06. Thông Thiên Học và Khoa Tâm Lý Học Mới—Phương pháp Khai mở

6. Methods of Unfoldment

I propose tonight to say something about the methods of unfoldment, meaning by that the way in which people may develop themselves as to the inner man, and so gradually acquire certainty and knowledge where at present they are puzzled and bewildered. For this New Psychology that we have been dealing with will never be thoroughly understood until people can “see”, and trace out that which gives rise to those many phenomena which are put together under the title of coming from “the unconscious”, without any kind of explanation.

Tối nay tôi dự định nói đôi điều về các phương pháp khai mở, ý tôi muốn nói là con đường nhờ đó con người có thể phát triển chính mình như về phần nội tại, và bằng cách ấy dần dần đạt tới tính chắc chắn và tri thức, trong khi hiện thời họ còn bối rối và ngỡ ngàng. Bởi Tân Tâm lý học mà chúng ta đã bàn tới sẽ không bao giờ được hiểu thấu đáo chừng nào con người còn chưa “thấy”, và lần theo thứ đã gây nên những hiện tượng muôn hình muôn vẻ vốn bị gom chung lại dưới nhan đề là xuất phát từ “vô thức”, mà không có bất kỳ giải thích nào.

In the course of these lectures I have tried to show the different sources whence these phenomena arise, so that theoretically, as it were, you may be able for your­selves to classify them—to say, as you read about this or that phenomenon: “That belongs to such-and-such a part of the nature of things; this to another part,” and so on. But it is much more satisfactory, if instead of [116] simply taking the theory to work upon and applying it, you are able, by your own perceptive ability, to decide when any new case arises, what is its real source. There­fore it seems to me useful to put before you certain lines of possible development, and the more useful, perhaps, because some of these lines are undesirable and dan­gerous; whereas others have been, if not perfectly successful, at least useful to those who practise them in quickening their development, even if in the present incarnation they have not time to complete the work.

Trong tiến trình của những bài giảng này tôi đã cố gắng chỉ ra các nguồn gốc khác nhau từ đó những hiện tượng này khởi sinh, để trên phương diện lý thuyết, như thể thế, các bạn có thể tự mình phân loại chúng—để khi các bạn đọc về hiện tượng này hay hiện tượng kia: “Cái đó thuộc về một phần nào đó của bản chất sự vật; cái này thuộc về phần khác,” vân vân. Nhưng sẽ thỏa đáng hơn nhiều, nếu thay vì [ 116] chỉ lấy lý thuyết làm nền để áp dụng, các bạn có thể, bằng năng lực tri giác của chính mình, quyết định khi một trường hợp mới nảy sinh, đâu là nguồn cội thật sự của nó. Vì thế, theo tôi, thật hữu ích khi đặt trước các bạn một vài đường hướng phát triển khả hữu, và có lẽ càng hữu ích hơn nữa, bởi một số đường hướng trong đó là không đáng mong muốn và nguy hiểm; trong khi những đường hướng khác, nếu không hoàn toàn thành công, thì chí ít cũng hữu ích cho người thực hành chúng trong việc làm mau lẹ tiến trình phát triển, ngay cả nếu trong kiếp lâm phàm hiện tại họ không đủ thời gian để hoàn tất công việc.

We must first consider what it is which is to be developed; because the method will depend on the part of the nature in which development is sought. And we see that along two main lines human evolution will inevitably go—one the side of consciousness, the other that of the vehicles. The consciousness itself will be greatly unfolded, and show out a deeper, clearer insight, a fuller and firmer grasp. So that we shall have to deal with methods of development as applied to the con­sciousness. And that is in the most literal sense of the term a question of unfoldment; because the conscious­ness has all these possibilities existing within it, and it is only a question of bringing them to the surface, just as a bud may unfold into the perfect flower. But it is not only a question of the development of consciousness in which we are interested; because as the consciousness unfolds on one plane after another, it does not thereby follow that the consciousness will be able from the higher planes to directly affect the physical brain, so as [117] to bring about effects in what we call the waking-con­sciousness. For it is quite possible for a person to be so developed that both as regards the consciousness and the higher bodies they may be active on their own planes; and yet the knowledge acquired there may not be brought down into the physical mind and “remem­bered”. But when the consciousness is developed so as to be able to work, then comes in the question of the vehicles in which it is to work, the various bodies which it uses; and we are concerned with only three of those, for if three of them are in active working order, the possessor does not need further physical instruction to learn anything of the value or practice of unfoldment. If a man has control of his physical, astral, and mental bodies, he can gain for himself the knowledge that comes out of what the psychologists call the “unconscious”, and from the higher and valuable side of it, the super-conscious. But it is rarely that there will come down, at the present stage of evolution, information from the consciousness above the mental body. Of course it does happen in the case of the genius, for there are many cases of genius in which the illumination comes from the causal body, the lasting treasure-house in which all memories are stored. It may also occur in the case of those who, by gradual evolution and definite practice, have perfected their outer vehicles so that they are able to work in the causal body. Mostly, however, and for our purpose entirely, these three lower bodies are those with which we are concerned; and we want to know how to unfold our consciousness; how to [118] improve our physical body; how to bring the astral body into working order; and how to do the same for the mental body; so that on the side of consciousness the powers may be unfolded, and on the side of the forms, the organs whereby these powers express them­selves.

Trước tiên chúng ta phải xét xem điều gì là thứ cần được phát triển; vì phương pháp sẽ tùy thuộc vào phần nào của bản tánh mà sự phát triển được tìm kiếm. Và chúng ta thấy rằng dọc theo hai trục chính tiến hóa của nhân loại ắt sẽ diễn tiến—một bên là phương diện tâm thức, bên kia là các vận cụ. Bản thân tâm thức sẽ được khai mở rất nhiều, và bộc lộ một cái nhìn sâu hơn, rõ hơn, một sự nắm bắt đầy đặn và vững vàng hơn. Như vậy, chúng ta sẽ phải đề cập đến các phương pháp phát triển được áp dụng cho tâm thức. Và đó, theo nghĩa đen nhất của thuật ngữ, là vấn đề khai mở; vì trong tâm thức đã tồn tại sẵn mọi khả tính này, và chỉ là vấn đề đưa chúng lên bề mặt, như nụ hoa khai mở thành đóa hoa toàn bích. Nhưng chúng ta không chỉ quan tâm đến vấn đề phát triển tâm thức; vì khi tâm thức khai mở trên cõi này đến cõi khác, thì không nhất thiết là tâm thức từ các cõi cao sẽ có thể tác động trực tiếp lên bộ não hồng trần, để [ 117] gây nên những hiệu ứng trong cái mà chúng ta gọi là tâm thức lúc thức. Bởi hoàn toàn có thể xảy ra việc một người phát triển đến mức cả về tâm thức lẫn các thể cao họ đều có thể hoạt động trên các cõi tương ứng của mình; thế nhưng tri thức thu nhận tại đó lại không được mang xuống trí hồng trần và “ghi nhớ”. Nhưng khi tâm thức đã được phát triển sao cho có thể làm việc, thì vấn đề tiếp theo là các vận cụ trong đó nó sẽ hoạt động, các thể khác nhau mà nó sử dụng; và chúng ta chỉ quan tâm đến ba thể trong số đó, vì nếu ba thể này ở trong tình trạng hoạt động hữu hiệu, thì người sở hữu không cần thêm chỉ giáo hồng trần nào để học bất cứ điều gì có giá trị hoặc thực hành khai mở. Nếu một người làm chủ được các thể hồng trần, cảm dục và trí, y có thể tự mình thu nhận tri thức xuất phát từ cái mà các nhà tâm lý gọi là “vô thức”, và từ mặt cao và quý giá hơn của nó, tức siêu tâm thức. Song hiếm khi—ở giai đoạn tiến hóa hiện nay—có thông tin từ tâm thức trên thể trí được mang xuống. Tất nhiên điều này có xảy ra trong trường hợp của thiên tài, vì có nhiều trường hợp thiên tài mà ánh sáng soi rọi đến từ thể nguyên nhân, kho tàng bền vững nơi tất cả ký ức được lưu trữ. Nó cũng có thể xảy ra ở những người, nhờ tiến hóa tiệm tiến và thực hành xác quyết, đã chu toàn các vận cụ bên ngoài đến mức có thể làm việc trong thể nguyên nhân. Tuy nhiên, phần nhiều—và cho mục đích của chúng ta thì hoàn toàn—ba thể thấp là những thể mà chúng ta quan tâm; và chúng ta muốn biết phải khai mở tâm thức ra sao; phải [ 118] cải thiện thể xác thế nào; làm sao đưa thể cảm dục vào tình trạng làm việc; và làm tương tự đối với thể trí; sao cho ở phía tâm thức các quyền năng được khai mở, và ở phía hình tướng, là các cơ quan nhờ đó những quyền năng này biểu lộ.

Now along some methods of evolution all the force is directed to the vehicles, while the unfolding of con­sciousness is left unattended to; and where that is the case the results are peculiarly unsatisfactory, because the person may be developed as to the psychic senses, which may yet remain practically useless, because, although they are developed as organs, the consciousness is not ready to work through them. It is an artificial forcing. Instead of the consciousness bringing about the evo­lution and presiding over the building, it is possible to some extent to force the evolution of the organs, and take them, as it were, ahead of the evolution of consciousness; so that people may see and hear many things which they do not in the least understand. And that is most often the case when people are born “psychics”—people who have developed these qualities in previous lives. Generally, where people are not very highly evolved and yet are born with these psychic powers, they have in previous lives devoted themselves to the methods which work upon the bodies, leaving the consciousness unattended to; the result is considerable psychic development, but the unevolved consciousness being unable to use these powers intelligently, they are of comparatively little value, and more an annoyance [119] than a treasure to their possessor. Such people are by no means to be envied; and if they end themselves possessed of powers that they do not know how to use, and which tend to disturb and distress them, bringing into their life a number of phenomena which they do not understand and cannot control, the only thing such people can wisely do is to set themselves to the deliberate unfolding on the side of consciousness, and so make up in this life what they have failed to do in a previous one.

Giờ, theo một vài phương pháp tiến hóa, toàn bộ lực được dồn vào các vận cụ, trong khi việc khai mở tâm thức bị bỏ mặc; và trong trường hợp đó, kết quả đặc biệt không thỏa đáng, bởi con người có thể được phát triển về các giác quan thông linh, nhưng những cái đó có thể vẫn hầu như vô dụng, vì tuy chúng được phát triển như cơ quan, tâm thức lại không sẵn sàng làm việc qua chúng. Đó là sự cưỡng ép giả tạo. Thay vì để tâm thức gây nên tiến hóa và chủ trì việc kiến tạo, thì trong chừng mực nhất định có thể cưỡng ép sự tiến hóa của các cơ quan, đưa chúng, như thể thế, đi trước tiến hóa của tâm thức; khiến người ta có thể thấy và nghe nhiều điều mà họ hoàn toàn không hiểu. Và điều này thường xảy ra nhất ở những người “thông linh bẩm sinh”—những người đã phát triển các phẩm tính này trong các đời trước. Nói chung, khi người ta không quá tiến hóa mà lại sinh ra đã có các năng lực thông linh, thì trong các đời trước họ đã hiến mình cho các phương pháp tác động lên các thể, bỏ mặc tâm thức; hệ quả là sự phát triển thông linh đáng kể, nhưng tâm thức chưa tiến hóa không thể sử dụng các quyền năng ấy một cách thông tuệ, chúng có giá trị tương đối ít ỏi, và trở thành nỗi phiền [ 119] hơn là bảo vật đối với người sở hữu. Những người như thế tuyệt nhiên không đáng để ganh tỵ; và nếu kết cục họ thấy mình sở hữu những quyền năng mà họ không biết dùng thế nào, và những quyền năng đó lại có xu hướng khuấy đảo và làm họ bối rối, đem vào đời họ một loạt hiện tượng mà họ không hiểu và không kiểm soát nổi, thì điều duy nhất những người như vậy có thể khôn ngoan làm là dốc lòng khai mở một cách có chủ đích ở phía tâm thức, để bù lại trong kiếp này điều họ đã lỡ trong một kiếp trước.

I think we shall most readily follow the methods of unfoldment, if I put briefly, first, the theory as it is held, especially in India, where these things have been studied for thousands of years; and secondly, the methods we find recommended amongst ourselves today; we may then see to which of these two great divisions of unfoldment the methods amongst ourselves belong. It is always advisable to have a complete theory, because then, when a new thing comes along you have a niche in which to put it, and as no such theory exists in the West just now, we must go to the East for one, and see how it bears upon things happening among ourselves.

Tôi nghĩ chúng ta sẽ dễ theo dõi các phương pháp khai mở nhất nếu trước hết tôi nêu ngắn gọn, thứ nhất, lý thuyết như nó được nắm giữ, nhất là ở Ấn Độ, nơi những điều này đã được khảo cứu suốt hàng ngàn năm; và thứ hai, các phương pháp chúng ta thấy được khuyến nghị giữa chính chúng ta hôm nay; rồi ta có thể thấy những phương pháp trong chúng ta thuộc về phân loại lớn nào trong hai phân loại khai mở ấy. Luôn là điều đáng khuyên khi có một lý thuyết trọn vẹn, vì khi đó, khi một điều mới xuất hiện, các bạn có một cái hốc để đặt nó vào, và bởi ở phương Tây hiện chưa có lý thuyết như vậy, chúng ta phải tìm đến phương Đông để có một lý thuyết, và xem nó liên hệ ra sao với những điều đang xảy ra giữa chúng ta.

In the ordinary psychological science of India—a psychology many thousands of years old—there are two great forms of Yoga; the Hatha Yoga, and the Raja Yoga; and under these two divisions all development naturally and inevitably falls. The theory of Hatha Yoga is this: that on the whole it is easiest to begin with the physical body, because then you are dealing with a thing of which you at least know something. That, starting with your physical body, you can bring [120] it under control to a well-nigh incredible extent; that, as the physical body corresponds in its various parts to the organs of the higher bodies, it is possible to reach those organs of the higher bodies by stimulating the organs in the lower; so that, starting with the physical eye, you would gradually develop, going upwards, the corresponding organs in the astral body, thus developing clairvoyance; that, starting with the physical ear, you can, by stimulating that, bring about a corresponding growth in the astral body, and so hear things on the astral plane. That theory of correspondence is per­fectly true. Our senses are not really in the physical body but in the astral, and the centres of those senses are in the astral body. All sight on the physical plane, before it conveys any knowledge to the inner man, the perceiver, passes from the retina back to the optic centres in the brain, and from those in the astral body, to the corresponding centres which are really the centres of the senses. The brain is merely like a telegraph wire along which the message goes; you see by the stimu­lation of these astral centres. That is the first thing to remember. But Hatha Yoga includes much more than the stimulation of the senses. It includes a com­plete control over every part of the physical body, so that all the muscles, voluntary and involuntary, are all brought under the control of the will. The Hatha Yogi goes through a number of processes, many of them extremely troublesome and even painful, in order to bring under the control of the will every portion of his physical body; and, being taught also the [121] correspondence in the astral body, he works up from one to the other in the way I described with respect to sight and hearing.

Trong khoa tâm lý học thông thường của Ấn Độ—một ngành tâm lý học có tuổi đời hàng nghìn năm—có hai hình thái lớn của Yoga; Hatha Yoga và Raja Yoga; và dưới hai phân loại này, mọi sự phát triển tự nhiên và tất yếu đều rơi vào. Lý thuyết của Hatha Yoga là thế này: nhìn chung, dễ bắt đầu với thể xác hơn, vì như vậy các bạn đang xử lý một thứ mà chí ít các bạn còn biết chút ít về nó. Rằng, khởi đi từ thể xác, các bạn có thể đưa [ 120] nó vào quyền kiểm soát đến mức khó tin; rằng, bởi thể xác tương ứng trong các phần khác nhau của nó với những cơ quan của các thể cao hơn, nên có thể vươn tới những cơ quan của các thể cao hơn bằng cách kích thích các cơ quan trong thể thấp; sao cho, bắt đầu với con mắt hồng trần, các bạn sẽ dần dần phát triển, đi lên trên, các cơ quan tương ứng trong thể cảm dục, nhờ vậy phát triển thông nhãn; rằng, bắt đầu với tai hồng trần, các bạn có thể, bằng cách kích thích nó, gây ra sự tăng trưởng tương ứng trong thể cảm dục, và như thế nghe được những điều trên cõi cảm dục. Lý thuyết tương ứng ấy hoàn toàn đúng. Các giác quan của chúng ta thật ra không nằm trong thể xác mà nằm trong thể cảm dục, và các trung tâm của những giác quan đó ở trong thể cảm dục. Mọi thị kiến trên cõi hồng trần, trước khi truyền đạt tri thức nào cho con người bên trong, người tri giác, đều đi từ võng mạc trở về các trung tâm thị giác trong não, và từ đó trong thể cảm dục, đến các trung tâm tương ứng vốn thực sự là trung tâm của các giác quan. Bộ não chỉ như một dây điện báo mà theo đó thông điệp đi qua; các bạn thấy được là nhờ sự kích thích các trung tâm cảm dục này. Đó là điều đầu tiên cần nhớ. Nhưng Hatha Yoga bao gồm nhiều hơn việc kích thích các giác quan. Nó bao gồm sự làm chủ hoàn toàn mọi phần của thể xác, đến mức tất cả các cơ bắp, cả tự ý lẫn không tự ý, đều được đưa vào quyền kiểm soát của ý chí. Một Hatha Yogi đi qua nhiều quy trình, nhiều thứ trong đó cực kỳ phiền phức và thậm chí đau đớn, để đưa vào quyền kiểm soát của ý chí mọi phần của thể xác; và, cũng được dạy về [ 121] sự tương ứng trong thể cảm dục, y đi dần lên từ thể này sang thể kia theo cách tôi đã mô tả về thị giác và thính giác.

There are in India a considerable number of these Hatha Yogis, who are willing to show off their powers. They can do some very extraordinary things. They can stop the beating of the heart, or the working of the lungs, and many other things of that sort. And it is rather surprising until you know how it is done. Only when you have done all this, the question arises: “Of what use?” Is it worth while to go through this long training in order to do things that, after all, you do not really want to do? The only thing in which you may say there is some use is with regard to the seeing, hearing, and feeling on the astral plane; and that they only attain to a very limited extent, and after the novelty of the thing is over, inevitably the man wants to go further and ask what it means. In many cases they are not able to connect together the centres in the astral body and the organ of the physical senses; so that they do not in many cases succeed in seeing or hear­ing as far as their brain knowledge is concerned. They go into trance, and when they come out of it they are as wise as when they went into it. Nearly all Hatha Yogis can go into trance; but when they have done it, what happens? Simply this: that the physical and astral bodies are separated. In some cases the astral body is at work, so that as far as that is concerned the man is having experiences, although they cannot be conveyed to the brain-consciousness; still, the fact [122] that it is able to work is an advantage, because much may be learned on the astral plane which will filter down to the physical plane, not as memory, but as knowledge which gradually makes its way through. But in many cases when the physical and astral bodies are separated, the astral stays quite close to the physical, practically useless and asleep. So far as I can find, along that line no very great increase of knowledge is attainable; but one thing they do attain, and that is magnificent physical health. They develop a muscular strength and power of endurance, which enable them to carry the body through fatigue which would crush an ordinary man. They also develop, through the difficult nature of the practices they do, and the perse­verance necessary to obtain any results, a great power of will.

Ở Ấn Độ có khá nhiều Hatha Yogi sẵn lòng phô diễn quyền năng của mình. Họ có thể làm những điều rất khác thường. Họ có thể ngưng đập tim, hoặc dừng sự hoạt động của phổi, và nhiều điều tương tự khác. Và điều đó khá gây ngạc nhiên cho đến khi các bạn biết nó được thực hiện ra sao. Chỉ có điều, khi đã làm tất cả những thứ này, câu hỏi sẽ nảy ra: “Để làm gì?” Có đáng không khi phải trải qua chuỗi dài rèn luyện để làm những việc mà rốt cuộc các bạn cũng chẳng thật sự muốn làm? Điều duy nhất có thể nói là có chút ích lợi là liên quan đến việc thấy, nghe và cảm trên cõi cảm dục; và khả năng đó họ chỉ đạt được ở mức rất hạn chế, và sau khi cái mới lạ của nó qua đi, tất yếu con người muốn đi xa hơn và hỏi điều đó có nghĩa gì. Trong nhiều trường hợp họ không thể nối kết các trung tâm trong thể cảm dục với cơ quan của giác quan hồng trần; nên trong nhiều trường hợp họ không thành công trong việc thấy hay nghe nếu xét trên bình diện tri thức của bộ não. Họ đi vào trạng thái xuất thần, và khi thoát ra, họ khôn ngoan chẳng hơn gì lúc bước vào. Gần như tất cả Hatha Yogi đều có thể nhập xuất thần; nhưng sau khi làm thế, điều gì xảy ra? Đơn giản là: thể xác và thể cảm dục bị tách rời. Trong một số trường hợp, thể cảm dục hoạt động, nên xét về mặt đó con người có các kinh nghiệm, mặc dù không thể truyền đạt chúng cho tâm thức bộ não; dẫu vậy, thực tế [ 122] rằng thể cảm dục có thể hoạt động là một lợi thế, vì nhiều điều có thể được học trên cõi cảm dục và sẽ nhỏ dần xuống cõi hồng trần, không phải như ký ức, mà như một tri thức dần dà len thấm. Nhưng trong nhiều trường hợp, khi thể xác và thể cảm dục tách rời, thì thể cảm dục nằm sát ngay thể xác, hầu như vô dụng và ngủ vùi. Theo như tôi thấy, theo đường hướng đó không thu được tăng trưởng tri thức lớn lao nào; nhưng có một điều họ đạt tới, đó là sức khỏe thể chất tuyệt hảo. Họ phát triển sức mạnh cơ bắp và năng lực chịu đựng, cho phép họ mang thân xác đi qua nỗi mệt mỏi mà sẽ đè bẹp một người thường. Họ cũng phát triển, nhờ vào tính khó khăn của các thực hành họ làm, và sự kiên trì cần thiết để thu hoạch kết quả, một năng lực ý chí lớn.

Now what theory lies behind that, as well as the correspondence between the physical and astral? When we look at it we notice this: that in the course of evo­lution consciousness has gone a little ahead of organs, and the working of the consciousness has brought about the building of the organ; that is a point of enormous and practical importance. The function of life always precedes the shaping of the organ, the organ being built by the exercise of the function. Tracing on the evolution, the neat thing that strikes one is that as the consciousness develops, as the thinker evolves more and more power of thought, he puts aside one thing after another that he has done by the exercise of his will, handing it on to the automatism of the body, and [123] turning his attention to higher and more useful things. So that when we see the Hatha Yogi bringing again within his conscious control the things that in the course of evolution he has let go, we find he is going backwards instead of forwards, burdening himself again with a number of things which are really done very much better by the automatic mechanism of the body, and on which, if he interferes, he must spend a great deal of trouble in order to reach the same perfection as the mechanism has done by his previous work upon it.

Vậy lý thuyết nào nằm phía sau điều đó, cũng như phía sau học thuyết tương ứng giữa thể xác và thể cảm dục? Khi nhìn vào, ta nhận thấy điều này: trong tiến trình tiến hóa, tâm thức đã đi trước cơ quan một chút, và sự vận hành của tâm thức đã gây nên việc xây đắp cơ quan; đó là một điểm có tầm quan trọng to lớn và thực tiễn. Chức năng của sự sống luôn đi trước sự định hình của cơ quan, cơ quan được kiến tạo bởi việc vận hành chức năng. Lần theo tiến hóa, điều kế tiếp đập vào mắt người là khi tâm thức phát triển, khi người tư duy tiến hóa nhiều quyền năng tư tưởng hơn, y lần lượt gác lại những điều này khác mà trước đó y đã làm bằng ý chí, trao lại cho cơ chế tự động của thân thể, và [ 123] chuyển sự chú ý của mình lên những điều cao hơn và hữu ích hơn. Vì vậy, khi ta thấy Hatha Yogi mang trở lại trong tầm kiểm soát có ý thức của mình những điều mà trong tiến trình tiến hóa y đã buông ra, ta nhận ra rằng y đang đi lùi thay vì đi tới, đang chất thêm cho mình một loạt việc lẽ ra cơ chế tự động của thân thể làm rất tốt, và nếu y can thiệp, y phải tốn rất nhiều công phu mới đạt tới được mức hoàn hảo như cơ chế ấy đã làm nhờ công phu trước kia của chính y trên nó.

We find we are going backwards also when we come to deal with stimulation of the astral senses in this way; the astral centre was first developed and through that the physical organ of sense, so that to use the physical organ to stimulate the astral centre into inde­pendent working is to retrace the path of evolution, and it does not bring out the true sight or hearing in the astral body, but brings into abnormal and unde­sirable activity those sense centres which have built for their own expression the sense-organ in the physical body; the astral having a set of senses of its own which do not necessarily communicate directly with the organs in the physical body. The astral senses are directly related to the astral plane, whereas the sense-centres are bridges for communication between the thinker and his physical vehicle. You do not want to make those active independently, for they will never serve your purpose thoroughly and completely. You are taking an instrument made for one purpose and clumsily adapting it to another. What you want to do is to [124] evolve in the astral body its own sense-organs, the “charkas”, or “wheels”, which belong to that body as a body, and not to that body as a means of commu­nication between the thinker and his physical vehicle. To stimulate those centres which are bridges, instead of evolving the living “wheels” which are the right organs of the astral body, is a complete blunder; you are falling into an abnormal evolution, and one which is utterly undesirable and likely to be mischievous.

Chúng ta cũng thấy mình đang đi lùi khi bàn đến việc kích thích các giác quan cảm dục theo cách này; trung tâm cảm dục vốn được phát triển trước và qua đó cơ quan giác quan hồng trần mới được tạo dựng, nên dùng cơ quan hồng trần để kích thích trung tâm cảm dục nhằm hoạt động độc lập là đi ngược lối tiến hóa, và nó không khai mở thị giác hay thính giác đích thực trong thể cảm dục, mà chỉ làm cho hoạt động một cách bất thường và không đáng mong muốn những trung tâm giác quan vốn đã kiến tạo, để biểu lộ của chính mình, cơ quan giác quan trong thể xác; trong khi thể cảm dục có một tập hợp giác quan thuộc về riêng nó, vốn không nhất thiết thông trực tiếp với các cơ quan trong thể xác. Các giác quan cảm dục liên hệ trực tiếp với cõi cảm dục, trong khi các trung tâm giác quan là những nhịp cầu cho sự truyền thông giữa người tư duy và vận cụ hồng trần của y. Các bạn không muốn làm cho những trung tâm ấy hoạt động độc lập, vì chúng sẽ chẳng bao giờ phục vụ trọn vẹn mục đích của các bạn. Các bạn đang lấy một khí cụ được làm ra cho một mục đích và vụng về thích nghi nó cho một mục đích khác. Điều các bạn cần làm là [ 124] phát triển trong thể cảm dục chính các cơ quan giác quan riêng của nó, các “luân xa”, hay “bánh xe”, thuộc về thể ấy như một thể, chứ không phải thuộc về thể ấy như một phương tiện truyền thông giữa người tư duy và vận cụ hồng trần của y. Kích thích những trung tâm vốn là nhịp cầu, thay vì phát triển những “bánh xe” sống động là các cơ quan đúng đắn của thể cảm dục, là một sai lầm hoàn toàn; các bạn đang rơi vào một lối tiến hóa bất thường, hoàn toàn không đáng mong muốn và rất có thể tai hại.

Let us now see what western methods of unfold­ment partake of this Hatha Yoga principle: that you are to stimulate the physical body and thus arouse certain powers in the astral. All methods which begin by turning any of the senses to the careful close obser­vation of a physical object are part of this Hatha Yoga method. For instance, the favourite eastern method, which is now being advised for practice over here, is to make a black spot on a white ground and stare at it for hours together. Crystal-gazing is another method which is recommended. I have received a large amount of American literature, suggesting all sorts of things on these lines. All these belong to the Hatha Yoga system; and are fundamentally mischievous, not only because they are going backwards in evolution, but because of their exceedingly injurious effects on the physical organs. One result of gazing at a black spot for hours is that it spoils the sight. The ages of the eyes are often put out of order, producing strabismus, more commonly called squinting. Another thing you find is a gradual dulling of the physical sight, due to [125] the overstrain of the nerves of the retina, which over­straining gradually passes back through the optic nerve to the optic centre, so that after many years of practice atrophy of the optic nerve may arise, causing dimness and even blindness. There is a difference here between the Indian and the Westerner; the Indian does not care about the physical result. the European or American does. When the Indian gets a well-established squint, he is as happy with it as without it. He does not want to look at the things round about him; he has set his mind on something different, and he is not disturbed by the squint. He does not mind even blindness; but the western man minds it very much. Over in India these things are known, but that is not so over here; and it is rather a cruel thing, it seems to me, that systems of that sort should be scattered broadcast all over the West, without any explanation of the dangers that every Indian knows are connected with them. Some few people may get safely through, but many are injured; and even supposing a man does escape these things, and throws himself into a trance; when he comes out of the trance, he is as wise as before; he has simply performed self-hypnotisation, and doing that is of no value to the man who does it. So also with hearing. It is quite possible to hear sounds by breathing in a certain way; but it is only through pressure on the nerves connected with the ear, in the throat. People seem to think that doing this opens up the astral senses. There are many things like that which you can read if you like. But do not practise them; it is better to [126] give them a wide berth. The fact that the people who circulate these things among an ignorant public do not tell of the effects likely to be brought about by these practices may be because they are ignorant; I do not suppose they do it maliciously.

Giờ hãy xem các phương pháp khai mở phương Tây nào mang nguyên lý Hatha Yoga này: rằng các bạn sẽ kích thích thể xác và nhờ thế khơi dậy một số quyền năng trong thể cảm dục. Mọi phương pháp bắt đầu bằng cách xoay bất kỳ giác quan nào sang việc quan sát gần gũi, tỉ mỉ một vật thể hồng trần đều thuộc về phương pháp Hatha Yoga. Chẳng hạn, phương pháp ưa chuộng ở phương Đông, nay đang được khuyên thực hành bên này, là chấm một chấm đen trên nền trắng và nhìn chằm chằm vào nó hàng giờ liền. Ngắm pha lê là một phương pháp khác được khuyến nghị. Tôi đã nhận được một lượng lớn tài liệu của Mỹ, đề nghị đủ loại điều theo những đường hướng này. Tất cả đều thuộc hệ Hatha Yoga; và về nền tảng là tai hại, không chỉ vì chúng đi lùi trong tiến hóa, mà còn vì các tác hại cực kỳ đối với các cơ quan hồng trần. Một hậu quả của việc nhìn chằm chằm chấm đen hàng giờ là làm hỏng thị lực. Các trục của mắt thường bị lệch, sinh ra lé. Một điều nữa các bạn thấy là sự cùn mòn dần của thị giác hồng trần, do [ 125] sự quá căng của các dây thần kinh võng mạc, sự quá căng này dần dần truyền ngược qua dây thần kinh thị giác đến trung tâm thị giác, đến mức sau nhiều năm thực hành có thể phát sinh chứng teo dây thần kinh thị giác, gây mờ mắt và thậm chí mù lòa. Ở đây có một khác biệt giữa người Ấn và người phương Tây; người Ấn không bận tâm đến kết quả hồng trần. Người châu Âu hay người Mỹ thì có. Khi người Ấn bị lệch mắt rõ rệt, y vẫn hạnh phúc với nó chẳng khác gì khi không bị. Y không muốn nhìn những vật quanh mình; y đã đặt tâm trí lên điều khác, và y không bận tâm đến việc bị lác. Y thậm chí không áy náy với mù lòa; còn người phương Tây thì rất bận tâm. Ở Ấn Độ những điều này được biết rõ, còn bên này thì không; và theo tôi, thật có phần tàn nhẫn khi rải các hệ thống như vậy tràn lan khắp phương Tây mà không giải thích những nguy hiểm mà mọi người Ấn đều biết là gắn liền với chúng. Một vài người có thể vượt qua an toàn, nhưng nhiều người bị tổn hại; và ngay cả giả sử một người tránh được những điều này, và tự đưa mình vào trạng thái xuất thần; khi y thoát ra khỏi trạng thái ấy, y cũng chẳng khôn hơn; y chỉ vừa mới thực hiện việc tự thôi miên, và làm như vậy thì vô ích cho chính người làm. Nghe cũng thế. Hoàn toàn có thể nghe được những âm thanh bằng cách thở theo cách nào đó; nhưng điều đó chỉ là do sự chèn ép lên các dây thần kinh liên hệ với tai ở vùng cổ họng. Người ta dường như nghĩ rằng làm vậy sẽ mở ra các giác quan cảm dục. Có nhiều điều như thế mà các bạn có thể đọc nếu thích. Nhưng đừng thực hành; tốt hơn là [ 126] hãy tránh xa chúng. Việc những người lưu hành các điều này trong công chúng thiếu hiểu biết mà không nói về những hiệu ứng có thể gây ra bởi các thực hành ấy, có lẽ là bởi họ không biết; tôi không cho rằng họ làm vậy vì ác ý.

Crystal-gazing, also, leads to nothing but the very lowest order of clairvoyance. I was once very much puzzled by a fact with regard to crystal-gazing. I happen to know one of our members who has developed astral sight to a remarkable extent, and I asked him one day, for my information and amusement, to look in a crystal and tell me what he saw. He gazed at it, and turned it in all sorts of ways, but not a solitary thing could he see, although he worked at it for some time. The reason of this is quite clear when you come to think about it. The vision of the psychically developed man is not a vision which comes through a stimulation of the sense centres in the astral body, but from the chakras; and the man who is using the one would be the last man in the world to be using the other, which is only wanted, so to speak, on the downward path of the bridge, in order that physical impacts may reach the thinker and give him information. I have never known a case of crystal-gazing which went beyond the possibilities of the lower astral plane. It is true that you can by practice see, but you do it at a serious risk. I strongly advise you not to go largely into crystal­-gazing, popular as it is, for although you may gain some small results from it, you will be shutting yourselves out from the higher possibilities. [127]

Ngắm pha lê cũng chỉ dẫn đến dạng thông nhãn thấp nhất. Có lần tôi rất bối rối bởi một thực tế liên quan đến ngắm pha lê. Tôi tình cờ biết một hội viên của chúng ta đã phát triển thị giác cảm dục đến mức đáng kể, và một hôm tôi nhờ ông, để tôi học hỏi và mua vui, nhìn vào một quả pha lê và cho tôi biết ông thấy gì. Ông ngắm nó, xoay trở đủ cách, nhưng không thấy được một điều gì, dù ông đã cố gắng khá lâu. Lý do của việc này hoàn toàn rõ ràng khi các bạn chịu nghĩ. Thị kiến của người phát triển thông linh không phải là thị kiến đi qua sự kích thích các trung tâm giác quan trong thể cảm dục, mà xuất phát từ các luân xa; và người đang dùng cái này sẽ là người cuối cùng trên đời dùng cái kia, thứ chỉ cần, có thể nói, trên nhánh đi xuống của chiếc cầu, để những va chạm hồng trần có thể đến người tư duy và cung cấp cho y thông tin. Tôi chưa từng biết trường hợp ngắm pha lê nào vượt quá những khả thể của hạ cõi cảm dục. Đúng là các bạn có thể nhờ luyện tập mà thấy, nhưng các bạn làm vậy với nguy cơ nghiêm trọng. Tôi tha thiết khuyên các bạn đừng dấn sâu vào ngắm pha lê, dẫu nó đang được ưa chuộng, bởi tuy các bạn có thể gặt hái vài kết quả nhỏ từ đó, các bạn sẽ tự khép mình trước những khả thể cao hơn. [ 127]

Turn from that line of evolution to the Raya Yoga system. That starts quite differently. It starts with thought, with a process of meditation; and before that process of meditation, which is the beginning of the Raja Yoga, there is a preliminary course to be followed by the man desiring to practise. He must to a certain extent have purified his physical body, not because he is going to use that body to stimulate the astral, but because, as the powers of the consciousness grow, they will work down on to the physical body, and unless it be prepared to receive their workings it is likely to be injured, and hysteria, diseases of all kinds, breakdown of the physical health, sometimes even lunacy may result. All these things have been observed and studied in India, and it has been found by practical experience that if a man starts these methods with an unprepared body, while he may get some very remarkable results by the play of the consciousness downwards, he will very soon break up as regards his health, and he will become a nervous wreck. The purification of the body is effected by an elaborate system of food, drink, sleep, and so on, of which the centre note is moderation ­not starvation, not lying awake so that the nerves are overstrained, but moderation in everything. The kind of food the Raja Yogi takes is to be satvic, a term generally translated “pure”, but which I think is better translated as “rhythmic”; that is to say, food in which the vibrations are regular, harmonious, balanced. This is based on their theory of matter having three attributes: one, Inertia, which predominating in the [128] human body, would mean sloth and heaviness, so that foods tending to produce this quality are barred. So also all foods that tend to produce ill-regulated activity, restlessness, in which predominates the second of the attributes of matter, Mobility, are barred. That leaves the foods in which the quality of Rhythm predominates. A whole system relating to the food-stuffs is built up to help in the preparation of the body to vibrate in answer to the higher consciousness when it is wanted.

Từ bỏ đường hướng tiến hóa ấy mà chuyển sang hệ Raja Yoga. Hệ này khởi đi hoàn toàn khác. Nó khởi đi từ tư tưởng, với một tiến trình tham thiền; và trước tiến trình tham thiền, vốn là khởi đầu của Raja Yoga, có một giai đoạn chuẩn bị để người mong ước thực hành phải theo. Y phải trong một mức độ nào đó thanh lọc thể xác của mình, không phải vì y sẽ dùng thể này để kích thích thể cảm dục, mà vì khi các quyền năng của tâm thức tăng trưởng, chúng sẽ tác động xuống thể xác, và trừ khi nó được chuẩn bị để tiếp nhận các tác động ấy, nó rất dễ bị tổn thương, và cuồng loạn, đủ loại bệnh tật, sụp đổ sức khỏe thể chất, đôi khi thậm chí loạn trí có thể xảy ra. Tất cả những điều này đã được quan sát và nghiên cứu ở Ấn Độ, và người ta nhận thấy bằng kinh nghiệm thực tế rằng nếu một người bắt đầu những phương pháp này với một thân thể chưa chuẩn bị, tuy y có thể có những kết quả rất đáng kể nhờ sự vận hành của tâm thức xuống bên dưới, y sẽ rất chóng sụp đổ về phương diện sức khỏe, và y sẽ trở thành một kẻ suy kiệt thần kinh. Sự thanh lọc thân thể được thực hiện bằng một hệ thống công phu về ăn, uống, ngủ, v.v., trong đó chủ âm là điều độ—không phải ép xác, không phải thức trắng đến mức dây thần kinh quá căng, mà là điều độ trong mọi sự. Loại thực phẩm mà một Raja Yogi dùng phải là satvic, một thuật ngữ thường được dịch là “tinh khiết”, nhưng tôi nghĩ dịch là “nhịp điệu” thì hay hơn; nghĩa là, thực phẩm có các rung động đều đặn, hài hòa, quân bình. Điều này dựa trên học lý của họ rằng chất liệu có ba thuộc tính: một là Trì trệ, khi trội lên trong [ 128] thân thể con người sẽ có nghĩa là lười biếng và nặng nề, nên các thực phẩm có xu hướng tạo ra phẩm tính này bị loại bỏ. Tương tự, mọi thực phẩm có xu hướng tạo ra hoạt động vô trật tự, bồn chồn, trong đó thuộc tính thứ hai của chất liệu, tức Linh động, trội lên, cũng bị loại bỏ. Điều đó để lại các thực phẩm trong đó phẩm tính Nhịp điệu trội lên. Cả một hệ thống liên quan đến các loại thực phẩm được xây dựng để giúp chuẩn bị thân thể biết rung động đáp ứng với tâm thức cao hơn khi cần đến.

The next step is the complete mastery of the emotions, so that a man may never be carried away by them. A man must have made some advance along this line before it is thought safe to teach him the methods of Yoga itself. When he has thus partly purified his body, and learned to control his emotions, there comes in the training of the mind, the “great enemy” as they call it; because all the ordinary use of the mind is to run out to the outer world, and that mind is usually regarded as the best which moves most rapidly from one thing to another, which is able to grasp one thing and then turn to another, and so on. Now those qualities are exceedingly hinder­ing when you come to the evolution of the higher consciousness, and the Raja Yogi turns all his efforts to the evolution of this higher consciousness, which de­mands the quieting of the mind, in order that it may shine forth. So his practice consists partly in the steadying of the mind, which is done by the use of the imagination to a large extent, a mental picture being formed and the attention fixed on it; then withdrawn [129] from all the picture but one point, and fixed upon that; that point finally being dropped so that the mind remains absolutely still. The difficulties here in the West with regard to this method are these: that the mind is more restless than it is in the East, by the line of evolution; and again, that people expect results too rapidly. The first result of trying to fix the mind is to discover that it is much more restless than you thought it was. A mind which thought itself fairly steady is found to be restless and all over the place, when it is ordered to fix itself on a thing which does not attract it. Then, again, you must practise this for years before you get a really satisfactory result, and that is a thing which seems rather long to the hurrying and busy life we find here in the West. If you have done it some lives before, you will do it soon now; but if this is the first life, it will be a weary task, but it is inevitably necessary if you desire to grow along the path that means wisdom, power and service. When the mind has grown fairly steady, so that it can be reduced to quietude and kept there without thinking, then comes the time when the higher consciousness asserts itself, and with that one enters on the real practice of Yoga.

Bước kế tiếp là làm chủ trọn vẹn các cảm xúc, để con người không bao giờ bị chúng cuốn đi. Con người phải có tiến bộ nào đó theo hướng này trước khi người ta cho là an toàn để dạy người ấy các phương pháp của chính Yoga. Khi người ấy đã phần nào thanh lọc thể xác, và học được cách chế ngự cảm xúc của mình, thì đến giai đoạn rèn luyện thể trí, “kẻ thù lớn” như người ta gọi; bởi vì cách sử dụng thông thường của thể trí là phóng ra thế giới bên ngoài, và thể trí thường được xem là tốt nhất là thể trí chuyển động mau lẹ nhất từ điều này sang điều khác, có thể nắm bắt một điều rồi lại quay sang điều khác, cứ thế tiếp diễn. Những phẩm tính ấy lại cực kỳ cản trở khi bạn đi vào tiến hoá của tâm thức cao, và vị Raja Yogi dồn toàn bộ nỗ lực vào sự tiến hoá của tâm thức cao này, vốn đòi hỏi phải làm yên lặng thể trí, để nó có thể toả sáng. Do đó sự thực hành của người ấy một phần là làm cho thể trí vững ổn, điều này phần lớn được thực hiện nhờ sử dụng sự tưởng tượng, hình thành một hình ảnh trong trí và cố định sự chú ý vào đó; rồi rút [ 129] khỏi toàn bộ bức hình trừ một điểm, và cố định vào điểm ấy; cuối cùng bỏ cả điểm đó để cho thể trí hoàn toàn tĩnh lặng. Những khó khăn ở đây, tại Phương Tây, liên quan đến phương pháp này là: thể trí theo dòng tiến hoá vốn bồn chồn hơn so với ở Phương Đông; và nữa, người ta mong đợi kết quả quá nhanh. Kết quả đầu tiên của việc cố định thể trí là khám phá rằng nó bồn chồn hơn nhiều so với bạn đã tưởng. Một thể trí vốn tưởng mình khá vững lại tỏ ra bồn chồn và tán loạn khắp nơi, khi bị lệnh phải cố định vào một điều không hấp dẫn nó. Rồi nữa, bạn phải thực hành việc này trong nhiều năm trước khi có được kết quả thật sự thoả đáng, và điều đó có vẻ khá dài đối với đời sống vội vã và bận rộn mà chúng ta thấy ở đây, tại Phương Tây. Nếu bạn đã làm việc ấy trong vài kiếp trước, bây giờ bạn sẽ sớm làm được; nhưng nếu đây là kiếp đầu tiên, đó sẽ là một công việc mệt nhoài, song tất yếu cần thiết nếu bạn ước muốn tăng trưởng trên con đường hàm ý minh triết, quyền năng và phụng sự. Khi thể trí đã trở nên khá vững, đến mức có thể được đưa vào tĩnh lặng và giữ ở đó mà không suy nghĩ, thì đến lúc tâm thức cao tự khẳng định, và với điều đó người ta bước vào sự thực hành Yoga thực sự.

In addition to the fixing and gradual emptying of the mind in this way, there will be considerable prac­tice simply in concentration, keeping the mind on a single thought, not so much now on a mental picture as on an idea, and, as it were, sucking out of that idea everything it has in it, by a curious process in which the idea takes possession of the man. What really [130] happens is that the mental body moulds itself into the form of the idea, so that the idea becomes part of the mental body of the thinker; and when he can do that, those fixed thoughts mould and shape, and create the organs in the mental body necessary for the work which he has to do. When those organs are partially devel­oped, then the thought-power comes down through them on to the astral, and builds there again the organs that it requires. You see you are coming down, along the true line of evolution—the higher builds the lower ­and this more highly developed consciousness, having shaped the mental body, proceeds to the shaping of the astral; and as the man proceeds with his meditation and concentration day by day, the thought comes down on to the physical plane, and shapes the brain, also for the expression of the higher powers. And when the thought-currents at last pour down, they find an instru­ment which is able to vibrate without injury; and in addition to that, the whole of the man’s previous thinking has improved the cells of the brain, has en­larged them and made them very much more complex, creating a better instrument both in the organisation of the cells by the whole course of thinking, and by the power of vibrating to the subtler currents when they come down from the higher planes.

Bên cạnh việc cố định và dần làm rỗng thể trí theo cách này, còn có thực hành đáng kể chỉ đơn thuần là tập trung, giữ thể trí trên một tư tưởng duy nhất, không còn chú trọng nhiều đến hình ảnh trong trí mà là vào một ý niệm, và như thể rút cạn khỏi ý niệm ấy mọi điều nó chứa, qua một tiến trình lạ lùng trong đó ý niệm chiếm lĩnh con người. Điều thật sự [ 130] xảy ra là thể trí tự uốn mình theo hình tướng của ý niệm, đến nỗi ý niệm trở thành một bộ phận của thể trí của người tư duy; và khi người ấy có thể làm như vậy, những tư tưởng cố định ấy sẽ nắn khuôn và định dạng, và tạo ra các cơ quan trong thể trí cần thiết cho công việc mà người ấy phải làm. Khi những cơ quan đó phát triển phần nào, thì sức mạnh tư tưởng giáng xuống qua chúng tới cõi cảm dục, và lại xây dựng ở đó những cơ quan mà nó đòi hỏi. Bạn thấy đấy, bạn đang đi xuống dọc theo đường lối tiến hoá chân chính—cái cao xây dựng cái thấp và tâm thức phát triển cao hơn này, sau khi đã tạo hình thể trí, tiến hành tạo hình cõi cảm dục; và khi con người tiếp tục tham thiền và tập trung ngày qua ngày, tư tưởng đi xuống cõi hồng trần, và tạo hình cả bộ não nữa để biểu lộ các quyền năng cao hơn. Và khi các dòng tư tưởng sau cùng tuôn đổ xuống, chúng gặp một khí cụ có thể rung động mà không bị tổn hại; và ngoài ra, toàn bộ tư duy trước đó của con người ấy đã cải thiện các tế bào của bộ não, đã làm chúng lớn hơn và phức tạp hơn rất nhiều, tạo nên một khí cụ tốt hơn cả về tổ chức của các tế bào nhờ toàn bộ tiến trình tư duy, lẫn về khả năng rung ứng với những dòng vi tế hơn khi chúng giáng xuống từ các cõi cao.

Now that is the practice of Raja Yoga put in a general way. Laborious, difficult, demanding a great sacrifice of time and labour, it must become the first thing in life ere one can expect success. But, after all, that is only what is true of every other science. The [131] man who is going to be a really great mathematician must give his life to it; the man who is going to be a great scientist of any kind makes the science in which he chooses to be an expert the one object of his life, bending all his efforts that way; and can you expect the science of the soul, hardest, most complex, and most subtle of all sciences, shall be mastered with less of effort than is given to the ordinary science, which works in the physical plane and by the physical brain? If you think of it, you will see that this only can be the rule of evolution here as elsewhere that the man who would really be a Raja Yogi must make it the object of his life. And as he proceeds in this way, notice the sequence: consciousness unfolding first, and then the organs of the body shaped for its expression. That means that whenever the organ is able to work, the consciousness will be able to under­stand and master. It means that the man has evolved within, and so will be able to deal with all that meets him on the different planes of existence; and as he enters into one plane after another, he will find that the powers that he requires on that plane are evolved in his consciousness, and that none of the mechanism that has been created by their use goes beyond, in its power of response, the powers of the consciousness to under­stand. I grant that it is much more difficult than the other plan; but then it takes you somewhere. It really quickens our evolution and makes our lives nobler and grander than otherwise they can possibly be. It is the road of evolution traced by the Divine [132] Will for the whole of humanity; and all that the Raja Yoga does is to quicken evolution; it does not turn aside from it, nor go against it.

Như thế là thực hành Raja Yoga được trình bày một cách tổng quát. Cực nhọc, khó khăn, đòi hỏi hy sinh lớn lao về thời gian và công sức, nó phải trở thành điều ưu tiên nhất trong đời trước khi người ta có thể mong đợi thành công. Nhưng rốt cuộc, đó chỉ là điều đúng với mọi khoa học khác. Người [ 131] muốn trở thành một nhà toán học thật sự vĩ đại phải hiến dâng đời mình cho nó; người muốn trở thành một nhà khoa học lớn thuộc bất kỳ ngành nào đều biến khoa học mà ông chọn để chuyên sâu thành mục tiêu duy nhất của đời mình, uốn mọi nỗ lực theo hướng ấy; và há bạn có thể kỳ vọng khoa học của linh hồn—khó khăn nhất, phức tạp nhất và vi tế nhất trong mọi khoa học—lại được làm chủ với ít nỗ lực hơn những khoa học thông thường, vốn hoạt động trong cõi hồng trần và bằng bộ não hồng trần? Nếu bạn suy ngẫm, bạn sẽ thấy rằng chỉ điều này mới có thể là quy luật của tiến hoá ở đây cũng như ở nơi khác: người thật sự muốn trở thành một Raja Yogi phải biến nó thành mục tiêu của đời mình. Và khi người ấy tiến bước theo cách này, hãy lưu ý trình tự: tâm thức khai mở trước, rồi các cơ quan của thể được tạo hình để biểu lộ nó. Điều đó có nghĩa là hễ cơ quan có thể hoạt động thì tâm thức sẽ có thể thấu hiểu và làm chủ. Điều đó có nghĩa là con người đã tiến hoá từ bên trong, và do vậy sẽ có thể đề cập đến mọi điều gặp mình trên các cõi hiện tồn khác nhau; và khi người ấy đi vào hết cõi này đến cõi khác, người ấy sẽ thấy rằng những quyền năng cần có nơi cõi ấy đã được khai triển trong tâm thức của mình, và rằng không một bộ máy nào được tạo ra bởi việc sử dụng các quyền năng đó lại vượt quá, trong năng lực đáp ứng, những quyền năng của tâm thức để thấu hiểu. Tôi thừa nhận rằng điều này khó hơn nhiều so với kế hoạch khác; nhưng rồi nó đưa bạn đến đích. Nó thật sự thúc đẩy nhanh tiến hoá của chúng ta và làm cho đời sống của chúng ta cao quý và hùng tráng hơn so với điều vốn có thể có. Đó là con đường tiến hoá được Ý Chí thiêng liêng [ 132] vạch ra cho toàn thể nhân loại; và tất cả những gì Raja Yoga làm là đẩy nhanh tiến hoá; nó không rẽ khỏi đó, cũng không đi ngược lại.

Along this line of meditation and of practice it is that the great Teachers of the past have gone. It is the road that They have proved to be safe for human feet to tread. And the prize that lies at the end of the efforts is great beyond all speaking.

Dọc theo đường lối tham thiền và thực hành này là con đường mà các Huấn Sư Vĩ Đại của quá khứ đã đi. Đó là con đường mà Các Ngài đã chứng nghiệm là an toàn cho bước chân con người dấn bước. Và phần thưởng ở tận cùng nỗ lực ấy lớn lao vượt ngoài lời nói.

I have been talking here all the time of this New Psychology; but the understanding of that is as nothing, is but, as it were, child’s play to those who are working for the evolution of these higher and nobler faculties. For there is only one motive that makes the strength, the courage, and perseverance to follow this toilsome road to its end, and that is the will to serve, and to become a channel of the Divine Will in evolution. You may tread part of that way with the desire to serve your separated self; you may find some­thing of courage, endurance, and patience by the prizes of power held out to you along this path. But this also will fail as the difficulties grow greater; for the man who fixes his thoughts on power for the separated self is working against the Divine Will which works for unity, and although he may become splendidly intel­lectual, although he may develop to a great extent that body which for age after age is not born nor dies, he cannot touch the innermost life of the Spirit, which knows no separation, but lives by unity alone.

Tôi đã nói ở đây suốt thời gian về Tân Tâm lý học này; nhưng sự thấu hiểu đó chẳng là gì, chỉ như trò trẻ con đối với những ai đang làm việc cho sự tiến hoá của những năng lực cao hơn và cao quý hơn này. Bởi vì chỉ có một động cơ tạo nên sức mạnh, can đảm và kiên trì để theo con đường nhọc nhằn này đến cùng, ấy là ý chí phụng sự, và trở thành một kênh của Ý Chí thiêng liêng trong tiến hoá. Bạn có thể dấn bước một phần con đường ấy với ước muốn phụng sự cái ngã biệt lập của mình; bạn có thể tìm được ít nhiều can đảm, chịu đựng và nhẫn nại nhờ những hứa hẹn về quyền năng được giương ra trước bạn dọc con đường này. Nhưng điều này cũng sẽ thất bại khi khó khăn tăng lên; bởi người cố định tư tưởng vào quyền lực cho ngã biệt lập thì đang làm trái với Ý Chí thiêng liêng vốn vận hành vì hiệp nhất, và dẫu người ấy có thể trở nên rực rỡ về mặt trí tuệ, dẫu người ấy có thể phát triển đến mức độ lớn lao thể nguyên nhân, thể vốn qua đời đời kỷ kỷ không sinh cũng không diệt, người ấy vẫn không thể chạm tới sự sống thâm sâu nhất của Tinh thần, vốn không biết đến phân ly mà chỉ sống bằng hiệp nhất mà thôi.

Along these paths of unfoldment I have mentioned, you are truly unfolding consciousness and form. But [133] the highest path of all, on which the eyes of those who tread these paths are set, is that spiritual evolution which means the recognition that all lives are one and not separate; that all beings live but in the Self, and the Self in them; that knowledge which is of the highest, in which all are seen as one and not as “others”. So that the man who reaches the threshold of the spiritual world sees in that world himself indeed, but himself as part of a common, universal life; realises that all the forms that lie on the lower planes are his so far as his life and his powers are concerned, and that the one particular form that he has been evolving by his struggles and his labours is in very truth no more his, as a separated thing, than any of the other objects which he sees around him in the universe, whose life is one. So that it is not for him, as his eyes open to the greatness of the spiritual world, to see differences in those around him any more, nor to think of himself as other than they. The criminal in his lowest degrada­tion to him is part of himself, and the form of the criminal is his form as much as his own highly evolved one. It is the glory of such a life that it can share any form, however low, however base or vile, and, pouring part of itself into that form, can raise it a little higher than by its own unaided efforts it could climb. That it is to be a Saviour of the world; to know no difference, to look on the saint and criminal with equal eyes, as both manifestations of the Divine, as much identified with the one as with the other—perhaps even more with the lower than with the higher, because the lower needs aid [134] and effort more than does the higher and the more intelligent. That it is to be a Saviour of the world: to be wise, but only that the wisdom may go out among all the ignorant and make every ignorant man a little wiser because one has known; to go out among the foul and the impure, having gained purity, and make them a little cleaner because one has risen to the heights of purity; to learn, but only to share; to gain, but only to give; to rise to the highest in order to be able to touch most effectively the lowest. For this is true that the higher you climb, the more easily you can touch the lowest; not by stooping down to them, but by feeling your own unity and identity with them. It is the part of the truly spiritual man to feel himself one with the sinner, and to share his own purity with him. That is what is meant by the spiritual life, beyond all intellect and beyond all enveloping form; that is the true glory of Divine manhood; that the reality of the spiritual life. Worthless is all unfold­ment, worthless all swift evolution, worthless all development, unless it subserves this one supreme end­—to put an end to separateness; to think no more of others as different from one’s Self, but to know that the whole universe, inasmuch as it is in its Creator, is also in every life that is one with Him; to know that, as we share the Divine life, we come nearest to every form in the universe; for true is it only of that which is of Spirit: “Closer is he than breathing, nearer than hands and feet.” [135]

Dọc theo những con đường khai mở tôi đã nêu, bạn thực sự đang khai mở tâm thức và hình tướng. Nhưng [ 133] con đường tối thượng trong tất cả—mà mắt của những người đang bước đi trên các con đường này đều hướng về—là tiến hoá tinh thần, nghĩa là sự nhận ra rằng mọi sự sống là một chứ không tách biệt; rằng mọi hữu thể chỉ sống trong Tự Ngã, và Tự Ngã ở trong họ; tri kiến tối thượng ấy, trong đó mọi người được thấy là một chứ không phải là “những kẻ khác”. Vì thế, người chạm ngưỡng thế giới tinh thần quả thật thấy chính mình trong thế giới đó, nhưng thấy mình như một phần của một Sự Sống chung, phổ quát; nhận biết rằng mọi hình tướng nằm trên các cõi thấp đều là của mình xét về phương diện sự sống và quyền năng của mình, và rằng hình tướng riêng biệt mà người ấy đã dày công tiến hoá bằng nỗ lực và lao tác của mình, thật sự không còn là của riêng người ấy như một vật thể biệt lập, hơn bất kỳ đối tượng nào khác mà người ấy thấy quanh mình trong vũ trụ, nơi sự sống là một. Vì vậy, khi đôi mắt người ấy mở ra trước sự vĩ đại của thế giới tinh thần, người ấy không còn thấy những dị biệt nơi những người chung quanh, cũng không còn nghĩ mình là khác với họ. Kẻ phạm tội trong cảnh sa đoạ thấp nhất đối với người ấy là một phần của chính mình, và hình tướng của kẻ phạm tội cũng là hình tướng của mình ngang bằng với hình tướng rất cao đã tiến hoá của chính mình. Vinh quang của một sự sống như thế là nó có thể chung phần với bất kỳ hình tướng nào, dầu thấp hèn, dầu đê tiện hay ô uế đến đâu, và, rót một phần của chính mình vào hình tướng ấy, có thể nâng nó lên cao hơn một chút so với mức mà tự thân nó, không được trợ giúp, có thể vươn tới. Ấy là làm một Đấng Cứu Thế của thế gian; không biết đến sai khác, nhìn bậc thánh và kẻ phạm tội bằng cặp mắt như nhau, như cả hai đều là biểu lộ của Đấng Thiêng liêng, đồng nhất với bên này cũng như với bên kia—thậm chí có lẽ còn đồng nhất với bên thấp nhiều hơn với bên cao, bởi bên thấp cần trợ giúp và nỗ lực nhiều hơn so với bên cao và thông tuệ hơn. Ấy là làm một Đấng Cứu Thế của thế gian: để nên minh triết, nhưng chỉ để minh triết ấy lan toả giữa mọi kẻ vô tri và làm cho mỗi người vô tri khôn ngoan hơn đôi chút vì có một người đã biết; để đi vào giữa những kẻ nhơ nhớp và ô uế, sau khi đã đạt được thanh khiết, và làm họ sạch hơn chút ít vì có một người đã vươn tới đỉnh cao của sự thanh khiết; để học, nhưng chỉ để sẻ chia; để đạt được, nhưng chỉ để hiến tặng; để vươn tới chỗ cao nhất hầu có thể chạm tới chỗ thấp nhất một cách hữu hiệu nhất. Bởi vì điều này là chân thật: càng leo cao, bạn càng có thể chạm tới chỗ thấp nhất một cách dễ dàng hơn; không phải bằng cách cúi xuống với họ, mà bằng cảm thức về sự hiệp nhất và đồng nhất của chính bạn với họ. Ấy là phần việc của con người thật sự tinh thần là cảm thấy mình là một với kẻ tội lỗi, và chia sẻ với y chính sự thanh khiết của mình. Đó là điều được hàm ý bởi đời sống tinh thần, vượt ngoài mọi trí năng và mọi hình tướng bao bọc; ấy là vinh quang chân thật của phẩm tính người thiêng liêng; ấy là hiện thực của đời sống tinh thần. Vô giá trị mọi khai mở, vô giá trị mọi tiến hoá mau lẹ, vô giá trị mọi phát triển, trừ khi nó phục vụ mục đích tối thượng này—chấm dứt tính phân ly; không còn nghĩ người khác là khác với Tự Ngã của mình, mà biết rằng toàn vũ trụ, vì ở trong Đấng Sáng Tạo của nó, cũng ở trong mọi sự sống hợp nhất với Ngài; bởi chỉ điều thuộc về Tinh thần mới chân thật thế này: “Ngài gần hơn cả hơi thở, gần hơn cả tay và chân.” [ 135]

 —————————————

—————————————

[*] See A Study in Consciousness, IV.

[*] Xem Một Nghiên cứu về Tâm thức , IV.

[†] See Lecture III.

[†] Xem Bài thuyết giảng III.

[‡] Quoted by Prof. James, in Varieties of Religious Experience, p. 19.

[‡] Được trích bởi Giáo sư James, trong Những Dạng Thức của Kinh nghiệm Tôn giáo , tr. 19.

[§] Ibid., p. 25.

[§] Sđd., tr. 25.

[**] See The Voice of Silence. Trans. by H. P, Blavatsky.

[**] Xem Tiếng Nói của Im Lặng . Bản dịch của H. P, Blavatsky.

 Copyright© 2013 by Anand Gholap. All rights reserved. Terms of Use of this web-site

Bản quyền© 2013 thuộc Anand Gholap. Mọi quyền được bảo lưu.

Leave a Comment

Scroll to Top