, the normal strength which would make him insensitive to the vibrations. So that you may have this pressure simply coming from a criminal very much alive on the astral plane after he has been hanged here; I may say in passing that the most foolish thing to do with such a man is to hang him. So long as he is in the physical body, being an undeveloped creature, he cannot do much by thought-force, or on the astral plane at all; [90] but, the moment you free him from the physical body his very coarseness and lack of development make him wide-awake on the lowest divisions of the astral plane, whence communication with the physical plane can be most readily made. It is the duty of society to keep him shut up, and it is not right to co-operate with him in his murderous instincts by setting him free. The only possible way to quiet him after setting him free from the physical body is to put him into an astral jail, but it is not always possible to do that; there are conditions which render it generally impracticable, and there is no particular reason for throwing the difficulty on to the astral plane, when it can be so readily dealt with on this side, which is the proper place to try, if possible, in some fashion to improve him. | Những thúc bách ấy đến từ đâu? Chúng thường chỉ là thế này: một ai đó đã gây án mạng đã bị, bởi sự dại dột của luật pháp chúng ta, quăng lên cõi cảm dục, khi lẽ ra y phải ở trong bốn bức tường của nhà tù, và bị bỏ mặc ở đó tự do lang thang, tìm cách khiến những người khác lặp lại tội ác của y. Một đặc điểm của tội phạm là y lặp đi lặp lại trong thể cảm dục của mình tội ác đã tống y ra khỏi trần thế. Lặp lại điều này hết lần này đến lần khác trong thể cảm dục, y sẽ tìm cách gây ấn tượng nó lên một ai đó có vẻ là người dễ đáp ứng, và nhất là lên người có năng lực bị căng quá mức, và vì thế không có sức mạnh bình thường để trở nên không nhạy với các rung động. Thành thử bạn có thể có áp lực này đơn giản đến từ một tên tội phạm còn sống rất dai dẳng trên cõi cảm dục sau khi y bị treo cổ ở đây; nhân tiện tôi muốn nói rằng điều dại dột nhất cần làm với một kẻ như thế là treo cổ y. Chừng nào y còn ở trong thân thể hồng trần, với tư cách một sinh vật chưa phát triển, y không thể làm được nhiều bằng lực tư tưởng, hay trên cõi cảm dục chút nào; [90] nhưng ngay khi bạn giải phóng y khỏi thân thể hồng trần, chính sự thô tháo và thiếu phát triển của y khiến y trở nên tỉnh táo lanh lợi trên các phân cảnh thấp nhất của cõi cảm dục, từ đó sự thông giao với cõi hồng trần có thể thực hiện dễ dàng nhất. Bổn phận của xã hội là giữ y bị giam, và không đúng khi tiếp tay với bản năng sát nhân của y bằng cách phóng thích y. Cách duy nhất có thể làm y yên sau khi giải phóng y khỏi thân thể hồng trần là nhốt y vào một nhà tù cảm dục, nhưng không phải lúc nào cũng có thể làm điều đó; có những điều kiện khiến nó nói chung bất khả thi, và chẳng có lý do đặc biệt nào để quăng cái khó lên cõi cảm dục, khi nó có thể dễ dàng được giải quyết ở phía bên này, nơi vốn là chỗ thích hợp để cố gắng, nếu có thể, cải hóa y theo cách nào đó. |
Leaving that, what does it tell us of the danger? It gives the much needed warning that you should deal with voices and sights which belong to the etheric and astral regions just in the same way as you deal with voices and sights which come to you through your physical organisation. You must get rid of the idea that because a thing comes in an abnormal way it is therefore beautiful and true. It is quite as foolish to follow out suggestions which come to you from the astral plane without weighing them and judging them, as it would be to walk along Seven Dials or Whitechapel, and follow out any suggestion which might come to you from any of the tramps in those regions. You should subject to your judgment and conscience all things that you see [91] and hear from the other side, and if they do not come out clear from that judgment, then, if they are directions to do a thing, leave them alone; otherwise, the more sensitive you become, by the more dangers will you be continually surrounded. You may experiment, but experiment when there is no danger. There are many things a sensitive person may see and hear which do not matter one way or the other, which will not hurt anybody; those are a fair subject for experiment, for it is only by experiment that you will learn to, distinguish If you hear a voice telling you your friend, who is within easy reach, is in great trouble, and you can, by listening to the suggestions of the voice, and with no more harm than “making a fool of yourself”, go and see your friend, there is no harm in doing so. And if you find your friend has no need of you, simply make a note of the facts, and try to analyse them and find out what were the conditions under which you heard or saw, and mistook or were misled. Observe them carefully, keep a note of them, and preserve them for future guidance. But if your friend happens to be in France or Italy, and the journey would be costly and almost impossible, then let it alone, and simply wait for the ordinary method of telegram or post to tell you whether your friend is in trouble or not. And, again, make a record of the true or false impression. Practically it comes to this: use your common-sense in dealing with the astral just as in dealing with the physical world. Do not hold yourself in an atmosphere of awe or reverence, merely because something has come through a sense which at present is [92] rudimentary and undeveloped; for that is the way of credulity and superstition, it is not the way of knowledge and experience. | Gác điều đó sang một bên, nó cho chúng ta biết gì về mối nguy? Nó đưa ra lời cảnh báo rất cần thiết rằng bạn nên xử trí các tiếng nói và cảnh tượng thuộc các vùng dĩ thái và cảm dục y hệt như bạn xử trí các tiếng nói và cảnh tượng đến với bạn qua cơ cấu thể xác của bạn. Bạn phải loại bỏ ý nghĩ rằng vì một sự việc đến theo một cách bất thường nên nó bởi thế mà đẹp và đúng. Thật là ngu xuẩn không kém khi làm theo các gợi ý đến với bạn từ cõi cảm dục mà không cân nhắc và phán đoán chúng, cũng như sẽ thật ngu nếu đi dọc theo Seven Dials hay Whitechapel, và làm theo bất kỳ gợi ý nào đến với bạn từ bất kỳ kẻ lang thang nào ở các vùng ấy. Bạn nên đưa tất cả những điều bạn thấy [91] và nghe từ bên kia vào sự phán đoán và lương tâm của mình, và nếu chúng không ra khỏi đó một cách rõ ràng, thì nếu chúng là chỉ dẫn buộc phải làm điều gì, hãy bỏ qua; nếu không, bạn càng trở nên nhạy cảm bao nhiêu, bạn sẽ càng bị vây bủa bởi nhiều nguy hiểm bấy nhiêu. Bạn có thể thực nghiệm, nhưng hãy thực nghiệm khi không có nguy hiểm. Có nhiều điều một người nhạy cảm có thể thấy và nghe mà không hệ trọng gì, không hại ai; những điều ấy là đề tài thực nghiệm chính đáng, vì chỉ bằng thực nghiệm bạn mới học phân biệt. Nếu bạn nghe một tiếng nói bảo rằng người bạn của bạn, người đang ở trong tầm tay dễ tiếp cận, đang gặp rắc rối lớn, và bạn có thể, bằng cách lắng nghe gợi ý của tiếng nói, và không có gì nguy hại hơn “tự làm mình lố bịch”, đến thăm bạn mình, thì không hại gì khi làm vậy. Và nếu bạn thấy bạn mình không cần đến bạn, đơn giản hãy ghi lại các sự kiện, và cố gắng phân tích chúng và tìm ra điều kiện dưới đó bạn đã nghe hay thấy, và đã lầm hay bị đánh lạc hướng. Quan sát chúng cẩn thận, ghi chép lại, và giữ chúng để chỉ dẫn cho tương lai. Nhưng nếu bạn mình tình cờ ở Pháp hay Ý, và cuộc hành trình sẽ tốn kém và hầu như bất khả, thì hãy bỏ qua, và đơn giản chờ các phương tiện thông thường như điện tín hay bưu điện báo cho bạn biết bạn mình có gặp rắc rối hay không. Và, lần nữa, hãy ghi chép ấn tượng đúng hay sai. Tựu trung, điều này dẫn đến: hãy dùng lương tri của bạn khi xử trí với cõi cảm dục y như khi xử trí với cõi hồng trần. Đừng tự giữ mình trong một bầu không khí kính sợ hay tôn nghiêm, chỉ vì điều gì đó đến qua một giác quan hiện tại còn [92] phôi thai và chưa phát triển; vì đó là con đường của cả tin và mê tín, không phải con đường của tri thức và kinh nghiệm. |
None the less, remember that along this line is the path of evolution; that humanity is evolving keener and subtler senses; that those senses have been evolved by many in the past, and are being evolved now; that they will come to be normally evolved, when we have reached a little way beyond the stage we occupy at present. Do not put yourself in that most irrational position which you might imagine as occupied some millions of years ago by some blind creature before eyes had been developed, who, when he came across a creature that could distinguish a little between the conditions of darkness and light, simply scoffed at him, or tried to kill him. Remember that you are not perfect, and remember that you are evolving. Hold close to those two undoubted facts: “I am an imperfect being,” and “I am a being in a condition of evolution;” then you can utilise any abnormal happenings which you may experience, or which your friends may experience and mention to you. You can look at them without fear, without undue curiosity, without excitement, without losing your head, and thus carefully examining, experiencing, learning, you may be able to quicken your evolution. And if it be better to see physically than to be blind, better to hear physically than to be deaf, better to be able to speak physically than to be dumb, then it is also better to increase the delicacy of those senses and give them a wider area of exercise ; for next [93] to the folly of declaring that these things are not, and the folly of receiving blindly everything you hear, is the folly of saying that these things ought to be discouraged and avoided, when they are in the course of Nature, and mark another stage on the evolutionary road. [94] | Tuy nhiên, hãy nhớ rằng dọc theo tuyến này là con đường tiến hóa; rằng nhân loại đang tiến hóa các giác quan bén nhạy và tinh tế hơn; rằng các giác quan ấy đã được nhiều người phát triển trong quá khứ, và đang được phát triển ngay bây giờ; rằng chúng sẽ trở thành những giác quan được phát triển bình thường khi chúng ta tiến xa hơn một chút so với giai đoạn chúng ta đang chiếm cứ hiện nay. Đừng đặt mình vào vị thế phi lý nhất mà bạn có thể hình dung, như được chiếm cứ hàng triệu năm trước bởi một sinh vật mù trước khi đôi mắt được phát triển, kẻ mà, khi bắt gặp một sinh vật có thể phân biệt đôi chút giữa điều kiện của bóng tối và ánh sáng, chỉ đơn giản chế nhạo hắn, hoặc tìm cách giết hắn. Hãy nhớ rằng bạn không hoàn hảo, và nhớ rằng bạn đang tiến hóa. Nắm chặt hai sự kiện không thể nghi ngờ này: “Tôi là một hữu thể bất toàn,” và “Tôi là một hữu thể trong trạng thái tiến hóa;” rồi bạn có thể sử dụng bất kỳ biến cố bất thường nào mà bạn có thể trải nghiệm, hoặc mà bạn bè bạn có thể trải nghiệm và kể với bạn. Bạn có thể nhìn chúng mà không sợ hãi, không tò mò quá mức, không kích động, không đánh mất tự chủ, và nhờ vậy, bằng sự khảo sát cẩn trọng, trải nghiệm, học hỏi, bạn có thể làm cho tiến hóa của mình được đẩy nhanh. Và nếu tốt hơn là có thể thấy bằng mắt hồng trần hơn là mù, tốt hơn là có thể nghe bằng tai hồng trần hơn là điếc, tốt hơn là có thể nói bằng miệng hồng trần hơn là câm, thì cũng tốt hơn khi gia tăng sự tinh tế của những giác quan ấy và cho chúng một phạm vi vận dụng rộng hơn; vì ngay [93] sau sự ngu dại là tuyên bố rằng những điều này không hiện hữu, và sự ngu dại là mù quáng tiếp nhận mọi điều bạn nghe, là sự ngu dại nói rằng những điều này nên bị nản chí và tránh né, trong khi chúng nằm trong tiến trình của Tự Nhiên, và đánh dấu một chặng khác trên con đường tiến hóa. [94] |