5. Telepathy
Let me remind you of the point at which we have arrived in the course of these lectures. We have seen that there is reason to believe that we are living in three distinct worlds: the physical, the astral, and the mental. We have also seen that we are living in these worlds as conscious entities, in bodies that, being made of the matter of these different worlds, relate us respectively to them; so that by means of one of these bodies we are in touch with the physical, by means of another in touch with the astral, and by means of a third with the mental world. We shall need to keep that in mind when studying the special division of our subject today: that of telepathy; for it is by an understanding of the working of these powers that we shall be able to solve many of the problems which are before psychologists on this particular subject, and be able to recognise whether a message comes by way of the physical, the astral, or the mental. [95] | Hãy để tôi nhắc bạn về điểm mà chúng ta đã đạt tới trong tiến trình của những bài thuyết giảng này. Chúng ta đã thấy có lý do để tin rằng chúng ta đang sống trong ba thế giới riêng biệt: hồng trần, cảm dục và trí. Chúng ta cũng đã thấy rằng chúng ta đang sống trong những thế giới này như các chủ thể có tâm thức, trong những thể vốn, do được tạo bởi chất liệu của các thế giới khác nhau này, liên hệ chúng ta lần lượt với chúng; để rồi bằng một trong những thể này chúng ta tiếp xúc với cõi hồng trần, bằng một thể khác tiếp xúc với cõi cảm dục, và bằng thể thứ ba tiếp xúc với cõi trí. Chúng ta sẽ cần ghi nhớ điều đó khi nghiên cứu phân bộ đặc biệt của đề tài hôm nay: tức là viễn cảm; vì nhờ hiểu biết về sự vận hành của các quyền năng này mà chúng ta có thể giải quyết nhiều vấn đề vốn đang đặt ra cho các nhà tâm lý học về chủ đề cụ thể này, và có thể nhận ra liệu một thông điệp đến theo đường hồng trần, cảm dục, hay trí. [95] |
In thinking of ourselves as thus connected with three worlds, we see opening up before us far larger horizons, far vaster possibilities, than perhaps we were accustomed to connect with ourselves in dealing with the narrower bounds of the physical consciousness. We see that we are here in relation to worlds that not only exist for us while we are in touch with the physical, but also exist for us when we have left the physical by death; that just in so far as we have definitely made our connexions with the astral and mental worlds whilst still in the physical body, will the life on the other side of death become comparatively familiar. It is clear that if we are able to communicate by means of telepathy with people in this world while living in it, and with people in other worlds while we are still in this, we have here possibilities of knowledge far transcending anything that we can reach outside what are definitely called “occult” methods—meaning by that phrase in this particular relation the quitting of the physical encasement by the consciousness, and the travelling in other worlds and bringing back to the physical body the knowledge there gained. If we can establish the reality of telepathic communication, we might then come into touch with many living in those worlds, and by a comparison of their various reports might obtain a fairly extended knowledge of them. For we should be able by means of this telepathy, if the fact of it could be proved, to reach regions altogether out of the range of the ordinary spiritualistic investigations, which are admittedly confined to those persons who are still [96] in the intermediate world, and for the most part are recognised as belonging rather to the regions of that world near the physical plane than to those which lie at a greater distance from it. Every one who has had much to do with communications by mediums is well acquainted with the fact that the statement is often made that the communicating entity is passing on into higher regions and will no longer be able to communicate with the world; while, if it be possible to establish this communication by way of the vehicles which are in touch with these different worlds, then people without occult training would still be able to keep in touch with friends passing on into the heavenly realm, and thus would be able to communicate by way of the mind after the lower communications of the physical and astral had been entirely cut off. Clearly this opens up great possibilities; and Mr. Myers did not over-estimate them in the immense stress he laid on telepathy, as a means for extending the reach of our consciousness beyond the range of the physical. | Khi nghĩ về chính mình như được nối kết với ba thế giới như thế, chúng ta thấy mở ra trước mắt mình những chân trời rộng lớn hơn rất nhiều, những khả tính mênh mông hơn rất nhiều, so với những gì có lẽ ta từng liên hệ với chính mình khi xử trí với phạm vi hẹp hòi của tâm thức hồng trần. Chúng ta thấy rằng chúng ta ở đây trong mối liên hệ với những thế giới không chỉ tồn tại đối với ta trong khi ta tiếp xúc với cõi hồng trần, mà còn tồn tại đối với ta khi ta đã rời bỏ cõi hồng trần bằng cái chết; rằng đúng đến mức nào ta đã xác lập rõ ràng các mối nối của mình với cõi cảm dục và trí trong khi còn ở trong thể hồng trần, thì đời sống ở bên kia cái chết sẽ trở nên tương đối quen thuộc. Rõ ràng là nếu chúng ta có thể giao tiếp bằng phương tiện viễn cảm với người trong thế giới này khi họ đang sống trong đó, và với người trong những thế giới khác khi chúng ta vẫn còn ở thế giới này, thì ở đây chúng ta có những khả năng tri thức vượt xa bất cứ điều gì có thể đạt được ngoài những gì được gọi rõ ràng là các phương pháp “huyền bí”—với ý nghĩa của cụm từ ấy trong liên hệ đặc thù này là việc tâm thức rời bỏ vỏ bọc hồng trần, du hành trong những thế giới khác và mang về thể hồng trần tri thức thu hoạch được ở đó. Nếu chúng ta có thể thiết lập thực tại của thông giao viễn cảm, khi đó chúng ta có thể tiếp xúc với nhiều người đang sống trong những thế giới ấy, và bằng cách so sánh các tường thuật khác nhau của họ, có thể thu được một tri thức khá rộng về chúng. Vì chúng ta sẽ có thể nhờ viễn cảm này, nếu sự kiện của nó có thể được chứng minh, tiếp cận những vùng hoàn toàn nằm ngoài tầm của các cuộc điều tra thần linh học thông thường, vốn thừa nhận là bị giới hạn vào những người còn đang [96] ở trong thế giới trung giới, và phần lớn được ghi nhận là thuộc về các vùng của thế giới ấy gần cõi hồng trần hơn là những vùng ở xa hơn. Mọi người đã từng có nhiều liên hệ với các thông điệp qua đồng tử đều rất quen với sự kiện rằng lời tuyên bố thường được đưa ra là thực thể giao tiếp đang đi vào những vùng cao hơn và sẽ không còn có thể giao tiếp với thế gian nữa; trong khi, nếu có thể thiết lập việc thông giao này bằng đường các vận cụ liên hệ với những thế giới khác nhau đó, thì những người không có huấn luyện huyền bí vẫn có thể giữ liên lạc với bạn bè đang tiến vào cõi thiên, và nhờ vậy sẽ có thể giao tiếp bằng đường trí sau khi các giao tiếp thấp hơn của hồng trần và cảm dục đã hoàn toàn bị cắt đứt. Rõ ràng điều này mở ra những khả tính lớn lao; và Ông Myers đã không đánh giá quá mức chúng trong sự nhấn mạnh to tát mà Ông đặt lên viễn cảm, như một phương tiện để mở rộng tầm với của tâm thức chúng ta vượt ra khỏi phạm vi của cõi hồng trần. |
If we would communicate with these different worlds it may be well, for the moment, to pause on the methods of communication, and see what part of us in each case is the vehicle of communication. The first and most obvious means of communication will be from brain to brain—both brains on the physical plane communicating with each other by the ordinary medium of thought present in the waking-consciousness and working in the physical brain. | Nếu chúng ta muốn giao tiếp với những thế giới khác nhau này, có lẽ nên, trong giây lát, dừng lại nơi các phương pháp giao tiếp, và xem bộ phận nào của chúng ta trong mỗi trường hợp là vận cụ của sự giao tiếp. Phương tiện giao tiếp đầu tiên và hiển nhiên nhất sẽ là từ não tới não—cả hai bộ não trên cõi hồng trần giao tiếp với nhau bằng môi giới thông thường là tư tưởng hiện diện trong tâm thức lúc thức và làm việc trong bộ não hồng trần. |
I was surprised the other day to see the editor of [97] Truth state that thought-transference was entirely unscientific; because any one who knows something of the science of the present day ought at least to be prepared to admit its possibility. I am only now saying “possibility”, although I go farther, and say that it lies well within the limit of facts scientifically proven. Any one who knows anything of wireless telegraphy will at once see that we are face to face with just the same conditions as would justify the idea of thought-transference; that you have started there a series of vibrations through an all-permeating medium, without any need to lay down through that medium ordinary means of communication like wires, and so on. Surely that idea is now so clearly and simply before the minds of newspaper readers that that which is closely analogous to it in principle cannot be said to be outside scientific possibility, or in any sense antagonistic to it. For it is well within the ascertained facts of science that thought action in the brain goes on side by side with electric or magnetic action, these magnetic currents increasing with hard thinking. And this altogether outside the later investigations in France, with regard to what are called the “N” rays; as to which, of course, some scientific people are still in doubt. So that you have to deal with the fact that something of the nature of electric action accompanies thought, and that we are still within ordinary scientific experience when we state the possibility of these vibrations being conveyed through the ether without wires, or other dense connections. For it is not necessary to go [98] beyond the ether in order to deal with the transference of thought currents generated in one brain and received in another. I doubt whether, for the sending of messages from brain to brain, it is absolutely necessary to utilise that special organ for thought-transference, the pineal gland, which is developed in many cases by certain occult methods, and then used for the sending of messages from the physical brain. | Mới đây tôi đã ngạc nhiên khi thấy chủ bút của [97] Truth cho rằng chuyển ý hoàn toàn phản khoa học; vì bất cứ ai biết chút ít về khoa học ngày nay tối thiểu cũng nên sẵn sàng thừa nhận tính khả dĩ của nó. Hiện giờ tôi chỉ nói “khả dĩ”, dù tôi đi xa hơn, và nói rằng nó nằm gọn trong phạm vi các sự kiện đã được khoa học chứng minh. Bất cứ ai biết gì về điện tín vô tuyến sẽ ngay lập tức thấy rằng chúng ta đang đối mặt với đúng những điều kiện có thể biện minh cho ý tưởng chuyển ý; rằng bạn đã khởi phát ở đó một chuỗi rung động xuyên qua một môi trường thấm nhuần khắp nơi, mà không cần đặt trong môi trường đó những phương tiện giao tiếp thông thường như dây dẫn, v.v. Hẳn ý tưởng đó nay đã quá rõ ràng và đơn giản trước tâm trí của độc giả báo chí đến nỗi điều tương tự với nó về nguyên lý không thể bị nói là nằm ngoài khả dĩ khoa học, hay theo bất kỳ nghĩa nào đối nghịch với khoa học. Vì điều nằm gọn trong các sự kiện khoa học đã được xác nhận là hoạt động tư tưởng trong não diễn ra song song với hoạt động điện hay từ, những dòng điện từ này tăng lên khi suy nghĩ căng thẳng. Và điều này hoàn toàn nằm ngoài các điều tra sau này ở Pháp về cái gọi là tia “N”; về điều đó, dĩ nhiên, một số người làm khoa học vẫn còn hoài nghi. Vậy là bạn phải xử trí với sự kiện rằng có điều gì đó thuộc bản chất tác động điện đi kèm tư tưởng, và rằng chúng ta vẫn còn ở trong phạm vi kinh nghiệm khoa học thông thường khi chúng ta nêu ra khả dĩ các rung động này được truyền qua dĩ thái mà không cần dây dẫn, hay những nối kết đậm đặc khác. Vì không cần phải đi [98] vượt ra ngoài dĩ thái để xử trí với sự chuyển di các dòng tư tưởng được phát sinh ở một bộ não và được tiếp nhận ở bộ não khác. Tôi hoài nghi rằng, để gửi thông điệp từ não đến não, có tuyệt đối cần thiết phải sử dụng cơ quan đặc biệt dành cho chuyển ý, tức tuyến tùng, vốn trong nhiều trường hợp được phát triển nhờ một số phương pháp huyền bí, rồi sau đó được dùng để gửi thông điệp từ bộ não hồng trần. |
That which science regards simply as the remains of a third or central eye has possibilities in the future from the standpoint of the occult investigator as well as a history in the past. It is in the pineal gland, more highly developed than at present, that we find the brain organ which acts as a generating instrument in the brain that sends the thought, and as a receiving instrument in the brain to which that thought is transmitted. But apart from that, ordinary thinking, if it be clear, definite, and strongly sustained, would cause quite enough action in the ordinary brain-cells to send out vibrations into space which could be received by an instrument tuned somewhat to the same pitch. This relation of the transmitting and receiving instrument is not without importance, for in order to make the experiments as easy as possible, it is well for two people to begin the practice who are in some close and sympathetic relation the one to the other, such as husband and wife, or members of the same family. | Điều mà khoa học xem đơn giản là tàn tích của một con mắt thứ ba hay con mắt trung tâm, lại có những khả tính trong tương lai dưới nhãn quan của nhà huyền bí học cũng như một lịch sử trong quá khứ. Chính nơi tuyến tùng, được phát triển cao hơn hiện tại, chúng ta tìm thấy cơ quan trong não đóng vai trò như một khí cụ phát trong bộ não gửi tư tưởng, và như một khí cụ tiếp trong bộ não nhận tư tưởng ấy. Nhưng ngoài điều đó ra, tư tưởng thông thường, nếu rõ ràng, dứt khoát và được duy trì mạnh mẽ, sẽ gây ra đủ hoạt động trong các tế bào não thông thường để phát ra các rung động vào không gian, có thể được tiếp nhận bởi một dụng cụ được chỉnh âm phần nào theo cùng một cao độ. Mối liên hệ giữa dụng cụ phát và dụng cụ thu này không phải là không quan trọng, vì nhằm làm cho thí nghiệm dễ dàng nhất có thể, sẽ tốt nếu hai người bắt đầu thực tập là những người có mối liên hệ gần gũi và hòa điệu với nhau, như vợ chồng, hoặc các thành viên trong cùng một gia đình. |
Leaving that for a moment, let us see along what other lines it is possible that thoughts might be transmitted. It would be possible to transmit them from [99] the intermediate body between the mental and physical—the astral; but in order that thought might be clearly and definitely transmitted from astral body to astral body, it would need that the astral development should have been carried to a fairly high pitch. Supposing that the astral body is at the stage when it is fit to be used as a vehicle of consciousness, then there would be no difficulty in the transmission of the thought. | Gác điều đó lại trong giây lát, hãy xem dọc theo những tuyến nào khác tư tưởng có thể được truyền. Có thể truyền chúng từ [99] hiện thể trung gian giữa trí và hồng trần—tức thể cảm dục; nhưng để tư tưởng có thể được truyền rõ ràng và dứt khoát từ thể cảm dục này sang thể cảm dục khác, cần phải có sự phát triển cảm dục đã được đưa lên đến một trình độ khá cao. Giả sử thể cảm dục ở giai đoạn đã sẵn để dùng làm vận cụ của tâm thức, khi đó sẽ không có khó khăn gì trong việc truyền tư tưởng. |
Going one stage higher, to the mental body, there is again a possibility of thought-transference of an exceedingly effective kind, if the thought body be sufficiently developed to be used in this way. So that there are these three ways along which a thought message may go: from brain to brain; from astral body to astral body; and from mental body to mental body; you have here varieties which may explain certain phenomena in thought-transference, as to which explanation has not been very definitely given by our ordinary psychologists, and may explain why—as in case I shall take in a moment—you may get more from a person receiving information than is consciously sent by the transmitter, working in the physical waking-consciousness. | Tiến lên một giai đoạn cao hơn, đến thể trí, lại có một khả dĩ chuyển ý hữu hiệu ở mức độ đặc biệt, nếu thể trí đủ phát triển để được dùng theo cách này. Như vậy có ba con đường dọc theo đó một thông điệp tư tưởng có thể đi: từ não đến não; từ thể cảm dục đến thể cảm dục; và từ thể trí đến thể trí; ở đây bạn có những biến thể có thể giải thích một số hiện tượng trong chuyển ý, mà về chúng lời giải thích chưa được các nhà tâm lý học thường nghiệm đưa ra một cách rất dứt khoát, và có thể giải thích vì sao—như trong trường hợp tôi sẽ nêu ngay—bạn có thể nhận được từ người tiếp nhiều hơn điều được gửi một cách có ý thức bởi người phát, đang làm việc trong tâm thức hồng trần lúc thức. |
Before taking up that point, there is another of considerable importance that I would like to touch upon. It is this: that in many cases in which a thought is sent to you, you may not have that thought reproduced as a thought; it may also be reproduced as a vision, or as a voice. Suppose that you send a thought of a very simple [100] character to a friend—a thought about some object. It might arrive as an idea. You have thought, for instance, of a person, and the idea of that person has asserted itself in the consciousness of the one to whom you had sent the thought. But it might be equally possible that instead of the person receiving the idea of the person thought of, he would hear that person’s name, or see a picture of that person; and naturally the question arises: “Why and how is that?” It depends upon the receiver, not on the sender, and allies itself at once with extremely familiar phenomena with which every one of you will be well acquainted, with regard to the passage of an electric current. | Trước khi đi vào điểm ấy, còn một điểm khác khá quan trọng mà tôi muốn chạm đến. Ấy là: trong nhiều trường hợp khi một tư tưởng được gửi đến bạn, bạn có thể không có tư tưởng ấy được tái hiện như một tư tưởng; nó cũng có thể được tái hiện như một thị kiến, hoặc như một tiếng nói. Giả sử bạn gửi một tư tưởng có tính chất rất đơn giản [ 100] về một đối tượng cho một người bạn. Nó có thể đến như một ý niệm. Bạn đã nghĩ, chẳng hạn, về một người, và ý niệm về người ấy đã tự khẳng định trong tâm thức của người bạn mà bạn đã gửi tư tưởng đến. Nhưng cũng có thể như nhau rằng thay vì người ấy tiếp nhận ý niệm về người được nghĩ đến, y sẽ nghe tên người đó, hoặc thấy một bức chân dung của người đó; và tự nhiên nảy sinh câu hỏi: “Vì sao và như thế nào?” Điều đó tùy thuộc vào người tiếp nhận, không phải người phát, và liên đới ngay với những hiện tượng hết sức quen thuộc mà mỗi người trong các bạn đều biết rõ, liên quan đến sự đi qua của một dòng điện. |
For instance, the first time I ever saw experiments in wireless telegraphy in Calcutta by Professor Bose, the generating instrument was placed in one room, and the spectators, including myself, put ourselves some three rooms away. In the room in which we were, Professor Bose had made a number of arrangements. He had arranged a chemical cell, in which an electric current would cause chemical action; he had arranged a wire, in which an electric current would cause the shining out of a light; he had arranged a pistol which would be fired off by the passage of the electric current; and he had also arranged that a heavy weight should be made to fall when the current passed. Professor Bose generated his current, and all these vibrations must have come throbbing into the room where we were; for suddenly the chemical action took place; the light [101] shone out; the pistol went off; and the weight fell to the ground—all these things took place each according to the special arrangement which had been made to receive and give effect in different ways to the same electrical vibrations, and in this case each one of the results was conditioned by the nature of the apparatus which the electric current touched. | Chẳng hạn, lần đầu tiên tôi thấy các thí nghiệm điện tín vô tuyến ở Calcutta do Giáo sư Bose thực hiện, dụng cụ phát được đặt trong một phòng, còn những người quan sát, kể cả tôi, thì tự đặt mình ở cách đó chừng ba căn phòng. Trong căn phòng nơi chúng tôi ở, Giáo sư Bose đã sắp xếp một số thứ. Ông bố trí một bình hóa học, trong đó một dòng điện sẽ gây ra phản ứng hóa học; Ông bố trí một dây dẫn, trong đó một dòng điện sẽ làm lóe sáng một ngọn đèn; Ông bố trí một khẩu súng lục sẽ được khai hỏa bởi sự đi qua của dòng điện; và Ông cũng bố trí để một vật nặng rơi xuống khi dòng điện đi qua. Giáo sư Bose phát dòng điện, và tất cả những rung động này hẳn đã đập vào căn phòng nơi chúng tôi ở; vì đột nhiên phản ứng hóa học diễn ra; ngọn đèn [ 101] lóe sáng; súng lục nổ; và vật nặng rơi xuống đất—tất cả những điều này diễn ra theo từng sự sắp đặt đặc biệt đã được làm ra để tiếp nhận và cho hiệu ứng theo những cách khác nhau đối với cùng một rung động điện, và trong trường hợp này, mỗi kết quả đều được điều kiện hóa bởi bản chất của cơ cấu mà dòng điện chạm tới. |
Carry that on into the cases of thought-transference, and you will see exactly how it works. The person who most easily receives impressions by way of the ear would be very likely to hear the name of the person thought of; an artist, or one accustomed to visualise, would probably see the face of the person. Each would react in his own particular way. You have simply sent out the thought-vibration, and the person catches the thought according to his most sensitive apparatus. And this, again, is a thing that joins itself with the knowledge of your own nervous apparatus; for you know perfectly well that the sensory nerves, if pressed or injured, answer to that injury by their own particular sense peculiarity. If you press your eye-ball, the pressure is received on the retina as light, although the pressure of your finger was not a generator of light in the ordinary sense of the term. Each nerve answers according to its own fashion; the optic nerve will give you light; the auditory nerve will give you sound. The “spiritual sound” which the Hatha Yogi believes himself to be listening to is an instance in point. He draws in his breath in a particular way, and the effect of drawing in his breath in this way and holding it is to cause a [102] certain pressure upon the auditory nerve; and this pressure shows itself as sound. Every one inclined to try to develop any of the powers connected with the astral or mental plane will do well, before he begins to try, to make himself acquainted with ordinary physiological facts, if he wishes to avoid continual confusion between physiological phenomena and those of the higher planes. | Hãy mang điều đó sang các trường hợp chuyển ý, và bạn sẽ thấy nó vận hành chính xác ra sao. Người dễ dàng nhất tiếp nhận ấn tượng bằng đường tai sẽ rất có khả năng nghe tên người được nghĩ đến; một họa sĩ, hoặc một người quen hình dung, sẽ có khả năng thấy khuôn mặt người ấy. Mỗi người sẽ phản ứng theo cách thức riêng của cơ cấu nhạy cảm nhất nơi y. Bạn chỉ đơn giản phát ra rung động tư tưởng, và người kia bắt được tư tưởng ấy tùy theo dụng cụ nhạy cảm nhất của y. Và điều này, một lần nữa, là một điều gắn liền với tri thức của bạn về cơ cấu thần kinh của chính mình; vì bạn biết rõ rằng các dây thần kinh cảm giác, nếu bị ấn hoặc bị tổn thương, sẽ đáp lại tổn thương ấy bằng đặc thù cảm giác riêng của chúng. Nếu bạn ấn vào nhãn cầu, áp lực ấy được nhận trên võng mạc như là ánh sáng, dù áp lực ngón tay của bạn không phải là một bộ phát ánh sáng theo nghĩa thông thường của thuật ngữ. Mỗi dây thần kinh đáp lại theo cách riêng của nó; thần kinh thị sẽ cho bạn ánh sáng; thần kinh thính sẽ cho bạn âm thanh. “Âm thanh tinh thần” mà vị Hatha Yogi tin rằng mình đang lắng nghe là một ví dụ điển hình. Y hít vào theo một cách thức đặc biệt, và hiệu quả của việc hít vào như vậy và giữ hơi là gây nên một [ 102] áp lực nhất định lên thần kinh thính; và áp lực này biểu hiện ra như âm thanh. Bất kỳ ai muốn phát triển các quyền năng liên hệ với cõi cảm dục hay cõi trí sẽ làm rất tốt, trước khi bắt đầu thử, nếu làm quen với các sự kiện sinh lý học thông thường, nếu y muốn tránh sự lẫn lộn triền miên giữa các hiện tượng sinh lý và những hiện tượng thuộc các cõi cao hơn. |
Understanding, then, these possibilities, you may go forward more safely in trying to understand the abnormal happenings. And let me now take a particular case of thought-transference which I have chosen because of its peculiarity. I have not troubled you hitherto in these lectures with a number of cases, because I thought you could always find them for yourselves; but this particular one I want to borrow from Mr. Myers, because it works out in such a satisfactory fashion, both for what might be expected by the ordinary student, but still more by what might not be expected, and which seems at first sight to be quite irrational. It is a series of experiments conducted by a San Francisco doctor and his wife. The doctor is apparently a Theosophist, his wife a sceptic. This is an advantage, because results which come by a sceptic are much more satisfactory than results which come by a believer, as they shut out all notions that the believer hypnotised himself. This gentleman and his wife were about a hundred miles apart, and the first message sent by his wife was very simple and straightforward. She was thinking it in her waking brain-consciousness. It might be supposed [103] that the receiver should get exactly the words sent, but no: | Hiểu những khả dĩ này rồi, bạn có thể tiến bước an toàn hơn khi cố gắng hiểu các biến cố bất thường. Và giờ để tôi nêu một trường hợp cụ thể của chuyển ý mà tôi chọn vì tính đặc dị của nó. Cho đến giờ tôi chưa làm phiền các bạn trong những bài thuyết giảng này bằng một số lượng các trường hợp, vì tôi nghĩ các bạn luôn có thể tự tìm; nhưng trường hợp đặc biệt này tôi muốn mượn từ Ông Myers, vì nó được triển khai theo một cách rất thỏa đáng, cả đối với điều mà sinh viên thường nghiệm có thể mong đợi, nhưng càng hơn nữa đối với điều có thể không mong đợi, và lúc đầu dường như khá phi lý. Đó là một chuỗi thí nghiệm do một bác sĩ ở San Francisco và vợ Ông thực hiện. Vị bác sĩ dường như là một nhà Thông Thiên Học, vợ Ông là một người hoài nghi. Đây là một lợi thế, vì các kết quả đến từ một người hoài nghi thỏa đáng hơn nhiều so với các kết quả đến từ một người tin, bởi chúng loại bỏ mọi quan niệm rằng người tin đã tự thôi miên mình. Vị này và vợ Ông cách nhau khoảng một trăm dặm, và thông điệp đầu tiên do vợ Ông gửi đi rất đơn giản và thẳng thắn. Bà đang nghĩ nó trong tâm thức bộ não lúc thức. Có thể giả định [ 103] rằng người tiếp nhận nên nhận đúng nguyên văn các từ được gửi, nhưng không: |
May 12. Transmitter, Mrs. S. Arrived safely. Pleasant trips. B. feels fairly well.—We have a nice place in an old-fashioned house.
|
| May 12. Received. Had a good trip. B. slept well. House squarely built and plain; porch surrounded by trees; not fronting the road; rooms very sunny (all accurate. What follows was seen clairvoyantly, apparently.—ED.) Landlady wears sun bonnet with jacket of same. Little boy three years old. (Boy expected but did not arrive till next day. The description accurate). Fire in north-east. (Fire occurred next night). |
May 13. Transmitter, Dr. S. Theresa B. and her mother were here yesterday; also Clara and Emma. Business somewhat dull.—W’s house burnt yesterday. |
| May 13. Received. I think Theresa B. was there or is coming.—Something I can’t make out about business; I think it is bad. |
You have there many additional particulars which are not in the message as sent. Why were they received? If you apply what I told you about the three roads, you will easily realise that the additional particulars were not sent by the brain-consciousness, but run along the other roads, for these facts were thoroughly accurate. The landlady was as described, and had been seen by the transmitter of the message, so that the facts transmitted were in her consciousness, although not deliberately sent by way of the brain. These peculiarities run through the whole of the numerous experiments. [104] You are continually finding more received than was transmitted, but in some cases less. | Ở đó bạn có rất nhiều chi tiết bổ sung không có trong thông điệp như đã gửi. Vì sao chúng được tiếp nhận? Nếu bạn áp dụng điều tôi đã nói với bạn về ba con đường, bạn sẽ dễ dàng nhận ra rằng các chi tiết bổ sung không được gửi qua tâm thức bộ não, mà chạy dọc theo các con đường khác, vì những dữ kiện này hoàn toàn chính xác. Bà chủ nhà đúng y như mô tả, và đã được người phát thông điệp trông thấy, nên các sự kiện được truyền đều nằm trong tâm thức của người gửi, dù không được cố ý gửi theo đường bộ não. Những đặc điểm này chạy xuyên suốt toàn bộ các thí nghiệm phong phú. [ 104] Bạn liên tục thấy có lúc nhận được nhiều hơn điều đã phát, nhưng trong một số trường hợp lại nhận kém hơn. |
For instance: “Theresa B. and her mother were here yesterday.” It would appear as though the messages sent by the wife arrived better, or were better received than the messages sent by the husband, either because she thought more definitely, or because the husband was more receptive. All that was received was: “I think Theresa B. was there or is coming, and something I cannot make out about business, and I think it is bad.” | Chẳng hạn: “Theresa B. và mẹ cô ấy đã ở đây hôm qua.” Có vẻ như các thông điệp do người vợ gửi đến thì tới nơi tốt hơn, hay được tiếp nhận tốt hơn so với các thông điệp do người chồng gửi, hoặc vì Bà ấy nghĩ dứt khoát hơn, hoặc vì người chồng tiếp nhận hơn. Tất cả những gì được tiếp nhận là: “Tôi nghĩ Theresa B. đã ở đó hoặc đang đến, và có điều gì đó tôi không rõ về việc làm ăn, và tôi nghĩ nó là xấu.” |
I should think a large part of the above message was received through the astral body, rather than through the physical brain. It lacks the sharpness and clearness of the message that goes from brain to brain. It is an impression more than a message. | Tôi nghĩ một phần lớn thông điệp trên được tiếp nhận qua thể cảm dục hơn là qua bộ não hồng trần. Nó thiếu độ sắc bén và rõ ràng của thông điệp đi từ não đến não. Nó là một ấn tượng hơn là một thông điệp. |
There is a negative result on the following day. Nothing was sent on one side, and “Forgot to keep the appointed time” on the other. And it is curious that in cases where there is a failure both seem to have fallen into forgetfulness. | Có một kết quả âm tính vào ngày kế tiếp. Không có gì được gửi từ một phía, và “Quên giữ giờ hẹn” ở phía kia. Và thật lạ là trong những trường hợp thất bại thì cả hai dường như đều rơi vào quên lãng. |
Then comes a thing which seems quite irrational. “B. does not seem well at all. Went for medicine.” What was received was this: “See a lot of wine casks and demijohns. Something about curtains.” That does not seem a very successful message. Go a little further, and what do we find? Mrs. S. had visited a large wine cellar, and also the curtains in her room had annoyed her very much, but although she said nothing, the impression which was made had gone off without [105] the brain taking part in the transmission. The annoyance about the curtains is an exceedingly interesting and significant fact; the astral vibration of annoyance going along its astral path was sufficiently strong to overbear the message sent by the physical brain, and to enforce itself as the proper message on the mind of the receiver. | Rồi đến một điều dường như hoàn toàn vô lý. “B. trông không khỏe chút nào. Đi lấy thuốc.” Điều nhận được là: “Thấy nhiều thùng rượu và bình thủy tinh to. Có gì đó về rèm cửa.” Có vẻ đây chẳng phải là một thông điệp mấy thành công. Tiến thêm một chút, chúng ta thấy gì? Bà S. đã ghé thăm một hầm rượu lớn, và thêm nữa, những tấm rèm trong phòng bà đã làm bà bực mình dữ lắm, nhưng tuy bà không nói gì, ấn tượng hình thành đã truyền đi mà không có [ 105] bộ não tham gia vào việc truyền đạt. Sự bực mình về rèm cửa là một thực tế vô cùng thú vị và có ý nghĩa; rung động cảm dục của sự bực bội đi theo lộ trình cảm dục của nó đủ mạnh để lấn át thông điệp do bộ não hồng trần gửi đi, và áp đặt chính nó như thông điệp thích đáng lên thể trí của người nhận. |
We come shortly to another case which is very interesting, because the receiver is more accurate than the transmitter: | Chúng ta sắp gặp một trường hợp khác rất đáng chú ý, bởi vì người nhận chính xác hơn người phát: |
May 20. Transmitter, Mrs. S. My clothes and shoes are all torn: I have poison oak on my arms.—Hope it will not be bad.
|
| May 20. Received. You went out riding.—I see you holding a shoe in your hand. You have poison oak on your right arm. B. is better.—You want me to mail you the Bulletin and Chronicle. (Mrs. S. did ride out to some sulphur springs. Poison oak was on right arm only. B. gained three pounds. She was hoping for the Bulletinsupplement only). |
Then appears, on the comparison of notes, that the poison was only on one arm, and not on both, as the transmitter had stated, and the one receiving it saw a picture of the right arm and the injury which that right arm had undergone. | Rồi khi đối chiếu các ghi chú, hóa ra chất độc chỉ ở một cánh tay, chứ không phải cả hai như người phát đã nói, và người nhận thấy một bức cảnh cánh tay phải cùng với thương tổn mà cánh tay phải ấy đã chịu. |
Now those cases are about as definite and clear a proof of thought-transference as you could want. You have the very close sending and receiving; the addition, in several cases, of more than was intended to be sent; [106] but in every case the additional thing was present in the consciousness of the sender. And then you have the most curious case of all, where the sender sends a message of injury to both arms, and the receiver receives the idea, of only one arm being injured, and that the one on which the injury was really inflicted. The case puzzles me on one point. I do not see why the statement of the double injury was sent in the ordinary waking-consciousness. A possible explanation would be that the sender was frightened and slightly hysterical, and did not recognise the limitation of the injury. But I would rather leave that for the moment as one in which the modus operandi is not quite clear. This is only one case out of hundreds. It would be better for you, if you happen to be interested in this line of investigation, to make your own experiments, rather than rely on the records of experiments of someone else. But there is one word of warning, and that is that you must not be too rigid in laying down the laws, or the conditions, under which yon insist that your phenomena shall take place. I know that the ordinary person of the scientific turn of mind will at once say: “You are opening the gate to all kinds of fraud. We must lay down strict test conditions.” Yes, if you know the whole of the laws at work you may; but until you do know the conditions, it is perfect folly to lay down conditions out of your own ignorance, and then complain that the phenomena do not happen under “test conditions”. Let me borrow an illustration which will show you how absurdly this thing works out. [107] | Giờ thì những trường hợp đó hầu như là bằng chứng rõ ràng và xác quyết nhất về sự truyền tư tưởng mà các bạn có thể mong muốn. Các bạn có sự truyền phát và tiếp nhận rất gần gũi; sự bổ sung, trong vài trường hợp, của nhiều thứ hơn so với dự định gửi đi; [ 106] nhưng trong mọi trường hợp điều bổ sung ấy đều có mặt trong tâm thức của người gửi. Và rồi các bạn có trường hợp kỳ lạ nhất trong tất cả, nơi người gửi gửi đi thông điệp về thương tổn ở cả hai cánh tay, còn người nhận lại nhận được ý niệm rằng chỉ có một cánh tay bị thương, và chính cánh tay ấy mới là cánh tay thực sự bị gây thương tích. Trường hợp này làm tôi bối rối ở một điểm. Tôi không hiểu vì sao lại gửi đi lời khẳng định về thương tổn kép trong trạng thái tâm thức thức tỉnh thông thường. Một lời giải thích có thể là người gửi hoảng sợ và hơi cuống loạn, nên không nhận ra giới hạn của thương tích. Nhưng tôi muốn tạm gác điều đó lại như một trường hợp mà phương thức vận hành chưa thật rõ. Đây chỉ là một trong số hàng trăm trường hợp. Sẽ tốt hơn cho các bạn, nếu tình cờ quan tâm đến hướng khảo sát này, là hãy tự mình thực nghiệm, thay vì dựa vào ký lục thí nghiệm của người khác. Nhưng có một lời cảnh báo, đó là các bạn không được quá cứng nhắc khi đặt ra các định luật hay các điều kiện, theo đó các bạn khăng khăng đòi hiện tượng của mình phải xảy ra. Tôi biết người thường có khuynh hướng tư duy khoa học sẽ lập tức nói: “Ông đang mở toang cánh cửa cho đủ loại gian trá. Chúng ta phải đặt ra những điều kiện kiểm tra nghiêm ngặt.” Vâng, nếu các bạn biết toàn bộ các định luật đang vận hành thì có thể; nhưng cho đến khi biết rõ các điều kiện, thì việc đặt ra điều kiện từ trong cái không hiểu biết của chính mình quả là điều dại dột, rồi sau đó lại than phiền rằng hiện tượng không xảy ra dưới “điều kiện kiểm tra”. Hãy cho tôi mượn một ví dụ sẽ cho các bạn thấy điều này phi lý đến mức nào. [ 107] |
A photographer is said to have gone into the middle of China, before photography was known there, and offered to take pictures by the sunlight. Every one laughed at him; for how was it possible for the sun to make pictures? It was clear that he was a fool. But further examination into his methods showed that he was less a fool than a knave. The whole of his procedure was an endeavour to delude the people. The first thing he did for his picture-making was to put a black cloth over the box; and it was clear that he could easy introduce under that cloth any number of pictures ready made. The fact that he insisted on putting it over the camera showed that he desired to cheat. He further insisted on bringing in a closed case which nobody was allowed to open, to see whether pictures were not concealed within it. He would not let any one look into that case, so as to prove there were no pictures there, and he insisted on putting it into the camera under the black cloth. Of course, you can see at once that he cannot make pictures, unless he puts them into his little closed case beforehand, and slips them into the camera under a cloth when nobody is allowed to look. Clearly he is a fraud. And then, when he pretends he has got his pictures, what does he do? Does he open the bog and show them? No! He wraps up his little case in the black cloth and carries it off into a room into which no sunlight is allowed to enter, although he pretends he is making pictures by the sun. As if the sunlight that is said to make the pictures should not be allowed to enter in where they are! So, in order to [108] prove that he was able to take a picture by sunlight; they laid down as the test conditions that he should do it in an open box, and that everybody who liked should examine his plates to show that there were no pictures concealed. Nor must he go into a dark-room, and talk to them about “developing”. They were far too clever people to be cheated in that bare-faced manner; and he was a miserable fraud. Such was the decision; but, of course, under those “test conditions” they did not get any pictures. | Người ta kể có một nhiếp ảnh gia đi vào giữa lòng Trung Hoa, trước khi nhiếp ảnh được biết đến ở đó, và đề nghị chụp ảnh bằng ánh sáng mặt trời. Ai nấy đều cười nhạo ông; bởi mặt trời làm sao có thể tạo ra ảnh? Rõ ràng ông là kẻ ngốc. Nhưng xem xét kỹ hơn phương pháp của ông cho thấy ông ít là kẻ ngốc hơn là kẻ gian. Toàn bộ quy trình của ông là một nỗ lực nhằm đánh lừa người ta. Việc đầu tiên ông làm để tạo ảnh là phủ một tấm vải đen lên chiếc hộp; và rõ ràng là ông có thể dễ dàng luồn dưới tấm vải đó bao nhiêu bức ảnh đã làm sẵn tùy thích. Việc ông khăng khăng phủ vải lên máy ảnh chứng tỏ ông muốn gian lận. Ông còn khăng khăng mang vào một cái hộp đóng kín mà không ai được phép mở, để xem trong đó có giấu ảnh hay không. Ông không cho ai nhìn vào cái hộp ấy để chứng minh rằng trong đó không có ảnh, và ông khăng khăng đặt nó vào máy ảnh dưới tấm vải đen. Tất nhiên, các bạn có thể thấy ngay rằng ông không thể tạo ra ảnh nếu không bỏ chúng vào cái hộp nhỏ kia từ trước, rồi lén lút đưa chúng vào máy ảnh dưới tấm vải khi không ai được phép nhìn. Rõ ràng ông là kẻ lừa đảo. Và rồi, khi ông làm ra vẻ đã có ảnh, ông làm gì? Có mở chiếc hộp và cho mọi người xem không? Không! Ông quấn cái hộp nhỏ của mình trong tấm vải đen và mang nó vào một căn phòng mà không cho ánh sáng mặt trời lọt vào, mặc dù ông lại giả vờ là đang tạo ảnh bằng mặt trời. Như thể ánh sáng mặt trời mà người ta nói là tạo ảnh lại không được phép đi vào nơi ảnh hiện ra vậy! Thế nên, để [ 108] chứng minh rằng ông có thể chụp ảnh bằng ánh sáng mặt trời; họ đặt ra các điều kiện kiểm tra là ông phải làm việc đó với một chiếc hộp mở, và mọi người tùy ý đều có thể kiểm tra các tấm kính để chứng tỏ rằng không có ảnh nào được giấu sẵn. Ông cũng không được vào phòng tối, và lại còn nói với họ về “rửa ảnh”. Họ quá tinh ranh để bị lừa theo kiểu trơ trẽn như vậy; và thế là ông là một kẻ dối trá khốn khổ. Quyết định là như thế; nhưng tất nhiên, dưới những “điều kiện kiểm tra” ấy, họ đã chẳng có được tấm ảnh nào. |
That is exactly what people do when investigating this kind of phenomenon. They say certain conditions must be laid down. In vain does the unfortunate person, who knows the thing to be true, state that those conditions render the happening of the thing impossible. You must make your experiments, if you are quite ignorant, under every possible condition; and gradually, when you obtain your results freely, you can change your conditions bit by bit, and mark the point at which the results disappear. Then you will be likely to be on the track of a fair knowledge. For nature does not make her conditions to fit the theories either of scientific men or of Psychical Researchers. She brings about the happenings in her own way, and those who want to find them out have to take them as nature gives them, and not according to the conditions that they think are the proper ones under which they should happen. “Nature is conquered by obedience” is the great rule of the scientific investigator. She is not conquered by dictation. Ordinary science has gone so [109] far that many discoveries may be made along the lines of previous investigations, and scientists forget how much of previous investigation lies behind the lines of investigation they are now carrying on. It is easy now for a chemist to follow out certain definite lines, but the earlier chemical discoveries were not made in that fashion. Roger Bacon, you find, experimented all over the place. He just put different things together and noticed what happened—not a very comfortable way of building the foundation of modern chemistry; for he leaves it on record as the result: “I was stretched several times on the floor of my cell.” “I lost a finger,” and so on. Those early chemists mutilated themselves in seeking the conditions of nature’s workings. They simply tried tentatively. Sometimes, something carried off a finger; sometimes, they were stretched insensible; but after that, they were able gradually to work out the conditions of the happening. If they had waited to make their experiments until they knew the conditions, chemical science would not be in its present position. | Đó chính xác là điều người ta làm khi khảo sát loại hiện tượng này. Họ nói phải đặt ra những điều kiện nào đó. Vô ích cho người bất hạnh, người biết chuyện là thật, lên tiếng rằng những điều kiện kia khiến cho sự kiện không thể xảy ra. Nếu các bạn còn hoàn toàn không biết gì, các bạn phải làm thí nghiệm dưới mọi điều kiện có thể có; và dần dần, khi các bạn thu được kết quả một cách tự do, các bạn có thể thay đổi điều kiện chút một, và đánh dấu điểm mà kết quả biến mất. Khi ấy các bạn có khả năng đang lần theo đúng dấu một tri thức công bằng. Bởi thiên nhiên không làm ra các điều kiện của mình để phù hợp với các học thuyết của những nhà khoa học hay của các Nhà Nghiên cứu Thông linh. Ngài tạo ra các biến cố theo cách riêng của Ngài, và những ai muốn khám phá chúng phải tiếp nhận chúng như thiên nhiên ban cho, chứ không theo các điều kiện mà họ cho là thích đáng để chúng xảy ra. “Thiên nhiên bị chinh phục bằng sự tuân phục” là quy luật lớn của nhà khảo cứu khoa học. Ngài không bị chinh phục bằng sự áp đặt. Khoa học thông thường đã tiến xa đến [ 109] mức nhiều khám phá có thể được thực hiện theo những đường hướng khảo sát đã có trước, và các nhà khoa học quên mất có biết bao nhiêu khảo sát đi trước nằm ở phía sau các đường hướng khảo sát mà họ đang tiếp tục. Giờ đây, một nhà hóa học có thể dễ dàng theo những tuyến đã xác định, nhưng các khám phá hóa học thời đầu không được làm theo cách ấy. Ông Roger Bacon, như các bạn thấy, đã thí nghiệm khắp nơi. Ông cứ đem những thứ khác nhau trộn lại và ghi nhận xem điều gì xảy ra—không phải là cách dễ chịu để gây dựng nền tảng cho hóa học hiện đại; vì ông để lại ghi chép như kết quả: “Tôi đã bị nằm sóng soài trên nền phòng giam của mình mấy lần.” “Tôi mất một ngón tay,” v.v. Những nhà hóa học tiền bối ấy đã tự làm mình thương tật khi tìm kiếm các điều kiện vận hành của thiên nhiên. Họ chỉ đơn giản thử một cách thăm dò. Đôi khi, có thứ làm bay mất một ngón tay; đôi khi, họ bị đánh ngất; nhưng sau đó, họ dần dần có thể tìm ra các điều kiện của sự kiện. Nếu họ đợi cho đến khi biết các điều kiện rồi mới làm thí nghiệm, thì hóa học đã chẳng ở vị thế hiện nay. |
Now, as regards these psychical happenings, you are rather in the condition of Roger Bacon. You must experiment and face the results of your experiment; and if you are not prepared to face them, leave it alone, since there is no duty upon anybody to find out laws of nature. You can study in perfect safety in the realms of discovered laws. But if you want to discover, you must take your courage in both hands and go boldly on experimenting; and note what happens. After a time you will be able to eliminate the unnecessary happenings. [110] | Giờ, liên quan đến những biến cố thông linh này, các bạn cũng ở trong tình thế của Roger Bacon. Các bạn phải thí nghiệm và đối mặt với kết quả của thí nghiệm; và nếu không sẵn sàng đối mặt, thì hãy để yên, vì không ai có bổn phận phải tìm ra các định luật của thiên nhiên. Các bạn có thể học một cách hoàn toàn an toàn trong những lĩnh vực của các định luật đã được khám phá. Nhưng nếu muốn khám phá, các bạn phải gom can đảm trong cả hai tay và mạnh dạn tiếp tục thử nghiệm; và ghi nhận điều gì xảy ra. Sau một thời gian, các bạn sẽ có thể loại bỏ những biến cố không cần thiết. [ 110] |
That is how Sir William Crookes experimented, and thereby he gained very remarkable results; while every one around him was saying that the fact that materialisations could only take place in the dark was a clear proof that the materialisation was a fraud, he, the truly scientific man, accepted temporarily the statement which was made, and set himself to invent a sort of lamp, the light-vibrations from which would not be of the character that would shiver the materialisation into pieces. And then he found out that by means of this particular light that he invented, he was able to hold up his lamp and examine the materialisation and the form of the medium at the same time. But he did that, remember, not by saying materialisations ought to take place in daylight; but by quietly accepting the fact that they did not, and then going on to try to find the least destructive kind of light. That is the road of the true scientific man, who does not lay down the law to begin with, but observes the fact, and then tries to devise means whereby the observation may be made more accurate, and thereby more satisfactory. | Đó là cách Sir William Crookes đã thí nghiệm, và nhờ vậy ông thu được những kết quả thật đáng kinh ngạc; trong khi mọi người xung quanh đều nói rằng việc hiện hình chỉ có thể xảy ra trong bóng tối là bằng chứng rõ ràng rằng việc hiện hình là lừa đảo, thì ông, nhà khoa học chân chính, tạm thời chấp nhận lời tuyên bố đã nêu, và tự mình phát minh một kiểu đèn mà những dao động ánh sáng từ đó sẽ không có tính chất làm rung vỡ hiện hình thành từng mảnh. Và rồi ông phát hiện rằng nhờ thứ ánh sáng đặc biệt mà ông phát minh ấy, ông có thể giơ đèn lên và quan sát hiện hình và cả hình thể của đồng tử cùng lúc. Nhưng ông làm được điều đó, xin nhớ, không phải bằng cách nói rằng hiện hình phải diễn ra dưới ánh sáng ban ngày; mà bằng cách lặng lẽ chấp nhận thực tế là nó không diễn ra như vậy, rồi tiếp tục cố gắng tìm ra thứ ánh sáng ít phá hoại nhất. Đó là con đường của nhà khoa học chân chính, người không đặt ra định luật ngay từ đầu, mà quan sát sự kiện, rồi cố nghĩ ra phương tiện sao cho việc quan sát trở nên chính xác hơn, và nhờ đó thỏa đáng hơn. |
Take, then, those suggestions as a guide to your own investigations; and so far as thought-transference is concerned there is not the slightest danger in experimenting. The only thing you need to remember is do not always do the same thing—at least, if you are the receiver of the messages; because in order to receive the message you must make yourself exceedingly passive. Passivity on the part of the receiver is as necessary as positivity on the part of the sender, so it is not wise to [111] always play the receiver’s part. It is not good, in a mixed world, to be too receptive to everything, that comes along; and if you practise too much receiving without sending, you will become exceedingly sensitive to every vibration about you, and will be receiving messages which you do not in the least want. You must guard yourself against over-receptivity. In every way it is a danger to people, especially when living under the conditions of a modern civilisation. For remember that all we call “public opinion” is for the most part thought-transference. The opinions that you form are more the opinions of others than they are your own. You catch them from stronger thinkers in every department of life. If you think along one line, it is because Mr. Balfour, or Mr. Chamberlain is thinking along it. They are sending out powerful thought-currents which are caught up by brain after brain. Every brain adds a little strength to the thought-current, and so these thought-currents increase; you do not want to be too receptive to them. The man who would form his own opinions must keep, as it were, the key to his own brain, choosing the thoughts he will allow to enter; and shutting out the thoughts he wishes to shut out. When you want to understand a question; open your mind to all the most opposite opinions and let them all flow into the mind, and then judge for yourselves the value; but do not let yourself drift along the thought-current and reproduce continuously your favourite politician or newspaper. That sort of public opinion is of small value in a nation; and if this nation [112] is to be truly great, then the thought-atmosphere needs to be filled with vigorous, independent, and carefully formed thoughts, and not be the mere atmosphere of echoes that it is today; for echoes sound best in an empty cave, and thoughts are echoed best, very often, from an empty brain. | Vậy, hãy lấy những gợi ý đó làm kim chỉ nam cho cuộc khảo sát của chính các bạn; và xét riêng về truyền tư tưởng thì không có chút nguy hiểm nào trong việc thí nghiệm. Điều duy nhất các bạn cần ghi nhớ là đừng luôn làm cùng một việc—ít nhất, nếu các bạn là người nhận thông điệp; bởi để nhận thông điệp, các bạn phải khiến mình hết sức thụ động. Tính thụ động ở phía người nhận cần thiết như tính tích cực ở phía người gửi, vì vậy không khôn ngoan khi [ 111] lúc nào cũng đóng vai người nhận. Ở một thế giới pha tạp, quá tiếp nhận với mọi thứ đi ngang là không tốt; và nếu các bạn quá luyện tập việc tiếp nhận mà không gửi, các bạn sẽ trở nên cực kỳ nhạy với mọi rung động quanh mình, và sẽ nhận những thông điệp mà các bạn hoàn toàn không hề muốn. Các bạn phải tự phòng vệ trước sự quá tiếp nhận. Ở mọi phương diện, đó là một nguy hiểm cho con người, nhất là khi sống dưới những điều kiện của nền văn minh hiện đại. Vì hãy nhớ rằng toàn bộ cái mà chúng ta gọi là “dư luận” phần lớn là truyền tư tưởng. Những ý kiến mà các bạn hình thành phần nhiều là ý kiến của người khác hơn là của riêng các bạn. Các bạn bắt chụp chúng từ những người tư tưởng mạnh mẽ hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nếu các bạn nghĩ theo một đường hướng, ấy là vì Ông Balfour hay Ông Chamberlain đang nghĩ theo đường hướng đó. Họ đang phát ra những dòng tư tưởng mạnh mẽ được bộ não này đến bộ não khác bắt lấy. Mỗi bộ não thêm một ít sức mạnh cho dòng tư tưởng, và như thế các dòng tư tưởng ấy tăng trưởng; các bạn không muốn quá tiếp nhận chúng. Người muốn hình thành ý kiến của riêng mình phải, như thể, giữ chìa khóa của chính bộ não mình, lựa chọn những tư tưởng sẽ cho phép đi vào; và khép cửa với những tư tưởng mà mình muốn loại ra. Khi các bạn muốn hiểu một vấn đề; hãy mở thể trí của mình ra với mọi ý kiến đối nghịch nhất và để tất cả chúng tuôn vào thể trí, rồi tự mình phán định giá trị; nhưng đừng để mình trôi theo dòng tư tưởng và liên tục lặp lại chính trị gia hay tờ báo ưa thích. Dạng dư luận ấy có giá trị nhỏ bé đối với một quốc gia; và nếu quốc gia này [ 112] muốn thực sự vĩ đại, thì bầu không khí tư tưởng cần phải được lấp đầy bằng những tư tưởng mạnh mẽ, độc lập, và được hình thành thận trọng, chứ không phải là bầu khí quyển của những tiếng vọng như hiện nay; bởi tiếng vọng kêu hay nhất trong một hang rỗng, và tư tưởng cũng thường được vọng lại hay nhất từ một bộ não rỗng. |
Do not forget, however, that in addition to these thought-currents on the physical plane, you will do well to open yourselves up to the currents that come from the higher planes. Do not forget that by the practice of meditation which I have so often advocated, the setting apart of a little time every morning before your brain is active and your thoughts busy, for the quiet thinking over of a noble thought, and then the opening up of your brain and your higher bodies to thought vibrations from above, so that you may gain knowledge that otherwise you could not gain, that you may climb into realms of ideas which otherwise you would be unable to penetrate. For one thing that keeps back our progress more, perhaps, than any other, is that we do not realise our inner inherent greatness. If you would only think of yourselves as living more out of this world than in it; if you would try to realise what I know I have often said before, that your birthplace is the mental plane and not the physical, that your native atmosphere is the atmosphere of ideas and not that of physical phenomena; if you would realise that by birthright you belong to that higher world, and that all that is necessary is to give time and thought to come into communication with it, how much more splendid [113] would become your lives, how much swifter your evolution. It is not as though you had to create a medium of communication you do not possess; all you have to do is to throw into active working power apparatus already built up in the numberless incarnations that lie behind, and only awaiting the necessary touch to throw it into movement. Your mental body at the present stage of human evolution is no mere cloudy thing; it is definite and organised, even although its organisation will go much farther than it has yet reached. Your astral body—in the most of you who are fairly cultured, who are reasonable and thoughtful—is an organism which is ready to work to a very considerable extent, if only you will make for it an opportunity. But if you are always rushing down into the physical vehicle, if you accustom yourself to work only through the brain, how is it possible for you then to know those subtler workings of the higher vehicles, those messages which come from above, and which might so ineffably illuminate your waking-consciousness? Books, truly, give us one way of gaining knowledge; but greater than any book, surer than any printed leaves, more illuminating than any teacher who teaches with the lips and voice, are those messages that may come to you from the higher worlds in which you are living all the time, though your attention is not turned to them. All that I say to you is that you should turn your attention in that direction; that out of the greedy claims of the world today you should take if it be but one brief quarter-of-an-hour to turn your attention to the higher worlds to which you so [114] much more really belong. Do it, and you will find that those vibrations will gradually, slowly, assert themselves in consciousness. At first it may be a dim illumination, an insight into the meaning of favourite books which you never enjoyed before, a grasping of the ideas of your author beyond anything that in your normal study you had found; and then you will know that thought-transference is going on from the higher mental worlds down to the physical brain, and that you are coming into touch with the mind and not only with the brain-consciousness of others. But if in this world you cannot gain knowledge, even by the brain, without turning your attention to the things you study, then how shall it be that, in trying to understand the knowledge of higher worlds, you shall gain that without turning your attention to it, and that those subtle vibrations shall assert themselves in your brain, when you will not even for a few minutes free the brain for their reception? [115] | Tuy nhiên đừng quên rằng, ngoài các dòng tư tưởng trên cõi hồng trần, các bạn sẽ làm tốt nếu mở mình ra với những dòng lưu chuyển đến từ các cõi cao hơn. Đừng quên rằng bằng việc thực hành tham thiền mà tôi đã nhiều lần cổ xúy, dành riêng một chút thời gian mỗi buổi sáng trước khi bộ não hoạt động và tư tưởng bận rộn, để yên lặng nghiền ngẫm một tư tưởng cao đẹp, rồi mở bộ não và các thể cao của mình ra với những rung động tư tưởng từ bên trên, để các bạn có thể thu nhận tri thức mà nếu không sẽ không thể có, để các bạn có thể trèo vào những cảnh giới của ý niệm mà nếu không các bạn sẽ không thể thâm nhập. Vì có một điều níu giữ sự tiến bộ của chúng ta hơn có lẽ bất kỳ điều gì khác, đó là chúng ta không nhận ra sự cao cả nội tại bẩm sinh của mình. Nếu các bạn chỉ nghĩ về chính mình như đang sống bên ngoài thế giới này nhiều hơn là trong nó; nếu các bạn cố gắng nhận ra điều mà tôi biết là tôi đã từng nói nhiều lần trước đây, rằng nơi sinh của các bạn là cõi trí chứ không phải cõi hồng trần, rằng bầu không khí bản địa của các bạn là bầu khí của những ý niệm chứ không phải của các hiện tượng hồng trần; nếu các bạn nhận ra rằng theo quyền bẩm sinh các bạn thuộc về thế giới cao hơn đó, và rằng điều cần thiết chỉ là dành thời gian và tư tưởng để đi vào liên lạc với nó, thì đời sống của các bạn sẽ [ 113] trở nên huy hoàng biết bao, và tiến hóa của các bạn sẽ nhanh chóng biết dường nào. Không phải như thể các bạn phải tạo ra một môi giới liên lạc mà mình không có; tất cả những gì cần làm là khởi động năng lực làm việc chủ động cho những khí cụ đã xây dựng trong vô số lần lâm phàm nằm phía sau, và đang chỉ chờ cú chạm cần thiết để chuyển động. Thể trí của các bạn, ở giai đoạn hiện tại của tiến hóa nhân loại, không còn là một vật mây mù; nó đã xác định và có tổ chức, dù cho sự tổ chức ấy còn sẽ đi xa hơn những gì đã đạt. Thể cảm dục của các bạn—ở đa số những người khá văn hóa, biết lẽ phải và có suy nghĩ—là một cơ thể đã sẵn sàng hoạt động ở một mức độ rất đáng kể, miễn là các bạn tạo cơ hội cho nó. Nhưng nếu các bạn cứ luôn lao xuống hiện thể hồng trần, nếu các bạn tập cho mình chỉ làm việc qua bộ não, thì làm sao các bạn có thể biết được những vận hành tinh tế của các hiện thể cao, những thông điệp đến từ bên trên, vốn có thể soi sáng tâm thức lúc thức của các bạn một cách khôn tả? Sách vở, thật vậy, cho ta một con đường để thu nhận tri thức; nhưng lớn hơn mọi cuốn sách, chắc chắn hơn mọi trang in, soi sáng hơn mọi vị thầy giảng dạy bằng môi và tiếng nói, là những thông điệp có thể đến với các bạn từ những thế giới cao hơn, nơi các bạn vẫn luôn sống mọi lúc, dù sự chú ý của các bạn không hướng về đó. Điều tôi nói với các bạn chỉ là các bạn nên chuyển hướng sự chú ý theo chiều ấy; rằng từ giữa những đòi hỏi tham lam của thế giới hôm nay, các bạn nên dành dẫu chỉ một phần tư giờ để hướng sự chú ý lên các thế giới cao hơn mà [ 114] các bạn thật sự thuộc về nhiều hơn rất nhiều. Hãy làm đi, và các bạn sẽ thấy những rung động đó sẽ dần dần, từ từ, tự khẳng định trong tâm thức. Lúc đầu, có thể chỉ là một sự soi sáng mơ hồ, một cái nhìn thấu vào ý nghĩa của những cuốn sách ưa thích mà trước đây các bạn chưa từng thưởng thức, một sự nắm bắt những ý niệm của tác giả vượt xa bất kỳ điều gì các bạn tìm thấy trong việc học thường nhật; và rồi các bạn sẽ biết rằng sự truyền tư tưởng đang diễn ra từ các cõi trí cao hơn xuống bộ não hồng trần, và rằng các bạn đang đi vào tiếp xúc với thể trí chứ không chỉ với tâm thức não bộ của người khác. Nhưng nếu ở thế gian này các bạn không thể thu nhận tri thức, dù chỉ bằng bộ não, mà không hướng sự chú ý vào những điều mình học, thì làm sao có thể, khi cố hiểu tri thức của các thế giới cao hơn, các bạn lại thu nhận được điều đó mà không hướng sự chú ý về phía ấy, và làm sao những rung động vi tế đó lại có thể tự khẳng định trong bộ não của các bạn, khi các bạn thậm chí còn không chịu giải phóng bộ não vài phút để tiếp nhận chúng? [ 115] |