Thư Chân sư Gởi D.L.R
Giới thiệu: DLR là công thức phát triển của Charles Hill, người Mỹ. Ông sinh ngày 13 tháng 7 năm 1890, dấu hiệu mặt trời Cự Giải, dấu hiệu mọc Thiên Bình. Ông là nhà hoạt động khoa học trong Chính phủ Mỹ. Cấu trúc cung của ông là I-5, 567
Lúc đầu, Chân sư xếp ông vào Nhóm 1, Nhóm Viễn Cảm, sau đó ông được chuyển qua nhóm 2, Nhóm các Nhà Quan Sát Lão Luyện, lý do được Ngài nói:
“Do đó, tôi đã chọn tham gia vào công việc này một số người chí nguyện có xu hướng bị ảo cảm, mặc dù hai trong số họ ít có khuynh hướng đó hơn những người khác. Sự tự do tương đối của họ đối với nó là một trong những lý do tại sao tôi chọn họ. Hai người này là DLR và DPR” (GAW, 98).
Đọc các thư Chân sư viết cho ông, có nhiều điều để học hỏi, và ta cũng biết ông là một số ít đệ tử được Chân sư chuẩn bị cho điểm đạo, dù Ngài không nói rõ, như mọi khi, đó là cuộc điểm đạo nào. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ các bức thư, đôi khi có một gợi ý nhỏ cho biết đó là cuộc điểm đạo nào, và với DLR, đó là cuộc điểm đạo thứ 3, giống như DPR và FCD:
Huynh đệ của tôi, bằng mọi giá, hãy tìm kiếm sự sống động và háo hức cho tương lai. Đừng bao giờ ẩn núp đằng sau ý nghĩ của thành tựu quá khứ hoặc thành tựu trong một số kiếp tương lai; học cách nhận ra cơ hội khi nó xuất hiện trước suy nghĩ của em, và sẵn sàng thay đổi nhịp điệu ổn định của một phàm ngã cao cấp và tương xứng để có thái độ háo hức nhìn về phía trước của một đệ tử thế giới. Những thay đổi sau đó sẽ đến bởi vì thái độ bên trong của em đã chuẩn bị sẵn con đường.
Đệ tử thế giới (World Disciple) là danh xưng của các đệ tử đã ba lần điểm đạo.
Ngài cho biết, ông cũng như 3 đệ tử khác trong nhóm có mối quan hệ nghiệp quả xưa cũ với Ngài, giống trường hợp của bà Alice Bailey, khi Chân sư DK còn là một đệ tử của Chân sư KH, thì các đệ tử này là các đệ tử cấp thấp hơn (người chí nguyện, tiểu đệ tử, và Đệ tử trong Ánh Sáng), do đó có một sợi dây ràng buộc từ xa xưa, và đó là lý do mà Ngài gọi DLR bằng cụm từ “Huynh Đệ Của Ngày Xưa”— My Brother Of Olden Times; Brother of Old; Brother Of Ancient Days. Do đó, từng câu chữ Ngài dùng đều được chắt lọc cẩn thận và có ý nghĩ, và chúng ta phải thận trọng trong khi đọc.
Một chi tiết khác mà Chân sư khuyên DLR, cũng như tất cả chúng ta, là chúng ta phải tập nhận diện đúng vị trí của bản thân chúng ta trên Con Đường Tiến Hóa, và cũng của những người mà chúng ta tiếp xúc. Sự đánh giá này tập cho chúng ta tính trung thực, khiêm tốn, chính xác, biết ai là người chúng ta phải nương tựa để học hỏi, ai là người chúng ta có thể giúp đỡ, và ai là người chúng ta cùng đồng hành:
Một trong những điều đầu tiên mà một đệ tử phải học là phán đoán đúng đắn về tuổi linh hồn tương đối của các cộng sự của mình. Y sớm phát hiện ra rằng chúng [các tuổi linh hồn] khác nhau. Sau đó, y học cách nhận ra những người có trí tuệ và kiến thức vượt trội hơn mình, hợp tác với những người sát cánh cùng y trên Con đường và làm việc cho những người mà y có thể giúp đỡ, nhưng địa vị tiến hóa của họ không ngang hàng với mình.
Trước hết, nhận thức về điểm chính xác của em trên nấc thang tiến hóa, hay trên Thánh đạo; và thứ hai, một nhận thức trực giác về điểm tiến hóa của những người chúng ta tiếp xúc trên đường đời. Trong một thời gian khá dài, mọi đệ tử đều từ chối làm một trong hai điều này. Một sự khiêm tốn giả tạo, mà trên thực tế gần như sự thiếu trung thực, [763] khiến anh ta không thể nhìn nhận rõ ràng địa vị của mình—một sự thừa nhận nhất thiết liên quan đến trí thông minh hơn và không có vẻ gì là kiêu ngạo. Rất ít người dám tự tin nhìn nhận đồng loại đúng như con người thật của họ, vì sợ tinh thần chỉ trích—thật khó để phát triển thực hành hiểu biết yêu thương chân chính, điều dẫn đến việc nhìn thấy tất cả mọi người trong sự thật, với lỗi lầm và đức tính của họ, sự nhỏ nhen và vĩ đại của họ, thế nhưng vẫn yêu họ như trước đây và thậm chí còn hơn thế nữa.
Ngài cũng khuyên DLR—và có lẽ tất cả sinh viên chúng ta—phải nghiên cứu kỹ tất cả những đặc tính của hai cung chính (cung linh hồn và cung phàm ngã), nhờ đó, chúng ta sẽ biết được con người của chúng ta sâu sắc hơn:
Sẽ là một điều hữu ích nếu học viên thu thập tất cả thông tin mà họ có thể làm được liên quan đến hai cung chính của họ, với mục đích làm việc thực tế với chính họ…
Có một chi tiết thú vị tiết lộ cấu trúc cung của Chân sư DK, mà Thầy Hiệu trưởng cũng hay nhắc đến, là có cung 1 trong Tam nguyên tinh thần của Ngài, do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi Ngài rất nghiêm khắc với các đệ tử, có một phẩm chất mạnh mẽ của Ý Chí và Quyền Năng trong giáo lý Ngài truyền dạy, và câu nói của Ngài với đệ tử “See that you battle!” —Hãy chiến đấu 😊. Và đó cũng là lý do mà trong Ashram của Ngài có khá nhiều đệ tử linh hồn cung 1:
Hãy nhớ rằng các đệ tử thuộc cung một đang ở trong Ashram của tôi, và có những phương diện trong bản chất của tôi có nguồn gốc từ cung một, nhưng khi em nhớ điều này, em cũng nên nhớ rằng khía cạnh mà tôi đề cập đến là Tam nguyên.
Về việc điểm đạo, Ngài cho biết nó thường xảy ra với một người sau tuổi 50, lý do là như Ngài nói:
Thật thú vị khi quan sát thấy rằng việc điểm đạo thường được thực hiện (tôi có thể nói là thông thường được thực hiện) sau khi vượt qua cột mốc [762] nửa thế kỷ. Lý do là nếu người đệ tử có thể tạo ra sức mạnh bền bỉ cần thiết và sự nhiệt tình cần thiết—tôi muốn nói đến mục đích năng động—thì anh ta có thể được tin tưởng để xử lý những năng lực được ban cho bằng minh triết, để thể hiện sự đĩnh đạc cần thiết, và tiến bước ra bên ngoài với sự khiêm tốn và thận trọng.
Một từ mà chúng ta thường gặp là synnyasin, và Ngài giải thích ta biết một synnyasin là như thế nào:
Trong nhóm đệ tử của tôi, có một số người được đặc biệt kêu gọi để sống cuộc đời của một sannyasin, cuộc đời của một người—đã hoàn thành các bổn phận của một học giả, của một người chủ gia đình, của một người đàn ông trong gia đình, và của doanh nhân—giờ đây được kêu gọi có một thái độ sống và định hướng cho các mục đích và mục tiêu khác mà chúng ta gọi một cách kỹ thuật là thái độ của sannyasin, hay vị đệ tử giảng dạy. Vào thời xa xưa, một người như vậy đã rời bỏ nhà cửa và công việc kinh doanh của mình để đi ra thế gian, đi theo ánh hào quang, tìm kiếm Chân sư, và luôn luôn giảng dạy khi y đi. Ngày nay, trong đời sống của nền văn minh Tây phương của chúng ta và dưới ảnh hưởng đang chớm nở của Kỷ Nguyên Mới, tiếng gọi vẫn y nguyên, nhưng người đệ tử không đi ra ngoài, bỏ lại sau lưng tất cả những khung cảnh quen thuộc và phủ nhận tính hữu dụng bên ngoài của mình. Y vẫn ở nguyên vị trí của mình, tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ bên ngoài và trần gian, nhưng với một sự thay đổi lớn và một sự tái định hướng nhất định diễn ra. Thái độ của y với cuộc sống và công việc về cơ bản đã thay đổi. Toàn bộ xu hướng sống nội tâm của y trở thành xu hướng rút lui có kế hoạch. Anh ta đang trải qua giai đoạn trên Con đường mà Patanjali đề cập đến trong Yoga Sutra dưới thuật ngữ “sự trừu xuất đúng đắn” (Right Abstraction). Nó hơi khác với quá trình được gọi là “tách rời” (detachment), bởi vì quá trình đó [ND: quá trình tách rời detachment], hoặc hoạt động có động cơ được áp dụng chủ yếu cho bản chất cảm xúc, cho đời sống ham muốn, bất kể những gắn bó hoặc ham muốn đó có thể là gì. Đây [Right Abstraction] là một hoạt động trí tuệ; nó là một thái độ của thể trí ảnh hưởng chủ yếu đến toàn bộ thái độ sống của phàm ngã. Nó không chỉ liên quan đến việc tách rời bản chất ham muốn khỏi những gì quen thuộc, mong muốn và chiếm hữu từ thói quen lâu đời, mà nó còn liên quan đến việc điều chỉnh lại hoàn toàn toàn bộ con người tam phân thấp đối với thế giới của các linh hồn.
Hy vọng loạt bài dịch các thư Chân sư gởi cho các đệ tử, cụ thể các đệ tử trong nhòm hạt giống số 2, sẽ giúp ích các bạn trong việc tu tập tr6n đường đạo.
+++++++++++++++++++++++++
Charles Hill (DLR). DNA vol. 1. p.301: vol. 2. p. 750.
Quality Name: Detachment, Love to all beings; Radiation vol.2, 752. Rays: 1 5 567. Previous life 2nd ray personality (p. 315). Country: USA. Occupation: Scientific worker in government. Sun Sign: Cancer. Rising Sign: Libra. Birth: July 13, 1890.
“I have, therefore, chosen for participation in this work several aspirants whose tendency is to succumb to glamour, though two of them are less prone to it than are the others. Their relative freedom from it was one of the reasons why I chose them. These two are D.L.R. and D.P.R.” Glamour 98.
Charles Hill (DLR). tập DNA 1. tr.301: tập. 2. p. 750.
Công thức Phát triển: Buông Xả, Tình yêu với tất cả chúng sinh; Bức xạ. Cấu trúc cung: I-5, 567. Kiếp trước phàm ngã cung 2 (tr. 315). Quốc gia: Mỹ. Nghề nghiệp: Nhà khoa học trong chính phủ. Dấu hiệu Mặt Trời: Cự Giải. Dấu hiệu mọc Thiên Bình. Sinh: 13/7/1890.
“Do đó, tôi đã chọn tham gia vào công việc này một số người chí nguyện có xu hướng bị ảo cảm, mặc dù hai trong số họ ít có khuynh hướng đó hơn những người khác. Sự tự do tương đối của họ đối với nó là một trong những lý do tại sao tôi chọn họ. Hai người này là DLR và DPR” Glamour 98.
Quyển I
July 1934—Tháng 7 năm 1934
MY BROTHER AND FRIEND: |
Huynh đệ và Người bạn của tôi: |
I am asking you to work in this group of students and aspirants for two reasons: First of all, because, through this technique of instructions, you can receive some aid in the treading of the Path if you choose to avail yourself of what I may have to offer, and secondly, because your particular type of mind and your trained experience will give to this group that balancing factor and that patient stability which it needs. |
Tôi yêu cầu em làm việc trong nhóm sinh viên và người chí nguyện này vì hai lý do: Trước hết, bởi vì thông qua kỹ thuật hướng dẫn này, em có thể nhận được một số trợ giúp trong việc bước đi trên Thánh đạo nếu em chọn tận dụng những gì tôi có thể cung cấp, và thứ hai, bởi vì thể trí cụ thể của em và kinh nghiệm được đào tạo của em sẽ mang lại cho nhóm này yếu tố cân bằng và sự ổn định kiên nhẫn mà nhóm này cần. |
The group has passed through a crisis as a group. Certain of its members have likewise had peculiar testing and difficulties. These they have surmounted and from them they are learning the needed lesson. The subjective potency of what you have to give will help—if I may so express it—to bring the whole group up to par[1], and enable me more rapidly to integrate it, and fit it for an instrument for service. I begin this communication by stating this clearly, as the service you can render is to you of more value than the service that can be rendered to you. But the group and the training to which it subjects itself can give you much if you will try out the work for a year or so. [302] |
Nhóm đã vượt qua một cuộc khủng hoảng với tư cách là một nhóm. Tương tự như vậy, một số thành viên của nhóm cũng đã trải qua những thử thách và khó khăn đặc biệt. Họ đã vượt qua những điều này và từ đó họ đang học được bài học cần thiết. Năng lực nội tại của những gì em phải cho đi sẽ giúp—nếu tôi có thể diễn đạt như vậy—đưa toàn bộ nhóm lên mức mong đợi, và cho phép tôi tích hợp nhóm nhanh hơn, đồng thời làm cho nhóm trở thành một công cụ phụng sự nhanh hơn. Tôi bắt đầu sự giao tiếp với em bằng cách nêu rõ điều này, vì sự phụng sự mà em có thể cung cấp, đối với em, có giá trị hơn sự phụng sự có thể cung cấp cho em. Nhưng bản thân nhóm và công việc huấn luyện mà nhóm trải qua có thể mang lại cho em nhiều điều nếu em chịu thử công việc trong khoảng một năm. [302] |
No attempt is made authoritatively to impose restrictions on the students and their work, and all can cease from the endeavour at any time. A third reason for my putting you into this group is to put you in touch subjectively, as well as on the physical plane, with D.H.B. as he and you make good travelling companions. This is but a suggestion and a hope to be tested out by both of you, if you so will. |
Không có nỗ lực thẩm quyền nào được thực hiện để áp đặt các hạn chế đối với sinh viên và công việc của họ, và tất cả có thể ngừng nỗ lực bất cứ lúc nào. Lý do thứ ba khiến tôi đưa em vào nhóm này là để giúp em tiếp xúc một cách chủ quan, cũng như trên bình diện vật chất, với DHB khi bạn ấy và em là những người bạn đồng hành tốt. Đây chỉ là một gợi ý và hy vọng sẽ được cả hai em thử nghiệm, nếu em muốn. |
You have passed through one of those periods of quiet and of controlled inner growth which from time to time[2] is part of the training of the disciple upon the Path. Now the fruit of that subjective experience, known only to you and to those who guide and watch the footsteps of all aspirants, must work out in exoteric service, rendered progressively on each of the three planes until it emerges into fruitful action on the physical plane. Bear this in mind as you attempt to work with this group of my disciples; make your mental rapport first, then your astral contact and leave the physical plane expression to take care of itself, for the lines it will take will depend upon the inner continuity of contact, and upon your sensitive subjective realisation. This will take time, my brother. But there is no hurry in the realm of the soul. |
Em đã trải qua một trong những giai đoạn tăng trưởng nội tâm yên tĩnh và được kiểm soát, vốn thỉnh thoảng là một phần của việc huấn luyện người đệ tử trên Đường Đạo. Giờ đây, kết quả của kinh nghiệm chủ quan đó, vốn chỉ có em và những người hướng dẫn và theo dõi bước chân của tất cả những người chí nguyện biết, phải thể hiện ra trong việc phụng sự bên ngoài, được thực hiện dần trên mỗi cõi trong ba cõi cho đến khi nó xuất hiện thành tác dụng hiệu quả trên cõi trần. Hãy ghi nhớ điều này khi em cố gắng làm việc với nhóm đệ tử này của tôi; trước tiên hãy tạo mối quan hệ trong thể trí, sau đó là tiếp xúc với cõi cảm dục, và để sự biểu hiện trên cõi trần tự lo liệu lấy, vì các đường lối mà nó thực hiện sẽ tùy thuộc vào sự tiếp xúc liên tục bên trong và tùy thuộc vào nhận thức chủ quan nhạy cảm của em. Em thân mến, điều này sẽ mất thời gian. Nhưng không có gì phải vội vàng trong lĩnh vực linh hồn. |
The meditation work to be done by you should be for a while dynamically extroverted. I use these two words because they express the process to be followed by you for the next few months. Should you care to do so, I would suggest the following breathing exercise, to be followed by the meditation process below. All the work done should be controlled by the consciousness, centred and held steady in the head…. |
Công việc tham thiền mà em thực hiện nên được hướng ngoại một cách năng động trong một thời gian. Tôi sử dụng hai từ này vì chúng diễn tả quá trình mà em phải tuân theo trong vài tháng tới. Nếu em muốn làm như vậy, tôi sẽ đề xuất bài tập thở sau đây, tiếp theo là quá trình tham thiền bên dưới. Tất cả các công việc được thực hiện nên được kiểm soát bởi tâm thức, tập trung và giữ ổn định trong đầu…. |
We will, at this time, refrain from using the highest head centre in the breathing exercise, beyond recognising it as the point from which you are working. The objective of this exercise is to integrate the three centres above the diaphragm, and so make the personality more magnetic, and more definitely responsive to the radiation of the soul. |
Vào thời điểm này, chúng ta sẽ không sử dụng trung tâm đầu cao nhất trong bài tập thở, ngoài việc nhận ra đó là điểm mà từ đó em đang làm việc. Mục tiêu của bài tập này là hợp nhất ba trung tâm lực phía trên cơ hoành, và do đó làm cho phàm ngã có nhiều từ tính hơn và phản ứng dứt khoát hơn với bức xạ của linh hồn. |
For your meditation work I suggest the following procedure: |
Đối với công việc tham thiền của em, tôi đề nghị quy trình sau: |
1. First of all, do the breathing exercise, outlined above. |
1. Trước hết, hãy thực hiện bài tập thở đã nêu ở trên. |
2. Then, focussing the consciousness as high in the head as possible, sound the Sacred Word. [303] |
2. Sau đó, tập trung ý thức vào đầu càng cao càng tốt, đọc linh từ OM. [303] |
3. Then do the following brief and intensive visualisation exercise: |
3. Sau đó thực hiện bài tập hình dung ngắn gọn và chuyên sâu sau đây: |
a. Imagine a path of golden light, leading from where you stand to a vast two-leaved door. |
a. Hãy tưởng tượng một con đường ánh sáng vàng kim, dẫn từ nơi em đứng đến cánh cửa hai cánh rộng lớn. |
b. Then see, rolling along this path a disk or wheel of rose, which you send forth and which eventually disappears through the door. |
b. Sau đó, nhìn thấy một chiếc đĩa hoặc bánh xe màu hồng mà em gửi đi, lăn dọc theo con đường này, và cuối cùng biến mất qua cánh cửa. |
c. Then send along the same track a disk of vivid green, and follow it by a disk of golden yellow, both of which disappear the same way. |
c. Sau đó, gửi ra dọc theo cùng một con đường một đĩa màu xanh lá cây rực rỡ, và theo sau nó là một đĩa màu vàng vàng, cả hai đều biến mất theo cùng một cách. |
d. Then send a disk or wheel of a radiant, electric blue, which rolls along the golden Path but which does not enter through the door but remains there, hiding the door from sight. |
d. Sau đó, gửi một đĩa hoặc bánh xe có màu xanh lam điện, phát sáng, lăn dọc theo con đường màu vàng kim, nhưng không đi qua cánh cửa mà vẫn ở đó, che khuất cánh cửa khỏi tầm nhìn. |
e. Picture then yourself as standing before the electric blue disk, having traversed the golden path and there meditating upon the following words: |
e. Sau đó, hãy tưởng tượng em đang đứng trước đĩa màu xanh lam điện, đã đi qua con đường vàng kim, ở đó tham thiền về những từ sau: |
“I am the Way myself, the door am I. I am the golden Path and in the light of my own light I tread the Way: I enter through the door. I turn and radiate.” |
“Chính tôi là Con đường, tôi là cánh cửa. Tôi là Con đường vàng kim và trong ánh sáng của ánh sáng chính tôi, tôi bước trên Con đường: Tôi bước vào qua cánh cửa. Tôi quay lại và tỏa ra. |
4. You can then carry forward your own meditation, though refraining from any use of mantrams and from visualisation exercises other than those indicated above by me. |
4. Sau đó, em có thể tiến hành tham thiền của riêng mình, mặc dù hạn chế sử dụng những mantram và những bài thực hành hình dung ngoài những gì tôi đã chỉ ra ở trên. |
5. Sound the Sacred Word again, breathing it out upon the world from the highest point in your consciousness that seems to you possible. |
5. Xướng linh từ OM một lần nữa, thở nó ra thế giới từ điểm cao nhất trong tâm thức của em mà dường như có thể đối với em. |
Attempt this meditation once a day for the next few months as it will form the basis of the meditation which I can later give you. |
Hãy thử cách tham thiền này mỗi ngày một lần trong vài tháng tới vì nó sẽ tạo thành nền tảng cho cách tham thiền mà sau này tôi có thể cung cấp cho em. |
January 1935—Tháng giêng năm 1935
BROTHER OF ANCIENT DAYS: |
HUYNH ĐỆ CỦA NGÀY XƯA CŨ: |
I can indicate to you the line of activity by which you can best aid in this group activity, and this is the development of telepathic rapport. It was for that latent capacity in you that you were originally asked to be a member of the initial group of disciples. Though your karma and circumstances at [304] that time temporarily militated against that happening (and your action then was entirely right) that in no way negates your latent capacity. I am pointing this out as I would like you—if you will—to work towards establishing a telepathic rapport with the group, beginning with D.H.B. and D.A.O. Seek to contact them in this way and get into touch with them on the matter. By so doing you will help in establishing a group interplay and integrity which is one of the main objectives before all groups of disciples. When all are formed, then a member will be chosen from each of the groups to form another group whose work will be to preserve a group interplay between the groups. If you can give five minutes each day to an effort to get into touch with these two, you will find success at the end of the way. You will probably find (as you are a first ray soul) that you can make an impression upon their minds more easily than they can impress yours, but your fifth ray personality will offset some of this, as you function more easily on the mental plane than on the astral on account of your ray polarisation. |
Tôi có thể chỉ ra cho em đường hướng hoạt động mà em có thể hỗ trợ tốt nhất trong hoạt động nhóm này và đây là sự phát triển của mối quan hệ viễn cảm. Chính vì khả năng tiềm tàng đó trong em mà ban đầu em được yêu cầu trở thành một thành viên của nhóm đệ tử ban đầu. Mặc dù nghiệp quả và hoàn cảnh của em vào [304] lúc đó tạm thời chống lại điều đó (và hành động của em sau đó là hoàn toàn đúng) nhưng không có cách nào phủ nhận khả năng tiềm ẩn của em. Tôi đang chỉ ra điều này vì tôi muốn em—nếu em muốn—làm việc hướng tới việc thiết lập mối quan hệ viễn cảm với nhóm, bắt đầu với DHB và DAO. Hãy tìm cách liên hệ với họ theo cách này và liên hệ với họ về vấn đề này. Bằng cách làm như vậy, em sẽ giúp thiết lập sự tương tác và tính toàn vẹn của một nhóm, vốn là một trong những mục tiêu chính của tất cả các nhóm đệ tử. Khi tất cả đã được hình thành, thì một thành viên sẽ được chọn từ mỗi nhóm để thành lập một nhóm khác mà công việc của họ là duy trì sự tương tác nhóm giữa các nhóm. Nếu em có thể dành năm phút mỗi ngày để nỗ lực tiếp xúc với hai người này, em sẽ tìm thấy thành công ở cuối con đường. Em có thể thấy (vì em là một linh hồn thuộc cung một) rằng em có thể tạo ấn tượng trong thể trí họ dễ dàng hơn là họ có thể gây ấn tượng với em, nhưng phàm ngã cung năm của em sẽ bù đắp phần nào điều này, vì em hoạt động dễ dàng hơn trên cõi trí so với trên cõi cảm dục do sự phân cực cung của em. |
Continue with the breathing exercise as outlined in my last instruction. I seek to make no change in this. You have only done it for a few months and the rhythm of the work must be definitely established so that it becomes automatic, thereby permitting freedom of thought within the limits of the work. I will, however, change your meditation outline in the following particulars: |
Tiếp tục với bài tập thở như đã nêu trong hướng dẫn cuối cùng của tôi. Tôi tìm cách không thay đổi điều này. Em mới chỉ làm việc đó trong vài tháng và nhịp điệu của công việc phải được thiết lập chắc chắn để nó trở nên tự động, do đó cho phép sự tự do của tư tưởng trong giới hạn của công việc. Tuy nhiên, tôi sẽ thay đổi phác thảo tham thiền của em trong các chi tiết cụ thể sau: |
1. The breathing exercise. |
1. Bài tập thở. |
2. The sounding of the A.U.M. |
2. Xướng linh từ AUM |
3. See before your mind’s eye the same two-leaved door, standing wide open. Through it you see a radiant sun of golden light. |
3. Nhìn thấy trước mắt em cùng một cánh cửa hai cánh đang mở rộng. Qua đó em thấy mặt trời chói lọi vàng ánh. |
4. Instead of sending forth the disks of coloured light, visualise yourself as standing before this open door. |
4. Thay vì phát ra các đĩa ánh sáng màu, hãy hình dung em đang đứng trước cánh cửa đang mở này. |
5. Then say: “May the energy of the divine self inspire me,” and feel your entire nature vitalised by the spiritual energy, pouring through the open door upon you and through you. |
5. Sau đó nói: “Cầu mong năng lượng của bản ngã thiêng liêng truyền cảm hứng cho tôi,” và cảm nhận toàn bộ bản chất của em được tiếp thêm sức sống bởi năng lượng tinh thần, tuôn đổ qua cánh cửa rộng mở lên em và xuyên qua em. |
6. Next say: “May the light of the soul direct,” and visualise that light pouring upon your daily path. Bring into that [305] light your group problems which you may have to solve and face, and face them and handle them in the light. |
6. Tiếp theo hãy nói: “Nguyện ánh sáng của linh hồn hướng dẫn,” và hình dung ánh sáng đó chiếu rọi trên con đường hàng ngày của em. Đưa vào đó [305] ánh sáng các vấn đề nhóm của em mà em có thể phải giải quyết và đối mặt, đối mặt và giải quyết chúng dưới ánh sáng. |
7. Finish the rest of the invocation, saying the words with all the power of your soul behind them. Add the mantram I earlier gave you: |
7. Kết thúc phần còn lại của lời cầu nguyện, nói những lời bằng tất cả sức mạnh của linh hồn em đằng sau chúng. Thêm câu mantram mà tôi đã đưa cho em trước đó: |
“I am the Way myself, the door am I. I am the golden Path and in the light of my own light I tread that Way. I enter through the door. I turn and radiate the light.” |
“Bản thân tôi là Con đường, tôi là cánh cửa. Tôi là Con đường vàng kim và trong ánh sáng của ánh sáng của chính mình, tôi bước trên Con đường đó. Tôi vào qua cửa. Tôi quay lại và tỏa ra ánh sáng.” |
8. Sound the A.U.M. as before. |
8. Xướng Linh Từ AUM như trước. |
Let not the things of the personality upset in any way your equilibrium, my brother. Preserve as heretofore that inner silence that guards the secrets of the soul, and the way your soul has indicated—the way that you should go. Detachment from the thoughts of others and steadfast radiation hold for you the secret of your ultimate liberation. |
Đừng để những thứ thuộc về phàm ngã làm đảo lộn trạng thái cân bằng của em theo bất kỳ cách nào, huynh đệ của tôi. Hãy gìn giữ, như trước đây, sự im lặng bên trong để bảo vệ những bí mật của linh hồn, và con đường mà linh hồn em đã chỉ ra—con đường mà em nên đi. Tách rời khỏi những suy nghĩ của người khác và bức xạ kiên định nắm giữ cho em bí mật của sự giải thoát cuối cùng của em. |
August 1935—Tháng 8 năm 1935
BROTHER OF MINE: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
I seek to give you some personal work to do in connection with me that will not be easy. You have ever been interested in that inner subjective work which might be called telepathic clairvoyance. This work you would have done had it been possible for you to work with my first planned group. Would you care to work with me, my brother, along this line for a while? I have placed in your “way of vision” in meditation (a phrase which perhaps means little to you but which nevertheless embodies an existent fact) two symbols which I seek to have you contact as a training in inner sensitivity. See if you can contact them and the word for which they stand. This work will form part of your meditation. |
Tôi muốn giao cho em một số công việc cá nhân liên quan đến tôi, vốn sẽ không dễ dàng. Em đã từng quan tâm đến công việc nội tại có thể được gọi là khả năng thông nhãn viễn cảm. Công việc này em đã có thể hoàn thành nếu em có thể làm việc với nhóm được lên kế hoạch đầu tiên của tôi. Em thân mến, em có muốn làm việc với tôi theo con đường này một thời gian không? Tôi đã đặt vào “con đường của tầm nhìn” của em trong tham thiền (một cụm từ có lẽ ít có ý nghĩa đối với em nhưng nó lại thể hiện một sự thật tồn tại) hai biểu tượng mà tôi muốn em tiếp xúc như một sự rèn luyện về sự nhạy cảm bên trong. Hãy xem liệu em có thể tiếp xúc với chúng không, và từ mà chúng thay thế là gì. Công việc này sẽ tạo thành một phần công việc tham thiền của em. |
1. Achieve a sense of inner poise and quiet, yet at the same time, hold a positive attentiveness to the establishing of a contact with me. Seek to sense my aura and to tune in on my group, of which you are a part. |
1. Đạt được cảm giác cân bằng nội tâm và tĩnh lặng, nhưng đồng thời hãy chú ý tích cực đến việc thiết lập sự tiếp xúc với tôi. Tìm cách cảm nhận hào quang của tôi và hoà nhập vào nhóm của tôi, trong đó em là một phần. |
2. Then register what seems to appear to you, and any word connected with the registered symbolic form which may emerge in your consciousness. Try to contact the first symbol in the first three months, and the second in [306] the last three. Record each day what you feel you contact and summarise your results. Be not unduly anxious. |
2. Sau đó ghi nhận những gì dường như xuất hiện với em, và bất kỳ từ nào liên quan đến hình thức biểu tượng đã ghi nhận có thể xuất hiện trong tâm thức của em. Hãy thử tiếp xúc với biểu tượng đầu tiên trong ba tháng đầu, và biểu tượng thứ hai trong [306] ba tháng cuối. Ghi lại mỗi ngày những gì em cảm thấy em tiếp xúc và tóm tắt kết quả của em. Đừng lo lắng quá mức. |
3. Sound the Word, the O.M. three times; once for your group brothers, then for your immediate circle of family and friends, and finally for the group of students which you are training for me. Realise that as you do this two things happen: First, that you are vitalising them, and secondly, that you are establishing links whereby you can reach them and the group life can flow. |
3. Xướng Linh Từ OM ba lần; một lần cho những huynh đệ trong nhóm của em, sau đó là cho nhóm gia đình và bạn bè trực tiếp của em, và cuối cùng là cho nhóm sinh viên mà em đang huấn luyện cho tôi. Nhận ra rằng khi em làm điều này, sẽ xảy ra hai điều: Thứ nhất, em đang tiếp thêm sức sống cho họ, và thứ hai, em đang thiết lập các liên kết nhờ đó em có thể tiếp cận họ và cuộc sống nhóm có thể trôi chảy. |
4. Say the mantram of the Disciples’ Degree: “May the energy of the divine self inspire me and the light of the soul direct. May I be led from darkness to light, from the unreal to the real, from death to immortality.” |
4. Đọc mantram của Cấp Bậc đệ tử: “Cầu xin năng lượng của bản ngã thiêng liêng truyền cảm hứng cho tôi và ánh sáng của linh hồn hướng dẫn tôi. Cầu mong tôi được dẫn dắt từ bóng tối đến ánh sáng, từ giả đến chân, từ sự chết đến sự bất tử.” |
5. Proceed with your meditation as you yourself shall choose but do not give more than ten minutes to this period. |
5. Tiếp tục tham thiền theo ý muốn của em nhưng không dành quá mười phút cho giai đoạn này. |
6. Then do the breathing exercise as hitherto, but place it this time at the end of your meditation for this will set in motion the energies which you may have succeeded in contacting. |
6. Sau đó, hãy thực hiện bài tập thở như cho đến nay, nhưng hãy đặt nó vào lúc kết thúc buổi thiền của em vì điều này sẽ khởi động những năng lượng mà em có thể đã thành công trong việc tiếp xúc. |
It will be obvious to you that I am seeking to establish a closer link between yourself and the group on the inner planes of which I am the focal point. This I am definitely endeavouring to do. With this in mind, carry forward your spiritual life during the next six months and integrate yourself more closely and consciously into this group of mine on the inner planes. Of this group, your co-disciples are a part. Have ever in your consciousness the fact of the group, the purpose of group service at this time, and the intention that should underlie the life pattern of every disciple—that the Plan must be served. |
Em sẽ thấy rõ ràng rằng tôi đang tìm cách thiết lập mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa em và nhóm trên các cõi bên trong mà tôi là tâm điểm. Điều này, chắc chắn tôi đang nỗ lực để làm. Với suy nghĩ này, hãy tiếp tục cuộc sống tinh thần của em trong sáu tháng tới và hòa nhập em một cách chặt chẽ và có ý thức hơn vào nhóm này của tôi trên các cõi bên trong. Trong nhóm này, các đồng môn đệ của em là một phần. Hãy luôn luôn giữ trong tâm thức của em sự thật về nhóm, mục đích của việc phụng sự nhóm vào thời điểm này, và ý định sẽ làm nền tảng cho khuôn mẫu cuộc sống của mỗi đệ tử—rằng Kế hoạch phải được phụng sự. |
I have but little more to say to you now, except that I desire deeply that you may emerge into greater freedom of life and expression and liberate yourself from any chains which may hold you back from the life of full and loving service—I speak of inner habits of thought and not of any external responsibilities and contacts. [307] |
Bây giờ tôi còn rất ít điều muốn nói với em, ngoại trừ việc tôi vô cùng mong muốn rằng em có thể đạt được sự tự do hơn trong cuộc sống và trong biểu đạt, cũng như giải phóng bản thân khỏi mọi xiềng xích có thể kìm hãm em khỏi cuộc sống phụng sự trọn vẹn và yêu thương—tôi nói đến thói quen suy nghĩ bên trong chứ không phải bất kỳ trách nhiệm và liên hệ bên ngoài nào. [307] |
February 1936—Tháng 2 năm 1936
HUYNH ĐỆ NGÀY XƯA CỦA TÔI: |
|
I seek today to emphasise to you the need to recognise and re-interpret your inner life pattern, or, in other words, the inner programme which your soul undertook to follow when you first set your foot upon the Path of Accepted Discipleship. This you did two or three lives ago and you have followed this path slowly and with caution. There is now, however, need for a more dynamic following of your soul purpose and a definite negating of all the impediments which seek at this time to obstruct your progress. I would call your attention to the fact that I do not here refer to outer relationships and contacts. They exist and have their purpose and, as you well know, all right responsibilities must always be met by disciples. I refer to that inner, active, spiritual life which you should increasingly cultivate, and to that dual activity which every disciple has to follow simultaneously. This dual life embraces the world of inner relationships and of recognised subjective attitudes, but it also embraces the life of outer service and of those relationships which you have assumed as your physical plane dharma. Clear vision as to these outer relations in the world of professional activity, of friendships and of family relations is a necessary requirement in treading the Path, and until a disciple sees these relations in their true and right proportions, his mind is frequently disturbed and his service handicapped. I give you here a hint. Every link that one makes on earth does not necessarily entail the recognition of a soul link. We make new and fresh links and start new lines of karma and of dharma. One of the first things that a disciple has to learn is right judgment as to the relative soul age of his associates. He soon discovers that these vary. He learns then to recognise those whose wisdom and knowledge surpass his own, to cooperate with those who stand with him upon the Path and to work for those whom he can help, but whose evolutionary status is not on an equality with his own. The ordered pattern of his life can then take on definite forms and he can begin to work with intelligence. |
Hôm nay, tôi muốn nhấn mạnh với em sự cần thiết phải nhận ra và diễn giải lại khuôn mẫu cuộc sống bên trong của em, hay nói cách khác, chương trình bên trong mà linh hồn em đã cam kết tuân theo khi em lần đầu tiên đặt chân lên Con đường trở thành Đệ tử được Chấp nhận. Điều này em đã làm cách đây hai hoặc ba kiếp, và em đã đi theo con đường này một cách chậm rãi và thận trọng. Tuy nhiên, giờ đây cần phải theo đuổi mục đích linh hồn của em một cách năng động hơn và dứt khoát phủ nhận tất cả những trở ngại đang tìm cách cản trở sự tiến bộ của em vào lúc này. Tôi muốn em chú ý đến thực tế là ở đây tôi không đề cập đến các mối quan hệ và liên hệ bên ngoài. Chúng tồn tại và có mục đích của chúng, và như em biết rõ, các đệ tử luôn phải hoàn thành mọi trách nhiệm đúng đắn. Tôi đề cập đến đời sống tinh thần, năng động, bên trong mà em nên trau dồi ngày càng nhiều, và đến hoạt động kép mà mọi đệ tử phải đồng thời tuân theo. Cuộc sống hai mặt này bao trùm thế giới của những mối quan hệ bên trong và những thái độ chủ quan đã được công nhận, nhưng nó cũng bao hàm cuộc sống phụng sự bên ngoài và những mối quan hệ mà em đã coi là bổn phận ở cõi trần của em. Tầm nhìn rõ ràng về những mối quan hệ bên ngoài này trong thế giới hoạt động nghề nghiệp, tình bè bạn và quan hệ gia đình là một yêu cầu cần thiết khi bước trên Thánh đạo, và cho đến khi một đệ tử nhìn thấy những mối quan hệ này theo tỷ lệ chân thực và đúng đắn của chúng, thể trí của y thường xuyên bị xáo trộn và việc phụng sự bị khiếm khuyết. Tôi cung cấp cho em ở đây một gợi ý. Mỗi liên kết mà một người tạo ra trên trần gian không nhất thiết đòi hỏi sự công nhận của một liên kết linh hồn. Chúng ta tạo ra những liên kết mới và bắt đầu những nghiệp quả và bổn phận mới. Một trong những điều đầu tiên mà một đệ tử phải học là phán đoán đúng đắn về tuổi linh hồn tương đối của các cộng sự của mình. Y sớm phát hiện ra rằng chúng [các tuổi linh hồn] khác nhau. Sau đó, y học cách nhận ra những người có trí tuệ và kiến thức vượt trội hơn mình, hợp tác với những người sát cánh cùng y trên Con đường và làm việc cho những người mà y có thể giúp đỡ, nhưng địa vị tiến hóa của họ không ngang hàng với mình. Sau đó, khuôn mẫu có trật tự của cuộc đời y có thể mang những hình thức nhất định và y có thể bắt đầu làm việc với sự thông tuệ. |
These points you need to study, remembering that truth and clear vision are of greater value than blind loyalty and curtailed understanding. When grasped, they lead to increased happiness [308] and to power in all relationships. A right sense of proportion does not necessarily involve criticism. |
Em cần nghiên cứu những điểm này, ghi nhớ rằng sự thật và tầm nhìn rõ ràng có giá trị hơn lòng trung thành mù quáng và sự hiểu biết hạn chế. Khi nắm bắt được, chúng dẫn đến gia tăng hạnh phúc [308] và sức mạnh trong mọi mối quan hệ. Một ý thức đúng về tỷ lệ không nhất thiết liên quan đến sự chỉ trích. |
I seek to change your work and meditation considerably this next half year. My objective in so doing is twofold: I seek to see you bring about a more rapid alignment and a more dynamic intensification of your life of aspiration. Your mental polarisation is good and your work in the world greatly aids you in this respect. Its integration with the life of feeling could be stronger and more dynamic, and for this we will work for a little while. I seek, secondly, to aid you to be more sensitive to the forces which should pour in on the world during the month of May if the world disciples measure up to their opportunity. |
Tôi muốn thay đổi đáng kể công việc và tham thiền của em trong nửa năm tới. Mục tiêu của tôi khi làm như vậy là hai mặt: Tôi muốn thấy em thực hiện sự chỉnh hợp nhanh hơn và tăng cường năng động hơn cho cuộc sống khát vọng của em. Sự phân cực trí tuệ của em là tốt và công việc của em trên thế giới hỗ trợ em rất nhiều trong khía cạnh này. Sự tích hợp của nó với đời sống cảm giác có thể mạnh mẽ hơn và năng động hơn, và vì điều này, chúng ta sẽ làm việc trong một thời gian ngắn. Thứ hai, tôi tìm cách giúp em nhạy cảm hơn với những sức mạnh sẽ tràn vào thế giới trong Tháng Năm nếu các đệ tử thế giới nắm bắt được cơ hội của họ. |
Continue with the breathing exercises as heretofore. Then meditate as follows: |
Tiếp tục với các bài tập thở như trước đây. Sau đó tham thiền như sau: |
1. Focus the consciousness as high in the head as possible. |
1. Tập trung ý thức vào đầu càng cao càng tốt. |
2. Sound the O.M. three times inaudibly and, with the power of the creative imagination, |
2. Xướng Linh Từ OM ba lần không thành tiếng và với sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo, |
a. See the physical body dedicating itself to the service of the soul. |
a. Thấy rằng cơ thể vật lý cống hiến hết mình để phụng sự linh hồn. |
b. Retreat still further inward as you sound the O.M. and visualise the emotional nature pouring itself forth in aspiration towards the service of humanity. |
b. Hãy rút lui sâu hơn vào bên trong khi em xướng Linh Từ OM và hình dung bản chất cảm xúc tuôn trào trong khát vọng phụng sự nhân loại. |
c. Retreat still higher and still more inwardly and dedicate the mind principle to the service of the Plan. |
c. Hãy rút lui cao hơn và hướng nội hơn nữa, và dâng hiến nguyên khí trí tuệ để phụng sự Thiên Cơ. |
3. Then, holding the consciousness on this high plane, seek to lift your consciousness higher still and, by a definite act of the will, see three things occur: complete alignment, definite integration with the personality, and the dynamic focussing of your consciousness in the soul. |
3. Sau đó, giữ tâm thức trên cõi cao này, và tìm cách nâng tâm thức của em cao hơn nữa, và bằng một hành động rõ ràng của ý chí, em sẽ thấy ba điều xảy ra: sự chỉnh hợp hoàn toàn, sự tích hợp nhất định với phàm ngã và sự tập trung năng động của tâm thức em trong linh hồn. |
4. Then sound the word audibly, but sound it this time as the soul, breathing forth light, understanding, and love into the waiting, attentive, integrated personality. |
4. Sau đó, hãy xướng linh từ OM thật rõ ràng, nhưng lần này hãy phát âm nó như linh hồn, thở ra ánh sáng, sự hiểu biết và tình thương vào phàm ngã tích hợp đang chờ đợi, chú ý. |
Make this a dynamic, quick and conscious activity. |
Làm cho điều này trở thành một hoạt động năng động, nhanh chóng và có ý thức. |
5. Attempt then, as a soul, to link up with your co-disciples. Having done this, seek then to see the symbol which blazes forth from the brow of each of them. Each symbol is different. Endeavour to see these symbols by definitely [309] linking up with and pouring out love to your brothers. Note down each day the symbol that seems to you to be related to them. |
5. Sau đó, hãy cố gắng, với tư cách là một linh hồn, liên kết với các đồng môn đệ của em. Làm xong việc này, hãy tìm kiếm xem biểu tượng phát ra từ trán của mỗi người trong số họ. Mỗi biểu tượng là khác nhau. Hãy cố gắng nhìn thấy những biểu tượng này bằng cách dứt khoát [309] liên kết và tuôn đổ tình thương đến huynh đệ của em. Ghi lại mỗi ngày biểu tượng mà em cho là có liên quan đến chúng. |
6. Having done this, repeat rapidly the process of alignment given in points 1, 2, 3, and then sink back into the stage of contemplation, holding it as long as you can. Assume imaginatively (if you cannot in reality) the attitude of a soul as it lives the life of contemplation in its own world, and endeavour then to see in connection with the following monthly themes what the soul sees and knows. |
6. Làm xong việc này, nhanh chóng lặp lại quá trình chỉnh hợp được đưa ra ở các điểm 1, 2, 3, rồi chìm trở lại vào giai đoạn suy ngẫm, giữ nó càng lâu càng tốt. Giả định một cách tưởng tượng (nếu em không thể trong thực tế) thái độ của một linh hồn khi nó sống cuộc sống chiêm nghiệm trong thế giới của chính nó, và sau đó cố gắng xem xét những gì linh hồn nhìn thấy và biết liên quan đến các chủ đề hàng Tháng sau đây. |
1st month—The nature of contemplation. |
Tháng thứ nhất—Bản chất của sự chiêm ngưỡng. |
2nd month—The necessity for integration. |
Tháng thứ 2—Sự cần thiết của tích hợp. |
3rd month—The technique of alignment. |
Tháng thứ 3—Kỹ thuật chỉnh hợp. |
4th month—The inspiration of the personality. |
Tháng thứ 4—Cảm hứng của phàm ngã. |
5th month—Association with the hierarchical endeavour. |
Tháng thứ 5—Liên kết với nỗ lực Thánh đoàn. |
6th month—The service of the Plan. |
Tháng thứ 6—Phụng sự Thiên Cơ. |
7. Insert here what intercessory work you seek to do. |
7. Ghi vào đây công việc thay thế mà em tìm cách thực hiện. |
8. Sound the O.M. |
8. Xướng Linh Từ OM |
For your own personal work I would ask you to write one paragraph which will embody your highest thought concerning the six themes which I have given above for contemplation. |
Đối với công việc cá nhân của riêng em, tôi muốn yêu cầu em viết một đoạn văn thể hiện suy nghĩ cao nhất của em về sáu chủ đề mà tôi đã đưa ra ở trên để suy ngẫm. |
My brother, I ask you to persevere without discouragement and with no undue pondering upon results achieved. You are not in a position rightly to gauge your own progress. Continue to serve and to work and leave realisation with its results and effects to take place naturally without any forcing of the process. Your soul is active and just now its attention is turned in power towards its instrument; your vibratory rate, your power in service, can increase; and your opportunity at this time is real. The physical brain is not yet in a condition wherein the inner activities can be accurately registered but that is no indication that that activity is not great and right. Comply with my suggestions and keep in close touch, subjectively and objectively if possible, with your group brothers. [310] |
Huynh đệ của tôi, tôi yêu cầu em kiên trì không nản lòng và không suy nghĩ quá mức về kết quả đạt được. Em không ở vị trí phù hợp để đánh giá sự tiến bộ của chính mình. Tiếp tục phụng sự và làm việc, và để cho sự thực hiện với các kết quả và tác động của nó diễn ra một cách tự nhiên mà không có bất kỳ sự ép buộc nào của quá trình. Linh hồn của em đang hoạt động, và ngay bây giờ sự chú ý của nó hướng về công cụ của nó; tốc độ rung động của em, sức mạnh phụng sự của em có thể tăng lên; và cơ hội của em lúc này là có thật. Bộ óc vật chất chưa ở trong tình trạng mà các hoạt động bên trong có thể được ghi lại một cách chính xác, nhưng điều đó không có nghĩa là hoạt động đó không lớn và đúng đắn. Tuân thủ các đề xuất của tôi và giữ sự tiếp xúc chặt chẽ, chủ quan và khách quan nếu có thể, với các huynh đệ trong nhóm của em. [310] |
August 1936—Tháng 8 năm 1936
MY FRIEND OF OLD: |
NGƯỜI BẠN CŨ CỦA TÔI: |
The past six months have seen you making many re-adjustments in your life. As you have fulfilled your outer obligations in the various fields of life expression, there has been a simultaneous freeing of yourself from the “pulling hands” of associated friends and people. The necessity for an inner freedom, preserved inviolate, is for you an urgent one, but you are learning fast the lesson that freedom is a state of mind and not a condition of being. The fear of an isolated loneliness has oft beset you, yet you have realised at the same time that that type of loneliness is oft the setting of the disciple. The increased sensitivity of a disciple’s vehicles causes him gradually to become aware of the true world of subtler values. |
Sáu tháng qua đã chứng kiến em thực hiện nhiều điều chỉnh lại trong cuộc sống của mình. Khi em đã hoàn thành các nghĩa vụ bên ngoài của mình trong các lĩnh vực biểu hiện khác nhau của cuộc sống, em đồng thời được giải phóng khỏi “bàn tay níu kéo” của bạn bè và những người có liên quan. Đối với em, sự cần thiết của sự tự do nội tâm, được giữ bất khả xâm phạm, là một điều cấp bách, nhưng em đang học nhanh bài học rằng tự do là một trạng thái của thể trí chứ không phải là một điều kiện của hiện hữu. Nỗi sợ hãi về một sự cô đơn bị cô lập thường bao vây em, nhưng đồng thời em cũng nhận ra rằng kiểu cô đơn đó thường không phải là bối cảnh của người đệ tử. Sự nhạy cảm ngày càng tăng của các hiện thể của một đệ tử khiến y dần dần nhận thức được thế giới đích thực của những giá trị tinh tế hơn. |
For what you are being prepared you have been told and know. You know also that a deeper attachment to humanity, paralleling a finer and more clear-cut and clearly realised detachment is for you, therefore, a major objective. I have in this last sentence summed up for you your immediate problem, and I tell you also for your encouragement that you are making real progress towards your goal. |
Đối với những gì em đang được chuẩn bị, em đã được nói cho biết và biết. Em cũng biết rằng một sự gắn bó sâu sắc hơn với nhân loại, song song với một sự tách rời tốt hơn, rõ ràng hơn và được nhận thức rõ ràng, do đó, là một mục tiêu chính dành cho em. Trong câu cuối cùng này, tôi đã tóm tắt cho em vấn đề trước mắt của em và tôi cũng nói với em để khích lệ em rằng em đang thực sự tiến bộ hướng tới mục tiêu của mình. |
One thing, my brother, I feel you need to realise more definitely; that is that a life of fuller expression in outer service on the physical plane is required and would further aid you towards your goal. Your problems are, however, known to me and this extension of your outer influence (radiating from an inner controlled centre) and the developing of a wider range of contacts must come slowly. But it must surely come and will, if your intention and thought are directed towards these ends. As you grow older, there is much that you have to give. The wisdom which you have necessarily wrought out in the furnace of pain and of suffering must be available and used as the Way of Light and of Joy opens up before you. I hold out before you no illusions of a great work to be performed for which you are divinely predestined. The eventual great work, successfully carried forward, which falls to the lot of all who achieve the Great Initiations, grows out of a steadily expanding consciousness, a steady decentralisation, demonstrating in a constant outgoing in compassion and understanding to the needs [311] of the little ones upon life’s way, and a greater realisation of the nature of the whole. Learn, therefore, to include more people within the range of your daily thought. It is good exercise for the disciple in training. Let your influence, welling forth from a steady and radiant centre, make itself felt in ever widening ranges of contact. Seize each opportunity for a more expanded interplay with other lives, touching them wherever you possibly can, and achieve in that way that fluidity of response which will carry you forth upon the tide of an ever richer service. |
Có một điều, hỡi huynh đệ của tôi, tôi thấy em cần phải nhận thức rõ ràng hơn; nghĩa là cần phải có một cuộc sống thể hiện đầy đủ hơn trong công việc phụng sự bên ngoài trên cõi trần, nó sẽ giúp em đạt được mục tiêu của mình hơn nữa. Tuy nhiên, tôi đã biết các vấn đề của em và sự mở rộng ảnh hưởng bên ngoài này của em (tỏa ra từ trung tâm kiểm soát bên trong) và việc phát triển phạm vi tiếp xúc rộng hơn phải diễn ra từ từ. Nhưng nó chắc chắn phải đến và sẽ đến, nếu ý định và suy nghĩ của em hướng đến những mục đích này. Khi em lớn tuổi hơn, có rất nhiều thứ em phải cho đi. Trí tuệ mà em nhất thiết đã rèn luyện trong lò lửa đau khổ phải sẵn sàng và được sử dụng khi Con đường Ánh sáng và Niềm vui mở ra trước mắt em. Tôi không đưa ra trước em ảo tưởng về một công việc vĩ đại sẽ được thực hiện mà em đã được định trước một cách thiêng liêng. Công việc vĩ đại cuối cùng, được tiến hành thành công, thuộc về rất nhiều người đạt được các cuộc Điểm đạo Vĩ đại, phát triển từ một tâm thức mở rộng đều đặn, một sự phi tập trung vào bản ngã ổn định, thể hiện ở sự hướng tới không ngừng trong lòng trắc ẩn và sự hiểu biết đối với các nhu cầu [311] của những người nhỏ bé trên con đường của cuộc sống, và một nhận thức lớn hơn về bản chất của toàn thể. Do đó, hãy học cách bao gồm nhiều người hơn trong phạm vi suy nghĩ hàng ngày của em. Đó là bài tập tốt cho đệ tử trong quá trình đào tạo. Hãy để ảnh hưởng của em, phát ra từ một trung tâm ổn định và tỏa sáng, khiến nó được cảm nhận trong phạm vi tiếp xúc ngày càng mở rộng. Nắm bắt từng cơ hội để tương tác, mở rộng hơn với những cuộc sống khác, chạm vào họ bất cứ nơi nào em có thể, và theo cách đó đạt được sự linh hoạt trong đáp ứng vốn sẽ đưa em đến với làn sóng phụng sự ngày càng phong phú hơn. |
You are at the point where you can—if you so will—achieve a higher and more potent rhythm. Its potency and its vibration must be felt outside the home circle and contacts or your relationships with your group brothers. In what manner that extension of service must demonstrate is for you gradually to find out. I but indicate to you possibility. One thing I can, however, tell you and that is that it will come through a deepening of your meditation life, and not through an outer search for such contacts; it will come through the development of a true spiritual understanding which will make the “magnetic beat” (as it is esoterically called) of such potency in your life that you will not need to move from where you are because those whom you can aid will come to you increasingly. For you, the consecrated pen, the dedicated hour, the quickness to seize an opportunity for a carefully chosen word, and the sense of reticent security which you can convey to others will be the chief methods which you will employ. Can you grasp the value to the troubled aspirant of finding in a brother that power to aid which is based on a trained reticence and a sure knowledge? |
Em đang ở thời điểm mà em có thể—nếu em muốn—đạt được nhịp điệu cao hơn và mạnh mẽ hơn. Sức mạnh của nó và sự rung động của nó phải được cảm nhận bên ngoài vòng tròn gia đình và những tiếp xúc hoặc những mối quan hệ của em với những huynh đệ trong nhóm của em. Việc mở rộng phụng sự phải thể hiện theo cách nào, em sẽ dần dần tìm ra. Tôi chỉ cho em biết về khả năng. Tuy nhiên, tôi có thể nói với em một điều, đó là nó sẽ đến thông qua việc đào sâu đời sống tham thiền của em, chứ không phải thông qua việc tìm kiếm những tiếp xúc như vậy ở bên ngoài; nó sẽ đến thông qua sự phát triển của một sự hiểu biết tinh thần thực sự, điều này sẽ tạo ra “nhịp đập từ tính” (theo cách gọi bí truyền) có sức mạnh trong cuộc sống của em đến mức em sẽ không cần phải di chuyển khỏi nơi em đang ở vì những người mà em có thể giúp đỡ sẽ đến với em ngày càng nhiều. Đối với em, cây bút tận hiến, thời gian dành riêng, sự nhanh nhạy nắm bắt cơ hội cho một từ được lựa chọn cẩn thận, và cảm giác an toàn kín đáo mà em có thể truyền đạt cho người khác sẽ là những phương pháp chính mà em sẽ sử dụng. Liệu em có thể nắm bắt được giá trị đối với người chí nguyện đang gặp khó khăn, khi y tìm thấy ở một huynh đệ khả năng hỗ trợ dựa trên sự thận trọng đã được rèn luyện và một kiến thức chắc chắn không? |
I am inclined to leave your meditation as it is at present, changing only the theme of your meditation. These themes I leave you to find for yourself, choosing them out of this personal word which I have given to you. Use those six sentences which seem to you the most helpful, and regard them as the thoughts around which you will build your mental and emotional life during the next six months. |
Tôi muốn để nguyên bài tham thiền của em như hiện tại, chỉ thay đổi chủ đề bài thiền của em. Những chủ đề này tôi để em tự tìm kiếm, chọn chúng từ những từ cá nhân mà tôi đã đưa cho em. Hãy sử dụng sáu câu mà em cho là hữu ích nhất và coi chúng như những suy nghĩ xung quanh đó em sẽ xây dựng đời sống tinh thần và cảm xúc của mình trong sáu tháng tới. |
February 1937—Tháng 2 năm 1937
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
You are learning the lesson of detachment with rapidity, and [312] you are gradually standing free from the clinging hands of others. Just as the Great Renunciation of the fourth initiation is made possible by the many lesser renunciations of many lives, consciously undertaken, so the many acts of spiritual detachment lead eventually to the severing of that final thread which involves the death of all personality attachments. Then only those relationships are left which are upon soul levels. Your task is to learn to differentiate between such spiritual detachments and those enforced detachments which are undertaken on higher levels of astral awareness. The problem of the disciple is to reach a point where he is not hindered or held back by any human being and yet so to handle himself as far as attitude is concerned that he hurts no one in the process of withdrawal. The outer personality claims of attachment are oft so powerful that their clatter and their rattle prevent awareness of the golden thread which links us with another soul. Likewise, overestimation of another person can act as a real hindrance. The chains must break, leaving only a golden thread between each soul—a golden thread which cannot break. |
Em đang học bài học về sự tách rời một cách nhanh chóng, [312] và em dần dần thoát khỏi bàn tay đeo bám của người khác. Giống như Sự Từ Bỏ vĩ đại của cuộc điểm đạo thứ tư có thể thực hiện được nhờ nhiều sự từ bỏ nhỏ hơn trong nhiều kiếp sống, được thực hiện một cách có ý thức, cũng vậy, nhiều hành động tách rời tinh thần cuối cùng dẫn đến việc cắt đứt sợi dây cuối cùng liên quan đến cái chết của mọi bám chấp phàm ngã. Sau đó, chỉ còn lại những mối quan hệ ở cấp độ linh hồn. Nhiệm vụ của em là học cách phân biệt giữa những sự tách biệt tinh thần như vậy với những sự tách rời bắt buộc được thực hiện ở các cấp độ cao hơn của nhận thức cảm dục. Vấn đề của người đệ tử là đạt đến một điểm mà anh ta không bị bất kỳ con người nào cản trở hoặc kìm hãm. Tuy nhiên, anh ta phải xử lý bản thân, trong chừng mực liên quan đến thái độ, sao cho anh ta không làm tổn thương ai trong quá trình rút lui. Những tuyên bố về sự gắn bó của phàm ngã bên ngoài thường mạnh mẽ đến mức tiếng lạch cạch của chúng ngăn cản nhận thức về sợi chỉ vàng liên kết chúng ta với một linh hồn khác. Tương tự như vậy, đánh giá quá cao một người khác có thể đóng vai trò là một trở ngại thực sự. Xiềng xích phải phá vỡ, chỉ để lại một sợi chỉ vàng giữa mỗi linh hồn—một sợi chỉ vàng không thể đứt. |
Two things I would impress upon you at this time, and upon them I would ask you to work until the next period comes around. |
Có hai điều mà tôi muốn ghi ấn tượng với em vào lúc này, và về chúng, tôi sẽ yêu cầu em làm việc cho đến khi thời kỳ tiếp theo đến. |
First, deepen your power of expression and begin to train others through a more definite outer service. You have always been able to work subjectively with others. This has been one of your major assets in group work. You are mentally magnetic, and through a controlled astral body, you interfere not emotionally with that magnetic influence. This is, for you, an established habit and will persist; it is the result of many years of reflection and of thought control, plus (in this life) academic training. For the rest of your life seek to become magnetic through the written word, through identification with the one you seek to help, through the magnetic power of your mind, enhanced by your soul and contained and embodied in the form of written help. I am seeking your help in training aspirants to become conscious disciples. Give of that aid, and thereby achieve that magnetic usefulness which will greatly increase your power to serve. |
Đầu tiên, hãy đào sâu khả năng diễn đạt của em và bắt đầu huấn luyện những người khác thông qua một công việc phụng sự bên ngoài rõ ràng hơn . Em luôn có thể làm việc một cách nội tại với những người khác. Đây là một trong những tài sản chính của em trong công việc nhóm. Em có từ tính tinh thần, và thông qua một thể cảm dục được kiểm soát, em không can thiệp về mặt cảm xúc với ảnh hưởng từ tính đó. Đối với em, đây là một thói quen đã được thiết lập và sẽ tồn tại; nó là kết quả của nhiều năm suy tư và kiểm soát tư tưởng, cộng với sự rèn luyện học thuật (trong kiếp này). Trong phần còn lại của cuộc đời em, hãy tìm cách trở nên thu hút thông qua câu chữ được viết ra, thông qua sự đồng nhất với người mà em tìm cách giúp đỡ, thông qua sức mạnh từ tính của thể trí em, được nâng cao bởi linh hồn em và được chứa đựng và thể hiện dưới dạng văn bản trợ giúp. Tôi đang tìm kiếm sự giúp đỡ của em trong việc đào tạo những người chí nguyện trở thành những đệ tử có ý thức. Hãy cho đi sự trợ giúp đó, và do đó đạt được sự hữu ích từ tính đó, thứ sẽ làm tăng đáng kể sức mạnh phụng sự của em. |
Secondly, the following occult message will give to you, if [313] you employ the intuition, the indication of the next spiritual achievement ahead of you—one that can be quickly accomplished if there is right understanding, or which can be learnt with pain and difficulty if such understanding lacks. |
Thứ hai, thông điệp huyền linh sau đây sẽ cho em, nếu em sử dụng trực giác, [313] chỉ dẫn của thành tựu tinh thần tiếp theo phía trước em—một thành tựu có thể nhanh chóng đạt được nếu có hiểu biết đúng đắn, hoặc có thể học được bằng sự đau đớn và khó khăn nếu sự hiểu biết như vậy thiếu. |
“The key is found; and with the pressure of the hands in service of the light, and with a beating heart of love, the key is turned. The door swings open wide. |
“Chìa khóa đã được tìm thấy; và với áp lực của đôi tay trong phụng sự ánh sáng, và với trái tim của tình thương đang đập, chìa khóa được xoay. Cánh cửa mở rộng ra. |
“With hasty feet the one who hastens towards the light enters the door and waits. He holds the door ajar for those who follow after. He thus, in action, waits. |
“Với đôi chân vội vàng, y chạy vội về phía ánh sáng, bước vào cánh cửa và chờ đợi. Y giữ cánh cửa hé mở cho những người theo sau. Do đó, y, trong hành động, chờ đợi. |
“A voice sounds forth: My brother, close the door, for each must turn the key with his own hand, and each must enter through that door alone. |
“Một giọng nói vang lên: Hỡi huynh đệ, hãy đóng cửa lại, vì mỗi người phải tự tay vặn chìa khóa, và mỗi người phải tự bước vào cánh cửa đó một mình. |
“The blazing light within the Temple of the Lord is not for all at the same moment or hour of the day. Each knows his hour. Your hour is now. So, brother, close the door. Remember, those behind know not the door has opened, or the door has closed. They see it not. Rest on that thought, my brother, and passing through the door, close it with care, and enter upon another stage upon the Way—alone and not alone.” |
“Ánh sáng rực rỡ trong Đền Thờ của Chúa không dành cho tất cả mọi người vào cùng một thời điểm hoặc cùng một giờ trong ngày. Mỗi người biết giờ của mình. Bây giờ là giờ của ngươi. Vì vậy, hỡi huynh đệ, hãy đóng cửa lại. Hãy nhớ rằng, những người phía sau không biết cửa đã mở hay đã đóng. Họ không thấy nó. Hãy nghỉ ngơi trong suy nghĩ đó, hỡi huynh đệ của ta, và đi qua cánh cửa, cẩn thận đóng nó lại, và bước vào một giai đoạn khác trên Con đường—một mình và không đơn độc. ” |
I would change your meditation at this time, for the group meditation is intended to supersede the individual meditation in the majority of cases. I would however give you a brief exercise to perform which may help in the externalising of your magnetic power…. Do this exercise every day with slow and measured thought, and with no sense of haste and no looking for results. The results are inevitable if the exercise is faithfully and rightly carried forward. |
Tôi sẽ thay đổi cách tham thiền của em vào lúc này, vì tham thiền theo nhóm nhằm mục đích thay thế tham thiền cá nhân trong phần lớn các trường hợp. Tuy nhiên, tôi sẽ cung cấp cho em một bài tập ngắn để thực hiện có thể giúp biểu lộ sức mạnh từ tính của em…. Hãy thực hiện bài tập này hàng ngày với suy nghĩ chậm rãi và cân nhắc, không vội vàng và không tìm kiếm kết quả. Kết quả là chắc chắn nếu bài tập được tiến hành một cách trung thực và đúng đắn. |
Enter into a closer relationship with me, my brother. There are things which I can say to you in the moments of high meditation and at the time of the full moon approach. |
Tham gia vào một mối quan hệ gần gũi hơn với tôi, em thân mến. Có những điều mà tôi có thể nói với em trong những khoảnh khắc tham thiền cao độ và vào thời điểm trăng tròn đến gần. |
This is all that I have to say to you at the present. |
Đây là tất cả những gì tôi phải nói với em vào lúc này. |
September 1937—Tháng 9 năm 1937
BROTHER OF OLD: |
HUYNH ĐỆ CỦA NGÀY XƯA: |
There are, in my group of disciples, certain people who are outstandingly called to live the life of the sannyasin, the life of [314] the one who—having fulfilled the duties of the scholar, of the householder, of the family man, and of the business man—is now called to that attitude of life and that orientation to other purposes and goals which we technically call that of the sannyasin, or the teaching disciple. In the olden times, such a man left his home and his business and went out into the world, following the gleam, seeking the Master, and ever teaching as he went. Today, in the life of our Western civilisation and under the dawning influence of the New Age, the call remains the same but the disciple goes not out, leaving all the familiar scenes behind and negating his outer usefulness. He remains where he is, continuing with the outer and physical fulfilment of duty, but within a great change and a definite re-orientation takes place. His attitude to life and affairs is basically altered. His whole inner life tendency becomes that of a planned withdrawing. He is passing through that stage upon the Way to which Patanjali refers in The Yoga Sutras under the term “right abstraction.” It differs somewhat from the process called “detachment,” because that process or motivated activity is applied primarily to the astral-emotional nature, to the desire life, whatever those attachments or desires may happen to be. This is a mental activity; it is an attitude of mind which affects primarily the entire life-attitude of the personality. It involves not only the detachment of the desire nature from that which is familiar, desired and appropriated from long habit, but it involves also a complete readjustment of the entire lower threefold man to the world of souls. |
Trong nhóm đệ tử của tôi, có một số người được đặc biệt kêu gọi để sống cuộc đời của một sannyasin, cuộc đời của [314] một người—đã hoàn thành các bổn phận của một học giả, của một người chủ gia đình, của một người đàn ông trong gia đình, và của doanh nhân—giờ đây được kêu gọi có một thái độ sống và định hướng cho các mục đích và mục tiêu khác mà chúng ta gọi một cách kỹ thuật là thái độ của sannyasin, hay vị đệ tử giảng dạy. Vào thời xa xưa, một người như vậy đã rời bỏ nhà cửa và công việc kinh doanh của mình để đi ra thế gian, đi theo ánh hào quang, tìm kiếm Chân sư, và luôn luôn giảng dạy khi y đi. Ngày nay, trong đời sống của nền văn minh Tây phương của chúng ta và dưới ảnh hưởng đang chớm nở của Kỷ Nguyên Mới, tiếng gọi vẫn y nguyên, nhưng người đệ tử không đi ra ngoài, bỏ lại sau lưng tất cả những khung cảnh quen thuộc và phủ nhận tính hữu dụng bên ngoài của mình. Y vẫn ở nguyên vị trí của mình, tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ bên ngoài và trần gian, nhưng với một sự thay đổi lớn và một sự tái định hướng nhất định diễn ra. Thái độ của y với cuộc sống và công việc về cơ bản đã thay đổi. Toàn bộ xu hướng sống nội tâm của y trở thành xu hướng rút lui có kế hoạch. Anh ta đang trải qua giai đoạn trên Con đường mà Patanjali đề cập đến trong Yoga Sutra dưới thuật ngữ “sự trừu xuất đúng đắn” (Right Abstraction). Nó hơi khác với quá trình được gọi là “tách rời” (detachment), bởi vì quá trình đó [ND: quá trình tách rời detachment], hoặc hoạt động có động cơ được áp dụng chủ yếu cho bản chất cảm xúc, cho đời sống ham muốn, bất kể những gắn bó hoặc ham muốn đó có thể là gì. Đây [Right Abstraction] là một hoạt động trí tuệ; nó là một thái độ của thể trí ảnh hưởng chủ yếu đến toàn bộ thái độ sống của phàm ngã. Nó không chỉ liên quan đến việc tách rời bản chất ham muốn khỏi những gì quen thuộc, mong muốn và chiếm hữu từ thói quen lâu đời, mà nó còn liên quan đến việc điều chỉnh lại hoàn toàn toàn bộ con người tam phân thấp đối với thế giới của các linh hồn. |
It is here that right habits and attitudes in life to the world of business, and of family relations play their part, enabling the sannyasin to “continue on the upward way with heart detached and free,” and yet to do so whilst performing right action, through right habit and right desire, to all with whom his lot is cast. To this difficult task your soul is now calling you. It constitutes your major life problem: To stand free whilst surrounded; to work in the subjective world whilst active in the exterior world of affairs; to achieve true detachment whilst rendering to all that which is due. An understanding of your ray types may greatly aid in this process of release, of relinquishment, and of final renunciation. [315] |
Chính ở đây, những thói quen và thái độ đúng đắn trong cuộc sống đối với thế giới kinh doanh và các mối quan hệ gia đình đóng vai trò của chúng, giúp vị sannyasin “tiếp tục con đường đi lên với trái tim tách rời và tự do,” và vẫn làm như vậy trong khi thực hiện hành động đúng đắn, thông qua thói quen đúng đắn và mong muốn đúng đắn, cho tất cả những người mà số phận anh đã giao phó. Đối với nhiệm vụ khó khăn này, linh hồn của em hiện đang kêu gọi em. Nó cấu thành vấn đề lớn trong cuộc sống của em: Đứng tự do khi bị bao vây; làm việc trong thế giới bên trong trong khi hoạt động trong thế giới bên ngoài của sự việc; để đạt được sự tách biệt thực sự trong khi hoàn thành tất cả những gì đến hạn. Sự hiểu biết về các loại cung của em có thể hỗ trợ rất nhiều trong quá trình giải thoát, buông bỏ và từ bỏ cuối cùng này. [315] |
The ray of your mental body is the fifth, and because it is the same ray as that of your personality, you will have to guard with care against mental crystallisation, and the undue influence of the critical mind. This ray gives you ability in the field of knowledge, but it must be balanced by the unfoldment of the intuition; it gives you the power to master your chosen field of knowledge, but that power must be balanced by the simultaneous mastering of the world wherein love and wisdom control. |
Cung thể trí của em là cung năm, và bởi vì nó cùng cung với cung của phàm ngã em, nên em sẽ phải cẩn thận đề phòng sự kết tinh của thể trí và ảnh hưởng thái quá của cái trí phê phán. Cung này mang lại cho em khả năng trong lĩnh vực tri thức, nhưng nó phải được cân bằng bởi sự phát triển của trực giác; nó trao cho em sức mạnh để làm chủ lĩnh vực tri thức em đã chọn, nhưng sức mạnh đó phải được cân bằng bởi việc làm chủ đồng thời thế giới mà tình thương và minh triết kiểm soát. |
Your astral body is on the sixth ray but, as in the case of I.B.S., its major quality is devotion and devoted persistence, and not fanaticism. This energy is of immense value to you because it is, curiously enough, your only link with the great second ray of love in this particular incarnation. But it is a strong and powerful link. |
Thể cảm dục của em thuộc cung 6, nhưng, như trong trường hợp của IBS, phẩm chất chính của nó là sự tận tâm và kiên trì cống hiến, chứ không phải sự cuồng tín. Năng lượng này có giá trị to lớn đối với em bởi vì, thật kỳ lạ, nó là mối liên kết duy nhất của em với cung 2 tình thương vĩ đại trong kiếp sống đặc biệt này. Nhưng nó là một liên kết mạnh mẽ và uy lực. |
Your physical body is controlled by the seventh ray, and this, as you will note, is also along the line of 1, 3, 5, 7. This is a point upon which you should ponder and reflect, for the aggregate of your ray tendencies constitutes for you a problem, and your sixth ray energy contributes the only balancing factor. And yet, my brother, you are in many respects well balanced. One hint I would here give to you in this connection and to all of you who study these instructions. The ray of the personality in a previous life leaves definite habits of thought and of activity; it has built into the life rhythm certain unalterable tendencies for which much gratitude can sometimes be felt. This is so in your own life. In a previous incarnation, your personality was on the second ray, thus leaving you with a deeply loving and understanding nature and a power to include, which is a major asset; it serves to offset the first ray tendencies which are so dominant in this particular life. It is hard for the disciple who sees not the picture whole, and who only knows the quality of the present life and its natural tendencies (due to ray influence) to think truly about himself. |
Cơ thể vật lý của em được kiểm soát bởi cung thứ bảy, và điều này, như em sẽ lưu ý, cũng nằm dọc theo đường 1, 3, 5, 7. Đây là điểm mà em nên cân nhắc và suy ngẫm, vì sự tổng hợp của các khuynh hướng cung của em tạo thành vấn đề cho em, và năng lượng cung sáu của em đóng góp yếu tố cân bằng duy nhất. Tuy nhiên, huynh đệ của tôi, em rất cân bằng về nhiều mặt. Ở đây, tôi muốn đưa ra một gợi ý cho em về vấn đề này và cho tất cả những em đang nghiên cứu những hướng dẫn này. Cung của phàm ngã trong một kiếp trước đã để lại những thói quen nhất định về suy nghĩ và hoạt động; nó đã xây dựng trong nhịp điệu cuộc sống những khuynh hướng không thể thay đổi mà đôi khi người ta có thể cảm thấy vô cùng biết ơn. Điều này là như vậy trong cuộc sống của riêng em. Trong kiếp trước, phàm ngã của em thuộc cung hai, do đó để lại cho em bản chất yêu thương và thấu hiểu sâu sắc cũng như khả năng bao gồm, đó là một tài sản lớn; nó phục vụ bù đắp cho những khuynh hướng của cung một vốn rất nổi trội trong cuộc sống đặc biệt này. Thật khó cho người đệ tử không nhìn thấy bức tranh tổng thể, và người chỉ biết phẩm chất của cuộc sống hiện tại và các khuynh hướng tự nhiên của nó (do ảnh hưởng của cung) để suy nghĩ thực sự về chính mình. |
Your rays therefore are: |
Do đó, các cung của em là: |
1. The egoic ray—the first Ray of Will or Power. |
1. Cung Chân ngã—Cung 1 Ý chí hay Quyền năng. |
2. The personality ray—the fifth Ray of Concrete Knowledge. [316] |
2. Cung phàm ngã – Cung 5 của Tri thức cụ thể. [316] |
3. The ray of the mental body—the fifth Ray of Concrete Knowledge. |
3. Cung của thể trí – Cung 5 của Tri thức cụ thể. |
4. The ray of the astral body—the sixth Ray of Devotion. |
4. Cung của thể cảm dục – Cung 6 sùng kính. |
5. The ray of the physical body—the seventh Ray of Ceremonial Magic. |
5. Cung của thể xác—Cung 7 của Nghi Lễ – Huyền thuật. |
February 1938—Tháng 2 năm 1938
BROTHER OF OLD: |
HUYNH ĐỆ CỦA NGÀY XƯA: |
This group is nearing the time when it should begin to work with regularity at the problem of dissipating the world glamour. This it will do successfully just in so far as the individual members have freed themselves, or are freeing themselves, from their personal glamours. In these instructions, I have pointed out that you were one of those in the group who are in a measure freer than the majority from the blinding effects of glamour. I would ask you to preserve this condition for the helping of the group and as a group service. When it becomes possible to do this world work (done naturally behind the scenes) then there will have to be a stiffening in the attitude of the group members in relation to this problem in their own lives, for it will be the existence of personal glamours in the group members which—when they approach the problem of dealing with world glamour—will let it in unless there is this “positive stiffening”—if I may use such a term. |
Nhóm này sắp đến lúc bắt đầu làm việc đều đặn về vấn đề làm tiêu tan ảo cảm thế gian. Nhóm sẽ thực hiện thành công điều này chừng nào cá nhân các thành viên đã tự giải thoát mình, hoặc đang tự giải thoát mình, khỏi những ảo cảm cá nhân của họ. Trong những hướng dẫn này, tôi đã chỉ ra rằng em là một trong số những người trong nhóm có mức độ tự do hơn đa số khỏi những tác động mù quáng của ảo cảm. Tôi sẽ yêu cầu em duy trì tình trạng này để giúp đỡ nhóm, và với tư cách là một phụng sự nhóm. Khi có thể thực hiện công việc thế giới này (được thực hiện một cách tự nhiên đằng sau hậu trường), thì thái độ của các thành viên trong nhóm sẽ phải cứng rắn hơn đối với vấn đề này trong cuộc sống của chính họ, vì đó sẽ là sự tồn tại của ảo cảm cá nhân trong nhóm các thành viên mà—khi họ tiếp cận vấn đề giải quyết ảo cảm thế gian—sẽ để nó đi vào trừ khi có sự “cứng rắn tích cực” này—nếu tôi có thể sử dụng một thuật ngữ như vậy. |
It is dangerous work, my brother, and I am mentioning it to you in this place because your fifth ray quality of mind can serve a useful group purpose. You are in a position to build a protecting wall (but not a separating barrier) around the group as a whole; it is to this activity I call you at this time. You can begin to prepare the way for the group activity. I am, therefore, giving you a meditation which has this service intent and I would ask you to do it for the next six months. It will strengthen your fifth ray quality, which is that of knowledge, and which, when present, can produce illumination. It is that quality which permits the man who has it, to stand steady in the light, to rest in pure being, and to become the true Observer. These qualities of steadiness with the intent to reflect light, of centralisation of the self, and of right observation are essential [317] to this group. They must be developed as group qualities, if the work planned is to be safely undertaken. The producing of these group attitudes can be greatly assisted by you and through their intensification in your own life you can foster their growth in others. In a letter written to you a year or so ago, you will find another reason why you have this special service to render along these lines. Will you re-read that letter? |
Đó là một công việc nguy hiểm, huynh đệ của tôi, và tôi đang đề cập đến nó với em ở đây bởi vì phẩm chất thể trí thuộc cung năm của em có thể phụng sự cho một mục đích hữu ích của nhóm. Em có thể xây dựng một bức tường bảo vệ (nhưng không phải là hàng rào ngăn cách) xung quanh toàn bộ nhóm; chính hoạt động này mà tôi kêu gọi em vào lúc này. Em có thể bắt đầu chuẩn bị cho hoạt động nhóm. Do đó, tôi đang hướng dẫn em một bài thiền có mục đích phụng sự này, và tôi muốn em thực hiện nó trong sáu tháng tới. Nó sẽ củng cố phẩm chất cung năm của em, vốn là kiến thức, và khi hiện diện, có thể tạo ra sự soi sáng. Chính phẩm chất đó cho phép con người có nó, đứng vững trong ánh sáng, an nghỉ trong bản thể thuần khiết và trở thành Người quan sát thực sự. Những phẩm chất kiên định với ý định phản chiếu ánh sáng, tập trung bản ngã, và quan sát đúng đắn là cần thiết [317] cho nhóm này. Chúng phải được phát triển như những phẩm chất của nhóm, nếu công việc đã hoạch định được thực hiện một cách an toàn. Em có thể hỗ trợ rất nhiều cho việc tạo ra những thái độ nhóm này và thông qua việc tăng cường chúng trong cuộc sống của chính em, em có thể thúc đẩy sự phát triển của chúng trong những người khác. Trong một bức thư viết cho em cách đây khoảng một năm, em sẽ tìm thấy một lý do khác khiến em có sự phụng sự đặc biệt này để thực hiện theo những dòng này. Em sẽ đọc lại bức thư đó chứ? |
One of the things which I have endeavoured to do with this group of disciples is to give them a grasp of their personality problem by telling them the rays with which they predominantly work in order to help them subordinate the lower man to the spiritual man. You would profit by making a study of the fifth ray and by assimilating, as far as you can, the information anent this ray found in my books. It would be a profitable thing if students would gather together all the information they can anent their two major rays, with the view to practical work with themselves. This is for you a peculiarly valuable thing for both your personality ray and your mind ray are on the fifth line of force. You have, consequently, a real problem in connection with yourself and at the same time a real asset in connection with the group. You can aid them in gaining the needed group poise for the work to be done. |
Một trong những điều mà tôi đã cố gắng thực hiện với nhóm đệ tử này là giúp họ nắm bắt được vấn đề về phàm ngã của họ bằng cách nói cho họ biết các cung mà họ chủ yếu hoạt động để giúp họ phục đặt con người thấp kém phục tùng con người tinh thần. Em sẽ thu được lợi ích bằng cách thực hiện một nghiên cứu về cung năm và bằng cách tiếp thu, càng nhiều càng tốt, thông tin liên quan đến cung này tìm thấy trong các cuốn sách của tôi. Sẽ là một điều hữu ích nếu học viên thu thập tất cả thông tin mà họ có thể làm được liên quan đến hai cung chính của họ, với mục đích làm việc thực tế với chính họ. Đối với em, đây là một điều có giá trị đặc biệt vì cả cung phàm ngã và cung thể trí của em đều nằm trên tuyến sức mạnh thứ năm. Do đó, em có một vấn đề thực sự liên quan đến bản thân và đồng thời là một tài sản thực sự liên quan đến nhóm. Em có thể hỗ trợ họ đạt được tư thế sẵn sàng cần thiết cho nhóm để hoàn thành công việc. |
The Old Commentary, in speaking of the work of those whose dharma it is to dissipate world glamour, uses the following expressions: |
Cổ Luận, khi nói về công việc của những người mà dharma (nghĩa vụ) là làm tiêu tan ảo cảm thế gian, sử dụng những cách diễn đạt sau: |
“They come and stand. Within the midst of whirling forms—some of a beauty rare and some of horror and despair—they stand. They look not here or there but, with their faces turned towards the light, they stand. Thus through their minds the pure light streams to dissipate the fogs. |
“Họ đến và đứng. Giữa những hình ảnh quay cuồng—một số đẹp hiếm thấy và một số kinh hoàng và tuyệt vọng—họ đứng vững. Họ không nhìn chỗ này hay chỗ kia mà hướng mặt về phía ánh sáng, họ đứng. Như vậy, qua thể trí của họ những luồng ánh sáng thanh tịnh làm tan sương mù. |
“They come and rest. They cease their outer labours, pausing to do a different work. Within their hearts is rest. They run not here and there, but form a point of peace and rest. That which upon the surface veils and hides the real begins to disappear and from the heart at rest a beam of dissipating force projects, blends with the shining light and then the mists of man’s creation disappear. |
“Họ đến và nghỉ ngơi. Họ ngừng lao động bên ngoài, tạm dừng để làm một công việc khác. Trong trái tim của họ là sự ngơi nghỉ. Họ không chạy đây đó, nhưng tạo thành một điểm bình yên và ngơi nghỉ. Cái mà trên bề mặt che đậy và che giấu sự thực bắt đầu biến mất, và từ trái tim đang nghỉ ngơi, một tia năng lượng làmtiêu tan chiếu ra, hòa với ánh sáng chói lọi, và sau đó màn sương mù của sự sáng tạo của con người biến mất. |
“They come and they observe. They own the eye of vision; likewise they own the eye of right direction of the needed force. They see the glamour of the world, and seeing, note behind it all the true, the beautiful, the real. Thus through the eye of Buddhi comes the power to drive away the veiling swirling glamours of that glamorous world. |
“Họ đến và họ quan sát. Họ sở hữu con mắt của tầm nhìn; tương tự như vậy, họ sở hữu con mắt điều hướng đúng các mãnh lực cần thiết. Họ nhìn thấy ảo cảm của thế giới, và khi nhìn thấy, ghi nhận đằng sau nó tất cả những gì chân thực, đẹp đẽ, và là thực. Như vậy, qua con mắt của Bồ đề đạt được sức mạnh để xua đuổi những xoáy tròn ảo cảm che khuất của thế giới ảo cảm đó. |
“They stand, they rest, and they observe. Such are their lives and such the service that they render to the world of men.” |
“Họ đứng, họ nghỉ ngơi, và họ quan sát. Đó là cuộc sống của họ và đó là sự phụng sự mà họ cống hiến cho thế giới loài người.” |
I would commend these lines to your careful thought. They convey to you, not only the field of your service, but also the desired attitude of your personal life. Most people have many glamours in their lives and link with facility with the world glamour. You have only one real point of glamour in your life and you do not tune in with facility with glamour. Could you see with clarity the one point of weakness in your astral life, based on devotion and idealistic interpretation, you would work with greater power and freedom. |
Tôi đề xuất những dòng này để em suy nghĩ cẩn thận. Chúng truyền đạt cho em, không chỉ lĩnh vực phụng sự của em, mà cả thái độ được mong muốn trong cuộc sống cá nhân của em. Hầu hết mọi người có nhiều ảo cảm trong cuộc sống của họ và liên kết dễ dàng với ảo cảm thế giới. Em chỉ có một điểm ảo cảm thực sự trong cuộc sống của mình và em không hòa nhập dễ dàng với ảo cảm. Nếu em có thể thấy rõ điểm yếu duy nhất trong đời sống tình cảm của mình, dựa trên sự tận tâm và cách giải thích lý tưởng, em sẽ làm việc với sức mạnh và sự tự do lớn hơn. |
In reference to your meditation work, continue as before, but when you have finished the work of building the symbols, and have sounded the O.M. three times, then take as your seed thoughts the following and meditate upon the themes indicated below: |
Liên quan đến công việc tham thiền của em, hãy tiếp tục như trước, nhưng khi em đã hoàn thành công việc xây dựng các biểu tượng và đã xướng linh từ OM thành tiếng ba lần, sau đó dùng những tư tưởng hạt giống sau đây và tham thiền về các chủ đề được chỉ ra bên dưới: |
1. The power to stand within the light, leading to right reflection of the light. |
1. Sức mạnh đứng trong ánh sáng, dẫn đến sự phản chiếu đúng ánh sáng. |
2. The power to rest in spiritual being, so as to focus the soul within the chosen field of service. |
2. Sức mạnh để nghỉ ngơi trong bản thể tâm linh, để tập trung linh hồn vào lĩnh vực phụng sự đã chọn. |
3. The power to attain right observation, so as to see correctly that which should be done. |
3. Năng lực đạt được sự quan sát đúng đắn, để thấy đúng những gì nên làm. |
Do this meditation with the consciousness focussed in your fifth ray mind but with your attention turned towards the astral world whereon your group is planning to work. This may at first produce an intensification of your own point of glamour and to guard against this you will have to institute watchfulness. Much good will eventuate if you make one definite and lasting gesture or act of freedom from your glamour (if you know what it is and face it with precision) and opportunity to do so may come to you in a few weeks’ time. I wonder if you will recognise it, my brother, and have the spiritual independence to seize it. [319] |
Thực hiện bài tham thiền này với ý thức tập trung vào thể trí cung 5 của em nhưng với sự chú ý của em hướng về cõi cảm dục nơi nhóm của em đang lên kế hoạch làm việc. Lúc đầu, điều này có thể tạo ra sự tăng cường điểm ảo cảm của riêng em, và để đề phòng điều này, em sẽ phải thiết lập sự cảnh giác. Nhiều điều tốt đẹp sẽ xảy ra nếu em thực hiện một cử chỉ hoặc hành động rõ ràng và lâu dài để thoát khỏi ảo cảm của mình (nếu em biết nó là gì và đối mặt với nó một cách chính xác) và cơ hội để làm như vậy có thể đến với em sau vài tuần nữa. Tôi tự hỏi liệu em có nhận ra nó không, huynh đệ của tôi, và có sự độc lập về tinh thần để nắm lấy nó không. [319] |
I ask your assistance in this preparatory work and would ask you also to get in touch with L.U.T. who is also doing some work for me along another line. In conclusion I would point out that |
Tôi yêu cầu sự hỗ trợ của em trong công việc chuẩn bị này, và cũng sẽ yêu cầu em liên hệ với LUT, người cũng đang thực hiện một số công việc cho tôi theo một đường lối khác. Để kết luận, tôi sẽ chỉ ra rằng |
1. Your soul energy normally finds expression through your fifth ray mind and it is wise for you to link this up with my earlier comments on this matter. |
1. Năng lượng linh hồn của em thường tìm thấy biểu hiện thông qua thể trí cung 5 của em và em nên liên kết điều này với những nhận xét trước đó của tôi về vấn đề này. |
2. Your personality force is focussed in your seventh ray brain. |
2. Mãnh lực phàm ngã của em được tập trung trong bộ não cung 7 của em. |
September 1938—Tháng 9 năm 1938
MY BROTHER OF OLD: |
HUYNH ĐỆ NGÀY XƯA CỦA TÔI: |
You have now come back to your own group and to the one to which you were originally assigned, and for that I am glad though—with the rest of you—I deplore the cause. The glamour in which R.V.B. is involved is thick and at present impenetrable, but the primary reason for his leaving all his responsibilities and deserting his group brothers and his post, has been the need for certain personality adjustments and the righting of a serious mistake he made two lives ago. When he has worked through his karma and has achieved release from a certain thraldom, he will again proceed upon his way. In the meantime, his co-disciples will stand with silent faithfulness behind him, leaving him entirely free and yet ready, when the true freedom comes, to again recognise the outer as well as the inner relationship. |
Bây giờ em đã trở lại với nhóm của riêng em và với nhóm mà em đã được chỉ định ban đầu, và vì điều đó mà tôi rất vui, mặc dù—cùng với những người còn lại của các em—tôi lấy làm tiếc về nguyên nhân. Ảo cảm mà RVB có liên quan là dày đặc và hiện tại không thể xuyên thủng, nhưng lý do chính khiến em ấy rời bỏ mọi trách nhiệm và từ bỏ những huynh đệ trong nhóm và vị trí của mình, là cần phải có một số điều chỉnh phàm ngã và sửa chữa sai lầm nghiêm trọng mà em ấy đã mắc phải hai kiếp trước. Khi em ấy đã giải quyết xong nghiệp quả của mình và đã đạt được sự giải thoát khỏi một sự trói buộc nào đó, em ấy sẽ lại tiếp tục con đường của mình. Trong khi chờ đợi, các đồng môn của em ấy sẽ đứng sau em ấy với lòng trung thành thầm lặng, để em ấy hoàn toàn tự do, và sẵn sàng, khi tự do thực sự đến, nhận ra lại mối quan hệ bên ngoài cũng như bên trong. |
You have little to do, in order to pick up the threads of the group work, for you have for some time been interested in telepathic work and you are starting work with the group at a time when it is entering upon a new venture. There is no old technique to master but only a new one to be learnt—together. |
Em có rất ít việc phải làm để nắm bắt các chủ đề của công việc nhóm, vì em đã có một thời gian quan tâm đến công việc viễn cảm, và em đang bắt đầu làm việc với nhóm vào thời điểm nhóm đang bắt đầu một dự án mới. Không có kỹ thuật cũ nào để thành thạo, mà chỉ có một kỹ thuật mới để học—cùng nhau. |
You yourself have a ray combination very similar to that of R.S.U., but owing to your sixth ray astral body, the personality situation is saved. There is, as you know, a preponderance of the will-mind-activity in you but a powerful and well developed astral body has enabled you to express the love nature which you brought to a fairly high point of development in a previous life. This life has been for you a balancing one and [320] when you return again it should be with a second ray personality because the shift of this life expression, in combination with the last life, should bring about the evocation of a second ray personality, intelligently equilibrised. |
Bản thân em có sự kết hợp cung rất giống với sự kết hợp của RSU, nhưng nhờ thể cảm dục cung sáu của em, tình hình phàm ngã được cứu vãn. Như em đã biết, trong em có một ưu thế về hoạt động của ý chí-thể trí, nhưng một thể cảm dục mạnh mẽ và phát triển tốt đã cho phép em thể hiện bản chất yêu thương mà em đã đạt được một điểm phát triển khá cao trong kiếp trước. Đối với em, cuộc sống này là một cuộc sống cân bằng, và [320] khi em trở lại lần nữa, đó phải là với phàm ngã cung hai bởi vì sự thay đổi của biểu hiện kiếp này, kết hợp với kiếp trước, sẽ mang lại sự gợi lên của phàm ngã cung hai, được cân bằng thông minh. |
I would point out to you, however, the problem which emerges when you have a straight line of contact between the first ray soul, the fifth ray personality, a fifth ray mind and a seventh ray brain. This leads to intelligent high grade work in your chosen profession but negates the free play of the intuition. This latter, however, is aided by the fact that at this time, your first ray soul focusses itself in the astral body and, therefore, greatly aids its expression by giving you emotional power (if you care to use it) and enabling you to release much magnetic force—again if you care to, which is seldom. The reason for this is that—through your definite soul contact—you tend to express the outstanding quality of the first ray which is loneliness, isolation (not separativeness with you, my brother, for that is not one of your faults), the ability to stand alone and unmoved. Your personality, as you have probably guessed, finds its focus of expression in the mental body. There is an easy line of fusion there. |
Tuy nhiên, tôi muốn chỉ ra cho em vấn đề nảy sinh khi em có một đường tiếp xúc trực tiếp giữa linh hồn cung một, phàm ngã cung năm, thể trí cung năm và bộ não cung bảy. Điều này dẫn đến công việc trí tuệ cao cấp trong ngành nghề em đã chọn nhưng phủ nhận hoạt động tự do của trực giác. Tuy nhiên, điều sau này được hỗ trợ bởi thực tế là vào lúc này, linh hồn cung một của em tập trung vào thể cảm dục, và do đó, hỗ trợ rất nhiều cho sự biểu hiện của nó bằng cách trao cho em sức mạnh cảm xúc (nếu em muốn sử dụng nó) và cho phép em giải phóng nhiều mãnh lực từ tính—một lần nữa, nếu em quan tâm, điều mà hiếm khi xảy ra. Lý do cho điều này là—thông qua sự tiếp xúc linh hồn nhất định của em—em có xu hướng thể hiện phẩm chất nổi bật của cung một, đó là sự cô đơn, cô lập (không phải sự chia rẻ với em, huynh đệ của tôi, vì đó không phải là một trong những thiếu sót của em), khả năng để đứng một mình và bất động. Phàm ngã của em, như em có thể đoán, tìm thấy tiêu điểm biểu lộ của nó trong thể trí. Có một đường hướng hợp nhất dễ dàng ở đó. |
For the rest of this life, your effort should be shifting the personality focus into the astral body, thus producing the flooding of your life expression with love, powerfully and intelligently expressed. This will also produce a closer fusion between your soul and the personality. |
Trong phần còn lại của cuộc đời này, nỗ lực của em nên chuyển sự tập trung của phàm ngã vào thể cảm dục, do đó tạo ra sự tràn ngập biểu hiện cuộc sống của em bằng tình yêu thương, được thể hiện một cách mạnh mẽ và thông minh. Điều này cũng sẽ tạo ra sự hợp nhất chặt chẽ hơn giữa linh hồn và phàm ngã của em. |
The only meditation exercise I will give you, at present, is one that will aid this fusion and release the magnetic quality of your life. You will have enough to do to incorporate your aspiration, life content and intelligent consciousness with your group, plus mastering the technique of the new work which they, too, are learning. Do this brief exercise in consciousness and visualisation, prior to the group work and meditation. |
Bài tập tham thiền duy nhất mà tôi sẽ cung cấp cho em hiện tại là bài tập sẽ hỗ trợ sự hợp nhất này và giải phóng phẩm chất từ tính trong cuộc sống của em. Em sẽ có đủ để kết hợp khát vọng, nội dung cuộc sống và tâm thức thông minh với nhóm của mình, cộng với việc nắm vững kỹ thuật của công việc mới mà họ cũng đang học. Thực hiện bài tập ngắn này trong tâm thức và hình dung, trước khi làm việc nhóm và tham thiền. |
1. Sound the O.M. as a personality. Do so at the highest mental point, raising your aspiration at the same time, with the mind to the soul. |
1. Xướng linh từ OM như một phàm ngã. Hãy làm như vậy ở điểm trí tuệ cao nhất , đồng thời nâng cao khát vọng của em, với thể trí đến linh hồn. |
2. Sound the O.M. as the soul, breathing it out in the will-to-love all beings and arresting its descent at the astral [321] body. Do this by an act of the will and the use of the creative imagination. |
2. Xướng linh từ OM như một linh hồn, thở nó ra trong ý chí yêu thương tất cả sinh linh, và chặn nó trên đường đi xuống thể [321] ở thể cảm dục . Làm điều này bằng một hành động của ý chí và sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo. |
3. Having thus vitalised the astral body and imagined the fusion of soul, personality, and astral force, then direct this triple stream of energy to the heart centre, rushing it there, if I might so express it. |
3. Sau khi đã cung cấp sinh khí cho thể cảm dục như vậy, và tưởng tượng ra sự hợp nhất của linh hồn, phàm ngã và mãnh lực thể cảm dục, hãy hướng luồng năng lượng tam phân này đến luân xa tim, dồn nó đến đó, nếu tôi có thể diễn đạt như vậy. |
If you will do this faithfully and intelligently each day, with the power of your mind behind the work, you will very soon note results and those associated with you certainly will. |
Nếu em sẽ làm điều này một cách trung thực và thông minh mỗi ngày, với sức mạnh của thể trí đằng sau công việc, em sẽ sớm ghi nhận kết quả, và những người liên quan đến em chắc chắn sẽ nhận thấy như vậy. |
My steadfast understanding and my love is yours, my brother. |
Sự hiểu biết kiên định của tôi, tình yêu thương của tôi là của em, hỡi huynh đệ của tôi. |
NOTE: This disciple is still actively cooperating with the Tibetan. |
LƯU Ý: Vị đệ tử này vẫn đang tích cực hợp tác với Chân sư Tây Tạng. |
Quyển II
January 1940—Tháng 1 năm 1940
BROTHER OF MINE: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
I find it most difficult to give a name to the glamour which holds back the full expression of your soul. I might perhaps call it the “glamour of continued circumstance.” This leads to an almost unavoidable construction of a wall of small and unimportant events, of negligible contacts, of monotonously regulated and determined duties, carried forward year after year because they constitute your duty and life function and also provide the wherewithal[3] whereby the needs of life can be met. These provide a slow moving glamour, behind which you conscientiously and laboriously stand and daily work. Such a state of affairs leads to a static situation and to a constant conditioning of your life expression. To this, your soul at times takes exception and will do so increasingly. For this you must be prepared. You must be ready for a certain feeling of nausea and of frustration as your life goes on and on along its predetermined lines. And for this nausea, you will find no real understanding in your environment. For this also you must be prepared and to accept [751] it without criticism of those who fail to render you right comprehension. |
Tôi thấy rất khó đặt tên cho ảo cảm đang kìm hãm sự thể hiện trọn vẹn của linh hồn em. Có lẽ tôi có thể gọi nó là “ảo cảm của hoàn cảnh tiếp tục.” Điều này dẫn đến việc xây dựng một bức tường gần như không thể tránh khỏi gồm những sự kiện nhỏ và không quan trọng, những mối liên hệ không đáng kể, những nhiệm vụ được quy định và xác định một cách đơn điệu, được thực hiện từ năm này qua năm khác bởi vì chúng cấu thành nghĩa vụ và chức năng sống của em, đồng thời cung cấp phương tiện nhờ đó nhu cầu của cuộc sống có thể được đáp ứng. Những điều này mang lại ảo cảm di chuyển chậm rãi, đằng sau đó em đứng và làm việc hàng ngày một cách tận tâm và chăm chỉ. Tình trạng như vậy dẫn đến một tình huống tĩnh và dẫn đến sự hạn định liên tục trong biểu hiện cuộc sống của em. Đối với điều này, linh hồn của em đôi khi thực hiện ngoại lệ, và sẽ ngày càng làm như vậy. Đối với điều này, em phải được chuẩn bị. Em phải sẵn sàng cho cảm giác buồn nôn và thất vọng nhất định khi cuộc sống của em cứ tiếp diễn theo những lộ trình đã định trước của nó. Và đối với cảm giác buồn nôn này, em sẽ không tìm thấy sự hiểu biết thực sự nào trong môi trường của mình. Đối với điều này, em cũng phải sẵn sàng và chấp nhận [751] nó mà không chỉ trích những người không thể giúp em hiểu đúng. |
Hitherto, you have regarded such moments of nausea as rebellion to be immediately suppressed; you have thrust from you all aspiration towards change, regarding it as a hindering glamour and seeking always to believe that your choice of the stable, the safe and the familiar is entirely right. Such choice has indeed been right at times, but it has not always been so in spite of the determination evidenced in your environment to hold you to the tried and the familiar. |
Cho đến nay, em đã coi những khoảnh khắc buồn nôn như vậy là sự nổi loạn cần phải bị dập tắt ngay lập tức; em ngăn cản tất cả khát vọng hướng tới sự thay đổi, coi nó như một ảo cảm cản trở và luôn tìm cách tin rằng sự lựa chọn của em với sự ổn định, an toàn và quen thuộc là hoàn toàn đúng đắn. Sự lựa chọn như vậy đôi khi thực sự đúng, nhưng không phải lúc nào nó cũng đúng mặc dù môi trường của em đã chứng minh quyết tâm giữ em với những gì đã thử thách và quen thuộc. |
Seek, my brother, at any cost, to be alive and eager for the future. Hide never behind the thought of past achievement or of achievement in some future life; learn to recognise opportunity when it stands before your thought and be ready to change the stable rhythms of a high grade and adequate personality for the eager forward looking attitude of a world disciple. Changes will then come because your inner attitude has prepared the way. |
Huynh đệ của tôi, bằng mọi giá, hãy tìm kiếm sự sống động và háo hức cho tương lai. Đừng bao giờ ẩn núp đằng sau ý nghĩ của thành tựu quá khứ hoặc thành tựu trong một số kiếp tương lai; học cách nhận ra cơ hội khi nó xuất hiện trước suy nghĩ của em, và sẵn sàng thay đổi nhịp điệu ổn định của một phàm ngã cao cấp và tương xứng để có thái độ háo hức nhìn về phía trước của một đệ tử thế giới. Những thay đổi sau đó sẽ đến bởi vì thái độ bên trong của em đã chuẩn bị sẵn con đường. |
Sometimes, my brother, I wonder if you will recognise them, knowing them for what they are? Will you see the open door, leading to a fuller and a richer life? I call you to preparedness, and for freedom from the glamours of the familiar, of the family and of your surroundings. |
Đôi khi, huynh đệ của tôi, tôi tự hỏi liệu em có nhận ra chúng, biết chúng là ai không? Liệu em có nhìn thấy cánh cửa rộng mở, dẫn đến một cuộc sống đầy đủ và phong phú hơn không? Tôi kêu gọi em chuẩn bị sẵn sàng, và giải thoát khỏi những ảo cảm của những điều quen thuộc, của gia đình và của môi trường xung quanh các em. |
August 1940—Tháng 8 năm 1940
There are within you at this time, my brother, stirrings of revolution and rebellion which have in them the seeds of liberation. Does this astonish you? Of their depth and purpose you have as yet but little understanding. You must remember that rebellion may be based on purely selfish desire for a way of life which your personality may demand. But it can also be soul-produced, and such is the case with you. One of the first things which a disciple has to learn is the real nature of that which is directing him and conditioning him. With many it is some aspect of the personality or of the personality as a whole; in a few, it is the soul. With [752] still others, the promptings may come from a sense of inferiority and its consequent reaction of a carefully considered defence mechanism; with still others, it may be circumstance, or the race mind or popular opinion or the people with whom they are associated through ancient ties, karmic liabilities or self-chosen responsibility. I will tell you here certain things which may aid you towards a fuller life and a deepened soul expression. |
Huynh đệ của tôi, vào thời điểm này đang có những sự khuấy động của cách mạng và nổi loạn vốn mang trong chúng những hạt giống của sự giải thoát. Điều này có làm em ngạc nhiên không? Về chiều sâu và mục đích của chúng, em vẫn chưa hiểu rõ lắm. Em phải nhớ rằng sự nổi loạn có thể dựa trên mong muốn hoàn toàn ích kỷ về một lối sống mà phàm ngã của em có thể đòi hỏi. Nhưng nó cũng có thể được tạo ra từ linh hồn, và đó là trường hợp của em. Một trong những điều đầu tiên mà một đệ tử phải học là bản chất thực sự của cái đang hướng dẫn y và quy định y. Với nhiều người, đó là một số phương diện của phàm ngã hoặc của phàm ngã nói chung; trong một số ít, đó là linh hồn. [752] Với những người khác, sự thôi thúc có thể đến từ cảm giác thấp kém và phản ứng hệ quả của nó đối với một cơ chế phòng vệ được cân nhắc cẩn thận; với những người khác nữa, đó có thể là hoàn cảnh, hoặc thể trí chủng tộc hoặc quan điểm phổ biến hoặc những người mà họ có mối quan hệ gắn bó từ xa xưa, trách nhiệm nghiệp quả hoặc trách nhiệm tự chọn. Tôi sẽ nói với em ở đây một số điều có thể giúp em hướng tới một cuộc sống đầy đủ hơn và một biểu hiện linh hồn sâu sắc hơn. |
Your link with your soul is real and it was not achieved in this life. It is therefore one of the stable factors in your life. Your mind is of a high quality and is easily responsive to the intuition and illumination; you have your emotional or astral body well under control. On the inner planes of the personality, your life demonstration is good and you lead a faithful and progressive spiritual life—so much so that your vibration reaches upward so intensively at times as to sound within the periphery of the hierarchical sphere of influence. This is somewhat rare. But outward and downward (these inadequate expressions make the teaching hard to communicate) this is not the case. Your outgoing energy seems short circuited and your radiation is inadequate to your inner spiritual life. You will recall that I gave you the word “radiation” some years ago as your desired keynote. For years I have watched the intensification of your spiritual life upon the inner planes only to see it arrested on the eve of expression upon the plane of daily life. I refer not here to character expression or to being what people ordinarily call good. I refer to effective radiation. |
Liên kết của em với linh hồn của em là có thật và nó không đạt được trong cuộc sống này. Do đó, nó là một trong những yếu tố ổn định trong cuộc sống của em. Thể trí của em có phẩm chất cao và dễ dàng đáp ứng với trực giác và sự khai ngộ; em kiểm soát tốt cơ thể cảm xúc của mình. Trên các cõi bên trong của phàm ngã, sự thể hiện cuộc sống của em là tốt và em sống một đời sống tinh thần trung thành và tiến bộ—đến nỗi rung động của em đôi khi vươn lên mạnh mẽ đến mức có âm thanh bên trong vùng ngoại vi của phạm vi ảnh hưởng của Thánh đoàn. Điều này khá hiếm hoi. Nhưng hướng ngoại và hướng xuống (những cách diễn đạt không phù hợp này làm cho việc giảng dạy khó truyền đạt) thì không phải vậy. Năng lượng hướng ngoại của em dường như bị đoản mạch, và bức xạ của em không tương xứng với đời sống tinh thần bên trong của em. Em sẽ nhớ lại rằng tôi đã đưa cho em từ “bức xạ” cách đây vài năm như chủ âm mà em mong muốn. Trong nhiều năm, tôi đã theo dõi quá trình tăng cường đời sống tinh thần của em trên các cõi bên trong chỉ để thấy nó bị chặn lại trước thềm biểu hiện trên cõi giới của đời sống hàng ngày. Ở đây tôi không đề cập đến sự thể hiện tính cách hay điều mà mọi người thường gọi là tốt. Tôi đề cập đến bức xạ hiệu quả. |
What causes this, my brother? I would say: Outer circumstances, and two people in particular, plus an acutely sensitive receptivity to the mental and emotional life of others. Ponder on this. This sensitivity causes an arresting of physical expression, plus a mistaken interpretation of duty at times. Know you not, my brother, that those who are at the stage of accepted discipleship (as you are) should be radiating centres of light on a relatively large scale. With you this potency of radiation is present but is rendered ineffective by your reaction to the outer details of physical plane living and to the reactions of those less developed than you are. Is [753] this a hard saying? Study it with the detachment you have so ably developed and you will find in due time that I am correct in my diagnosis. |
Điều gì gây ra điều này, hỡi huynh đệ của tôi? Tôi sẽ nói: Hoàn cảnh bên ngoài, và đặc biệt là hai người, cộng với khả năng tiếp nhận nhạy cảm sâu sắc đối với đời sống trí tuệ và cảm xúc của người khác. Hãy suy ngẫm về điều này. Sự nhạy cảm này gây ra việc ngừng biểu hiện trên cõi trần, cộng với việc đôi khi hiểu sai nghĩa vụ. Em biết không, huynh đệ của tôi, rằng những người đang ở giai đoạn đệ tử được chấp nhận (như em) nên là những trung tâm lan tỏa ánh sáng trên một quy mô tương đối lớn. Với em, khả năng bức xạ này hiện hữu nhưng trở nên không hiệu quả do phản ứng của em đối với các chi tiết bên ngoài của sự sống trên cõi trần, và với phản ứng của những người kém phát triển hơn em. [753] Đây có phải là một câu nói khó khăn không? Hãy nghiên cứu nó với sự tách biệt mà em đã phát triển rất tốt và em sẽ thấy rằng tôi đã đúng trong chẩn đoán của mình. |
Re-apply and re-interpret this virtue of detachment and much will be revealed to you. I shall not be more explicit. My function is to indicate direction, but it is for you to understand rightly and then react. Your initial interpretation given to my words may not be the right one in all cases. Usually the integration of the spiritual life and of the personality proceeds as follows: |
Tái áp dụng và giải thích lại đức tính tách rời này và nhiều điều sẽ được tiết lộ cho em. Tôi sẽ không nói rõ ràng hơn. Chức năng của tôi là chỉ ra phương hướng, nhưng dành lại cho em để hiểu đúng và sau đó phản ứng. Cách giải thích ban đầu của em đối với lời nói của tôi có thể không đúng trong mọi trường hợp. Thông thường, sự hợp nhất của đời sống tinh thần và phàm ngã diễn ra như sau: |
1. The astral body integrates with the physical brain, via the etheric body and the solar plexus. |
1. Thể cảm dục hợp nhất với bộ óc vật chất, thông qua thể dĩ thái và luân xa tùng thái dương. |
2. These two then integrate with the mental body and thus complete the personality expression. |
2. Sau đó, hai thể này hợp nhất với thể trí và như vậy hoàn tất sự biểu lộ phàm ngã. |
3. This is followed after much struggle and time by the definite integration of personality and soul. |
3. Sau nhiều đấu tranh và thời gian, điều này được tiếp nối bằng sự hợp nhất nhất định của phàm ngã và linh hồn. |
You have, however, carried the integration from the astral body to the mental body and from thence to the soul but have not yet succeeded in integrating these three with the physical man, dominating the brain and producing a vibrant expression of the inner man outwardly. This is somewhat rare a condition. Could you see yourself as you essentially are, you would make the acquaintance of a vibrant, radiant, wise disciple. But you hide all that behind a wall which has been built through your conditioning supersensitive nature and circumstances, and also by the influence of several people. Come out from behind that obstructing wall, my brother, and—for the sake of those whom you can serve— be what you are. |
Tuy nhiên, em đã thực hiện sự tích hợp từ thể cảm dục sang thể trí và từ đó đến linh hồn, nhưng chưa thành công trong việc tích hợp ba thể này với con người thể chất, thống trị bộ não và tạo ra một biểu hiện sống động của con người bên trong ra bên ngoài. Đây là một điều hơi hiếm gặp. Nếu em có thể nhìn thấy chính mình như bản chất của em, em sẽ quen thuộc với một đệ tử thông thái, rạng rỡ, sôi nổi. Nhưng em che giấu tất cả những điều đó đằng sau một bức tường đã được xây dựng thông qua bản chất và hoàn cảnh siêu nhạy cảm có điều kiện của em, và cũng bởi ảnh hưởng của một số người. Hãy ra khỏi bức tường cản trở đó, huynh đệ của tôi, và—vì lợi ích của những người mà em có thể phụng sự—hãy là chính em. |
That this emergence on your part may bring its own problems is probably true, but with the results of right action (carried wisely and not fanatically forward) you have naught to do. |
Rằng sự xuất hiện này về phía em có thể mang lại những vấn đề riêng của nó có lẽ là đúng, nhưng với kết quả của hành động đúng đắn (được thực hiện một cách khôn ngoan và không cuồng tín về phía trước), em không cần phải làm gì. |
A brief visualisation exercise and meditation may aid in this process of emergence. It is well to bear in mind that the dramatisation of the spiritual life leads to creative appearance, strengthening the will-to-do, directing the desire nature [754] in the right direction and producing effectiveness in physical plane expression. You will see, therefore, that when humanity can begin en masse to work in this manner, they will enter upon a cycle wherein evil karma will no longer be engendered and past karma will work out in experienced, spiritual living. |
Một bài tập quán tưởng ngắn gọn và tham thiền có thể hỗ trợ quá trình xuất hiện này. Nên nhớ rằng việc kịch tính hóa đời sống tinh thần dẫn đến sự xuất hiện sáng tạo, củng cố ý chí hành động, hướng bản chất dục vọng [754] đi đúng hướng và tạo ra hiệu quả trong biểu hiện trên cõi trần. Do đó, em sẽ thấy rằng khi nhân loại có thể bắt đầu làm việc theo cách này, họ sẽ bước vào một chu kỳ trong đó nghiệp quả xấu sẽ không còn được tạo ra nữa và nghiệp quả trong quá khứ sẽ được giải quyết trong cuộc sống tinh thần được trải nghiệm. |
This meditation exercise should be carefully thought out before practising so that you can know just what you are attempting to do and can then do it with adequate results. I would ask you to do it twice daily, when convenient. I set no regular time. A year’s steady practice (with belief, plus skill in action) may cause almost dramatic changes in your life. |
Bài tập thiền này nên được suy nghĩ cẩn thận trước khi thực hành để em có thể biết chính xác những gì em đang cố gắng thực hiện và sau đó có thể thực hiện nó với kết quả tương xứng. Tôi sẽ yêu cầu em làm điều đó hai lần mỗi ngày, khi thuận tiện. Tôi không đặt thời gian thường xuyên. Thực hành đều đặn trong một năm (với niềm tin, cộng với kỹ năng hành động) có thể tạo ra những thay đổi gần như ấn tượng trong cuộc đời em. |
1. Bring about focus in the soul of the potencies of the lower man by the power of the imagination and careful visualisation. This can be done by rapid, right alignment. |
1. Thực hiện tập trung trong linh hồn các tiềm năng của phàm ngã bằng sức mạnh của trí tưởng tượng và hình dung cẩn thận. Điều này có thể được thực hiện bằng cách chỉnh hợp nhanh, đúng. |
2. See the soul as a radiant sun within you (the personality hiding behind its rays). You, the real spiritual man, produce the veiling of the lower man. |
2. Xem linh hồn như mặt trời rạng rỡ bên trong em (phàm ngã ẩn sau những tia sáng của nó). Em, con người tinh thần thực sự, tạo ra sự che dấu con người thấp hơn [phàm ngã]. |
3. See the rays of the sun extending first to the mind bringing illumination. |
3. Thấy tia sáng mặt trời trước tiên chiếu rọi vào thể trí mang sự soi sáng . |
Pause here and focus your consciousness in the mind. The work is done by projecting yourself along the ray of your personality and along your mental ray which is the fifth ray of concrete knowledge or science. This should be relatively easy for you. |
Tạm dừng ở đây và tập trung ý thức của em vào thể trí. Công việc được thực hiện bằng cách phóng chiếu bản thân em dọc theo cung phàm ngã của em và dọc theo cung thể trí của em, đó là cung năm của kiến thức hoặc khoa học cụ thể. Điều này sẽ tương đối dễ dàng cho em. |
4. Then see the rays of the soul (the sun of your life) extending and embracing your astral nature and irradiating the astral plane with which you are in contact, thus bringing an outpouring of love. This again should be relatively easy of accomplishment as your astral ray is the sixth ray of devotion and idealism. |
4. Sau đó, hãy xem các tia sáng của linh hồn (mặt trời của cuộc đời em) mở rộng và ôm lấy bản chất cảm dục của em và chiếu sáng cõi trung giới mà em đang tiếp xúc, do đó mang lại tình yêu thương tuôn trào. Một lần nữa, điều này sẽ tương đối dễ thực hiện vì cung thể cảm dục của em là cung thứ sáu của sự tận tụy và chủ nghĩa lý tưởng. |
5. Carry the radiation of the sun to the vital body and see it bringing (on the beam of the seventh ray of your physical nature) such a dynamic energising that you will have the power, figuratively speaking, to break through the wall which prevents the inner radiation extending into the outer physical world. [755] |
5. Mang bức xạ của mặt trời đến thể sinh lực và thấy nó mang lại (trên chùm tia thứ bảy của bản chất vật lý của em) một năng lượng năng động đến mức em sẽ có sức mạnh, nói theo nghĩa bóng, để phá vỡ bức tường ngăn cản bức xạ bên trong mở rộng ra thế giới vật chất bên ngoài. [755] |
6.Then sound the OM softly seven times, concentrating upon the picture of this sun (which is you and your solar quality), thus irradiating the outer life. |
6. Sau đó, xướng linh từ OM nhẹ nhàng bảy lần, tập trung vào hình ảnh của mặt trời này (là em và phẩm chất thái dương của em), do đó chiếu sáng đời sống bên ngoài. |
This process should be fairly easy as all your rays tend to facilitate it. The process is also highly scientific for it is in reality the manipulation of radiant solar energy straight from “the heart of the sun,” technically speaking. Work patiently along these lines and take with patience and courage the effects produced. For these you will be eternally grateful. |
Quá trình này sẽ khá dễ dàng vì tất cả các cung của em đều có xu hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nó. Quá trình này cũng mang tính khoa học cao vì trên thực tế, nó là sự điều khiển năng lượng bức xạ mặt trời trực tiếp từ “trung tâm của mặt trời”, nói về mặt kỹ thuật. Hãy kiên nhẫn làm việc theo những đường lối này và kiên nhẫn và can đảm đón nhận những hiệu quả được tạo ra. Đối với những điều này em sẽ mãi mãi biết ơn. |
August 1942—Tháng 8 năm 1942
1. Be not afraid of loneliness. The soul that cannot stand alone has naught to give. |
1. Đừng sợ cô đơn. Linh hồn không thể đứng một mình thì không có gì để cho. |
2. Cut deep into the roots of all thy life. Seek freedom from the past. Yet move not from the plane where life has placed you in a part to play. |
2. Cắt sâu vào gốc rễ của tất cả cuộc sống của em. Tìm kiếm tự do từ quá khứ. Tuy nhiên, đừng di chuyển khỏi cõi giới mà cuộc sống đã đặt em vào một phần để chơi. |
3. The rhythm of all life pulsates in time and space and in that rhythm you must find a note that liberates. |
3. Nhịp điệu của tất cả cuộc sống dao động trong thời gian và không gian và trong nhịp điệu đó, em phải tìm thấy một nốt nhạc giải thoát. |
4. Ponder on the work of the Destroyer, why comes destruction and why the loss of beauty that has been. Your task in life should make that knowledge possible. Then build. |
4. Suy ngẫm về công việc của Kẻ hủy diệt, tại sao lại có sự hủy diệt và tại sao lại mất đi vẻ đẹp vốn có. Nhiệm vụ của em trong cuộc sống là biến tri thức đó thành hiện thực. Sau đó xây dựng. |
5. Be a sannyasin—free, alone with God, your soul and Me. Then work and love. |
5. Hãy là một sannyasin—tự do, một mình với Thượng đế, linh hồn em và Tôi. Sau đó công việc và tình yêu thương. |
6. Your major life theme in this coming year is: Search freedom. Ponder on this. It is the goal for all. |
6. Chủ đề cuộc sống chính của em trong năm tới là: Tìm kiếm sự tự do. Hãy suy ngẫm về điều này. Đó là mục tiêu cho tất cả. |
September 1943—Tháng 9 năm 1943
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
As a Master studies His chelas year by year, He arrives at certain definite knowledges anent them which are very different to those arrived at by even the dearest or closest earthly friends. The latter are apt to fail in grasping life essentials, because the detail and the minute aspects of the daily expression attract attention and the surface is confounded with the depth. It is the depth which the Master sees; the essential quality which He grasps, and the major need which emerges. [756] |
Khi một Chân sư nghiên cứu các đệ tử của Ngài hàng năm, Ngài đạt được một số kiến thức nhất định liên quan đến họ, những kiến thức này rất khác với những kiến thức mà ngay cả những người bạn thân nhất hoặc thân thiết nhất trên trần thế đạt được. Những người sau thường thất bại trong việc nắm bắt những điều cốt yếu của cuộc sống, bởi vì các chi tiết và khía cạnh nhỏ nhặt của biểu hiện hàng ngày thu hút sự chú ý và bề mặt bị nhầm lẫn với chiều sâu. Chính là chiều sâu mà Chân sư nhìn thấy; phẩm chất thiết yếu mà Ngài nắm bắt, và nhu cầu chính xuất hiện. [756] |
What, my brother, lies at the very depth of your personality in this life? I refer not here to the deeps of the soul, but to the particular hidden thing which is and has been struggling for expression throughout this entire incarnation. What is your essential quality? Here I refer to the outstanding quality which, given due process of experience, will radiate from your life and thus constitute your major working asset. What is your predominant need this life? Reduce all this to the requirements for initiation (for which you are being prepared) and you come to three fundamental things which must be manifested, prior to that tremendous step forward upon the Path. You will note that I am not preoccupied with your mistakes or failures. These are inevitable and are relatively unimportant, because a disciple at your point of development is ever aware of them and can be trusted to take the needed steps toward adjustment. |
Huynh đệ của tôi, điều gì ẩn sâu trong phàm ngã của em trong kiếp sống này? Ở đây, tôi không đề cập đến những điều sâu thẳm của linh hồn, mà nói đến điều ẩn giấu đặc biệt đang và đã đấu tranh để thể hiện trong suốt quá trình tái sinh này. Phẩm chất thiết yếu của em là gì? Ở đây tôi đề cập đến phẩm chất vượt trội, với quá trình trải nghiệm phù hợp, sẽ tỏa ra từ cuộc sống của em và do đó tạo thành tài sản làm việc chính của em. Nhu cầu chủ yếu của em trong kiếp sống này là gì? Hãy rút gọn tất cả những điều này thành những yêu cầu để điểm đạo (mà em đang được chuẩn bị) và em đi đến ba điều cơ bản cần phải được biểu lộ, trước bước tiến vĩ đại đó trên Thánh đạo. Em sẽ lưu ý rằng tôi không bận tâm đến những lỗi lầm hay thất bại của em. Đây là những điều không thể tránh khỏi và tương đối không quan trọng, bởi vì một đệ tử ở trình độ phát triển của em luôn nhận thức được chúng và có thể được tin cậy để thực hiện các bước cần thiết để điều chỉnh. |
For years I have watched you. You have made steady progress in all directions but have reached a point which it is necessary that all disciples reach, where a supreme effort, based on clear perception and insight, is essential. To aid you in making this supreme life effort, I would like to touch upon these three points. I must touch upon them in such a way that only you will comprehend the implications. There is no need for your group brothers, or any one else who may come across and read your papers, to grasp my meaning. Two factors of interest emerge here. In veiling (from the point of definite personal application) the truths I seek to have you grasp, I present to you a compromise between the Eastern method of hinting and the Western method of plain speaking! I am, at the same time, endeavouring to convey to you the attitude of all disciples in training for initiation. This attitude is one of extreme personal reticence and of withdrawing from those verbal contacts which reveal too much of individual soul growth. This is one of the first lessons in the silence which initiation entails. It is also one of the first steps towards comprehension of that “isolated unity” which is distinctive of the Master. In the Hierarchy there is complete unity, based upon a recognised isolation of spirit from matter. [757] This thought should provide you with a theme for much profound thinking. |
Trong nhiều năm tôi đã theo dõi em. Em đã đạt được tiến bộ ổn định theo mọi hướng, nhưng đã đạt đến một điểm mà tất cả các đệ tử cần phải đạt đến, nơi mà một nỗ lực tối cao, dựa trên nhận thức rõ ràng và hiểu biết sâu sắc, là điều cần thiết. Để giúp em thực hiện nỗ lực tối cao trong cuộc sống này, tôi muốn đề cập đến ba điểm này. Tôi phải đề cập đến chúng theo cách mà chỉ em mới hiểu được hàm ý. Không cần những huynh đệ trong nhóm của em, hoặc bất kỳ ai khác có thể bắt gặp và đọc các bài viết của em, nắm bắt ý nghĩa của tôi. Hai yếu tố đáng chú ý xuất hiện ở đây. Để che giấu (từ quan điểm áp dụng cá nhân rõ ràng) những sự thật mà tôi muốn em nắm bắt, tôi trình bày với em một sự thỏa hiệp giữa phương pháp gợi ý của phương Đông và phương pháp nói dễ hiểu của phương Tây! Đồng thời, tôi đang cố gắng truyền đạt cho em thái độ của tất cả các đệ tử đang được rèn luyện để được điểm đạo. Thái độ này là một trong những thái độ cực kỳ kín đáo cá nhân và rút lui khỏi những tiếp xúc bằng lời nói, bộc lộ quá nhiều sự phát triển linh hồn cá nhân. Đây là một trong những bài học đầu tiên về sự im lặng mà việc điểm đạo đòi hỏi. Đó cũng là một trong những bước đầu tiên hướng tới sự hiểu biết về “sự thống nhất biệt lập” đặc biệt của Chân sư. Trong Thánh Đoàn có sự thống nhất hoàn toàn, dựa trên sự cô lập đã được công nhận của tinh thần khỏi vật chất. [757] Suy nghĩ này sẽ cung cấp cho em một chủ đề để suy nghĩ sâu sắc hơn. |
What, therefore, brother of mine, should be the unique realisation which this particular incarnation should help you to express? What lies at the depths of your being, seeking revelation? What is the essential quality which you should radiate? What is your outstanding need? I will tell you the truth as I see it, reminding you however that it is the truth as you see it which changes and conditions your life. You must therefore regard my suggestions as valuable, but regard them primarily as the subject of a defined spiritual investigation—to be carried forward with an open mind and a willingness to recognise them as correct and just when your own conclusions and your intuitive response justify your agreeing. Here are my conclusions: |
Do đó, huynh đệ của tôi, điều gì sẽ là nhận thức độc đáo mà kiếp tái sinh đặc biệt này sẽ giúp em thể hiện? Điều gì ẩn sâu trong con người em, đang tìm kiếm sự tiết lộ? Phẩm chất thiết yếu mà em nên lan tỏa ra là gì? Nhu cầu nổi bật của em là gì? Tôi sẽ nói cho em biết sự thật như tôi nhìn thấy nó, tuy nhiên nhắc nhở em rằng chính sự thật như em nhìn thấy nó sẽ thay đổi và tạo điều kiện cho cuộc sống của em. Do đó, em phải coi những gợi ý của tôi là có giá trị, nhưng chủ yếu coi chúng là chủ đề của một cuộc khảo sát tinh thần xác định—được tiến hành với một thể trí cởi mở và sẵn sàng công nhận chúng là đúng và chỉ khi những kết luận và phản ứng trực giác của em biện minh cho những gì em đồng ý. Đây là kết luận của tôi: |
1. The hidden beauty seeking expression in your life is the power to use words to arrest others and to put them, as a consequence, upon the Path of Return. This will undoubtedly surprise you, but your apparent inability to write, for instance, a fluent letter or an eloquent appeal, or to evoke the words of arresting power which you feel seething within you, are only indicative of a pronounced personality inhibition which you can overcome, if you so wish. Words are the expression of the soul, when rightly employed. You do not use those words. You can, if you determine to do so. The art of spiritual letter writing will release this inner beauty and enhance your service. |
1. Vẻ đẹp tiềm ẩn đang tìm cách thể hiện trong cuộc sống của em là khả năng sử dụng lời nói để bắt giữ người khác, và do đó đưa họ vào Con đường Trở về. Điều này chắc chắn sẽ làm em ngạc nhiên, nhưng việc em có vẻ không có khả năng viết, chẳng hạn như một bức thư trôi chảy hoặc một lời kêu gọi hùng hồn, hoặc để gợi lên những lời có sức mạnh bắt giữ mà em cảm thấy sôi sục trong mình, chỉ là biểu hiện của một sự ức chế phàm ngã rõ rệt mà em có thể vượt qua, nếu em muốn như vậy. Chữ viết là biểu hiện của linh hồn khi được sử dụng đúng cách. Em không sử dụng những chữ đó. Em có thể, nếu em quyết tâm làm như vậy. Nghệ thuật viết thư tinh thần sẽ giải phóng vẻ đẹp bên trong này và nâng cao sự phụng sự của em. |
2. The essential quality which you should radiate is an understanding holding of those for whom you are responsible. I said “holding,” brother of mine. A.A.B. has called my attention to the interesting fact that it is the rarest thing for you to lose a student out of your secretarial group, yet at the same time you write less and (apparently) upon the outer plane, do less, than the other secretaries. Why is this so? It is indicative of the quality which you radiate. This quality is in the [758] nature of a potency. It is the power to hold others steady by the nature of your understanding; this they feel, even if you do not consciously express it. It remains still basically subjective. A quality such as this—binding, forceful and enduring—carries its limitations as well as its benedictions. People can be held too closely to you for their own good, and it is ever the weaker who are thus held and the less advanced. People in this way can become dependent upon the one who holds, and thus fail to express themselves, and thus again their weaknesses are developed and a tendency to negativity. You can develop this theme yourself. But the beneficent aspect of this radiation is predominant in you and must be increased and this deliberately. |
2. Phẩm chất thiết yếu mà em nên tỏa ra là sự hiểu biết cầm giữ những người mà em chịu trách nhiệm. Tôi đã nói “cầm giữ,” huynh đệ của tôi. AAB đã thu hút sự chú ý của tôi đến một sự thật thú vị rằng việc em để mất một sinh viên ra khỏi nhóm thư ký của mình là điều hiếm gặp nhất, nhưng đồng thời em viết ít hơn, và (dường như) ở cõi giới bên ngoài, làm ít hơn những thư ký khác. Tại sao như thế? Nó là dấu hiệu của phẩm chất mà em tỏa ra. Phẩm chất này là [758] bản chất của tiềm năng. Đó là sức mạnh giữ người khác đứng vững nhờ bản chất hiểu biết của em; điều này họ cảm thấy, ngay cả khi em không cố ý thể hiện nó. Về cơ bản, nó vẫn bên trong. Một phẩm chất như thế—ràng buộc, mạnh mẽ và lâu dài—có những hạn chế cũng như phúc lành của nó. Mọi người có thể được giữ quá gần em vì lợi ích của chính họ, và những người yếu hơn và kém tiến bộ hơn luôn bị giữ như thế. Theo cách này, mọi người có thể trở nên phụ thuộc vào người nắm giữ, và do đó không thể hiện được bản thân, và do đó, một lần nữa điểm yếu của họ lại phát triển và có xu hướng tiêu cực. Em có thể tự phát triển chủ đề này. Nhưng khía cạnh có lợi của bức xạ này chiếm ưu thế trong em và phải được tăng lên và điều này có chủ ý. |
3. Your major need (and this you know) is freedom, is liberation. I do not mean freedom from incarnation or liberation from the pressures of life, but the freedom which the sannyasin knows as he roams free in the three worlds—unsupervised or unintruded upon by aught but his own soul. It is the freedom which gives mental help, emotional response and physical time as and when the disciple chooses. These are not evoked by habit or by the demand of others, but are the free contribution of the soul to a current need. Your response is not always to need, is it, my brother? Ponder on this. |
3. Nhu cầu chính của em (và điều này em biết) là tự do, là sự giải thoát. Ý tôi không phải là tự do khỏi luân hồi hay giải thoát khỏi những áp lực của cuộc sống, mà là sự tự do mà một sannyasin biết được khi anh ta lang thang tự do trong tam giới – không bị giám sát hay xâm phạm bởi bất cứ thứ gì ngoại trừ linh hồn của chính anh ta. Chính sự tự do mang lại sự trợ giúp về mặt trí tuệ, phản ứng cảm xúc và thời gian vật lý tùy theo lựa chọn của người đệ tử. Những điều này không được gợi lên bởi thói quen hay nhu cầu của người khác, mà là sự đóng góp tự do của linh hồn cho một nhu cầu hiện tại. Đáp ứng của em không phải lúc nào cũng cần, phải không, huynh đệ của tôi? Hãy suy ngẫm về điều này. |
In the six seed thoughts which I gave you a year ago, this theme of liberation, of a desirable divine loneliness, and of a search for a note that could bring freedom was a dominant one. They still should be the major subject of all your meditation work. I would suggest that for the coming year you take them as the seed thoughts for your definitely planned morning meditation. I am leaving you to do the planning, but would make one suggestion. These six thoughts will need to be taken one each month for six months, and then repeated for another six. For the first six months reflect upon them from the angle of your subjective realisation as a soul; [759] for the second six months study them from the angle of practical expression in your daily life. |
Trong sáu suy nghĩ hạt giống mà tôi đã đưa cho em một năm trước, chủ đề về sự giải thoát, về sự cô đơn thiêng liêng đáng mơ ước, và về việc tìm kiếm một âm điệu (note) có thể mang lại tự do là chủ đề nổi bật. Chúng vẫn nên là chủ đề chính trong tất cả công việc tham thiền của em. Tôi đề nghị rằng trong năm tới, em hãy coi chúng như những tư tưởng hạt giống cho việc tham thiền buổi sáng đã được lên kế hoạch rõ ràng của em. Tôi để em lập kế hoạch, nhưng sẽ đưa ra một gợi ý. Sáu suy nghĩ này sẽ cần được thực hiện mỗi tháng một lần trong sáu tháng, và sau đó lặp lại trong sáu tháng nữa. Trong sáu tháng đầu tiên, hãy suy ngẫm về chúng từ góc độ nhận thức chủ quan của em với tư cách là một linh hồn; [759] trong sáu tháng thứ hai, hãy nghiên cứu chúng từ góc độ biểu hiện thực tế trong cuộc sống hàng ngày của em. |
I am anxious for you to make the grade this life, my brother, and here I am speaking technically. I am anxious for you to take the initiation planned by your own soul, and to take it this life, so that you can enter into your next incarnation with the initiate consciousness (of the grade desired), and thus start with greatly increased assets for service. I would remind you that initiation is taken alone; hence my emphasis to you during the past few years upon the need for you to travel alone—spiritually and mentally speaking. From other angles you travel not alone. The spiritual life is full of paradoxes. We set out to develop a sense of unity and of oneness with all beings, yet at times we must learn the lessons of loneliness and of isolation. A great “aloneness” is the supreme test of the fourth initiation. Remember this. Yet never, my brother, will you be alone, and this too you must have in mind. It is, in the last analysis, a question of recognitions. Let me assure you: I recognise you and, my brother and close friend on the inner side, I know you and love you. |
Em thân mến, tôi đang lo lắng cho em “tốt nghiệp” trong kiếp sống này, và ở đây tôi đang nói về mặt kỹ thuật. Tôi lo lắng cho em thực hiện cuộc điểm đạo do chính linh hồn em lên kế hoạch, và thực hiện nó trong kiếp này, để em có thể bước vào kiếp sau với tâm thức điểm đạo đồ (của cấp độ mong muốn), và do đó bắt đầu với tài sản gia tăng đáng kể cho việc phụng sự. Tôi xin nhắc em rằng việc điểm đạo chỉ được thực hiện một mình; do đó, tôi nhấn mạnh với em trong vài năm qua về nhu cầu em phải đi một mình—nói về mặt tinh thần và trí tuệ. Từ những góc độ khác, em không đi một mình. Đời sống tinh thần đầy nghịch lý. Chúng ta bắt đầu phát triển cảm giác hợp nhất và đồng nhất với tất cả chúng sinh, nhưng đôi khi chúng ta phải học những bài học về sự cô đơn và cô lập. Một “sự cô đơn” lớn là bài kiểm tra tối cao của cuộc điểm đạo thứ tư. Hãy nhớ lấy điều này. Tuy nhiên, huynh đệ của tôi, em sẽ không bao giờ một mình, và em cũng phải ghi nhớ điều này. Trong phân tích cuối cùng, đó là vấn đề của sự công nhận. Hãy để tôi đảm bảo với em: Tôi nhận ra em và, huynh đệ và người bạn thân ở phương diện nội giới của tôi, tôi biết em và yêu em. |
November 1944—Tháng 11 năm 1944
BROTHER OF MINE: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
In what sense do I call you this? For this appellation conveys no idle statement but is of deep significance. It is particularly so in your case and in reference to your individual relation to me. My last instruction should have indicated to you how deep is my comprehension of you and your nature, and how well I understand your problems, your limitations and your assets. Every Master needs to have such an understanding and to know infallibly what is in a disciple’s heart and mind; He must understand what motivates his action. When also there is a karmic tie as well as a spiritual one, when there is a recognition of unity of purpose, plus a past history of close relationship when the Master was also only a disciple and the disciple was only an aspirant, then the words “Brother of mine” take on a deeper meaning. They [Page 760] might indicate a steady moving forward, side by side, of a younger and an older brother, resulting in a consequent close relationship, easy contact and a deep comprehension. In this sense, therefore, my mode of addressing some of you is not simply significant of an occult truth but of an existent fact in the three worlds. There are four of you in this group who have such a relationship to me. It is—between us—an old story. Others in this group, as you know, are temporarily under my instruction until such time as they have fitted themselves to fill vacancies in other Ashrams; still others are, for the first time, making contact with me in my Ashram, having had no previous contact with any Ashram. I bring these points to your attention because I would have you utilise a possibility which remains as yet a hoped-for event in your case—the possibility of a realised, easy contact with me. It has always been possible for you to contact me with facility but you have seldom realised it. I want you now to realise it and to develop into outer expression what has always interiorly existed. |
Tôi gọi em như vậy theo nghĩa nào? Đối với cách gọi này, nó không truyền đạt một phát biểu vu vơ, mà có ý nghĩa sâu sắc. Nó đặc biệt như vậy trong trường hợp của em và liên quan đến mối quan hệ cá nhân của em với tôi. Bức thư cuối cùng của tôi lẽ ra phải cho em biết mức độ hiểu biết của tôi về em và bản chất của em sâu sắc như thế nào, và tôi hiểu rõ các vấn đề, giới hạn và tài sản của em ra sao. Mỗi Chân sư cần phải có một sự hiểu biết như vậy, biết chắc chắn những gì trong trái tim và thể trí của đệ tử; Ngài phải hiểu điều gì thúc đẩy đệ tử hành động. Khi có sự ràng buộc thêm về nghiệp quả cũng như về tinh thần, khi có sự thừa nhận về mục đích thống nhất, cộng với quá khứ có quan hệ mật thiết khi Chân sư chỉ là một đệ tử và vị đệ tử chỉ là người chí nguyện, thì câu nói “Huynh đệ của tôi” mang một ý nghĩa sâu sắc hơn. [Trang 760] Chúng có thể chỉ ra một bước tiến vững chắc về phía trước, bên cạnh nhau, của một người anh và một người em, dẫn đến một mối quan hệ thân thiết, tiếp xúc dễ dàng và hiểu biết sâu sắc. Do đó, theo nghĩa này, cách tôi xưng hô với một số em không chỉ đơn giản là có ý nghĩa về một sự thật huyền linh mà còn về một sự thật tồn tại trong tam giới. Có bốn em trong nhóm này có mối quan hệ như vậy với tôi. Đó là một câu chuyện cũ giữa chúng ta. Những người khác trong nhóm này, như em biết, tạm thời dưới sự hướng dẫn của tôi cho đến khi họ tự trang bị cho mình thích hợp để lấp chỗ trống trong các Ashram khác; vẫn còn những người khác, lần đầu tiên, tiếp xúc với tôi trong Ashram của tôi, chưa từng liên lạc với bất kỳ Ashram nào trước đó. Tôi lưu ý em những điểm này bởi vì tôi muốn em sử dụng một khả năng vẫn còn là một sự kiện được kỳ vọng trong trường hợp của em—khả năng có sự tiếp xúc dễ dàng, hiện thực với tôi. Em luôn có thể tiếp xúc với tôi thuận lợi nhưng em hiếm khi nhận ra điều đó. Bây giờ tôi muốn em nhận ra nó và phát triển thành biểu hiện bên ngoài những gì luôn tồn tại bên trong. |
How, brother of mine, can you do this? One definite means of intensifying this inner recognition would be to avail yourself more fully of the period of the Full Moon approach. For years you have all been utilising this monthly opportunity but with relatively little results; this has somewhat surprised me for, on the side of the Ashram, there has been a great readiness for such an approach and an eagerness to stimulate “the process of absorption,” as it is called. This is a process which serves to integrate the disciple regularly and cyclically into the consciousness of the Ashram, with subsequent and consequent results to the disciple. |
Huynh đệ của tôi, làm thế nào em có thể thực hiện điều này? Một phương tiện rõ ràng để tăng cường sự nhận biết bên trong này là em hãy tận dụng đầy đủ hơn khoảng thời gian Trăng tròn đang đến gần. Trong nhiều năm, tất cả các em đã tận dụng cơ hội hàng tháng này nhưng với kết quả tương đối ít; điều này làm tôi hơi ngạc nhiên vì về phía Ashram, đã có sự sẵn sàng lớn đối với cách tiếp cận như vậy và sự háo hức để kích thích “quá trình hấp thụ,” như nó được gọi. Đây là một tiến trình phụng sự cho việc tích hợp đệ tử một cách thường xuyên và theo chu kỳ vào tâm thức của Ashram, với những kết quả tiếp theo và hệ quả đối với đệ tử. |
I would ask you, therefore, each month and for the rest of your life to follow for three days a definite procedure…. I ask this because I believe you have that persistent staying power which is characteristic of all those whose personalities are on the ray which is yours. The procedure will involve putting yourself en rapport with my Ashram and to register it in your physical brain consciousness. You may not and probably will not succeed in this endeavour immediately, but in due course of time and with persistent effort you [761] inevitably will. Think of me as you know me to be; let not your sixth ray devotional nature play any part in this process or contact. Bear in mind that first ray disciples are in my Ashram, and that there are aspects of my nature which are of first ray origin, but when you remember this, bear also in mind that the aspect to which I refer is Triadal. |
Do đó, tôi yêu cầu em, mỗi tháng và trong suốt phần đời còn lại của em, hãy tuân theo một quy trình nhất định trong ba ngày…. Tôi hỏi điều này bởi vì tôi tin rằng em có sức mạnh bền bỉ, đó là đặc điểm của tất cả những người có phàm ngã trên cung của em. Quy trình sẽ liên quan đến việc đặt em trong mối quan hệ với Ashram của tôi và ghi nó vào ý thức não bộ của em. Em có thể không và có thể sẽ không thành công trong nỗ lực này ngay lập tức, nhưng trong thời gian thích hợp và với nỗ lực bền bỉ, em [761] chắc chắn sẽ thành công. Hãy nghĩ về tôi như em biết về tôi; đừng để bản chất sùng đạo thuộc cung sáu của em đóng bất kỳ vai trò nào trong quá trình hoặc liên hệ này. Hãy nhớ rằng các đệ tử thuộc cung một đang ở trong Ashram của tôi, và có những phương diện trong bản chất của tôi có nguồn gốc từ cung một, nhưng khi em nhớ điều này, em cũng nên nhớ rằng khía cạnh mà tôi đề cập đến là Tam nguyên. |
The Masters have no personalities as you understand personality. Their conditioning factors are the three aspects of the Spiritual Triad, and these aspects, being creative, build the phenomenal apparatus or mechanism by means of which a Master makes contact with the three worlds. This means, consequently, that disciples will need to study with greater attention the teaching on the antahkarana, for it is via the antahkarana that they make contact with the Ashram and with the Master. Forget not that I have assured you that such a contact is relatively easy for you; the implications of this statement are clear. Let your reflection be upon the purpose of such a contact. Realise also that the intention of this work is to facilitate a great possibility which confronts you, that the urgency of the time demands “accomplished servers” and wise disciples, and that this urgency warrants an intensified training given disciples such as you. The contact with the Ashram will serve to emphasise in your mind the concept of yourself as the serving disciple. You are strong and able to take what the process requires; you can rest back on your own strength when it is implemented by an increasing clarity of vision. You see people and life more truly than you did when you were first affiliated with my group, and the last two years have brought about much change in this connection. Count on yourself and on your soul with greater confidence; move forward with surety towards the consummation of this life’s effort. |
Các Chân sư không có phàm ngã như em hiểu về phàm ngã. Các yếu tố hạn định của chúng [ND: các phàm ngã] là ba khía cạnh của Tam nguyên Tinh thần, và những khía cạnh này, mang tính sáng tạo, xây dựng bộ máy hay cơ chế hiện tượng mà nhờ đó một Chân sư tiếp xúc với tam giới. Do đó, điều này có nghĩa là các đệ tử sẽ cần phải nghiên cứu kỹ hơn giáo lý về antahkarana, vì chính nhờ antahkarana mà họ tiếp xúc với Ashram và với Chân sư. Đừng quên rằng tôi đã đảm bảo với em rằng một liên hệ như vậy tương đối dễ dàng đối với em; ý nghĩa của tuyên bố này là rõ ràng. Hãy để sự suy ngẫm của em dựa trên mục đích của một cuộc tiếp xúc như vậy. Cũng hãy nhận ra rằng mục đích của công việc này là tạo điều kiện thuận lợi cho một khả năng lớn mà em phải đối mặt, rằng thời gian cấp bách đòi hỏi “những người phụng sự xuất sắc” và các đệ tử thông thái, và rằng tính cấp bách này đảm bảo một sự đào tạo tăng cường cho các đệ tử như em. Sự tiếp xúc với Ashram sẽ phục vụ để nhấn mạnh trong thể trí của em khái niệm về chính em như một đệ tử phụng sự. Em mạnh mẽ và có khả năng thực hiện những gì quá trình yêu cầu; em có thể dựa vào sức mạnh của chính mình khi nó được thực hiện bằng tầm nhìn ngày càng rõ ràng. Em nhìn con người và cuộc sống chân thực hơn so với khi em lần đầu tiên tham gia nhóm của tôi, và hai năm qua đã mang lại nhiều thay đổi trong mối quan hệ này. Dựa vào chính bản thân và linh hồn của em với sự tự tin hơn; tiến về phía trước một cách chắc chắn hướng tới sự viên mãn của nỗ lực trong kiếp sống này. |
I would call to your attention that in the instructions I gave you last year and in this one, you have a complete unit of teaching which can suffice you for the remainder of this life. Read both these instructions over once every month regularly, thus renewing your interest and your enthusiasm. It is interesting to observe that initiation is often taken (I might say it is usually taken) after passing the milestone of [762] half a century. The reason is that if the disciple can produce the needed staying power and the required enthusiasm—by which I mean dynamic purpose—he can then be trusted to handle the powers conferred with wisdom, to display the needed poise, and to proceed upon his outward way with humility and caution. |
Tôi muốn lưu ý em rằng trong những hướng dẫn tôi đã đưa cho em năm ngoái và trong hướng dẫn này, em có một đơn vị giảng dạy hoàn chỉnh, có thể đủ cho em trong phần còn lại của cuộc đời này. Đọc đều đặn cả hai hướng dẫn này mỗi tháng một lần, như vậy sẽ làm mới lại mối quan tâm và lòng nhiệt tình của em. Thật thú vị khi quan sát thấy rằng việc điểm đạo thường được thực hiện (tôi có thể nói là thông thường được thực hiện) sau khi vượt qua cột mốc [762] nửa thế kỷ. Lý do là nếu người đệ tử có thể tạo ra sức mạnh bền bỉ cần thiết và sự nhiệt tình cần thiết—tôi muốn nói đến mục đích năng động—thì anh ta có thể được tin tưởng để xử lý những năng lực được ban cho bằng minh triết, để thể hiện sự đĩnh đạc cần thiết, và tiến bước ra bên ngoài với sự khiêm tốn và thận trọng. |
I have told you much in these last two instructions; they consummate the teaching which I have given you since 1933. Ponder on them. Act upon them and then strengthen the Ashram and present to the Masters a wise server and a trained companion on the Way. |
Tôi đã nói với em nhiều điều trong hai hướng dẫn cuối cùng này; chúng hoàn thành giáo lý mà tôi đã trao cho em từ năm 1933. Hãy suy ngẫm về chúng. Hành động theo chúng và sau đó gia tăng sức mạnh Ashram và trình bày cho các Chân sư một người phụng sự khôn ngoan và một người bạn đồng hành được đào tạo trên Con đường. |
August 1946—Tháng 8 năm 1946
MY DISCIPLE: |
ĐỆ TỬ CỦA TÔI: |
I would have you note the change in the manner in which I am addressing you. It has significance and my word to you in this instruction is simply this: Give to the years ahead a deep study in order to ascertain the implications and the opportunities that this word—given you at this particular time—implies; study the consequent effectiveness in contact (upward, inward, and outward, if one may use such inadequate terms!) that will result. |
Tôi muốn em lưu ý sự thay đổi trong cách tôi xưng hô với em. Nó có ý nghĩa, và lời của tôi với em trong hướng dẫn này chỉ đơn giản là thế này: Hãy nghiên cứu sâu về những năm sắp tới để xác định những hàm ý và cơ hội mà từ này—dành cho em vào thời điểm cụ thể này—hàm ý; nghiên cứu hiệu quả tiếp theo trong tiếp xúc (hướng lên, hướng vào trong và hướng ra ngoài, nếu người ta có thể sử dụng những thuật ngữ không thỏa đáng như vậy!) sẽ dẫn đến. |
Occultly speaking, you stand alone; you lead a lonely life, for there is no single person in your environment who shares with you the same quality or grade of spiritual perception. This you may deny, for your life is very full. Life has its constant points of revelation, some of which we recognise, and others pass by unnoted. The revelation of a certain type of spiritual loneliness is one through which all disciples have to pass; it is a test of that occult detachment which every disciple has to master. |
Nói một cách huyền bí, em đứng một mình; em sống một cuộc đời cô đơn, vì không có một người nào trong môi trường của em chia sẻ với em cùng phẩm chất hoặc cấp độ nhận thức tinh thần. Em có thể phủ nhận điều này, vì cuộc sống của em rất đầy đủ. Cuộc sống luôn có những điểm mặc khải liên tục, một số trong đó chúng ta nhận ra và những điểm khác trôi qua không được chú ý. Sự mặc khải về một loại cô đơn tinh thần nào đó là một loại mà tất cả các đệ tử đều phải trải qua; đó là một bài kiểm tra về sự tách rời huyền bí (occult detachment) mà mỗi đệ tử phải thành thạo. |
This solitariness has to be faced and understood, and it results in two realisations: first of all, a realisation of your exact point on the ladder of evolution, or on the Path; and secondly, an intuitive perception of the point in evolution of those we contact along the way of life. For quite a long time every disciple refuses to do either of these two things. A false humility, which in reality borders on a lack of truthfulness, [763] keeps him from clear-eyed recognition of status—a recognition which necessarily involves more intelligence and sounds out no call to pride. Few too dare trust themselves to see their fellowmen as they really are, for fear of a critical spirit—so hard it is to develop the true practice of loving understanding which leads to the seeing of all people in truth, with their faults and their virtues, their pettiness and their grandeurs, and still to love them as before and even more. |
Sự đơn độc này phải được đối mặt và hiểu rõ, và nó dẫn đến hai nhận thức: trước hết, nhận thức về điểm chính xác của em trên nấc thang tiến hóa, hay trên Thánh đạo; và thứ hai, một nhận thức trực giác về điểm tiến hóa của những người chúng ta tiếp xúc trên đường đời. Trong một thời gian khá dài, mọi đệ tử đều từ chối làm một trong hai điều này. Một sự khiêm tốn giả tạo, mà trên thực tế gần như sự thiếu trung thực, [763] khiến anh ta không thể nhìn nhận rõ ràng địa vị của mình—một sự thừa nhận nhất thiết liên quan đến trí thông minh hơn và không có vẻ gì là kiêu ngạo. Rất ít người dám tự tin nhìn nhận đồng loại đúng như con người thật của họ, vì sợ tinh thần chỉ trích—thật khó để phát triển thực hành hiểu biết yêu thương chân chính, điều dẫn đến việc nhìn thấy tất cả mọi người trong sự thật, với lỗi lầm và đức tính của họ, sự nhỏ nhen và vĩ đại của họ, thế nhưng vẫn yêu họ như trước đây và thậm chí còn hơn thế nữa. |
This occult solitariness must be consciously developed by you, and not left to circumstances. It is a solitariness which rests on soul attainment and upon no spirit of separateness; it is a solitariness which boasts of many friends and many interruptions, but of these many, few—if any—are admitted to the point of sacred peace; it is a solitariness that shuts none out, but which withholds the secrets of the Ashram from those who seek to penetrate. It is, finally, a solitariness which opens wide the door into the Ashram. |
Sự đơn độc huyền bí này phải được em phát triển một cách có ý thức, và không được phó mặc cho hoàn cảnh. Đó là một sự đơn độc dựa trên sự thành đạt của linh hồn và không có tinh thần chia rẽ; đó là một sự đơn độc tự hào về nhiều bạn bè và nhiều sự gián đoạn, nhưng trong số này, rất ít—nếu có—được thừa nhận đến điểm bình yên thiêng liêng; đó là sự đơn độc không ngăn cản ai, nhưng giữ lại những bí mật của Ashram đối với những ai muốn thâm nhập. Cuối cùng, chính sự đơn độc mở rộng cánh cửa vào Ashram. |
This is the factor you need the most to cultivate at this time. It will necessitate a conscious and definite withdrawal of yourself, and at the same time will lead to a still warmer expression of love upon the outer plane of life. |
Đây là yếu tố em cần trau dồi nhất vào lúc này. Nó sẽ đòi hỏi em phải rút lui một cách có ý thức và rõ ràng, đồng thời sẽ dẫn đến một biểu hiện yêu thương còn nồng nhiệt hơn ở cõi bên ngoài của cuộc sống. |
The closing of this outer group may enable you the more easily to do this, and may deepen your inner life immeasurably. Welcome, therefore, this opportunity. As regards the outer group, I would ask you to keep in close touch, however, through correspondence, with J.S.P.; she is a group brother who sorely needs your strength and knowledge. She has suffered far more than any of you and sorely needs lifting into a sense of security and peace. I commend her to you, and she will be good for you as you for her. |
Việc kết thúc nhóm bên ngoài này có thể giúp em thực hiện điều này dễ dàng hơn và có thể đào sâu đời sống nội tâm của em một cách vô cùng. Do đó, hãy chào mừng cơ hội này. Tuy nhiên, đối với nhóm bên ngoài, tôi yêu cầu em giữ liên lạc chặt chẽ, thông qua thư từ, với JSP; em [cô] ấy là một huynh đệ cùng nhóm rất cần sức mạnh và kiến thức của em. Cô ấy đã phải chịu đựng nhiều hơn bất kỳ ai trong số các em và rất cần được nâng đỡ để có được cảm giác an toàn và bình yên. Tôi khen ngợi em ấy với em, và em ấy sẽ tốt cho em như em cho em ấy. |
As for your meditation work, my brother, I would have you adhere to the Full Moon procedure outlined earlier by me, and I would ask you to keep this practice up for the remainder of your life. I would have you add to this monthly work a daily practice, founded upon the theme of a chosen solitariness. Note the word “chosen.” It is wiser to cultivate the quality of spiritual solitude than to have it forced upon you—as so often happens to so many. I will suggest only the themes for your meditation, leaving you to work out the form[764] or procedure to suit yourself, or to do without any form if it seems better to you. |
Đối với công việc tham thiền của em, huynh đệ của tôi, tôi muốn em tuân thủ quy trình Trăng tròn mà tôi đã vạch ra trước đó, và tôi sẽ yêu cầu em duy trì thực hành này cho đến cuối đời. Tôi muốn em thêm vào công việc hàng tháng này một thói quen hàng ngày, được thành lập dựa trên chủ đề về sự đơn độc được chọn. Lưu ý từ “được chọn”. Sẽ khôn ngoan hơn nếu trau dồi phẩm chất của sự cô độc tinh thần hơn là để nó bắt buộc em—điều thường xảy ra với rất nhiều người. Tôi sẽ chỉ gợi ý các chủ đề cho việc tham thiền của em, để em tự tìm ra hình thức [764] hoặc quy trình phù hợp với bản thân, hoặc thực hiện mà không cần bất kỳ hình thức nào nếu em thấy tốt hơn. |
Themes For Meditation. One for each month, to be reviewed year by year. |
Chủ Đề Cho Tham thiền. Một cho mỗi Tháng, sẽ được xem xét hàng năm. |
1. The nature of solitude. |
1. Bản chất của sự cô tịch— The nature of solitude. |
2. The difference between solitude, loneliness, separateness and isolation. I would refer you to Patanjali [xxi]* who speaks of “isolated unity.” |
2. Sự khác nhau giữa đơn độc, lẻ loi, chia rẻ và cô lập. Tôi muốn giới thiệu em về Patanjali [xxi] * người nói về “sự thống nhất biệt lập”— The difference between solitude, loneliness, separateness and isolation. I would refer you to Patanjali [xxi]* who speaks of “isolated unity.” |
3. Solitude and the daily life. |
3. Cô đơn và cuộc sống hàng ngày— Solitude and the daily life. |
4. Solitude and the soul. |
4. Cô đơn và linh hồn. |
5. Solitude as a quality of the interior life of an Ashram. |
5. Cô tịch như một phẩm chất của đời sống nội tâm của một Ashram— Solitude as a quality of the interior life of an Ashram. |
6. The solitude of spiritual perception. |
6. Sự cô đơn của nhận thức tâm linh— The solitude of spiritual perception |
7. The solitude necessitated by the service of the Plan. |
7. Sự cô tịch cần thiết để phụng sự Thiên Cơ. |
8. Cô tịch như hậu trường của một cuộc đời rực rỡ— Solitude as the background of a radiant life |
|
9. Solitude and contact with the Master. |
9. Cô tịch và sự tiếp xúc với Chơn sư— Solitude and contact with the Master.. |
10. The rewards of solitude. |
10. Phần thưởng của sự cô tịch. |
11. The voices heard in the silence of solitude. |
11. Những tiếng nói được nghe thấy trong im lặng của cô đơn— The voices heard in the silence of solitude. |
12. The silence of the Spheres. |
12. Sự im lặng của các Tinh cầu— The silence of the Spheres. |
In this solitude there is no morbidness, there is no harsh withdrawing, and there is no aspect of separateness. There is only the “place where the disciple stands, detached and unafraid, and in that place of utter quiet the Master comes and solitude is not.” [767] |
Trong sự cô độc này không có bệnh tật, không có sự rút lui khắc nghiệt, và không có khía cạnh của sự chia rẻ. Chỉ có “nơi mà người đệ tử đứng, vô tư và không sợ hãi, và ở nơi hoàn toàn yên tĩnh đó, Chân sư đến và cô tịch không có.” |