To D. P. R. **
Edna Kruse (DPR.) DNA vol. 1. p.382: vol. 2. p. 642.
Quality Name: Detachment (386), Peace, Relaxation. Rays: I-V, 423. Country. USA. Sun Sign: Pisces. Rising Sign: Taurus. Birth: March 15, 1872.
Công thức phát triển: Tách rời, Bình An, Thư Giãn.
Cấu trúc cung: I-V 423
Dấu hiệu mặt trời: Song Ngư, dấu hiệu mọc: Kim Ngưu. Sinh ngày 15-3-1872
Đây là hai trích đoạn Chân sư nói về ông:
Có giá trị để lưu ý một điểm đáng quan trọng nhất: Tất cả những người đã đi qua cửa tử đều có mối quan hệ [Trang 93] chắc chắn gần gũi hơn; họ đã giành được phần thưởng này và đã tận dụng những gì tôi đã dạy họ. Như các em đã biết, họ là C.D.P., K.E.S., D.P.R. Hai em khác ngày nay đang nhanh chóng thích nghi để theo ba đệ tử này vào Ashram. Họ là: B.S.W., người đã tạm thời chệch bước trong vài năm trước khi qua đời, và G.S.S., người mà các thể phàm ngã không thể tiếp nhận sự kích thích đã đến với cô ấy thông qua nhóm. Sự nhạy cảm với kích thích quá mức này là một vấn đề dễ dàng được khắc phục ngay bây giờ; nó không phải là một lỗi lầm, mà chỉ là một món nợ nghiệp quả. DINAI 93
Do đó, tôi đã chọn tham gia vào công việc này một số người chí nguyện có xu hướng bị khuất phục bởi ảo cảm, mặc dù hai trong số họ ít có khuynh hướng đó hơn những người khác. Sự tự do tương đối của họ đối với nó là một trong những lý do tại sao tôi chọn họ. Hai người này là D.L.R. và D.P.R. Hãy để hai người này giữ cuộc sống của họ không có bất kỳ xu hướng ảo cảm nào nếu họ phục vụ huynh đệ của họ đúng cách như tôi mong muốn. Tôi sẽ đưa ra chỉ dẫn về xu hướng của họ theo hướng đó trong hướng dẫn cá nhân của họ. Các thành viên khác trong nhóm nhanh chóng có xu hướng bị ảo cảm, điều này khiến họ đau buồn. Tuy nhiên, nó có thể nhanh chóng biến thành một tài sản. Làm sao ảo cảm thế gian có thể bị tan biến nếu không có những người nhận ra nó đúng như bản chất của nó và những người đã vật lộn với nó trong cuộc sống hàng ngày của họ? GAW 98
Về chủ âm Tách rời (detachment), có lẽ do dấu hiệu mặt trời Song Ngư nên ông dễ dính mắc với những người ông giúp đỡ, và đó chủ âm chính của ông trong kiếp sống này. Chân sư nói như sau:
Những điều đó dành cho em nhưng là các tác dụng phụ. Bài học dự định của em là Sự tách rời, và khi em giải phóng bản thân khỏi xiềng xích bám chấp vào nơi chốn hoặc con người, nhận thức trực giác của em sẽ được giải phóng, và em sẽ thấy bằng thực tại chứ không phải bằng hình tướng—bất kể cao hay tinh khiết thế nào
Đừng quên yêu thương với sự tách rời. Đó là bài học chính của em, em thân mến, và em chỉ hiểu được tầm quan trọng thực sự của nó khi phần dài hơn của cuộc đời đã qua đi. Những mối ràng buộc thông qua sự bám chấp trong nhiều năm giữ vững, và trên cõi trần, chúng không được, không thể bị cắt đứt, nhưng luôn luôn trong em chúng cũng phải bị cắt đứt hoàn toàn. Điều này có thể được thực hiện trước khi giai đoạn cuộc đời này kết thúc, do đó em được tự do trong chu kỳ đời sống tiếp theo để phụng sự, một sự phụng sự sẽ được thực hiện với sự chú tâm không bị chia tách.
Phụng sự nhưng không dính mắc, phụng sự nhưng hãy để người được giúp đỡ học được bài học cần thiết của họ, chứ không phải bao biện làm mọi thứ cho họ:
Đừng nâng quá nhiều, huynh đệ của tôi. Linh hồn của họ có quyền học những bài học giống như em đã phải học, và một trái tim quá thương hại không phải lúc nào cũng là thứ hữu ích nhất trong số các tài sản. Một trái tim yêu thương luôn hữu ích. Em đã học được nhiều điều trong kiếp trước của mình theo con đường này, và đã học được một cách thỏa đáng. Đừng lấy đi của người khác quyền được đứng một mình bằng cách thể hiện tình yêu thương che chở quá vĩ đại mà thể cảm dục mạnh mẽ của em có thể thể hiện một cách dễ dàng và vô vị lợi như vậy. Hãy để họ đứng vững trước những vấn đề của linh hồn, được mang đến cho họ thông qua phương tiện là [405] bài học vật chất, và nhờ đó giúp họ bước vào kiếp sống tiếp theo, được trang bị tốt hơn để yêu thương, làm việc và sống một cách vị tha.
Chủ âm cuối cùng của ông, là thư giãn, vì ông có sự tinh thần làm việc lao về phía trước của cung 1, và một điều nữa là tuổi ông khá cao (ông sinh năm 1872, vào thời điểm Chân sư bắt đầu viết thư cho ông là năm 1933, ông đã 61 tuổi, và ông mất năm 1947, khi ông được 75 tuổi). Với một người bình thường, mỗi kiếp sống có một “mốc cao” của sự phát triển, và từ mà Ngài thường dùng ở đây trong thư cho các đệ tử là “high water mark” để chỉ mốc phát triển cao nhất của một kiếp sống, và từ này liên quan đến mực nước lên xuống tại một vùng đất cụ thế theo năm tháng, nhưng mốc nước lên cao nhất được gọi là “high water mark”. Khi con người đạt đến mốc đó, sự phát triển ngừng lại, và tuổi mà điều này xảy ra, như Chân sư DK nói, biến thiên từ 55 tuổi đến 70. Sau đó, con người tĩnh tại, sự phát triển dừng lại, và “rơi xuống dưới mốc nước này”. Nhưng ông là một ngoại lệ, Ngài nói, ông vẫn có thể phát triển nếu ông muốn, có lẽ do ông là một linh hồn cung 1, mạnh mẽ, có ý chí:
Đầu tiên, trong mỗi kiếp sống, con người đều đạt đến cái mà tôi có thể gọi là một mốc cao thành tựu nhất định, và tuổi đạt được điều này thay đổi gần như vô tận. Khi đạt đến nó, lúc đó sẽ có một khuynh hướng ổn định hướng tới sự kết tinh, hướng tới việc thừa nhận hình tư tưởng của đời sống (đây là tổng thể của tất cả các ý tưởng được hình thành đã chi phối sự tiến bộ) và con người dần trượt xuống dưới sự thống trị của hình tư tưởng đó. Điều này cản trở sự tiến bộ hơn nữa. Khi đạt đến mực nước cao sau độ tuổi 55-70, khó khăn sẽ tăng lên nhiều do sự trì trệ thể chất hoàn toàn bình thường. Phần lớn cuộc sống vào thời điểm đó bận tâm với các quá trình duy trì tình trạng thể chất sao cho có thể hoàn thành các nhiệm vụ cần thiết của một cuộc sống đầy đủ. Em đã đạt đến mốc nước cao này theo nghĩa thông thường và theo quy luật phát triển bình thường. Đối với em, nó có thể tạo thành chính xác như nó là, và em không cần phải cảm thấy xấu hổ về thành tích của mình vì nó đã tốt. Mục đích cuộc sống của em đã được định hướng đúng đắn và kiếp sau em sẽ gặt hái thành quả của sự kỷ luật cả đời mình.
Nhưng đối với em, với tư cách là một linh hồn và là một đệ tử đang được huấn luyện, không cần phải kìm hãm quá trình phát triển. Mốc nước cao nhất trong vòng đời của em (theo nghĩa rộng lớn hơn) sẽ chưa đạt được trong nhiều kiếp, và như thế em không cần phải có khoảng lặng xen kẽ, và không cần biểu hiện tình trạng tĩnh tại. Em có thể đi từ điểm này sang điểm khác trên Con đường, cả bây giờ và sau này. Quyết định và nỗ lực phải đến từ em, em thân mến, và nó hoàn toàn nằm trong tay em [388]. Hãy tiến bước trên Con Đường với toàn bộ sức sống linh hồn của em, đó là đời sống của một người chí nguyện trưởng thành và có kinh nghiệm. Sức mạnh của linh hồn cung một của em có thể khích lệ phàm ngã tiếp tục hành động và khát vọng, tiếp tục kiểm soát trí tuệ; do đó, đối với em, không cần ngừng hoạt động và không quay trở lại trì trệ cho đến khi hoạt động cuối cùng của quá trình chuyển tiếp thu hút sự chú ý kép của linh hồn và phàm ngã của em, và sự tách rời cuối cùng diễn ra. Nhưng để vượt qua mốc nước cao bình thường, cần phải áp đặt áp lực nội tại vốn từ chối để cơ thể và thể trí mệt mỏi quay trở lại quá khứ. Cần có sự khuyến khích của một ý chí tập trung phát huy năng lượng năng động của nó thông qua phàm ngã tam phân; cần phải có một thể trí phân biện, được thanh lọc (vì lợi ích của linh hồn) sẽ tách biệt điều thiết yếu khỏi điều không thiết yếu, và do đó cho phép em làm phong phú thêm công việc của mình thông qua việc loại bỏ một cách khôn ngoan những yếu tố tạo ra sự tiêu hao năng lượng và sức lực của em một cách vô ích, và việc sử dụng thời gian của em cho những kết quả không đáng kể.
Sự Hiện Diện
Chúng ta cũng thấy Ngài bắt đầu huấn luyện DPR về Kỹ Thuật của Đấng Hiện Diện, bài thiền về Sự Hiện Diện, do đó chúng ta có thể suy đoán trình độ phát triển của DPR phần nào, nằm giữa lần điểm đạo thứ 2 và 3. Ngoài ra, cách xưng hô “Brother of Old”, cũng giống như các đệ tử DLR, có lẽ củng cố thêm nhận định này.
Trong đoạn nói về Sự Hiện Diện, các bạn lưu ý Ngài dùng từ “the seer”, “người thấy, kiến giả” chỉ người theo con đường thần bí, con đường “nhãn pháp”, và “knower”, “thức giả, người biết”, người theo con đường huyền linh học, huyền bí gia, con đường “tâm pháp”.
Tôi nghĩ, đoạn Chân sư giải thích cho DPR thế nào “Sự Hiện Diện” rất đáng cho chúng ta nghiền ngẫm và ghi nhớ:
Nhà thần bí luôn nhận thức được tính hai mặt; của con người thấp kém và linh hồn nội tại; của người đệ tử mệt mỏi và Thiên thần; của tiểu ngã và chân ngã; của biểu hiện đời sống con người và biểu hiện đời sống tinh thần. Nhiều phẩm chất khác đại diện cho cùng một biểu hiện của thực tại. Tuy nhiên, đằng sau tất cả chúng đều hiện ra lờ mờ—nội tại, kỳ diệu và vinh quang—cái mà những tính nhị nguyên này chỉ là những khía cạnh: Sự Hiện diện, nội tại nhưng siêu việt, của Thượng đế. Trong bản chất của Đấng Duy Nhất này, mọi nhị nguyên đều được hấp thụ và mọi sự phân biệt và khác biệt đều mất đi ý nghĩa của chúng.
Khi em được yêu cầu phát triển tâm thức về Sự Hiện diện, trước hết, điều đó cho thấy rằng vào thời điểm này, em đã phần nào nhận thức được Thiên thần và bây giờ có thể bắt đầu phản ứng, lờ mờ và yếu ớt, với Tổng thể vĩ đại nằm đằng sau thế giới chủ quan của sự tồn tại, vì thế giới đó nằm sau thế giới vật chất, hữu hình của cuộc sống hàng ngày.
Cách Ngài dạy DPR thực hiện sự phụng sự bằng những việc gần gũi nhất, trong môi trường thân cận nhất, đáng cho đệ tử chúng ta học hỏi:
Hãy tập hợp xung quanh em một lần nữa những người đang tìm kiếm Con đường được thắp sáng như vậy và học cách trao cho họ minh triết của em và chia sẻ với họ những gì em sở hữu. Đây là nhiệm vụ của em trong những tháng tới. Điều này sẽ không dễ dàng cho em nhưng sẽ thúc đẩy quá trình tách rời. Hãy bắt đầu với những người em có trong tay và những người biết và yêu mến em và cùng nhau mở hé cánh cửa để những người tìm kiếm có thể tìm thấy con đường của họ và thông qua sự phụng sự của em, họ có thể tìm được đường đến với chúng tôi.
Joy—Niềm Vui:
Ngài cũng khuyên DPR trau dồi Joy (Niềm vui), và đặt ra 30 câu hỏi để DPR suy ngẫm và trả lời về Niềm Vui, theo cách Ngài sử dụng từ này:
Làm thế nào để định nghĩa từ niềm vui?
Tôi có bị niềm vui chi phối không, và nó có chi phối cả ngày của tôi không?
…
Và sự phân biệt happy (vui vẻ), joy, và bliss là như thế nào (theo cách Ngài sử dụng)
Nếu chúng ta ở vị trí của DPR, để trả lời 30 câu hỏi là khá vất vả, phải suy ngẫm, phản tỉnh, và tìm trong các sách Ngài viết. Trong quyển DINAI trang 227, Ngài định nghĩa rõ ràng về ba từ này như sau:
Will you remember, what I have elsewhere pointed out, that:
1. Happiness is the goal of personality desire and its most desired sentient reaction.
2. Joy is the quality of soul life and that quality can be imposed upon the personality, thereby superseding happiness and imparting the gift of truth. [Page 558]
3. Bliss is the nature of the spiritual Being and is, in its turn and in due time, imposed upon the rhythm of the soul. It is the gift of synthesis. DINAI, 557
Bạn có nhớ những gì tôi đã chỉ ra ở nơi khác, rằng:
1. Hạnh phúc là mục tiêu mong muốn của phàm ngã và phản ứng tình cảm được mong muốn nhất của nó.
2. Niềm vui là phẩm chất của đời sống linh hồn và phẩm chất đó có thể được áp đặt lên phàm ngã, do đó thay thế cho hạnh phúc và truyền đạt món quà chân lý. [Trang 558]
3. Chí phúc là bản chất của Thực thể tinh thần, và đến lượt nó và vào thời điểm thích hợp, được áp đặt lên nhịp điệu của linh hồn. Đó là món quà của sự tổng hợp.
Về Hào quang
Trong quyển Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới trang 34-35, Chân sư có yêu cầu các đệ tử trong nhóm tập hợp tất cả những gì Ngài nói về hào quang (aura) và trả lời các câu hỏi của Ngài về hào quang:
Tôi muốn đền nghị các em nên tìm hiểu tất cả những gì mà các em có thể, liên quan đến chủ đề bị hiểu lầm nhiều là về hào quang: tìm kiếm những gì được nói trong sách của tôi và trong các bài viết hiện có trong bất kỳ thư viện huyền linh tốt nào. Tôi không muốn các em tìm cách sao chép các đoạn văn, mà hãy tìm cách trình bày kiến thức của các em để các em [Trang 35] có thể trả lời rõ ràng các câu hỏi có thể được đặt ra. Ba câu hỏi sau đây là cơ bản:
1. Hào quang là gì và nó hình thành như thế nào ?
2. Làm thế nào hào quang có thể trở thành môi trường của ánh sáng, và ánh sáng chiếu qua nó có thể được tăng cường như thế nào?
3. Các em có nhận thấy hiệu ứng mà hào quang cá nhân của các em đang tạo ra đối với môi trường của các em là gì không, và các em có thể cải thiện hiệu ứng đó như thế nào?
Điều này sẽ cho phép các em đem áp dụng một cách thực tiễn những gì mà tôi tìm cách giảng dạy cho các em. Đừng quên rằng khi các em nhìn ra thế giới và môi trường trực tiếp quanh các em, là các em nhìn xuyên qua hào quang của mình, và do đó phải đối phó với ảo cảm và ảo tưởng.
Và ở đây, trong thư của Chân sư DK, Ngài có giải thích cho DPR về hào quang, và tác động tế vi của nó với môi trường xung quanh, mà các đệ tử như DPR có thể dùng để phụng sự:
Tính hữu ích chính của em bao gồm sức mạnh của hào quang của em—trường từ tính của sự sống bao quanh mọi người ở mọi phía, và trong trường hợp của em là ở mức độ khác thường. Người ta biết rất ít về hào quang. Tôi định nghĩa nó đơn giản là tổng của các mãnh lực thu hút dẫn trong lĩnh vực hoạt động của cá nhân. Chính nhờ hào quang mà một hiệu ứng cá nhân được cảm nhận được trong môi trường xung quanh của một người. Do đó, thông điệp của tôi gửi đến em là hãy sử dụng ảnh hưởng hào quang của em một cách thông minh hơn, để trở nên hiệu quả hơn về mặt tinh thần và ít hấp dẫn cá nhân hơn. Tôi nói bằng các biểu tượng và yêu cầu sự hiểu biết. Hãy suy ngẫm về điều này, em thân mến, vì lĩnh vực hữu ích của em sẽ phát triển khi em tách mình ra khỏi các hình tướng, bất kể nhịp điệu mà chúng nắm giữ em có thân thương hay cổ xưa đến đâu. Thay vào đó, hãy hướng ra bên ngoài để nỗ lực giúp đỡ đồng bào của em. Giúp đỡ mọi người bằng cách sử dụng con người của em, thứ phải thể hiện chính nó thông qua phương tiện là hào quang. [387]
Tóm lại, DPR là một đệ tử lớn, đã thành công trong kiếp sống này, như những lời tổng kết của Ngài trong lá thư cuối cùng:
Chính vì em mà tôi nói với em điều này, vì những đau khổ mà em phải chịu đựng một cách không ích kỷ, đã mang lại cho em quyền được công nhận. [656] Con đường được thắp sáng trải dài phía trước với độ sáng còn lớn hơn, và em có thể bước vào ánh sáng với sự tự tin và chắc chắn.
Đây là tổng số từ ngắn gọn của tôi hôm nay dành cho em; tôi biết, nó sẽ đủ. Hãy hiểu chính xác những gì tôi đã nói và ý nghĩa chính xác của từng từ, và biết rằng tôi, Chân sư của em và người bạn nhiều kiếp của em, hài lòng.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Edna Kruse (DPR.) DNA vol. 1. p.382: vol. 2. p. 642.
Quality Name: Detachment (386), Peace, Relaxation. Rays: I-V, 423. Country. USA. Sun Sign: Pisces. Rising Sign: Taurus. Birth: March 15, 1872.
It is valuable to note a most significant point of interest: All those who passed through the gates of death passed to a [Page 93] definitely closer relationship; they had earned this reward and have availed themselves of that which I had taught them. They are, as you know, C.D.P., K.E.S., D.P.R. Two others are today rapidly fitting themselves to follow these three disciples into the Ashram. They are: B.S.W., who was temporarily side-tracked for a few years prior to his death, and G.S.S., whose personality vehicles could not carry the stimulation which reached her via the group. This sensitivity to undue stimulation is a matter easily rectified now; it does not constitute a fault, but only a karmic liability. DINAI 93
Có giá trị để lưu ý là một điểm đáng lưu ý quan trọng nhất: Tất cả những người đã đi qua cửa tử đều có mối quan hệ [Trang 93] chắc chắn gần gũi hơn; họ đã giành được phần thưởng này và đã tận dụng những gì tôi đã dạy họ. Như các em đã biết, họ là C.D.P., K.E.S., D.P.R. Hai em khác ngày nay đang nhanh chóng thích nghi để theo ba đệ tử này vào Ashram. Họ là: B.S.W., người đã tạm thời lệch bước trong vài năm trước khi qua đời, và G.S.S., người mà các thể phàm ngã không thể tiếp nhận sự kích thích đã đến với cô ấy thông qua nhóm. Sự nhạy cảm với kích thích quá mức này là một vấn đề dễ dàng được khắc phục ngay bây giờ; nó không phải là một lỗi lầm, mà chỉ là một món nở nghiệp quả. DINAI 93
I have, therefore, chosen for participation in this work several aspirants whose tendency is to succumb to glamour, though two of them are less prone to it than are the others. Their relative freedom from it was one of the reasons why I chose them. These two are D.L.R. and D.P.R. Let these two keep their lives free from any tendency to glamour if they are rightly to serve their brothers as desired by me. I will give indication of their tendency in that direction in their personal instructions. The other group members are quickly prone to glamour, but this is a grief to them. It can, however, be as quickly turned into an asset. How can the world glamour be dissipated except by those who recognise it for what it is and who have wrestled with it in their daily lives? GAW 98
Do đó, tôi đã chọn tham gia vào công việc này một số người chí nguyện có xu hướng bị khuất phục bởi ảo cảm, mặc dù hai trong số họ ít có khuynh hướng đó hơn những người khác. Sự tự do tương đối của họ đối với nó là một trong những lý do tại sao tôi chọn họ. Hai người này là D.L.R. và D.P.R. Hãy để hai người này giữ cuộc sống của họ không có bất kỳ xu hướng ảo cảm nào nếu họ có quyền phục vụ huynh đệ của họ như tôi mong muốn. Tôi sẽ đưa ra dấu hiệu về xu hướng của họ theo hướng đó trong hướng dẫn cá nhân của họ. Các thành viên khác trong nhóm nhanh chóng có xu hướng bị ảo cảm, nhưng điều này khiến họ đau buồn. Tuy nhiên, nó có thể nhanh chóng biến thành một tài sản. Làm sao ảo cảm thế gian có thể bị tan biến nếu không có những người nhận ra nó đúng như bản chất của nó và những người đã vật lộn với nó trong cuộc sống hàng ngày của họ? GAW 98
Quyển I
January 1933—Tháng 1 năm 1933
BROTHER OF MINE: |
EM THÂN MẾN: |
For years you have been working with steadfastness and with a certain amount of ebb and flow. When an aspirant for discipleship has worked with persistency for years, his life tendency becomes oriented towards the light and this becomes a steady and fixed habit. This fact should prove a solace in [383] moments of discouragement that all aspirants at times experience. |
Trong nhiều năm, em đã làm việc với sự kiên định và với một sự trồi sụt nhất định. Khi một người có chí nguyện trở thành đệ tử đã kiên trì làm việc trong nhiều năm, khuynh hướng sống của y sẽ hướng về ánh sáng và điều này trở thành một thói quen ổn định và cố định. Thực tế này sẽ chứng tỏ là một niềm an ủi trong [383] những khoảnh khắc nản lòng mà tất cả những người chí nguyện đôi khi đều trải qua. |
It is because of this steadfastness that it now becomes possible to train your intuition so that when again your path is trodden in a return incarnation, your earthly life will start with that aligned attitude which will permit of early illumination. |
Chính vì sự kiên định này mà giờ đây em có thể rèn luyện trực giác của mình để khi một lần nữa em bước chân vào con đường của em trong một kiếp tái sinh, cuộc sống trần thế của em sẽ bắt đầu với thái độ phù hợp đó sẽ cho phép em được soi sáng sớm. |
You are experienced in the Way and even though your physical body is no longer young, the remainder of your life expression holds much for you, if the coming years are taken joyously and with high expectancy. |
Em đã có kinh nghiệm trong Đường Đạo và mặc dù cơ thể vật lý của em không còn trẻ nữa, nhưng biểu hiện còn lại của cuộc đời em sẽ có nhiều ý nghĩa đối với em, nếu những năm sắp tới được đón nhận một cách vui vẻ và với nhiều kỳ vọng. |
You have sought with diligence to follow my directions and I think you realise that much has been achieved. You have a greater clarity of insight (a thing you needed) and a freer and more rapid detachment. Much remains, however, to be done (and this again you know). Follow the instructions given to you earlier, but when you retire to your room at the stated intervals to carry forward your ten minutes’ relaxation and thoughts on life and love, begin with the following exercise…. |
Em đã siêng năng tìm cách làm theo chỉ dẫn của tôi và tôi nghĩ em nhận ra rằng em đã đạt được nhiều điều. Em có cái nhìn sâu sắc rõ ràng hơn (điều em cần) và một sự tách rời tự do hơn và nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm (và điều này một lần nữa em biết). Thực hiện theo các hướng dẫn được cung cấp cho em trước đó, nhưng khi em lui về phòng theo những khoảng thời gian đã định để tiếp tục mười phút thư giãn và suy nghĩ về cuộc sống và tình yêu thương, hãy bắt đầu với bài tập sau đây…. |
July 1933—Tháng 7 năm 1933
BROTHER OF MINE: |
EM THÂN MẾN: |
Forget not to love with detachment. That is your main lesson, my brother, and you have only grasped its true importance when the lengthier part of life has gone. The ties through attachment over many years hold firm and on the physical plane they must not, may not, be severed but ever within yourself they must be completely snapped. This can be done before this life episode closes, leaving you thus free in your next life cycle for service, a service to be rendered with undivided attention. This breaking can be done almost instantaneously if your first ray soul power is brought into play, or it can be accomplished more slowly if you work through the medium of your fifth ray personality force. Ponder on this. |
Đừng quên yêu thương với sự tách rời. Đó là bài học chính của em, em thân mến, và em chỉ hiểu được tầm quan trọng thực sự của nó khi phần dài hơn của cuộc đời đã qua đi. Những mối ràng buộc thông qua sự bám chấp trong nhiều năm giữ vững, và trên cõi trần, chúng không được, không thể bị cắt đứt, nhưng luôn luôn trong em chúng cũng phải bị cắt đứt hoàn toàn. Điều này có thể được thực hiện trước khi giai đoạn cuộc đời này kết thúc, do đó em được tự do trong chu kỳ đời sống tiếp theo để phụng sự, một sự phụng sự sẽ được thực hiện với sự chú tâm không bị chia tách. Việc phá vỡ này có thể được thực hiện gần như ngay lập tức nếu sức mạnh linh hồn cung một của em được phát huy tác dụng, hoặc nó có thể được hoàn thành chậm hơn nếu em làm việc thông qua mãnh lực phàm ngã cung năm của mình. Hãy suy ngẫm về điều này. |
As an exercise of needed discipline, I would suggest that three times a day—morning, high noon and evening—you sit quiet for ten minutes. Relax physically; permit no emotional distraction; refuse the entry of thought or feeling. Ponder then [384] on the idea of Life and Love as they exist apart from form. Keep the consciousness centred as high in the head as is possible. |
Để rèn luyện tính kỷ luật cần thiết, tôi đề nghị mỗi ngày ba lần—sáng, trưa và tối—em ngồi yên lặng trong mười phút. Thư giãn thể chất; không cho phép phân tán cảm xúc; từ chối sự xâm nhập của suy nghĩ hoặc cảm giác. Sau đó, hãy suy ngẫm [384] về ý tưởng về Sự sống và Tình yêu thương khi chúng tồn tại ngoài hình tướng. Giữ ý thức tập trung càng cao trên đầu càng tốt. |
See the significance of all events and look upon them as symbolic indications of spiritual, mental, or emotional causes. Your life is so full of detail and of duty that the soul is oft irked thereby. Give it time to prove itself. It is not the length of time that is given to the right accomplishment of these duties that counts but the poise you bring to them, the energy you evoke in their fulfilment and the intensity of your mental application. |
Xem ý nghĩa của tất cả các sự kiện và coi chúng như những dấu hiệu mang tính biểu tượng của các nguyên nhân tinh thần, trí tuệ hoặc cảm xúc. Cuộc sống của em đầy rẫy những chi tiết và nhiệm vụ đến nỗi linh hồn thường khó chịu. Hãy cho nó thời gian để chứng minh bản thân. Điều quan trọng không phải là khoảng thời gian dành cho việc hoàn thành đúng những nhiệm vụ này, mà là sự thăng bằng mà em mang lại cho chúng, năng lượng em gợi lên trong quá trình hoàn thành chúng và cường độ áp dụng trí tuệ của em. |
Let us, my brother, go forward on the Way. Let us together serve. |
Em thân mến, chúng ta hãy tiến bước trên Đường Đạo. Chúng ta hãy cùng nhau phụng sự. |
January 1934—Tháng giêng năm 1934
BROTHER OF OLD: |
HUYNH ĐỆ CỦA NGÀY XƯA: |
Like other disciples and like all true aspirants, you have had much to discipline you lately, and many opportunities have been offered to you wherein you may demonstrate endurance. The particular group test has touched you not. It did not and would not constitute for you a test, but your test has been the holding of the attitude of steadfast endeavour in the face of circumstance, and of demonstrating not only endurance but loving detachment and joy. What happens to the personality is, in the last analysis, of small moment. The attitude assumed towards all happenings and the methods employed in handling them is that which is of moment. Skill in action is always needed, my brother, and for you in this life it must ever be the demonstration of skill in emotional reaction, and not so much the expression of efficient dealing upon the physical plane. The achievement of physical efficiency is not for you a problem. The achievement of emotional detachment and consequent right use of subjective force is still a problem to you. |
Giống như các đệ tử khác và giống như tất cả những người chí nguyện chân chính, gần đây em phải chịu nhiều kỷ luật, và nhiều cơ hội đã được trao cho em để em có thể chứng tỏ sự bền bỉ. Bài kiểm tra nhóm cụ thể đã không chạm vào em. Nó không phải, và sẽ không phải, là một bài kiểm tra đối với em, nhưng bài kiểm tra của em là giữ vững thái độ kiên định nỗ lực khi đối mặt với hoàn cảnh, và thể hiện không chỉ sự chịu đựng mà còn cả sự tách rời yêu thương và niềm vui. Trong phân tích cuối cùng, những gì xảy ra với phàm ngã chỉ là một khoảnh khắc nhỏ. Thái độ đối với mọi sự việc xảy ra và các phương pháp được sử dụng để xử lý chúng mới là quan trọng. Kỹ năng hành động luôn luôn cần thiết, em thân mến, và đối với em trong kiếp sống này, đó luôn phải là sự thể hiện kỹ năng trong phản ứng cảm xúc chứ không phải là biểu hiện của cách xử lý hiệu quả trên cõi trần. Việc đạt được hiệu quả thể chất không phải là vấn đề đối với em. Việc đạt được sự tách rời cảm xúc và do đó sử dụng đúng mãnh lực bên trong vẫn là một vấn đề đối với em. |
There is no hurry or rush, my brother. Progress is being made and you will know the joy of eventual liberation from this limitation. One day at a time, perfectly lived, with each hour beautifully rounded out, is your sole responsibility. |
Không có gì phải vội vàng hay hối hả, em thân mến. Tiến bộ đang được thực hiện và em sẽ biết được niềm vui cuối cùng được giải thoát khỏi hạn chế này. Từng ngày một, sống hoàn hảo, với mỗi giờ tròn đầy đẹp đẽ, là trách nhiệm duy nhất của em. |
Look not so much into the future with speculation or with [385] foreboding, nor even with hope, which is but a form of optimistic speculation. Live today as your soul dictates and the future will round out itself in fruitful service. You are stronger than you anticipate and have reserves upon which you can draw. These reserves will not fail you when you call upon them, nor will I, your brother and friend, nor will your group brothers. Forget not this, but relax and rest back on the strength which is in you and which surrounds you. |
Đừng nhìn quá nhiều vào tương lai với suy đoán hay với [385] tiên tri, cũng không với hy vọng, vốn chỉ là một hình thức suy đoán lạc quan. Hãy sống hôm nay theo cách mà linh hồn em ra lệnh và tương lai sẽ tự hoàn thành trong sự phụng sự hiệu quả. Em mạnh mẽ hơn em dự đoán và có nguồn dự trữ mà em có thể rút ra. Những nguồn dự trữ này sẽ không làm em thất vọng khi em kêu gọi đến chúng, và tôi, người bạn và huynh đệ của em, cũng như những huynh đệ trong nhóm của em, cũng thế [cũng không thất vọng]. Đừng quên điều này, nhưng hãy thư giãn và nghỉ ngơi dựa vào sức mạnh trong em và xung quanh em. |
I seek not to change your meditation, except to substitute a different visualisation exercise for the one now being followed. |
Tôi không muốn thay đổi cách tham thiền của em, ngoại trừ việc thay thế một bài tập hình dung khác cho bài tập hiện đang được thực hành. |
a. Visualise yourself as standing to one side of a vast field of closed lotus buds which rest on their broad green leaves. Above you is the blue of heaven and ahead of you—across the field of buds and leaves and on the far horizon—is a golden gate, with the two halves of its door closed. |
a. Hãy tưởng tượng em đang đứng ở một bên của một cánh đồng rộng lớn với những búp sen khép kín nằm trên những chiếc lá xanh rộng của chúng. Phía trên em là màu xanh lơ của bầu trời, và phía trước em—bên kia cánh đồng của các búp và lá và ở phía chân trời xa—là một cánh cổng vàng, với hai nửa cánh cửa đã đóng lại. |
b. Then picture yourself as watching the slow opening of the buds, until little by little, the field changes from green to gold, and all that can be seen is a mass of golden flowers, wide open in the sun. |
b. Sau đó, hãy tưởng tượng em đang quan sát các nụ hoa chậm rãi hé nở, cho đến khi từng chút một, cánh đồng chuyển từ màu xanh lá sang màu vàng kim, và tất cả những gì có thể nhìn thấy là một khối hoa vàng rực, rộng mở dưới ánh mặt trời. |
c. Then imagine yourself, my brother, putting a foot upon the field and finding, instead of the mud and water which had been anticipated, a firm Path which appears before you as you advance, dividing the field into two halves, and leading straight to the golden gates. |
c. Sau đó, em thân mến, hãy tưởng tượng em đặt chân lên cánh đồng và tìm thấy, thay vì bùn và nước như đã được dự đoán, một Con đường vững chắc xuất hiện trước mặt em khi em tiến lên, chia cánh đồng thành hai nửa và dẫn thẳng đến cổng màu vàng kim. |
d. As you advance along this path, imagine the two halves of the gate slowly opening as you go forward in confidence, looking at the gate and not at your feet. |
d. Khi em tiến lên trên con đường này, hãy tưởng tượng hai nửa của cánh cổng đang từ từ mở ra khi em tự tin tiến về phía trước, nhìn vào cánh cổng chứ không phải dưới chân mình. |
What you see within that portal and what interpretation you give to this symbolic work is for you to discover. You may ask: Of what use is this particular type of meditation to me? Two main uses, my brother. First, it trains you in the use of the creative imagination (which is an aspect of the intuition) and, secondly, it lifts you out of the rut of heavy mundane work with which you are of necessity so constantly occupied and brings to you refreshment and realisation of the subjective world. Leave care and worry behind you as you walk through your [386] field of lotuses and for a few minutes each morning, centre your consciousness outside your personality life. The effect upon your daily life and service if you can really accomplish this exercise will be far more potent than you can possibly anticipate. |
Những gì em nhìn thấy bên trong cổng đó và cách giải thích mà em đưa ra cho công việc mang tính biểu tượng này là để em khám phá. Em có thể hỏi: Loại tham thiền đặc biệt này có ích lợi gì đối với tôi? Em thân mến, nó có hai công dụng chính. Thứ nhất, nó huấn luyện em cách sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo (là một khía cạnh của trực giác) và thứ hai, nó nâng em ra khỏi lối mòn của công việc trần tục nặng nhọc mà em thường xuyên phải bận rộn và mang lại cho em sự tươi mới và nhận thức về thế giới bên trong. Hãy bỏ lại sau lưng sự ưu tư và lo lắng khi em đi qua [386] cánh đồng hoa sen của mình, và trong vài phút mỗi sáng, hãy tập trung ý thức của em bên ngoài cuộc sống phàm ngã của em. Nếu em thực sự có thể hoàn thành bài tập này, hiệu quả của nó đối với cuộc sống và công việc hàng ngày của em sẽ mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì em có thể dự đoán. |
June 1934—Tháng 6 năm 1934
BROTHER OF MINE: |
EM THÂN MẾN: |
The buffeting of life has tried you in the past six months, and thereby you have grown in understanding. For you, the intent of this buffeting process has not been to make you sweeter or more able to withstand. These are for you but subsidiary effects. Your intended lesson is Detachment and, as you free yourself from the clinging chains of attachment to place or person, your intuitive perception will thereby be released, and you will see in terms of reality and not in terms of form—no matter how high or purified. |
Sự vùi dập của cuộc sống đã thử thách em trong sáu tháng qua, và nhờ đó em đã trưởng thành trong sự hiểu biết. Đối với em, mục đích của quá trình dùi vập này không phải là làm cho em trở nên ngọt ngào hơn hay có khả năng chịu đựng tốt hơn. Những điều đó dành cho em nhưng là các tác dụng phụ. Bài học dự định của em là Sự tách rời, và khi em giải phóng bản thân khỏi xiềng xích bám chấp vào nơi chốn hoặc con người, nhận thức trực giác của em sẽ được giải phóng, và em sẽ thấy bằng thực tại chứ không phải bằng hình tướng—bất kể cao hay tinh khiết thế nào. |
You may perhaps ask in this connection: What is my main usefulness to this group of disciples, should I gain this released perspective? You think ever in terms of service, my brother, which was one of the reasons (apart from karmic suitability) prompting my choice of you for work in this group. My answer may surprise you, for I give it in terms which are somewhat unusual. Your main usefulness consists in the potency of your aura—that field of magnetic life which surrounds everyone on all sides, and which in your case is of unusual extent. Little is known as yet anent the aura. I would define it simply as the sum total of the attractive forces in the field of individual activity. It is through the aura that an individual effect makes itself felt in a man’s surroundings. My message, therefore, to you is to use your auric influence more intelligently, to become more spiritually effective and less personally attractive. I speak in symbols and ask for understanding. Ponder on this, my brother, for your field of usefulness will grow as you detach yourself from forms, no matter how dear or how ancient the rhythm by which they hold you. Turn, instead, outwards in the effort to aid your fellowmen. Aid people by using what you are, which must express itself through the medium of the aura. |
Có lẽ em có thể hỏi trong mối liên hệ này: Lợi ích chính của em đối với nhóm đệ tử này là gì, em có nên đạt được quan điểm được giải phóng này không? Em luôn nghĩ về mặt phụng sự, em thân mến, đó là một trong những lý do (ngoài sự phù hợp về nghiệp quả) thúc đẩy tôi chọn em làm việc trong nhóm này. Câu trả lời của tôi có thể làm em ngạc nhiên, vì tôi thể hiện nó bằng những thuật ngữ hơi khác thường. Tính hữu ích chính của em bao gồm sức mạnh của hào quang của em—trường từ tính của sự sống bao quanh mọi người ở mọi phía, và trong trường hợp của em là ở mức độ khác thường. Người ta biết rất ít về hào quang. Tôi định nghĩa nó đơn giản là tổng của các mãnh lực thu hút dẫn trong lĩnh vực hoạt động của cá nhân. Chính nhờ hào quang mà một hiệu ứng cá nhân được cảm nhận được trong môi trường xung quanh của một người. Do đó, thông điệp của tôi gửi đến em là hãy sử dụng ảnh hưởng hào quang của em một cách thông minh hơn, để trở nên hiệu quả hơn về mặt tinh thần và ít hấp dẫn cá nhân hơn. Tôi nói bằng các biểu tượng và yêu cầu sự hiểu biết. Hãy suy ngẫm về điều này, em thân mến, vì lĩnh vực hữu ích của em sẽ phát triển khi em tách mình ra khỏi các hình tướng, bất kể nhịp điệu mà chúng nắm giữ em có thân thương hay cổ xưa đến đâu. Thay vào đó, hãy hướng ra bên ngoài để nỗ lực giúp đỡ đồng bào của em. Giúp đỡ mọi người bằng cách sử dụng con người của em, thứ phải thể hiện chính nó thông qua phương tiện là hào quang. [387] |
[387] |
|
Preserve your meditation as hitherto, but change the colour of your field of lotuses from yellow to a deep and vibrant rose. This will serve to stimulate the astral aura. This constitutes the third use or purpose of this meditation. The other two uses, I indicated in my last instruction. |
Giữ nguyên sự tham thiền của em như đến nay, nhưng hãy thay đổi màu sắc của cánh đồng hoa sen của em từ màu vàng sang màu hồng đậm và rực rỡ. Điều này sẽ giúp kích thích hào quang thể cảm dục. Điều này tạo thành công dụng hay mục đích thứ ba của bài tham thiền này. Hai cách sử dụng khác, tôi đã chỉ ra trong hướng dẫn cuối cùng của mình. |
August 1934—Tháng 8 năm 1934
BROTHER OF MINE: |
EM THÂN MẾN: |
May I at this time indicate to you two things, my brother, knowing that, as an old and experienced aspirant, you seek ever to see life truly as it is? |
Vào lúc này, liệu tôi có thể chỉ ra cho em hai điều, em thân mến, biết rằng, với tư cách là một người chí nguyện già dặn và kinh nghiệm, em luôn tìm cách nhìn thấy cuộc sống một cách thực sự như nó vốn là? |
First, in each life there is reached what I might call a definite high water mark of achievement, and the age at which this is reached varies almost infinitely. When it is reached, there is then a settled tendency towards crystallisation, towards a recognition of the life’s thoughtform (this being the sum total of all the formulated ideas which have governed progress) and a gradual slipping under the dominance of that thoughtform. This inhibits further progress. When the high water mark is reached after the age of 55-70, the difficulty is much increased by a perfectly normal physical inertia. So much of the life at that time is occupied with the processes of keeping in such physical condition that there may be the accomplishment of the needed duties of a full life. This high water mark has been reached for you in the ordinary sense and under the law of normal development. It can constitute for you exactly what it is, and you need feel no shame over your accomplishment for it has been good. Your life purpose has been rightly oriented and in the next life you will reap the results of your life-long discipline. |
Đầu tiên, trong mỗi kiếp sống, con người đều đạt đến cái mà tôi có thể gọi là một mốc cao thành tựu nhất định, và tuổi đạt được điều này thay đổi gần như vô tận. Khi đạt đến nó, lúc đó sẽ có một khuynh hướng ổn định hướng tới sự kết tinh, hướng tới việc thừa nhận hình tư tưởng của đời sống (đây là tổng thể của tất cả các ý tưởng được hình thành đã chi phối sự tiến bộ) và con người dần trượt xuống dưới sự thống trị của hình tư tưởng đó. Điều này cản trở sự tiến bộ hơn nữa. Khi đạt đến mực nước cao sau độ tuổi 55-70, khó khăn sẽ tăng lên nhiều do sự trì trệ thể chất hoàn toàn bình thường. Phần lớn cuộc sống vào thời điểm đó bận tâm với các quá trình duy trì tình trạng thể chất sao cho có thể hoàn thành các nhiệm vụ cần thiết của một cuộc sống đầy đủ. Em đã đạt đến mốc nước cao này theo nghĩa thông thường và theo quy luật phát triển bình thường. Đối với em, nó có thể tạo thành chính xác như nó là, và em không cần phải cảm thấy xấu hổ về thành tích của mình vì nó đã tốt. Mục đích cuộc sống của em đã được định hướng đúng đắn và kiếp sau em sẽ gặt hái thành quả của sự kỷ luật cả đời mình. |
But for you, as a soul and as a disciple under training, there need be no arresting of the process of development. The high water mark of your life cycle (in the broader and wider sense) will not be reached yet for many lives and, therefore, there need be for you no interlude of inertia and no demonstration of a static condition. You may go on from point to point upon the Way, both now and hereafter. The decision and effort must come from you, my brother, and it lies entirely in your[388] hands. Go forward along the Way in the full vigour of your soul life, which is that of a mature and experienced aspirant. The power of your first ray soul can galvanise the personality into continued action and aspiration, into continued mental control; for you, therefore, there need be no cessation of activity and no settling back into inertia until the final activity of transition engrosses the dual attention of your soul and your personality, and the final detachment takes place. But to transcend the normal high water mark, there will be necessitated the imposition of that inner pressure which will refuse to let the tired body and mind rest back upon the past. There is needed the incentive of a focussed will that plays its dynamic energy through the lower threefold man; there is required that purified, discriminative mind which (in the interests of the soul) will separate the essential from the non-essential and so enable you to enrich your service through the wise elimination of those factors which produce a useless dissipation of your energy and the use of your time for that which is negligible in results. |
Nhưng đối với em, với tư cách là một linh hồn và là một đệ tử đang được huấn luyện, không cần phải kìm hãm quá trình phát triển. Mốc nước cao nhất trong vòng đời của em (theo nghĩa rộng lớn hơn) sẽ chưa đạt được trong nhiều kiếp, và như thế em không cần phải có khoảng lặng xen kẽ, và không cần biểu hiện tình trạng tĩnh tại. Em có thể đi từ điểm này sang điểm khác trên Con đường, cả bây giờ và sau này. Quyết định và nỗ lực phải đến từ em, em thân mến, và nó hoàn toàn nằm trong tay em [388]. Hãy tiến bước trên Con Đường với toàn bộ sức sống linh hồn của em, đó là đời sống của một người chí nguyện trưởng thành và có kinh nghiệm. Sức mạnh của linh hồn cung một của em có thể khích lệ phàm ngã tiếp tục hành động và khát vọng, tiếp tục kiểm soát trí tuệ; do đó, đối với em, không cần ngừng hoạt động và không quay trở lại trì trệ cho đến khi hoạt động cuối cùng của quá trình chuyển tiếp thu hút sự chú ý kép của linh hồn và phàm ngã của em, và sự tách rời cuối cùng diễn ra. Nhưng để vượt qua mốc nước cao bình thường, cần phải áp đặt áp lực nội tại vốn từ chối để cơ thể và thể trí mệt mỏi quay trở lại quá khứ. Cần có sự khuyến khích của một ý chí tập trung phát huy năng lượng năng động của nó thông qua phàm ngã tam phân; cần phải có một thể trí phân biện, được thanh lọc (vì lợi ích của linh hồn) sẽ tách biệt điều thiết yếu khỏi điều không thiết yếu, và do đó cho phép em làm phong phú thêm công việc của mình thông qua việc loại bỏ một cách khôn ngoan những yếu tố tạo ra sự tiêu hao năng lượng và sức lực của em một cách vô ích, và việc sử dụng thời gian của em cho những kết quả không đáng kể. |
I know you will realise the reason for my remarks and that you will face this issue in the light of your soul and for the good of those who look to you for inspiration. As I told you earlier in your training, spiritual effectiveness is your goal and towards this all your effort should be bent. This will not negate the use of worldly wisdom and the right fulfilment of your many obligations, but it will aid you in the process of selection which is your main and self-chosen training ground. |
Tôi biết em sẽ nhận ra lý do cho những nhận xét của tôi, và rằng em sẽ đối mặt với vấn đề này dưới ánh sáng của linh hồn em và vì lợi ích của những người tìm đến em để được truyền cảm hứng. Như tôi đã nói với em trước đó trong quá trình đào tạo của em, hiệu quả tinh thần là mục tiêu của em và tất cả nỗ lực của em nên hướng tới điều này. Điều này sẽ không phủ nhận việc sử dụng minh triết trần gian và thực hiện đúng đắn nhiều nghĩa vụ của em, nhưng nó sẽ hỗ trợ em trong quá trình lựa chọn vốn là nền tảng rèn luyện chính và do em tự chọn. |
I seek today to change your meditation work entirely. The focus given by the visualisation work and exercise with colour and form has done much in the work of inner adjustment. I seek now to speed up the rhythm of your life so that a fuller tide of will and purpose may dynamically pour through you. |
Hôm nay tôi tìm cách thay đổi hoàn toàn công việc tham thiền của em. Trọng tâm được đưa ra bởi công việc hình dung và bài tập với màu sắc và hình tướng đã giúp ích rất nhiều cho công việc điều chỉnh bên trong. Bây giờ tôi tìm cách đẩy nhanh nhịp điệu cuộc sống của em để một làn sóng ý chí và mục đích đầy đủ hơn có thể tự động tuôn trào trong em. |
You may feel surprised at what I am setting you to do, and at my apparent omission to give you a set form at which to work. That I will do after you yourself have worked for a while at the problem. |
Em có thể cảm thấy ngạc nhiên về những gì tôi sắp đặt cho em làm, và về sự thiếu sót rõ ràng của tôi trong việc cung cấp cho em một hình thức cố định để làm việc. Điều đó tôi sẽ làm sau khi bản thân em đã làm việc một thời gian với vấn đề. |
Much has for ages been said and written anent the practice of the Presence of God and today one of the interesting events of the time is the emergence of various “techniques” for achieving [389] the realisation of this Presence, of inspiration, of light and of contact. |
Nhiều thời đại đã được nói và viết liên quan đến việc thực hành Sự Hiện Diện của Thượng Đế và ngày nay một trong những sự kiện thú vị của thời đại là sự xuất hiện của nhiều “kỹ thuật” khác nhau để đạt được [389] sự hiện thực của Sự Hiện Diện này, của nguồn cảm hứng, của ánh sáng và của sự tiếp xúc. |
I will put to you three questions, and in their answering, we will find indication of the meditation to be given to you later. |
Tôi sẽ đặt cho em ba câu hỏi, và trong việc trả lời chúng, chúng tôi sẽ tìm thấy chỉ dẫn về việc tham thiền sẽ được trao cho em sau này. |
1. What do you understand by the thought of the Presence? Of Whom and what is this Presence? |
1. Em hiểu gì về tư tưởng của Sự Hiện diện? Của Ai và Sự Hiện Diện này là gì? |
2. What is it that prevents contact with that Presence and hinders you from standing in its light? |
2. Điều gì ngăn cản sự tiếp xúc với Sự Hiện Diện đó và cản trở em đứng trong ánh sáng của nó? |
3. Can you draw up a technique of meditation which will be for you the way into the Presence? |
3. Em có thể vạch ra một kỹ thuật tham thiền sẽ là con đường dẫn đến Sự Hiện diện cho em không? |
Answer these three questions and realise that for you the contact with that Presence—consciously and with understanding of the process—is the goal for the remainder of your life experience in this particular body. I seek for no mystical understanding. That type of theoretical understanding is the heritage of most aspirants. They have the vision of this contact. I seek a definite comprehension and I give you the clue to the work in the following sentences which (if subjected to due thought) may induce revelation. |
Hãy trả lời ba câu hỏi này và nhận ra rằng đối với em, việc tiếp xúc với Sự Hiện diện đó—một cách có ý thức và với sự hiểu biết về quá trình này—là mục tiêu cho phần còn lại của trải nghiệm cuộc sống của em trong cơ thể cụ thể này. Tôi không tìm kiếm sự hiểu biết thần bí. Loại hiểu biết lý thuyết đó là di sản của hầu hết những người chí nguyện. Họ có tầm nhìn của sự tiếp xúc này. Tôi tìm kiếm một sự hiểu biết chắc chắn và tôi cung cấp cho em manh mối về công việc trong những câu sau đây (nếu được suy nghĩ kỹ lưỡng) có thể dẫn đến sự mặc khải. |
“Duality is visioned by the seer. He sees the Presence. He sees, and seeing knows that he exists and likewise that which is seen. |
“Tính hai mặt được nhìn thấy bởi người thấy (‘kiến giả’). Y nhìn thấy Sự Hiện Diện. Y thấy, và qua cái thấy biết rằng y tồn tại và cái được thấy cũng vậy. |
“The knower blends the two in one. He sees the Presence as himself. He merges with its light. Behind the Presence gleams that awful radiance which shrouds the One and Only. Before the Presence stands the aspirant. Within the Presence, through the merging process, is peace, is union, the end of fear, the end of difference, joy, love and light.” |
“Người biết (‘tri giả’) pha trộn cả hai trong một. Y coi Sự hiện diện là chính mình. Y hợp nhất với ánh sáng của nó. Đằng sau Sự Hiện Diện lấp lánh ánh hào quang khủng khiếp bao phủ Đấng Duy Nhất. Người chí nguyện đứng trước Sự Hiện Diện. Trong Sự hiện diện, thông qua quá trình hợp nhất, là bình an, là sự hợp nhất, chấm dứt sợ hãi, chấm dứt sự khác biệt, niềm vui, tình yêu và ánh sáng. |
Your meditation, therefore, is to be along these lines. The form you can draw up yourself during the next few months. The theme will emerge in your consciousness if you move slowly, ponder deeply and feel no sense of pressure. Revelation will come through quiet thought and daily brooding. |
Do đó, việc tham thiền của em phải theo những đường lối này. Hình thức em có thể tự vẽ trong vài tháng tới. Chủ đề sẽ xuất hiện trong tâm thức của em nếu em di chuyển chậm, suy ngẫm sâu sắc và không cảm thấy áp lực. Sự mặc khải sẽ đến qua sự suy nghĩ yên lặng và nghiền ngẫm hàng ngày. |
May I close this message to you with the simple words: Please be happy, my brother. [390] |
Tôi có thể kết thúc thông điệp này với em bằng những từ đơn giản: Hãy hạnh phúc, em thân mến. [390] |
February 1935—Tháng 2 năm 1935
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
There has been in your mind much thought in these past months anent the practice of the Presence. This is well, for that is the objective that I had in mind for you. |
Trong trí em đã có nhiều suy nghĩ trong những tháng vừa qua liên quan đến việc thực hành Sự Hiện diện. Điều này tốt, vì đó là mục tiêu mà tôi đã nghĩ đến cho em. |
It is said that “thoughts are things” and produce tangible results. It is also said that “as a man thinketh in his heart, so is he” and that, therefore, these tangible thought manifestations definitely produce effects in him. In these ancient platitudes lie, for you, much instruction, much light and understanding and the clue to your immediate problem. What is the situation, my brother? You, a soul in incarnation, are consciously aware of the fact—subjectively and ofttimes dimly sensed—of your real Self, of the solar Angel, who is the Angel of the Presence. Your problem is to deepen this realisation, and to know yourself to be the Angel, standing between you, the physical plane man, and the Presence. It might elucidate matters if we considered for a moment what reality is represented by that word Presence. |
Người ta nói rằng “tư tưởng là sự vật” và tạo ra kết quả hữu hình. Người ta cũng nói rằng “con người nghĩ thế nào trong trái tim thì sẽ như thế ấy” và do đó, những biểu hiện suy nghĩ hữu hình này chắc chắn tạo ra tác dụng trong y. Đối với em, trong những câu nói tầm thường cổ xưa này, có rất nhiều chỉ dẫn, nhiều ánh sáng và sự hiểu biết và manh mối cho vấn đề trước mắt của em. Huynh đệ của tôi, tình trạng là như thế nào? Em, một linh hồn đang luân hồi, nhận thức một cách có ý thức về sự thật—một cách chủ quan và đôi khi được cảm nhận lờ mờ—về Chân ngã thực sự của em, về Thái dương Thiên Thần, vốn là Thiên thần của Hiện diện. Vấn đề của em là đào sâu nhận thức này, và biết chính mình là Thiên thần, đứng giữa em, con người ở cõi trần và Đấng Hiện diện. Chúng ta có thể làm sáng tỏ vấn đề nếu chúng ta xem xét trong một lúc, thực tại nào được đại diện bởi từ Hiện diện đó. |
The mystic is ever aware of duality; of the lower man and the indwelling soul; of the tired disciple and the Angel; of the little self and the real Self; of human life expression and of spiritual life expression. Many other qualities stand for the same expression of reality. But, behind them all looms—immanent, stupendous, and glorious—that of which these dualities are but the aspects: the Presence, immanent yet transcendent, of Deity. In the nature of this One, all dualities are absorbed and all distinctions and differences lose their meaning. |
Nhà thần bí luôn nhận thức được tính hai mặt; của con người thấp kém và linh hồn nội tại; của người đệ tử mệt mỏi và Thiên thần; của tiểu ngã và chân ngã; của biểu hiện đời sống con người và biểu hiện đời sống tinh thần. Nhiều phẩm chất khác đại diện cho cùng một biểu hiện của thực tại. Tuy nhiên, đằng sau tất cả chúng đều hiện ra lờ mờ—nội tại, kỳ diệu và vinh quang—cái mà những tính nhị nguyên này chỉ là những khía cạnh: Sự Hiện diện, nội tại nhưng siêu việt, của Thượng đế. Trong bản chất của Đấng Duy Nhất này, mọi nhị nguyên đều được hấp thụ và mọi sự phân biệt và khác biệt đều mất đi ý nghĩa của chúng. |
When you are told to develop the consciousness of the Presence, it indicates, first of all, that you are at this time somewhat aware of the Angel and can now begin to respond, dimly and faintly, to that great Whole which lies behind the subjective world of being, as that world lies behind the physical, tangible world of everyday life. |
Khi em được yêu cầu phát triển tâm thức về Sự Hiện diện, trước hết, điều đó cho thấy rằng vào thời điểm này, em đã phần nào nhận thức được Thiên thần và bây giờ có thể bắt đầu phản ứng, lờ mờ và yếu ớt, với Tổng thể vĩ đại nằm đằng sau thế giới chủ quan của sự tồn tại, vì thế giới đó nằm sau thế giới vật chất, hữu hình của cuộc sống hàng ngày. |
A symbol of this can be seen in the knowledge that the entire planet lies outside of the room in which you are pondering my words and is only separated from you by the window and the extent of your conscious awareness. The outer universe of the planet, the solar system and the starry heavens, lies revealed [391] to you through that sheet of glass which reveals, if clean and unveiled, but which acts as a barrier to vision, if soiled or hidden by a blind. This and your ability to project yourself into the immensity of the universe, governs the extent of your knowledge at any given time. Think this out, my brother, and look through the window of the mind to that Light which reveals the Angel which, in its turn, veils and hides the vast unknown, yet alive and vibrant, Deity. |
Một biểu tượng của điều này có thể được nhìn thấy khi biết rằng toàn bộ hành tinh nằm bên ngoài căn phòng mà em đang suy ngẫm lời nói của tôi, và chỉ ngăn cách với em bằng cửa sổ và mức độ nhận thức có ý thức của em. Vũ trụ bên ngoài của hành tinh, hệ mặt trời và bầu trời đầy sao, [391] được tiết lộ cho em thông qua tấm gương, vốn sẽ tiết lộ nếu nó sạch sẽ và không bị che đậy, nhưng đóng vai trò như một rào cản đối với tầm nhìn nếu nó bị vấy bẩn hoặc bị che khuất bởi tấm rèm. Điều này, và khả năng phóng chiếu bản thân em vào sự bao la của vũ trụ, chi phối mức độ hiểu biết của em tại bất kỳ thời điểm nào. Hãy suy nghĩ kỹ điều này, em thân mến, và nhìn qua cửa sổ của tâm trí tới Ánh sáng vốn tiết lộ Thiên thần, và đến lượt nó, che phủ và che giấu đấng Thượng đế rộng lớn, chưa được biết đến, nhưng sống động và rực rỡ. |
This practice of the Presence can be dealt with in so many different ways and there are many techniques of contact. For you, the practice should connote simplicity, peace, and joy. Cultivate simplicity of thought and remember that bewilderment and undue concern as to conditions and people and a puzzled attitude towards life indicate mind activity but not soul understanding. It is soul activity towards which you should strive. |
Thực hành Hiện diện này có thể được bàn đến theo nhiều cách khác nhau và có nhiều kỹ thuật tiếp xúc. Đối với em, thực hành nên bao hàm sự đơn giản, bình yên và niềm vui. Hãy trau dồi suy nghĩ đơn giản và nhớ rằng sự hoang mang và lo lắng thái quá về hoàn cảnh và con người, cũng như thái độ bối rối đối với cuộc sống cho thấy hoạt động của tâm trí chứ không phải sự hiểu biết linh hồn. Chính hoạt động của linh hồn mà em nên phấn đấu. |
You are a sannyasin and as such must work towards an increasing release from ties of any kind, though (and herein lies a subtle distinction) not from release from environing conditions and responsibilities. What is required is an inner attitude of complete abandon to the will of your soul which is the Will of God, as far as any individual is concerned. This release will give you much that I have waited to see expressed in your life. |
Tuy nhiên, em là một sannyasin và như vậy phải hướng tới việc ngày càng thoát khỏi mọi ràng buộc (và ở đây có một sự khác biệt tinh tế) chứ không phải thoát khỏi các điều kiện và trách nhiệm xung quanh. Điều cần thiết là một thái độ nội tâm hoàn toàn phó mặc cho ý muốn của linh hồn em, đó là Ý chí của Thượng đế, đối với bất kỳ cá nhân nào. Sự giải thoát này sẽ mang đến cho em nhiều điều mà tôi đã chờ đợi để thấy được thể hiện trong cuộc sống của em. |
To assist you in the continuance of the theme upon which you have been engaged in the past months, I am going to ask you to ponder over and answer the following questions. You have a life tendency to over-emphasise detail and points of procedure with meticulous care and so sometimes lose sight of the synthesis of the whole. The questions are: |
Để giúp em tiếp tục chủ đề mà em đã tham gia trong những tháng qua, tôi sẽ yêu cầu em suy ngẫm và trả lời những câu hỏi sau đây. Em có xu hướng sống quá chú trọng đến chi tiết và các điểm của thủ tục với sự cẩn thận tỉ mỉ, và vì vậy đôi khi đánh mất sự tổng hợp của tổng thể. Các câu hỏi là: |
1. To recognise the Presence, I must stand free and unattached. To what and to whom am I now attached in such a way that I am prevented from clear vision and closer approach? |
1. Để nhận ra Sự Hiện Diện, tôi phải đứng tự do và không ràng buộc. Bây giờ tôi gắn bó với cái gì và với ai theo cách mà tôi bị cản trở khỏi tầm nhìn rõ ràng và sự tiếp cận gần hơn? |
2. To recognise the Presence, I must function as the solar Angel. Can I, at this time, discriminate between myself and that solar Angel? |
2. Để nhận ra sự Hiện diện, tôi phải hoạt động như một Thái dương Thiên Thần. Vào lúc này, tôi có thể phân biệt giữa tôi và Thái dương Thiên Thần đó không? |
3. To recognise the Presence means that I am preparing to pass, as a solar Angel, through the gate, on to the Path of Initiation. Can I, in view of this, state clearly to [392] myself what are my major assets and my major weaknesses? |
3. Nhận ra sự Hiện diện có nghĩa là tôi đang chuẩn bị đi qua, với tư cách là một Thái dương Thiên Thần, qua cánh cổng để tiến tới Con đường Điểm đạo. Về vấn đề này, tôi có thể nói rõ ràng với [392] bản thân mình đâu là tài sản chính và điểm yếu chính của tôi không? |
4. Can I define clearly within myself what I understand by |
4. Tôi có thể xác định rõ ràng trong bản thân mình những gì tôi hiểu |
a. Myself, the disciple. |
a. Chính tôi, một đệ tử. |
b. Myself, the Angel. |
b. Chính tôi, Đấng Thiên thần. |
c. The Presence. |
c. Sự Hiện Diện. |
The first three questions can be answered or not in writing exactly as you choose; you may find them too personal and confidential to commit to writing. If you find this to be so, then on the first day on which the Sun moves northward, answer these questions in my presence and to me, your brother and your teacher. Deal with them clearly and with truth, voicing your answers aloud so that you can hear your voice, and thus pay adequate attention to your position and attitude. The fourth and fifth questions please answer in writing and elucidate as clearly as may be. |
Ba câu hỏi đầu tiên có thể được trả lời hoặc không bằng văn bản chính xác như em chọn; em có thể thấy chúng quá riêng tư và bí mật để cam kết viết. Nếu em thấy điều này là như vậy, thì vào ngày đầu tiên Mặt trời di chuyển về phía bắc, hãy trả lời những câu hỏi này trước mặt tôi và với tôi, huynh đệ và huấn sư của em. Hãy đề cập chúng một cách rõ ràng và trung thực, nói to câu trả lời của em để em có thể nghe thấy giọng nói của mình, từ đó chú ý đúng mức đến vị trí và thái độ của em. Câu hỏi thứ tư và thứ năm hãy trả lời bằng văn bản và giải thích rõ ràng nhất có thể. |
5. Elucidate the following phrases, taken from a very ancient writing. I suggest that you ponder them with care. |
5. Làm sáng tỏ các cụm từ sau đây, lấy từ một văn bản rất cổ xưa. Tôi đề nghị em nên suy ngẫm về chúng một cách cẩn thận. |
“Before the throne of God, the angel, with all the other angels, stood and cried: `Lord of my life, grant me the strength to tread the path of revelation; to cross the sea of dark illusion, and face the lighted way of earth.’ God said: `Go forth and far away.’ |
“Trước ngai Thượng đế, thiên thần, cùng với tất cả các thiên thần khác, đứng kêu lên: ‘Chúa của đời con, xin ban cho con sức mạnh để bước trên con đường mặc khải; để vượt qua biển ảo tưởng đen tối, và đối mặt với con đường được chiếu sáng của trần gian’. Thượng đế nói: ‘Tiến ra và đi ra xa.’ |
“Before the gate which opens on the lighted way to peace, the angel stood alone and said: `Lord of my life, the way of revelation is the way of manifested life: the path of dark illusion leads to the light which scatters every shadow. I seek to tread the lighted way which leads back to thy Presence. As yet that way is dark. What shall I do?’ God said, `Draw near and enter into thine own light, and in that light, see Light.’ |
“Trước cánh cổng mở ra con đường được chiếu sáng dẫn đến bình an, thiên thần đứng một mình và nói: ‘Chúa của cuộc đời con, con đường mặc khải là con đường của sự sống hiển hiện: con đường của bóng tối ảo tưởng dẫn đến ánh sáng xua tan mọi bóng tối. Con tìm cách bước đi trên con đường được soi sáng dẫn trở lại Sự hiện diện của Ngài. Tuy nhiên, con đường đó vẫn còn là bóng tối. Con nên làm gì?’ Thượng đế phán, ‘Hãy đến gần và bước vào ánh sáng của chính ngươi, và trong ánh sáng đó, hãy thấy Ánh sáng.’ |
“Before the gateway of each newborn day, which holds within its sealed hours ordered responsibility, each morn I stand. I cry aloud: `Lord of my life, how can I do the duty of this day yet seek detachment? Meet every need yet free myself from ties and bonds?’ God said: `The sun draws near and vivifies the earth. Naught can [393] it take from out the earth. Live likewise. Give and ask naught!’“ |
“Trước cửa ngõ của mỗi ngày mới được sinh ra, vốn giữ trách nhiệm đã được ra lệnh trong những thời khắc được niêm phong của nó, mỗi sáng tôi đều đứng. Tôi kêu to: ‘Lạy Chúa đời con, làm sao con làm tròn bổn phận hôm nay, thế nhưng lại tìm kiếm sự tách rời? Đáp ứng mọi nhu cầu mà vẫn giải phóng bản thân khỏi những ràng buộc và trói buộc?’ Thượng đế nói: ‘Mặt trời đến gần và làm sinh động trái đất. [393] Nó không có thể lấy gì từ trái đất. Hãy sống như vậy. Cho đi và không đòi hỏi gì!’” |
Brother of mine, gather around you afresh those who are seeking thus the lighted Way and learn to give them of your wisdom and to share with them that which you possess. This is for you a duty in the coming months. This will not be easy for you but will further the detaching process. Begin with those you have at hand and those who know and love you and together set ajar the door to which seekers may find their way and, through your rendered service, may find their way, perchance, to us. |
Em thân mến, hãy tập hợp xung quanh em một lần nữa những người đang tìm kiếm Con đường được thắp sáng như vậy và học cách trao cho họ minh triết của em và chia sẻ với họ những gì em sở hữu. Đây là nhiệm vụ của em trong những tháng tới. Điều này sẽ không dễ dàng cho em nhưng sẽ thúc đẩy quá trình tách rời. Hãy bắt đầu với những người em có trong tay và những người biết và yêu mến em và cùng nhau mở hé cánh cửa để những người tìm kiếm có thể tìm thấy con đường của họ và thông qua sự phụng sự của em, họ có thể tìm được đường đến với chúng tôi. |
February 1936—Tháng 2 năm 1936
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ TÔI: |
You have had a year of strain and of much anxiety. But you have grown much thereby and there is a greater measure of freedom to be seen in you subjectively than ever before. You are learning to detach yourself from people and from the clinging hands of those demanding presences who are to be found clamouring for your attention in their lives. This freedom must increase as you endeavour to meet perfectly the need of those around you, yet at the same time you must go on with increasing power detaching yourself from their inner hold upon you. They must fail to reach you in the inner fortress of your soul. There you must learn to stand, detached and unafraid. |
Em đã có một năm căng thẳng và nhiều lo lắng. Nhưng em đã trưởng thành hơn nhiều từ đó, và có một mức độ tự do lớn hơn được nhìn thấy ở em một cách chủ quan hơn bao giờ hết. Em đang học cách tách mình ra khỏi mọi người và khỏi bàn tay đeo bám của những sự hiện diện đòi hỏi khắt khe, những người được tìm thấy kêu gọi sự chú ý của em trong cuộc sống của họ. Sự tự do này phải tăng lên khi em cố gắng đáp ứng hoàn hảo nhu cầu của những người xung quanh, nhưng đồng thời em phải tiếp tục với sức mạnh ngày càng tăng, tách mình ra khỏi sự kìm kẹp bên trong của họ. Họ phải thất bại trong việc tiếp cận em trong pháo đài bên trong của linh hồn em. Ở đó em phải học cách đứng vững, tách rời và không sợ hãi. |
I cannot too strongly urge this detachment on you and beg you to live henceforth more bravely the life of the sannyasin. Two years ago I could not have spoken thus, for you would not have understood; but you have advanced far since those days, my brother, and are beginning to enter into the realm of freedom, e’en though your freedom is as yet but relative and incomplete. |
Tôi không thể thúc giục em quá mạnh mẽ về sự tách rời này, và mong em từ nay về sau hãy sống dũng cảm hơn cuộc đời của một sannyasin. Hai năm trước, tôi không thể nói như vậy, vì em sẽ không hiểu; nhưng, em thân mến, em đã tiến xa kể từ những ngày đó và đang bắt đầu bước vào lãnh vực của tự do, mặc dù sự tự do của em vẫn chỉ là tương đối và không đầy đủ. |
I am now going to give you six themes for meditation during the next six months, gathered out of the paragraphs which I gave to you last time for your consideration. Let your meditation, therefore, follow the following lines. |
Bây giờ tôi sẽ đưa ra cho em sáu chủ đề để thiền trong sáu tháng tới, được tập hợp từ những đoạn văn mà tôi đã đưa cho em lần trước để em xem xét. Do đó, hãy để sự tham thiền của em đi theo những hướng sau đây. |
1st month—Why is strength needed to: |
Tháng thứ nhất—Tại sao sức mạnh lại cần thiết để: |
a. Tread the Path of Revelation. [394] |
a. Bước đi trên Con đường Mặc khải. [394] |
b. Cross the sea of dark illusion. |
b. Băng qua biển ảo tưởng đen tối. |
c. Face the lighted way of earth. |
c. Đối mặt với con đường được soi sáng của trần gian. |
2nd month—What should I do? I seek to tread the lighted Way which leads back to the Presence. What in my life obstructs that Way? |
Tháng thứ 2—Tôi nên làm gì? Tôi tìm cách bước đi trên Con đường được thắp sáng dẫn trở lại Sự Hiện diện. Điều gì trong cuộc sống của tôi cản trở Con đường đó? |
3rd month—How can I do the duty of this day, yet demonstrate detachment? |
Tháng thứ 3—Làm thế nào tôi có thể thực hiện bổn phận của ngày hôm nay mà vẫn thể hiện sự tách rời? |
4th month—How can I meet each rising need, yet stand apart and unafraid? |
Tháng thứ 4—Làm thế nào tôi có thể đáp ứng từng nhu cầu ngày càng tăng mà vẫn đứng vững và không sợ hãi? |
5th month—How can I enter into light and steadfast stand, seeing the truth on every hand? |
Tháng thứ 5—Làm thế nào tôi có thể bước vào ánh sáng và vị thế kiên định, nhìn thấy sự thật trên mọi mặt? |
6th month—How can I guide my brothers on the Way and with them find the secret of the dark light which reveals? How can I discover the agent which dispels illusion? |
Tháng thứ 6—Làm thế nào tôi có thể hướng dẫn các huynh đệ của tôi trên Con đường và cùng họ tìm ra bí mật của ánh sáng tối tiết lộ? Làm thế nào tôi có thể khám phá tác nhân xua tan ảo tưởng? |
Dedicate yourself and life and all you have to the service of the Plan and do this in full consciousness and not as a required duty. Stand with your group brothers in the light of the Presence. As a group, renew your dedication. |
Hãy dâng hiến bản thân và cuộc sống cũng như tất cả những gì em có để phụng sự Thiên Cơ và thực hiện điều này với ý thức đầy đủ chứ không phải như một nghĩa vụ bắt buộc. Đứng với huynh đệ trong nhóm của em trong ánh sáng của Sự Hiện Diện. Như là một nhóm, hãy đổi mới sự cống hiến của em. |
|
|
August 1936 |
Tháng 8 năm 1936 |
MY BROTHER AND FRIEND: |
HUYNH ĐỆ VÀ NGƯỜI BẠN CỦA TÔI: |
The past six months have seen you subjected to much outer change; you have passed through difficulties of various kinds and many adjustments and re-adjustments; you have known physical suffering and pain, accompanied, at times by bewilderment. Is this not so? But none of these things have held you or destroyed you, nor have they succeeded in tarnishing the white shield of your fiery faith. This you have held ever before you. Such conditions of difficulty must be expected by all aspirants who have reached the point in their evolution when they can find their way into these groups. All of your group brothers have experienced a hard time and, without exception, have been tested and tried, or are being tested and tried. They are wrestling with glamour, apparently bewildered and held back by physical liability; their usefulness is apparently curtailed through financial stringency; re-adjustments through loss of some kind is apparently crippling the endeavour of others, even [395] to the point of producing a temporary inertia. Such is the group history at this particular time. |
Sáu tháng qua em đã phải chịu nhiều thay đổi bên ngoài; em đã trải qua đủ loại khó khăn, nhiều sự điều chỉnh và tái điều chỉnh lại; em đã biết những đau khổ và đau đớn về thể xác, đôi khi kèm theo sự hoang mang. Không phải như thế sao? Nhưng không cái nào trong những điều này có thể giữ chân em hay tiêu diệt em, chúng cũng không thành công trong việc làm hoen ố tấm khiên trắng của đức tin rực lửa của em. Điều này em luôn giữ phía trước em. Tất cả những người chí nguyện, đã đạt đến mức tiến hóa khi họ có thể tìm được đường vào những nhóm này, đều phải dự kiến đối mặt những điều kiện khó khăn như vậy. Tất cả huynh đệ trong nhóm của em đều đã trải qua một thời gian khó khăn và không có ngoại lệ, đã được kiểm tra và thử thách, hoặc đang được kiểm tra và thử thách. Họ đang đấu tranh với ảo cảm, dường như đang bối rối và bị kìm hãm bởi nợ nần trần gian; tính hữu dụng của họ dường như bị hạn chế do sự khó khăn về tài chính; sự tái điều chỉnh do một số loại mất mát có vẻ đang làm tê liệt nỗ lực của những người khác, thậm chí [395] đến mức tạo ra một sự trì trệ tạm thời. Đó là lịch sử nhóm tại thời điểm cụ thể này. |
Let me put this still more clearly so that the group need and problem (which is formed by the sum total of the needs and the problems of all its members) may stand revealed and thus spur you all on to a closer cooperation with each other and a more loving understanding. Let us look at the situation, as I see it, of the various members. |
Hãy để tôi trình bày điều này rõ ràng hơn để nhu cầu và vấn đề của nhóm (được hình thành bởi tổng số nhu cầu và vấn đề của tất cả các thành viên) có thể được bộc lộ, và do đó thúc đẩy tất cả các em hợp tác chặt chẽ hơn với nhau và có một sự hiểu biết yêu thương hơn. Chúng ta hãy xem xét tình hình, như tôi thấy, của các thành viên khác nhau. |
Several have had re-adjustments to make of a very drastic nature in their daily life. The entire rhythm of ordinary existence has been changed. This I foretold many months ago, and time has proved the exactness of my foretelling. The difficulties have been real, but service to others has increased. |
Một số đã có những điều chỉnh lại để tạo ra bản chất rất quyết liệt trong cuộc sống hàng ngày của họ. Toàn bộ nhịp điệu của sự hiện tồn bình thường đã bị thay đổi. Điều này tôi đã dự đoán từ nhiều tháng trước, và thời gian đã chứng minh tính chính xác của lời tiên đoán của tôi. Những khó khăn là có thật, nhưng sự phụng sự cho những người khác đã gia tăng. |
One of your co-disciples, as her correspondence shews, has had deeper inner problems to solve, based on her immediate point of view and the fact that she is swinging more potently on to mental levels, as a result of her concentrated work with me. This has brought about an inevitable reaction to the rhythm and tendency of the mental plane to produce a sense of isolation (which can be enjoyed in the earlier stages). All this has been complicated by financial anxiety, with its power to cloud the vision. She is on her way out, but her mental stress is definitely affecting the group life. It will enrich the group life if she achieves the grace of standing steady until she has time to clarify her vision in either direction, and until she realises that no one achieves anything of reality by the laying down of any assumed responsibility. |
Một trong những đệ tử đồng môn của em, như những thư của cô ấy cho thấy, đã có những vấn đề nội tâm sâu sắc hơn cần giải quyết, dựa trên quan điểm tức thời của cô ấy, và thực tế là cô ấy đang dao động mạnh hơn ở các cấp độ trí tuệ, hậu quả của việc cô ấy tập trung làm việc với tôi. Điều này đã tạo ra một phản ứng không thể tránh khỏi đối với nhịp điệu và xu hướng của cõi trí để tạo ra cảm giác cô lập (mà trong các giai đoạn đầu có thể được thích thú). Tất cả điều này đã trở nên phức tạp bởi sự lo lắng về tài chính, với sức mạnh của nó che mờ tầm nhìn của cô. Cô ấy đang trên đường thoát khỏi, nhưng sự căng thẳng về trí tuệ của cô ấy chắc chắn đang ảnh hưởng đến cuộc sống của cả nhóm. Việc này sẽ làm phong phú thêm đời sống nhóm nếu cô ấy đạt được ân sủng đứng vững vàng cho đến khi cô có thời gian để làm rõ tầm nhìn của mình theo bất kỳ hướng nào, và cho đến khi cô ấy nhận ra rằng không ai đạt được bất kỳ điều gì của thực tại bằng cách từ bỏ bất kỳ trách nhiệm nào được đảm nhận. |
Another has been subjected to the strain of constant and, at times, serious ill health, with its consequent reactions on the thought life and on the emotional life. The struggle with sickness and with fatigue, plus an equally constant urge to serve and to help, constitute no simple problem. This problem, she complicates by an undue analysis of circumstances and people. |
Một người khác đã phải chịu sự căng thẳng của sức khỏe liên tục và đôi khi bị bệnh nặng, với những phản ứng hậu quả của nó đối với đời sống tư tưởng và đời sống tình cảm. Cuộc đấu tranh với bệnh tật và sự mệt mỏi, cộng với sự thôi thúc không ngừng để phụng sự và giúp đỡ, không phải là vấn đề đơn giản. Cô ấy làm phức tạp thêm vấn đề này bằng cách phân tích quá mức về hoàn cảnh và con người. |
One of my disciples, close to all of you, has had a long period (extending over many years) of strain, incident to environing conditions, much monotony in his life outline and certain deep disappointments. He is dealing with them as one might expect. |
Một trong những đệ tử của tôi, rất gần gũi với tất cả các em, đã trải qua một thời gian dài (kéo dài trong nhiều năm) căng thẳng, gặp phải những điều kiện xung quanh, rất nhiều sự đơn điệu trong phác thảo cuộc sống của em ấy và những thất vọng sâu sắc nhất định. Em ấy đang đối phó với chúng như người ta có thể mong đợi. |
You, my brother, know to what you have had to rise, as the months have slipped away. You have met this with wisdom, [396] good intention and self-sacrifice. May I say (and I say it with a twinkle in my eye and with love) that you have not yet learnt to enjoy them. |
Em, em thân mến, biết những gì em đã phải vươn lên, khi tháng ngày trôi qua. Em đã đáp ứng điều này với sự minh triết, [396] ý định tốt và sự hy sinh bản thân. Tôi có thể nói (và tôi nói điều đó với ánh mắt lấp lánh và với tình yêu) rằng em vẫn chưa học cách thưởng thức chúng. |
D.H.B. has been through the fire. His tests and difficulties have been greater, fiercer and deeper than any that have come to the other group members. Pressure incident to his home karma, frustrations coming from his environment, misunderstandings of differing kinds, basic bad health at all times, plus the serious accident of the immediate past, loneliness, pain and clouds of recognised glamour have sought to engulf him. They cannot do so. This he also knows and is coming through. |
DHB đã đi qua lửa. Những thử thách và khó khăn của em ấy lớn hơn, khốc liệt hơn và sâu sắc hơn bất kỳ thử thách nào đã đến với các thành viên khác trong nhóm. Áp lực liên quan đến nghiệp quả gia đình, sự thất vọng đến từ môi trường của em ấy, những hiểu lầm đủ loại, sức khỏe cơ bản luôn không tốt, cộng với tai nạn nghiêm trọng trong quá khứ trước mắt, sự cô đơn, đau đớn và những đám mây ảo cảm được nhận ra đã tìm cách nhấn chìm em ấy. Chúng không thể làm như vậy. Điều này em ấy cũng biết và đang trải qua. |
A member of your group of co-disciples has been through deep sorrow, as all of you know. The processes of re-adjusting the rhythm of her life, becoming accustomed definitely to changed conditions, to loneliness and loss is weighing heavily upon her. She must realise that she is on her way to a greatly enriched life of service, and that her only present need is to stand steady and to give herself time to stabilise into her new rhythm. |
Như tất cả các em đều biết, một thành viên trong nhóm đồng môn của em đã trải qua nỗi buồn sâu sắc. Quá trình điều chỉnh lại nhịp điệu đời sống của cô ấy, chắc chắn đã quen với những điều kiện thay đổi, với sự cô đơn và mất mát đang đè nặng lên cô ấy. Cô ấy phải nhận ra rằng cô ấy đang trên đường đến với một cuộc sống phụng sự vô cùng phong phú và nhu cầu duy nhất hiện tại của cô ấy là đứng vững và cho bản thân thời gian để ổn định với nhịp điệu mới của mình. |
Still another brother is fighting deep discouragement, and the glamour of futility (after so many years as a disciple) is seeking to swing him off the Path. His characteristic life tendency of pushing unemotionally straight ahead will save him here, for he will penetrate the glamour in time and come out into the light of the “Lighted Way,” but the clouds at times and at present seem to him very thick. |
Vẫn còn một huynh đệ khác đang chiến đấu với sự chán nản sâu sắc, và ảo cảm về sự vô dụng (sau rất nhiều năm làm đệ tử) đang tìm cách khiến em ấy lạc hướng ra khỏi Con đường. Khuynh hướng sống đặc trưng của em ấy là thẳng tiến về phía trước một cách không cảm xúc sẽ cứu em ấy ở đây, vì em ấy sẽ xuyên qua ảo cảm đúng lúc và bước ra vào ánh sáng của “Con đường được soi sáng”, nhưng những đám mây đôi khi, và hiện tại, đối với anh ấy dường như rất dày. |
L.T.S-K. is experiencing a new opportunity to “come clear,” but the trial, testing and bewilderment are severe. He feels alone. He believes himself misunderstood and underrated. There can be many close to one and watching over one in a fog, and yet they can remain unrecognised. |
LTS-K. đang trải qua một cơ hội mới để “trở nên rõ ràng”, nhưng quá trình thử thách, trắc nghiệm và hoang mang là rất nghiêm trọng. Em ấy cảm thấy cô đơn. Em ấy tin rằng mình đã bị hiểu lầm và đánh giá thấp. Có thể có nhiều người ở gần một người và theo dõi một người trong sương mù, nhưng họ vẫn có thể không được nhận ra. |
The point I am seeking to make as I give you all this brief résumé of the immediate and basic problems which confront each of you is that these conditions do have a potent effect upon the group life and the group integration, and that the quicker they are handled and ended the better for the group. They are to be handled by the assuming of a right inner attitude and not by the changing of outer circumstances. When an individual is occupied and preoccupied with a particular and [397] peculiar problem, he is necessarily introverted. The life of the group then necessarily suffers and becomes starved, limited and curtailed. When the group members realise this fact more clearly, then they will endeavour to go through their experiences together (which prevents the development of an unwholesome and selfish introversion) and the problems of one will become the problems of all. Not idly have you all been brought together into this close relation with each other. Therefore give to each other more freely, but without criticism and enquiry; love and steady each other as you go through the needed fusing and testing. This has to be undergone and more rightly handled before I can give you any definite world work to do along the line of breaking up the world illusion. How can you destroy (on a large scale) that which you do not understand, handle and disperse (on a small scale) in your own lives? This future work should be possible some day. |
Điểm mà tôi đang cố gắng nêu ra khi tôi cung cấp cho các em tất cả tóm tắy ngắn gọn này về các vấn đề cơ bản và tức thời mà mỗi em phải đối mặt, là những điều kiện này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống nhóm và sự tích hợp nhóm, và chúng càng được xử lý và kết thúc nhanh, thì sẽ càng tốt cho nhóm. Chúng phải được xử lý bằng cách giả định một thái độ bên trong đúng đắn chứ không phải bằng sự thay đổi của hoàn cảnh bên ngoài. Khi một cá nhân bận rộn và bận tâm với một vấn đề riêng và đặc biệt[397], anh ta nhất thiết phải hướng nội. Cuộc sống của nhóm khi đó nhất thiết phải chịu đựng và trở nên thiếu thốn, hạn chế và bị cắt giảm. Khi các thành viên trong nhóm nhận ra sự thật này rõ ràng hơn, họ sẽ nỗ lực cùng nhau trải qua những trải nghiệm của mình (điều này ngăn cản sự phát triển của hướng nội ích kỷ và không tốt) và vấn đề của một người sẽ trở thành vấn đề của tất cả. Không phải vô cớ mà tất cả các em đã được tập hợp lại với nhau trong mối quan hệ chặt chẽ này. Do đó, hãy trao cho nhau một cách tự do hơn, nhưng không chỉ trích và dò xét; yêu thương và hỗ trợ lẫn nhau khi các em trải qua quá trình hợp nhất và thử nghiệm cần thiết. Điều này phải được trải qua và xử lý đúng đắn hơn trước khi tôi có thể giao cho các em bất kỳ công việc cụ thể nào trên thế giới để làm theo con đường phá vỡ ảo tưởng thế giới. Làm sao em có thể tiêu diệt (trên quy mô lớn) những thứ mà em không hiểu, chưa xử lý và phân tán (ở quy mô nhỏ) trong cuộc sống của chính các em? Công việc tương lai này sẽ có thể thực hiện được vào một ngày nào đó. |
I seek not to change your meditation, except to alter its monthly theme. These monthly themes should, during the next six months, be as follows: |
Tôi không muốn thay đổi cách tham thiền của em, ngoại trừ thay đổi chủ đề hàng tháng của nó. Các chủ đề hàng tháng trong sáu Tháng tới nên như sau: |
1st month—Why is happiness needed in order to: |
Tháng thứ nhất—Tại sao cần có hạnh phúc để: |
a. Tread the Path of Revelation. |
a. Bước đi trên Con đường Mặc khải. |
b. Meet the needs of others. |
b. Đáp ứng nhu cầu của người khác. |
c. Clear away the obstacles I find? |
c. Xóa đi những trở ngại tôi tìm thấy? |
2nd month—What is the relation of happiness to joy? |
Tháng thứ hai—Mối quan hệ của hạnh phúc với niềm vui là gì? |
a. What do I know of each? |
a. Tôi biết gì về từng cái? |
b. Which is characteristic of the soul? |
b. Đâu là đặc trưng của linh hồn? |
3rd month—How can the words and the understanding of “the joy of the Lord is your strength” affect my daily life? |
Tháng thứ 3—Làm thế nào những lời và sự hiểu biết về “niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh em” có thể ảnh hưởng thế nào đến cuộc sống hàng ngày của tôi? |
a. In what ways can I demonstrate joy? |
a. Tôi có thể thể hiện niềm vui bằng những cách nào? |
b. How can I shew forth happiness? |
b. Làm thế nào tôi có thể bày tỏ hạnh phúc? |
c. What are the differences in these two? |
c. Sự khác biệt giữa hai cái là gì? |
4th month—In what way can joy and happiness undermine fear, and liberate me from fears? |
Tháng thứ 4 — Bằng cách nào niềm vui và hạnh phúc có thể xóa tan nỗi sợ hãi, và giải phóng tôi khỏi nỗi sợ hãi? |
5th month—How can I enter into the joy which the Masters know? |
Tháng thứ 5—Làm sao tôi có thể bước vào niềm vui mà các Chân sư biết? |
a. Upon what is this joy based? |
a. Niềm vui này dựa trên điều gì? |
b. What effect can joy have upon the world of illusion? |
b. Niềm vui có thể có tác dụng gì đối với thế giới ảo tưởng? [398] |
[398] |
|
6th month—Why must I bring joy to my group brothers? |
Tháng thứ 6—Tại sao phải mang lại niềm vui cho huynh đệ trong nhóm? |
a. How can I do this in each specific case, for each case differs? |
a. Làm thế nào tôi có thể làm điều này trong từng trường hợp cụ thể, cho mỗi trường hợp khác nhau? |
b. What are the major hindrances to my own joyfulness? |
b. Đâu là những trở ngại chính cho niềm vui của tôi? |
Thus, my brother, you can train yourself to build in that quality of joy which is the characteristic of a personality which is consciously anchored in the soul realm. |
Do đó, em thân mến, em có thể rèn luyện bản thân để xây dựng phẩm chất vui vẻ đó, vốn là đặc điểm của một phàm ngã được neo một cách có ý thức trong cõi giới linh hồn. |
February 1937—Tháng 2 năm 1937
I have only the briefest of words for you, my brother of old and trusted friend. It is not the length of a message, however, but its quality which is of importance, is it not? I seek to say to you that you have, during the past seven months, made more definite inner progress than in the previous three years, and that my heart, as I watch your steps upon the Way, goes out to you with understanding and with joy. It is not often that I thus write. |
Tôi chỉ có những lời ngắn gọn nhất dành cho em, huynh đệ ngày xưa và người bạn đáng tin cậy của tôi. Tuy nhiên, độ dài của một thông điệp không quan trọng, mà phẩm chất của nó mới là điều quan trọng, phải không? Tôi muốn nói với em rằng trong bảy tháng qua, em đã đạt được những tiến bộ nội tâm rõ ràng hơn so với ba năm trước đó, và trái tim tôi, khi tôi dõi theo những bước chân của em trên Con Đường, hướng về em với sự hiểu biết và bằng niềm vui. Tôi không thường xuyên viết như vậy. |
I have watched you stand amidst the wrecking of much that you have built, and I have seen you relinquish desire with a light in your eyes—the light of perception of the higher values. |
Tôi đã chứng kiến em đứng giữa đống đổ nát của nhiều thứ mà em đã xây dựng, và tôi đã thấy em từ bỏ ham muốn với một tia sáng trong mắt em—ánh sáng của nhận thức về những giá trị cao hơn. |
The group meditation will give you much during the next six months, and the Review on Joy will stabilise the work you have sought to accomplish since my last instructions to you. That is all I have to say, my brother. My blessing rests upon you. |
Tham thiền nhóm sẽ mang lại cho em nhiều điều trong sáu tháng tới, và sự quán chiếu lại về Niềm vui (review of Joy) sẽ ổn định công việc mà em đã tìm cách hoàn thành kể từ những chỉ dẫn cuối cùng của tôi dành cho em. Đó là tất cả những gì tôi phải nói, em thân mến. Ơn phước của tôi ở trên em. |
ON JOY |
VỀ NIỀM VUI |
1. What constitutes a review? |
1. Những gì để đánh giá (review)? |
a. Am I confusing a reviewing with a re-doing or with a re-experiencing? |
a. Tôi có đang nhầm lẫn giữa việc xem lại (review) với việc làm lại (re-doing) hoặc trải nghiệm (re-experiencing) lại không? |
b. Am I asked to re-experience, or am I simply asked to observe as a detached onlooker? |
b. Tôi được yêu cầu trải nghiệm lại, hay tôi chỉ đơn giản được yêu cầu quan sát như một người quan sách tách rời? |
2. Am I capable of detaching myself emotionally from any registration of joy? |
2. Tôi có khả năng tách mình ra khỏi cảm xúc của bất kỳ niềm vui nào không? |
3. Can I see myself mentally, unbiased by any reaction from the emotional, personal self? Am I personally capable of this? [399] |
3. Tôi có thể nhìn nhận bản thân, về mặt tâm trí, một cách công tâm, không thiên vị trước bất kỳ phản ứng nào từ cái tôi cá nhân, cảm tính không? Cá nhân tôi có khả năng này không? [399] |
4. If I use this review on joy as it should be used, what will be the effect in my life, and what will be the effect in the life of the group I seek to serve? |
4. Nếu tôi sử dụng sự đánh giá lại về niềm vui này theo cách mà nó nên được sử dụng, điều gì sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi, và điều gì sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của nhóm mà tôi đang cố gắng phụng sự? |
5. Can I honestly say that I serve joyously? |
5. Tôi có thể thành thật nói rằng tôi phụng sự một cách vui vẻ (joyously) không? |
6. Which do I desire the most, to serve joyously or to serve intelligently? Do I know my reasons? |
6. Tôi mong muốn điều gì nhất, phụng sự một cách vui vẻ hay phụng sự một cách thông minh? Tôi có biết lý do của mình không? |
7. If this review work is a definitely scientific method of development, have I ever given the method of joy a fair trial? Or the work of the review a fair trial? |
7. Nếu công việc tái xem xét này là một phương pháp phát triển khoa học chắc chắn, thì tôi đã bao giờ thử nghiệm phương pháp niềm vui một cách công bằng chưa? Hay thử công việc quán chiếu lại (review) một cách công bằng? |
8. What basis can I find in my study that this method of reviewing is the way for me, and that it will intensify my capacity for increased usefulness in service and thus speed my progress on the Path? |
8. Cơ sở nào tôi có thể tìm thấy trong nghiên cứu của mình rằng phương pháp quán chiếu lại này là con đường dành cho tôi, và nó sẽ tăng cường khả năng của tôi để ngày càng hữu ích hơn trong việc phụng sự, và do đó đẩy nhanh tiến bộ của tôi trên Đường Đạo? |
9. Is my progress on the Path of importance? Why? |
9. Sự tiến bộ của tôi trên Đường Đạo có quan trọng không? Tại sao? |
10. If it is true that the blind must advance by touching, and by keeping hold, but that those with sight move by seeing and by keeping free and unattached, why then (having sight) do I close my eyes and hold on, and feel my way instead of seeing it? Those who can see are full of joy, and can be messengers and helpers. Those who touch have simply to be led. Of which of these two groups am I a member? |
10. Nếu đúng là người mù phải tiến lên bằng cách chạm và bằng cách giữ, nhưng những người sáng mắt di chuyển bằng cách nhìn và bằng cách giữ được tự do và không bị ràng buộc, thì tại sao tôi (người có thị lực), lại nhắm mắt lại và giữ, và cảm nhận con đường thay vì nhìn thấy nó? Những người có thể nhìn thấy, họ tràn đầy niềm vui và có thể là sứ giả và người giúp đỡ. Những người chạm vào chỉ đơn giản là được dẫn dắt. Tôi là thành viên của nhóm nào trong hai nhóm này? |
11. Is my mind the organ of vision for the spiritual man? Am I offering this organ to the higher self to use? |
11. Thể trí của tôi có phải là cơ quan thị giác của con người tinh thần không? Tôi có đang cung cấp cơ quan này cho thượng ngã (cái tôi cao siêu hơn) để sử dụng không? |
12. Can I hold the mind steady in the light of the soul? |
12. Tôi có thể giữ vững thể trí trong ánh sáng của linh hồn không? |
13. As I review my day, what part has joy played? |
13. Khi tôi nhìn lại (review) một ngày của mình, niềm vui đóng vai trò gì? |
14. How do I define the word joy? |
14. Làm thế nào để định nghĩa từ vui? |
15. Have I been ruled by joy, and has it dominated my day? |
15. Tôi có bị niềm vui chi phối không, và nó có chi phối cả ngày của tôi không? |
16. Joy is the quality which grows out of self-realisation. Am I able to forget the fragmentary personal self? Can I recognise the One Self in all selves? |
16. Niềm vui là phẩm chất phát triển từ sự tự nhận thức. Tôi có thể quên đi cái tôi cá nhân rời rạc không? Tôi có thể nhận ra Bản Ngã Duy Nhất trong tất cả các bản ngã không? |
17. We are told that there is an archetype, a pattern, a way, a goal, and a light which shines upon the Path. But, realising this, do I know anything of the joy which should irradiate my way? |
17. Chúng ta được biết rằng có một nguyên mẫu, một khuôn mẫu, một con đường, một mục tiêu và một ánh sáng chiếu rọi trên Con đường. Nhưng, khi nhận ra điều này, tôi có biết chút gì về niềm vui sẽ tỏa sáng trên con đường của tôi không? |
18. How is the archetypal pattern of joy (which is bliss ) reflected in my life? |
18. Khuôn mẫu nguyên mẫu của niềm vui (tức là chí phúc—bliss) được phản ánh trong cuộc sống của tôi như thế nào? |
19. Do I recognise my fellow pilgrims on the Way of Joy? |
19. Tôi có nhận ra những người hành hương huynh đệ của tôi trên Con Đường của Niềm Vui không? |
20. Is the objective of joy always before me? [400] |
20. Mục tiêu của niềm vui có luôn ở trước mặt tôi không? [400] |
21. Can I draw upon the Joy and Bliss of the Path when others need it? |
21. Tôi có thể rút Niềm vui và Chí phúc từ Con đường khi người khác cần nó không? |
22. I am the redeemer of the lower nature. In what way does joy redeem? |
22. Tôi là người cứu chuộc bản chất thấp hơn. Bằng cách nào niềm vui cứu chuộc? |
23. Does redeeming joyous force flow through me? |
23. Có phải sức mạnh của niềm vui cứu chuộc tuôn chảy trong tôi không? |
24. My nature is in truth joy, or bliss. In what fashion does this joy manifest itself? Does it manifest at all? |
24. Bản chất của tôi là niềm vui chân thật, hay chí phúc. Niềm vui này thể hiện theo cách nào ? Nó có biểu hiện gì không? |
25. In which body do I most easily express my joy? |
25. Tôi dễ bày tỏ niềm vui của mình nhất trong thể nào? |
26. If I demonstrated joy, was it a task, or did I find it easy? |
26. Nếu tôi thể hiện niềm vui, đó là một nhiệm vụ, hay tôi thấy nó dễ dàng? |
27. What activities and qualities of my lower nature need to be eliminated if I seek to serve more joyously? |
27. Những hoạt động và phẩm chất nào thuộc bản chất thấp kém của tôi cần phải loại bỏ nếu tôi muốn phụng sự một cách vui vẻ hơn? |
28. What truthfully hinders my being full of joy? |
28. Điều gì thực sự cản trở niềm vui của tôi ? |
29. How does a joyous spirit affect my fellowmen? |
29. Tinh thần vui vẻ ảnh hưởng đến đồng loại của tôi như thế nào? |
30. In what way can I most joyously serve my fellowmen? |
30. Tôi có thể phụng sự đồng loại của mình một cách vui vẻ nhất theo cách nào? |
September 1937—Tháng 9 năm 1937
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ TÔI: |
The difficulties and the trials which the disciple experiences upon the Way are, as you have discovered, only relative; they are oft offset by the pouring in of a sense of inner release. The compensations on the Way are not so often considered as are the difficulties. In the human being there is ever a tendency towards sorrow and suffering which has eventually to be negated; this tendency is one of the problems which the Hierarchy has to face, as it seeks strenuously, at this time, to lift mankind out of the morass in which it finds itself. This “tendency to misery,” founded as it is on an attitude of mind, is of such ancient habit that it seems inconceivable to man that a different point of view and a totally different reaction to life affairs could ever be possible. I am referring to this because (in the midst of problems and tests) you are discovering the Way of Compensation. Do you think, my brother, that you could write a paper on this theme, “Compensations on the Way,” for the helping of your fellowmen and for the stabilising of your own inner attitude? |
Những khó khăn và thử thách mà người đệ tử trải qua trên Đường Đạo, như em đã khám phá ra, chỉ là tương đối; chúng thường được hoá giải bằng tuôn đổ vào một cảm giác giải phóng nội tâm. Những sự bù đắp trên Đường Đạo thường không được xem xét giống như các các khó khăn được xem xét. Trong con người luôn luôn có một khuynh hướng hướng tới buồn phiền và đau khổ mà cuối cùng phải bị triệt tiêu; xu hướng này là một trong những vấn đề mà Thánh đoàn phải đối mặt, khi vào lúc này, các Ngài đang nỗ lực tìm cách để nâng nhân loại ra khỏi vũng lầy mà họ đang ở trong đó. “Khuynh hướng đau khổ” này, được hình thành dựa trên thái độ của tâm trí, là một thói quen cổ xưa đến mức con người dường như không thể tưởng tượng được rằng có một quan điểm khác và một phản ứng hoàn toàn khác đối với các vấn đề trong cuộc sống lại có thể xảy ra. Tôi đang đề cập đến điều này bởi vì (giữa các vấn đề và thử thách) em đang khám phá ra Con đường Bù Đắp. huynh đệ của tôi, em có nghĩ rằng em có thể viết một bài viết về chủ đề này, “Những bù đắp trên đường đạo,” để giúp đỡ đồng bào của em và để ổn định thái độ bên trong của chính em không? |
I have given you much about which to think in my instruction; may it not be possible that, before long, through the release from the load of business cares, there may come for you a time of widened service? This could be through the use of [401] your pen, for you have knowledge of that which should be said, and words flow with ease from your pen, even if you realise it not. I commend this to you for your consideration. You have been much occupied for many years with the cares of a great business organisation and your imposed (and rightly imposed) preoccupations were with the more material aspects of life. Such was your dharma. Within that sphere of activity, you have preserved an inner orientation to the spiritual values and a fixed determination to tread the Way which naught has been able to alter. |
Tôi đã cho em nhiều điều để suy nghĩ trong hướng dẫn của tôi; chẳng bao lâu nữa, nhờ được giải thoát khỏi gánh nặng của những mối quan tâm kinh doanh, em có thể sẽ có một thời điểm để mở rộng công việc phụng sự? [401] Điều này có thể thông qua việc sử dụng ngòi bút của em, vì em có kiến thức về những điều nên nói, và từ ngữ tuôn ra một cách dễ dàng từ ngòi bút của em, ngay cả khi em không nhận ra điều đó. Tôi khen ngợi điều này để em xem xét. Em đã bận rộn trong nhiều năm với sự quan tâm của một tổ chức kinh doanh lớn và mối bận tâm áp đặt (và áp đặt đúng đắn) của em là với các khía cạnh vật chất hơn của cuộc sống. Đó là nghĩa vụ (dharma) của em. Trong lĩnh vực hoạt động đó, em đã duy trì một định hướng bên trong hướng về các giá trị tinh thần và một quyết tâm kiên định để đi theo Đường Đạo mà không gì có thể thay đổi. |
Much preoccupation, however, with little things and the demands of the many clamouring personalities who surround you have slowed the pace. You might, perhaps, have travelled faster had you been able, more efficient, to separate the essential from the non-essential. This I think you know. Having realised this, a future of constructive beauty lies ahead, if so you will, or the more ordinary life of one whose vehicle is not young and who submits to the imperative voice of physical fatigue and the liabilities of a physical body which has been used for many years. I say to you, therefore: Face the future with joy and know that it holds for you renewed opportunity, and later a re-adjustment of your time and interests which will permit you the leisure for deepened understanding and an increased usefulness in service. There is much that you can do and much in which you can assist me. Time will show you the ways and means. Have patience. |
Tuy nhiên, quá nhiều mối bận tâm với những điều nhỏ nhặt và nhu cầu của nhiều phàm ngã ồn ào xung quanh em đã làm chậm bước chân của em. Có lẽ em đã đi nhanh hơn, nếu em có thể tách những gì thiết yếu khỏi những gì không cần thiết hiệu quả hơn. Điều này tôi nghĩ em biết. Khi nhận ra điều này, một tương lai của vẻ đẹp mang tính xây dựng sẽ ở phía trước, nếu em muốn, hoặc cuộc sống bình thường hơn của một người có vận cụ không còn trẻ và phải tuân theo tiếng nói mệnh lệnh của sự mệt mỏi về thể chất và trách nhiệm của một cơ thể vật chất đã qua sử dụng trong nhiều năm. Do đó, tôi nói với em: Hãy đối mặt với tương lai với niềm vui và biết rằng nó mang đến cho em cơ hội mới, và sau đó là sự điều chỉnh lại thời gian và sở thích của em, điều này sẽ cho em sự nhãn rỗi để hiểu sâu hơn và ngày càng hữu ích hơn trong việc phụng sự. Có nhiều điều em có thể làm và nhiều điều em có thể giúp tôi. Thời gian sẽ chỉ cho em cách thức và phương tiện. Hãy kiên nhẫn. |
It will, I believe, aid you in the relinquishing process and help you to readjust your life to time and circumstance if you will ponder upon the five energies which are dominant in your life expression during this incarnation. |
Tôi tin rằng nó sẽ hỗ trợ em trong quá trình từ bỏ và giúp em điều chỉnh lại cuộc sống của mình đối với thời gian và hoàn cảnh nếu em suy ngẫm về năm năng lượng chi phối biểu hiện cuộc sống của em trong lần tái sinh này. |
As you know, your rays—soul and personality—are the first and fifth; this in itself presents a problem, for it produces a preponderance of force upon the line of the major first ray. Fortunately for you, it was the aspect of organisation and the tendency to the occult life which were expressed through these energies and not the destroyer aspect or the over-critical mind, as might have been the case. You are not destructive; your outstanding qualities, if I might so express it, have been the power to organise and rule, and also love of the hidden realities. [402] |
Như em đã biết, các cung của em—cung linh hồn và phàm ngã—là cung một và cung năm; điều này tự nó gây ra một vấn đề, vì nó tạo ra một mãnh lực vượt trội trên đường lối của cung chính đầu tiên. May mắn cho em, chính khía cạnh tổ chức và xu hướng đối với cuộc sống huyền linh được thể hiện thông qua những năng lượng này, chứ không phải khía cạnh hủy diệt hoặc thể trí quá phên phán, như có thể đã xảy ra. Em không tàn phá; những phẩm chất nổi bật của em, nếu tôi có thể diễn đạt như vậy, là khả năng tổ chức và cai quản, cũng như tình yêu đối với những thực tại ẩn giấu. [402] |
Your mental body has been outstandingly a fourth-ray one, giving you a love of harmony which has aided you in organisation rule, a love of beauty which enabled you to see the real, and a discrimination which has enabled you to gather around yourself that which unfolded beauty to you—books and beautiful things. But it also gave you, as it ever does, a spirit of conflict, urging you forward to fresh victories in the cause of harmony. |
Thể trí của em thật nổi trội trên cung 4, mang đến cho em lòng yêu thích sự hài hòa vốn đã hỗ trợ em trong việc điều hành tổ chức, tình yêu cái đẹp giúp em nhìn thấy sự thật, và khả năng phân biện đã giúp em tập hợp xung quanh mình những điều giúp khai mở vẻ đẹp cho em—sách và những gì đẹp đẽ. Nhưng nó cũng mang lại cho em, như nó đã từng, một tinh thần xung đột, thôi thúc em tiến tới những chiến thắng mới vì sự hài hòa. |
Your astral body has been governed by the second ray, and, from certain points of view, this has been the most powerful influence in your personality equipment; it has been the balancing factor to the first-ray line energy, expressed by your soul and personality rays. It has linked you powerfully (and this should interest and cheer you) with the Masters M. and K.H. Who together form a definite “unit of service” in the work of the Hierarchy at this time. |
Thể cảm dục của em được cai quản bởi cung hai, và từ một số quan điểm, đây là ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong trang bị phàm ngã của em; nó là yếu tố cân bằng năng lượng của đường lối cung một, được thể hiện bởi các cung linh hồn và phàm ngã của em. Nó đã liên kết em một cách mạnh mẽ (và điều này sẽ khiến em thích thú và vui mừng) với các Chân sư M. và KH. Các Đấng cùng nhau tạo thành một “đơn vị phụng sự” nhất định trong công việc của Thánh Đoàn vào lúc này. |
Your physical body is on the third Ray of Active Intelligence. This has given you your capacity to work upon the physical plane, to handle money (though not in your own interests) and has tied you in closely with the material life of your environment, in a curiously symbolic manner. Ponder on this. |
Cơ thể vật lý của em nằm trên Cung ba của Trí thông tuệ Linh Hoạt. Điều này đã cho em khả năng làm việc trên cõi trần, xử lý tiền bạc (mặc dù không phải vì lợi ích của riêng em) và đã ràng buộc em chặt chẽ với đời sống vật chất trong môi trường của em, theo một cách biểu tượng kỳ lạ. Hãy suy ngẫm về điều này. |
You will be able to enlarge upon these ideas yourself from your knowledge of the ray tendencies and qualities, and you will find it of real interest to study the problem. My suggestion would be that you study the effect of this ray equipment upon your immediate environment. Later we will go into this matter in greater detail. Your rays, therefore, are: |
Em sẽ có thể tự mình mở rộng những ý tưởng này từ kiến thức của em về các khuynh hướng và phẩm chất của cung, và em sẽ thấy việc nghiên cứu vấn đề thực sự thú vị. Đề xuất của tôi là em nên nghiên cứu ảnh hưởng của trang bị cung này đối với môi trường gần gũi của em . Sau này chúng ta sẽ đi vào vấn đề này chi tiết hơn. Do đó, các cung của em là: |
1. The soul ray—the first Ray of Will or Power. |
1. Cung linh hồn—Cung một, Ý chí hay Quyền Năng. |
2. The personality ray—the fifth Ray of Concrete Science. |
2. Cung phàm ngã – Cung 5, Khoa học cụ thể. |
3. The ray of the mental body—the fourth Ray of Harmony through Conflict. |
3. Cung của thể trí – Cung bốn của Sự Hài Hòa thông qua Xung đột. |
4. The ray of the astral body—the second Ray of Love-Wisdom. |
4. Cung của thể cảm dục – Cung hai của Bác Ái – Minh Triết. |
5. The ray of the physical body—the third Ray of Active Intelligence. |
5. Cung của cơ thể vật lý – Cung ba Thông Tuệ Linh Hoạt. |
February 1938—Tháng 2 năm 1938
BROTHER OF OLD: |
HUYNH ĐỆ CỦA NGÀY XƯA: |
You have lately been given work which will constitute for you an integrating point. Much can be done by you through [403] quiet thought, the pouring out of love and of the first ray strength which you are so capable of giving, through the medium of your soul ray. On this opportunity to serve I would have you ponder deeply and reflect. The way of service is opening up to you, as I indicated to you in my last instructions, and your cooperation is welcome and needed. Adjustments are going on with rapidity in your life and the processes of living will steadily simplify for you, if you so choose and if you mould the future by the impress of your soul. |
Gần đây, em đã được giao công việc sẽ tạo nên điểm tích hợp cho em. [403] Em có thể làm được nhiều việc thông qua tư tưởng yên tĩnh, sự tuôn trào tình yêu thương và sức mạnh của cung một mà em có khả năng ban cho, thông qua trung gian là cung linh hồn của em. Về cơ hội phụng sự này, tôi muốn em suy ngẫm sâu sắc. Cách thức phụng sự đang mở ra cho em, như tôi đã chỉ ra cho em trong những hướng dẫn cuối cùng của tôi, và sự hợp tác của em được hoan nghênh và cần thiết. Những điều chỉnh đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng trong cuộc sống của em, và các quá trình của đời sống sẽ dần dần đơn giản hóa đối với em, nếu em chọn như vậy, và nếu em định hình tương lai bằng ấn tượng của linh hồn mình. |
It has been interesting to note how, in your case, the fourth ray mental body (which is a part of your equipment) has used its force in harmony far more often than in conflict, as is the effect in the majority of your brothers’ lives. This is due to the first ray activity of your soul which has resolved the conflict in harmony. Most of the conflict in your life has been the result of the activity of your astral body (working under second ray influence) with a reaction upon your third ray physical body. A close relation between the second and the third rays often works out in difficulty, for they express two different ways of building. This I will take up in greater detail later. |
Thật thú vị khi lưu ý rằng, trong trường hợp của em, thể trí cung 4 (vốn là một phần trong trang bị của em) đã sử dụng sức mạnh của nó một cách hài hòa thường xuyên hơn nhiều so với sự xung đột, như hiệu quả trong phần lớn đời sống của các huynh đệ của em. Điều này là do hoạt động của cung một trong linh hồn của em đã giải quyết xung đột một cách hài hòa. Hầu hết xung đột trong cuộc sống của em là kết quả của hoạt động của thể cảm dục của em (hoạt động dưới ảnh hưởng của cung hai) với một phản ứng lên cơ thể vật lý thuộc cung ba của em. Mối quan hệ chặt chẽ giữa cung hai và cung ba thường gây ra khó khăn, vì chúng thể hiện hai cách xây dựng khác nhau. Điều này tôi sẽ đề cập chi tiết hơn sau. |
I would like to call attention to the fact that many of your co-disciples are functioning with fourth ray mental bodies. This provides a most interesting reason why you were all chosen to work at the dissipation of glamour. The astral plane is the plane of duality, of the pairs of opposites, and it is the interplay of these opposites, plus the energies released by the individual, which has, during the ages, built up the world glamour. Harmony through Conflict is the characteristic and result of fourth ray activity. It expresses itself in fullness on the fourth plane where the major duality of the Spiritual Triad and the threefold personality meet, blend and resolve into a unity. I would commend this thought to you for pondering and reflection; it has a definite bearing upon group activity in connection with group dispelling of world glamour. The fourth ray mental bodies of the members will facilitate this task. |
Tôi muốn lưu ý đến sự kiện là nhiều đệ tử đồng môn của em đang hoạt động với thể trí thuộc cung 4. Điều này cung cấp một lý do thú vị nhất giải thích tại sao tất cả các em được chọn để làm việc nhằm xua tan ảo cảm. Cõi cảm dục là cõi của nhị nguyên, của các cặp đối lập, và chính sự tương tác của những đối cực này, cộng với các năng lượng do cá nhân giải phóng qua các thời đại, đã tạo nên ảo cảm thế gian. Hòa hợp thông qua Xung đột là đặc tính và kết quả của hoạt động cung bốn. Nó tự biểu lộ một cách trọn vẹn trên cõi thứ tư, nơi mà nhị nguyên chính là Tam nguyên Tinh thần và phàm ngã tam phân gặp gỡ, hòa trộn và hoá giải thành một thể thống nhất. Tôi đề xuất tư tưởng này để em cân nhắc và suy ngẫm; nó có một ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động của nhóm liên quan đến việc xua tan ảo cảm thế gian của nhóm. Các thể trí cung 4 của các thành viên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ này. |
You, having rays one, four and five active in your equipment, can see where your work dovetails into the picture. |
Với các cung một, bốn và năm đang hoạt động trong thiết bị của mình, có thể thấy công việc của em phù hợp với bức tranh ở đâu. |
I have not much in the way of personal instruction to give you at this time. The production of a creative adjustment of [404] the imminent changes in your life and the establishing of yourself as a renewed centre of force in whatever environment claims your soul’s attention will be adequate for your full spiritual employment, will it not, my brother? |
Tôi không có nhiều hướng dẫn cá nhân để cung cấp cho em vào lúc này. [404] Việc tạo ra một sự điều chỉnh sáng tạo đối với những thay đổi sắp xảy ra trong cuộc sống của em, và thiết lập bản thân em như một trung tâm sức mạnh mới trong bất kỳ môi trường nào, đòi hỏi sự chú ý của linh hồn em, nó sẽ đủ cho công việc tinh thần trọn vẹn của em, phải không, huynh đệ của tôi? |
I would have you, however, ponder on the following facts. |
Tuy nhiên, tôi muốn em suy ngẫm về những sự thật sau đây. |
1. Soul energy is, for you, focussed in the astral body. |
1. Đối với em, năng lượng linh hồn tập trung trong thể cảm dục. |
2. Personality force is focussed in the mental body. |
2. Mãnh lực phàm ngã tập trung trong thể trí. |
We will leave the work of meditation as it is at present along with the continuance of the review of Joy. May Joy, indeed, rest upon you and enable you to go in peace. |
Chúng ta sẽ duy trì công việc tham thiền như hiện nay cùng với việc tiếp tục xem xét Niềm Vui. Mong Niềm vui sẽ đến với em và giúp em bước đi trong bình an. |
February 1939—Tháng 2 năm 1939
MY BROTHER AND FELLOW WORKER: |
HUYNH ĐỆ VÀ ĐỒNG NGHIỆP CỦA TÔI: |
I am not analysing your personality forces, particularly your astral force as I had suggested doing, because I gave you a sufficiently complete analysis in my last instruction. What I there indicated is all you need at this time. Later, I may perhaps elaborate, but at present you have all you need to know in order to carry on satisfactorily. In humility and in strength to love lies your release, my brother, and this I know you realise. |
Tôi không phân tích các mãnh lực phàm ngã của em, đặc biệt là mãnh lực thể cảm dục của em như tôi đã đề nghị làm, bởi vì tôi đã phân tích đầy đủ cho em trong hướng dẫn cuối cùng của tôi. Những gì tôi đã chỉ ra ở đó là tất cả những gì em cần vào lúc này. Sau này, có lẽ tôi có thể giải thích thêm, nhưng hiện tại em có tất cả những gì em cần biết để tiếp tục một cách thỏa đáng. Trong sự khiêm tốn và sức mạnh để yêu thương là sự giải thoát của em, em thân mến, và điều này tôi biết em nhận ra. |
This year has been one of supreme difficulty, has it not, and the end is not immediate. One of the major lessons which all disciples have to master before initiation becomes possible, is that of steady persistence in the face of all that seeks to produce difficulty. Your personal problem is enhanced and becomes exceedingly complex because of the reactions of your immediate associates and your strenuous endeavour to lift all that you possibly can off their shoulders. It becomes, therefore, a lesson in group activity and hence most valuable. Lift not too much, my brother. It is the right of their souls to learn the same lessons as you have had to learn and an over-pitiful heart is not always the most helpful of possessions. A loving heart is always helpful. You learnt much in your past incarnation along this line and learnt satisfactorily. Take not away from others this right to stand alone by too great a display of that shielding love which your powerful astral body so easily and so selflessly can express. Let them stand up to the issues of the soul which are brought to their attention through the medium of the material [405] lesson, and thus enable them to enter upon their next life better equipped to love, to work and to live unselfishly. |
Năm nay là một năm cực kỳ khó khăn, phải không, và sự kết thúc không phải là ngay lập tức. Một trong những bài học quan trọng mà tất cả các đệ tử phải nắm vững trước khi có thể được điểm đạo, đó là sự kiên trì bền bỉ khi đối mặt với tất cả những gì tìm cách gây khó khăn. Vấn đề cá nhân của em gia tăng và trở nên cực kỳ phức tạp do phản ứng của các cộng sự trực tiếp của em, và nỗ lực vất vả của em để nâng tất cả những gì em có thể khỏi vai họ. Do đó, nó trở thành một bài học trong hoạt động nhóm, và do đó có giá trị nhất. Đừng nâng quá nhiều, huynh đệ của tôi. Linh hồn của họ có quyền học những bài học giống như em đã phải học, và một trái tim quá thương hại không phải lúc nào cũng là thứ hữu ích nhất trong số các tài sản. Một trái tim yêu thương luôn hữu ích. Em đã học được nhiều điều trong kiếp trước của mình theo con đường này, và đã học được một cách thỏa đáng. Đừng lấy đi của người khác quyền được đứng một mình bằng cách thể hiện tình yêu thương che chở quá vĩ đại mà thể cảm dục mạnh mẽ của em có thể thể hiện một cách dễ dàng và vô vị lợi như vậy. Hãy để họ đứng vững trước những vấn đề của linh hồn, được mang đến cho họ thông qua phương tiện là [405] bài học vật chất, và nhờ đó giúp họ bước vào kiếp sống tiếp theo, được trang bị tốt hơn để yêu thương, làm việc và sống một cách vị tha. |
Your one way out is to be focussed constantly in the soul, remembering that, as you achieve this alignment and contact, the soul has its major point of contact with your personality, via your astral body. This is for you a blessing, even when it constitutes a problem. Perhaps you will grasp what I am seeking to convey to you if I say that this relation was established by the intelligent will of your soul in order to stiffen your astral reactions with first ray energy and colour them with that detached and isolated strength which is the main characteristic of the first ray. The intent was to make you strong in what had been your weakest point. Detachment, strongly felt in love (for forget not that the first ray is only the first sub-ray of the great cosmic ray of Love) is the factor which will bring release and understanding, not only to you but to all around you. The aspect of devotion which the astral body so easily expresses must be transmuted into detached but selfless love. Remember that true love has sometimes to stand aside and look on peacefully whilst others learn their lessons—a thing hard indeed for you to do, brother of mine. |
Lối thoát duy nhất của em là liên tục tập trung vào linh hồn, hãy nhớ rằng, khi em đạt được sự chỉnh hợp và tiếp xúc này, linh hồn có điểm tiếp xúc chính với phàm ngã của em thông qua thể cảm dục của em. Đây là một phước lành cho em, ngay cả khi nó tạo thành một vấn đề. Có lẽ em sẽ nắm bắt được điều tôi đang tìm cách truyền đạt cho em nếu tôi nói rằng mối quan hệ này được thiết lập bởi ý chí sáng suốt của linh hồn em nhằm làm cứng các phản ứng của thể cảm dục em bằng năng lượng cung một, và tô điểm cho chúng bằng sức mạnh tách biệt và biệt lập vốn là đặc điểm chính của cung một. Mục đích là làm cho em mạnh mẽ trong những điểm yếu nhất của em. Sự Tách rời, được cảm nhận mạnh mẽ trong tình yêu thương (vì đừng quên rằng cung một chỉ là cung phụ đầu tiên của cung vũ trụ vĩ đại là Bác Ái) là nhân tố sẽ mang lại sự giải thoát và hiểu biết, không chỉ cho em mà còn cho tất cả những người xung quanh em. Khía cạnh của lòng tận tụy mà thể cảm dục thể hiện rất dễ dàng phải được chuyển hóa thành tình yêu thương tách rời nhưng vị tha. Hãy nhớ rằng tình yêu thương đích thực đôi khi phải đứng sang một bên, và bình thản nhìn khi những người khác học bài học của họ—một điều thực sự khó khăn đối với em, em thân mến. |
All I would ask you to do along the line of meditation is a simple voiced act of consecration to the service of the soul which is, in the last analysis, the service of humanity and of the Hierarchy. Such is the sequence. Do this prior to participating in the group meditation. Let the personality identify itself with the soul, detaching itself deliberately from all other contacts, by an act of the will and (from that point on) let the soul respond by sounding the O.M. three times as it “takes possession” of the personality for service. |
Tất cả những gì tôi yêu cầu em thực hiện theo con đường tham thiền là một hành động dâng hiến có tiếng nói đơn giản để phụng sự linh hồn, mà xét cho cùng, đó là phụng sự nhân loại và Thánh Đoàn. Đó là trình tự. Làm điều này trước khi tham gia tham thiền nhóm. Hãy để phàm ngã tự đồng hóa mình với linh hồn, dứt khoát tách nó khỏi mọi tiếp xúc khác bằng một hành động của ý chí, và (từ thời điểm đó trở đi) hãy để linh hồn đáp lại bằng cách xướng linh từ OM ba lần khi nó “chiếm hữu” phàm ngã để phụng sự. |
You think with clarity, my brother, when the emotions of others do not overwhelm you and sweep your astral body into unison with theirs. Refuse then to be overwhelmed and regard not yourself as failing in some respect when others fail to meet the issues as they should. The reactions of others are not your responsibility. It is your responsibility to give them strength and detachment. Shoulder not, therefore, responsibilities which are not yours. This is one of the hardest lessons an initiate has to learn before he can be admitted as an active worker into the Hierarchy of Love. [406] |
Em thân mến, em suy nghĩ sáng suốt khi cảm xúc của người khác không lấn át em và cuốn thể cảm dục của em vào trạng thái đồng nhất với thể cảm dục của họ. Khi đó, hãy từ chối để không bị choáng ngợp và không coi mình là người thất bại ở một khía cạnh nào đó, khi những người khác không đáp ứng được các vấn đề như họ nên làm. Phản ứng của người khác không phải là trách nhiệm của em. Em có trách nhiệm cung cấp cho họ sức mạnh và sự tách rời. Do đó, đừng gánh vác những trách nhiệm không phải của em. Đây là một trong những bài học khó nhất mà một điểm đạo đồ phải học trước khi y có thể được thừa nhận là một người hoạt động tích cực trong Thánh Đoàn của Tình Yêu. [406] |
Life holds for you fresh changes. Be not dismayed, for those changes indicate an open door and a wider field for loving service. |
Cuộc sống giữ cho em những thay đổi mới. Đừng nản lòng, vì những thay đổi đó cho thấy một cánh cửa rộng mở và một lĩnh vực rộng lớn hơn để phụng sự đầy yêu thương. |
NOTE: This disciple stands steady in the Tibetan’s Ashram. |
LƯU Ý: Vị đệ tử này đứng vững vàng trong Ashram của Chân sư Tây Tạng. |
Quyển II
January 1940—Tháng 1 năm 1940
Life has been so difficult for you, brother of mine, that I hesitate (because I have an understanding of much that you are enduring) to lay upon you any further burden of self-discipline or more of the life of introspection. You have stood in the midst of your world and watched it come down, crashing around you; you have stood as a tower of strength to those who are tied to you in the closest links and have not [643] failed them; you have preserved your values clear whilst seeing the material values dissolve into thin air. That you still have a few personal glamours and are still taken in by your own high grade reactions to circumstance and people is of course true but I question whether anything is to be gained through your focussing your attention upon them at this time. |
Cuộc sống đối với em quá khó khăn, em thân mến, đến nỗi tôi ngần ngại (vì tôi hiểu rất nhiều điều mà em đang phải chịu đựng) đặt lên vai em thêm bất kỳ gánh nặng nào về kỷ luật tự giác, hoặc nhiều hơn nữa về cuộc sống nội tâm. Em đã đứng giữa thế giới của mình và chứng kiến nó đổ sập xuống xung quanh em; em đã đứng như một tòa tháp của sức mạnh cho những người gắn bó với em trong những liên kết gần gũi nhất, và đã không làm họ thất vọng; [643] em đã bảo tồn các giá trị của mình rõ ràng trong khi nhìn thấy các giá trị vật chất tan thành mây khói. Việc em vẫn còn một vài ảo cảm cá nhân và vẫn bị thu hút bởi những phản ứng cao cấp của chính em đối với hoàn cảnh và con người tất nhiên là đúng, nhưng tôi đặt câu hỏi liệu em có đạt được điều gì khi tập trung sự chú ý của mình vào chúng vào lúc này hay không. |
Stand steady, therefore, and be not unduly distressed. Avoid at least one glamour and that is the glamour that it is your task to shoulder all responsibilities and make all final decisions. Leave people, brother of old, the opportunity which you yourself so much welcome, of learning the needed lessons. Seek not unduly to lift and shield, for the shielding mother-complex is in itself a glamour. |
Do đó, hãy đứng vững và đừng quá đau khổ. Hãy tránh ít nhất một ảo cảm, và đó là ảo cảm rằng nhiệm vụ của em là gánh vác mọi trách nhiệm và đưa ra mọi quyết định cuối cùng. Huynh đệ của ngày xưa, hãy để lại cho mọi người cơ hội, việc mà bản thân em rất hoan nghênh, để học những bài học cần thiết. Đừng tìm cách nâng và che chắn quá mức, vì phức cảm của người mẹ che chắn chính là một ảo cảm. |
My love and strength is at your service. |
Tình yêu và sức mạnh của tôi dành cho việc phụng sự của em. |
August 1940—Tháng 8 năm 1940
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
One of the outstanding characteristics of the pledged disciple is that he learns to stand steady and unmoving no matter what may be happening to him or around him. Much is happening to disciples these days for they bear the brunt of the world’s cataclysm. You may perhaps find this an astonishing statement but I would ask you to remember that they meet the prevalent conditions on all three planes simultaneously and are at the same time endeavouring to live as souls. The accuracy of my statement is, therefore, apparent if you will ponder for a few minutes on the implications. There is appalling suffering everywhere. Physically and emotionally, people throughout the world are handling the maximum of pain. The accepted disciple, however, is suffering also mentally and to this must be added his capacity to identify himself with the whole; his trained imagination also presents special difficulty for he can include possibilities which others may not envisage, and his sweep or grasp of the plan is presumably greater; he is also endeavouring to apply his knowledge of this plan to the immediate environing [644] situation and is strenuously attempting to understand and at the same time to interpret to others, no matter what he may be undergoing in his own personal life. |
Một trong những đặc điểm nổi bật của đệ tử thệ nguyện là y học cách đứng vững vàng và không xao động cho dù điều gì có thể xảy ra với y hoặc xung quanh y. Nhiều điều đang xảy ra với các đệ tử ngày nay vì họ phải gánh chịu gánh nặng của cơn đại hồng thủy của thế giới. Có lẽ em thấy đây là một phát biểu đáng kinh ngạc nhưng tôi yêu cầu em nhớ rằng họ đáp ứng với những điều kiện phổ biến trên cả ba cõi đồng thời, và cùng lúc nỗ lực để sống như những linh hồn. Do đó, tính chính xác trong tuyên bố của tôi là hiển nhiên nếu em chịu suy ngẫm trong vài phút về những hàm ý. Có đau khổ kinh hoàng ở khắp mọi nơi. Về thể chất và tình cảm, mọi người trên khắp thế giới đang phải đối mặt với nỗi khổ đau tối đa. Tuy nhiên, người đệ tử chính thức cũng đang đau khổ về mặt thể trí, và thêm vào điều này là khả năng của y để tự đồng hoá với tổng thể; trí tưởng tượng được rèn luyện của y cũng gây ra khó khăn đặc biệt vì y có thể bao gồm những khả năng mà những người khác có thể không hình dung ra, và khả năng nắm bắt Thiên Cơ của y có lẽ là lớn hơn; [644] y cũng đang cố gắng áp dụng kiến thức của mình về Thiên Cơ này vào hoàn cảnh kế cận, và đang cố gắng hết sức để hiểu và đồng thời diễn giải cho người khác, dù cho y có thể đang trải qua điều gì trong cuộc sống cá nhân của mình. |
In many cases, such as yours, environing conditions and chosen associates tend to complicate matters and you are, therefore, today facing your major life crisis and, I would add, you are facing it satisfactorily. |
Trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như trường hợp của em, các điều kiện xung quanh và các cộng sự được chọn có xu hướng làm phức tạp hóa vấn đề ,và do đó, hôm nay em đang đối mặt với cuộc khủng hoảng lớn trong cuộc đời mình, và tôi muốn nói thêm, em đang đối mặt với nó một cách thỏa đáng. |
There are many types of crisis in the lives of all aspirants, but in the case of those who are pledged disciples there are always two major crises in their lives: There is first of all the crisis of opportunity and its wise recognition. At some time, every disciple is faced with some determining choice which leads eventually to the distinctive nature of his life service. This usually takes place between the ages of twenty-five and forty, usually around the age of thirty-five. I refer not here to the choice which every able bodied and sane man has to take when he determines his life work, his place of living and his life associates. I refer to a free choice made when these other lesser choices have been made. Such a choice came to you in your earlier years. This crisis of opportunity relates ever to life service. This is true in spite of karma or environing conditions. It is not a choice of the personality, based upon expedient or earthly motives, necessity or anything else. It is a choice based upon the relation of the soul to the personality and only confronts disciples. |
Có nhiều loại khủng hoảng trong cuộc sống của tất cả những người chí nguyện, nhưng trong trường hợp của những đệ tử đã thệ nguyện thì luôn có hai cuộc khủng hoảng lớn trong cuộc đời họ: Trước hết là cuộc khủng hoảng về cơ hội và sự nhận biết khôn ngoan về nó. Vào một lúc nào đó, mỗi đệ tử phải đối mặt với một sự lựa chọn quyết định nào đó mà cuối cùng dẫn đến bản chất đặc biệt của sự phụng sự suốt đời của mình. Điều này thường diễn ra trong độ tuổi từ hai mươi lăm đến bốn mươi, thường là khoảng ba mươi lăm tuổi. Ở đây tôi không đề cập đến sự lựa chọn mà mọi người khỏe mạnh và lành mạnh phải thực hiện khi anh ta xác định công việc cuộc đời mình, nơi sinh sống và những người cộng tác với anh ta. Tôi đề cập đến một lựa chọn tự do được thực hiện khi những lựa chọn nhỏ hơn khác đã được thực hiện. Một sự lựa chọn như vậy đã đến với em trong những năm đầu của em. Cuộc khủng hoảng cơ hội này bao giờ cũng liên quan đến phụng sự đời sống. Điều này đúng bất chấp nghiệp quả hay điều kiện môi trường. Nó không phải là sự lựa chọn của cá nhân, dựa trên những động cơ thích hợp hoặc trần gian, sự cần thiết hay bất cứ điều gì khác. Đó là một sự lựa chọn dựa trên mối quan hệ của linh hồn với phàm ngã và chỉ đối diện với các đệ tử. |
The second crisis is the crisis of expression. This usually comes towards the later years of a disciple’s life. It concerns his stabilised life tendency and puts to the test all that he believes and for which he has stood and fought throughout his life experience. It is ever a hard and bitter test, going to the very roots of his life, and for those in preparation for initiation it is peculiarly acute. The conditions of the test may apparently seem no worse than the tests and difficulties which assault other people but, as I have pointed out above, they have to be met on all planes at once. Soul energy is ever involved thereby and this intensifies the response of each individual body in the lower man and also the personality as a whole, the integrated man. The stage of responsiveness which every disciple has achieved in relation to his environment, [645] his associates and his service greatly aggravates his difficulties. I am explaining this somewhat in detail as I am anxious to have you comprehend the nature of your problem and so be able to handle it with increased poise, understanding and triumph. Behind you lies a crisis of opportunity; you met it well. Today you face your crisis of expression and you will come through; true triumph is dependent upon specific achievement upon the inner planes and upon wresting the true values out of any situation, and of these, values based upon the physical plane are by far the least important. |
Cuộc khủng hoảng thứ hai là cuộc khủng hoảng thể hiện. Điều này thường xảy ra vào những năm cuối đời của một đệ tử. Nó liên quan đến xu hướng sống ổn định của y và thử thách tất cả những gì y y tin tưởng cũng như những gì y y đã đứng vững và chiến đấu trong suốt cuộc đời mình. Đó luôn là một thử thách khó khăn và cay đắng, đi đến tận gốc rễ của cuộc đời họ, và đối với những người chuẩn bị điểm đạo thì nó đặc biệt gay gắt. Các điều kiện của bài kiểm tra dường như không tệ hại hơn các bài kiểm tra và khó khăn tấn công những người khác, nhưng, như tôi đã chỉ ra ở trên, chúng phải được đáp ứng trên tất cả các cõi giới cùng lúc. Do đó, năng lượng của linh hồn luôn được có liên quan, và điều này tăng cường sự đáp ứng của mỗi thể trong phàm ngã và cả phàm ngã như một tổng thể, con người tích hợp. Mức độ đáp ứng mà mỗi đệ tử đã đạt được trong mối quan hệ với môi trường của mình, [645] với những người cộng sự và sự phụng sự của y làm trầm trọng thêm những khó khăn của y. Tôi đang giải thích điều này một cách chi tiết vì tôi nóng lòng muốn em hiểu được bản chất vấn đề của mình, và để có thể xử lý nó với tư thế đĩnh đạc, hiểu biết và thành công hơn. Phía sau em là cuộc khủng hoảng về cơ hội và em đã đáp ứng nó tốt. Hôm nay em phải đối mặt với cuộc khủng hoảng thể hiện và em sẽ vượt qua; chiến thắng thực sự phụ thuộc vào thành tựu cụ thể trên các cõi bên trong và vào việc giành lấy các giá trị đích thực từ bất kỳ tình huống nào, và trong số này, các giá trị dựa trên cõi vật lý cho đến nay là ít quan trọng nhất. |
If you will, all of you, study the instructions given by me to the individual members of the group and to the group itself, you will find that I am giving you definite instructions in the Way of Initiation. Your response and your search lies, however, in the field of esoteric recognition more than in the field of the reception of new facts. So much has been given out in the past few years and decades anent initiation; it has largely been made exoterically, and received exoterically and the true import of the teaching has been veiled. My task with you is not so much the impartation of new facts, truths, points of view and interest, but the awakening into reality of that which your mind already has received as theory and hypothesis. |
Nếu em, tất cả các em, chịu nghiên cứu những chỉ dẫn do tôi ban cho từng thành viên trong nhóm và cho chính nhóm, các em sẽ thấy rằng tôi đang ban cho các em những chỉ dẫn rõ ràng về Con đường Điểm đạo. Tuy nhiên, câu trả lời của em và sự tìm kiếm của em nằm trong lĩnh vực nhận thức bí truyền nhiều hơn là trong lĩnh vực tiếp nhận các sự kiện mới. Rất nhiều thứ đã được đưa ra trong vài năm và nhiều thập kỷ gần đây về điểm đạo; phần lớn nó đã được biến thành công truyền, được tiếp nhận một cách công truyền và ý nghĩa thực sự của giáo huấn đã bị che đậy. Nhiệm vụ của tôi với em không phải là truyền đạt những sự kiện, sự thật, quan điểm và mối quan tâm mới, mà là đánh thức trở thành hiện thực những gì mà tâm trí em đã tiếp nhận dưới dạng lý thuyết và giả thuyết. |
You stand today, my brother, at a major point of crisis and you stand alone. Those in your immediate environment are of no special service to you for they are not yet upon the path of discipleship. They are in the earliest stages of the path of probation and are unaware of it also. You have, therefore, only three sources of strength: |
Huynh đệ của tôi, hôm nay em đứng trước thời điểm khủng hoảng nghiêm trọng và em đứng một mình. Những người trong môi trường gần gũi của em không phụng sự gì đặc biệt cho em vì họ chưa bước trên Con Đường Đệ Tử. Họ đang ở giai đoạn đầu tiên của Con Đường Dự Bị và cũng không biết về điều đó. Do đó, em chỉ có ba nguồn sức mạnh: |
1. First and foremost, your contact with your own soul through meditation, reflection and joy. |
1. Đầu tiên và quan trọng nhất là sự tiếp xúc của em với linh hồn của chính mình thông qua tham thiền, suy ngẫm và niềm vui. |
2. Your contact with me, your Master, because through me some of the strength of the world of souls and of the Hierarchy can reach you. |
2. Sự tiếp xúc của em với tôi, Chân sư của em, bởi vì thông qua tôi, một số sức mạnh của thế giới linh hồn và của Thánh đoàn có thể đến được với em. |
3. Your group brothers in this new seed group. |
3. Nhóm huynh đệ trong nhóm hạt giống mới này. |
I would like to point out that in these three contacts you have the three aspects of divine expression appearing—from [646] the angle of stimulation and of vitalising power—and so three types of power are made available. Beginning with the lowest contact, your group brothers, you have the intelligent activity and consequent stimulation upon the physical plane of your contact with them; through your soul contact, the love aspect of divinity can be made manifest in you; and through your hierarchical contact, the will of God can pour into you. Thus all the three aspects of the divine nature can pour into you and meet with response from the three aspects of your lower manifested expression; thus you can become subservient to the divine. Ponder on this and seek to establish these contacts firmly and upon sound non-emotional lines. |
Tôi muốn chỉ ra rằng trong ba tiếp xúc này, em có ba phương diện của biểu hiện thiêng liêng xuất hiện—từ góc độ kích thích và của quyền năng tiếp sinh lực—và vì thế ba loại năng lực có sẵn. [646] Bắt đầu với sự tiếp xúc thấp nhất, tức là những huynh đệ trong nhóm của em, em có hoạt động thông minh và kết quả là sự kích thích trên cõi trần khi em tiếp xúc với họ; thông qua sự tiếp xúc linh hồn của em, khía cạnh bác ái của Thiên Tính có thể được biểu lộ trong em; và qua sự tiếp xúc Huyền Giai của em, ý chí của Thượng Đế có thể tuôn đổ vào em. Như vậy, tất cả ba phương diện của bản chất thiêng liêng có thể tuôn đổ vào em, và được ba thể của phàm ngã em đáp ứng; do đó em có thể trở thành phục tùng Thiên Tính. Hãy suy ngẫm về điều này và tìm cách thiết lập những mối liên hệ này một cách chắc chắn và dựa trên những đường lối không cảm xúc lành mạnh. |
You have a particularly interesting group of life forces or energies conditioning you, interesting because of the specific combination. The saving grace of your life expression has been your second ray astral body because the combination of a first ray soul, a fifth ray personality and a third ray physical expression might have resulted in a hard, concrete materialistic person. These rays are the ones which have produced what is called the Prussian type of mind. Incidentally, this ray combination produced your karmic relationships in this life. Fortunately for you, your past immediate incarnation as a personality was overwhelmingly second ray and of this you brought over a second ray astral nature and a fourth ray mental equipment. Hence the balancing in two directions and hence also the general trend of your life conditioning. |
Em có một nhóm sinh lực hoặc năng lượng đặc biệt thú vị chi phối em, thú vị vì sự kết hợp cụ thể. Ân sủng cứu rỗi cho biểu hiện cuộc sống của em là thể cảm dục cung hai của em, bởi sự kết hợp của linh hồn cung một, phàm ngã cung năm và thể vật lý cung ba có thể đã dẫn đến một người duy vật cứng rắn, cụ thể. Những cung này là những cung đã tạo ra cái được gọi là loại “tâm trí Phổ”. Ngẫu nhiên, sự kết hợp cung này tạo ra các mối quan hệ nghiệp quả của em trong cuộc sống này. May mắn thay cho em, kiếp trước liền kề đây của em có một phàm ngã chủ yếu thuộc cung hai, và nhờ đó em đã mang lại thể cảm dục cung hai và một thể trí cung bốn [trong kiếp này]. Do đó, sự cân bằng theo hai hướng và do đó cũng là xu hướng chung của việc điều hòa cuộc sống của em. |
It was your first ray lines of force which placed you in the particular locality in which you live and brought your life partner to you. It was your second ray background and its effects in your present life expression which hastened your affiliation with myself and brought to you your particular group of brothers in the new seed group. This information may prove of use to you even if it only serves to strengthen your faith and to indicate to you the reasonableness of the situation which your circumstances are forcing you to meet. |
Chính các đường hướng sức mạnh thuộc cung một của em đã đặt em vào địa phương cụ thể nơi em sống, và mang người bạn đời của em đến với em. Chính bối cảnh cung hai của em và những ảnh hưởng của nó trong biểu hiện cuộc sống hiện tại của em đã thúc đẩy em nhanh chóng liên kết với tôi và mang đến cho em nhóm huynh đệ đặc biệt của em trong nhóm hạt giống mới. Thông tin này có thể hữu ích đối với em ngay cả khi nó chỉ giúp củng cố niềm tin của em và cho em thấy tính hợp lý của tình huống mà hoàn cảnh buộc em phải đối mặt. |
Therefore, your major need is to strengthen and preserve the three contacts which form the background of your spiritual [647] life: your soul, your relation with me and your connection with your group brothers. By so doing, the sense of universality and of an expanded consciousness will grow and deepen and enable you to achieve that sense of proportion which will reveal the little self as an integral part of the great Self or Whole. By this statement I refer not only to your relation between the soul and the personality but to your relation—as a living entity—to the greater whole of which Humanity and the Hierarchy are integral parts. I would suggest, therefore, a line of thought or of meditation which will deepen and strengthen these attitudes. To this end I am going to suggest five points of recollection for you each day: |
Do đó, nhu cầu chính yếu của em là củng cố và duy trì ba mối liên hệ tạo thành nền tảng cho đời sống tinh thần của em : [647] linh hồn em, mối quan hệ của em với tôi, và mối liên hệ của em với những huynh đệ trong nhóm của em. Bằng cách làm như vậy, ý thức về tính phổ quát và về một tâm thức mở rộng sẽ phát triển và sâu sắc hơn, cho phép em đạt được ý thức về tỷ lệ vốn sẽ tiết lộ cái tôi nhỏ bé như một phần không thể thiếu của Đại ngã hoặc Tổng thể. Bằng tuyên bố này, tôi không chỉ đề cập đến mối quan hệ của em giữa linh hồn và phàm ngã, mà còn đề cập đến mối quan hệ của em—với tư cách là một thực thể sống—với tổng thể vĩ đại hơn mà Nhân loại và Thánh đoàn là những bộ phận không thể tách rời. Do đó, tôi muốn đề xuất một đường hướng suy nghĩ hoặc tham thiền vốn sẽ đào sâu và củng cố những thái độ này. Để đạt được điều này, tôi sẽ gợi ý cho em năm điểm hồi ức mỗi ngày: |
1. On awakening in the morning, before rising. |
1. Khi thức dậy vào buổi sáng, trước khi thức dậy. |
2. At noon. |
2. Buổi trưa. |
3. At sunset, whatever hour that may be. |
3. Vào lúc hoàng hôn, bất kể giờ nào. |
4. On retiring at night. |
4. Vào lúc nghỉ ngơi ban đêm. |
5. At the time of the group meditation, whenever you may decide to do it. |
5. Vào thời điểm tham thiền nhóm, bất cứ khi nào em có thể quyết định thực hiện. |
Thus a living continuity of sensed relationship will be established in your consciousness. |
Do đó, sự liên tục sống động của mối quan hệ được cảm nhận sẽ được thiết lập trong tâm thức của em. |
1. On awakening, sound the OM inaudibly and say: “I am one with the light which shines through my soul, my brothers and my Master.” |
1. Khi thức dậy, hãy xướng linh từ OM không thành tiếng và nói: “Tôi là một với ánh sáng chiếu rọi qua linh hồn tôi, huynh đệ tôi và Chân sư của tôi.” |
2. At noon, again sound the OM inaudibly and say with deep and slow reflection: “Naught separates me from my soul, my brothers and my Master. My life is theirs and theirs is mine.” |
2. Vào buổi trưa, hãy cướng lần nữa âm thanh OM không thành tiếng và nói với sự suy tư sâu và chậm: “Không có gì ngăn cách tôi khỏi linh hồn tôi, các huynh đệ và Chân sư của tôi. Cuộc sống của tôi là của họ và của họ là của tôi.” |
3. At sunset again sound the OM and say: “Naught can dim the love which flows between my soul and me, the little self. Naught can come between my brothers and my self. Naught can stop the flow of strength between me and my soul, between my brothers and my soul, between the Master of my life and me, His pledged disciple.” [648] |
3. Vào lúc hoàng hôn, một lần nữa hãy xướng linh từ OM và nói: “Không gì có thể làm lu mờ tình yêu thương tuôn chảy giữa linh hồn tôi và tôi, cái tôi nhỏ bé. Không có gì có thể đến giữa huynh đệ tôi và bản ngã tôi. Không gì có thể ngăn được dòng sức mạnh giữa tôi và linh hồn tôi, giữa huynh đệ tôi và linh hồn tôi, giữa Chân sư của đời tôi và tôi, đệ tử thệ nguyện của Ngài.” [648] |
4. On retiring, before you fall asleep, you again sound the OM and say: “From darkness lead us to light. I tread the way of life and light because I am a soul. With me there walk my brothers and my Master. Therefore within, without, and every side, there is light and love and strength.” |
4. Khi đi ngủ, trước khi chìm vào giấc ngủ, em lại xướng linh từ OM và nói: “Từ bóng tối hãy dẫn chúng tôi đến ánh sáng. Tôi bước đi trên con đường của sự sống và ánh sáng bởi vì tôi là một linh hồn. Cùng tôi với tôi là các huynh đệ tôi, Chân sư của tôi. Vì vậy, bên trong, bên ngoài và mọi phía đều có ánh sáng, tình thương và sức mạnh.” |
5. When doing the group meditation, begin to capitalise on this growing consciousness and before doing the work, link up with as much conscious realisation as possible with your soul, your brothers and myself, realising the indestructibility of the tie. |
5. Khi thực hành tham thiền nhóm, hãy bắt đầu tận dụng tâm thức đang phát triển này, và trước khi thực hiện công việc, hãy kết nối, với sự nhận thức có ý thức càng nhiều càng tốt, với linh hồn của em, huynh đệ của em, và bản thân tôi, nhận ra tính không thể phá hủy của mối liên kết. |
This work carried forward as a definite exercise will produce in you a deepened available strength and poise. It will only take a few seconds at each point or stated time, but those seconds will serve as points of crisis and of inpouring strength. |
Công việc này được tiến hành như một bài tập xác định sẽ tạo ra trong em một sức mạnh sẵn có sâu sắc và sự đĩnh đạc. Sẽ chỉ mất vài giây tại mỗi thời điểm hoặc thời gian đã chỉ định, nhưng những giây đó sẽ đóng vai trò là điểm khủng hoảng và truyền sức mạnh. |
August 1942—Tháng 8 năm 1942
1. I come to Thee, Lord of my Life, and from that point achieved, close at Thy feet I work. |
1. Con đến với Ngài, Chúa tể của đời con, và từ điểm đạt được, con làm việc gần với chân Ngài. |
2. Between me and the outer world there appears a haze of blue. That blue protects and hence I have no fear. Through it, I may not pass. |
2. Giữa tôi và thế giới bên ngoài xuất hiện một làn khói xanh. Màu xanh đó bảo vệ và do đó tôi không sợ hãi. Thông qua nó, tôi không thể vượt qua. |
3. And from this hour and henceforth upon the Way, I seek to Be. I seek no more to know, because this life has taught me how to know and with this knowledge gained, I now can serve by Being. |
3. Và từ giờ này trở đi trên Con đường, tôi tìm cách Hiện hữu. Tôi không tìm kiếm để biết nữa, bởi vì cuộc sống này đã dạy tôi cách biết và với kiến thức này có được, giờ đây tôi có thể phụng sự bằng Bản thể. |
4. Before me streams the Path of Light. I see the Way. Behind me lies the mountain path, with stones and cobbles on the way. Around me are the thorns. My feet are tired. But straight ahead stretches the Lighted Way and on that Way I walk. |
4. Trước mặt tôi là Con Đường Ánh Sáng. Tôi thấy Con đường. Đằng sau tôi là con đường núi, với đá và sỏi trên đường đi. Xung quanh tôi là những gai nhọn. Chân tôi mỏi nhừ. Nhưng thẳng về phía trước là Con đường được thắp sáng trải dài, và trên Con đường đó tôi bước đi. |
5. Pain comes from form-attachment. It takes two forms: Attachment to the forms of earth, of men and place; attachment to the truth. They both bring pain and pain must cease. Ask your soul how? [649] |
5. Nỗi đau đến từ sự bám chấp hình tướng. Nó có hai hình thức: Gắn bó với các hình dạng của trần gian, của con người và nơi chốn; gắn bó với sự thật. Cả hai đều mang lại đau đớn và đau đớn phải chấm dứt. Hãy hỏi linh hồn em như thế nào? [649] |
6. The threefold load, the blazing star, the path of light, the greater Star and through them all the throbbing of the heart of love, streaming from out the Ashram of D.K. enfolding all and thee. |
6. Tải trọng tam phân, ngôi sao rực rỡ, con đường ánh sáng, Ngôi sao vĩ đại hơn và qua chúng tất cả nhịp đập của trái tim yêu thương, tuôn ra từ Ashram của Chân sư DK bao trùm tất cả và em. |
September 1943—Tháng 9 năm 1943
MY BELOVED BROTHER: |
HUYNH ĐỆ YÊU QUÝ CỦA TÔI: |
A.A.B. has just called my attention to the six statements which I gave you to reflect upon more than a year ago. Knowing all that you had been through in the interim and are now passing through, she realised how extremely apposite and suitable they had proved to be. Pain has engulfed you and yours; anxiety along many lines, and all of them severely testing, has been your lot. Had you not been “close to the feet of the Lord of your Life,” you would have reached what might have been regarded as the valley of desperation. |
AAB vừa nhắc tôi chú ý của tôi đến sáu phát biểu mà tôi đã đưa ra để em suy ngẫm hơn một năm trước. Khi biết tất cả những gì em đã trải qua trong thời gian tạm thời và hiện đang trải qua, bà nhận ra rằng chúng đã được chứng minh là vô cùng phù hợp. Nỗi đau đã nhấn chìm em và những gì của em; lo lắng dọc theo nhiều đường hương, và tất cả chúng đều là thử thách nghiêm trọng, đã là số phận của em. Nếu em không “gần với bàn chân Chúa của đời mình,” thì em đã đến nơi có thể được coi là thung lũng tuyệt vọng. |
Yet you have not been truly desperate because the “haze of blue” has protected you, your group brothers have stood as a shield around you, and the strength of my Ashram has been at your disposal. People often fail to realise the nature and the potency of that strength—a strength that comes from a deep impersonal love and from the realisation that, in the light of the eternal verities, all pain is but temporary, all trouble and struggle ephemeral, and that we have passed oft this way before upon the unhappy little planet of suffering which we call the Earth. We come to know that we shall not pass this way so oft again. Did you grasp the significance of that sentence, my brother? |
Tuy nhiên, em chưa thực sự tuyệt vọng vì “làn sương xanh” đã bảo vệ em, những huynh đệ trong nhóm của em đã đứng như một lá chắn xung quanh em, và sức mạnh của Ashram của tôi đã sẵn sàng cho em sử dụng. Người ta thường không nhận ra bản chất và tiềm năng của sức mạnh đó—một sức mạnh đến từ một tình thương vô ngã sâu sắc, và từ việc nhận ra rằng, dưới ánh sáng của những chân lý vĩnh cửu, mọi nỗi đau chỉ là tạm thời, mọi rắc rối và đấu tranh đều là phù du, và rằng trước đây chúng ta đã thường đi qua con đường này trên hành tinh nhỏ bất hạnh đầy đau khổ mà chúng ta gọi là Trái đất. Chúng ta biết rằng chúng tôi sẽ không đi qua con đường này quá thường xuyên nữa. Em có nắm được ý nghĩa của câu đó không, em thân mến? |
Just as there are days in a year which seem to stand out because of their darkness and to be overcharged with blackness and agony, so there are lives which equally so stand out in a cycle of lives because of the varied experiences which they convey, the bitter piling up of pain and distress, and the handling of an accumulation of unhappy and oft agonising karma. But, my brother, all lives are not like this, and the fact that your present life has been for years so hard is the guarantee that you have worked off much karma, that you[650] stand infinitely freer and are less handicapped. The fruits of all this suffering you will reap as you enter your next incarnation. |
Giống như có những ngày trong một năm dường như nổi bật vì sự tối tăm của chúng, và bị phủ đầy bóng tối và đau đớn, cũng vậy, có những cuộc đời cũng nổi bật không kém trong một chu kỳ của cuộc đời vì những trải nghiệm đa dạng mà chúng truyền tải, cay đắng chồng chất đau khổ, và xử lý sự tích lũy của nghiệp quả bất hạnh và thường là thống khổ. Nhưng, hỡi huynh đệ, tất cả kiếp sống không phải như vậy, và thực tế rằng cuộc sống hiện tại của em đã quá khó khăn trong nhiều năm là sự đảm bảo rằng em đã giải toả nhiều nghiệp quả, rằng em [650] đứng vô cùng tự do và ít trở ngại hơn . Thành quả của tất cả những đau khổ này em sẽ gặt hái được khi em bước vào kiếp sau. |
So be of good cheer, and look forward and out towards a future of service and of joy, and this because you have endeavoured to live selflessly and to carry your load bravely, and because your life and deeds and your entire career have helped so many. |
Vì vậy, hãy vui vẻ lên, hướng tới và hướng ra ngàoi đến một tương lai phụng sự và vui vẻ, và điều này bởi vì em đã nỗ lực sống vị tha và gánh vác gánh nặng của mình một cách dũng cảm, và bởi vì cuộc sống, hành động và toàn bộ sự nghiệp của em đã giúp đỡ rất nhiều người. . |
I would remind you that pain, when it is lived out mentally for others, is the worst kind of pain. This you know. But I would remind you that the capacity so to do and so to identify yourself with pain that is not specifically your own is something that all disciples have to master, because it is one of the first steps towards shouldering world pain and the agony of the human family, thus becoming a participant in the “fellowship of Christ’s sufferings” and a lifter of world burdens. We work and live on a planet of pain. Until a man is an initiate of high degree he cannot even begin to sense the reasons why this is so; he must perforce then take refuge in the trite platitudes that suffering humanity has evolved to account for things as they are. None of these in any way approximate the true reasons or give any real insight into the problem. Men must wait for understanding until they can no longer be hurt or limited by the pain of others. This follows when we have learnt to handle our own pain. Then and only then can they begin to lift the burden of humanity as a whole and do their responsible share in lightening it. |
Tôi xin nhắc em rằng nỗi đau, khi nó được thể hiện một cách trí tuệ vì người khác, là nỗi đau tồi tệ nhất. Điều này em biết. Nhưng tôi muốn nhắc em rằng khả năng làm như vậy và do đó đồng hóa bản thân với nỗi đau không phải của riêng em là điều mà tất cả các đệ tử phải nắm vững, bởi vì đó là một trong những bước đầu tiên để gánh vác nỗi đau của thế giới, và nỗi thống khổ của gia đình nhân loại, do đó trở thành người tham gia vào “mối tương giao trong những đau khổ của Đức Christ” và là người nâng đỡ những gánh nặng của thế giới. Chúng ta làm việc và sống trên một hành tinh đau khổ. Cho đến khi một người là một điểm đạo đồ ở trình độ cao, y thậm chí không thể bắt đầu cảm nhận được những lý do tại sao điều này lại như vậy; sau đó y buộc phải nương tựa vào những điều tầm thường mà nhân loại đau khổ đã tiến hóa để giải thích cho mọi thứ như chúng vốn là. Không cái nào trong số này gần đúng với lý do thực sự hoặc đưa ra bất kỳ cái nhìn sâu sắc thực sự nào về vấn đề. Con người phải chờ đợi sự hiểu biết cho đến khi họ không còn có thể bị tổn thương hoặc bị giới hạn bởi nỗi đau của người khác. Điều này xảy ra sau khi chúng ta đã học cách xử lý nỗi đau của chính mình. Khi đó, và chỉ khi đó, họ mới có thể bắt đầu trút bỏ gánh nặng của nhân loại nói chung và thực hiện phần trách nhiệm của mình trong việc làm nhẹ gánh nặng đó. |
We come again here to those contradictory and beautiful words: Isolated Unity. When one is isolated from form attachments and when one is freed for identification with the life aspect, then one can know the true meaning of unity, then one is released from pain and one is free to release others also. |
Chúng ta lần nữa lại đến với những từ đẹp đẽ và mâu thuẫn đó: Sự Thống Nhất Biệt Lập. Khi một người được cô lập khỏi những ràng buộc về hình tướng và khi một người được tự do để đồng nhất với khía cạnh sự sống, thì người đó có thể biết được ý nghĩa thực sự của sự hợp nhất, khi đó người ta được giải thoát khỏi đau khổ và người ta cũng tự do giải thoát những người khác. |
This you are learning, and it is the last great lesson for you this life. It takes some time to learn it, because it is one of the very few basic lessons, implicating principles which are inherent in the planetary life and requiring the implementing of the soul to arrive at true understanding. You have made much progress along this line during this life and [651] have no cause for self-depreciation or regrets. I tell you this for your assurance, and would ask you to rest back upon my words. |
Điều này em đang học, và nó là bài học lớn cuối cùng cho em trong cuộc đời này. Phải mất một thời gian để học nó, bởi vì nó là một trong số rất ít bài học cơ bản, liên quan đến các nguyên lý vốn có trong sự sống hành tinh và đòi hỏi sự thực hiện của linh hồn để đạt được sự hiểu biết thực sự. Em đã đạt được nhiều tiến bộ trên con đường này trong kiếp sống này và [651] không có lý do gì để tự ti hay hối tiếc. Tôi nói với em điều này để đảm bảo với em, và mong em hãy dựa vào lời nói của tôi. |
Keep busy with my work, my brother, for there is naught left for the true disciple but the work of the Ashram, which is the work of the Hierarchy, which is work for humanity. Such is the outgoing sequence. For you now, it is not so much the eager, active, outer service, of which you have done so much in the past years, but it is the standing steady, and so becoming a channel and a link. Remember with care the words I gave you last year: “I now can serve by Being.” |
Hãy bận rộn với công việc của tôi, em thân mến, vì không còn gì cho người đệ tử chân chính ngoài công việc của Ashram, đó là công việc của Thánh Đoàn, là công việc cho nhân loại. Đó là trình tự. Đối với em bây giờ, đó không phải là phụng sự bên ngoài háo hức, tích cực, mà em đã làm rất nhiều trong những năm qua, nhưng mà là đứng vững chắc, và do đó trở thành một kênh và một liên kết. Hãy nhớ cẩn thận những lời tôi đã nói với em năm ngoái: “Bây giờ tôi có thể phụng sự bằng Hiện hữu.” |
Do not strive so much, my brother. Accept life conditions as they are; acquiesce in the situation as it is; relax for the remainder of this incarnation, and exoterically rest from your labours and esoterically enter into light. Work not under such a sense of inner strain and effort. I refer not to the outer strains and stresses to which you are subjected for they exist and are hard and difficult. I refer to your own inner attitude of recognition and acquiescence, of Being and attainment. |
Đừng phấn đấu nhiều như vậy, huynh đệ của tôi. Chấp nhận điều kiện cuộc sống như hiện tại; chấp nhận hoàn cảnh như hiện tại; thư giãn trong phần còn lại của kiếp sống này, và về mặt ngoại môn, nghỉ ngơi khỏi sự lao động của em và đi vào ánh sáng bí truyền. Đừng làm việc dưới cảm giác căng thẳng và nỗ lực bên trong như vậy. Tôi không đề cập đến những căng thẳng bên ngoài mà em phải chịu vì chúng tồn tại và khó khăn và khó khăn. Tôi đề cập đến thái độ bên trong của chính em về sự công nhận và bằng lòng, về Bản thể và sự đạt được. |
Those are the four key thoughts for your personal reflection during the coming year. The year that is on its way will hold great changes for you but you are strong enough and experienced enough to carry through triumphantly. The coming months will hold for you revelation, and that revelation will enhance the light upon the Lighted Way which stretches out before you; they will hold opportunity for you also, if you learn the hard lesson of relinquishment, and when next year closes you may find yourself surprised at the distance you will find you have travelled, the enlightenment you may find you have gained, and the increased sphere of your subjective usefulness. |
Đó là bốn suy nghĩ chính để em suy ngẫm trong năm tới. Một năm sắp tới sẽ có những thay đổi lớn đối với em nhưng em đủ mạnh mẽ và đủ kinh nghiệm để vượt qua một cách đắc thắng. Những tháng sắp tới sẽ mang đến cho em sự mặc khải, và sự mặc khải đó sẽ tăng cường ánh sáng trên Con đường được thắp sáng đang trải dài trước mặt em; chúng cũng sẽ nằm giữ cơ hội cho em, nếu em học được bài học khó khăn về sự từ bỏ, và khi năm tới kết thúc, em có thể thấy ngạc nhiên về khoảng cách mà em sẽ thấy mình đã đi, sự giác ngộ mà em có thể thấy mình đã đạt được và phạm vi tăng lên hữu ích chủ quan của em. |
Remember—you are not alone. I stand by and carry you consciously within my aura. |
Hãy nhớ rằng—em không đơn độc. Tôi sát cánh và mang em một cách có ý thức trong hào quang của tôi. |
November 1944—Tháng 11 năm 1944
MY BELOVED FRIEND AND TRUSTED DISCIPLE: |
NGƯỜI HUYNH ĐỆ YÊU THƯƠNG VÀ ĐỆ TỬ TIN CẬY CỦA TÔI: |
My heart has gone out to you during the past year as you have struggled with fatigue, with loneliness, with foreboding [652] and with anxieties of many kinds. You have stood with constant steadiness and you must know by now how highly steadiness is regarded by the Hierarchy. These culminating years of your life have been years of great difficulty and much pain—not only for yourself but for others. They have been years wherein everything has been wrested from you, leaving you upon that “pinnacle of loneliness” about which I spoke to your brother, W.D.S., in my instruction to him last year. I would have you regard that pinnacle as an exalted place from which the new vision can be seen. That pinnacle can be turned into a mount of initiation. |
Trái tim tôi đã hướng về em trong năm qua khi em phải vật lộn với sự mệt mỏi, với sự cô đơn, với những điềm báo [652] và với nhiều loại lo lắng. Em đã đứng với sự vững vàng liên tục, và bây giờ em phải biết rằng Thánh Đoàn đánh giá cao sự vững vàng như thế nào. Những năm đỉnh cao của cuộc đời em là những năm vô cùng khó khăn và nhiều đau đớn—không chỉ cho chính em mà còn cho những người khác. Đó là những năm mà mọi thứ đã bị tước đoạt khỏi tay em, khiến em rơi vào “đỉnh cao của sự cô đơn” mà tôi đã nói với huynh đệ của em, WDS, trong bài hướng dẫn của tôi cho em ấy vào năm ngoái. Tôi muốn em coi đỉnh cao đó là một nơi cao quý mà từ đó tầm nhìn mới có thể được nhìn thấy. Đỉnh cao đó có thể được biến thành đỉnh cao của điểm đạo. |
You have passed the three score years and ten of ordinary living and you are privileged to look back upon a life of great usefulness and of much inner spiritual progress. You have disposed of much karma and are far freer than when you entered into incarnation. |
Em đã vượt qua ba mươi lăm năm sống bình thường và em có vinh dự được nhìn lại một cuộc đời vô cùng hữu ích và có nhiều tiến bộ tinh thần bên trong. Em đã loại bỏ nhiều nghiệp quả và tự do hơn nhiều so với khi em nhập thế. |
The crux of the lesson which you are now in process of learning is to refrain from expectation—from life, from people and from circumstances—except that expectation which concerns spiritual opportunity and your relation to my Ashram. Disciples need to regard the Ashram more definitely as a place of spiritual enveloping, if I may use so peculiar a phrase. They need to regard it as a circle of protection, remembering that if their consciousness can escape into the Ashram, they are in a place of complete security where naught can reach or hurt them. Neither pain nor anxiety can overwhelm the man who dwells in the consciousness of eternity; this sense of the eternal, coupled with the realisation of essential unity, marks all dwellers in an Ashram. |
Mấu chốt của bài học mà em đang trong quá trình học tập là kiềm chế sự mong đợi—từ cuộc sống, con người và hoàn cảnh—ngoại trừ sự mong đợi liên quan đến cơ hội tinh thần và mối quan hệ của em với Ashram của tôi. Các đệ tử cần xem Ashram một cách chắc chắn hơn như một nơi bao bọc tinh thần, nếu tôi có thể sử dụng một cụm từ đặc biệt như vậy. Họ cần coi nó như một vòng tròn bảo vệ, nhớ rằng nếu tâm thức của họ có thể thoát vào Ashram, thì họ đang ở một nơi hoàn toàn an toàn, nơi không gì có thể tiếp cận hoặc làm hại họ. Nỗi đau hay sự lo lắng đều không thể lấn át con người sống trong tâm thức của vĩnh cửu; cảm giác vĩnh cửu này, cùng với việc nhận ra sự thống nhất thiết yếu, đánh dấu tất cả những người cư ngụ trong một Ashram. |
Herein lies your safety in the vicissitudes of your life. I am not speaking idly or symbolically, nor am I referring to the usual platitudes expressed in the injunction “dwell in the eternal.” I refer definitely to the place of a disciple within an Ashram of one of the Masters, and in particular to your place within my Ashram. This place is a reality and not a dream or a figment of wishful thinking; it is a sphere of focussed awareness where the minds, the love, the aspiration and the spiritual consciousness of many meet, and meet in truth. Of this meeting you can—as many have and do—[653] become conscious. Avoid vagueness as you think of the Ashram with which you are affiliated. Oft I warn and urge disciples to concentrate upon their service and upon their outer contacts, and thus avoid concentration upon the Ashram and upon me, the Master of the Ashram. Knowing your circumstances and seeing into your future, I reverse the injunction in your case and urge you to make the Ashram a reality in your life and to count with greater definiteness and surety upon my presence there and my understanding welcome. Your natural diffidence and humility will permit this and protect me and the Ashram from any undue pressure on your part, even if—in the stress of circumstances—you were prompted to make it. |
Đây là sự an toàn của em trong những thăng trầm của cuộc đời em. Tôi không nói một cách vu vơ hay tượng trưng, tôi cũng không đề cập đến những lời lẽ tầm thường thông thường được thể hiện trong mệnh lệnh “hãy ở trong vĩnh cửu”. Tôi đề cập dứt khoát đến vị trí của một đệ tử trong Ashram của một trong các Chân sư, và đặc biệt là vị trí của em trong Ashram của tôi. Nơi này là một thực tế và không phải là một giấc mơ hay một điều viển vông; đó là một lĩnh vực của nhận thức tập trung, nơi trí tuệ, tình thương, khát vọng và tâm thức tinh thần của nhiều người gặp nhau và gặp nhau trong sự thật. Về sự gặp gỡ này, em có thể—như nhiều người đã và đang làm— [653] trở nên ý thức. Tránh sự mơ hồ khi em nghĩ về Ashram mà em đang liên kết. Tôi thường cảnh báo và khuyến khích các đệ tử tập trung vào sự phụng sự của họ và các mối quan hệ bên ngoài của họ, và do đó tránh tập trung vào Ashram và vào tôi, Chân sư của Ashram. Biết hoàn cảnh của em và nhìn thấy tương lai của em, tôi đảo ngược lệnh trong trường hợp của em, và thúc giục em biến Ashram thành hiện thực trong cuộc sống của em, và tin tưởng một cách chắc chắn và chắc chắn hơn vào sự hiện diện của tôi ở đó, và sự chào đón hiểu biết của tôi. Sự tự tin và khiêm tốn bẩm sinh của em sẽ cho phép điều này và bảo vệ tôi và Ashram khỏi bất kỳ áp lực không đáng có nào từ phía em, ngay cả khi—trong hoàn cảnh căng thẳng—em được thúc giục phải làm điều đó. |
I would outline for you a meditation which will suffice for your needs for a long time to come. I am not putting it in the ordinary form, for all of you in this group should now have reached the point at which you can formulate your own meditation and reflective approach. I only indicate to you the setting for certain seed thoughts. |
Tôi sẽ vạch ra cho em một bài tham thiền đủ để đáp ứng nhu cầu của em trong một thời gian dài sắp tới. Tôi không đặt nó ở dạng thông thường, vì tất cả các em trong nhóm này bây giờ đã đạt đến điểm mà tại đó em có thể hình thành phương pháp tham thiền và suy ngẫm của riêng mình. Tôi chỉ chỉ ra cho em cách sắp đặt cho những tư tưởng hạt giống nhất định. |
I suggest that you think, first of all, of the Ashram, my Ashram, as a great centre of energy with which you (in your place and in your own way) are privileged to establish contact. See the Ashram as a sphere of radiant, magnetic light; then see me, as you know me, at the centre of that sphere, both emitting and receiving light, via the Christ and via the Ashram of which I was at one time a part—the Ashram of the Master K.H. See yourself also as a soul in contact with first ray energy, and thus contributing some of this energy, reaching you via the Ashram of the Master M., to the light and power of my Ashram. Having thus served and been served, and having taken your group brothers into your consciousness and recognised them as within the ashramic light, you can proceed to take three ideas or symbolic sentences as your theme for reflection, during the next few years. They will suffice to meet your need and to evoke in you the necessary spiritual attitudes. |
Tôi gợi ý rằng trước hết em hãy nghĩ về Ashram, Ashram của tôi, như một trung tâm năng lượng vĩ đại mà em (ở vị trí của em và theo cách riêng của em) có đặc quyền thiết lập liên hệ. Hãy xem Ashram như một quả cầu ánh sáng từ tính rạng rỡ; sau đó nhìn thấy tôi, như em biết tôi, ở trung tâm của quả cầu đó, vừa phát ra vừa nhận được ánh sáng, thông qua Đức Christ và thông qua Ashram mà tôi đã từng là một phần—Ashram của Chân sư KH. Hãy xem chính em như một linh hồn tiếp xúc với năng lượng của cung một, và do đó đóng góp một phần năng lượng này, đến với em qua Ashram của Chân sư M., cho ánh sáng và sức mạnh của Ashram của tôi. Do đó đã phụng sự và được phụng sự, và đã đưa những huynh đệ trong nhóm của em vào tâm thức của em và nhận ra họ như trong ánh sáng ashram, em có thể tiếp tục lấy ba ý tưởng hoặc câu biểu tượng làm chủ đề để suy ngẫm trong vài năm tới. Chúng sẽ đủ để đáp ứng nhu cầu của em và gợi lên trong em những thái độ tâm linh cần thiết. |
I. The Cross, erected high, reaches from the pinnacle [654] upon which I stand into the place of light, where dwells my Master. Against that Cross there rests a ladder. The golden Cross and the ladder of pure light are one, and by their means I rise. Upward I look and see an outstretched hand. Downward I look and see the many hands demanding aid. With gladness and with hope, I recognise the purpose of the two hands I possess. I climb the ladder, hard as it may seem, with both my hands outstretched—the one above my head to find it clasped with strength, the other down below to find it full of power to lift. |
I. Thập Giá, dựng cao, vươn từ đỉnh cao [654] nơi tôi đứng đến nơi ánh sáng, nơi Chân sư tôi ngự. Dựa vào Thập giá đó có một cái thang. Thập giá vàng kim và chiếc thang của ánh sáng thuần khiết là một, và nhờ chúng mà tôi vươn lên. Tôi nhìn lên trên và thấy một bàn tay dang ra. Tôi nhìn xuống và thấy nhiều bàn tay đang yêu cầu giúp đỡ. Với niềm vui và hy vọng, tôi nhận ra mục đích của hai bàn tay mà tôi sở hữu. Tôi leo lên thang, dù có vẻ khó khăn, với cả hai tay dang rộng—tay ở trên đầu tôi thấy nó được siết chặt bằng sức mạnh, tay kia ở bên dưới để thấy nó có đầy đủ sức mạnh để nhấc lên. |
II. A burning sea of flame. Beyond, a radiant sun. Behind, a world of darkness, gloom and heavy rain—a rain of tears. There, in the centre of a fire I stand, my eyes upon the sun. The vortex of the fire, the flaming rays of heat cast outward by the sun, blend with my fire and lo! it disappears. The greater fire blends with and consumes the little one. I turn and pass back—out of the light and warmth—into the world of gloom and mist and, as I turn, I hear a voice crying aloud: “Well done. Pass through the gloom; enter the mist; dry up the rain and tears and find yourself upon the other side, and near my heart.” |
II. Một biển lửa rực cháy. Ngoài kia, một mặt trời rạng rỡ. Đằng sau, một thế giới của bóng tối, u ám và mưa lớn—một cơn mưa nước mắt. Ở đó, ở giữa ngọn lửa tôi đứng, mắt nhìn lên mặt trời. Vòng xoáy của ngọn lửa, những tia nhiệt rực rỡ do mặt trời tỏa ra, hòa quyện với ngọn lửa của tôi và Kìa! Nó biến mất. Ngọn lửa lớn hơn hòa quyện và thiêu rụi ngọn lửa nhỏ. Tôi quay lại và quay trở lại—ra khỏi ánh sáng và hơi ấm—vào thế giới của bóng tối và sương mù, và khi quay lại, tôi nghe thấy một giọng nói lớn: “Làm tốt lắm. Đi qua bóng tối; đi vào sương mù; Hãy lau khô mưa và nước mắt và thấy mình ở phía bên kia, và gần trái tim tôi. |
III. A garden full of flowers, of bees and glowing light and sun. I see a wall which separates the garden from the world of men. Beyond its gates I see the forms of those who long to enter. Into my heart there come the words, spoken I know not when: “The key is in your hands; open the gates and let the crowd in. This you can do, for the garden now is yours and yet is theirs, though you have entered first. Open the gate and welcome with a smile and words of love and cheer the sad, unwelcome, miserable crowd. The garden stands between the outer world and the inner sacred place you call my Ashram. Within the garden take your stand. There rest. Move forward to the gate at need, returning ever to the place of rest. Open the door when called upon, [655] but retain the key. The surging crowd will touch you not nor hurt the garden in its loveliness.” |
III. Một khu vườn đầy hoa, đầy ong và ánh sáng và mặt trời rực rỡ. Tôi thấy một bức tường ngăn cách khu vườn với thế giới của con người. Bên ngoài cánh cổng của nó, tôi thấy hình dáng của những người mong muốn được vào. Trong tim tôi có những lời đã được thốt ra mà tôi không biết khi nào: “Chìa khóa nằm trong tay em; mở cổng và để đám đông vào. Em có thể làm điều này, vì khu vườn bây giờ là của em và cũng là của họ, mặc dù em đã bước vào trước. Hãy mở cổng và chào đón bằng một nụ cười và những lời yêu thương và cổ vũ đám đông buồn bã, không được chào đón và đau khổ. Khu vườn đứng giữa thế giới bên ngoài và nơi thiêng liêng bên trong mà em gọi là Ashram của tôi. Trong khu vườn có chỗ đứng của em. Ở đó nghỉ ngơi. Tiến tới cổng khi cần, trở về nơi an nghỉ. Hãy mở cửa khi được kêu gọi, [655] nhưng giữ lại chìa khóa. Đám đông đang dâng cao sẽ không chạm vào em cũng như không làm tổn thương khu vườn trong vẻ đẹp của nó.” |
Behind these three symbolic stanzas, if I may so call them, are veiled three needed lessons which you must learn and master. I am not telling you what these lessons are, for the joy of discovery must be yours. |
Đằng sau ba stanza mang tính biểu tượng này, nếu tôi có thể tạm gọi như vậy, ẩn chứa ba bài học cần thiết mà em phải học và nắm vững. Tôi không nói cho em biết những bài học này là gì, vì niềm vui khám phá phải là của em. |
I do not need to tell you either that I send you with constancy thoughts of strength and sustaining understanding. Long years have taught you that my strength goes out to you when your own inner strength is called into play and is used by you consciously and rightly. I give not what you yourself can provide, but I can and do supplement your strength when need demands. Rest, therefore, brother of mine; be not unduly concerned at the plight of those you love. Trust their own souls and know that they, alone, must learn the needed lessons. Rest in peace. |
Tôi cũng không cần phải nói với em rằng tôi gửi đến em những tư tưởng liên tục về sức mạnh và sự hiểu biết bền vững. Những năm dài đã dạy em rằng sức mạnh của tôi sẽ truyền cho em khi sức mạnh bên trong của chính em được phát huy và được em sử dụng một cách có ý thức và đúng đắn. Tôi không cho những gì em có thể cung cấp, nhưng tôi có thể và sẽ bổ sung sức mạnh cho em khi cần. Vì vậy, hãy yên nghỉ, em thân mến; không quan tâm quá mức đến hoàn cảnh của những người em yêu thương. Hãy tin tưởng vào linh hồn của chính họ và biết rằng họ, một mình, phải học những bài học cần thiết. Hãy An Nghỉ. |
August 1946—Tháng 8 năm 1946
MY TRIED AND LOVED DISCIPLE: |
ĐỆ TỬ ĐÃ ĐƯỢC THỬ THÁCH VÀ YÊU THƯƠNG CỦA TÔI: |
The last few years have been years of agony and distress for you, both physically and mentally. You have endured almost to the limit—in pain of body, in agony of anxiety, through financial stringency and its wearing uncertainty, and in the distress which comes from watching others suffer. You have stood steady, and in your steadiness, serenity and staunchness you have brought joy to my heart and strength to the Ashram. I would have you know this. |
Vài năm qua là những năm đau khổ và phiền muộn đối với em, cả về thể xác lẫn tâm trí. Em đã chịu đựng gần như đến giới hạn—đau đớn về thể xác, đau đớn vì lo lắng, qua sự ngặt nghèo về tài chính và sự bấp bênh đeo đẳng nó, và trong sự đau khổ đến từ việc chứng kiến người khác đau khổ. Em đã đứng vững, và với sự vững vàng, thanh thản và kiên định của mình, em đã mang lại niềm vui cho trái tim tôi và sức mạnh cho Ashram. Tôi muốn em biết điều này. |
You have worked off much karma, and whilst so working you have served. In you I now have a disciple upon whom—in your next life cycle—I can depend and lay responsibility, and whose service therefore can be great. Disciples are apt to forget that when they reach a point of complete dependability (because the lower self has been obliterated and no longer obstructs the vision) they lift a load off the Master’s shoulders. |
Em đã giải quyết được nhiều nghiệp quả, và trong khi làm như vậy, em đã phụng sự. Giờ đây, tôi có một đệ tử nơi em—trong kiếp sống tiếp theo của em—tôi có thể tin tưởng và giao trách nhiệm, và do đó, sự phụng sự của em có thể rất lớn lao. Các đệ tử thường quên rằng khi họ đạt đến một điểm hoàn toàn đáng tin cậy (vì bản ngã thấp kém đã bị xóa sạch và không còn cản trở tầm nhìn) thì họ trút bỏ được một gánh nặng khỏi vai của Chơn sư. |
It is your due to tell you this, for your sufferings, unselfishly endured, have earned you the right of recognition. The [656] Lighted Way stretches ahead in still greater brightness, and you can enter into the brightness with confidence and surety. |
Chính vì em mà tôi nói với em điều này, vì những đau khổ mà em phải chịu đựng một cách không ích kỷ, đã mang lại cho em quyền được công nhận. [656] Con đường được thắp sáng trải dài phía trước với độ sáng còn lớn hơn, và em có thể bước vào ánh sáng với sự tự tin và chắc chắn. |
This is the sum total of my brief word to you today; it will, I know, suffice. Take what I have said exactly as I say it and for what the words exactly mean, and know that I, your Master and your friend of many lives, am satisfied. |
Đây là tổng số từ ngắn gọn của tôi hôm nay dành cho em; tôi biết, nó sẽ đủ. Hãy hiểu chính xác những gì tôi đã nói và ý nghĩa chính xác của từng từ, và biết rằng tôi, Chân sư của em và người bạn nhiều kiếp của em, hài lòng. |
NOTE: Seventeen months later, this disciple entered “into the brightness” of the inner Ashram. |
LƯU Ý: Mười bảy tháng sau, người đệ tử này bước vào “ánh sáng rực rỡ” của Ashram bên trong. |