To R. A. J.
RAJ
Frances Browne
3/15/1887, USA
Radiation, Alignment, Joy
II-VII-4-6-2
173-186
473-492
New Seed Group Worked with SES staff
Book I
August 1936
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
The press of work has led to some delay in my writing my personal instructions to you. I realise, however, that you have much real patience and hence have felt no sense of pressure. Those of us who teach from the inner side have usually to deal with two extreme positions where our disciples are concerned. We have to protect ourselves from the importunities of those who are spiritually selfish (oft unconsciously) and over-eager for development and teaching; we have also to stimulate those disciples, who are slow and cautious and doubtful to a more ready and “approaching” attitude. Those aspirants and disciples, who stand ready to be taught when opportunity offers, ought to continue steadfastly with their work even when apparently there is no inner contact. These disciples offer no strain to the inner teacher and, in the last analysis, make the most progress. |
Do áp lực công việc, nên tôi đã có chút chậm trễ trong việc viết huấn thị cá nhân cho em. Tuy nhiên, tôi hiểu rằng em có rất nhiều sự nhẫn nại chân thật, vì thế em không hề cảm thấy bị áp lực. Những người trong chúng tôi làm công việc giảng dạy từ nội giới thường phải đối mặt với hai trạng thái cực đoan khi làm việc với các đệ tử. Chúng tôi phải tự bảo vệ mình khỏi sự nài nỉ của những người vốn ích kỷ trên phương diện tâm linh (thường là vô thức) và quá nôn nóng với sự phát triển và giáo huấn; đồng thời, chúng tôi cũng phải kích thích những đệ tử vốn chậm chạp, thận trọng và hay nghi ngờ, để họ có được một thái độ “tiếp cận” nhanh nhạy hơn. Những người chí nguyện và đệ tử nào luôn sẵn sàng để được dạy khi cơ hội đến nên tiếp tục kiên định với công việc của mình ngay cả khi dường như không có tiếp xúc nội tại nào. Những đệ tử này không tạo áp lực đối với vị Thầy nội môn, và xét đến cùng, họ tiến bộ nhiều nhất. |
You have given your life to the craft of teaching and consequently there is now given to you a more expansive view of the underlying purpose of the planetary, educational movement. In this movement, those of you who have some inner vision and who can grasp the magnitude of the Plan to bridge the gap between the higher and lower mind can contribute much to our endeavour, for you can build on mental levels. I am pointing this out, because, for you, this inner mental work is at present essential—a mental work to be carried on in the egoic consciousness. This is neither the consciousness of the concrete levels of the intellect nor the more abstract levels of the intuition. During the next few months the need, for you, is to work at a more instantaneous and definite alignment. To this end, you will find, at the close of this instruction, that I [174] have given you a meditation which makes this alignment its major objective. |
Em đã hiến dâng cuộc đời mình cho nghệ thuật giảng dạy, và do đó giờ đây em đang được ban cho một tầm nhìn mở rộng hơn về mục đích nền tảng của phong trào giáo dục hành tinh. Trong phong trào này, những ai trong các em có một phần tầm nhìn nội tâm và có thể nắm bắt được tầm vóc vĩ đại của Thiên Cơ trong việc bắc cầu giữa trí tuệ thấp và trí tuệ cao có thể đóng góp rất nhiều cho nỗ lực của chúng tôi, vì các em có thể xây dựng nơi các cõi trí. Tôi nhấn mạnh điều này vì đối với em, công việc nội tâm trên bình diện trí tuệ lúc này là thiết yếu—một công việc trí tuệ phải được thực hiện trong tâm thức chân ngã. Đây không phải là tâm thức của các tầng cụ thể trong trí năng, cũng không phải là tầng trực giác trừu tượng hơn. Trong vài tháng tới, điều cần thiết đối với em là làm việc để đạt được một sự chỉnh hợp tức thời và rõ ràng hơn. Để hướng đến mục tiêu này, em sẽ thấy, ở phần cuối huấn thị này, rằng tôi [174] đã trao cho em một bài tham thiền mà mục tiêu chính là đạt được sự chỉnh hợp đó. |
Also, in order to clarify your mind in this connection, I am going to ask you to search for all that I may have said regarding alignment in my various books. Will you write them all down and then, after due study of them, will you write a paper on the nature of true alignment. In this way, you will stabilise your own knowledge and serve your co-disciples by bringing to their recollection in unified form all that I may have said. Write out each passage, my brother, in full, gathering them out of the various books and present them in ordered sequence so that the simpler instruction comes first and the more abstruse last. |
Đồng thời, để làm rõ tư tưởng của em trong mối liên hệ này, tôi yêu cầu em tìm kiếm tất cả những gì tôi đã từng nói về sự chỉnh hợp trong các trước tác khác nhau của tôi. Liệu em có thể viết ra tất cả và, sau khi nghiên cứu cẩn thận, viết một bài về bản chất của sự chỉnh hợp chân thật không? Bằng cách này, em sẽ củng cố tri thức của chính mình và phụng sự các bạn đồng môn bằng việc giúp họ hồi tưởng lại một cách có hệ thống tất cả những gì tôi đã nói. Em hãy chép lại nguyên văn từng đoạn, thu thập từ các sách khác nhau, và trình bày chúng theo trật tự hợp lý, sao cho phần chỉ dẫn đơn giản được đặt trước và phần sâu xa, khó hơn được đưa ra sau cùng. |
You might well ask at the start of your personal work with me, what I consider your major requirement at this time. In the equipment of all disciples there is always much that is lacking and a good deal that should be eliminated. It is, however, needless and useless to attack all points at once and, therefore, I say to you at this time that your major need is a speedier and steadier high vibration. Your progress on the Path has been earnest and steady and your life tendency has been directly oriented towards your goal; but your rhythm, or rather, your spiritual heart beat, is slow and this should be speeded up. You must move more quickly on the Path; this will come through a more active mental attitude. The vibratory rate of the bodies differs. The astral body vibrates more quickly than does the physical, and the mental body has a higher and more rapid vibration than the astral. It is on the mental plane and in the mind consciousness that you must seek to live. This will enable you (after two or three years’ work with me) to “stand in spiritual being,” a thing which at this time you only do under strong mental stress and strain, for it is not yet a life habit. |
Có thể ngay từ khi bắt đầu công việc cá nhân với tôi, em sẽ hỏi: điều gì là nhu cầu chính yếu nhất của tôi lúc này? Trong cấu trúc của tất cả các đệ tử luôn có nhiều điều còn thiếu sót và khá nhiều điều cần loại bỏ. Tuy nhiên, sẽ vô ích nếu cố gắng xử lý tất cả mọi điểm cùng lúc, nên vào lúc này tôi nói với em rằng nhu cầu lớn nhất của em là đạt được một nhịp rung cao hơn, nhanh và ổn định hơn. Sự tiến bộ của em trên Đường Đạo đã rất chân thành và đều đặn, và khuynh hướng sống của em luôn hướng trực tiếp đến mục tiêu; nhưng tiết điệu của em, hay nói chính xác hơn, nhịp đập tâm linh của em còn chậm và cần được tăng tốc. Em phải bước nhanh hơn trên Đường Đạo; điều này sẽ đến thông qua một thái độ trí tuệ năng động hơn. Tần số rung động của các thể khác nhau. Thể cảm xúc rung động nhanh hơn thể xác, và thể trí lại có rung động cao hơn và nhanh hơn thể cảm xúc. Chính nơi cõi trí và trong tâm thức trí tuệ, em cần sống. Điều này sẽ giúp em (sau hai hoặc ba năm làm việc cùng tôi) có thể “đứng trong bản thể tâm linh,” điều mà hiện tại em chỉ làm được khi trải qua áp lực hoặc căng thẳng trí tuệ mạnh, vì nó chưa trở thành một thói quen sống. |
My blessing rests upon you in a new way, e’en though for four years I have interiorly worked with you. |
Phúc lành của tôi dành cho em theo một cách mới, mặc dù trong suốt bốn năm qua tôi đã âm thầm làm việc với em nơi nội giới. |
March 1937
BROTHER OF MINE: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
The implications of the past year, in your particular case, are not hard to read. There has been a steady unfoldment, and [175] yet at times some real discouragement. There has been a renewing of your determination to press forward at all costs and yet some sense of failure, based largely upon physical fatigue and the pressures of life. No one but yourself guesses how tired you have been at times. There have been a few high moments and a good deal of valley experience, but usually the steady monotony of a career which has become an established habit and in which you long frequently for the manifestation of earlier enthusiasms. This is, however, inevitable and is one of the things which occur to disciples who are truly on the Path. The outer plane life is followed almost automatically, and much of it falls, through habit, below the threshold of consciousness, and produces thereby system, regularity, and good discipline. If this becomes the centre of consciousness, there is aridness, a longing for change and for early “excitements” (using that word in its more technical, psychological sense) which would give the sense of reality to the outer work. But this trained responsiveness to environing conditions, leading, as I have said, to right automatic habits of response, should be regarded as a liberation, setting you free for the deepening and the excitation of the inner, subjective life, wherein your centre of consciousness will become increasingly focussed. I am pointing this out to you as I feel (while I study your general condition) that this consciousness of release is one which you greatly need. The deep undercurrent of spiritual aspiration and mental attention to the impact of the soul is much needed by you all, and by you especially. |
Những hàm ý từ năm vừa qua, trong trường hợp riêng của em, không khó để nhận ra. Đã có một sự khai mở đều đặn, và [175] tuy vậy, đôi lúc có những nỗi nản lòng thật sự. Đã có một sự làm mới lại quyết tâm của em trong việc tiến bước bằng mọi giá, và đồng thời cũng có cảm giác thất bại, phần lớn bắt nguồn từ sự mệt mỏi thể chất và áp lực của đời sống. Không ai ngoài em biết được em đã mệt đến mức nào vào những lúc như thế. Đã có một vài khoảnh khắc cao vời, và khá nhiều trải nghiệm nơi thung lũng, nhưng thường là sự đơn điệu đều đặn của một sự nghiệp đã trở thành thói quen cố định và trong đó em thường khát khao sự biểu lộ của những hứng khởi ban đầu. Tuy nhiên, điều này là không thể tránh khỏi và là một trong những điều luôn xảy đến với những đệ tử thật sự đang trên Đường Đạo. Đời sống nơi cõi trần được thực hiện gần như một cách tự động, và phần lớn những điều đó, do thói quen, rơi xuống bên dưới ngưỡng tâm thức, qua đó tạo nên hệ thống, quy củ và kỷ luật tốt. Nếu điều này trở thành trung tâm của tâm thức, sẽ sinh ra sự khô khan, một khát vọng thay đổi và một sự khao khát những “kích thích” ban đầu (dùng từ này theo nghĩa kỹ thuật và tâm lý học) vốn sẽ mang lại cảm giác thực tại cho công việc bên ngoài. Nhưng sự đáp ứng đã được rèn luyện này đối với các điều kiện bao quanh, vốn dẫn đến, như tôi đã nói, các thói quen phản ứng đúng đắn và tự động, nên được xem là một sự giải thoát, cho phép em được tự do để đi sâu và khuấy động đời sống nội tâm, nơi mà trung tâm tâm thức của em sẽ ngày càng tập trung hơn. Tôi đang chỉ ra điều này vì tôi cảm thấy (trong khi quan sát tổng thể trạng thái của em) rằng cảm thức về sự giải phóng này là điều mà em rất cần. Dòng chảy sâu bên dưới của nguyện vọng tâm linh và sự chú thể trí tuệ đến những tác động từ linh hồn là điều rất cần thiết cho tất cả các em, và đặc biệt là cho em. |
You have worked for some time at the alignment of the personality. This directed attention to the matter must have, and has, produced results, even if you yourself remain unaware of them. Others are conscious of them even if they cannot express to you wherein they sense the change. |
Em đã làm việc một thời gian với sự chỉnh hợp của phàm ngã. Sự chú tâm có định hướng này chắc chắn đã mang lại kết quả, ngay cả khi chính em chưa ý thức được điều đó. Những người khác cảm nhận được, dù họ không thể diễn tả rõ ràng cho em rằng họ nhận ra sự thay đổi ở chỗ nào. |
To change your meditation is not my intention but I am going to give you seven seed thoughts and will ask you to concentrate upon them in your meditation period. Otherwise keep the meditation the same as earlier indicated. These seven thoughts are as follows: |
Tôi không có ý định thay đổi bài tham thiền của em, nhưng tôi sẽ trao cho em bảy tư tưởng hạt giống và mong em tập trung vào chúng trong giai đoạn tham thiền. Ngoài ra, hãy giữ bài tham thiền như đã được hướng dẫn trước đó. Bảy tư tưởng này như sau: |
1st month— The Power of the Soul pours like a steady current through my life. I sense it in my attitude to life, [176] and in the light it brings as it sweeps through all the aspects of my nature. May that power strengthen my will to serve. |
Tháng thứ nhất — Quyền năng của Linh hồn tuôn đổ như một dòng chảy ổn định xuyên suốt đời sống tôi. Tôi cảm nhận được nó trong thái độ sống của mình, [176] và trong ánh sáng mà nó mang lại khi quét qua mọi phương diện bản chất tôi. Nguyện cho quyền năng ấy củng cố ý chí phụng sự của tôi. |
2nd month— The Light of the Soul streams forth like a beacon light upon my way; and in that light I see the light in others. I know I travel not alone. |
Tháng thứ hai — Ánh sáng của Linh hồn tuôn tràn như một ngọn hải đăng chiếu sáng con đường tôi đi; và trong ánh sáng ấy tôi thấy ánh sáng nơi người khác. Tôi biết rằng mình không đơn độc trên hành trình. |
3rd month— The Love of the Soul wells up within my heart; and understanding, pity, love and self-forgetfulness arise. I carry love to all I meet. I meet men’s love with love and remember not myself. |
Tháng thứ ba — Tình thương của Linh hồn tuôn trào trong tim tôi; và sự thấu hiểu, lòng trắc ẩn, tình thương và sự tự quên mình dâng lên. Tôi mang tình thương đến cho tất cả những ai tôi gặp. Tôi đáp lại tình thương của con người bằng tình thương và không còn nhớ đến bản thân. |
4th month— The Joy of the Soul irradiates my life, and lightens all the burdens which those I meet may carry. The Joy of the Lord is my strength, and I develop strength in joy for others. |
Tháng thứ tư — Niềm hoan lạc của Linh hồn chiếu sáng đời tôi, và làm nhẹ bớt mọi gánh nặng mà những người tôi gặp phải đang mang. Niềm hoan lạc nơi Đức Chúa là sức mạnh của tôi, và tôi phát triển sức mạnh trong niềm hoan lạc cho người khác. |
5th month— The Purity of the Soul acts like a cleansing flood and bathes my lower self in the “waters of purification.” The body of desire is rendered pure and clean and strong. I can then become a cleansing force to all I meet. |
Tháng thứ năm — Sự thanh khiết của Linh hồn như một dòng nước tẩy rửa, thanh lọc toàn bộ phàm ngã tôi trong “dòng nước của sự thanh luyện.” Thể dục vọng trở nên thuần khiết, sạch sẽ và mạnh mẽ. Khi ấy, tôi có thể trở thành một lực tẩy rửa cho tất cả những ai tôi gặp. |
6th month— The Will of the Soul becomes my will. I know no other. That will is love and peace and power and strength to live. It bears me on. It leads me to the Cross and to the Resurrection. Thus only can I raise and lift my fellowmen. |
Tháng thứ sáu — Ý chí của Linh hồn trở thành ý chí của tôi. Tôi không còn ý chí nào khác. Ý chí ấy là tình thương, bình an, quyền năng và sức mạnh để sống. Nó nâng tôi lên. Nó dẫn tôi đến Thập Giá và đến Phục Sinh. Chỉ như vậy tôi mới có thể nâng và dẫn dắt nhân loại. |
7th month— The Presence of the Soul abides with me. I walk with God by night and day. I stand with God upon the ways of men; the shadow of His Presence which is the Presence of my soul, reveals the God on every hand, in every man. I see divinity on every hand in every form. |
Tháng thứ bảy — Hiện diện của Linh hồn ngự trị nơi tôi. Tôi bước đi với Thượng Đế đêm và ngày. Tôi đứng với Thượng Đế nơi những lối đi của con người; bóng của Sự Hiện Diện của Ngài—chính là sự hiện diện của linh hồn tôi—hiển lộ Thượng Đế nơi mọi hướng, trong mọi con người. Tôi thấy thiên tính nơi mọi phương hướng, trong mọi hình tướng. |
I think, my brother, that if you ponder upon these thoughts and if you endeavour to incorporate them into the meditation upon alignment which I earlier gave to you, you will gain in power to do God’s will. The two aspects of yourself—the aligned personality and the attentive soul—will march towards unity. |
Tôi nghĩ, huynh đệ của tôi, rằng nếu em chiêm nghiệm những tư tưởng này và nỗ lực kết hợp chúng vào bài tham thiền về sự chỉnh hợp mà tôi đã trao cho em trước đó, em sẽ gia tăng năng lực thực thi Thiên Ý. Hai phương diện của bản thân em—phàm ngã được chỉnh hợp và linh hồn đang chú tâm—sẽ tiến tới sự hợp nhất. |
I give you no set work to do this time as I would have you carry out the instructions last given. However, if you care to [177] note each month, the significance which may appear to you in your meditation work, you would crystallise your vague reactions and make the power behind these mantric formulas your own. |
Lần này tôi không giao nhiệm vụ cụ thể nào cho em vì tôi muốn em tiếp tục thực hiện các hướng dẫn đã trao lần trước. Tuy nhiên, nếu em muốn [177] ghi lại mỗi tháng ý nghĩa nào xuất hiện trong công việc tham thiền, điều đó sẽ giúp em kết tinh những phản ứng mơ hồ và làm cho mãnh lực đằng sau những công thức thần chú này trở thành sở hữu của chính em. |
One word more I would now give to you, my brother. Stand steady and know that you are not alone. This group of disciples in my Ashram is not as yet an integrated whole; its personnel is not yet complete; but it does constitute already a harbour of refuge upon the inner planes. The love of your co-disciples is yours. May I also tell you: I, too, “stand by” you in understanding strength. |
Tôi muốn nói thêm một điều nữa, huynh đệ của tôi. Hãy đứng vững vàng và biết rằng em không đơn độc. Nhóm đệ tử này trong Ashram của tôi hiện vẫn chưa phải là một chỉnh thể hợp nhất; thành phần của nó vẫn chưa hoàn chỉnh; nhưng nó đã trở thành một nơi trú ẩn nơi các cõi nội giới. Tình thương từ các bạn đồng môn là của em. Và tôi cũng xin nói thêm: tôi, cũng vậy, “đứng bên em” bằng sức mạnh thấu hiểu. |
December 1937
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
I wonder if you have noticed (and when I say “you” I refer to all the disciples in this ashramic group) that nearly all of you are on the second ray egoically…. The reason for this choice of second ray souls to work in this group, is because this ray is pre-eminently the teaching ray, the ray that is sometimes called that of “light-giving influence” or the “ray of the illuminator.” The task of all true educators is to bring light to the minds of those they instruct, so that they may walk more securely in the way which leads to the goal for any particular incarnation. It was, therefore, obvious that the major influence, dominating the group, would be that of the second ray. The interesting thing to note, however, is that in practically all the cases it is the soul ray which has this predominating influence. There are no second ray personalities in this group. This requires, consequently, much definitely applied activity on the part of all of you in order to cause its manifested expression. |
Tôi tự hỏi liệu em có để ý (và khi tôi nói “em,” tôi muốn nói đến tất cả các đệ tử trong nhóm Ashram này) rằng hầu như tất cả các em đều có linh hồn thuộc cung hai… Lý do của việc chọn các linh hồn cung hai để làm việc trong nhóm này là vì cung này vốn là cung giảng dạy một cách nổi bật, đôi khi được gọi là “cung của ảnh hưởng chiếu sáng” hay “cung của người soi sáng.” Nhiệm vụ của tất cả những nhà giáo chân chính là mang ánh sáng đến với trí tuệ của những người mà họ hướng dẫn, để họ có thể bước đi vững chắc hơn trên con đường dẫn đến mục tiêu của kiếp sống đó. Do đó, điều hiển nhiên là ảnh hưởng chính chi phối nhóm sẽ là ảnh hưởng của cung hai. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là, trong hầu hết các trường hợp, đó lại là cung của linh hồn chứ không phải phàm ngã. Trong nhóm này không có phàm ngã nào thuộc cung hai. Do đó, cần có rất nhiều hoạt động cụ thể, có chủ đích từ phía tất cả các em để khiến ảnh hưởng đó biểu lộ ra ngoài. |
The next thing to note is that the personality rays are—with one exception—on the line of 1-3-5-7, showing thereby a tendency to preserve balance and to offset the powerfully controlling line of 2-4-6. I want this word balance to be much in your minds as you study the work of the Ashram and the group inter-relation. Only the balanced person can truly meet the need of those entrusted to him to teach or can handle with wisdom the two lines of synthesised force which are brought into conjunction in every teaching process. These two lines [178] are the five lines of energy which compose the teacher’s equipment and those which compose the equipment of the one who is to be taught. |
Điều tiếp theo cần lưu ý là các cung phàm ngã—trừ một trường hợp ngoại lệ—đều thuộc dòng 1-3-5-7, cho thấy một khuynh hướng giữ gìn sự quân bình và làm trung hoà ảnh hưởng mạnh mẽ của dòng cung 2-4-6. Tôi muốn từ “quân bình” thường xuyên hiện diện trong tư tưởng các em khi nghiên cứu công việc của Ashram và mối quan hệ trong nhóm. Chỉ người nào có sự quân bình thực sự mới có thể đáp ứng đúng nhu cầu của những ai được giao phó cho họ để giảng dạy, hoặc mới có thể xử lý một cách minh triết hai dòng mãnh lực tổng hợp được mang đến trong mỗi tiến trình giáo dục. Hai dòng này [178] là năm dòng năng lượng tạo nên năng lực giảng dạy của người thầy và các dòng tạo nên năng lực tiếp nhận của người học trò. |
In no profession is the attitude of the observer more required than in the teaching profession, and in no profession is the correct handling of one’s personal forces of greater importance. This realisation will produce automatically two techniques which later we can study in greater detail: the technique of controlling one’s own forces so that there can be no undue or dangerous pressure, and the technique of employing pressure correctly so as to evoke response in the one being taught. This constitutes a definite science and we shall deal with it as we proceed with our study. |
Không có ngành nghề nào mà thái độ của người quan sát lại cần thiết hơn là trong ngành giáo dục, và cũng không có ngành nghề nào mà việc xử lý đúng đắn các mãnh lực cá nhân lại có tầm quan trọng lớn hơn. Nhận thức này sẽ tự động dẫn đến hai kỹ thuật mà sau này chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết hơn: kỹ thuật kiểm soát các mãnh lực của chính mình để tránh gây ra áp lực không đáng hoặc nguy hiểm, và kỹ thuật sử dụng áp lực đúng đắn để khơi gợi sự đáp ứng nơi người được dạy. Đây là một ngành khoa học xác thực và chúng ta sẽ nghiên cứu thêm khi tiếp tục công việc. |
One of the things which I seek to do today is to give you an analysis of the rays which determine your personality equipment so that you can balance your development to the best possible advantage, and know with what forces you can work. Another point also will emerge in time and that is the nature of the adjustment you will have to make to relate yourself to your co-disciples. These adjustments will be along the lines of innate predispositions and their utilisation to the best advantage in order to bring about an understanding which will lead to good and creative activity. |
Một trong những điều tôi mong muốn thực hiện hôm nay là phân tích các cung tạo thành cơ cấu phàm ngã của em để em có thể điều chỉnh sự phát triển của mình một cách tốt nhất, đồng thời hiểu rõ các mãnh lực mà em có thể làm việc cùng. Một khía cạnh khác cũng sẽ dần xuất hiện, đó là bản chất của những điều chỉnh mà em sẽ cần thực hiện để tạo mối quan hệ đúng đắn với các bạn đồng môn. Những điều chỉnh này sẽ đi theo các khuynh hướng sẵn có trong bản chất em, và cần được vận dụng sao cho tốt nhất để mang lại sự hiểu biết dẫn đến hoạt động sáng tạo và thiện lành. |
Then, my brother, I will give you and all in my group a meditation which will aid you in balancing your problem of interior ray inter-relation and, in this way, we shall gather together some ray meditations which may prove of value not only to yourself but to others, if used with due care. This is a thing which I have long wanted to do. |
Sau đó, huynh đệ của tôi, tôi sẽ trao cho em và toàn nhóm một bài tham thiền nhằm giúp quân bình vấn đề tương quan nội tại giữa các cung, và theo cách này, chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một số bài tham thiền theo cung, có thể hữu ích không chỉ cho chính em mà còn cho người khác nếu được sử dụng một cách cẩn trọng. Đây là điều tôi đã muốn làm từ lâu. |
It is known to you that your major rays are the second and the seventh. The latter gives to you, if you can but understand it and choose to use it rightly, the power to take the light which is in you and in the pupil, and apply it to the enlightening of physical plane living, for the seventh ray is the ray controlling spirit-matter relationships. |
Em đã biết rằng cung chính của em là cung hai và cung bảy. Cung bảy mang đến cho em, nếu em có thể thấu hiểu và lựa chọn sử dụng đúng đắn, năng lực để lấy ánh sáng trong em và trong học trò, và ứng dụng nó vào việc chiếu sáng đời sống nơi cõi trần, vì cung bảy là cung kiểm soát mối liên hệ giữa tinh thần và vật chất. |
Your mental ray is that of the fourth, the Ray of Harmony through Conflict, of beauty through order, and of unity through understanding. This, being on the line of your soul ray, will [179] tend to bring about rapid contact with the soul, via the mind, if you apply yourself with diligence to the task involved. Your whole life problem is, therefore, that of relationships, both within yourself and in your chosen field of service. This is naturally true of all, but your particular battlefield in this connection lies in the reconciling of the forces warring within your own nature and in your particular environment. It is not the Kurukshetra of the “pairs of opposites,” wherein Arjuna sits in the middle and seeks to balance the warring forces. It is the battlefield of higher relations—those between the soul and the personality, and between what you are in this life and the environment in which you find your chosen field of service. Your personal release lies in the production of harmony through conflict, and your best technique is to produce this harmonising influence within your environment as the result of your inner conflict, silently waged in the shrine of the mind. |
Cung của thể trí em là cung bốn—Cung Hài Hoà Qua Xung Đột, của vẻ đẹp qua trật tự, và của hợp nhất qua sự thấu hiểu. Vì thuộc cùng dòng với cung linh hồn, nên điều này sẽ [179] thúc đẩy sự tiếp xúc nhanh chóng với linh hồn thông qua trí tuệ, nếu em chuyên tâm thực hành công việc liên quan. Vấn đề chính trong cuộc đời em, do đó, là vấn đề của các mối quan hệ—cả trong bản thân em và trong lĩnh vực phụng sự mà em chọn lựa. Điều này, dĩ nhiên, đúng với mọi người, nhưng chiến trường đặc biệt của em trong mối liên hệ này nằm ở việc hoà giải các mãnh lực đang xung đột trong bản chất chính em và trong môi trường nơi em phụng sự. Đây không phải là Kurukshetra của “cặp đối ngẫu,” nơi Arjuna ngồi giữa và tìm cách quân bình các mãnh lực đối kháng. Đây là chiến trường của các mối liên hệ cao hơn—giữa linh hồn và phàm ngã, và giữa những gì em đang là trong kiếp này với môi trường nơi em đã chọn để phụng sự. Sự giải thoát cá nhân của em nằm trong việc tạo ra sự hài hoà thông qua xung đột, và kỹ thuật tốt nhất của em là tạo ra ảnh hưởng hoà giải trong môi trường của mình như là kết quả của cuộc xung đột nội tâm, diễn ra âm thầm trong đền thờ của trí tuệ. |
Your astral or emotional body is on the sixth ray, so that again you have a line of force direct from the soul. In your case, this sixth ray energy shows itself predominantly as devotion to duty as realised, and to responsibility as recognised, and not so much in devotion to persons or even ideals. This has constituted a paramount balancing factor in your life. |
Thể cảm xúc hay thể vía của em thuộc cung sáu, một lần nữa lại là một dòng năng lượng trực tiếp từ linh hồn. Trong trường hợp của em, năng lượng cung sáu biểu lộ rõ rệt nhất như là sự tận tụy đối với trách nhiệm được nhận thức, và bổn phận được công nhận, chứ không phải là sự tận tụy đối với con người hay lý tưởng. Đây là yếu tố quân bình chính yếu trong đời sống của em. |
Your problem will appear more clearly to you when I tell you that the ray of your physical body is the second. |
Vấn đề của em sẽ trở nên rõ ràng hơn khi tôi nói với em rằng cung của thể xác em cũng là cung hai. |
1. The soul ray—the second Ray of Love-Wisdom. |
1. Cung linh hồn — Cung hai của Bác Ái – Minh Triết. |
2. The personality ray—the seventh Ray of Ceremonial Order. |
2. Cung phàm ngã — Cung bảy của Trật Tự Nghi Lễ. |
3. The ray of the mind—the fourth Ray of Harmony through Conflict. |
3. Cung của thể trí — Cung bốn của Hài Hòa Qua Xung Đột. |
4. The ray of the astral body—the sixth Ray of Devotion and Idealism. |
4. Cung của thể cảm xúc — Cung sáu của Lòng Sùng Tín và Lý Tưởng. |
5. The ray of the physical body—the second Ray of Love-Wisdom. |
5. Cung của thể xác — Cung hai của Bác Ái – Minh Triết. |
This means that your entire equipment is along the second ray line of force and, therefore, much wise balancing is required. But how can this be done? And along what line of difficulty will the problem, which this situation brings about, [180] be expected to emerge? I wonder if I can make it clear to you by pointing out that as the vehicles of the lower nature are on the same line as the soul influence, two difficulties will be present and should be recognised: |
Điều này có nghĩa là toàn bộ cơ cấu của em đều nằm trên dòng năng lượng của cung hai, do đó, cần một sự quân bình khôn ngoan. Nhưng làm sao để thực hiện điều này? Và vấn đề do tình huống này tạo ra sẽ bộc lộ ra theo chiều hướng nào? [180] Tôi tự hỏi liệu tôi có thể làm điều đó rõ ràng cho em không, bằng cách chỉ ra rằng khi các thể của bản chất thấp đều nằm trên cùng một dòng với ảnh hưởng của linh hồn, sẽ có hai khó khăn cần được nhận biết: |
1. The influence of the ego or soul will come so easily at your particular point in evolution that the chances are that you will not recognise it; its vibration will be similar to the accustomed notes of your various bodies. You have, therefore, to train yourself in the art of differentiation so that you can recognise at will the various tones of your three bodies and can easily distinguish when there is present the tone of the soul, and react to its note or vibration. The secret of the power to distinguish the nuances of any particular line (such as your predominating line of 2-4-6) is through an increasing, planned sensitivity. |
1. Ảnh hưởng của chân ngã hay linh hồn sẽ đến với em một cách quá dễ dàng ở mức độ tiến hóa hiện tại, đến nỗi rất có thể em sẽ không nhận ra nó; rung động của linh hồn sẽ tương tự như các âm điệu quen thuộc của các thể khác nhau. Do đó, em phải rèn luyện mình trong nghệ thuật phân biệt, sao cho em có thể tuỳ ý nhận ra các âm điệu khác nhau của ba thể mình và có thể dễ dàng phân biệt khi nào âm điệu của linh hồn hiện diện, và đáp ứng với âm thanh hay rung động của nó. Bí quyết của khả năng phân biệt các sắc thái khác nhau của bất kỳ dòng nào (như dòng chính của em là 2-4-6) là thông qua một độ nhạy cảm được hoạch định và tăng trưởng có chủ đích. |
2. Where all lines of influences are related and similar, there will always be a tendency to negativity and a failure (except in moments of emergency) to assume a positive attitude—particularly towards the soul. What is needed in your case is more of the positive vibration of the first ray line of force, and to this line your seventh ray personality is the only open door. The inauguration of a regime of the power aspect of love would greatly help you. The understanding, identifying aspects of love are yours in great measure; much will come to you however if you use the will aspect of love through the medium of your seventh ray personality. I do not here refer to the will-to-love, my brother. That you have. I refer to the power-to-love and, through love intelligently and powerfully applied, to evoke right conditions in your environment. I would have you ponder on this and do the following first ray meditation…. |
2. Khi tất cả các dòng ảnh hưởng có liên hệ và tương tự nhau, luôn luôn sẽ có khuynh hướng bị động và thiếu một thái độ tích cực—đặc biệt là đối với linh hồn. Điều cần thiết trong trường hợp của em là nhiều hơn nữa rung động tích cực từ dòng năng lượng cung một, và cửa ngõ duy nhất dẫn đến dòng này chính là phàm ngã cung bảy của em. Việc khởi xướng một chế độ sống dựa trên khía cạnh quyền năng của tình thương sẽ hỗ trợ em rất nhiều. Các khía cạnh hiểu biết, đồng cảm của tình thương đã có nơi em một cách dồi dào; tuy nhiên, em sẽ đạt được nhiều hơn nữa nếu em sử dụng khía cạnh ý chí của tình thương thông qua phàm ngã cung bảy của mình. Ở đây tôi không nói đến “ý chí để yêu thương,” huynh đệ của tôi. Điều đó em đã có. Tôi nói đến “năng lực để yêu thương,” và thông qua tình thương được vận dụng một cách thông minh và đầy quyền năng, để khơi dậy các điều kiện đúng đắn trong môi trường sống của em. Tôi mong em chiêm nghiệm điều này và thực hiện bài tham thiền cung một sau đây… |
Go forth to the day’s work expecting and looking for the results of this first ray meditation. Know that those results are assured just as long as you can “stand with power in spiritual being.” |
Hãy bước ra thực hiện công việc hằng ngày với sự mong đợi và tìm kiếm kết quả từ bài tham thiền cung một này. Hãy biết rằng những kết quả ấy là điều chắc chắn, miễn là em có thể “đứng vững với quyền năng trong bản thể tinh thần.” |
[181] |
[181] |
August 1938
BROTHER OF MINE: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
It is not my intent to do more than to give you a few brief words, a suggested meditation and a short elucidation of certain words which should embody for you your personality goal. You have so much study, and life today is so intense and full that a multitude of words might fall on ears stunned by the noise and glamour of our modern world. |
Tôi không có ý định làm gì hơn ngoài việc trao cho em vài lời ngắn gọn, một bài tham thiền gợi ý, và một sự minh giải ngắn về một vài từ khóa vốn nên thể hiện mục tiêu của phàm ngã em. Em có quá nhiều việc học tập, và đời sống hôm nay thì quá căng thẳng và đầy ắp đến mức một loạt lời lẽ có thể chỉ vang vọng nơi đôi tai đã bị choáng ngợp bởi tiếng ồn và ảo cảm của thế giới hiện đại. |
You have had a year of strain, interior strain predominantly. I believe you realise that you are the better for it. Only in the stress of circumstances can the full power of the soul be evoked. Such is the law. The coming year may show but little relief or lessening of the strain but you are (interiorly again) far better equipped to handle it. |
Em đã trải qua một năm đầy áp lực, chủ yếu là áp lực nội tâm. Tôi tin rằng em nhận ra rằng em đã tốt hơn nhờ điều đó. Chỉ trong áp lực của hoàn cảnh, toàn bộ mãnh lực của linh hồn mới có thể được khơi dậy. Đó là định luật. Năm tới có thể sẽ không mang lại nhiều sự nhẹ nhõm hay giảm bớt áp lực, nhưng về mặt nội tâm, một lần nữa, em đã được trang bị tốt hơn để ứng phó với điều đó. |
A word upon which I seek to lay stress is alignment. You need to develop a straight and direct contact between soul and brain for that is the distinctive feature in all disciples of experience. You have already brought about an alignment between the mind and the brain. The higher needed alignment has been much bettered and you need not work so hard now at developing that capacity. You need, however, to employ the line of force which you have succeeded in establishing between the soul and the personality with greater frequency and more facility. The result of this would be that the significance of two other words would become apparent and you would radiate light and love and become increasingly an inspiration to others. This second word, radiation, should form the key of your life until next I instruct you. The peculiar type of radiation which I want you to endeavour to express is that light which reaches others upon the wings of joy. |
Một từ mà tôi muốn nhấn mạnh là chỉnh hợp. Em cần phát triển một mối liên hệ trực tiếp và thẳng hàng giữa linh hồn và bộ não, vì đó là đặc điểm nổi bật nơi tất cả những đệ tử có kinh nghiệm. Em đã đạt được sự chỉnh hợp giữa trí tuệ và bộ não. Sự chỉnh hợp cao hơn cần thiết này đã được cải thiện đáng kể, và giờ đây em không cần làm việc quá vất vả để phát triển năng lực ấy nữa. Tuy nhiên, em cần sử dụng tuyến năng lượng mà em đã thiết lập được giữa linh hồn và phàm ngã với tần suất cao hơn và dễ dàng hơn. Kết quả của điều này là ý nghĩa của hai từ khác sẽ trở nên rõ ràng, và em sẽ toả chiếu ánh sáng và tình thương, trở thành nguồn cảm hứng ngày càng lớn hơn cho người khác. Từ thứ hai này, tỏa chiếu, nên trở thành chủ âm trong cuộc sống của em cho đến lần kế tiếp tôi hướng dẫn. Dạng tỏa chiếu đặc biệt mà tôi mong em cố gắng biểu hiện là ánh sáng đến với người khác trên đôi cánh của hoan lạc. |
I would remind you here that happiness is the result of achieved personality desire; joy is the expression of the soul’s surety, whilst bliss is the consummation which the monad bestows upon the initiate. |
Tôi muốn nhắc em rằng hạnh phúc là kết quả của những ước muốn cá nhân được thỏa mãn; hoan lạc là sự biểu hiện của sự chắc chắn nơi linh hồn, trong khi phúc lạc là sự viên mãn mà chân thần ban cho vị điểm đạo đồ. |
Prior to your group meditation, my brother, I would have you do the following brief spiritual exercise—as the Christian mystics call it: |
Trước khi bước vào tham thiền nhóm, huynh đệ của tôi, tôi mong em thực hiện bài thực hành tâm linh ngắn sau đây—như các nhà thần bí Kitô giáo thường gọi: |
[182] |
[182] |
1. Sound the O.M. three times as a personality, achieving alignment; then sound it three times as the soul, conferring inspiration. |
1. Xướng O.M. ba lần với tư cách là phàm ngã, để đạt được chỉnh hợp; sau đó xướng ba lần với tư cách là linh hồn, để ban truyền cảm hứng. |
2. Then, focussing yourself at as high a point as possible and using the creative imagination to your fullest capacity, see the radiation of love as light pouring from the soul and raying forth as a mental influence to others, as an emotional benediction to others, and as vital life in your aura and physical presence. |
2. Sau đó, định tâm ở điểm cao nhất có thể và sử dụng năng lực tưởng tượng sáng tạo đến mức tối đa, hãy hình dung sự tỏa chiếu của tình thương như ánh sáng tuôn trào từ linh hồn và lan toả như ảnh hưởng trí tuệ đến người khác, như một phúc lành cảm xúc đến người khác, và như sinh khí sống động trong hào quang và hiện diện thể chất của em. |
3. Sound the O.M. again three times as an integrated personality and soul, fused and blended into one. |
3. Xướng O.M. lần nữa ba lần, như một phàm ngã và linh hồn đã hợp nhất và hòa quyện làm một. |
My blessing rests upon you. |
Phúc lành của tôi bao phủ em. |
January 1939
You have one glamour, my brother, which to you is well known. I will not give it a name for that is needless, and you will know whereof I speak. It is allied to fear and tunes you in on that potent and well developed world glamour. It is connected with your astral body and your emotional desire nature. It is very potent and of long persistence, constituting therefore, a powerful thought habit. Live as if it existed not. As you seek to function as a soul and to act as from soul levels, you will learn that things which are potent and apparent in your personality consciousness are in fact non-existent; they enter not into the consciousness of the soul. You will know to what I refer. I would, using a phrase with a modern significance, advise you “to forget” this glamour once and for all. Let not this glamour limit the impression which you are in a position to make as you serve within your particular sphere of usefulness. Be not discouraged (which is an aspect of your particular glamour) at failing to see the results (in this life) of the conditioning which you are imposing on other lives. Remember, as a disciple, that in this life you are establishing those relations which may not manifest in their true importance until you—as a Master—gather around you your group for instruction; you are preparing for service many lives hence. |
Em có một ảo cảm, điều mà chính em biết rất rõ. Tôi sẽ không gọi tên nó vì điều đó là không cần thiết, và em sẽ hiểu tôi đang nói đến điều gì. Nó gắn liền với sợ hãi và điều chỉnh em theo tần số của ảo cảm mạnh mẽ và đã phát triển rất rộng lớn nơi thế giới hiện nay. Nó liên kết với thể cảm dục của em và bản chất dục vọng cảm xúc. Nó rất mãnh liệt và dai dẳng, do đó tạo thành một thói quen tư tưởng đầy quyền năng. Hãy sống như thể nó không tồn tại. Khi em tìm cách hoạt động như một linh hồn và hành động từ các tầng linh hồn, em sẽ học được rằng những điều vốn có vẻ rất mạnh mẽ và rõ ràng trong tâm thức phàm ngã thật ra lại không hề tồn tại; chúng không hề đi vào tâm thức của linh hồn. Em sẽ biết tôi đang ám chỉ điều gì. Dùng một cụm từ mang sắc thái hiện đại, tôi khuyên em hãy “quên đi” ảo cảm này một lần và mãi mãi. Đừng để ảo cảm này giới hạn ảnh hưởng mà em có thể tạo ra trong lĩnh vực phụng sự đặc thù của mình. Đừng nản lòng (nản lòng là một khía cạnh của ảo cảm đặc biệt này nơi em) khi không thấy được kết quả (trong kiếp sống này) của những ảnh hưởng mà em đang tạo ra trong cuộc đời người khác. Hãy nhớ rằng, là một đệ tử, em đang thiết lập những mối quan hệ mà có thể sẽ không biểu hiện tầm quan trọng thật sự cho đến khi em—với tư cách là một Chân sư—tụ họp quanh mình nhóm đệ tử để huấn luyện; em đang chuẩn bị cho sự phụng sự trong nhiều kiếp sống về sau. |
You are entering with renewed strength and vigour into the coming winter’s work. Like many today, relief and release [183] appear to lie in concentration upon your life-appointed task; in the performance and the perfection of duty is to be found a sense of contributing to the assuagement of the world need. Nevertheless, that does not suffice for a disciple, as you will have discovered; yet it constitutes for you a problem. |
Em đang bước vào với sức mạnh và sinh lực mới trong công việc của mùa đông sắp tới. Giống như nhiều người ngày nay, sự nhẹ nhõm và giải thoát [183] dường như đến từ việc tập trung vào nhiệm vụ được giao trong cuộc đời; trong việc thực hiện và hoàn thiện trách nhiệm chính là cảm thức rằng mình đang đóng góp để xoa dịu nhu cầu của thế giới. Tuy nhiên, điều đó không đủ đối với một đệ tử, như em đã nhận ra; thế nhưng điều đó lại tạo thành một vấn đề đối với em. |
In teaching you, I seek to do three things: |
Trong việc huấn luyện em, tôi tìm cách thực hiện ba điều: |
1. Give training in the initial steps of technical discipleship so that a good foundation of knowledge in preparation for initiation is laid for future use. |
1. Trao cho em sự huấn luyện trong những bước đầu của đệ tử thuật kỹ thuật, để đặt nền móng vững chắc cho sự hiểu biết chuẩn bị cho lễ điểm đạo trong tương lai. |
2. Stimulate you to such an extent that the inner urge to express the spiritual reality (which is your true self) may overcome all the inertia which holds you down—as it does so many—to a restricted spiritual expression. |
2. Kích thích em ở mức đủ lớn để thôi thúc bên trong nhằm biểu hiện thực tại tâm linh (vốn là bản chất đích thực của em) có thể vượt qua mọi trì trệ, vốn đã giam giữ em (và nhiều người khác) trong sự biểu hiện tâm linh hạn chế. |
3. Integrate you more closely into the group life. I would remind you that in this group (if it is to be a true nucleus of the group life of the future) the disciple must recognise that it is the united group thinking, the unified group desire and the blended group activity which conditions its expression. This, in its turn, is the manifestation of the simultaneity and the synthesis produced by the sum total of the similar thoughts, desires and plans of the majority. It is for this reason, therefore, that I give you your instructions, in the hope that they may pronouncedly condition the group thinking and in this way produce the needed subjective changes. |
3. Hội nhập em gần gũi hơn với đời sống nhóm. Tôi muốn nhắc em rằng trong nhóm này (nếu nó thật sự là hạt nhân của đời sống nhóm trong tương lai) thì người đệ tử phải nhận ra rằng chính tư tưởng hợp nhất của nhóm, khát vọng đồng nhất của nhóm và hoạt động kết hợp của nhóm mới là yếu tố định hình sự biểu hiện của nhóm. Điều này, đến lượt nó, là kết quả của tính đồng thời và sự tổng hợp được tạo ra bởi tổng thể các tư tưởng, khát vọng và kế hoạch tương tự của đa số các thành viên. Chính vì lý do đó mà tôi đưa ra các huấn thị của em, với hy vọng rằng chúng có thể ảnh hưởng rõ ràng đến tư duy nhóm, và bằng cách này tạo ra những thay đổi chủ quan cần thiết. |
I have told you that you were establishing those relations which may later manifest. I wonder if you are proceeding in any way consciously to do so? These relations are of a nature different to those existing between you and your associates in your chosen field of work or between you and your group brothers. A disciple and later the initiate of some degree or other—from the highest to the lowest—has a twofold relation to establish and to hold: |
Tôi đã nói với em rằng em đang thiết lập những mối quan hệ có thể sẽ biểu hiện trong tương lai. Tôi tự hỏi liệu em có đang thực hiện điều đó một cách có ý thức nào không? Những mối quan hệ này có bản chất khác biệt với những gì tồn tại giữa em và các cộng sự trong lĩnh vực công việc em chọn hay giữa em và các huynh đệ nhóm em. Một đệ tử, và sau này là một điểm đạo đồ ở mức độ nào đó—từ thấp đến cao—phải thiết lập và duy trì hai dạng mối quan hệ: |
1. With those of like degree with whom he is associated in the work. Then their united relation enables them (as a result of their group unity) to be en rapport with levels of consciousness and of activities higher than their own. This is, therefore, a group relation, dependent upon the established inter-relation of group members. |
1. Với những người cùng mức độ đang làm việc với mình. Mối quan hệ phối hợp đó giúp họ (nhờ vào sự hợp nhất nhóm) đạt được sự cộng thông với các tầng tâm thức và hoạt động cao hơn. Đây là một mối quan hệ nhóm, phụ thuộc vào mối liên hệ đã được thiết lập giữa các thành viên trong nhóm. |
[184] |
[184] |
2. With those to whom he is related karmically; or by his own choice which may not be karmic at all but a newly instituted decision; or by the choice of others opening to him avenues of contacts which he, himself, working alone, would never have made but which are the result of the drawing power of the group soul. |
2. Với những người mà y có quan hệ nghiệp quả; hoặc do y tự lựa chọn, dù không có liên hệ nghiệp quả nào, mà là một quyết định mới được thiết lập; hoặc do sự lựa chọn của người khác, mở ra cho y những tuyến tiếp xúc mà nếu y làm việc một mình sẽ không thể nào tạo ra, nhưng đó là kết quả của sức hút từ hồn nhóm. |
It will be of real value to you particularly to attempt to distinguish between these relations; to recognise and regulate those relations which are unavoidable and which are those definitely emerging from the past. These cannot be evaded and frequently constitute—through their interplay in the life of the disciple—a major life problem. The inter-relation between a disciple and the Ashram has also to be handled intelligently by him so that, by the subjective interplay, group fusion may proceed without hindrance and with dispatch. It is here that I would like to see closer integration and keener interest on your part. Your group attitude to your group brothers is somewhat negative, is it not? A more positive contact would be desirable. |
Sẽ rất có giá trị với riêng em nếu cố gắng phân biệt giữa những mối quan hệ này; nhận biết và điều chỉnh những mối quan hệ không thể tránh khỏi, và vốn là kết quả chắc chắn từ quá khứ. Những điều này không thể né tránh, và thường tạo thành—thông qua sự tương tác trong đời sống người đệ tử—một vấn đề lớn trong cuộc đời. Mối quan hệ giữa một đệ tử và Ashram cũng phải được xử lý một cách thông minh để thông qua sự tương tác chủ quan, sự dung hợp nhóm có thể tiến triển mà không bị cản trở và một cách nhanh chóng. Chính tại đây, tôi mong muốn thấy sự hội nhập gần gũi hơn và sự quan tâm sâu sắc hơn nơi em. Thái độ nhóm của em đối với các huynh đệ nhóm em có phần tiêu cực, phải không? Một sự tiếp xúc tích cực hơn sẽ rất đáng mong đợi. |
I do not here refer to a personality contact such as the word “friendship” connotes but to an outgoing on your part to them and a receiving from them which is the higher spiritual connotation of the trite words “give and take.” What do you give the group? What do you take from the group? Unless both exist there is no free circulation of the united thought and desire to which I referred above. Where these do not exist there is apt to be obstruction and blocking. It happens automatically without intention and is the result of a particular state of consciousness. This “gentle, unrecognised withdrawing” (as it has been termed) has its basis in many things. It can be a mode of self-protection, necessitated by long years of extreme sensitivity; this eventually must give place to the guarding of the group interests. It may be the result of shyness and of an inarticulate nature which longs and seeks for the companionship of the Way but knows not how to bring it into functioning process. It may be the result of a critical nature, for it is the critical mind which separates and divides, as you well know. It may again be caused by a habit of loneliness, induced by inherent natural tendencies, or by executive position and the circumstances of the individual life, or by sorrow [185] or shock in early life experience. This must be balanced by an outgoing on the part of the soul which then shifts the whole problem of relations to a higher level of contact and brings release and the power to communicate, which is the hallmark of group life. |
Tôi không nói đến sự tiếp xúc cá nhân theo nghĩa thường được hiểu của từ “tình bạn,” mà nói đến sự hướng ra từ phía em đến họ và sự tiếp nhận từ họ—đó là ý nghĩa cao hơn về mặt tâm linh của cụm từ quen thuộc “cho và nhận.” Em đã trao điều gì cho nhóm? Em đã nhận được gì từ nhóm? Nếu cả hai điều đó không tồn tại thì sẽ không có sự lưu thông tự do của tư tưởng và khát vọng hợp nhất mà tôi đã nói ở trên. Khi những điều này không hiện hữu, sẽ dễ dàng phát sinh ra sự tắc nghẽn và cản trở. Điều này xảy ra một cách tự động, không cố ý, và là kết quả của một trạng thái tâm thức nhất định. Sự “rút lui nhẹ nhàng, không được nhận ra” (như người ta đã gọi) bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Nó có thể là một hình thức tự bảo vệ, do nhiều năm nhạy cảm quá mức gây ra; điều này cuối cùng phải được thay thế bằng việc bảo vệ lợi ích của nhóm. Nó có thể là kết quả của sự rụt rè và một bản chất khó biểu đạt, vốn khao khát và tìm kiếm tình huynh đệ trên Đường Đạo nhưng không biết làm thế nào để đưa điều đó vào hiện thực sống động. Nó cũng có thể là kết quả của một bản chất phê phán, vì như em biết rõ, chính thể trí phê phán tạo ra sự chia rẽ và phân ly. Nó cũng có thể do thói quen sống Bà độc, được hình thành từ khuynh hướng tự nhiên, hoặc từ vị trí điều hành và hoàn cảnh sống cá nhân, hoặc bởi những nỗi buồn [185] hay sang chấn trong những trải nghiệm thời thơ ấu. Điều này cần được quân bình bằng một sự hướng ra từ phía linh hồn, và khi đó toàn bộ vấn đề quan hệ sẽ được chuyển lên một bình diện tiếp xúc cao hơn, mang lại sự giải thoát và khả năng giao tiếp—vốn là dấu ấn của đời sống nhóm. |
I would ask you to consider these thoughts with care and to ponder upon the establishment of group relations and their recognition in your brain consciousness, for it is your problem in connection with the group of which you are a part. To the exoteric relation must be added the inner. This I think you know. Such a contact should be relatively easy for you as you have four rays out of the seven active in your nature and because those rays which are apt to produce separative attitudes in the early stages of expression (the first, third, and fifth) are lacking in this incarnation. |
Tôi mong em suy xét kỹ những tư tưởng này và chiêm nghiệm về việc thiết lập các mối quan hệ nhóm và sự ghi nhận chúng trong tâm thức não bộ của em, vì đó chính là vấn đề của em trong mối liên hệ với nhóm mà em là một phần. Mối liên hệ ngoại hiện cần được bổ sung bằng mối liên hệ nội tại. Tôi nghĩ em biết điều này. Một mối liên hệ như vậy đáng lý ra phải tương đối dễ dàng đối với em vì bốn trong bảy cung hiện đang hoạt động trong bản chất em, và bởi vì những cung vốn dễ tạo nên thái độ phân ly ở những giai đoạn đầu của biểu hiện (cung một, ba và năm) đều không hiện diện trong kiếp sống này. |
I wonder, my brother, if you have noted the relation which exists between joy and radiation—two key words which I gave you years ago for your guidance? Radiation is a tangible substance and potency, producing effects. Your radiation or “quality of effective auric contact” is recognised and evokes reaction upon the objective plane in your immediate environment and by those who contact you. It is the subjective, consciously focussed radiation to which I here call attention. This should produce effects without physical contact, and this should constitute your joyful service. Joy is the most powerful impulse behind the right kind of radiation. |
Tôi tự hỏi, huynh đệ của tôi, liệu em có chú ý đến mối liên hệ giữa hoan lạc và sự toả chiếu—hai từ khóa mà tôi đã trao cho em nhiều năm trước như kim chỉ nam? Sự tỏa chiếu là một thực thể hữu hình và mang năng lượng, tạo ra hiệu quả. Sự toả chiếu của em hay “chất lượng của sự tiếp xúc hào quang hiệu quả” được người khác nhận ra và tạo ra sự đáp ứng trên cõi khách quan trong môi trường xung quanh em và nơi những ai tiếp xúc với em. Điều tôi muốn nói ở đây là sự toả chiếu chủ quan, có định hướng trong tâm thức—đây mới là điều cần được nhấn mạnh. Điều này nên tạo ra ảnh hưởng mà không cần sự tiếp xúc thể chất, và điều này chính là sự phụng sự đầy hoan lạc của em. Hoan lạc là xung lực mạnh mẽ nhất phía sau dạng tỏa chiếu đúng đắn. |
I would ask you: How does a Master reach his group of disciples? Through direct radiation. It is the basis of all telepathic communication, group interplay, and potent usefulness. |
Tôi muốn hỏi em: Một vị Chân sư làm cách nào để tiếp cận nhóm đệ tử của mình? Qua sự toả chiếu trực tiếp. Đó là nền tảng của mọi giao tiếp viễn cảm, tương tác nhóm, và hiệu quả phụng sự mạnh mẽ. |
As an exercise to foster this desirable process of effective radiation, I would ask you for the next few months to endeavour to reach two of your group brothers through directed thought, joy and outgoing love. Choose any two you like and seek to establish contact. I would suggest two that you do not know personally, if possible, for that will make the exercise more directly useful, and, therefore, constitute a more adequate test…. There is need for some physical care, brother of mine, and also for the cultivation of a trained poise. Much you already have as training, but much will be demanded of you in [186] the coming months and for this you must be prepared. Your life quality in expression is good. Intensification is all you need. |
Để khuyến khích quá trình tỏa chiếu hiệu quả như mong muốn này, tôi đề nghị em, trong vài tháng tới, hãy nỗ lực tiếp cận hai huynh đệ trong nhóm thông qua tư tưởng có định hướng, hoan lạc và tình thương tuôn ra. Hãy chọn bất kỳ hai người nào em muốn, và cố gắng thiết lập tiếp xúc. Tôi gợi ý rằng, nếu có thể, hãy chọn hai người mà em không quen biết trên phương diện cá nhân, vì điều đó sẽ khiến bài thực hành trở nên hữu ích hơn và do đó, là một thử nghiệm đầy đủ hơn… |
NOTE: This disciple is still actively cooperating with the Tibetan. |
Cần có một chút lưu ý đến thể chất, huynh đệ của tôi, và cũng cần có sự rèn luyện để đạt đến thế quân bình ổn định. Em đã có được nhiều điều qua huấn luyện, nhưng trong vài tháng tới sẽ đòi hỏi nơi em rất nhiều, và em cần được chuẩn bị. Phẩm chất sự sống trong biểu hiện của em là tốt. Những gì cần là sự gia tăng cường độ. |
[186] |
|
GHI CHÚ: Vị đệ tử này vẫn đang tích cực cộng tác với Chân sư Tây Tạng. |
Book II
August 1940
MY BROTHER AND MY FRIEND: |
HUYNH ĐỆ VÀ NGƯỜI BẠN CỦA TÔI: |
For you, as for all disciples at this time of world crisis, life has been exceedingly difficult. This is not a platitudinous truism—in spite of A.A.B. remarking sub rosa that it was. She knows me so well that for years her comments have proved a source of amusement to me and sometimes have proved most helpful in aiding me to understand the occidental mind. I am an Oriental of the fourth root race and although I have had two European incarnations I still at times fail to grasp or understand the occidental reaction. But the [474] remark above is not simply fatuous, but contains in it the clue to your future. Your difficulties at this time stem largely from others more than from yourself; they are instructive more than karmic. |
Đối với em, cũng như với tất cả các đệ tử trong thời điểm khủng hoảng toàn cầu hiện nay, cuộc sống quả thật vô cùng khó khăn. Đây không phải là một lời nói khuôn sáo—mặc dù A.A.B. có nhận xét một cách riêng tư rằng nó là như vậy. Ngài đã biết tôi quá rõ đến mức trong nhiều năm, các nhận xét của Ngài đã trở thành nguồn mang lại nhiều điều thú vị cho tôi, và đôi khi rất hữu ích trong việc giúp tôi hiểu được thể trí phương Tây. Tôi là một người phương Đông thuộc giống dân gốc thứ tư, và mặc dù tôi đã có hai lần đầu thai tại Châu Âu, tôi vẫn đôi khi không thể nắm bắt hay hiểu được các phản ứng của người phương Tây. Nhưng lời nhận xét [474] ở trên không hề là sáo rỗng, mà chứa đựng trong đó đầu mối cho tương lai của em. Những khó khăn của em vào thời điểm này phần lớn bắt nguồn từ người khác chứ không phải từ chính em; chúng có tính cách giáo huấn nhiều hơn là nghiệp quả. |
You have led a useful and fruitful life; there is still much for you to do which will enable you to lay the finger of love upon the hearts and lives of others; as you do so, you relate them to yourself and bring them under “the eye’s direction.” The larger, wider work of a disciple has not, however, been yours this life. Your task has been preparatory to this, and—if you will carry this realisation in mind for the remainder of this incarnation—you will pass on into a life cycle which will reveal to you the path which, as an initiate, you are choosing to tread. |
Em đã sống một cuộc đời hữu ích và mang nhiều thành quả; vẫn còn nhiều điều để em làm—những điều sẽ cho phép em đặt ngón tay tình thương lên trái tim và đời sống của người khác; và khi em làm điều đó, em nối kết họ với chính mình và đưa họ vào “sự chỉ đạo của ánh mắt.” Tuy nhiên, công việc rộng lớn hơn, lớn lao hơn của một đệ tử thì trong kiếp này không thuộc về em. Nhiệm vụ của em là sự chuẩn bị cho điều đó, và—nếu em giữ nhận thức này trong tâm thức cho đến hết kiếp sống hiện tại—em sẽ bước vào một chu kỳ sống mới, nơi sẽ hiển lộ cho em con đường mà, với tư cách là một điểm đạo đồ, em đang chọn để bước đi. |
In this connection, forget not, brother of mine, that the teaching ray conditions you and that there is a major difference between teaching as a human being, no matter how good, and teaching as an initiate; it is as a pledged disciple that you will learn this basic distinction. It will also have a definite effect upon your life. |
Liên quan đến điều này, huynh đệ của tôi, đừng quên rằng cung giảng dạy chi phối em, và rằng có một sự khác biệt rất lớn giữa việc giảng dạy như một con người (dù tốt đến đâu) và việc giảng dạy như một điểm đạo đồ; chính với tư cách là một đệ tử đã cam kết mà em sẽ học được sự phân biệt căn bản này. Điều này cũng sẽ có ảnh hưởng rõ rệt đến đời sống của em. |
This thought gives me the chance to point out to you (and incidentally to your group brothers) that many disciples today—who, like yourself, are not engaged in any spectacular world work—are engaged in establishing those contacts, here, there and everywhere, which will form the nucleus of that group of aspirants and of younger disciples which every senior disciple and initiate automatically gathers around him. He does not, in any particular incarnation, go out into the world and say: “I will gather a group which will form my future ashram.” If he does this, he will fail; if, however, he seeks to aid spiritually and to stimulate divinely those whom he meets in his daily round of duty, that tells a different tale. No one is then unimportant. Deliberately, he gathers people to him because he steadily loves and helps. Some of these may be just passing by to other goals, and with them he has no permanent link; others send out to him a responsive thread of understanding and request and—as his intuition develops—he recognises them as his own; he esoterically “intertwines [475] the thread of his life with theirs,” thereby assuming responsibility and forming a more permanent link, both in response and in karmic relationship. Both become indissolubly linked. |
Tư tưởng này cho tôi cơ hội chỉ ra với em (và nhân tiện là với các huynh đệ nhóm em) rằng có rất nhiều đệ tử ngày nay—những người như em, không tham gia vào bất kỳ công việc công khai nào nổi bật trên thế giới—đang thực hiện việc thiết lập các mối tiếp xúc, ở nơi này nơi khác, vốn sẽ tạo thành hạt nhân của nhóm các người chí nguyện và các đệ tử trẻ hơn mà mỗi đệ tử cao cấp và điểm đạo đồ sẽ tự động quy tụ quanh mình. Y không đi ra thế giới trong bất kỳ kiếp sống cụ thể nào và tuyên bố: “Tôi sẽ thành lập một nhóm sẽ là ashram tương lai của tôi.” Nếu y làm vậy, y sẽ thất bại; nhưng nếu y tìm cách trợ giúp tâm linh và kích thích một cách thiêng liêng những người mà y gặp trong vòng quay nhiệm vụ hằng ngày, thì đó lại là một câu chuyện khác. Khi ấy, không ai là không quan trọng. Một cách có chủ đích, y quy tụ người khác về với mình vì y luôn luôn yêu thương và giúp đỡ. Một số người trong số họ có thể chỉ đang đi ngang qua để đến với những mục tiêu khác, và với họ y không có mối liên kết lâu dài; những người khác phát ra với y một sợi chỉ phản hồi của sự hiểu biết và thỉnh cầu—và khi trực giác của y phát triển, y nhận ra họ là người của mình; y một cách huyền môn “đan sợi chỉ đời sống của mình vào với họ,” qua đó nhận lấy trách nhiệm và hình thành một mối liên kết lâu dài hơn, cả về sự đáp ứng lẫn quan hệ nghiệp quả. Cả hai bên trở nên gắn bó không thể tách rời. |
You have touched many lives in your lifework as teacher, and you know and understand in some measure those who have responded to you—to you as an individual and as someone to whom they can look for some measure of understanding. For the remainder of your life, I would ask you to have these thoughts in mind and begin to lay a planned foundation for the future. This is my definite work instruction for you at this time. It will entail a task of watchful observation, of a determined going out to help wherever that help may be needed. You have, in many ways, what I have referred to in my own mind as I have watched you, as a very well-managed inferiority complex—so well managed that you do not permit it to be a real hindrance; it is one which nevertheless exists and at times presents to you a problem. I would also ask you to ignore it increasingly, and in the decisions which you will have to make during the next twelve months please act with a positive belief in yourself and, without questioning, choose the field of largest opportunity. |
Em đã chạm vào đời sống của nhiều người trong công việc giảng dạy của mình, và em biết cũng như hiểu phần nào những người đã đáp ứng lại với em—đối với em như một cá nhân, như một người mà họ có thể hướng đến để tìm thấy một mức độ hiểu biết nào đó. Trong phần đời còn lại của mình, tôi mong em luôn giữ những tư tưởng này trong tâm và bắt đầu xây dựng một nền tảng được hoạch định cho tương lai. Đây là huấn thị công việc rõ ràng mà tôi dành cho em vào lúc này. Nó sẽ đòi hỏi một nhiệm vụ quan sát cẩn trọng, một sự hướng ra quyết liệt để trợ giúp bất cứ nơi nào cần sự trợ giúp. Em có, theo nhiều cách, điều mà tôi vẫn thầm gọi trong thể trí khi quan sát em là một dạng mặc cảm tự ti được quản lý rất tốt—được điều tiết tốt đến mức em không cho phép nó trở thành một trở ngại thật sự; tuy nhiên, nó vẫn tồn tại và đôi khi trở thành vấn đề đối với em. Tôi cũng mong em ngày càng phớt lờ nó, và trong những quyết định mà em sẽ phải đưa ra trong mười hai tháng tới, xin hãy hành động với niềm tin tích cực vào chính mình và, không do dự, hãy chọn lĩnh vực có cơ hội lớn nhất. |
August 1942
1. The note sounds clear for you today, my chela and my friend. It is the hidden note of sacrifice. But sacrifice is not the thing you think it is. |
1. Âm điệu hôm nay vang lên rõ ràng cho em, đệ tử và người bạn của tôi. Đó là âm điệu ẩn tàng của sự hy sinh. Nhưng hy sinh không phải là điều mà em nghĩ rằng nó là như thế. |
2. The wisdom of the eye is yours. Let the radiation of your heart follow the eye’s direction. |
2. Minh triết của con mắt là của em. Hãy để sự tỏa chiếu từ trái tim em đi theo hướng dẫn của ánh mắt. |
3. Live not upon the surface of events; you dwell deep at the centre and the springs of life. |
3. Đừng sống nơi bề mặt của các sự kiện; em cư ngụ nơi trung tâm sâu thẳm và những mạch nguồn của sự sống. |
4. The next ten years will hold for you three crises. Make them opportunities for expansive work. |
4. Mười năm tới sẽ chứa đựng ba cuộc khủng hoảng đối với em. Hãy biến chúng thành những cơ hội cho công việc mở rộng. |
5. The diadem, the robe of rose, the sandals on your feet and staff in hand—these are your proud possession. |
5. Vương miện, áo choàng màu hồng, đôi dép dưới chân và cây trượng trong tay—đó là những tài sản đáng tự hào của em. |
6. Draw near to me in closer personal touch, devoid of personality. This paradox is clear. |
6. Hãy đến gần tôi hơn trong sự tiếp xúc cá nhân gần gũi hơn, không mang theo phàm ngã. Nghịch lý này là điều rõ ràng. |
[476] |
[476] |
September 1943
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ VÀ NGƯỜI BẠN CỦA TÔI: |
I wonder if you drew out of the six statements what they were intended to convey to you of direction and instruction? To the fifth statement I seek to draw your attention. Reference is there made to the “diadem, the robe of rose, the sandals on your feet.” What did these symbolic words convey to you? I mention them because I want to build your meditation for the next few months around the concepts hidden by these word forms. The first three statements were fairly simple for you to comprehend. The fourth conveyed a prophecy. The fifth contained some Words of Power and were intended to instruct you as to the nature of your life-orientation and the desired quality of your service during the coming ten years. They intimate that which you at this time possess but which needs increasing appreciation by you. Let me give you some idea as to their significances: |
Tôi tự hỏi liệu em có rút ra được từ sáu tuyên bố kia những điều mà chúng vốn được dùng để truyền đạt cho em về phương hướng và chỉ dẫn không? Tôi muốn em chú ý đến tuyên bố thứ năm. Ở đó có đề cập đến “vương miện, áo choàng màu hồng, đôi dép dưới chân em.” Những từ ngữ biểu tượng đó đã truyền tải điều gì đến em? Tôi nhắc lại chúng vì tôi muốn xây dựng bài tham thiền của em trong vài tháng tới xoay quanh những ý niệm được ẩn giấu bên trong các hình thức ngôn từ này. Ba câu đầu tiên thì khá dễ hiểu đối với em. Câu thứ tư chứa đựng một lời tiên tri. Câu thứ năm bao gồm những Linh Từ đầy quyền năng và nhằm chỉ dẫn cho em về bản chất định hướng đời sống của mình và phẩm chất mong muốn nơi sự phụng sự của em trong mười năm tới. Chúng gợi ý những gì em hiện đã sở hữu, nhưng cần được em trân trọng và nhận biết ngày một rõ hơn. Hãy để tôi giải thích sơ lược ý nghĩa của chúng: |
1. The Diadem. This is a dual symbol. It signifies accomplishment or the crowning period of your life (and this you now face, if you so choose), and it also conveys the idea of a more definite and steady use of the head centre. You are, of course, a “heart” person. The task ahead of you in your meditation work is to lift the energy of the heart centre into its correspondence in the head and begin to live more in the head than in the heart; you should begin also to fuse and blend the energy of this higher heart centre with that of the ajna centre, thus bringing the “directing eye” into greater service, prominence and usefulness. It is toward this objective that the meditation here suggested by me is planned. |
1. Vương miện (The Diadem). Đây là một biểu tượng kép. Nó biểu thị sự thành tựu hoặc giai đoạn đạt đỉnh trong đời em (và điều đó giờ đây đang ở trước mặt em, nếu em chọn lựa), và nó cũng truyền đạt ý niệm về việc sử dụng luân xa đầu một cách xác định và ổn định hơn. Dĩ nhiên, em là một người thuộc “trái tim.” Nhiệm vụ phía trước của em trong công việc tham thiền là nâng năng lượng từ luân xa tim lên trung tâm tương ứng của nó trong đầu, và bắt đầu sống nhiều hơn trong đầu thay vì trong tim; em cũng nên bắt đầu dung hợp và hòa hợp năng lượng của luân xa tim cao hơn này với luân xa ajna, qua đó đưa “con mắt chỉ đạo” vào hoạt động với vai trò, vị trí và hiệu quả lớn hơn. Chính hướng mục tiêu này là điều mà bài tham thiền tôi đề nghị dưới đây được xây dựng nhằm phục vụ. |
2. The Robe of Rose. The symbolism here, my brother, is obvious. Rose is the colour of devotion, and of that quality you have a full supply. It is however to its magnetic attractive quality, as it affects others rather than yourself, that I seek to draw your attention. People of pledged devotion are those who have reached a point where that devotion is in no way a hindrance; it is seemingly a safeguard, [477] simplifying their lives. Because of that fixed devotion, they can walk undeviatingly upon the Way. But they are apt to forget that—equally because of that devotion—they ray forth a quality which stimulates its correspondence in others. That is why sixth ray people can easily form a group around themselves. But they seldom succeed in holding those thus attracted for very long, because they do not understand the reason for this facility and ascribe it ever to wrong causes. Only your astral body is upon the sixth ray of devotion, but that makes it potent indeed and, in your case, produces that sense of inferiority to which I referred above. I would ask you to change your point of view and to regard your sixth ray astral body as a powerful piece of equipment to be used in service. |
2. Áo choàng màu hồng (The Robe of Rose). Biểu tượng ở đây, huynh đệ của tôi, là hiển nhiên. Màu hồng là màu của lòng sùng tín, và em sở hữu đầy đủ phẩm chất đó. Tuy nhiên, điều tôi muốn hướng sự chú ý của em đến là phẩm chất thu hút từ tính của màu sắc này khi nó ảnh hưởng đến người khác chứ không phải chính em. Những người có lòng sùng tín cam kết là những người đã đạt đến một mức độ mà lòng sùng tín ấy không còn là trở ngại nữa; nó dường như trở thành một yếu tố bảo vệ, [477] đơn giản hóa đời sống của họ. Vì lòng sùng tín đó đã trở nên kiên cố, họ có thể bước đi không lệch hướng trên Con Đường. Nhưng họ thường quên rằng—cũng chính vì lòng sùng tín đó—họ tỏa ra một phẩm chất kích thích phẩm tính tương ứng nơi người khác. Đó là lý do tại sao người cung sáu dễ dàng hình thành một nhóm xung quanh mình. Nhưng họ hiếm khi giữ được những người bị thu hút đó lâu dài, bởi họ không hiểu nguyên nhân đằng sau sự thu hút đó và thường gán nó cho những lý do sai lầm. Chỉ có thể cảm xúc của em là thuộc cung sáu của lòng sùng tín, nhưng điều đó đủ để tạo nên một ảnh hưởng mạnh mẽ và, trong trường hợp của em, nó tạo ra cảm giác tự ti mà tôi đã đề cập trước đó. Tôi muốn em thay đổi quan điểm và xem thể cảm xúc cung sáu của mình như một công cụ đầy quyền năng để sử dụng trong công cuộc phụng sự. |
In these two symbolic phrases we have related the heart centre to the head centre, and likewise the heart centre to the astral body. |
Qua hai cụm từ biểu tượng này, chúng ta đã liên kết luân xa tim với luân xa đầu, và đồng thời liên kết luân xa tim với thể cảm xúc. |
3. The Sandals on the Feet. Here, in other words, you have a simple reminder of the underlying and motivating power of your entire life. This can be summed up in the flat statement of three truths—unalterable and fixed because imposed upon your personality by your soul: |
3. Đôi dép dưới chân (The Sandals on the Feet). Ở đây, nói cách khác, em có một lời nhắc nhở đơn giản về mãnh lực tiềm tàng và thúc đẩy nền tảng cho toàn bộ cuộc đời em. Điều này có thể được tóm gọn trong ba chân lý—bất biến và cố định vì được áp đặt lên phàm ngã bởi linh hồn: |
a. You are treading the Path of Discipleship. |
a. Em đang bước đi trên Con Đường Đệ Tử. |
b. You have arrived at a certain Ashram or centre of power upon that Path. |
b. Em đã đến được một Ashram hoặc trung tâm quyền lực nào đó trên Con Đường ấy. |
c. You are intelligently aware of these facts and they are the major conditioning factors in your life. |
c. Em nhận thức một cách có trí tuệ những sự thật này và chúng là các yếu tố chi phối chính yếu trong cuộc đời em. |
You have consequently established a thought rhythm which naught can change and which will be a powerful incentive in deciding the time of your return when this incarnation comes to an end, the type of vehicle which you will, as a soul, construct, and the nature of the race, nation and type of service to which the overshadowing soul will commit the personality. Energy follows thought. A definition of the personality might be expressed as follows: The personality of a disciple is a focal point of energy, established by the soul. |
Do đó, em đã thiết lập một nhịp điệu tư tưởng mà không gì có thể thay đổi, và nó sẽ là động lực mạnh mẽ trong việc quyết định thời điểm em sẽ trở lại sau khi kiếp sống này chấm dứt, kiểu thể mà em sẽ kiến tạo với tư cách là linh hồn, và bản chất của giống dân, quốc gia và dạng phụng sự mà linh hồn bao trùm sẽ giao phó cho phàm ngã. Năng lượng tuân theo tư tưởng. Một định nghĩa về phàm ngã có thể được diễn đạt như sau: Phàm ngã của một đệ tử là một điểm hội tụ của năng lượng, được linh hồn thiết lập. |
The “eye of direction,” therefore, referred to in Statement 2, relates primarily to the long-distance view the soul [478] is taking of you and your preparation for fuller service in the next life. A study of these three phrases will carry you into the realm of quality, and not simply of symbolism; the concept of heart radiation, attractive power, and the responsibility of preparation emerge clearly in the three ideas underlying the meditation suggested below. My proposal to you is that you do this meditation only twice a week—on Sundays and on one day in the middle of the week. On the other days you will simply carry forward the group reflective assignment with your group brothers. In this way the days of your personal orientation in meditation will be gladly anticipated events. Will you try out this plan, my brother? |
Vì vậy, “con mắt chỉ đạo” được nói đến trong Tuyên bố thứ hai liên quan chủ yếu đến tầm nhìn dài hạn mà linh hồn [478] đang giữ đối với em và sự chuẩn bị của em cho sự phụng sự trọn vẹn hơn trong kiếp sống kế tiếp. Việc nghiên cứu ba cụm từ này sẽ đưa em vào lĩnh vực phẩm chất, chứ không chỉ là biểu tượng; ý niệm về sự tỏa chiếu từ trái tim, năng lượng thu hút, và trách nhiệm chuẩn bị sẽ hiện rõ trong ba ý tưởng nền tảng của bài tham thiền được đề nghị dưới đây. Đề xuất của tôi dành cho em là chỉ thực hiện bài tham thiền này hai lần mỗi tuần—vào Chủ Nhật và một ngày giữa tuần. Vào các ngày còn lại, em chỉ cần tiếp tục thực hiện bài tham thiền phản chiếu nhóm cùng với các huynh đệ nhóm em. Theo cách này, những ngày dành cho định hướng cá nhân trong tham thiền sẽ trở thành sự kiện được em chờ đón với niềm vui. Em sẽ thử áp dụng kế hoạch này chứ, huynh đệ của tôi? |
Stage I. The Diadem. |
GIAI ĐOẠN I. VƯƠNG MIỆN (THE DIADEM) |
1. The establishing of relation between: |
1. Thiết lập mối liên hệ giữa: |
a. The heart centre and the head centre. |
a. Luân xa tim và luân xa đầu. |
b. The heart centre in the head and the ajna centre. |
b. Luân xa tim trong đầu và luân xa ajna. |
Thus a lesser triangle of energy or of “lighted, living relation” is established: heart, head and ajna centres. |
Như vậy, một tam giác năng lượng nhỏ hơn hay “mối liên hệ sống động, rực sáng” được hình thành: luân xa tim, luân xa đầu và luân xa ajna. |
c. The waiting, dedicated, devoted personality and the soul. |
c. Phàm ngã tận tụy, sẵn sàng và đã được thánh hiến với linh hồn. |
Thus a greater triangle is established: soul, head and heart. |
Như vậy, một tam giác lớn hơn được thiết lập: linh hồn, luân xa đầu và luân xa tim. |
Visualise these triangles as relating and focussing your consciousness as far as may be in the head, midway between the soul and the heart centre up the spine—and therefore using as that midway point the heart centre in the head. Avoid concentrating upon location. Just imagine the point of attainment as that of the Diadem. |
Hãy hình dung các tam giác này như đang liên kết và hội tụ tâm thức em, càng nhiều càng tốt, tại đầu—ở điểm giữa linh hồn và luân xa tim dọc theo xương sống—vì thế hãy sử dụng điểm giữa đó là luân xa tim trong đầu. Tránh tập trung vào vị trí. Chỉ cần tưởng tượng điểm đạt được là “vương miện thành tựu.” |
2. Then reflect quietly upon the directive power of the soul: |
2. Sau đó, chiêm nghiệm một cách tĩnh lặng về năng lực chỉ đạo của linh hồn: |
a. Working within the symbolic “diadem of attainment.” |
a. Hoạt động bên trong “vương miện thành tựu” mang tính biểu tượng. |
b. Using the impelling “eye of the soul” as a directing agent; i.e., the ajna centre, or the centre between the eyebrows. |
b. Sử dụng “con mắt linh hồn” như một cơ quan điều khiển, tức là luân xa ajna, hay trung tâm giữa hai chân mày. |
[479] |
|
c. Then say the following words with full intent: |
c. Sau đó, xướng các lời sau với toàn ý chí: |
“May that soul of mine whose nature is love and wisdom direct events, impel to action, and guide my every word and deed.” |
“Nguyện linh hồn tôi, có bản chất là tình thương và minh triết, dẫn dắt sự kiện, thúc đẩy hành động, và hướng dẫn mọi lời nói và hành vi của tôi.” |
Stage II. The Robe of Rose. |
GIAI ĐOẠN II. ÁO CHOÀNG MÀU HỒNG (THE ROBE OF ROSE) |
1. The next undertaking is a conscious establishing of relation with others through: |
1. Công việc tiếp theo là thiết lập mối liên hệ có ý thức với người khác thông qua: |
a. The focussing of the power or energy of devotion within yourself so that it becomes: |
a. Tập trung mãnh lực hay năng lượng của lòng sùng tín trong chính em để nó trở thành: |
1. A radiation affecting others. |
1. Một sự tỏa chiếu ảnh hưởng đến người khác. |
2. An attractive force relating them to you as their temporary source of spiritual light. |
2. Một năng lực thu hút kết nối họ với em như là một nguồn sáng tâm linh tạm thời. |
3. A magnetic influence, stimulating a new activity of their soul in connection with their personalities. |
3. Một ảnh hưởng từ tính kích thích hoạt động mới của linh hồn họ trong mối liên hệ với phàm ngã của họ. |
b. An act of service, wherein you flood the personalities of those you are seeking to help, with the pure rose colour (most carefully visualised by you) of spiritual devotion. This stream of warm rose and radiating light will esoterically drive them in devotion to their own souls and will not attract them to you—a thing which is never desirable. |
b. Một hành động phụng sự, trong đó em truyền vào phàm ngã của những người em tìm cách giúp đỡ, dòng màu hồng thuần khiết (được em hình dung một cách cẩn trọng nhất) của lòng sùng tín tâm linh. Dòng ánh sáng màu hồng ấm áp này sẽ đẩy họ về với lòng sùng kính đối với chính linh hồn họ—chứ không hướng họ đến em—điều đó không bao giờ là điều đáng mong muốn. |
2. Then say with all the outpouring love of which you will increasingly find yourself capable: |
2. Sau đó, hãy nói với tất cả tình thương tuôn tràn mà em ngày càng nhận ra mình có thể biểu hiện: |
“Let the love of the soul attract and the light of the soul direct all whom I seek to help. Thus will humanity be saved by me and all affiliated with the Hierarchy.” |
“Nguyện tình thương của linh hồn thu hút, và ánh sáng của linh hồn dẫn đường cho tất cả những ai tôi tìm cách giúp đỡ. Như thế, nhân loại sẽ được cứu rỗi bởi tôi và tất cả những ai kết nối với Thánh đoàn.” |
Stage III. The Sandals on the Feet. |
GIAI ĐOẠN III. ĐÔI DÉP DƯỚI CHÂN (THE SANDALS ON THE FEET) |
1. Reflect more now in relation to yourself, and ponder upon the Path in three ways: |
1. Bây giờ hãy chiêm nghiệm sâu hơn về bản thân, và suy tưởng về Con Đường theo ba phương diện: |
a. The Path which you have travelled to my Ashram. This will involve the Past. |
a. Con Đường mà em đã bước đi để đến Ashram của tôi. Điều này liên quan đến Quá khứ. |
b. The Path of Service which you seek to travel now, moving freely in and out of my Ashram. This involves the Present. |
b. Con Đường Phụng Sự mà em tìm cách bước đi bây giờ, di chuyển tự do vào ra Ashram của tôi. Điều này liên quan đến Hiện tại. |
c. The Path of Initiation for which you are being [480] prepared. This involves the Future —your future and its goal. You begin to realise yourself as a pledged, devoted servant. |
c. Con Đường Điểm Đạo mà em đang được chuẩn bị. Điều này liên quan đến Tương lai—tương lai của em và mục tiêu của nó. Em bắt đầu nhận ra chính mình như một người phụng sự đã cam kết và tận tâm. |
2. Then in your own words, and aloud, you will dedicate yourself in a threefold manner to an increased conscious activity as an accepted disciple. |
2. Sau đó, bằng lời của chính em và xướng to thành tiếng, em sẽ dâng hiến bản thân theo ba phương diện cho một hoạt động có ý thức ngày càng tăng với tư cách là một đệ tử được chấp nhận. |
3. Seek now—definitely and quietly and with a spirit of waiting anticipation—to contact me, your Master and your friend. Expect results, though not at the time you anticipate. |
3. Bây giờ, một cách xác quyết, tĩnh lặng và với tinh thần chờ đợi đầy mong đợi, hãy tìm cách tiếp xúc với tôi—Chân sư của em, người bạn của em. Hãy trông đợi kết quả, dù không phải vào thời điểm em mong đợi. |
4. Sound the OM softly seven times. |
4. Nhẹ nhàng xướng OM bảy lần. |
May peace and courage abide with you, my brother: |
Nguyện an bình và can đảm luôn ở cùng em, huynh đệ của tôi. |
November 1944
As I give you this personal instruction (one which can suffice you for this life) I ask myself: What is the thing of greatest moment that I can say which will indicate the point of future emphasis, which will convey strength and positive assurance, and which will enable you to prepare for the next great step which immediately confronts you? Disciples seldom realise the responsibility that a Master shoulders as He seeks to prepare a group of people for world service; seldom do they understand the problem with which He is faced, even when dealing with the least advanced or dynamic among His neophytes. What are the factors which He has to consider and which are potent enough to negate much of His effort (as has been the case in this group), and which frequently condition a disciple to such an extent that he takes no definite steps to meet ashramic requirements, even when, technically and theoretically, he admits responsibility? Let me tell you one or two of these for your guidance and the guidance of the group: |
Khi tôi trao cho em huấn thị cá nhân này (một huấn thị có thể đủ cho cả kiếp sống này của em), tôi tự hỏi: điều gì là quan trọng nhất mà tôi có thể nói để chỉ ra điểm nhấn trong tương lai, truyền đạt sức mạnh và sự tự tin tích cực, và giúp em chuẩn bị cho bước ngoặt lớn sắp tới mà em đang đối mặt? Các đệ tử hiếm khi nhận ra trách nhiệm mà một vị Chân sư gánh vác khi Ngài tìm cách chuẩn bị một nhóm người cho sự phụng sự thế giới; họ ít khi hiểu được vấn đề mà Ngài đang đối diện, ngay cả khi chỉ phải làm việc với những người sơ cơ hoặc ít năng động nhất trong số các đệ tử mới. Những yếu tố nào mà Ngài phải cân nhắc, những yếu tố đủ mạnh để vô hiệu hóa nhiều nỗ lực của Ngài (như đã xảy ra trong nhóm này), và thường ảnh hưởng đến một đệ tử đến mức y không thực hiện bất kỳ bước đi rõ ràng nào để đáp ứng các yêu cầu của Ashram, ngay cả khi, về mặt kỹ thuật và lý thuyết, y thừa nhận trách nhiệm? Hãy để tôi kể ra một vài yếu tố như thế để em suy ngẫm và cũng để nhóm được soi sáng: |
1. The karma of the disciple. Of this, the disciple knows little and the Master much; with that karma He may not interfere, because growth and development eventuate as the disciple meets the inevitability of events,[481] accepts his karma and works to offset it, actuated by right motive. Let me illustrate. The Master knows that it is the destiny of, and within the capacity of, a disciple to carry out a certain piece of work and thus to serve humanity in a particular manner. He knows also that it is His duty to bring the disciple to the point of comprehension and to aid him in the accurate performance of this duty. But as He considers the disciple’s karma, He finds that mortal disease will, in a few years’ time, lay the mechanism of accomplishment low and prevent both effort and accomplishment. He therefore refrains from an educational process which would otherwise be obligatory upon Him. |
1. Nghiệp quả của đệ tử. Về điều này, đệ tử biết rất ít, còn Chân sư thì biết nhiều; và Ngài không được phép can thiệp, vì sự trưởng thành và tiến hóa chỉ đến khi đệ tử đối diện với các sự kiện không thể tránh khỏi, chấp nhận nghiệp quả của mình và tìm cách hóa giải nó bằng động cơ đúng đắn. Để minh họa: Chân sư biết rằng vận mệnh và năng lực của một đệ tử cho phép y thực hiện một công việc nào đó và phụng sự nhân loại theo một cách nhất định. Ngài cũng biết rằng nhiệm vụ của Ngài là giúp đệ tử hiểu được điều đó và hỗ trợ y thực hiện một cách chính xác. Nhưng khi Ngài xem xét nghiệp quả của đệ tử, Ngài thấy rằng một căn bệnh nan y trong vài năm tới sẽ khiến cơ thể y suy sụp, ngăn trở mọi nỗ lực và thành quả. Vì vậy, Ngài không tiến hành tiến trình giáo dục đáng lẽ bắt buộc đối với Ngài. |
2. Faulty equipment. Oft a disciple, in a particular incarnation, lacks some needed characteristic, or some desirable quality, either in his emotional nature or in one or other of the bodies. He may, for instance, have a fine physical vehicle, great devotion and a brilliant intellect, but along with these, the quality of persistence is not present; the Master knows, therefore, that a steady cooperation and continuous effort is not yet possible. He dare not, consequently, incorporate the disciple (along with other members of His Ashram) in some designated piece of work and of service, because He knows that he will imperil the success of the joint endeavour. The group has therefore to proceed without the help which the disciple is otherwise competent to give. |
2. Thiết bị khiếm khuyết. Thường thì một đệ tử, trong một kiếp sống nhất định, thiếu vắng một số đặc tính cần thiết hoặc một phẩm chất đáng mong muốn nào đó, hoặc trong bản chất cảm dục của y, hoặc trong một hay một thân thể nào đó. Ví dụ, y có thể sở hữu một thể xác tốt, lòng sùng tín lớn và một trí tuệ rực rỡ, nhưng cùng với những điều này, phẩm chất kiên trì lại không hiện diện; do đó, Chân sư biết rằng sự hợp tác bền bỉ và nỗ lực liên tục vẫn chưa khả thi. Vì vậy, Ngài không dám đưa đệ tử (cùng với các thành viên khác trong Ashram của Ngài) vào một công việc và một sự phụng sự được chỉ định nào đó, bởi vì Ngài biết rằng y sẽ làm nguy hại đến sự thành công của nỗ lực chung. Do đó, nhóm phải tiếp tục mà không có sự giúp đỡ mà lẽ ra đệ tử ấy có thể cung cấp một cách đầy đủ. |
3. A blind spot. This is one of the most frequent deterrents which confront a Master as He seeks to lead His disciples along the Way of Service. The disciple has some one great outstanding weakness of which he is entirely oblivious and completely unaware. If told of its existence, he flatly, conscientiously and sincerely denies its presence. He violently affirms the opposite virtue or strength. Yet all the time, this affirmation simply indicates the effort of his soul to build in a quality which, when adequately strong, will result in the expulsion of the deterring fault. As long as this [482] condition exists, it is not possible for the disciple to be fully integrated into the Ashram, nor is it possible to convince him that—in this specific connection—he is totally blind. Vision will eventually and inevitably come, but it will come as a result of the disciple’s own effort and his self-initiated awakening; once awakened, never again will blindness be possible. |
3. Một điểm mù. Đây là một trong những trở ngại thường xuyên nhất mà một Chân sư gặp phải khi Ngài tìm cách hướng dẫn các đệ tử của mình trên Con Đường Phụng Sự. Đệ tử có một điểm yếu lớn nổi bật mà y hoàn toàn không nhận thức được và hoàn toàn không hay biết. Nếu được chỉ cho biết sự hiện hữu của nó, y sẽ thẳng thừng, có lương tâm và chân thành phủ nhận sự hiện diện của nó. Y sẽ mạnh mẽ khẳng định đức hạnh hay sức mạnh đối lập. Tuy nhiên, suốt thời gian đó, sự khẳng định này chỉ đơn thuần cho thấy nỗ lực của linh hồn y nhằm xây dựng một phẩm chất mà, khi đủ mạnh, sẽ dẫn đến việc trục xuất khuyết điểm đang cản trở ấy. Chừng nào tình trạng này còn tồn tại [482], thì chưa thể để đệ tử được tích hợp trọn vẹn vào Ashram, và cũng chưa thể thuyết phục y rằng—trong mối liên hệ đặc biệt này—y hoàn toàn mù quáng. Nhãn quan rốt cuộc rồi cũng sẽ đến và chắc chắn sẽ đến, nhưng nó sẽ đến như kết quả từ nỗ lực của chính đệ tử và sự tỉnh thức do y tự khởi xướng; một khi đã được đánh thức, thì sẽ không còn có thể mù lòa nữa. |
4. An over-enthusiastic nature. This induces the disciple to rush wildly forward in an effort to accomplish the indicated task, to prove to the Master his staunch determination, and to his fellow members in the Ashram his great usefulness. This enthusiasm can wreck designated projects, shorten the life of the disciple, and thus interfere with his karma and make him a source of amusement and concern to his group. |
4. Một bản chất quá nhiệt tình. Điều này thúc đẩy đệ tử lao về phía trước một cách điên cuồng trong nỗ lực hoàn thành công việc được chỉ định, nhằm chứng minh với Chân sư về quyết tâm kiên định của y, và với các huynh đệ đồng môn trong Ashram về tính hữu ích to lớn của y. Lòng nhiệt tình này có thể làm hỏng các dự án được chỉ định, rút ngắn đời sống của đệ tử, và như vậy can thiệp vào nghiệp quả của y và khiến y trở thành nguồn gây ra sự buồn cười lẫn mối lo ngại cho nhóm của y. |
All these factors, and several others still more subtle, have to be taken into account by a Master, as well as the age, the background and the time cycles of the disciple. |
Tất cả những yếu tố này, cùng với một số yếu tố khác còn vi tế hơn nữa, đều phải được Chân sư cân nhắc, cũng như tuổi tác, bối cảnh và các chu kỳ thời gian của đệ tử. |
I would point out to you, therefore, that it lies entirely in your own hands to increase your usefulness in the Ashram. If I were asked by you today what phase of your development should receive your attention, I would reply: Seek consciously and strenuously to overcome negativity. For you, a cultivated and conscious negativity has been an escape mechanism from the executive and administrative nature of your life. Your soul has forced you for decades into the position of an executive, superintending and administering agent. Basically, this ran counter to your natural inclination. Yet it was supremely necessary and educational. Once however you had fulfilled the duties and obligations entailed, and had successfully and adequately carried out your task (which you always did), your personality—shrinking and sensitive—took refuge in a negative attitude to people as a whole; you developed an insulation which made it difficult for you to set up any major relation with other people. |
Do đó, tôi muốn chỉ ra cho em thấy rằng hoàn toàn nằm trong tay em việc tăng cường tính hữu dụng của mình trong Ashram. Nếu hôm nay em hỏi tôi rằng khía cạnh nào trong sự phát triển của em cần được chú ý, tôi sẽ trả lời: Hãy tìm cách vượt qua một cách có ý thức và mạnh mẽ tính tiêu cực. Đối với em, một thái độ tiêu cực được nuôi dưỡng và có ý thức đã là một cơ chế trốn tránh khỏi bản chất điều hành và quản lý của đời sống em. Linh hồn em đã buộc em trong nhiều thập niên phải ở vào vị trí của một người điều hành, giám sát và quản lý. Về cơ bản, điều đó trái với khuynh hướng tự nhiên của em. Tuy nhiên, điều đó lại vô cùng cần thiết và có tính giáo dục. Tuy nhiên, một khi em đã hoàn thành các nhiệm vụ và nghĩa vụ liên quan, và đã thực hiện công việc một cách thành công và đầy đủ (điều mà em luôn làm được), thì phàm ngã của em—rụt rè và nhạy cảm—đã tìm nơi trú ẩn trong một thái độ tiêu cực đối với con người nói chung; em đã phát triển một sự cách ly khiến em khó thiết lập được bất kỳ mối liên hệ quan trọng nào với người khác. |
Yet, my brother, little as you may realise it, those relationships with others, and a positive interplay with those you contacted, were ever desired by the people you met; people [483] have always wanted to get closer to you; they have longed to know you better and to be of service and of moment to you. As an executive, you were ever available; as a soul, within a personality, you have lived your own life apart from others; you have not been easy to contact or to know; you were never responsive to approach, and your reactions to those who desired contact have been negative, and this at times when you yourself wanted closer rapport. Herein lies your task and your problem for the remaining years of your life. Learn, please, my brother, to be individually outgoing towards the people you meet and with whom life and circumstance bring you into association. Break loose—hard though it may be—from the thoughtforms which so powerfully condition you, based frequently upon an inferiority complex; refuse to permit the factors which so powerfully condition the trained, cultured person and the man who is the product of tradition, of good heritage and generations of civilised forbears to control you. |
Tuy nhiên, huynh đệ của tôi, dù em có thể không nhận ra, những mối quan hệ đó với người khác, và sự tương tác tích cực với những người em tiếp xúc, luôn được những người em gặp mong muốn; con người [483] luôn muốn đến gần em hơn; họ khao khát hiểu em rõ hơn và được phụng sự và có vai trò đối với em. Trong vai trò điều hành, em luôn sẵn sàng; nhưng với tư cách một linh hồn trong một phàm ngã, em đã sống cuộc sống riêng biệt của mình cách ly với người khác; em không dễ tiếp cận hay dễ hiểu; em không bao giờ phản hồi với những ai muốn tiếp cận, và phản ứng của em đối với những người mong muốn tiếp xúc thường là tiêu cực, và điều này xảy ra cả vào những lúc chính em cũng muốn có sự giao cảm gần gũi hơn. Đó chính là nhiệm vụ và vấn đề của em trong những năm còn lại của đời mình. Làm ơn, huynh đệ của tôi, hãy học cách hướng ra ngoài một cách cá nhân với những người em gặp và với những người mà cuộc sống và hoàn cảnh mang đến cho em sự kết giao. Hãy thoát ra—dù điều đó có khó đến đâu—khỏi các hình tư tưởng đã định hình mạnh mẽ em, vốn thường dựa trên mặc cảm tự ti; hãy từ chối cho phép những yếu tố đã chi phối mạnh mẽ con người có học thức, được giáo dưỡng và là sản phẩm của truyền thống, của dòng giống tốt và các thế hệ tổ tiên văn minh điều khiển em. |
Your work with children has also tended to set you apart and make you the victim of an enforced loneliness. You could ever be free and magnetic with them but they intruded not upon the entrenched and enforced fortress of your being. You must now fit yourself to teach adults in your next incarnation, and this will necessitate a different approach and one which will invoke and involve every aspect of your being. The disciple teaches principally by what he is and by giving all of himself to all whom he meets. He moves outward spontaneously when someone comes within range of his possibility of contact. This is almost unknown to you. The lesson, therefore, which the trained disciple has to master is one of discernment. He needs to learn discrimination in contact if he is to avoid a useless, if well intentioned, promiscuity. |
Công việc của em với trẻ em cũng góp phần khiến em tách biệt và trở thành nạn nhân của một sự Bà đơn bị cưỡng ép. Em luôn có thể thoải mái và có sức hút với các em, nhưng chúng không xâm nhập được vào pháo đài cố thủ và bị cưỡng ép của bản thể em. Giờ đây em phải chuẩn bị bản thân để dạy người lớn trong kiếp sống tới, và điều này sẽ đòi hỏi một cách tiếp cận khác và một cách tiếp cận đòi hỏi và huy động mọi phương diện trong hữu thể của em. Đệ tử chủ yếu dạy bằng chính con người mình và bằng cách dâng hiến toàn bộ bản thân cho tất cả những ai y gặp. Y tự nhiên hướng ra ngoài khi có ai đó đi vào tầm tiếp xúc của y. Điều này gần như chưa từng có nơi em. Do đó, bài học mà người đệ tử được huấn luyện cần phải nắm vững là sự phân biện. Y cần học sự phân biện trong tiếp xúc nếu muốn tránh được sự dễ dãi, vô ích dù là có thiện chí. |
The stage of the world is so set at this time that there is full opportunity for you to find a wide sphere of contact, to work in full cooperation with other people and with co-disciples, and thus to force yourself to release the magnetic power of your soul-infused personality. Your inner development is greater by far than your outer expression; you need not, consequently, work with perseverance at interior unfoldment;[484] you need to strain after outer ability to contact, to influence and to evoke response from all and sundry with whom your lot may be cast. Rebuffs, misunderstandings and lack of response will be natural at first until your “technique of contact” is discovered by you and established in action. Each disciple develops his own technique. You have yet to discover yours. |
Sân khấu của thế giới hiện nay đã được dàn dựng để em có đầy đủ cơ hội tìm thấy một phạm vi tiếp xúc rộng lớn, để làm việc trong sự hợp tác trọn vẹn với người khác và với các huynh đệ đồng môn, và như vậy buộc em phải giải phóng năng lực từ hoá của phàm ngã được linh hồn thấm nhuần của em. Sự phát triển nội tâm của em đã vượt xa sự biểu lộ bên ngoài của em; do đó, em không cần phải kiên trì phát triển nội tâm [484]; em cần phải nỗ lực vươn tới khả năng tiếp xúc bên ngoài, ảnh hưởng và gợi lên sự phản hồi từ tất cả những ai có chung số phận với em. Sự từ chối, sự hiểu lầm và thiếu phản hồi sẽ là điều tự nhiên lúc đầu cho đến khi em khám phá ra và thiết lập được “kỹ thuật tiếp xúc” của mình trong hành động. Mỗi đệ tử phát triển kỹ thuật riêng của mình. Em vẫn còn chưa khám phá ra kỹ thuật của chính mình. |
As with some others, I give you three words upon which I would ask you to reflect as time elapses, and from which you can expect definite results if there is any truth in the aphorism that “as a man thinketh in his heart, so is he.” |
Giống như với một số người khác, tôi sẽ đưa em ba từ mà tôi muốn em suy ngẫm khi thời gian trôi qua, và từ đó em có thể kỳ vọng có được những kết quả rõ ràng nếu có chút chân lý nào trong châm ngôn rằng “tâm nghĩ gì, người ấy là thế.” |
The first word which I would suggest is Contact. Much soul contact and contact also with your group brothers on interior levels is easy for you and presents no difficulties, even if you believe it not. You have a well established contact along these lines, but your physical brain does not yet register it adequately. That is due entirely to conditions of insensitivity, inherent in your brain cells, and is of no great moment. From the standpoint of your daily meditation, I would ask you to go forth to each day’s work with the intention of magnetically attracting (in order to help and serve) at least three people—either known to you or unknown. You might find it useful (at least for a time) to keep a diary of contacts; you should enter into it a conversation by means of which you got close to someone, a contact with some stranger which seemed fruitful and interesting, or a joint piece of work which you carried out in full comprehension with someone else. This will develop in you an outgoing spirit and an interest in the whole process of contact. It is through contacts and the development of a resultant mechanism, plus a habit of magnetic rapport, which is the secret of all expansions of relationships, and this is preliminary to initiation. Think on this, for it has its major importance to you. |
Từ đầu tiên tôi muốn gợi ý là Tiếp xúc. Sự tiếp xúc với linh hồn và tiếp xúc với các huynh đệ nhóm của em trên các cấp độ nội tâm là điều dễ dàng đối với em và không có trở ngại gì, ngay cả khi em không tin là vậy. Em đã có sự tiếp xúc vững chắc theo những đường lối đó, nhưng bộ não vật lý của em vẫn chưa ghi nhận đầy đủ. Điều đó hoàn toàn do những điều kiện thiếu nhạy cảm vốn có trong các tế bào não của em, và điều đó không mấy quan trọng. Từ quan điểm tham thiền hằng ngày của em, tôi muốn em bắt đầu mỗi ngày làm việc với ý định từ hoá một cách từ tính (để giúp đỡ và phụng sự) ít nhất ba người—dù là quen biết hay chưa biết. Em có thể thấy hữu ích (ít nhất là trong một thời gian) nếu giữ một cuốn nhật ký các tiếp xúc; em nên ghi vào đó một cuộc trò chuyện giúp em tiếp cận gần gũi với ai đó, một tiếp xúc với người lạ nào đó mà dường như hiệu quả và thú vị, hoặc một công việc chung mà em thực hiện trong sự thông cảm đầy đủ với người khác. Điều này sẽ phát triển nơi em một tinh thần hướng ngoại và một sự quan tâm đến toàn bộ quá trình tiếp xúc. Chính nhờ các tiếp xúc và sự phát triển của một cơ chế hệ quả, cộng với thói quen của mối giao cảm từ tính, chính là bí mật của mọi sự mở rộng các mối quan hệ, và điều này là bước chuẩn bị cho điểm đạo. Hãy suy nghĩ điều này, vì nó có tầm quan trọng lớn đối với em. |
The second word which I want to give you is Impression. This word gives you much scope for reflection, invoking as it does the entire problem of sensitive response to inner contacts and outer relations. It is the key to the development of a trained psychologist and is a branch of that aspect of the universal mind which we call truth. The power of correctly [485] registered impression, the ability rightly to interpret it and then to draw from it correct deduction, is the secret of all diagnosis where psychology is concerned. When this is taken into consideration by a disciple in relation to people contacted, it is of enormous usefulness; impression—when analysed and the results of analysis are employed—presents a most useful study, particularly to people like you. |
Từ thứ hai tôi muốn trao cho em là Ấn tượng. Từ này mở ra nhiều phạm vi để suy ngẫm, vì nó gợi lên toàn bộ vấn đề về sự phản hồi nhạy cảm với các tiếp xúc nội tâm và các mối quan hệ bên ngoài. Đây là chìa khóa để phát triển một nhà tâm lý học được đào tạo và là một nhánh của khía cạnh của Trí Vũ Trụ mà chúng ta gọi là chân lý. Quyền năng ghi nhận chính xác các ấn tượng, khả năng diễn giải đúng đắn chúng và từ đó rút ra kết luận chính xác, chính là bí quyết của mọi sự chẩn đoán trong lĩnh vực tâm lý học. Khi điều này được một đệ tử cân nhắc trong mối liên hệ với những người y tiếp xúc, thì nó trở nên vô cùng hữu ích; ấn tượng—khi được phân tích và các kết quả phân tích được ứng dụng—trở thành một môn học vô cùng bổ ích, đặc biệt là đối với những người như em. |
Finally, I would ask you to reflect upon the word Relationship. I would have you do this with the specialised objective of understanding how you, as a disciple in training, can set up those relationships which will bring aid and strength to others and thus sustain the work of the Ashram. I do not intend to enlarge upon this as I want you to arrive at your own conclusions and knowledges. |
Cuối cùng, tôi muốn em suy ngẫm về từ Quan hệ. Tôi muốn em làm điều này với mục tiêu chuyên biệt là hiểu được cách mà em, như một đệ tử đang được huấn luyện, có thể thiết lập những mối quan hệ sẽ mang lại sự hỗ trợ và sức mạnh cho người khác và nhờ đó nâng đỡ công việc của Ashram. Tôi không có ý định triển khai thêm điều này vì tôi muốn em tự rút ra những kết luận và hiểu biết cho riêng mình. |
What I am really doing, my brother, is indicating to you the field of your future training—a training which will engross the remainder of your life. This training must be self-initiated and it must ever be undertaken in order to fit you to work in the Ashram, as a branch of the great Ashram of the Hierarchy. You are peculiarly fitted for this work; you need only to release the magnetic quality of your already developed nature and thus break down the barriers which may exist; thus you will find your field of service tremendously extended and your potency brought into the field of a realised inclusiveness. |
Huynh đệ của tôi, điều tôi thực sự đang làm là chỉ ra cho em thấy lĩnh vực huấn luyện tương lai của em—một sự huấn luyện sẽ chiếm trọn những năm tháng còn lại trong đời em. Việc huấn luyện này phải do chính em khởi xướng và luôn luôn phải được thực hiện để chuẩn bị cho em phụng sự trong Ashram, như một nhánh của đại Ashram thuộc Thánh đoàn. Em có một khả năng đặc biệt phù hợp với công việc này; em chỉ cần giải phóng phẩm chất từ hoá đã được phát triển trong bản chất của mình và như vậy phá vỡ các rào cản còn tồn tại; nhờ đó, em sẽ khám phá được lĩnh vực phụng sự của mình được mở rộng đáng kể và năng lực của em sẽ được đưa vào trong một trường lực của sự bao gồm đã được nhận biết. |
August 1946
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
It is in no way your fault that this group on the physical plane is being disbanded until the next life cycle of the majority of the members has arrived. It is distressing that the work on the physical plane has to end, but a close and honest analysis on the part of the group itself would probably show that the major reaction is a blend of two reactions: first of all, that they could not integrate and, secondly, a sense of loss because my communications with all of you have exoterically ended. Both of these are personality reactions. From the standpoint of a Master Who knows the unimportance of [486] years, both of these reactions are of small importance. Few of you are really young; some of you are quite old, though none of you are as old as I am; in a relatively short time all of you will drop the outer handicap of the physical body and be ready for a fresh spiritual enterprise. Esoterically (if any of you so wish it), the situation remains unaltered, provided you keep it so yourselves. The inner contact is still there, exactly as it was before; the goal ahead for each of you is just the same and the door into my Ashram stands wide open to those who fulfil the requirements. |
Không có lỗi gì nơi em khi nhóm này trên cõi trần bị giải tán cho đến khi chu kỳ sống kế tiếp của đa số các thành viên đến. Việc công việc trên cõi trần phải chấm dứt là điều đáng buồn, nhưng một cuộc phân tích cẩn trọng và trung thực từ chính nhóm có lẽ sẽ cho thấy phản ứng chính yếu là sự pha trộn của hai phản ứng: trước hết là họ không thể đạt được sự chỉnh hợp, và thứ hai là cảm giác mất mát vì sự liên lạc bên ngoài của tôi với tất cả các em đã chấm dứt. Cả hai đều là phản ứng của phàm ngã. Dưới góc nhìn của một Chân sư, Đấng biết rõ sự không quan trọng của [486] năm tháng, thì cả hai phản ứng này đều không mấy đáng kể. Trong số các em, ít người còn trẻ thật sự; một số khá cao tuổi, tuy không ai lớn tuổi như tôi; trong một thời gian tương đối ngắn, tất cả các em sẽ bỏ lại cái gánh nặng bên ngoài là thể xác và sẵn sàng cho một công cuộc tâm linh mới. Về mặt huyền môn (nếu bất kỳ ai trong các em mong muốn), tình thế vẫn không thay đổi, miễn là chính các em giữ cho nó như vậy. Sự tiếp xúc nội tâm vẫn còn đó, chính xác như trước; mục tiêu trước mắt của mỗi em vẫn y nguyên và cánh cửa dẫn vào Ashram của tôi vẫn đang rộng mở đối với những ai đáp ứng được các yêu cầu. |
What, my brother, is basically your goal? Taking into consideration your ray and type, it is to infuse your personality with soul energy. This is in the nature of a platitude and you may well respond that this is true of all aspirants. This is assuredly so, but your particular soul-objective in this life was to bring this soul energy down from the subtler bodies into the three worlds so that they can charge the brain. This charging will result in a hastened development of soul quality as it can be demonstrated upon the physical plane. |
Vậy thì, huynh đệ của tôi, mục tiêu cơ bản của em là gì? Xét theo cung và loại hình của em, thì đó là thấm nhuần phàm ngã em bằng năng lượng linh hồn. Đây nghe có vẻ như một lời nói sáo, và em có thể sẽ phản ứng rằng điều này đúng với tất cả các người chí nguyện. Điều đó chắc chắn đúng, nhưng mục tiêu linh hồn đặc biệt của em trong kiếp sống này là dẫn năng lượng linh hồn ấy đi từ các thể vi tế vào ba cõi để có thể làm cho bộ não được tiếp năng lượng. Việc tiếp năng lượng này sẽ đưa đến sự phát triển phẩm tính linh hồn được thúc đẩy nhanh chóng khi nó có thể được biểu hiện trên cõi trần. |
As I have told you before, you are well developed on the inner planes, but your exoteric expression of this inner unfoldment is not adequately dynamic; it does not make adequate impress on the outer conditions of living. This you know. You have, I feel sure, pondered and studied the three words—Contact, Impression and Relationship—I gave you in my last instruction. I am equally confident that your approach was along the line of strengthening your contact with me, the Ashram and the group; to render yourself sensitive to spiritual impression, and also to see that your relationship was right in two directions: towards the Ashram and towards your fellowmen. That is all to the good but—for the sake of your own development and increased usefulness—I would have you take those same three words and (for the remainder of your life) direct your thinking towards contact with your fellowmen, towards the type of impression which you can establish—an impression which will enable them to impress others with the desire to discover truth and to persevere until the end. It will also involve your establishing with them an [487] educational relationship evoked by the quality of your approach to them and the “satisfying tincture” of your life, as one of the Masters has expressed it. |
Như tôi đã từng nói với em, em đã phát triển tốt trên các cõi nội tâm, nhưng sự biểu hiện bên ngoài của sự phát triển nội tâm này chưa đủ năng động; nó chưa tạo được ảnh hưởng đủ lớn lên các điều kiện sống bên ngoài. Em biết điều này. Tôi chắc rằng em đã suy ngẫm và nghiên cứu ba từ—Tiếp xúc, Ấn tượng và Quan hệ—mà tôi đã trao cho em trong huấn thị lần trước. Tôi cũng tin chắc rằng em đã tiếp cận theo hướng củng cố sự tiếp xúc của mình với tôi, với Ashram và với nhóm; để khiến bản thân nhạy cảm hơn với ấn tượng tâm linh, và cũng để đảm bảo rằng mối quan hệ của em đúng đắn theo hai hướng: đối với Ashram và đối với đồng loại. Tất cả những điều đó đều tốt, nhưng—vì sự phát triển của chính em và sự hữu dụng ngày càng tăng—tôi muốn em lấy lại ba từ đó và (trong phần đời còn lại của em) hướng tư duy của em về sự tiếp xúc với đồng loại, về loại ấn tượng mà em có thể thiết lập—một ấn tượng có thể khiến họ truyền cảm hứng cho người khác với khát vọng tìm kiếm chân lý và kiên trì cho đến cùng. Điều này cũng sẽ đòi hỏi em thiết lập với họ một [487] mối quan hệ giáo dục được khơi gợi bởi phẩm tính trong cách em tiếp cận họ và bởi “hương vị thoả nguyện” trong đời sống của em, như một trong các Chân sư đã diễn đạt. |
Therefore for you, until I see you on the other side of the separating veil, there must be the expression of the three types of work—expressed in two directions: the stabilising of that expression towards the Ashram (and that, with you, is well-nigh a habit and need not, therefore, form a drive), and also an intensified effort to work out the meaning of these words with your fellowmen. That will be very much harder. There is so much dammed up spiritual power in you; if you released it whenever possible and in all directions, you would be surprised at the result. You could then make the last years of your life fruitful and rewarding, far more than they have ever been in the past. Your life has been a life of loveliness, though somewhat dimmed by negativity. |
Vì vậy, đối với em, cho đến khi tôi gặp lại em ở phía bên kia của tấm màn ngăn cách, cần phải có sự biểu hiện của ba loại công việc—biểu hiện theo hai hướng: củng cố sự biểu hiện đó hướng về Ashram (và điều này, đối với em, gần như đã trở thành thói quen và do đó không cần phải tạo động lực), và cũng là một nỗ lực tăng cường để triển khai ý nghĩa của những từ ấy trong mối quan hệ với đồng loại. Điều đó sẽ khó hơn rất nhiều. Có quá nhiều quyền năng tâm linh bị dồn nén trong em; nếu em giải phóng nó bất cứ khi nào có thể và theo mọi hướng, em sẽ ngạc nhiên trước kết quả. Khi ấy, em có thể khiến những năm cuối đời của mình trở nên phong phú và có giá trị hơn nhiều so với trước đây. Cuộc đời em đã là một cuộc đời tươi đẹp, dù có phần bị lu mờ bởi sự tiêu cực. |
You are in process of stepping over the periphery of the Ashram towards its centre. It needs only a little dynamic effort on your part to give you the unquestioning assurance that you are within the ring-pass-not of the Ashram and are functioning as a conscious disciple. Most of the group are not yet at that stage. The Ashram enfolds you all, but the next move is for each and all of you—without aid or help—to step over the mental barrier which keeps you from conscious knowledge and which (when accomplished) will enable the Ashram to give you “the freedom of the city.” |
Em đang trong tiến trình bước qua chu vi của Ashram để tiến về trung tâm. Chỉ cần một nỗ lực năng động nhỏ từ phía em để mang lại cho em sự đảm bảo không thể lay chuyển rằng em đang ở bên trong vòng-giới-hạn của Ashram và đang hoạt động như một đệ tử có ý thức. Phần lớn thành viên trong nhóm chưa đạt đến giai đoạn đó. Ashram đang bao bọc tất cả các em, nhưng bước kế tiếp là dành cho từng người và cho tất cả—không có sự giúp đỡ hay hỗ trợ nào—phải bước qua rào cản trí tuệ đang ngăn cản sự nhận biết có ý thức và (khi vượt qua được) điều đó sẽ cho phép Ashram ban cho em “tự do của thành phố.” |
One of the ideas which disciples would find it helpful to grasp is that the process of passing over to the other side involves no discontinuance of the three processes of Contact, Impression and Relationship. These being the three words with which I earlier impressed you and which seem to me today to be of major importance in your life, I would have you grasp, if possible, somewhat the permanence of their importance. With the mass of ordinary humanity, focussed in all their activities and their thinking upon the physical plane, the period after death is one of semi-consciousness, of a failure to recognise location, and of emotional and mental bewilderment. With disciples there is still contact with people (usually those with whom they have been associated) in [488] the hours of sleep; there is still the reception of impression from environment and associates, and there is still the recognition of relation with (as on earth) the assumption of responsibility. |
Một trong những ý tưởng mà các đệ tử sẽ thấy hữu ích khi lĩnh hội là tiến trình đi qua phía bên kia không liên quan đến việc chấm dứt ba tiến trình Tiếp xúc, Ấn tượng và Quan hệ. Vì đây là ba từ mà trước đây tôi đã nhấn mạnh với em và mà ngày nay tôi cho là có tầm quan trọng lớn lao trong đời sống em, tôi muốn em nắm bắt, nếu có thể, phần nào tính thường hằng trong tầm quan trọng của chúng. Với khối quần chúng bình thường, tập trung mọi hoạt động và tư duy của họ vào cõi trần, thì giai đoạn sau khi chết là một thời kỳ nửa tỉnh thức, không nhận ra vị trí, và rối loạn cảm xúc và trí tuệ. Đối với các đệ tử thì vẫn có tiếp xúc với người khác (thường là những người họ đã từng gắn bó) trong [488] những giờ ngủ; vẫn có sự tiếp nhận ấn tượng từ môi trường và các mối liên hệ, và vẫn có sự nhận biết về mối quan hệ với (cũng như khi ở trần thế) việc đảm nhận trách nhiệm. |
One of the students in this group asked me a question some time ago which I have been long in answering. As it has a bearing on the subject we are considering, I shall answer it here. After a few subsidiary comments the student said: “I can still the outer shells or bodies, but have not dared to let go the connecting cord. Is it safe? Can you see my condition and can you tell me?” My reply is quite simple and I know he will understand: |
Một trong những đệ tử trong nhóm này đã từng hỏi tôi một câu hỏi từ lâu mà tôi chưa trả lời. Vì nó có liên quan đến chủ đề chúng ta đang bàn, tôi sẽ trả lời ở đây. Sau một vài nhận định phụ, đệ tử ấy nói: “Tôi có thể làm lặng yên các lớp vỏ ngoài hay các thể, nhưng chưa dám buông bỏ sợi dây nối kết. Liệu điều đó có an toàn không? Ngài có thể thấy được tình trạng của tôi và có thể nói cho tôi biết không?” Câu trả lời của tôi rất đơn giản và tôi biết rằng y sẽ hiểu: |
Were you twenty years younger, my brother, with perfect safety you could break the connecting link, but owing to your age it is not, at this time, right so to do. There are some you have yet to help and one or two threads as yet to gather up. Undue strain upon the physical vehicle—no matter whether one is young or old—is never necessary and often of a harmful nature. Many aspirants in this group, in the Arcane School and elsewhere, are in training for work in the New Age and in the next life cycle, and their realisation is often bigger than the present equipment of brain cells warrants. Therefore, knowledge and registered expansion of consciousness is temporarily withheld until a better physical vehicle is available. I mention this because some suffer from discouragement when, after years of work and the achievement of old age, they find themselves registering a static condition, or what they deem to be static. There is no need for such a feeling, but there is need for care and the progression of the interior work, e’en when the external recording is apparently lacking. |
Nếu em trẻ hơn hai mươi tuổi, huynh đệ của tôi, thì hoàn toàn có thể cắt đứt mối nối một cách an toàn, nhưng vì tuổi của em hiện nay, thì vào thời điểm này điều đó không thích hợp. Vẫn còn một số người em cần giúp đỡ và một hai sợi dây em còn phải thu gom lại. Việc gây áp lực quá mức lên thể xác—bất kể là người trẻ hay già—đều không bao giờ cần thiết và thường gây hại. Nhiều người chí nguyện trong nhóm này, trong Trường Arcane và những nơi khác, đang được huấn luyện cho công việc trong Kỷ Nguyên Mới và trong chu kỳ sống kế tiếp, và sự nhận thức của họ thường lớn hơn mức mà các tế bào não hiện tại cho phép. Do đó, tri thức và sự mở rộng tâm thức được ghi nhận tạm thời bị trì hoãn cho đến khi có một thể xác tốt hơn. Tôi đề cập điều này vì một số người cảm thấy chán nản khi, sau nhiều năm làm việc và đến tuổi già, họ thấy mình rơi vào một trạng thái tĩnh tại, hoặc điều họ cho là như thế. Không cần cảm thấy như vậy, nhưng cần có sự cẩn trọng và tiếp tục công việc nội tâm, ngay cả khi sự ghi nhận bên ngoài dường như không hiện hữu. |
To resume with your own instruction, if you would care to increase the capacity of the three activities—contact, impression, relationship—you might follow a simple exercise when going to sleep at night. |
Trở lại với huấn thị riêng của em, nếu em muốn tăng khả năng của ba hoạt động—tiếp xúc, ấn tượng, quan hệ—em có thể thực hiện một bài tập đơn giản trước khi đi ngủ mỗi đêm. |
After achieving complete comfort, as far as may be possible, attempt to assume an inner attitude of planned, quiet discarding of the physical body, keeping the whole concept upon the mental plane, yet realising it to be a simple brain [489] activity. The heart is in no way to be involved. Your objective is to preserve consciousness as you withdraw it from the brain and pass out on the subtler levels of awareness. You are not discarding the physical body permanently, therefore the life thread anchored in the heart is not involved. The aim is, for a few hours and whilst clothed in the astral and mental vehicles, to be consciously aware elsewhere. With determination you become a focussed, interested point of consciousness, intent on emerging from the casing of the physical body. That point you hold, refusing to look backward at the physical vehicle, or at the worries, interests and circumstances of daily life, fixedly waiting for the moment when your negative attitude to the physical plane and your positive attitude to the inner planes will bring a moment of release, perhaps a flash of light, the perception of an aperture of escape, or the recognition of your surroundings, plus the elimination of all surprise or the expectation of any phenomena. |
Sau khi đạt được sự thoải mái hoàn toàn, trong phạm vi có thể, hãy cố gắng giữ một thái độ nội tâm có chủ đích, yên tĩnh trong việc buông bỏ thể xác, giữ toàn bộ khái niệm đó trên cõi trí, đồng thời nhận biết rằng đó chỉ là một hoạt động của bộ não [489]. Hoàn toàn không liên quan đến Tim. Mục tiêu của em là duy trì tâm thức khi em rút nó khỏi bộ não và di chuyển ra ngoài đến các tầng nhận thức vi tế hơn. Em không đang từ bỏ thể xác một cách vĩnh viễn, do đó sợi dây sự sống được neo nơi tim không liên quan. Mục tiêu là, trong vài giờ và khi được bao bọc trong thể cảm dục và thể trí, em có thể có ý thức ở nơi khác. Với ý chí kiên định, em trở thành một điểm ý thức tập trung, đầy quan tâm, hướng đến việc thoát ra khỏi lớp vỏ của thể xác. Em giữ điểm đó, từ chối ngoái nhìn lại thể xác, hoặc những lo toan, mối quan tâm và hoàn cảnh đời sống hàng ngày, kiên định chờ đợi khoảnh khắc mà thái độ tiêu cực đối với cõi trần và thái độ tích cực đối với các cõi nội tâm sẽ mang đến một khoảnh khắc giải thoát, có thể là một tia sáng lóe lên, nhận thức về một lối thoát, hoặc sự nhận ra khung cảnh xung quanh, cùng với việc loại bỏ mọi bất ngờ hoặc kỳ vọng hiện tượng. |
You are (as you practice this exercise of withdrawal) only going through an ordinary everyday process. If facility in doing this exercise is achieved, the hour of death will find you automatically and easily—because the physical body is making no resistance but remains quiescent and negative—able to make the Great Transition without concern or fear of the unknown. This is an exercise I would like to see all the group undertake. It involves only the steady preservation of an attitude, a fixed determination to hold on to the point of consciousness which is your persistent Self, plus a live expectancy. I have chosen these words with care and would ask you to study them with equal care. |
Khi em thực hành bài tập rút lui này, em chỉ đang trải qua một tiến trình hàng ngày bình thường. Nếu đạt được sự thành thạo trong bài tập này, thì giờ lâm chung sẽ đến với em một cách tự nhiên và dễ dàng—vì thể xác không chống cự mà vẫn tĩnh lặng và thụ động—giúp em thực hiện Sự Chuyển Tiếp Vĩ Đại mà không có lo lắng hay sợ hãi về điều chưa biết. Đây là một bài tập mà tôi muốn thấy cả nhóm cùng thực hành. Nó chỉ đòi hỏi sự duy trì bền vững một thái độ, một quyết tâm vững chắc để giữ vững điểm ý thức chính là Chân Ngã thường hằng của em, cộng với một sự chờ đợi sống động. Tôi đã chọn những từ này một cách cẩn trọng và mong em cũng nghiên cứu chúng với sự cẩn trọng tương tự. |
I would like also to formulate your meditation along these three concepts of Contact, Impression and Relationship. The length of the meditation is entirely dependent upon your own choice or temporary need; it is susceptible of application to all or any circumstances and you could use it for the remainder of your life (many years or few) without exhausting its possibilities or usefulness. The outline is not a rigid form, as are so many which I have given to the group. It is intended simply to be suggestive. You can make your life a rich experience by the use of these suggestions: |
Tôi cũng muốn định hình bài tham thiền của em dựa trên ba khái niệm Tiếp xúc, Ấn tượng và Quan hệ. Độ dài của bài tham thiền hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn hay nhu cầu tạm thời của em; nó có thể được áp dụng cho tất cả hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào, và em có thể sử dụng nó cho đến hết đời mình (dù dài hay ngắn) mà không cạn kiệt tiềm năng hay giá trị của nó. Dàn ý này không phải là một khuôn mẫu cứng nhắc như nhiều bài tôi đã trao cho nhóm. Nó chỉ mang tính gợi ý. Em có thể làm cho cuộc đời mình trở nên phong phú thông qua việc áp dụng những gợi ý này: |
[490] |
[490] |
1. Poise yourself at the “door of exit” in the head. Realise that that point is one from which you can look outward upon the world of physical living, inward upon the world of the emotions or of mental perception, or upward towards the soul. These three directions form a triangle of projected sensitivity. |
1. Giữ cho mình ở trạng thái quân bình tại “cánh cửa thoát” ở vùng đầu. Nhận thức rằng đó là điểm từ đó em có thể nhìn ra thế giới sống trần tục, nhìn vào thế giới cảm xúc hay nhận thức trí tuệ, hoặc nhìn lên linh hồn. Ba hướng này tạo thành một tam giác nhạy cảm được phóng chiếu. |
Then sound the OM three times, bearing these directions in mind. |
Sau đó xướng OM ba lần, giữ trong tâm ba hướng này. |
2. Take then the word Contact into your consciousness and ponder upon these three fields of contact in which it is possible for you to move—the physical plane, the kama-manasic plane, and the kingdom of the soul. Study these planes of possible and unavoidable contact (for the aspiring disciple) and study them from the angle of things as they are. When you have somewhat exhausted this work of familiarising yourself with the possible contacts, remembering that this particular work will make your life fruitful in all three directions: |
2. Đưa từ Tiếp xúc vào trong tâm thức của em và suy ngẫm về ba lĩnh vực tiếp xúc mà em có thể hoạt động—cõi trần, cõi trí-cảm, và giới linh hồn. Nghiên cứu các cõi tiếp xúc khả dĩ và không thể tránh khỏi (đối với người đệ tử chí nguyện) và nghiên cứu chúng từ góc nhìn thực tế như chúng đang là. Khi em đã phần nào hoàn tất công việc làm quen với các tiếp xúc khả dĩ, nhớ rằng công việc đặc biệt này sẽ khiến đời em trở nên phong phú theo cả ba hướng: |
Then again sound the OM and attempt to withdraw to a point of silent contemplation upon the mental plane. Again sound the OM. |
Sau đó lại xướng OM và cố gắng rút lui đến một điểm chiêm ngưỡng tĩnh lặng trên cõi trí. Một lần nữa xướng OM. |
3. The fact of the possibility of Impression now must engross your attention. You begin to study the general tenor and the outstanding lessons which physical, astral or mental contact makes on you, what they have done for you during this life cycle or during the past week or day; then definitely and with full concentrated interest and attention— you orient yourself to the soul; you stand consciously ready for impression. What that impression will convey, what thought will come to you or what call to service will sound forth, you know not. Your attitude is one of a radiant, silent, poised expectancy, and nothing else is permitted. This you must work to attain. Note (if it comes) the emergence of some clear thought, the clarification of some bewilderment, the expansion of some mental perception into an intuition, with its consequent expansion of[491] consciousness. You can give as long or as short a time to this as you choose, but never less than ten minutes. |
3. Giờ đây sự thật về khả năng tiếp nhận Ấn tượng phải là trọng tâm sự chú ý của em. Em bắt đầu nghiên cứu khuynh hướng chung và các bài học nổi bật mà sự tiếp xúc vật lý, cảm dục hay trí tuệ tạo ra nơi em, chúng đã đem lại điều gì cho em trong suốt chu kỳ sống này hay trong tuần hay ngày vừa qua; rồi một cách rõ ràng và với sự chú tâm đầy đủ và tập trung—em hướng về linh hồn; em đứng sẵn sàng có ý thức để tiếp nhận ấn tượng. Em không biết ấn tượng đó sẽ truyền đạt điều gì, tư tưởng nào sẽ đến với em hay lời kêu gọi phụng sự nào sẽ vang lên. Thái độ của em là một trạng thái chờ đợi rạng ngời, tĩnh lặng, giữ vững, và không cho phép điều gì khác sen vào. Em phải nỗ lực đạt được điều đó. Ghi nhận (nếu xảy ra) sự xuất hiện của một tư tưởng rõ ràng nào đó, sự làm sáng tỏ một rối loạn nào đó, sự mở rộng của nhận thức trí tuệ thành trực giác, kèm theo là sự mở rộng [491] tâm thức. Em có thể dành bao nhiêu thời gian tuỳ ý, nhưng không bao giờ ít hơn mười phút. |
Then orient yourself to me, your Master and friend for many years, and again wait. Perchance there may be something I may have to say to you. You will note that I have used the word “orient” in both cases; I have not said “achieve contact.” The task of receiving impression is not an easy one, and you may have to work some time on these different levels before you register any definite response from an achieved contact, for that is what it then will be. |
Sau đó, hãy hướng về tôi, vị Chân sư và bằng hữu của em trong nhiều năm, và lại chờ đợi. Có thể có điều gì đó tôi muốn nói với em. Em sẽ nhận thấy rằng tôi đã dùng từ “hướng về” trong cả hai trường hợp; tôi không nói “thiết lập tiếp xúc.” Nhiệm vụ tiếp nhận ấn tượng không dễ, và em có thể phải làm việc trong một thời gian ở các tầng này trước khi ghi nhận được một phản hồi rõ ràng từ một tiếp xúc đã thành tựu, vì khi ấy nó mới thực sự là như vậy. |
Then sound the OM twice. |
Sau đó xướng OM hai lần. |
4. Having reached as high a point of contact as you can, at any given time, you then begin to reorient yourself to the physical plane and the life of daily experience through a systematised process of Relationships. You assume—as a disciple on the physical plane—responsibility for those relationships (to the Ashram and to me) through service planned and rendered; to the soul through fusion, rendered expressive on the mental plane; to the group emotional expression, and to your fellowmen. Grasp these recognitions of relationships, both as they affect your daily life expression and in relation to others with whom you live and work, down on the physical plane. Again, you bring this concept of essential relationships to the effect you have, as a human being on the Path, to all you meet and seek to aid. Couple ever with this thought the idea of responsibility. |
4. Sau khi đã đạt đến điểm tiếp xúc cao nhất có thể vào thời điểm bất kỳ, em bắt đầu hướng trở lại cõi trần và đời sống thường nhật thông qua một tiến trình có hệ thống về Quan hệ. Em đảm nhận—với tư cách một đệ tử trên cõi trần—trách nhiệm với những mối quan hệ đó (với Ashram và với tôi) thông qua sự phụng sự được hoạch định và thực hiện; với linh hồn qua sự dung hợp, được biểu lộ ra trên cõi trí; với nhóm qua biểu hiện cảm xúc, và với đồng loại của em. Nắm lấy những nhận thức này về các mối quan hệ, cả trong việc chúng ảnh hưởng đến biểu hiện đời sống hằng ngày của em và trong mối liên hệ với những người mà em sống và làm việc cùng dưới cõi trần. Một lần nữa, em mang khái niệm về các mối quan hệ thiết yếu này vào ảnh hưởng mà em, như một con người đang trên Thánh đạo, có thể tác động đến tất cả những ai em gặp và tìm cách giúp đỡ. Luôn luôn kết hợp tư tưởng này với ý niệm về trách nhiệm. |
Then sound the OM. |
Sau đó xướng OM. |
5. Next say the Invocation beginning with the stanza |
5. Kế tiếp, hãy xướng lời Khẩn Nguyện bắt đầu bằng đoạn: |
“From the point of Light within the Mind of God |
“From the point of Light within the Mind of God |
Let Light stream forth into the minds of men. |
Let Light stream forth into the minds of men. |
Let Light descend on Earth,” |
Let Light descend on Earth,” |
and sound the OM three times. Please note that the OM in this meditation is to be sounded inaudibly. |
và xướng OM ba lần. Xin lưu ý rằng OM trong bài tham thiền này phải được xướng thầm. |
If you will follow these suggestions, my brother, you will make rapid progress into spiritual objectivity, and your light [492] will shine forth more radiantly. I, your Master, know your inner radiance. Permit the world of outer things to know it too. The wishes, coming from my heart for you, surround you |
Nếu em làm theo những gợi ý này, huynh đệ của tôi, em sẽ tiến bộ nhanh chóng vào tính khách quan tâm linh, và ánh sáng [492] của em sẽ chiếu tỏa rực rỡ hơn. Tôi, Chân sư của em, biết rõ ánh sáng nội tâm của em. Hãy cho thế giới bên ngoài biết đến nó nữa. Những ước nguyện phát xuất từ trái tim tôi dành cho em luôn vây quanh em. |
.