Thư Gởi Đệ tử LTSK

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
📘DOCX📕PDF

To L. T. S-K.

Giới Thiệu: Để giúp tư liệu cho các bạn học viên tham khảo về đề tài đang được trình bày là ảo cảm, tôi sẽ lần lượt dịch tất cả Thư của Chân sư  gửi các đệ tử trong Nhóm Hạt Giống Số 2, Nhóm Các Quan Sát Viên Lão Luyện, Nhóm các Người Quan Sát Thực Tại.

LTSK là công thức phát triển của Ernest Suffern, người Mỹ, sinh ngày 10/1/1880. Ông là một doanh nhân giàu có, chi hội trưởng một chi bộ Thông Thiên Học tại Mỹ. Ông là đệ tử duy nhất trong nhóm của Chân sư DK chưa được điểm đạo lần I, được Chân sư đặc cách thu nhận vào nhóm đệ tử của Ngài vì ông đã giúp đỡ tài chánh để bà Bailey in các sách của Chân sư, và “Thánh Đoàn không bao giờ vô ơn, vì lòng biết ơn là dấu hiệu của một linh hồn giác ngộ và là tác nhân giải thoát cơ bản từ góc độ khoa học và huyền linh.

Cấu trúc cung của ông là III-VI 513. Dấu hiệu mặt trời Hổ Cáp, dấu hiệu mọc Leo. Với hai cung chính là 3 và 6, và ở trình độ tiến hoá hiện tại, ông thường xuyên bị ảo cảm, và trong thư gởi cho ông, Ngài viết như sau:

Hôm nay, em giống như một người đã quay lại và đi đến cửa sổ, và sau đó làm sạch một vòng tròn nhỏ trên cửa sổ để qua đó em nhìn. Em có thể thấy rõ ràng hơn. Phòng được thắp sáng hơn, và bây giờ em đã nhận thức rõ hơn về những gì em cần làm cho mình và cho căn phòng. Điều này đã là rất nhiều, huynh đệ của tôi, vì em đã làm tất cả trong vòng mười hai tháng qua. Trước thời điểm đó, sự thành công của em có vẻ đáng nghi ngờ, không phải vì ý định xấu, mà bởi vì em đã quá quen với vị trí và thái độ của mình, với căn phòng em sống. Kiến thức của em về những gì nằm bên ngoài là thuần lý thuyết mà không có tính thực tiễn. DINAI 598

Nhưng sau đó, ảo cảm tiếp tục xuất hiện, và LTSK bị nhấn chìm trong sương mù ảo cảm, đủ loại ảo cảm mà Ngài liệt kê ra, gây ảnh hưởng nặng đến công việc của Nhóm 2, Nhóm các Nhà Quan Sát Lão Luyện, đến nỗi Ngài phải yêu cầu LTSK ra khỏi nhóm. Sau một thời gian, khi LTSK đã khắc phục phần nào, Ngài đưa LTSK trở lại nhóm, cũng vì để Nhóm giúp bảo vệ LTSK

LTSK có những ảo cảm rất đặc trưng của cung 3, có những “kế hoạch vĩ đại” nhưng không tưởng, một thể trí luôn bận rộn với những kế hoạch của riêng mình, nhưng những gì thiết thực nhất mà Chân sư yêu cầu thực hiện cùng nhóm thì ông không quan tâm.

Một điểm khác là do khả năng thông linh bậc thấp, ông tiếp xúc với một hình tư tưởng của Chân sư DK trên cõi trung giới, theo đưởi vị Thầy giả mạo “Bucyrus” một thời gian 😊, trước khi từ bỏ.

LTSK là một người say mê cuồng nhiệt đối với các tác phẩm của Chân sư DK, đi khắp nơi để tuyên truyền cho các sách của Chân sư DK. Và thực sự trong bất kỳ cuộc trò chuyện nào, điều duy nhất ông sẽ làm là áp đặt ý tưởng về những cuốn sách này trong kế hoạch cuộc đời.

Ngoài ra, ông mong muốn trở thành một nhà khoa học hiện đại. Theo Thầy Hiệu trưởng, lúc đó là thời kỳ mà thuyết tương đối của Einstein và các nghiên cứu về năng lượng hạt nhân và nguyên tử đang nổi lên, LTSK tự cho mình có thể là một nhà khoa học trong những lĩnh vực đó, và Chân sư DK, qua những lá thư viết cho ông nói, đôi khi với giọng điệu nghiêm khắc, nhắc nhở ông về những ảo cảm và ảo tưởng đó. Ngài nói, Này, hãy nhìn xem, tâm trí của bạn không tương xứng. Phàm ngã của bạn quá nhỏ bé, bạn sẽ không bao giờ thành công nếu làm việc với ảo tưởng rằng bằng cách nào đó bạn có khả năng khoa học vì bạn có hứng thú với nó, nhưng bạn thực sự không có bất kỳ khả năng nào để làm được gì nhiều với khoa học. Đó không thực sự là một phần trong chương trình cuộc sống của bạn.

Ông đã bao giờ từ bỏ ảo tưởng đó chưa? Trong lá thư cuối cùng Chân sư nói rằng ông đã thất bại trong kiếp sống này, và Chân sư nói rằng kiếp sau ông sẽ có một phàm ngã cung một, và sự kết hợp giữa linh hồn cung 3 và phàm ngã cung 1 sẽ một kết hợp khó khăn, nhưng những thử thách và kỷ luật trong kiếp này đã chuẩn bị cho ông trong kiếp mai sau. Trong các thư, Chân sư DK rất nghiêm khắc với ông, nhưng cũng chính Ngài đã đưa ông trở lại vào Ashram để bảo vệ ông khỏi bước vào con đường lầm lạc, mà trong kiếp trước ông đã suýt sa vào tả đạo.

LTSK là đặc trưng cho người chí nguyện hay giai đoạn tiểu đệ tử, giằng xé giữa hai mãnh lực, trong vòng xoáy của ảo cảm.

*******************************

Ernest Suffern (LTS-K). DNA vol. 1. p.595; vol. 2. p. 725.

Quality Name. Lucidity, Truth, Self-knowledge (602).

Rays: 3 6 513. Country: USA. Occupation: Wealthy businessman. Sun Sign: Capricorn. Rising Sign: Leo. Birth: Jan 10, 1880. He was asked to resign from the group. Later, he was reinstated

Công thức phát triển. Sáng suốt, Chân thật, Tự tri.

Cấu trúc cung: III-6, 513. Quốc gia: Mỹ. Nghề nghiệp: Doanh nhân giàu có. Dấu hiệu hoàng đạo: Mặt Trời Ma Kết, dấu hiệu mọc Sư Tử. Sinh ngày 10 tháng 1 năm 1880. Ông bị yêu cầu ra khỏi nhóm. Sau đó, ông được phục hồi vào Nhóm Đệ tử.

“L.T.S-K., I felt, needed the protection of the group against his constantly recurring glamours and his innate glamour-making tendency; I, therefore, reinstated him for his own protection so that in a coming life he can start earlier, and move forward with greater precision.” DNA II, 33.

Tôi cảm thấy rằng L.T.S-K. cần sự bảo vệ của nhóm chống lại ảo cảm liên tục, lặp đi lặp lại, và xu hướng tạo ra ảo cảm bẩm sinh của em ấy; Do đó, tôi đã phục hồi em vào nhóm để bảo vệ chính em ấy để trong kiếp sau, em ấy có thể bắt đầu sớm hơn và tiến về phía trước với độ chính xác cao hơn. DN II, 33.

Quyển I

January 1932, Tháng giêng, 1932—January 1932, Tháng giêng, 1932

BROTHER OF MINE:

Huynh đệ của tôi,

There is no hurry attached to the work done by the members of a Master’s group. The earnest desire to progress can hinder as well as help. The intuition is a growth, primarily, in sensitivity and in an inner response to the soul. This must be cultivated with care, and no attention should be paid to the factor of time.

Không có vội vã gắn liền với công việc của các thành viên trong nhóm của một Chân sư. Mong muốn nhiệt thành để tiến bộ có thể cản trở cũng như giúp đỡ. Trực giác là sự phát triển chủ yếu trong sự nhạy cảm và trong phản ứng bên trong đối với linh hồn. Điều này phải được bồi đắp một cách thận trọng, và không nên chú ý đến yếu tố thời gian.

I have three things to say to you, brother of old, and two things to suggest; your response to these will guarantee your success.

Tôi có ba điều để nói với em, huynh đệ xưa của tôi, và hai gợi ý; phản ứng của em với những điều này sẽ đảm bảo sự thành công của em.

First: You are in this group for two reasons. You have a strong karmic link with me, which you have ever recognised and which you unduly emphasise. Second: You are at a most critical point on the Path of Probation, for you can, if so inclined, take those steps which will land you on the Path of [596] Discipleship. Third: You need to have in mind the fact that your life—up to three years ago—has been an exemplification of excessive duality. In this dual life, your emphasis has been laid on “making good” on the physical plane in the world of business; paralleling this, but divorced from it, has been an intense inner life of aspiration and devotion to the Great Ones, and later to myself, a working chela of the Great White Lodge.

Thứ nhất: Em thuộc nhóm này vì hai lý do. Em có một mối liên hệ nhân quả mạnh mẽ với tôi, mà em đã nhận ra và em đã nhấn mạnh điều đó quá mức. Thứ hai: Em đang ở một điểm quan trọng nhất trên Con Đường Dự Bị, vì em có thể, nếu em có khuynh hướng như thế, thực hiện những bước sẽ đưa em vào Con đường Đệ tử [596]. Thứ ba: Em cần phải nhớ thực tế rằng cuộc sống của em— cho đến ba năm trước đây—đã là một minh chứng cho tính nhị nguyên quá mức. Trong đời sống nhị nguyên này, sự nhấn mạnh của em đã đặt lên phương diện “làm tốt” trong thế giới kinh doanh trên trần gian; song song với điều này, nhưng tách khỏi nó, đã là một cuộc sống nội tâm mãnh liệt đầy khát vọng và sự dâng hiến cho các Đấng Cao Cả, và sau đó là cho bản thân tôi, một Đệ tử hoạt động của Thánh đoàn.

You have managed curiously to keep these two lines of activity free from contact with each other. Your devotion served not to prevent mistakes or the misuse of the worldly opportunities, nor did your active worldly life seem to affect in any way your fiery devotion and persistence towards the goal.

Em đã quản lý một cách đáng ngạc nhiên để giữ hai đường lối hoạt động này không liên lạc với nhau. Sự sùng kính của em không ngăn ngừa được những sai lầm hoặc sự lạm dụng các cơ hội thế gian, và cuộc sống thế gian tích cực của em dường như không ảnh hưởng theo bất cứ cách nào đến sự sùng kính nhiệt thành và kiên trì của em đối với mục tiêu.

This dual activity must be brought to an end and your aim must be to bring about in yourself the at-one-ment, or the unification of the aims and purposes which have hitherto been divergent. Mistake me not, my brother: The ultimate objective of the physical plane life has been to lay the gains in business at the disposal of the Great Ones, but this objective has not coloured your technique. You will know today how just this criticism is. Four years ago, I could not have thus addressed you, for you would not have recognised the justice of my remarks.

Hoạt động kép này phải được kết thúc và mục đích của em phải là mang lại cho bản thân mình một sự hợp nhất, hoặc sự thống nhất các mục tiêu và mục đích vốn đã phân tán cho đến nay. Đừng hiểu lầm tôi, huynh đệ của tôi: Mục tiêu cuối cùng của đời sống trần gian là đặt những lợi ích trong kinh doanh cho công việc của các Đấng Cao Cả, nhưng mục tiêu này đã không nhuộm màu kỹ thuật của em. Hôm nay, Em sẽ biết những lời chỉ trích này là thế nào. Bốn năm trước, tôi không thể nói chuyện với em như vậy, vì em sẽ không nhận ra sự công bằng trong nhận xét của tôi.

Your problem has been complicated (as is the problem of all disciples who stand on the verge of acceptance) by the force of your ray impulses, and by the difficulty of the era in which you live and the stage whereon you deliberately have chosen to play your part. You have three years in which to make the effort by means of which you can become an accepted disciple, when you return again to this earth. By this I do not mean that you are to pass over at the age of fifty-six. I am speaking of the establishing of a rhythm which will be strong enough and vital enough to produce the needed fusion of soul and personality. We who teach, watch and guide the esoteric development of man, know that unless a certain measure of fusion is established by the time fifty-six years of age is attained, it is seldom established later. After that age, a man may hold to the point achieved and foster his aspiration but [597] the dynamic submergence of the personality in the will and life of the soul is rare after that time. When reached prior to the age of fifty-six, then subsequent growth and unfoldment on the Path of Discipleship is surely possible.

Vấn đề của em đã trở nên phức tạp (cũng như vấn đề của tất cả các đệ tử đang đứng bên đường ranh được chấp nhận) bởi sức mạnh của các xung động cung của em, và bởi sự khó khăn của kỷ nguyên mà em đang sống và giai đoạn mà em cố tình chọn để chơi vai trò của em. Em có ba năm để thực hiện nỗ lực nhờ đó em có thể trở thành một đệ tử thực thụ, khi em quay trở lại trái đất này lần nữa. Nói như thế tôi không hàm ý rằng em sẽ rời bỏ trần gian ở tuổi năm mươi sáu. Tôi đang nói về việc thiết lập một nhịp điệu đủ mạnh và đủ quan trọng để tạo ra sự kết hợp linh hồn và phàm ngã cần thiết. Những Huấn Sư như chúng tôi, dạy, theo dõi và hướng dẫn sự phát triển bí truyền của con người, biết rằng nếu không đạt được một sự tích hợp nào đó vào thời điểm năm mươi sáu tuổi, thì ít khi nó được thực hiện sau đó. Sau tuổi đó, một người có thể giữ điểm đã đạt và nuôi dưỡng ước vọng của mình, nhưng [597] sự nhấn chìm năng động phàm ngã vào trong ý chí và cuộc sống của linh hồn là rất hiếm hoi sau thời gian đó. Khi đạt đến điều này trước năm năm mươi sáu tuổi, thì khi đó sự tăng trưởng và mở rộng tiếp theo trên Con Đường Đệ tử là chắc chắn có thể.

The two suggestions which I seek to make and on which I ask you to work for the next twelve months are as follows:

Tôi muốn đưa ra hai gợi ý và yêu cầu em làm việc trong mười hai tháng tiếp theo như sau:

First: Forget your karmic relationship with me and give no time in your thoughts to the Tibetan. This will be hard for you to do, but remember that I am only one who stands by and who offers opportunity, seeking for those who will lose themselves in service. Your sixth ray devotion has turned your effort towards astral recognition more than to unity and at-one-ment in the great work.

Thứ nhất: Hãy quên đi mối quan hệ nghiệp quả của em với tôi và đừng dành thời gian nào trong suy nghĩ của em đến tôi, Chân sư Tây Tạng. Điều này sẽ rất khó để em thực hiện, nhưng hãy nhớ rằng tôi chỉ là một người đứng cạnh và cung cấp cơ hội, tìm kiếm những người quên mình trong phụng sự. Lòng sùng kính cung sáu của em đã biến nỗ lực của em hướng đến sự công nhận cảm xúc  hơn là sự thống nhất và hợp nhất trong công việc vĩ đại.

Second: Work steadily at the problem of entering into the pure white light of your own soul. How shall this be done? Let us be practical and outline certain things to be accomplished during the rest of this year.

Thứ hai: Hãy làm việc ổn định ở vấn đề nhập vào ánh sáng trắng tinh khiết của linh hồn em. Làm thế nào để thực hiện được điều này? Hãy để chúng tôi thực tế và phác họa những điều nhất định phải được hoàn thành trong thời gian còn lại của năm nay.

1. Refrain from reading the books for which I am responsible. You have steeped yourself in the teaching they contain for years. Now practise the truths learnt thereby. Instead, study with close attention The Bhagavad Gita, and use that as your textbook of guidance.

1. Ngưng đọc những sách mà tôi đang chịu trách nhiệm. Em đã tự dằn mình trong những lời dạy chứa trong những quyển sách đó nhiều năm. Bây giờ hãy thực hành những chân lí đã học được từ đó. Thay vào đó, hãy nghiên cứu với sự quan tâm sâu sắc quyển Bhagavad Gita, và sử dụng nó như sách hướng dẫn của em.

2. Instead of studying my writings, will you serve your fellow disciples by making (on their behalf) a close study of the psychology of the intuition? Ascertain the best that man has to say about it and prepare for your brothers a compilation on the subject and a summation of the significance of the intuition and its mode of unfoldment. Seek the definitions of the intuition and collect them together for use and, likewise, make a useful bibliography of the literature on the subject. Each group of my disciples has somewhat to contribute, and the group to which you belong should ascertain much upon the subject of the intuition.

2. Thay vì nghiên cứu những bài viết của tôi, em sẽ phụng sự các huynh đệ của em bằng cách làm (nhân danh họ) một nghiên cứu sâu sắc về tâm lý học của trực giác? Xác định điều tốt nhất mà con người phải nói về nó và chuẩn bị cho huynh đệ của em một sự tổng hợp về chủ đề và tổng kết ý nghĩa của trực giác và phương thức khai mở. Tìm kiếm các định nghĩa của trực giác và thu thập chúng lại với nhau để sử dụng và tạo một danh mục hữu ích của các tài liệu về đề tài này. Mỗi nhóm đệ tử của tôi đều có phần nào để đóng góp, và nhóm mà em thuộc về nên chú ý nhiều đến chủ đề của trực giác.

3. Follow the breathing exercises with attention, bearing ever in mind the thought that they aid in the unification of soul and body and in the purification of the sheaths.

3. Thực hiện các bài tập thở với sự chú ý, luôn nhớ rằng chúng hỗ trợ trong sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác và trong việc thanh lọc các thể.

4. In your meditation each morning, eliminate again all forms which turn the attention to the Great Ones or to [598] myself, your Tibetan brother. For a year, centre your consciousness on the light of your own soul, and keep your meditation very simple.

4. Trong buổi tham thiền mỗi sáng, hãy loại bỏ lần nữa tất cả các hình thức hướng sự chú ý đến các Đấng Cao Cả hoặc đến bản thân tôi, Huynh đệ Tây Tạng của em. Trong một năm, hãy tập trung tâm thức của em vào ánh sáng của linh hồn em, và giữ việc tham thiền của em thật đơn giản.

That you may learn to walk in the light that pours forth from your own soul is the earnest wish of your fellow worker, the Tibetan.

Mong rằng Em có thể học cách bước đi trong ánh sáng tuôn tràn từ linh hồn em là ước muốn tha thiết của đồng môn của em, người Tây Tạng.

July 1933—Tháng 7, 1933

MY BROTHER:

HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

The way of the aspirant climaxes at times, and might be described as a series of steady growth cycles, accentuated at intervals by definite periods of forced development wherein one limitation after another is forcibly removed, by you yourself. All limitations and hindrances have to go. You have for years been like a man standing in a room with his back to the window—a window that so sadly needed cleaning that the light in the room was dim and only partially diffused.

Con đường của người chí nguyện có thể đạt đỉnh cao ở nhiều lúc, và có thể được mô tả như là một loạt các chu kỳ tăng trưởng ổn định, được nhấn mạnh ở những khoảng cách bằng những thời kỳ phát triển cưỡng bức, trong đó hết giới hạn này đến giới hạn khác bị loại bỏ bởi chính em. Tất cả các hạn chế và trở ngại phải ra đi. Trong nhiều năm em đã giống như một người đứng trong phòng quay lưng vào cửa sổ—một cửa sổ thật đáng buồn, cần làm sạch, ánh sáng trong phòng đã mờ và chỉ khuếch tán một phần.

You are today like a man who has turned around and walked over to the window, and then has cleaned a small circle through which you look. You can see that which is around much more clearly. The room is better lighted, and you are now more clearly aware of what you need to do for yourself and the room. This is much, my brother, for you have done it all within the last twelve months. Before that time your accomplishment seemed doubtful, not from bad intent but because you had become accustomed to your position and attitude and to the room in which you lived. Your knowledge of what lay outside was theoretical but not of a practical nature.

Hôm nay, em giống như một người đã quay lại và đi đến cửa sổ, và sau đó làm sạch một vòng tròn nhỏ trên cửa sổ để qua đó em nhìn. Em có thể thấy rõ ràng hơn. Phòng được thắp sáng hơn, và bây giờ em đã nhận thức rõ hơn về những gì em cần làm cho mình và cho căn phòng. Điều này đã là rất nhiều, huynh đệ của tôi, vì em đã làm tất cả trong vòng mười hai tháng qua. Trước thời điểm đó, sự thành công của em có vẻ đáng nghi ngờ, không phải vì ý định xấu, mà bởi vì em đã quá quen với vị trí và thái độ của mình, với căn phòng em sống. Kiến thức của em về những gì nằm bên ngoài là thuần lý thuyết mà không có tính thực tiễn.

A brief period of time remains in which to finish cleaning the window and illumining the room, thereby associating yourself with the life outside the window. I believe you can do it if you desire nothing for the separated self; if you train yourself to see things and, above all, people as they are and in a true perspective. People are not what you want them to be and they live also in rooms with darkened windows. When you look through the window there is nothing to be seen as it really is. All is distorted. Your problem is the problem of understanding the glamour and illusion in which you perforce have to live, and so to work through the glamour that you can see life truly. [599]

Vẫn còn một thời gian ngắn để hoàn tất việc làm sạch cửa sổ và chiếu sáng căn phòng, do đó kết hợp em với cuộc sống bên ngoài cửa sổ. Tôi tin rằng em có thể làm điều đó nếu em không mong muốn sự tách biệt; nếu em tự đào tạo mình để nhìn thấy mọi thứ và, trên tất cả, những người như họ đang là và trong một quan điểm thực sự. Mọi người không phải những gì mà em muốn họ là, và họ cũng sống trong những căn phòng có cửa sổ tối tăm. Khi em nhìn qua cửa sổ không có gì để được nhìn thấy như nó thực sự là. Tất cả đều bị méo mó. Vấn đề của em là vấn đề hiểu biết ảo cảm và ảo tưởng trong đó em buộc phải sống, và làm việc thông qua ảo cảm để có thể nhìn thấy cuộc sống thực sự.

Be not in any way discouraged, brother of old, if you find the upward way stiff and hard to climb. You are in good company and are not alone. Out of the present situation, true wisdom is born. Before the full light of the sun can shine at the time of dawn, there has to be the dissipation of the mist—a mist which distorts and hides. This is done not by any function of the mist itself, but by the growth in power of the rays of the rising sun. Therefore, for you there must be the steady growth of the light of your own soul, fostered by meditation, expressed in selfless service, and increasing in radiance through the intensification of your soul’s life. Live, therefore, as a soul and forget the personality. Give not so much time to the consideration of the faults and mistakes of the past. Self-depreciation is not necessarily a sign of spiritual growth. It is often the first result of a soul contact and means the revelation of personality limitations covering many years. That has a temporary value, provided you again turn your eyes to the soul. Forgetting the things that lie behind let the light of your soul lead you where it will. Be, as I have told another of my disciples in the group, the sannyasin—living in the world of men, yet having your interests in the world where the Great Ones work. You are not alone. You have found your own company of souls. You are not walking in the dark, for there is a light upon your way. Stay within the radius of that light and wander not down the accustomed by-ways. These words may sound to those who read them platitudes, applicable to anyone. You yourself know, however, how intensely applicable they are to you.

Đừng nản lòng, huynh đệ xưa của tôi, nếu em thấy con đường dốc đứng và khó khăn để leo lên. Em đang ở trong một đoàn thể tốt và không đơn độc. Từ tình trạng hiện nay, trí tuệ thật sự sẽ được sinh ra. Trước khi ánh sáng mặt trời có thể chiếu sáng vào thời điểm bình minh, sương mù phải tan đi—một sương mù làm méo mó và che dấu. Điều này không phải do bất kỳ chức năng nào của chính sương mù, mà do sự tăng trưởng quyền lực của các tia nắng của mặt trời đang mọc lên. Vì vậy, đối với em, phải có sự tăng trưởng ổn định của ánh sáng linh hồn em, được thúc đẩy bởi tham thiền, thể hiện trong sự phụng sự vô kỷ, và tăng cường sự chói rạng thông qua việc tăng cường cuộc sống của linh hồn em. Do đó, hãy sống như một linh hồn và quên đi phàm ngã. Đừng dành quá nhiều thời gian để xem xét các lỗi và các sai lầm của quá khứ. Tự đánh giá thấp không nhất thiết là dấu hiệu tăng trưởng tinh thần. Đây thường là kết quả đầu tiên của việc tiếp xúc với linh hồn và có nghĩa là sự khải lộ những giới hạn của phàm ngã bao gồm nhiều năm. Điều đó có giá trị tạm thời, miễn là em quay lại hướng mắt về linh hồn lần nữa. Hãy quên những điều ở phía sau và để cho ánh sáng của linh hồn dẫn em đến nơi nó muốn. Hãy là một sannyasin, như tôi đã nói với một trong các môn đệ của tôi trong nhóm này, sống trong thế giới của con người, nhưng có những mối quan tâm của em trong thế giới mà các Đấng Cao Cả làm việc. Em không đơn độc. Em đã tìm thấy nhóm linh hồn của riêng em. Em không phải đi trong bóng tối, vì có một ánh sáng trên con đường của em. Hãy ở trong bán kính của ánh sáng đó và đừng đi lang thang vào con đường mòn quen thuộc. Những lời này có thể như những lời sáo ngữ với những ai đọc chúng,  áp dụng cho bất kỳ ai. Tuy nhiên, bản thân em biết rằng chúng có thể áp dụng cho em mạnh mẽ như thế nào.

You can resume the study of my instructions and writings but must preserve a balanced attitude. There are other things to be done than simply to be a devotee of the Tibetan brother. Follow the meditation I here give you….

Em có thể tiếp tục nghiên cứu các hướng dẫn và bài viết của tôi nhưng phải giữ thái độ cân bằng. Có những thứ khác phải làm hơn là đơn giản chỉ là một người sùng kính Huynh Đệ Tây Tạng. Hãy thực hiện bài tham thiền sau đây….

March 1934—Tháng 3, 1934—

MY BROTHER:

HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

For you I have this time no instructions. I must know first that you have cleaned another window pane. That also which you earlier cleansed and to which I referred in my last communication is again befogged, not so much from the accumulation [600] of grime, but by the cold within, which produces condensation. Think this out. Seek out your motives, for they are at the root of all your trouble, and glamour not yourself with the belief that you are animated by principle or are fighting for principle and thus occupied with truth.

Với em, thời gian này tôi không có huấn thị nào. Trước tiên Tôi phải biết rằng em đã làm sạch một cửa sổ khác. Đó cũng là cái mà em đã làm sạch trước đó, và là cái mà tôi đã đề cập đến trong lần tiếp xúc cuối cùng của tôi, nó lại bị bám mờ, không nhiều lắm từ sự tích tụ của chất bẩn, mà bởi sự lạnh lẽo bên trong, gây ra sự ngưng tụ. Hãy nghĩ ra điều này. Hãy tìm động cơ của em, vì chúng là gốc rễ của mọi rắc rối của em, và đừng ảo cảm với niềm tin rằng em đang hoạt động theo nguyên lý hoặc đang chiến đấu vì nguyên lý và do đó bận tâm với chân lí.

You say that you report these facts and impressions to me and to the group, confident that you can safely turn to the teacher for confirmation or correction on any point. If in any respect you are proceeding along wrong lines, you want to know it and to modify your life in conformity with my wishes.

Em nói rằng em báo cáo những sự kiện và những ấn tượng này cho tôi và cho nhóm, tự tin rằng em có thể an toàn chuyển cho vị thầy để xác nhận hoặc chỉnh sửa ở bất kỳ điểm nào. Nếu trong bất kỳ khía cạnh nào em đang tiến hành theo những đường hướng sai, em muốn biết điều đó và sửa đổi cuộc sống của em cho phù hợp với mong muốn của tôi.

How you do love authority, my brother, and how you would like me to save you a lot of trouble and direct your way, and give you information as to what is right and wrong! But should I accede to your request and tell you what you want to know, what would be the result? You have been told what the situation was, and know clearly the grounds on which the communications were repudiated and you refused to accept it. What is the difference, when I tell you the same? If what is written or said coincides with your own ideas, how gladly would you catch hold of my words. But if they failed to do so, how easily you would argue that they were the words of someone else and deem that they had been brought through in error or coloured by personality reactions. Or you would accept them absolutely because I said them and thus bow to authority and leave your intuition still inactive. But I have no authority, my brother, nor have I ever claimed to have it.

Huynh đệ của tôi, Em yêu mến thẩm quyền như thế nào, và làm thế nào em muốn tôi cứu cho em rất nhiều rắc rối và chỉ đường cho em, cung cấp cho em thông tin về những gì là đúng và sai! Nhưng tôi có nên chấp nhận yêu cầu của em và cho em biết những gì em muốn biết, thì kết quả sẽ ra sao? Em đã được cho biết tình trạng như thế nào, và biết rõ các căn cứ mà sự liên lạc đã bị từ chối và em từ chối chấp nhận nó. Có sự khác biệt nào khi tôi nói với em cũng như vậy? Nếu những gì được viết hoặc nói trùng với ý tưởng của riêng em, em sẽ vui biết bao để nắm bắt được lời nói của tôi. Nhưng nếu chúng không như thế, em sẽ dễ dàng cho rằng chúng là những lời của người khác và cho rằng chúng đã được đưa ra do sai sót hoặc bị nhuộm màu sắc của các phản ứng phàm ngã. Hoặc em sẽ chấp nhận chúng hoàn toàn bởi vì tôi đã nói chúng và do đó cúi đầu trước uy quyền và để trực giác của em vẫn còn bất động. Nhưng tôi không có thẩm quyền, huynh đệ của tôi, và cũng không bao giờ tôi tuyên bố có nó.

In one case, you fail to grow in ability to stand alone and to make wise decisions based on intuitive recognition of reality; and in the other, the point of separativeness grows in strength.

Trong một trường hợp, em không thể phát triển trong khả năng đứng một mình và đưa ra các quyết định khôn ngoan dựa trên nhận thức trực quan của thực tế; và trong trường hợp khác, quan điểm chia rẻ tăng mạnh.

What your teacher in the past, myself, may think is of small moment. What anyone else may think and say is of very small moment. What is of importance to you today is to see clearly, to speak truth to yourself and to walk in the light—a thing you never yet have done for any length of time. You report growth in abstract consciousness. You need not that growth. You need growth in clear cut thinking and in clear cut action. You are faced with the problem of yourself, and you will solve it only when you have freed yourself from personality impulses and from the glamour in which you habitually walk. Note, my [601] brother, the decision and clarity with which I thus address you. Note my style, for it is the same style as before, but I am carefully wording this communication so that you can clearly grasp my words. If you like the adjectival phrases of the communicator who has engrossed your attention lately, I would call you (in his style) a brother of dedicated emotions but poor intuitive mentality and a befogged aspirant. In all love, I say this to you and in an effort to arouse your attention.

Những gì mà vị thầy của em, tôi, trong quá khứ có thể nghĩ là không quan trọng. Những gì người khác có thể nghĩ và nói rất không quan trọng. Điều quan trọng đối với em hôm nay là nhìn thấy rõ ràng, nói sự thật với chính mình và bước đi trong ánh sáng—điều em chưa bao giờ làm được trong một khoảng thời gian dài. Em báo cáo sự tăng trưởng trong tâm thức trừu tượng. Em không cần sự tăng trưởng đó. Em cần tăng trưởng trong suy nghĩ dứt khoát rõ ràng và trong hành động rõ ràng. Em đang phải đối mặt với vấn đề của chính mình, và em sẽ giải quyết nó chỉ khi em đã giải phóng bản thân khỏi các xung động cá nhân và khỏi ảo cảm mà em thường đi trong đó. Huynh đệ của tôi, hãy lưu ý [601] đến quyết định và sự rõ ràng mà tôi gửi đến em. Hãy lưu ý cách tôi nói, vì đó là cách giống như trước đây, nhưng tôi đang cẩn thận sử dụng từ ngữ để em có thể nắm rõ lời nói của tôi. Nếu em thích những cụm tính từ của người truyền đạt đã thu hút sự chú ý của em gần đây, tôi sẽ gọi em (theo phong cách của người ấy) là huynh đệ của những cảm xúc sùng kính, nhưng một người chí nguyện với tâm lý trực giác nghèo nàn. Với tất cả tình thương, tôi nói điều này với em và trong một nỗ lực để khơi dậy sự chú ý của em.

As I said to all my disciples so I say to you: If you seek to work with me and will conform to group requirements, then I, on my side, will do what I can to aid you in your group work. All the work I assign to individuals in the group has but one aim in view—to enable them to work as a group for the good of the group. This, you have not done and the group work as a whole has been set back by you, for the group moves forward as a group; though the individuals may have grown, the group has not moved forward but has been held back the past six months by the situation for which you were largely responsible.

Như tôi đã nói với tất cả các môn đệ của tôi, tôi nói với em rằng: Nếu em muốn làm việc với tôi và đáp ứng các yêu cầu của nhóm, thì tôi, về phía tôi, sẽ làm những gì tôi có thể để giúp em trong công việc tập thể của em. Tất cả công việc mà tôi chỉ định cho các cá nhân trong nhóm đều có một mục tiêu—nhằm giúp họ hoạt động như một nhóm vì lợi ích của nhóm. Điều này, em đã không làm và nhóm, như một tập thể, đã bị trở ngại bởi em, vì nhóm di chuyển về phía trước như là một nhóm; mặc dù các cá nhân có thể đã phát triển, nhóm đã không tiến lên phía trước mà đã bị giữ lại trong sáu tháng qua bởi tình hình mà em chịu trách nhiệm phần lớn.

I refer not in this instruction to the problem of communications. Disciples are free to interest themselves in any number of groups and communicators. I refer to the problem of this particular situation which is simply that of identity. Forget this not, and confuse not the issue. It is not one of authority. It is one of identity. You are at liberty naturally as a disciple to receive communications from any source. But be sure not to confuse identities.

Tôi không đề cập đến trong huấn thị này vấn đề tiếp xúc. Các đệ tử được tự do để quan tâm trong bất kỳ số lượng các nhóm và các người truyền đạt. Tôi đề cập đến vấn đề của tình huống đặc biệt này vốn chỉ đơn giản là vấn đề của nhận dạng. Đừng quên điều này và đừng nhầm lẫn vấn đề. Nó không phải là một vấn đề của thẩm quyền. Đó là một vấn đề trong nhận dạng. Em tự nhiên có tự do như một đệ tử để nhận thông tin liên lạc từ bất kỳ nguồn nào. Nhưng hãy chắc chắn không nhầm lẫn nhân dạng.

This situation in the group has caused me serious consideration. The good of the group is of prime importance. I am engaged in an experiment in this group work. It is not an easy one either for myself or for the group members. Shall I sacrifice the group to the glamour of one person? For, in the last analysis, others would not have been so influenced had you seen truly and had cooperated in preserving group balance and had not interjected the problem of identities into this group work. I cannot continue to give you these instructions if you thus bring personality and separateness into the work. You are not asked to accept blindly all that you receive. But whilst in the group, you are asked to live up to group requirements and to work with the group unit, and to refrain from bringing your [602] personality problems of any kind into the group work. When you no longer care for the teaching and do not do that which is asked, it is your privilege to withdraw from the group work and so preserve the group unity. It is group unity for which I am working, and not your individual growth and stimulation. I speak thus with apparent harshness in an effort to bring to an end your years of personality fog and deep seated ambition. The two are allied.

Tình huống này trong nhóm đã khiến tôi xem xét nghiêm túc. Lợi ích của nhóm là điều quan trọng hàng đầu. Tôi đang tham gia vào một thử nghiệm trong công việc nhóm này. Nó không phải là một điều dễ dàng cho bản thân tôi hoặc cho các thành viên trong nhóm. Tôi có nên hy sinh cả nhóm cho ảo cảm của một người? Vì, trong phân tích cuối cùng, những người khác sẽ không bị ảnh hưởng quá mức nếu em nhìn thấy đúng thật và đã hợp tác để duy trì cân bằng nhóm và không can thiệp vào vấn đề nhận dạng đối với công việc nhóm này. Tôi không thể tiếp tục cho em những huấn thị này nếu em mang phàm ngã và sự chia rẻ vào công việc. Em không được yêu cầu chấp nhận mù quáng tất cả những gì em nhận được. Tuy nhiên, khi ở trong nhóm, em được yêu cầu phải đáp ứng các yêu cầu của nhóm và làm việc với nhóm, và kiềm chế đưa những vấn đề phàm ngã của em dưới bất kỳ hình thức nào vào công việc nhóm. Khi em không còn quan tâm đến việc giảng dạy và không làm điều được yêu cầu, em có quyền rút khỏi công việc của nhóm và để duy trì sự đoàn kết nhóm. Đó là sự thống nhất nhóm mà tôi đang làm việc chứ không phải sự tăng trưởng và kích thích cá nhân của em. Tôi nói với sự nghiêm khắc rõ ràng trong một nỗ lực nhằm chấm dứt những năm sương mù phàm ngã và những tham vọng sâu đậm. Hai cái là đồng minh của nhau.

Forget not either my earlier injunction to you that “There are other things to be done than to be a devotee of the Tibetan brother” or of the Tibetan and a spurious astral double.

Đừng quên huấn lệnh của tôi trước đây cho em rằng “Có những việc khác phải làm hơn là một tín đồ của Huynh Đệ Tây Tạng” hoặc của Người  Tây Tạng và một hình trung giới giả mạo.

Your key words are self-knowledge, lucidity and truth, and they must all be called into play at this time. Remember that your decision, if based on a choice between two Tibetans, will be a false one. Your problem is that of choosing between the teacher which we call the Personality and the teacher which we call the higher Self. Settle this problem in the light of the soul, and not through impulsive personality reactions.

Những từ khóa của em là tự hiểu biết, tính sáng suốt và sự thật, và tất cả chúng phải được sử dụng vào lúc này. Hãy nhớ rằng quyết định của em, nếu dựa trên sự lựa chọn giữa hai Người Tây Tạng, sẽ là một sai lầm. Vấn đề của em là lựa chọn giữa vị thầy mà chúng ta gọi là Phàm ngã và vị thầy mà chúng ta gọi Chân Ngã. Giải quyết vấn đề này dưới ánh sáng của linh hồn, chứ không phải thông qua phản ứng phàm ngã bốc đồng.

July 1934—Tháng 7, 1934

MY BROTHER:

MY BROTHER:

When I think of you, it is with a sense of enquiry, of loving kindness and also with a sense of urgency. The years slip by; those who look on at the lives of aspirants have oft a sense of this urgency—an urgency that the aspirant seldom feels himself. Life has offered you much of opportunity for progress, but you entered life and built a body that has in it much crystallised material and a mental body of such rigidity that your problem (this incarnation) was—if I could use so inadequate a form of words—to smash what you yourself had constructed and used. You had to break your old thoughtforms of intrigue, of ambition and of power before you could be liberated for real service. Half a century has gone. The thoughtform of ambition has been broken and crippled but a sense of futility must not take its place. The thoughtform of power is weakening. The thoughtform of intrigue received a bad blow during the episode of glamour in the early spring. But the forms still persist. You stand before them bewildered, anxious to do the right thing, [603] blinded by the power of your own creations which shine with their own light, and blinded also by the blaze of light emanating from your own soul and from the group soul. But blinded and, seemingly, helpless.

Khi tôi nghĩ về em, đó là với một cảm giác tra hỏi, của lòng từ ái và cũng là một cảm giác cấp bách. Những năm tháng trôi qua; những ai nhìn vào cuộc sống của những người chí nguyện thường có cảm giác cấp bách này—một sự khẩn cấp mà người chí nguyện ít khi tự cảm thấy. Cuộc sống đã cung cấp cho em nhiều cơ hội để tiến bộ, nhưng em đã bước vào cuộc sống và xây dựng một cơ thể có trong nó nhiều vật liệu đông cứng và một thể trí cứng ngắt đến nỗi vấn đề của em (trong kiếp sống này) là—nếu tôi có thể sử dụng cách nói như sau—đập vỡ những gì em đã xây dựng và sử dụng. Em phải phá vỡ các suy nghĩ cũ về mưu mô, tham vọng và quyền lực trước khi em có thể được giải phóng cho công việc phụng sự thực sự. Nửa thế kỷ đã đi qua. Tư tưởng tham vọng đã bị phá vỡ và tê liệt nhưng không được thay thế nó bằng một cảm giác vô ích. Hình tư tưởng quyền lực đang suy yếu. Hình tư tưởng của mưu mô đã nhận được một cú đánh mạnh trong giai đoạn ảo cảm vào đầu mùa xuân. Nhưng các hình thể vẫn còn tồn tại. Em đứng trước chúng, hoang mang, lo lắng làm điều đúng, mù lòa bởi sức mạnh của những tạo vật của chính em, chúng đã chiếu sáng bằng ánh sáng của chúng, và em cũng mờ mắt bởi ánh sáng phát ra từ linh hồn em và từ linh hồn của nhóm. Chỉ mù lòa và dường như bất lực.

No one can help you, my brother. You yourself must let all things go, and become “the little child,” spoken of in the Bible. It is not for me or any teacher to tell you what to do. For one thing, you would do it, and in doing it learn naught. From within yourself must come the incentive, and from yourself must emanate the clear wisdom, and the clean cut action which will eventually bring your release. What, therefore, can any of us do? Gather not from the above that I or others feel that for you there is no release this life. Naught can arrest at this stage the work of your own soul. Only the urgency of the times incites any of us to desire that that release should be accomplished as rapidly as may be in order to set you free to serve.

Không ai có thể giúp em, huynh đệ của tôi. Chính bản thân em phải để mọi thứ ra đi, và trở thành “đứa trẻ thơ” được nói đến trong Kinh thánh. Không phải tôi hay bất kỳ vị thầy nào sẽ cho em biết phải làm những gì. Vì một điều, em sẽ làm điều đó, và khi làm điều đó mà không học được gì. Từ bên trong chính em phải có động lực, và từ chính bản thân em phải phát ra sự minh triết rõ ràng, và hành động dứt khoát mà cuối cùng sẽ mang lại sự giải thoát của em. Vậy, chúng ta có thể làm gì được? Đừng thu thập từ phía trên cao mà tôi hoặc người khác cảm thấy rằng đối với em không có sự giải thoát trong cuộc sống này. Không có gì có thể cản trở công việc của linh hồn của em ở giai đoạn này. Chỉ sự khẩn cấp của thời gian kích thích bất kỳ ai trong chúng tôi mong muốn rằng việc giải thoát đó phải được thực hiện càng nhanh càng tốt để em có thể được tự do phụng sự.

Perhaps the way in which I can best help you is to give you a meditation which will enable you to clarify the field of motives. Your life motive to tread the Path is sound, but e’en that motive is tainted by the ancient rhythms. Your other motives are oft beautiful, but spoilt by the underlying distortions of the concrete mind which incites to ambition, to love of power and to deviousness in approach to any action of any kind.

Có lẽ cách mà tôi có thể giúp em tốt nhất là cung cấp cho em một bài tham thiền sẽ giúp em làm rõ lĩnh vực động cơ. Động lực cuộc đời của em để bước trên Con Đường Đạo là sâu sắc, nhưng ngay cả động cơ đó cũng bị ô nhiễm bởi các nhịp điệu cổ xưa. Các động cơ khác của em thường đẹp đẽ, nhưng bị hư hỏng bởi sự biến dạng cơ bản của cái trí cụ thể kích động tham vọng, tình yêu quyền lực và sự ham muốn trong việc tiếp cận với bất kỳ hành động thuộc bất cứ loại nào.

Therefore, for you, simplicity and clarity as to the causes of all that you do are essential and needed. At sunrise, at noon, at sunset and at night—four times a day—follow the procedure outlined below:

Vì vậy, đối với em, sự đơn giản và rõ ràng về nguyên nhân của tất cả những gì em làm là quan yếu và cần thiết. Vào lúc mặt trời mọc, giữa trưa, vào lúc hoàng hôn và vào ban đêm—bốn lần một ngày—hãy làm theo các bước dưới đây:

1. Sound the Sacred Word three times, breathing it out as a soul through the three bodies.

1. Xướng Linh Tự ba lần, thở nó ra như một linh hồn qua ba thể.

2. Say then, as you stand in the light of the soul.

2. Sau đó nói khi em đứng trong ánh sáng của linh hồn.

“I stand before the judgment seat of my own soul.

“Tôi đứng trước nơi phán xét của linh hồn tôi.

I stand in the light that comes from that divine source.

Tôi đứng trong ánh sáng xuất phát từ nguồn Thiêng liêng đó.

I seek to walk in truth, sincerity and love.”

Tôi tìm cách đi trong chân lý, sự chân thật và tình thương. “

3. Then ask yourself the following three questions:

3. Sau đó tự hỏi mình ba câu hỏi sau:

a. That which I have accomplished during the past few hours, has it been clearly understood by me?

a. Những gì tôi đã đạt được trong vài giờ qua, liệu tôi có hiểu rõ không?

b. Have I acted simply and sanely and with wise direction? [604]

b. Tôi có hành động đơn giản, khôn ngoan và với sự hướng dẫn minh triết không? [604]

c. Why did I act and speak and write in this particular connection? What prompted the specific deed?

c. Tại sao tôi lại hành động, nói và viết trong mối quan hệ đặc biệt này? Điều gì gợi lên hành động cụ thể?

4. Having thus analysed the activities of the past few hours, then dedicate them to the service of the Master. The doing of this will eliminate much thought and work of a personal intent.

4. Sau khi đã phân tích các hoạt động trong vài giờ qua như thế, khi đó dâng hiến chúng cho công việc phụng sự của Sư Phụ. Việc làm này sẽ loại bỏ nhiều suy nghĩ và công việc mang một ý định cá nhân.

This sounds simple and almost elementary but if you carry this meditation forward for the next three months, doing no other, you will find that the whole problem of motive will clarify for you. That is what you want, is it not, my brother? Well I know it. Your basic life intent causes me no concern. It is your life technique that lies at the root of all the difficulty. It is governed so oft by expediency. Give not so much time to intricate and devious thought. Seek to live mentally much more simply. Ask and look for nothing for the separated self and eliminate all thought along the lines of lower self endeavour. The group stands by you in loving helpfulness and readiness to aid. So do I. This is no idle word but a statement of fact that is one upon which you can depend.

Điều này có vẻ đơn giản và gần như là sơ đẳng, nhưng nếu em thực hiện bài thiền này trong ba tháng tới, không làm gì khác, em sẽ thấy rằng toàn bộ vấn đề của động cơ sẽ làm rõ cho em. Đó là điều em muốn, phải không huynh đệ của tôi? Tôi cũng biết điều đó. Mục đích cuộc sống cơ bản của em không làm cho tôi quan tâm. Chính kỹ thuật đời sống của em nằm ở gốc rễ của tất cả những khó khăn. Nó thường bị chi phối bởi động cơ cá nhân. Không nên dành quá nhiều thời gian cho những suy nghĩ phức tạp và loanh quanh. Tìm kiếm để sống tinh thần đơn giản hơn nhiều. Đừng hỏi và tìm kiếm những gì cho phàm ngã tách biệt và loại bỏ tất cả các ý tưởng đi theo con đường của những nỗ lực thấp kém. Nhóm sẽ đứng bên em với sự yêu thương và sẵn sàng trợ giúp. Tôi cũng thế. Đây không lời nói suông nhưng một phát biểu của thực tế mà em có thể phụ thuộc vào.

January 1935—Tháng giêng, 1935

MY BROTHER:

HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

You have done much sound thinking the past six months and the fruit of your meditation is being garnered. The meditation that I gave you last July can now be stopped, but the three questions which were incorporated in the third point must be used by you each evening as a form of review. You still need a period for the quiet consideration of the impelling motives for daily action. Right motive and a clear vision of the sources of action are still imperative needs of yours. They will lead to right activity, truthful thought and right speech. But you have made progress, my brother, and have no cause for depression or to waste time in regret over the past. The only regret that is justifiable is based on failure to learn the lessons of failure. You, however, are learning.

Em đã thực hiện nhiều suy nghĩ sâu sắc sáu tháng qua và kết quả của việc tham thiền của em đang được thu thập. Bài tham thiền mà tôi đã đưa cho em vào tháng 7 vừa qua có thể dừng lại, nhưng ba câu hỏi trong điểm thứ ba phải được em sử dụng vào mỗi tối như là một hình thức rà soát. Em vẫn cần một thời gian để xem xét yên lặng về động cơ thúc đẩy cho hành động hàng ngày. Động cơ đúng đắn và tầm nhìn rõ ràng về các nguồn động lực vẫn là nhu cầu thiết yếu của em. Chúng sẽ dẫn đến hoạt động đúng đắn, tư duy trung thực và lời nói đúng. Nhưng em đã tiến bộ, huynh đệ của tôi, và không có lý do để nản lòng hoặc lãng phí thời gian trong sự hối tiếc quá khứ. Sự hối tiếc duy nhất có thể bào chữa là dựa trên việc không học được bài học thất bại. Tuy nhiên, em đang học.

There are, as well you know, still certain mental activities belonging to your old state of mind which seethe beneath the surface of your life. These, too, must be transmuted and it is for you to discover the method. I can but indicate need [605] and opportunity. As for the method you should follow in meditation, I would suggest the procedure outlined below:

Em cũng biết là vẫn còn một số hoạt động tinh thần thuộc trạng thái tâm trí cũ của em sôi sục dưới bề mặt cuộc sống của em. Những điều này cũng phải được chuyển hóa và chính em phải khám phá ra phương pháp. Tôi có thể chỉ ra nhu cầu [605] và cơ hội. Về phương pháp mà em nên làm theo trong tham thiền, tôi sẽ đề nghị các thủ tục nêu dưới đây:

1. Achieve alignment and then raise the consciousness as high as possible. Assume then the attitude of the soul.

1. Đạt được sự chỉnh hợp và nâng tâm thức càng cao càng tốt. Giữ thái độ của linh hồn.

2. Sound the Sacred Word, breathing it out throughout the entire personality.

2. Xướng lên Linh Tự, thở nó ra đến toàn bộ phàm ngã.

3. Ponder next upon the Lord’s Prayer as part of your group work.

3. Kế đến suy ngẫm Lời cầu nguyện Chúa (Lord’s Prayer) như là một phần của công việc nhóm của em.

4. Seek by the power of your thought and through the outpouring of love to contact your co-disciples and group brothers. This is for you important, for it not only aids in group integration but it serves to decentralise you from the centre of your own stage.

4. Bằng sức mạnh của tư tưởng và thông qua sự tuôn chảy của tình thương, em tìm kiếm để tiếp xúc với các bạn đồng môn và huynh đệ trong nhóm của em. Điều này rất quan trọng cho em, vì nó không chỉ hỗ trợ trong việc tích hợp vào nhóm mà còn giúp tách em khỏi trung tâm bản ngã của em.

5. Then endeavour to contemplate or to realise yourself as the soul, as divine, as the Christ within. This will take the highest concentration of which you are capable.

5. Sau đó cố gắng chiêm ngưỡng hoặc để nhận thức rằng chính mình là linh hồn, là thiêng liêng, là Đấng Christ bên trong. Điều này cần có sự tập trung cao nhất mà em có thể.

6. Then say the following with thought behind the words:

6. Sau đó nói những điều dưới đây với tư tưởng đằng sau những lời nói:

“I stand before the judgment seat of my own soul. I am that soul. All love and light am I. I serve the world and lose myself in service. This is my life and this is the way that I will tread until the Day-be-with-us.”

“Tôi đứng trước tòa án của linh hồn tôi. Tôi là linh hồn đó. Tôi là tất cả tình thương và ánh sáng. Tôi phụng sự thế giới và đánh mất bản thân trong phụng sự. Đây là cuộc sống của tôi và đây là cách mà tôi sẽ đi cho đến Ngày được cùng ở với chúng ta.”

7. Sound the Word slowly, sending it forth in love to your group brothers.

7. Xướng Linh Tự một cách chậm rãi, gửi tình thương đến huynh đệ trong nhóm của em.

August 1935—Tháng 8, 1935

MY BROTHER AND MY FRIEND:

Huynh đệ và người bạn của tôi:

You are still walking in a fog. Glamour still surrounds you. You are still self-deceived and I cannot reach you at this time.

Em vẫn còn đang bước đi trong sương mù. Ảo cảm vẫn bao quanh em. Em vẫn còn tự lừa dối và tôi không thể liên lạc với em vào lúc này.

February 1936—Tháng 2, 1936   

When last I wrote I feared that it might be the last communication I should be able to make to you. But during the past six months some of the glamour with which you were surrounded has disappeared. Much still remains. However, your successful attempt to see with greater clarity encourages [606] me to write to you as usual and again to supervise your work. This I have not done for six months. Forget not, that when an older and, therefore, more powerful disciple turns his attention to you, the resulting stimulation will work two ways. One of them will be the intensification of the glamour, so bear this in mind for seven weeks after receiving this communication.

Khi tôi viết lần cuối cùng, tôi sợ rằng đó có thể là sự giao tiếp cuối cùng mà tôi có thể làm cho em. Nhưng trong sáu tháng vừa qua, một số ảo cảm bao quanh em đã biến mất. Vẫn còn nhiều ảo cảm. Tuy nhiên, nỗ lực thành công của em để nhìn thấy rõ hơn khuyến khích tôi viết cho em như thường lệ, và một lần nữa giám sát công việc của em. Điều này tôi đã không làm trong sáu tháng. Đừng quên rằng khi một người đệ tử thâm niên hơn, và do đó có uy lực hơn, hướng sự chú ý đến em, sự kích thích tiếp theo sẽ làm việc theo hai cách. Một là sự tăng cường ảo cảm, vì vậy hãy nhớ điều này trong bảy tuần sau khi nhận được thông tin này.

The way for you is not yet the “lighted Way.” You have surrounded yourself with so much fog and with such a dense cloud of self-generated and self-motivated thoughtforms that the light only pierces through in places[1]. As yet, there is no steady stream or lighted Way. Therefore, for the present the most appropriate name for that part of the Path of Discipleship that you are treading is the Way of Sacrifice —the sacrifice of your own thoughts, of your own wishes, aims and dreams. It means for you the treading of the rocky way of duty, of dharma and of clear decision. Therefore, for the next six months, will you take the following words into your meditation?

Con đường cho em không phải là Con Đường được “chiếu sáng”. Em đã bao quanh mình với sương mù và với những đám mây dày đặc của các hình thức tư tưởng tự tạo, tự phát khiến ánh sáng chỉ xuyên qua ở một số điểm. Tuy nhiên, không có luồng sáng ổn định hay Con Đường được soi sáng. Vì vậy, trong hiện tại, tên thích hợp nhất cho phần Con đường Đệ tử mà em đang bước Con đường Hi Sinh—hy sinh những suy nghĩ của riêng em, những ước muốn, mục tiêu và ước mơ của chính em. Nó có nghĩa là em đang bước trên con đường lổm chổm đá của bổn phận, dharma, và quyết định rõ ràng. Vì vậy, trong sáu tháng tới, em sẽ đưa những chữ sau đây vào buổi tham thiền của em.

1st month—Duty.

Tháng đầu tiên—Bổn Phận.

2nd month—Dharma, or responsible obligation.

Tháng thứ hai—Pháp, hoặc nghĩa vụ trách nhiệm.

3rd month—Discrimination.

Tháng thứ 3—Phân biện.

4th month—Dispassion.

Tháng thứ 4—Xả dục.

5th month—Decision.

Tháng thứ 5—Quyết định.

6th month—Destiny.

Tháng 6—Định mệnh.

You will note how each word has the same initial letter and hence will give you facility in remembrance. Ponder deeply on these words and, later, write an article in which you will link these words synthetically and sequentially, and so provide an article on Discipleship which could be of service to others. You have ability to write; therefore, at present serve through writing.

Em sẽ lưu ý mỗi từ có cùng một chữ cái đầu tiên và do đó sẽ cho em cơ sở để ghi nhớ. Hãy suy ngẫm sâu sắc về những từ này, và sau đó viết một bài viết, trong đó em sẽ liên kết các từ này một cách tổng hợp và tuần tự, và để cung cấp một bài viết về Con đường Đệ tử có thể hữu ích cho người khác. Em có khả năng viết; do đó, hiện nay phụng sự thông qua chữ viết.

Keep your eyes on the light ahead. Speak not of yourself. Forego all planning at present, but perform action with detachment and with skill. Disperse the clouds around you by the dynamic light of your own soul, and in order to do this, seek greater and more rapid alignment. One hint I will give you. When tempted to descend into the clouds of your own thoughtforms and into the weaving of your own material plans, send out your thought to me. [607]

Hãy để mắt nhìn ánh sáng phía trước. Đừng nói về chính mình. Bó qua tất cả các kế hoạch hiện nay, nhưng thực hiện hành động với sự buông xả và với sự khéo léo. Xua tan những đám mây xung quanh em bằng ánh sáng năng động của linh hồn em, và để làm điều này, tìm kiếm sự chỉnh hợp lớn hơn và nhanh hơn. Một gợi ý tôi sẽ cung cấp cho em. Khi bị cám dỗ rơi xuống những đám mây của những suy nghĩ của riêng em và vào việc thêu dệt các kế hoạch vật chất của chính em, hãy gửi tư tưởng của em đến tôi.

August 1936—Tháng 8, 1936

MY BROTHER:

Huynh đệ của tôi,

In my last instruction I gave you certain suggestions. Perhaps the way I can best help you at this time is to list them for you clearly and concisely, and ask you—in the silence of your heart and the light of your soul—to answer them. I told you:

Trong huấn thị cuối cùng tôi đã đưa ra cho em một số gợi ý. Có lẽ cách tôi có thể giúp em tốt nhất tại thời điểm này là liệt kê chúng cho em rõ ràng và súc tích, và yêu cầu em—trong sự im lặng của trái tim em và ánh sáng của linh hồn em—trả lời chúng. Tôi đã nói với em:

1. To sacrifice your own thoughts, wishes, aims and dreams. Have you done this?

1. Hy sinh tư tưởng, ước muốn, mục tiêu và ước mơ của chính mình. Em đã làm điều này không?

2. To follow the rocky way of duty, of dharma, and clear decision. Have you done this?

2. Theo con đường lổm chổm đá của bổn phận, của dharma, và quyết định rõ ràng. Em có làm điều này không?

3. To keep your eyes on the Light ahead or in the distance. Have you done this?

3. Giữ mắt của em trên Ánh sáng phía trước hoặc ở xa. Em đã làm điều này không?

4. To preserve silence as regards yourself. Have you done this?

4. Giữ im lặng về bản thân em. Em đã làm điều này không?

5. To forego all plans. Have you done this?

5. Từ bỏ mọi kế hoạch. Em đã làm điều này không?

6. To disperse the clouds of glamour around you by the dynamic light of your own soul. Have you done this?

6. Xua tan những đám mây ảo cảm xung quanh em bằng ánh sáng năng động của linh hồn em. Em đã làm điều này không?

7. To send out your thoughts to me. Have you done this?

7. Gửi ý nghĩ của em cho tôi. Em đã làm điều này không?

Two of these questions, I will answer for you, but I will not enlarge upon them. First: You have not sent out your thoughts to me. I have not registered one thought. You have sent out devotion, desire, demands, aspiration, longings and wishes—but not one clear thought. Why? Think this out, my brother.

Tôi sẽ trả lời cho em hai trong số những câu hỏi này, nhưng tôi sẽ không mở rộng chúng ra. Đầu tiên: em đã không gửi tư tưởng của em cho tôi. Tôi đã không ghi nhận ý tưởng nào. Em đã gửi ra lòng sùng kính, ham muốn, yêu cầu, khát vọng, khao khát và mong muốn—nhưng không phải là một tư tưởng rõ ràng. Tại sao? Hãy nghĩ ra điều này, huynh đệ của tôi.

You have made plans.

Em đã có những kế hoạch.

Will you re-read my last instruction to you and again take this as my message for you? Will you carry on with the same meditation for another six months? Upon the work done during the coming six months will depend much. Send out your thoughts to me and I will recognise them. Learn the distinction between thought and desire. The two are not clearly defined in your mind.

Em sẽ đọc lại hướng dẫn cuối cùng của tôi cho em và một lần nữa coi đây là thông điệp của tôi dành cho em? Em sẽ tiếp tục với bài tham thiền này trong sáu tháng nữa không? Tất cả phụ thuộc nhiều vào công việc được thực hiện trong sáu tháng tới. Hãy gửi tư tưởng của em cho tôi và tôi sẽ nhận ra chúng. Tìm hiểu sự khác biệt giữa tư tưởng và ham muốn. Hai cái này không được định nghĩa rõ ràng trong đầu của em.

February 1937—Tháng 2, 1937

MY BROTHER AND MY FRIEND:

MY BROTHER AND MY FRIEND:

I told you in my last instruction that upon the work done during the coming six months much would depend. You have done the work aright and your feet are set more firmly upon the Path, and much of the old glamour has been dissipated. I would [608] have you feel encouraged, for I am encouraged over you. Even a year ago I felt that you might have to wait for another life period before you could fill the niche in this group of my disciples that I seek to see you fill. I know now that I need not wait so indefinitely. Four times I have registered from you a clear thought—and this has never happened before in your life. The reason has been that you have relinquished your plans and your personality scheming, and thus have dispersed in a measure the miasmas of your tortuous thoughts, based on personality ambition and the vagaries of the concrete mind. I can reach you now, my brother—a thing hitherto impossible. Up till now I have had to reach you through A.A.B.

Tôi đã nói với em trong hướng dẫn cuối cùng của tôi rằng nhiều điều sẽ phụ thuộc vào công việc đã được hoàn thành trong sáu tháng tới. Em đã hoàn thành công việc và đôi chân của em đặt vững chắc hơn trên Đường Đạo, và nhiều ảo cảm cũ đã bị xua tan. Tôi muốn [608] em cảm thấy sự khích lệ, vì tôi được khích lệ nhờ em. Ngay cả một năm trước, tôi cảm thấy rằng em có thể phải chờ đợi một khoảng thời gian khác trước khi em có thể lấp vào chỗ thích hợp trong nhóm đệ tử của tôi mà tôi muốn nhìn thấy em lấp vào. Tôi biết bây giờ tôi không cần phải chờ đợi như vậy vô thời hạn. Bốn lần tôi đã ghi nhận từ em một tư tưởng rõ ràng—và điều này chưa bao giờ xảy ra trước đây trong cuộc sống của em. Lý do là em đã từ bỏ kế hoạch và những dự định phàm ngã của em, và do đó đã xua tan trong một mức độ làn sương mù của những ý nghĩ mưu mẹo của em, dựa trên tham vọng phàm ngã và bất ổn của trí cụ thể. Bây giờ tôi có thể tiếp cận em, huynh đệ của tôi—điều đó cho đến nay không thể. Cho đến nay tôi đã phải liên lạc với em qua A.A.B.

Let not the recognition of this fact induce a fresh glamorous attitude and my words thus form the germ of a new field of glamour. I speak this warning, for you have such an innate tendency to be glamoured.

Đừng để sự công nhận thực tế này tạo ra một thái độ ảo cảm mới và những lời của tôi do đó tạo thành mầm mống của một lĩnh vực mới của ảo cảm. Tôi nói lời cảnh báo này, vì em có khuynh hướng bẩm sinh bị ảo cảm như thế.

The injunctions which I have given you in my two previous communications remain still the basis for your personality life. Naught is changed, except in you, and you must guard against relapse. Not yet are you occultly “established” upon the Way; not yet are you expert in the recognising and the dissipation of glamour. Therefore, proceed with due care.

Những huấn lệnh mà tôi đã đưa cho em trong hai lần liên lạc trước đây của tôi vẫn là nền tảng cho cuộc sống phàm ngã của em. Không có gì thay đổi, ngoại trừ ở trong em, và em phải bảo vệ chống sự tái phát. Về mặt huyền linh em chưa phải đã “ổn định” trên Đường Đạo; em chưa là chuyên gia trong việc nhận ra và phá tan ảo cảm. Do đó, hãy tiến hành với sự cẩn thận.

I would have you take the Rules of the Road and study them. Take them as the theme of your reflection during the coming six months and, at the close, give your interpretation of each Rule for the helping of your fellow disciples. This is the task which I assign you.

Tôi muốn em xem xét Các Quy Luật Của Đường Đạo và nghiên cứu chúng. Hãy coi đó là chủ đề tham thiền của em trong suốt sáu tháng tới, và khi kết thúc, hãy cho giải thích của em về mỗi Quy Luật để giúp đỡ các huynh đệ của em. Đây là nhiệm vụ mà tôi chỉ định cho em.

September 1937—Tháng 9, 1937

MY BROTHER:

MY BROTHER:

A fresh cycle of work is opening up before you at this time, and this is the result of the attention which you have paid to my instructions and to the response which you have given to the effort of your soul to release your personality from glamour. May I point out to you that very often, after a certain measure of glamour has been overcome (as is the case with you), that illusion can then step in? I would warn you against two such illusions: [609]

Một chu kỳ công việc mới đang mở ra trước mắt em vào lúc này, và đây là kết quả của sự quan tâm mà em đã dành cho các huấn thị của tôi và phản ứng mà em với nỗ lực của linh hồn em nhằm giải phóng phàm ngã khỏi ảo cảm. Tôi có thể chỉ ra cho em thấy rằng rất thường xuyên, sau khi một mức độ nào đó của ảo cảm đã được khắc phục (như trường hợp với em), ảo tưởng khi đó có thể bước vào? Tôi muốn cảnh báo em chống lại hai ảo tưởng như vậy: [609]

a. The illusion that glamour no longer can hold sway over you. Constant watchfulness will be necessary.

a. Ảo tưởng rằng ảo cảm không còn có thể cản trở em. Cần phải thận trọng thường xuyên.

b. The illusion of selection and reward. To this, all sixth ray aspirants are more than usually prone.

b. Ảo tưởng về sự được lựa chọn và tưởng thưởng. Về điều này, tất cả các người chí nguyện cung sáu thường dễ mắc phải.

Will you also forgive my pointing out to you that your entering upon this particular field of service and your passing through the door to this cycle of work is for you definitely a following of the line of least resistance. You can render good service if you follow instructions with care, but it is the opportunity to serve which is the result to which I referred in my opening paragraph and not the specific type. Ponder on this, for if you understand that which I seek to impress upon you, your service will be greatly helped and your usefulness increased.

Em cũng sẽ tha thứ cho tôi khi tôi chỉ ra rằng việc em bước vào lĩnh vực phụng sự cụ thể này và việc em bước qua cánh cửa của chu kỳ làm việc này, với em, chắc chắn là việc theo con đường ít đối kháng nhất.  Em có thể thực hiện phụng sự tốt nếu em làm theo các hướng dẫn cẩn thận, nhưng đó là cơ hội để phụng sự vốn là kết quả của cái mà tôi đã giới thiệu trong đoạn mở đầu của tôi và không phải là loại cụ thể. Suy nghĩ về điều này, nếu em hiểu những gì tôi muốn gây ấn tượng với em, công việc phụng sự của em sẽ được giúp đỡ rất nhiều và tính hữu ích của em tăng lên.

Having made your choice and decision, my problem now is how to help you to make good in the future which is opening up before you. My two suggestions may surprise you, for they will not be at all along the line you anticipate.

Đã có sự lựa chọn và quyết định của em, vấn đề của tôi bây giờ là làm thế nào để giúp em làm tốt trong tương lai đang mở ra trước mắt em. Hai gợi ý của tôi có thể sẽ làm em ngạc nhiên, vì chúng sẽ không nằm ở tất cả những gì em tiên liệu.

First of all, I would say to you: Take not yourself so seriously. The world still proceeds upon its way and the planet continues to revolve whether you serve or not. Lower the intensity of your vibration. You can serve and your service is needed. All servers are needed at this time. You have been through a drastic disciplining and should have learnt much; but you will nullify your usefulness and shorten your period of service through your intense earnestness. Remember, you have to offset constantly your sixth ray personality. Will you comprehend me if I say that you never evidence any imagination or excitement except along the lines of discipleship, and that then you evidence too much? I will give you some verses later on in this instruction, upon which I will ask you to ponder and reflect, not in your meditation (for I would have you follow only your group meditation) but during the day. Be balanced, my brother, and remember that work for us embraces many things, e’en hours of relaxation, and it most certainly necessitates the use of the discrimination in ascertaining the essentials and separating them from the non-essentials.

Trước hết, tôi muốn nói với em: Đừng quá nghiêm trọng về em. Thế giới vẫn tiếp tục trên con đường của nó và hành tinh tiếp tục xoay quanh dù em phụng sự hay không. Giảm cường độ rung động của em. Em có thể phụng sự và việc phụng sự của em là cần thiết. Tất cả các người phụng sự là cần thiết tại thời điểm này. Em đã trải qua một kỷ luật quyết liệt và đã học được nhiều; nhưng em sẽ vô hiệu hóa tính hữu dụng của em và rút ngắn thời gian phụng sự của em thông qua sự nghiêm trọng của em. Hãy nhớ rằng, em phải hóa giải liên tục phàm ngã cung sáu của em. Em có hiểu tôi không nếu tôi nói rằng em không bao giờ thể hiện bất kỳ sự tưởng tượng hay hứng thú nào ngoại trừ theo các đường hướng con đường đệ tử, và rằng em thể hiện điều đó quá nhiều? Tôi sẽ đưa cho em một số câu sau này trong huấn thị này mà tôi muốn em suy ngẫm, không phải trong khi tham thiền (vì tôi muốn em chỉ thực hành bài tham thiền nhóm thôi), mà trong suốt ngày. Hãy cân bằng, huynh đệ của tôi, và nhớ rằng công việc của chúng ta chứa đựng rất nhiều thứ, ngay cả những giờ thư giãn, và nhất định nó đòi hỏi phải sử dụng tính phân biện trong việc xác định những yếu tố cần thiết và tách chúng khỏi những điều không cần thiết.

The second thing I would say to you may surprise you more than the above which, perchance, you have at moments yourself suspected. I would say to you with emphasis: Love more your fellowmen. At present you love our work and service and the ideal more than you love your brothers. This is the reason why you are such a poor, such a very poor psychologist. You do not love enough. Every human being you meet you consider and approach from the angle of the work, and not because they are fellow pilgrims or people you can love and help. Yourself as a server and the work (as our work) looms large between you and your fellowmen and will definitely negate your usefulness. It is the “organisation spirit” and the “manipulative faculty” of the third ray executive. Our workers deal with souls, and not with the work. They are occupied in aiding individuals and, through individuals, the world. They do not occupy themselves with the form side. That, too, is ever properly regarded and attended to, but it is secondary. You make it primary.

Điều thứ hai tôi muốn nói với em có thể làm em ngạc nhiên nhiều hơn điều trên mà, tình cờ, em có trong những giây phút em nghi ngờ bản thân. Tôi sẽ nói với sự nhấn mạnh: hãy thương yêu huynh đệ của em nhiều hơn. Hiện tại em yêu thích công việc, việc phụng sự và lý tưởng của chúng ta nhiều hơn là em yêu huynh đệ của mình. Đây là lý do tại sao em là một một nhà tâm lý học nghèo, rất nghèo. Em không yêu thương đủ. Mỗi người em gặp gỡ em xem xét và tiếp cận từ góc độ của công việc, chứ không phải vì họ là những người hành hương đồng hành hoặc những người mà em có thể yêu thương và giúp đỡ. Bản thân em như là một người phụng sự và công việc (như công việc của chúng ta) hiển thị lớn giữa em và bạn đồng hành của em và chắc chắn sẽ phủ nhận sự hữu ích của em. Đó là “tinh thần tổ chức” và “năng lực xử lí” của nhà quản lí cung 3. Những người làm việc của chúng ta làm việc với linh hồn, chứ không phải với công việc. Họ bị chiếm đóng trong các cá nhân hỗ trợ, thông qua các cá nhân, trên thế giới. Họ không quan tâm đến hình tướng. Điều đó cũng được xem xét hợp lý và cần quan tâm đúng đắn, nhưng nó là thứ yếu. Em biến nó thành chính yếu.

Settle back, my brother. Love and serve; relax and live a normal, useful life. The fires of your own intensity and the heat of your own aspiration will otherwise burn so fiercely that no one can get near you. Take time to know people for themselves, and not for their possible availability in the work. Yet fall not over backwards as you attend to my instructions. Balance is ever, for the aspirant, a major objective. The two sentences which I give to you for careful consideration are as follows:

Hãy ngồi lại lại, huynh đệ của tôi. Hãy yêu thương và phụng sự; thư giãn và sống một cuộc sống bình thường, hữu ích. Bằng không ngọn lửa của cường độ của chính em và sức nóng của khát vọng của riêng em sẽ cháy dữ dội khiến không ai có thể đến gần em. Dành thời gian để biết mọi người vì họ, chứ không phải vì sự khả dụng của họ trong công việc. Thế nhưng đừng rơi vào tình trạng ngược lại khi em tuân theo các huấn thị của tôi. Sự cân bằng luôn luôn là mục tiêu chính đối với người chí nguyện. Hai câu tôi đưa ra cho em để xem xét cẩn thận như sau:

“The fire that I create must heat, not burn; it must draw into its warmth the man who needs its heat; it must not thrust away, through fierceness, the seeking soul. It is the fire of love, and not the fire of my own aspiration.”

“Lửa tôi tạo ra phải nóng, nhưng không đốt cháy; nhờ sự ấm áp của nó, nó phải thu hút những người cần sức nóng của nó; nó không được xua đẩy những linh hồn tìm kiếm thông qua sự dữ dội. Đó là lửa của tình thương, chứ không phải là ngọn lửa của khát vọng của chính tôi. “

“The service which I render must be to souls and not unto myself upon the Path. Thus shall I meet a need and, in forgetfulness of self and my own word and place, lead others towards the light.”

“Việc phụng sự mà tôi phải làm là cho những linh hồn chứ không phải cho tôi trên đường đạo. Như vậy tôi sẽ đáp ứng được nhu cầu, và quên lãng bản thân, lời nói và nơi chốn của tôi, dẫn dắt những người khác về phía ánh sáng. “

I have not indicated to you the rays governing your personality vehicles, for I seek to place your interest, not in yourself but in others. [611]

Tôi đã không chỉ cho em những cung điều khiển các thể phàm ngã của em, vì tôi muốn em đặt sự quan tâm của em không phải ở chính mbản thân mà ở những người khác.

February 1938—Tháng 2, 1938

MY BROTHER AND MY FRIEND:

MY BROTHER AND MY FRIEND:

I would recall to you certain remarks which I made in my last instruction. With your usual aptitude to select that which your personality prefers, and which intrigues your sense of sin (I say this with a smile, brother, but the dramatic glamour of the sixth ray person, working in the Piscean Christian age, loves public conviction of wrong doing) and, feeding your sense of drama, enables you to say: “Now I know,” when you do not. You emphasised that which was obvious, and ignored the real things with which I sought to reach you. What were the points of real importance in my last communication to you? I will list them briefly:

Tôi muốn nhắc em nhớ lại những nhận định nhất định mà tôi đã đưa ra trong huấn thị cuối cùng của tôi. Với khuynh hướng thường lệ của em chọn những gì mà phàm ngã của em thích, và kích hoạt ý thức của em về tội lỗi (tôi nói điều này với nụ cười trên môi, huynh đệ của tôi, nhưng ảo tưởng ấn tượng của người cung sáu làm việc trong thời đại Song Ngư là yêu thích sự công nhận của công chúng về việc làm sai trái của mình) và, nuôi dưỡng cảm giác của em về kịch tính, cho phép em nói: “Bây giờ tôi biết”, trong khi em không biết. Em nhấn mạnh điều hiển nhiên và bỏ qua những gì chân thật mà tôi đã tìm cách tiếp cận em. Những điểm có tầm quan trọng thực sự trong huấn thị cuối cùng của tôi đối với em là gì? Tôi sẽ liệt kê chúng ngắn gọn:

1. The illusion of selection and reward to which, I warned you (as a sixth ray person) you were prone.

1. Ảo tưởng về việc được lựa chọn và khen thưởng, tôi đã cảnh báo em (như một người cung sáu) rằng em dễ bị tổn thương.

2. The opportunity to service.

2. Cơ hội để phụng sự.

3. To relax and lead a normal life.

3. Thư giãn và sống một cuộc sống bình thường.

You will note that none of these sentences came out of the two paragraphs which you felt were so important and which you emphasised in your papers and letters. Such is your present condition of glamour that the essential strikes you not. You see it not. Such is your present glamour, that it is with the greatest difficulty that I can reach you at this time. I am making the effort but, my brother, it looks to me that this will constitute my last effort to assist you, for if this instruction avails you not, there is nothing more that I can do.

Em sẽ lưu ý rằng không có câu nào trong số hai câu này được đưa ra trong hai đoạn mà em cảm thấy rất quan trọng và em đã nhấn mạnh trong các bài viết và thư của em. Đó là tình trạng ảo cảm hiện tại của em mà điều thiết yếu đã không khiến em chú ý. Em không thấy nó. Đó là ảo cảm hiện tại của em, rằng với những khó khăn lớn nhất mà tôi mới có thể tiếp cận em tại thời điểm này. Tôi đang nỗ lực, nhưng huynh đệ của tôi, tôi nghĩ rằng điều này sẽ là nỗ lực cuối cùng của tôi để giúp em, vì nếu huấn thị này không giúp ích gì cho em, thì tôi cũng không thể làm gì hơn.

An opportunity to serve and make a new start was offered to you. You were asked to help in some work which I initiated in 1919 (when I first contacted A.A.B. and began my work with her). The plans are made and the work is functioning. Yet you received not guidance from those who have sought to help you serve, and who opened the door of opportunity for you. You have endeavoured to initiate activities yourself, doing hastily and often inadequately the things you were asked to do. You were determined to find time for the things that your glamoured personality felt were important. You have chosen to select the work that you should do instead of cooperating in the service which you accepted. You have endeavoured to [612] form connections, unrelated to the work already undertaken and organised prior to your joining that particular group of workers who extended to you the invitation. You have tried to organise your own activities instead of cooperating in the work already begun and with which you were invited to cooperate—and with which you accepted affiliation. Your activities were paramount in your consciousness (in spite of protestations to the contrary) and the group activities were secondary.

Một cơ hội để phụng sự và thực hiện một khởi đầu mới đã được đưa đến cho em. Em đã được yêu cầu giúp đỡ một số công việc mà tôi đã bắt đầu vào năm 1919 (lần đầu tiên tôi liên lạc với A.A.B. và bắt đầu công việc của tôi với bà). Các kế hoạch được thực hiện và công việc đang hoạt động. Thế nhưng em không nhận sự hướng dẫn từ những người đã cố gắng giúp đỡ em phụng sự, và mở ra cánh cửa cơ hội cho em. Em đã cố gắng để tự khởi đầu các hoạt động, thực hiện một cách vội vã và thường không tương xứng những gì em đã được yêu cầu làm. Em đã quyết tâm dành thời gian cho những điều mà phàm ngã bị ảo cảm của em cảm thấy rất quan trọng. Em đã quyết định lựa chọn công việc mà em nên làm thay vì hợp tác trong công việc phụng sự mà em chấp nhận. Em đã cố gắng để tạo nên các mối quan hệ, không liên quan đến công việc đã được thực hiện và tổ chức trước khi em gia nhập nhóm phụng sự đặc biệt đó đã mở rộng lời mời em. Em đã cố tổ chức các hoạt động của riêng em thay vì hợp tác trong công việc đã bắt đầu và em đã được mời hợp tác—và em đã chấp nhận liên kết trong đó. Các hoạt động của em là tối quan trọng trong tâm thức của em (mặc dù phản đối điều ngược lại) và các hoạt động của nhóm là thứ yếu.

I advised you to live normally and to relax your intensity, but you have lived abnormally and with an occult violence which has been damaging to you. You have functioned in a glamorous world of your own idea of service and of what should be done, but there has been no true cooperation with what is being done —only an interest in what your own over-active third ray tendency has sought to produce has engaged your deepest attention. Superficially you cooperate, basically you do not.

Tôi khuyên em sống bình thường và thư giãn với cường độ của em, nhưng em đã sống bất thường và với một sự dữ dội huyền bí đã gây tổn hại cho em. Em đã hoạt động trong một thế giới ảo cảm của các  ý tưởng của em về phụng sự và về những gì cần phải làm, nhưng không có sự hợp tác thực sự với những gì đang được thực hiện—chỉ có sự quan tâm đến những gì mà xu hướng quá năng động của cung 3 đã tìm cách tạo ra đã thu hút sự chú ý sâu sắc của em. Về bên ngoài em hợp tác, về cơ bản thì em không.

You have been glamoured by your own values and not by the group values. You have been side-tracked by many non-essential issues and you have not collaborated in my work or with those who are already integrated into the work that I am seeking to do. I am referring to myself in this communication to you, as your statements, and I believe your intent, have ever expressed devotion to me, your Tibetan teacher. You have sought to integrate those into this work who do not belong to this particular line of endeavour but who are working in other fields of hierarchical activity—of equal importance to be sure, but not the work to which you pledged yourself in years gone by. You do not keep your line of service clear. You wander into too many other fields of service which are not yours and where you are not wanted. So great has been your glamour that you have even desired to thrust into my group of disciples an aspirant who, in a later life, will shift her consciousness on to the mental plane and gradually become a conscious disciple, but who is not yet working on the level where those who could be, or are, accepted disciples, are working.

Em đã bị ảo cảm bởi các giá trị của riêng em và không phải bởi các giá trị nhóm. Em đã lạc hướng về nhiều vấn đề không thiết yếu và em đã không cộng tác trong công việc của tôi hoặc với những người đã được tích hợp vào công việc mà tôi đang tìm cách để thực hiện. Tôi đang nhắc đến bản thân tôi trong thông tin này cho em, bởi vì những phát biểu của em, và tôi tin ý định của em, luôn bày tỏ lòng tôn kính đối với tôi, Chân sư Tây Tạng của em. Em đã tìm cách kết hợp những người  vốn không thuộc về đường lối hoạt động này vào công việc này, những người không tham gia vào nỗ lực đặc biệt này mà đang làm việc trong các lĩnh vực hoạt động khác của hoạt động của Thánh đoàn—chắc chắn có tầm quan trọng tương đương, nhưng không phải là công việc em đã cam kết trong nhiều năm qua . Em không giữ đường lối phụng sự của em rõ ràng. Em đi lang thang vào quá nhiều lĩnh vực khác của công việc phụng sự vốn không phải của em và là nơi mà em không muốn. Vì vậy ảo cảm của em lớn đến nỗi em thậm chí còn muốn đưa vào nhóm đệ tử của tôi một người chí nguyện, người mà trong kiếp sau sẽ chuyển tâm thức của mình lên cõi trí và dần trở thành một đệ tử hữu thức, nhưng hiện chưa làm việc ở cấp độ mà những người có thể, hoặc là, đệ tử chính thức đang làm việc.

I am speaking to you with no evasion whatever. Your true friends are deeply distressed and seek to shield you and to hold you to the straight path of service. They are conscious of failure [613] and blame themselves for lack of right technique. Why should they succeed where I, too, apparently have failed, and when your own soul seems powerless to pierce the glamour into which you cyclically wander?

Tôi đang nói chuyện với em mà không có sự tránh né. Những người bạn thật sự của em đang rất đau khổ và tìm cách che chở em và giữ em theo con đường phụng sự ngay thẳng. Họ ý thức về sự thất bại [613] và tự trách mình vì thiếu kỹ thuật đúng đắn. Làm sao họ có thể thành công khi mà tôi cũng rõ ràng đã thất bại, và khi linh hồn của em dường như bất lực để xuyên qua ảo cảm mà em đã xoay vòng trong đó?

What are the major glamours into which you so easily penetrate and which blot out, whilst they last, all true perception?

Những ảo cảm lớn mà em thâm nhập dễ dàng và xóa bỏ sự nhận thức đúng thực, khi chúng tồn tại, là gì?

1. The glamour of planning. You are sensitive to the Plan, but occupied with your own plans and believe that your plans are part of the Plan. List the plans and the schemes along many lines which you have evolved, my brother, and see how many you have succeeded in carrying through. Blame none but yourself if they were founded on astral dreams.

1. Ảo cảm của hoạch định. Em rất nhạy cảm với Thiên Cơ, nhưng em bận tâm với kế hoạch của riêng em và tin rằng kế hoạch của em là một phần của Thiên Cơ. Liệt kê các kế hoạch theo nhiều đường lối mà em đã phát triển, huynh đệ của tôi, và xem có bao nhiêu em đã thành công trong việc thực hiện. Đừng đổ lỗi cho ai khác chính mình nếu chúng được thành lập trên những giấc mơ trung giới.

2. The glamour of your own spiritual ambition. You desire to be a group organiser under the Plan. You long to produce some working scheme yourself, paralleling that already being done but definitely your own, or to organise some group, paralleling those already existing but which will be also definitely yours. But, when asked to fit into the work of a group already existing, you are too busy with your own dreams to do so and somewhat despise the task assigned. But, my brother, in our work there is no great or little task, only obedience to the next duty whatever that may be.

2. Ảo cảm của tham vọng tinh thần của em. Em mong muốn trở thành một người tổ chức nhóm theo Thiên Cơ. Em muốn tự sản xuất một số chương trình làm việc, song song với những gì đã được thực hiện nhưng rõ ràng là của riêng em, hoặc để tổ chức một số nhóm, song song với những nhóm đã có nhưng đó cũng sẽ chắc chắn của em. Nhưng, khi được yêu cầu để phù hợp với công việc của một nhóm đã có, em quá bận rộn với ước mơ của mình để không làm điều đó và phần nào coi thường nhiệm vụ được giao. Nhưng, huynh đệ của tôi, trong công việc của chúng tôi, không có việc lớn hay nhỏ, chỉ có tuân theo bổn phận trước mắt mà thôi.

3. The glamour of spiritual dominance or control over others. Therefore, continuously, you seek to find those to whom you can stand as a spiritual organiser. They are ever those of no great account in the scale of spiritual usefulness, and ever aspirants of good intention but you magnify their usefulness and possibilities in order to establish yourself—in your own eyes, if you could but recognise it—as a guide and leader of other disciples on the Way. You did this with two people, both of them good probationary disciples, and one nearing acceptance, but both working on the astral plane where those with whom I seek—at this particular time—to cooperate, are not working, except as souls, serving from the mental plane and from soul levels.

3. Ảo cảm của sự thống trị tinh thần hoặc kiểm soát những người khác. Do đó, em liên tục muốn tìm những người mà em có thể thể hiện như là một người tổ chức tinh thần. Họ luôn là những người không có năng lực lớn trong sự hữu ích tinh thần, và luôn là người chí nguyện với ý định tốt, nhưng em phóng đại tính hữu ích và khả năng của họ để tự thể hiện—trong mắt của em, nếu em có thể nhận ra nó—như là một người hướng dẫn và lãnh đạo của các đệ tử khác trên đường đạo. Em đã làm điều này với hai người, cả hai đều là những đệ tử tập sự tốt, và một người gần như được chấp nhận, nhưng cả hai đều làm việc trên cõi trung giới, nơi mà những người mà tôi mong mỏi hợp tác —tại thời điểm đặc biệt này—đang không hoạt động, ngoại trừ như những linh hồn, phụng sự từ cõi trí và từ các cấp độ linh hồn.

Again and again, my brother, during the past years I have sought to help you. The indication that what I say is true, lies in two basic facts: First, your deep unhappiness at this time and your inability to work with others, quietly and unassumingly [614] and, secondly, that no success along any line has come your way. Face up to that and understand the implications. Face these two facts with clarity and with hopefulness. The true disciple has ever to face facts. Let me give you certain facts and then let me beg of you to ponder on them:

Một lần nữa, huynh đệ của tôi, trong những năm qua tôi đã tìm cách giúp em. Chỉ dẫn cho thấy điều tôi nói là đúng nằm ở hai sự kiện cơ bản: Thứ nhất, sự bất hạnh sâu sắc vào lúc này và sự bất lực của em để làm việc với người khác, một cách lặng lẽ và khiêm tốn [614] và, thứ hai, rằng không có thành công nào theo theo bất kỳ đường lối nào. Hãy đối mặt với điều đó và hiểu được những hàm ý. Hãy đối mặt với hai sự kiện này với sự rõ ràng và với hy vọng. Người đệ tử thật sự luôn phải đối mặt với sự thật. Hãy để tôi cho em một số sự kiện nhất định và sau đó tôi xin em suy nghĩ về chúng:

1. You are nearly sixty. Ahead of you lie a few more years of service, if you will, or a futile running around, if you will.

1. Em gần sáu mươi tuổi. Trước mặt em chỉ còn một vài năm nữa để phụng sự, nếu em muốn, hoặc nếu em không muốn chạy lòng vòng.

2. You have been asked to collaborate in my work. This is not a question of your rendering obedience; in that I am not interested, but because, years ago, you recognised me and offered to help. You recognised some of my co-workers and offered your assistance.

2. Em đã được yêu cầu cộng tác trong công việc của tôi. Đây không phải là câu hỏi về sự vâng lời của em; tôi không quan tâm điều đó, nhưng vì nhiều năm trước, em đã nhận ra tôi và đề nghị giúp đỡ. Em đã nhận ra một số đồng nghiệp của tôi và em đã trợ giúp.

3. Your “service,” so called, has hitherto been the making of plans after your initial service of financing the earlier stage. But, my brother, the giving of money is the least important thing you have to offer. You have been occupied with large schemes, none of which have come to fruition because they were not the thing which you had, as a soul, undertaken to do and, therefore, they lacked the inflow of the group energy which would have guaranteed their success. You have been busy with an attempt to organise a group here and a group there. But the plans are already laid; the groups are already formed; the organisation, connected with my work, is already functioning. Then why not, brother of mine, collaborate with what already is?

3. Cái được gọi “công việc phụng sự của em” cho đến nay là việc tạo ra các kế hoạch sau khi em đã cung cấp việc phụng sự tài chánh cho giai đoạn đầu. Nhưng, huynh đệ của tôi, việc cho tiền là điều ít quan trọng nhất mà em phải cung cấp. Em đã bận rộn với những kế hoạch lớn và không có cái nào có kết quả vì chúng không phải là cái mà em, như một linh hồn, thực hiện và do đó chúng thiếu nguồn năng lượng nhóm vốn sẽ đảm bảo thành công của chúng . Em đã bận rộn với một cố gắng để tổ chức một nhóm ở đây và một nhóm ở đó. Nhưng kế hoạch đã được đặt; các nhóm đã được hình thành; tổ chức, liên kết với công việc của tôi, đã hoạt động. Vậy tại sao không cộng tác với những gì đã có, hỡi huynh đệ của tôi?

4. You have no ability to work in a big way from the worldly angle and are too old to learn. But the success of all large undertakings is based on the little things, the minor tasks, faithfully fulfilled, of the disciple who is free from personal ambition.

4. Em không có khả năng làm việc theo một cách lớn lao ở góc độ thế giới và quá già để học điều này. Nhưng sự thành công của tất cả các công việc lớn dựa trên những việc nhỏ, những nhiệm vụ nhỏ nhặt được hoàn thành một cách chính xác của người đệ tử không có tham vọng cá nhân.

5. It had been my intention to start some of you on definitely constructive work in connection with the dissipation of world glamour. But this activity you have delayed. You have hindered the work in the group up to date and this cannot be permitted much longer. Work along this line can be done successfully only by those who are mastering their personal glamours. You are yet in the depths of glamour and subconsciously know that this is true. All who know and love you, know it [615] and are in deep distress, wondering what they can do to help you and aid in your release.

5. Đó là ý định của tôi để bắt đầu một số đệ tử trong công việc xây dựng chắc chắn liên quan với việc phá tan ảo cảm của thế giới. Nhưng em đã trì hoãn hoạt động này. Em đã cản trở công việc trong nhóm cho đến hiện tại và điều này không thể được phép kéo dài hơn nữa. Công việc theo đường lối này chỉ có thể được thực hiện thành công bởi những người đang thành thạo những ảo cảm cá nhân của họ. Hiện Em đang ở trong chiều sâu của ảo cảm và về mặt tiềm thức biết rằng điều này là đúng sự thật. Tất cả những ai biết và yêu mến em đều biết điều đó, và đang buồn, tự hỏi làm thế nào họ có thể giúp đỡ em và giúp em trong việc giải phóng ảo cảm.

6. The door still stands wide open for you. But the opportunity for you to go forward with your group is dependent upon your accepting the above facts and by your beginning, for the first time in your life, to work as a humble server, relinquishing all plans, all big ideas, and for the rest of this life (which is but a moment of time in the long cycle of the soul), doing the little things behind the scenes of which no one will know.

6. Cửa vẫn mở rộng cho em. Nhưng cơ hội để em tiếp tục với nhóm của em phụ thuộc vào sự chấp nhận của em những sự kiện trên và bằng sự bắt đầu, lần đầu tiên trong cuộc đời của em, làm việc như một người phụng sự khiêm tốn, từ bỏ tất cả các kế hoạch, tất cả các ý tưởng lớn, và cho phần còn lại của cuộc đời này (đó chỉ là một khoảng thời gian ngắn trong chu kỳ dài của linh hồn), làm những việc nhỏ đằng sau hậu trường mà không ai biết.

Have I been hard, my brother? I assure you of my steadfast love and of my deep and lasting desire to help you and to serve you.

Tôi có nghiêm khắc không hỡi huynh đệ của tôi? Tôi bảo đảm với em về tình thương bền vững của tôi và khát vọng sâu xa và lâu dài của tôi để giúp em và phụng sự em.

I shall not attempt further to make clear to you the futility of your present life and activities. I stand ready to weld you into the group to which you pledged yourself as a soul and on soul levels. But to do this, you must reach the point of complete self-surrender and demonstrate your willingness to serve with humility and readiness. I will communicate with you again when you express the wish to have me do so and evidence, at the same time, a real understanding of that which I have sought to impress upon you.

Tôi sẽ không cố gắng làm rõ thêm cho em sự vô ích của cuộc sống hiện tại và các hoạt động của em. Tôi sẵn sàng gắn em vào nhóm mà em cam kết như là một linh hồn và trên các cấp độ linh hồn. Nhưng để làm điều này, em phải đạt đến điểm hoàn toàn tự nguyện đầu hàng và thể hiện sự sẵn sàng của mình để phụng sự với sự khiêm tốn và sẵn sàng. Tôi sẽ liên lạc với em một lần nữa khi em bày tỏ mong muốn tôi làm như vậy, và đồng thời thể hiện một sự hiểu biết thực sự những điều mà tôi đã cố gắng để gây ấn tượng với em.

You have a devotion and a persistence which can and must carry you through into the light. It has hitherto been a persistence, based on weakness, and your devotion has been glamorous. Now get down to facts. Let the future demonstrate a persistence which is based on conviction that you are in the Way of Service and that you travel not alone, but that a group of brothers stands ready to work with you when you will work with them. Let your devotion be that of devotion to your group brothers, to the need of humanity and to the Plan and last, and only last, to me.

Em có một sự sùng kính và sự kiên trì có thểphải đưa em vào trong ánh sáng. Nó đã trở thành sự kiên trì dựa trên sự yếu đuối, và lòng sùng kính của em đã trở thành ảo cảm. Bây giờ hãy đi xuống sự thật. Hãy để cho tương lai chứng minh sự kiên trì dựa trên niềm tin rằng em đang ở trên Con Đường Phụng sự và em không đi một mình, nhưng một nhóm huynh đệ đã sẵn sàng làm việc với em khi em làm việc với họ. Hãy để sự sùng kính của em là sự sùng kính với huynh đệ trong nhóm của em, với nhu cầu của nhân loại, với Thiên Cơ, và chỉ sau cùng, với tôi.

February 1939—Tháng 2, 1939

MY BROTHER:

MY BROTHER:

It is with deep regret that I ask for your resignation from the group. If in later years you indicate to me a change of heart and a freedom from your present glamour, I will most gladly take you back into some group—though not into this one. I [616] believe that you are prepared for this decision of mine. The reason for it is that I cannot any longer permit your group brothers to be hindered in their group work from your constantly recurring tendency to glamour. They have suffered with patience for many years, in order to give you the time to pierce through into the light, but the urgency of the times is such that all workers are needed and the group work must go forward.

Thật rất đáng tiếc khi tôi yêu cầu em ra khỏi nhóm. Nếu trong những năm sau này em cho tôi thấy một sự thay đổi trong trái tim và thoát ra khỏi ảo cảm hiện tại của em, tôi sẽ rất vui đưa em trở lại vào trong một nhóm nào đó—mặc dù không vào trong nhóm này. Tôi [616] tin rằng em đã chuẩn bị cho quyết định của tôi. Lý do là tôi không còn có thể cho phép các huynh đệ trong nhóm của em bị cản trở trong công việc tập thể của họ do khuynh hướng thường xuyên liên tục bị ảo cảm của em. Họ đã chịu đựng với kiên nhẫn trong nhiều năm, để cho em có thời gian xuyên màn ảo cảm đến với ánh sáng, nhưng sự cấp thiết của thời đại lớn đến nỗi tất cả những người làm việc đều cần thiết và công việc nhóm phải tiến về phía trước.

As you leave this group, what shall I say to you?

Khi em rời khỏi nhóm này, tôi sẽ nói gì với em?

First of all, that your karmic link with me remains unbroken. Secondly, that your place will not be filled…. I have little else to say to you for I have said so much during the past years. Your place lies open. Forget it not. Time may enable you to show a changed attitude. If you so choose, and if you will take a suggestion from me, will you ventilate all that is in your mind—a thing which is most difficult for you to do? Write with freedom. Express yourself fully and drastically. If the glamour is not dispersed in this life, then another life may see a return to old karmic relationships. It lies with you. You will learn most now by handling life, by caring for those for whom you are responsible, and by retaining your relationship to useful service….

Trước hết, liên kết nghiệp quả của em với tôi vẫn không bị gián đoạn. Thứ hai, vị trí của em sẽ không bị lấp vào …. Tôi có rất ít điều gì khác để nói với em vì tôi đã nói rất nhiều trong những năm qua. Vị trí của em vẫn để mở. Đừng quên điều đó. Thời gian có thể cho phép em thể hiện thái độ thay đổi. Nếu em chọn, và nếu em chấp nhận một đề nghị từ tôi, em sẽ công bố tất cả những gì trong trí của em—điều khó làm nhất với em? Hãy viết với sự tự do. Thể hiện bản thân một cách đầy đủ và quyết liệt. Nếu ảo cảm không bị xua tan trong kiếp sống này, thì kiếp sống khác có thể sẽ thấy sự quay trở lại với các mối quan hệ nghiệp quả cũ. Nó ở với em. Bây giờ em sẽ học được nhiều nhất bằng cách xử lý cuộc sống, bằng cách chăm sóc những người mà em chịu trách nhiệm, và bằng cách giữ mối quan hệ của em với công cuộc phụng sự hữu ích ….

March 1941—Tháng 3, 1941         

MY BROTHER:

MY BROTHER:

I think you know without any emphasis upon my part that the relation between us remains unbroken, though I have not been able for some time to contact you subjectively. This inability on my part is because the stimulation, which such a contact would inevitably bring, might (as it always has in the past) feed the glamours to which you so easily succumb.

Tôi nghĩ em biết mà không cần có sự nhấn mạnh nào từ phía tôi rằng mối quan hệ giữa chúng ta vẫn không bị gián đoạn, mặc dù tôi đã không thể liên lạc với em một cách chủ quan trong một thời gian nào đó. Sự không thể này từ phía tôi là vì một sự tiếp xúc như thế chắc chắn mang lại sự kích thích mà có thể (như nó luôn luôn xảy ra trong quá khứ) nuôi dưỡng những ảo cảm mà em dễ dàng mắc phải.

The danger is now, I believe, greatly lessened and you can be trusted today with a closer contact with me and with the group on the inner subjective plane. The inner group remains and is closely linked with me.

Tôi tin rằng sự nguy hiểm bây giờ đã giảm đi rất nhiều và ngày hôm nay em có thể được tin cậy với một tiếp xúc gần gũi hơn với tôi và với nhóm trên cõi giới chủ quan nội tại. Nhóm bên trong vẫn còn và liên kết mật thiết với tôi.

You have struggled for years to overcome the glamours and illusions which overwhelm you with such frequency. Your major gain has been to recognise more consciously the danger and a more swift reaction to it when it appears. Late last summer [617] and early in the autumn, you very nearly succumbed to an old rhythm. Suspicion of yourself, an uneasy conscience and much outer plane work tended to safeguard you. See to it most carefully that this contact with me and with your brothers in the inner group does not re-awaken into activity well-trained tendencies, old forms of wishful thinking, and old desires for power.

Em đã phải vật lộn trong nhiều năm để vượt qua những ảo cảm và ảo tưởng áp đảo em với mức độ thường xuyên như vậy. Điều ích lợi chính của em là nhận ra một cách có ý thức nhiều hơn mối nguy hiểm và một phản ứng nhanh nhạy hơn khi nó xuất hiện. Cuối mùa hè năm ngoái [617] và vào đầu mùa thu, em gần như đã khuất phục trước một nhịp điệu cũ. Sự nghi ngờ chính bản thân em, một lương tâm băn khoăn và nhiều công việc bên ngoài có xu hướng bảo vệ em. Hãy quan sát thật kỹ càng rằng sự tiếp xúc này với tôi và với các huynh đệ của em trong nhóm nội tại sẽ không đánh thức các xu hướng đã được rèn luyện tốt hoạt động trở lại, những hình tư tưởng mơ mộng cũ và những ham muốn quyền lực cũ.

For you, the remainder of this life must be given to the steady adherence to the duty of the day and to an intense inner life of meditation. Be consciously the sannyasin. Also, my brother, cooperate in all that proves itself (to your intuition) to be group activity and to which you can contribute power (gained in meditation) and understanding help. All else must be ruled out for this life; meditation and group service must, and will, provide adequate expression for all the powers of your personality and your soul. Find time for that service and be not entirely overwhelmed with the business of the physical plane. Your daily business, your daily service in your environment, your sensitivity to my impression (which can increasingly be developed) and your relation with the inner group on the mental plane will give you scope for loving, fruitful living and prepare you for the freer service of the next life.

Đối với em, phần còn lại của cuộc đời này phải dành cho sự tuân thủ vững chắc nhiệm vụ của thời đại và với một cuộc sống thiền định thâm sâu bên trong. Hãy là một sannyasin có ý thức. Ngoài ra, huynh đệ của tôi, hãy cộng tác trong tất cả công việc mà đã chứng minh với bản thân em (theo trực giác của em) là hoạt động nhóm và em có thể đóng góp sức mạnh (đạt được trong thiền định) và sự giúp đỡ hiểu biết. Tất cả những cái khác phải bị loại trừ khỏi cuộc đời này; tham thiền và công việc phụng sự nhóm phải, và sẽ, thể hiện đầy đủ tất cả quyền lực của phàm ngã và của linh hồn em. Hãy tìm thời gian cho việc phụng sự đó và đừng để hoàn toàn bị choáng ngợp với công việc cõi trần gian. Công việc hàng ngày của em, việc phụng sự hàng ngày trong môi trường của em, sự nhạy cảm của em với ấn tượng của tôi (vốn có thể ngày càng phát triển) và mối quan hệ của em với nhóm nội tại trên cõi trí sẽ cho em phạm vi yêu thương, sống hiệu quả và chuẩn bị em cho công việc phụng sự tự do hơn trong kiếp kế tiếp.

You have had a gruelling and a testing time, my brother. Your improvement has been slow but real. You can be trusted more definitely now than in the past and it is for this reason that I again offer you a more conscious contact with myself. I here tell you my name—a fact that you already intuitively know. I am, by doing so, telling you of your status upon the Path—that of an Accepted Disciple. This carries with it, its encouragement, its responsibilities and its risks.

Em đã trải qua một thời gian thử thách mệt mõi, hỡi huynh đệ của tôi. Sự cải thiện của em chậm nhưng chắc thực. Bây giờ em có thể được tin cậy rõ ràng hơn so với trong quá khứ, và vì lý do này một lần nữa tôi cho em sự tiếp xúc có ý thức hơn với tôi. Bây giờ, tôi cho em biết tên của tôi—một việc mà em đã biết một cách trực giác. Bằng cách làm như vậy, Tôi đã cho em biết về tình trạng của em trên Đường Đạo—đó là một Đệ Tử Chính Thức. Điều này mang theo nó sự khích lệ, trách nhiệm và những rủi ro của nó.

As you are now on the Path of Discipleship and under the direct influence of myself, the Master… your major duty is to train yourself in the needed sensitivity of response to my voice and to the impression which I may be seeking to make upon your aspiring consciousness. This you will do by a constant attitude of directed attention, a controlled personality life and the elimination of all feverish effort along any line of endeavour. A clear, focussed mind, a loving heart, and a cultivated simplicity of understanding of yourself, of life and of [618] others is your great need just now. It will do much to bring your devious and involved mental attitudes and aspirations into right order. Make life very simple, brother of mine.

Bởi vì bây giờ em đang ở trên Con đường Đệ tử và dưới ảnh hưởng trực tiếp của tôi, Chân sư … nhiệm vụ chính của em là rèn luyện bản thân mình trong sự nhạy cảm cần thiết đáp ứng với tiếng gọi của tôi, với ấn tượng mà tôi có thể tìm cách tác động lên tâm thức khát vọng của em. Điều này em sẽ làm bằng một thái độ chú ý có định hướng thường xuyên, một đời sống phàm ngã được kiểm soát, và loại bỏ tất cả các cố gắng bộc phát theo bất kỳ đường lối nỗ lực nào. Một thể trí rõ ràng, tập trung, một trái tim yêu thương, và một sự đơn giản được vun bồi về sự hiểu biết bản thân em, về cuộc sống và về những người khác là nhu cầu của em ngay bây giờ. Nó sẽ làm được nhiều để đưa những thái độ và khát vọng tinh thần liên quan của em vào trật tự đúng. Hãy làm cuộc sống thật giản đơn, huynh đệ của tôi.

June 1942—Tháng 6, 1942

BROTHER OF OLD:

NGƯỜI HUYNH ĐỆ XƯA:

You have been drawn back into a phase of my work which, in the early days, you aided me to start. Opportunity opens up before you; you can be and do much. The success of this will be dependent upon your ability to walk humbly and to recognise the fact that ancient thoughtforms still exist upon the periphery of your consciousness, and that the Dweller on the Threshold stands ready at all times to avail himself of the weaknesses to which you have been prone.

Em đã được rút lui trở lại vào một giai đoạn của công việc của tôi mà trong những ngày đầu, em đã hỗ trợ tôi để bắt đầu. Cơ hội mở ra trước mắt em; em có thể và làm được nhiều. Sự thành công của việc này sẽ phụ thuộc vào khả năng của em bước đi một cách khiêm tốn và nhận ra sự kiện rằng các hình tư tưởng cũ vẫn còn tồn tại ở vùng biên của tâm thức em, và rằng Kẻ Chận Ngõ đứng sẵn sàng mọi lúc để tận dụng những điểm yếu mà em dễ bị tổn thương.

I say not this in other spirit than that of warning you, and I am happy to see you again within the sphere of action of the work. I look to you to aid and help. If you will always act in full cooperation with your fellow workers, and if you will cultivate frankness and open-heartedness and clear speech, the end is sure.

Tôi không nói điều này với tinh thần nào khác ngoài việc cảnh báo em, và tôi vui khi được gặp lại em trong phạm vi hoạt động của công việc. Tôi nhìn về em để hỗ trợ và giúp đỡ. Nếu em luôn hành động trong sự hợp tác hoàn toàn với bạn đồng môn, và nếu em sẽ vun bồi tính thẳng thắn, cởi mở và nói rõ ràng thì kết quả là chắc chắn.

Spiritual radiation holds the key to your successful service, and the careful watching of your lower sixth and third ray tendencies. You must be prepared for tests and difficulties until you have proved yourself; these seldom come the expected way. One of your major safeguards is ever, as I have already told you, to adhere to and carry forward the next duty and to concentrate upon that which has been undertaken. Avoid that which lies outside the periphery of the work, regarding anything else as a sidetrack for you.

Sự bức xạ tinh thần là chìa khóa cho công việc phụng sự thành công của em, và sự giám sát cẩn thận các xu hướng thấp của cung 3 và cung 6 của em. Em phải chuẩn bị cho các bài kiểm tra và các khó khăn cho đến khi em đã chứng minh được bản thân; những điều này hiếm khi xảy đến như dự kiến. Một trong những biện pháp bảo vệ chính của em là, như tôi đã nói với em, gắn bó và thực hiện nhiệm vụ gần gũi với mình, tập trung vào những gì đã nhận làm. Tránh những gì nằm ngoài ngoại vi của công việc, xem bất cứ điều gì khác như một sự lạc hướng đối với em.

My blessing rests upon you, and my confidence in your ability to stand steady and to avoid glamour is always present.

Mong rằng ơn phước của tôi đến với em, và sự tin tưởng của tôi về khả năng của em để đứng vững và tránh ảo cảm luôn hiện diện.

December 1942—Tháng 12, 1942December 1942—Tháng 12, 1942

MY BROTHER:

MY BROTHER:

Life has been difficult for you since you have again sought to work in connection with my plans. Things have not worked out as you anticipated and you are full of inner distress, questioning [619] and bewilderment. This was inevitable; you entered into this renewed group relationship with the same big ideas which have ever been your downfall in life and this, in spite of the very definite warning your true friends gave you, out of affection and knowledge of you. You had to find that the picture you had, both of yourself as a worker and of the work to be done, was distorted by “wisps of glamour,” and that your wishful thinking and idealistic imaginings of yourself had to be revised. Such a process is far from easy and I have done nothing to make it easier. I would have you note that.

Cuộc sống đã trở nên khó khăn với em vì em lại muốn làm việc liên quan đến kế hoạch của tôi. Sự việc đã không diễn ra như em tiên liệu và em đầy sự đau khổ bên trong, nghi vấn [619] và hoang mang. Điều này không thể tránh khỏi; em đã tham gia vào mối quan hệ nhóm mới này với cùng những ý tưởng lớn mà em đã từng sa ngã trong kiếp sống này, và điều này, bất chấp lời cảnh báo rất rõ ràng mà những người bạn thật sự của em đã cho em, em không quan tâm và hiểu biết. Em phải thấy rằng hình ảnh mà em có về bản thân em như một người phụng sự và về công việc phải làm đã bị bóp méo bởi “những sương mù ảo cảm”, và rằng mơ tưởng viễn vông của em và những tưởng tượng lý tưởng của em phải được sửa đổi. Một quá trình như vậy không dễ và tôi đã không làm gì để làm cho nó dễ dàng hơn. Tôi muốn em chú ý đến điều đó.

The work needs men of consecration and devotion who are pledged to unwavering service—the service of the little things—and you could give much; but you cannot give it until you have completely changed your estimate of yourself. In the past you have succumbed to glamours of various kinds: Glamour about me, the Master, and about the Hierarchy and your relation to that Hierarchy; glamour about certain world disciples and your relation to them; glamour about the magnitude of the work; glamour about a certain sad little aspirant; glamour about your scientific capacity which held you away from my work for years; glamour about money; glamour about people.

Công việc này cần những người hiến dâng và sùng kính, những người phát nguyện phụng sự không lay chuyển—phụng sự những điều nhỏ nhặt—và em có thể cho ra nhiều; nhưng em không thể cho nó cho đến khi em đã hoàn toàn thay đổi sự đánh giá của chính mình. Trong quá khứ, em đã bị những ảo cảm khác nhau: Ảo cảm về tôi, Chân sư, về Thánh đoàn và mối quan hệ của em đối với Thánh đoàn; ảo cảm về một số đệ tử thế gian và mối liên hệ của em với họ; ảo cảm về tầm mức của công việc; ảo cảm về một người chí nguyện nhỏ bé buồn bã nào đó; ảo cảm về khả năng khoa học của em đã khiến em tách khỏi công việc của tôi trong nhiều năm; ảo cảm về tiền bạc; ảo cảm về con người.

Today your glamour is centred around yourself and is concentrated upon what you think you are and can accomplish, upon the soundness of your judgment, and the extent of your devotion. That, my brother, is good, for when that is disrupted and dissipated and completely broken up, you will be free to find your place in the work. This has been duly recognised by your brothers. They have known of your karmic relation to the work and have had no wish to change the situation. Nor have I. But you cannot continue to work under the liability of the present strain, and under the pressure of a deep spiritual discontent and a sense of thwarted and frustrated aspiration. There can be no free inflow of spiritual strength, of wisdom and light, and of material resources when there is such a condition as now exists in your consciousness and which also, inevitably, involves your fellow workers.

Ngày nay, ảo cảm của em tập trung xung quanh bản thân và tập trung vào những gì em nghĩ em là và em có thể đạt được, dựa trên sự sâu sắc của phán đoán của em, và mức độ tận tụy của em. Điều đó là tốt, hỡi huynh đệ của tôi, vì khi điều đó bị gián đoạn, tan rã và hoàn toàn tan vỡ, em sẽ được tự do thấy vị trí của em trong công việc. Điều này đã được các huynh đệ của em công nhận đúng lúc. Họ đã biết mối quan hệ nghiệp quả của em với công việc và không có ý muốn thay đổi tình huống. Tôi cũng thế. Nhưng em không thể tiếp tục làm việc dưới trách nhiệm của sự căng thẳng hiện tại, và dưới áp lực của một sự bất mãn tâm linh sâu sắc và một ý thức khát vọng bị trở ngại. Không thể có dòng chảy tự do của sức mạnh tinh thần, của minh triết và ánh sáng, và của nguồn lực vật chất khi một điều kiện như thế đang tồn tại trong tâm thức em, và điều đó cũng không tránh khỏi liên quan đến các đồng môn của em.

Dreams and reality must coincide; you are glamoured by a dream of service. We who serve the Hierarchy and humanity, [620] especially today, know the intense difficulty of service in present world conditions, and the disillusionment of much of it; we know that service frequently runs contrary to much that one would like to see accomplished and to much that has been planned by servers; we know that service means endless disappointment, ceaseless struggle, hard knocks, apparent unaccountable failure—and all because as yet the spiritual strength of humanity is not commensurate to the material pull.

Giấc mơ và thực tế phải trùng khớp; em bị ảo cảm bởi một giấc mơ phụng sự. Chúng ta những người phụng sự Thánh đoàn và nhân loại, đặc biệt là ngày nay, biết được những khó khăn của việc phụng sự trong điều kiện thế gian hiện tại, và sự vỡ mộng nhiều về nó; chúng ta biết rằng phụng sự thường xuyên ngược lại nhiều điều mà người ta muốn thấy hoàn thành, và ngược lại nhiều điều đã được lên kế hoạch bởi những người phụng sự; chúng ta biết rằng phụng sự có nghĩa là thất vọng không ngừng, đấu tranh không ngừng, khó khăn, thất bại rõ ràng không giải thích được—và tất cả bởi vì hiện tại sức mạnh tinh thần của nhân loại không tương xứng với lực kéo của vật chất.

Some day a point of balance will be reached, bringing—needless to say—its own dangers but bringing also a steady growth towards beauty, goodness and wisdom; some day the fight of the material aspect against the spiritual will prove futile and the power of the spirit will dominate; but the time is not immediate, even if it is not far off. The battle today is oft a losing one. Think, my brother, of the ages of hierarchical struggle and the slow, slow growth which the Masters have been forced to watch and foster, the failures They have had to note and the stupidities of some of Their best workers.

Một ngày nào đó một điểm cân bằng sẽ đạt đến, mang theo—không cần phải nói—những hiểm nguy của chính nó, nhưng cũng mang lại sự tăng trưởng liên tục hướng về Chân Thiện Mỹ; một ngày nào đó, cuộc chiến đấu của khía cạnh vật chất chống lại tinh thần sẽ chứng minh là vô ích và sức mạnh của tinh thần sẽ chiếm ưu thế; nhưng điều này không phải ngay lập tức, ngay cả khi nó không còn xa. Trận chiến hôm nay thường là một trận chiến thất bại. Huynh đệ của tôi, hãy suy nghĩ về thời đại của cuộc đấu tranh của Huyền Giai và sự tăng trưởng chậm chạp mà các Chân sư đã bị buộc phải theo dõi và nuôi dưỡng, những thất bại mà các Ngài đã phải lưu ý và sự ngu xuẩn của một số người giúp việc giỏi nhất của các Ngài.

Withdraw yourself from your pictures and dreams, my brother, and work with no illusions and with no time for consideration of magnificent possibilities. This is the most difficult moment in human history and its darkest hour. Be thankful you have got a vision but waste not time in pondering it. The reality of the vision is. The work of clearing the way for its materialising is the present task of all disciples. In the dust and chaos and wreckage, the vision disappears from sight though the fact of its existence persists. None of you may perhaps see that vision again, but you have seen it. When, however, it is a fact upon the physical plane, it will be so because you and many others worked down in the inferno of today.

Hãy rút lui khỏi hình ảnh và ước mơ của em, hỡi huynh đệ của tôi, và làm việc với không ảo tưởng và không có thời gian để xem xét các khả năng vĩ đại. Đây là khoảnh khắc khó khăn nhất trong lịch sử nhân loại và giờ phút tối tăm nhất của nó. Tôi biết ơn vì em đã có một tầm nhìn nhưng đừng lãng phí thời gian trong việc suy ngẫm nó. Thực tại của tầm nhìn là hiện hữu. Công việc dọn đường cho sự hiện thực hóa của nó là nhiệm vụ hiện tại của tất cả các môn đệ. Trong bụi, hỗn loạn và đống đổ nát, tầm nhìn biến mất khỏi tầm mắt mặc dù sự kiện của sự tồn tại của nó vẫn còn đó. Không ai trong số các em có thể nhìn thấy tầm nhìn đó lần nữa, nhưng em đã nhìn thấy nó. Tuy nhiên, khi nó là một sự kiện trên trần gian, nó sẽ như thế bởi vì em và nhiều người khác đã làm việc trong địa ngục của ngày hôm nay.

NOTE: This brother was, as you will have noted above, asked to resign. For some years, he was not actively working in the Ashram. His acceptance of the discipline and his steadfast faith, in spite of continued recurrent glamours, brought about his re-instatement eventually and he is now an active part of the group.

Ghi chú: Người huynh đệ này đã được yêu cầu rút ra khỏi nhóm, như bạn đã thấy trong các bức thư trên. Trong nhiều năm, y không hoạt động tích cực trong Asram. Sự chấp nhận kỷ luật và đức tin kiên định của y, bất chấp những ảo cảm liên tục tái đi tái lại, cuối cùng đã mang lại sự phục hồi của y vào nhóm và bây giờ ông là một thành phần tích cực của nhóm.

Quyển II

September 1943—Tháng 9 năm 1943

BROTHER OF MINE:

HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

Our association together has existed for many years. It also began many lives ago. You should have advanced to a more intimate stage of discipleship had it not been for your always ready and still persistent response to the unreal, the [Page 725] unnecessary, and to that which comes in between you and the clear, steady enlightened progress upon the Path which should be yours. You will note that I use not the word glamour here. The reason is that it is apparently an entirely meaningless word to you, and I felt that I should emphasise the fact that glamour (as far as you are concerned) means that which sidesteps you from the desired service, that which engrosses your attention and prevents you from concentrating on the realities of life and circumstance, that which places you always at the centre of some big scheme as the master-mind making some discovery, as the architect of some building which is intended to house humanity, and that which comes between you and the simple duty of a pledged disciple—for that you unchangeably are.

Sự liên kết của chúng ta đã tồn tại trong nhiều năm. Nó cũng đã bắt đầu từ nhiều kiếp trước. Lẽ ra em phải tiến đến một giai đoạn gần gũi hơn trong vai trò đệ tử nếu như em không sẵn sàng và bền bỉ đáp ứng lại với những gì không thực, [Trang 725] không cần thiết, và những gì ngăn cản em đến với sự tiến bộ giác ngộ rõ ràng, ổn định trên Thánh đạo, mà lẽ ra nên là của em. Em sẽ lưu ý rằng tôi không sử dụng từ ảo cảm ở đây. Lý do là nó dường như là một từ hoàn toàn vô nghĩa đối với em, và tôi cảm thấy rằng tôi nên nhấn mạnh sự thật rằng ảo cảm (đối với em) có nghĩa là thứ khiến em tránh xa sự phụng sự mong muốn, cái thu hút sự chú ý của em và ngăn cản em tập trung vào những thực tế của cuộc sống và hoàn cảnh, những gì luôn đặt em ở trung tâm của một kế hoạch lớn nào đó với tư cách là người chủ trì thực hiện một số khám phá, với tư cách là kiến trúc sư của một tòa nhà nào đó dành cho nhân loại, và điều đó xảy ra giữa em và nghĩa vụ đơn giản của một đệ tử đã thệ nguyện—vì đó chính là em, không đổi dời.

You have, my brother, a good illustration of what I mean in the two plans which you have evolved during the past six months for world salvage and unity. One of them was supposed to be in response to my request for a paper, but another paper which I asked you to write is still unwritten and that paper was more important than the other. These plans were drawn; time was taken in submitting them to various people, and to what end? There was in them nothing new. The minds and some of the best minds in every country in the world are formulating them. Your plans were simply compilations of familiar suggestions which have already been presented in better form to the public. What end, therefore, did they serve? Only to sidetrack you from the simple duty of today; only to feed that inclination on your part to do something great; only to prevent you from a true and practical cooperation in my plans which you know well and which the disciples in my Ashram are pledged to materialise. It is their group duty, not from the angle of authoritative demand, or in a spirit of blind obedience but because from free choice and identity of purpose (as far as they can realise it) they are in my Ashram; they have willingly responded to my planned intentions and in a spirit of dedication to the good of humanity.

Em thân mến, có một minh họa tốt về những gì tôi muốn nói trong hai kế hoạch mà em đã phát triển trong sáu tháng qua để cứu rỗi và thống nhất thế giới. Một trong số chúng được cho là để đáp ứng yêu cầu của tôi về một bài viết, nhưng một bài viết khác mà tôi yêu cầu em viết vẫn chưa được viết và bài viết đó quan trọng hơn bài viết kia. Những kế hoạch này đã được vạch ra; đã mất thời gian để gửi chúng cho nhiều người, và để đạt được mục đích gì? Không có gì mới trong đó. Những bộ óc, và một vài bộ óc giỏi nhất ở mọi quốc gia trên thế giới đang xây dựng chúng. Các kế hoạch của em chỉ đơn giản là sự tổng hợp các đề xuất quen thuộc đã được trình bày ở dạng tốt hơn cho công chúng. Vì vậy, chúng đã phục vụ cho mục đích gì? Chỉ để làm em lạc hướng khỏi nhiệm vụ đơn giản của ngày hôm nay; chỉ để nuôi dưỡng khuynh hướng làm điều gì đó lớn lao từ phía em; chỉ để ngăn cản em hợp tác thực sự và thiết thực trong các kế hoạch của tôi mà em biết rõ và là kế hoạch mà các đệ tử trong Ashram của tôi cam kết thực hiện. Đó là nhiệm vụ tập thể của họ, không phải từ góc độ yêu cầu có thẩm quyền, hoặc trong tinh thần phục tùng mù quáng, mà bởi vì từ sự lựa chọn tự do và mục đích đồng nhất (trong chừng mực họ có thể nhận ra), họ đang ở trong Ashram của tôi; họ đã sẵn sàng đáp ứng những ý định đã định của tôi và với tinh thần cống hiến vì lợi ích của nhân loại.

All this indicates to me that you are still prone to slip into the thraldom of the vague vision, the grandiose formulations [Page 726] of something and are negatively responsive to the collective ideas of forward-thinking men, for you do no positive or original thinking of your own. Glamour still holds you.

Tất cả những điều này cho tôi thấy rằng em vẫn có xu hướng rơi vào vòng xoáy của tầm nhìn mơ hồ, những công thức vĩ đại [Trang 726] về một điều gì đó và phản ứng tiêu cực với những ý tưởng tập thể của những người có tư duy tiến bộ, vì em không làm gì tích cực hay độc đáo trong suy nghĩ của riêng em. Ảo cảm vẫn còn cầm giữ em.

You might well ask, my brother: Why then keep me in your group? Why not wait until I have learnt better and have dropped this tendency? Because you need the protection of the Ashram and you need—from the centre of protection—to learn then to accept the duty of obedience to the ashramic intent and to work under the direction of the loving intentions of Those Whom you do recognise as more experienced disciples than yourself. You are in my Ashram also from old association and because you earned the reward of this recognition and opportunity by being the first to appreciate the significance of my books and the teaching that they convey, and to aid the effort of A.A.B. For that reason you earned the right to my appreciation and hers, and have had them both. That was the one clear bit of spiritual thinking you have done in this incarnation. Therefore, the Ashram protects you, and your brothers stand around you, and for this brief incarnation you are a liability—but a liability which can, with your cooperation, be changed in your next incarnation into a group asset.

Em cũng có thể hỏi, huynh đệ của tôi: Tại sao lại giữ em trong nhóm của tôi? Tại sao không đợi cho đến khi em học tập tốt hơn và từ bỏ xu hướng này? Bởi vì em cần sự bảo vệ của Ashram, và em cần—từ trung tâm bảo vệ này—học cách chấp nhận nghĩa vụ tuân theo ý định của Ashram, và làm việc dưới sự hướng dẫn của những ý định yêu thương của những Người mà em công nhận là các đệ tử có kinh nghiệm hơn chính em. Em đang ở trong Ashram của tôi cũng từ những liên kết cũ, và bởi vì em đã giành được phần thưởng là sự công nhận và cơ hội này bằng cách là người đầu tiên đánh giá cao tầm quan trọng của những quyển sách của tôi, và những lời dạy mà chúng truyền tải, đồng thời hỗ trợ nỗ lực của AAB. Vì lý do đó mà em đã nhận được sự đánh giá cao của tôi và của bà ấy, và đã có cả hai. Đó là một chút suy nghĩ tâm linh rõ ràng mà em đã thực hiện được trong kiếp này. Do đó, Ashram bảo vệ em, và những huynh đệ của em đứng xung quanh em, và trong thời gian ngắn ngủi này, em là một món nợ—nhưng một món nợ có thể, với sự hợp tác của em, được thay đổi trong lần tái sinh tiếp theo của em để trở thành tài sản của nhóm.

There is consequently no need for the slightest discouragement and I say that with definite purpose and truth. There is only room for the acceptance of facts. What facts, brother of mine? Let me (with my usual frankness) tell you. Let me point out to you what I feel and those who know you best feel should be your attitude for the remainder of this life. If you accept these ideas and cooperate willingly, you will do much to free yourself; if you refuse to see the light, you will but delay the process and continue to exact the protecting care of the Ashram for a longer period. Let me first highlight your career of glamour so as to prove to you, intelligently, the points I seek to make.

Do đó, em không cần chút nản lòng nào, và tôi nói điều đó với mục đích và sự thật rõ ràng. Chỉ có chỗ cho việc chấp nhận sự thật. Và sự thật nào, huynh đệ của tôi? Hãy để tôi, với sự thẳng thắn thường thấy của tôi, nói với em. Hãy để tôi chỉ ra cho em những gì tôi cảm thấy, và những người biết em rõ nhất, cảm thấy nên là thái độ của em trong phần còn lại của kiếp sống này. Nếu em chấp nhận những ý tưởng này và sẵn sàng hợp tác, em sẽ làm được nhiều việc để giải thoát bản thân; nếu em từ chối nhìn thấy ánh sáng, em sẽ trì hoãn quá trình và tiếp tục đòi hỏi việc bảo vệ Ashram trong một thời gian dài hơn. Trước tiên, hãy để tôi nêu bật sự nghiệp ảo cảm của em để chứng minh cho em thấy, một cách thông minh, những điểm mà tôi muốn đưa ra.

I shall not deal with your life, prior to the recognition period which enabled you to render me and the world outstanding service. Your recognition and aid of the work I was doing has released certain energies which will have much to [Page 727] do with the changing of the consciousness of humanity. Remember that the Hierarchy has this service of yours in mind.

Tôi sẽ không đề cập đến cuộc sống của em, trước thời kỳ nhận biết vốn cho phép em phụng sự tôi và thế gian một cách xuất sắc. Sự công nhận và hỗ trợ của em đối với công việc tôi đang làm đã giải phóng một số năng lượng sẽ giúp ích nhiều [Trang 727] để làm thay đổi tâm thức của nhân loại. Hãy nhớ rằng Thánh đoàn biết công việc phụng sự của em.

There was the glamour of the wonderful discovery you were going to make, covering several years of experimentation and leading nowhere. Why? Because you had neither the training nor the capacity to do the work. It will be better done and in other ways and by better minds than yours. Your equipment was not adequate.

Có ảo cảm về khám phá tuyệt vời mà em sắp thực hiện, vốn đã trải qua nhiều năm thử nghiệm và không dẫn đến đâu cả. Vì sao? Bởi vì em không được đào tạo cũng như không có năng lực để thực hiện công việc. Nó sẽ được thực hiện tốt hơn và theo những cách khác và bởi những bộ óc thông minh hơn em. Bộ máy của em không tương xứng để làm điều đó.

There was the glamour of spiritual power which led some of your group brothers astray for months. There has always been a glamorous response to personalities who have misled and glamoured you in the business world and led you into devious and difficult situations, and which forced you, eventually, to recognise that they were not the least what you had thought. What is this but the glamour of personalities? Until you have learnt to see people as they truly are, you cannot do the exoteric work of a disciple.

Có ảo cảm về sức mạnh tinh thần đã khiến một số huynh đệ trong nhóm của em lạc lối trong nhiều tháng. Luôn có một phản ứng ảo cảm đối với những cá nhân đã lừa dối và quyến rũ em trong thế giới kinh doanh và đưa em vào những tình huống khó khăn và quanh co, và cuối cùng buộc em phải nhận ra rằng họ không phải là những gì em đã nghĩ. Đây là gì nếu không phải là ảo cảm của các phàm ngã? Em không thể thực hiện công việc công truyền của một đệ tử cho đến khi em học được cách nhìn con người đúng như bản chất của họ.

Then came an interlude. I asked for your resignation from the group, and the door of the inner Ashram closed upon you. That was very good for you and you endeavoured in that period to attend to the business of life, watching yourself with care. Then the door of the Ashram reopened and you were readmitted to the group life. For a year all seemed well, but the dual stimulation of the Ashram and the active work in my group proved too much, and glamour again enveloped you.

Sau đó đến một khoảng dừng. Tôi đã yêu cầu em từ bỏ nhóm, và cánh cửa của Ashram bên trong đã đóng lại với em. Điều đó rất tốt cho em và em đã cố gắng trong thời gian đó để tham gia vào các sự vụ của cuộc sống, quan sát bản thân một cách cẩn thận. Sau đó, cánh cửa của Ashram mở ra và em được trở lại cuộc sống tập thể. Trong một năm, mọi việc dường như tốt đẹp, nhưng sự kích thích kép của Ashram và công việc tích cực trong nhóm của tôi đã chứng tỏ là quá nhiều, và ảo cảm lại bao trùm lấy em.

You started by formulating large schemes for world regeneration and for a super-organisation, and yet all that time the work that I wanted done and the outlines of the work as indicated by me, and to which your group brothers and my Ashram are pledged, played no part in your planning. You have been unhappy and bewildered because of the lack of sympathy, yet what would you have your brothers do? Would you have them aid me in helping you to free yourself from wild schemes and planning, or would you have them back you up and strengthen the hold that glamour has upon you?

Em đã bắt đầu bằng cách xây dựng các kế hoạch lớn để tái tạo thế giới và cho một siêu tổ chức, nhưng trong suốt thời gian đó, công việc mà tôi muốn hoàn thành, và các phác thảo của công việc do tôi chỉ ra, mà những huynh đệ trong nhóm của em và Ashram của tôi đã cam kết , lại không đóng vai trò gì trong kế hoạch của em. Em đã tủi thân và hoang mang vì bị thiếu thiện cảm, vậy em muốn các huynh đệ của em sẽ làm gì? Em sẽ nhờ họ hỗ trợ tôi trong việc giúp em giải phóng bản thân khỏi những chương trình và kế hoạch hoang đường, hay em sẽ nhờ họ hỗ trợ và củng cố sự cầm giữ mà ảo cảm đã có đối với em?

Here are my suggestions, brother of mine, given in all [Page 728] love and understanding, and with a real appreciation of your sincerity of devotion, your great and beautiful staying-power, your essential humility and your very real need for protection.

Đây là những gợi ý của tôi, em thân mến, được đưa ra bằng tất cả [Trang 728] tình thương và sự hiểu biết, và với sự đánh giá thực sự về lòng tận tụy chân thành của em, sức mạnh kiên trì cao cả và đẹp đẽ của em, sự khiêm tốn cần thiết và nhu cầu rất thực sự được bảo vệ của em.

1. Accept the fact that you need protection, and be grateful.

1. Chấp nhận sự thật rằng em cần được bảo vệ, và biết ơn về điều đó.

2. Accept the fact that in this life you have neither the mental equipment nor the clear vision to enable you to be a leader, an organiser or a drawer of blueprints for the Hierarchy.

2. Chấp nhận sự thật rằng trong kiếp sống này, em không có thể trí cũng như tầm nhìn rõ ràng để cho phép em trở thành một nhà lãnh đạo, một nhà tổ chức hoặc một người vẽ các bản thiết kế cho Thánh Đoàn.

3. Accept the fact that you are not young enough to make many basic personality changes, for the sixth ray crystallises too rapidly.

3. Chấp nhận sự thật rằng em không đủ trẻ để thực hiện nhiều thay đổi cơ bản về phàm ngã, vì cung sáu kết tinh quá nhanh.

4. Accept the fact that in the performance of your home and business duties and in the effort to bring happiness to those in your environment lies for you the immediate solution of your problem. A simple, humble life of service and of self-forgetfulness will do more to free you than any violent endeavour to understand and combat glamour. You do not yet even comprehend what it is; it can only be overcome by the illumined mind, and there is therefore, for you, nothing else to be done but to strengthen your soul contact by practical spiritual living upon the physical plane, and by a complete refraining from all thought anent the future world, future scientific discoveries, future world orders, and the manner whereby they can be instituted.

4. Chấp nhận sự thật rằng trong việc thực hiện các nhiệm vụ trong gia đình và công việc kinh doanh của em cũng như trong nỗ lực mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh, em phải có giải pháp tức thời cho vấn đề của mình. Một cuộc sống phụng sự đơn giản, khiêm tốn và quên mình sẽ giúp giải phóng em nhiều hơn bất kỳ nỗ lực bạo lực nào để hiểu và chống lại ảo cảm. Em thậm chí còn chưa hiểu nó là gì; nó chỉ có thể được khắc phục bởi thể trí được soi sáng, và do đó, đối với em, không thể làm gì khác ngoài việc tăng cường tiếp xúc linh hồn của em bằng cách sống tinh thần thực tế trên cõi trần, và bằng cách hoàn toàn kiềm chế mọi suy nghĩ liên quan đến thế giới tương lai, những khám phá khoa học trong tương lai, trật tự thế giới trong tương lai và cách thức theo đó chúng có thể được thiết lập.

The moment your mind becomes preoccupied with the universal aspects of life it is thrown into confusion; its thoughtform-making proclivities become violent, and the illumination of the soul is then unable to penetrate. You need to learn to bring that illumination into your personality daily life upon the physical plane. What measure of it you have received has been retained upon the mental plane and dedicated to matters far too big for you in this incarnation and with your present equipment. This has led to a chronic state [Page 729] of glamour. Live practically, sweetly, humbly and lovingly for the remainder of this life, and demonstrate beauty in personality relations. You will thus release your mind from pressures too great for it, and so begin to tread the way of liberation.

Khoảnh khắc tâm trí em trở nên bận tâm với những khía cạnh phổ quát của cuộc sống, nó sẽ rơi vào tình trạng bối rối; khuynh hướng tạo hình tư tưởng của nó trở nên hung bạo, và lúc bấy giờ sự soi sáng của linh hồn không thể thâm nhập được. Em cần học cách mang sự soi sáng đó vào cuộc sống hàng ngày của phàm ngã em trên cõi trần. Mức độ của nó mà em đã nhận được đã được giữ lại trên cõi trí tuệ và dành riêng cho những vấn đề quá lớn đối với em trong kiếp này và với trang bị hiện tại của em. Điều này đã dẫn đến một tình trạng mãn tính [Trang 729] của ảo cảm. Sống thực tế, ngọt ngào, khiêm tốn và đáng yêu cho đến hết cuộc đời này và thể hiện vẻ đẹp trong các mối quan hệ phàm ngã. Như vậy em sẽ giải phóng trí của em khỏi những áp lực quá lớn đối với nó, và thế là em bắt đầu bước đi trên con đường giải thoát.

Can you do this, my brother? Can you bring spirituality into business and live in the business world as a disciple? If you cannot do this, you will have to learn to do it, because discipleship leaves no aspect of life unlived, and business is an aspect of human living. Can you bring naught but peace, happiness and confidence into your home and into your association at the Headquarters of my work in the world? Can you begin to be one to whom the enquirer can turn for help, knowing that he will get enough practical assistance to enable him to see the next step ahead? You can do and be all these things, my brother. Your task is to demonstrate discipleship in the daily life, and not to duplicate the discipleship of those more advanced than yourself.

Em có thể làm điều này không, huynh đệ của tôi? Em có thể mang tâm linh vào kinh doanh và sống trong thế giới kinh doanh với tư cách là một đệ tử không? Nếu em không thể làm điều này, thì em sẽ phải học cách làm điều này, bởi vì tư cách đệ tử không có khía cạnh nào của cuộc sống là không được sống, và kinh doanh là một khía cạnh của cuộc sống con người. Em có thể mang gì ngoài sự bình yên, hạnh phúc và tự tin vào nhà của em và vào liên kết của em tại Tổng Hành Dinh công việc của tôi trên thế giới không? Em có thể bắt đầu trở thành người mà người tìm hỏi có thể nhờ giúp đỡ, biết rằng anh ta sẽ nhận được đủ sự trợ giúp thiết thực để giúp anh ta nhìn thấy bước tiếp theo phía trước không? Em có thể làm và trở thành tất cả những điều này, huynh đệ của tôi. Nhiệm vụ của em là thể hiện tư cách đệ tử trong cuộc sống hàng ngày, và không sao chép tư cách đệ tử của những người tiến bộ hơn em.

Do the group work and meditation as indicated. I assign you no special work. I seek to see you more closely integrated into the group in my Ashram of which you are a part. Have no doubts and questionings. You are a part of my Ashram, and that brings the needed protection, as well as certain risks of overstimulation. The love and understanding and gratitude of your group brothers stands with warmth around you. I have no need to assure you of my protecting care and constant interest. The years must have proved it to you.

Làm công việc nhóm và tham thiền như được chỉ dẫn. Tôi không giao cho em công việc đặc biệt nào. Tôi muốn thấy em hòa nhập chặt chẽ hơn vào nhóm trong Ashram của tôi mà em là một phần. Không có nghi ngờ và tra hỏi nào. Em là một phần trong Ashram của tôi, và điều đó mang lại sự bảo vệ cần thiết, cũng như những rủi ro nhất định khi bị kích thích quá mức. Tình yêu thương, sự thấu hiểu và lòng biết ơn của những người anh em trong nhóm luôn ấm áp xung quanh em. Tôi không cần phải đảm bảo với em về sự chăm sóc bảo vệ và sự quan tâm thường xuyên của tôi. Những năm tháng chắc hẳn đã chứng minh điều đó với em.

November 1944—Tháng 11 năm 1944

MY BROTHER AND FRIEND OF OLDEN TIME:

HUYNH ĐỆ VÀ NGƯỜI BẠN THỜI CŨ CỦA TÔI:

There is absolutely no need for the profound depression and for the process of self-accusation in which you so constantly live. Years ago, your dream was to serve the Master, to be known by Him and to be a part of His group or Ashram. You longed for the status, technically understood, of an accepted disciple. You have served the Master and rendered us, as I told you, notable service; you are known by me, and [Page 730] it is perhaps the fact of this knowledge and its implications which disturbs you so deeply; you are an integral part of a group, affiliated with my Ashram; you are an accepted disciple. You have, therefore, every reason to feel encouraged.

Hoàn toàn không cần đến sự trầm cảm sâu sắc và quá trình tự buộc tội bản thân mà em thường xuyên sống trong đó. Nhiều năm trước, ước mơ của em là được phụng sự Chân sư, được Ngài biết đến và trở thành một phần trong nhóm hoặc Ashram của Ngài. Em khao địa vị, hiểu một cách kỹ thuật, của một đệ tử được chấp nhận. Em đã phụng sự Chân sư và cung cấp cho chúng tôi, như tôi đã nói với em, một sự phụng sự đáng chú ý; tôi biết em, và [Trang 730] có lẽ chính sự hiểu biết này và những hàm ý của nó đã làm em vô cùng bối rối; em là một phần không thể thiếu của một nhóm, liên kết với Ashram của tôi; em là một đệ tử được chấp nhận. Do đó, em có mọi lý do để cảm thấy được khích lệ.

You are, however, aware of weaknesses and of failure. So be it. But the fact remains that the major trend and purpose of your life has brought you into the Ashram. So be it again, my brother. All within the Ashram, except those of higher initiate status, fall short at times.

Tuy nhiên, em nhận thức được những điểm yếu và thất bại. Nó là như thế. Nhưng sự thật vẫn là xu hướng và mục đích chính của cuộc đời em đã đưa em vào Ashram. Vì vậy, hãy để nó một lần nữa như thế, huynh đệ của tôi. Tất cả mọi người trong Ashram, ngoại trừ những người có địa vị điểm đạo đồ cao hơn, đôi khi bị thiếu sót.

One of the things which I said at my last word with you was that your age was such that it was well-nigh impossible for you to change. Yet you have changed quite definitely during the past year, and by your refusal to cultivate the glamorous thinking which characterised you in past years and so oft proved your undoing, you have made real progress—more real progress than at any previous time. This has almost surprised me. When I raised the point with a member of my Ashram (known to none of you in this group which I am instructing), he remarked: “The soul is after all a Master, and when the force of masterhood is released, bringing quiescence and acquiescence, it is difficult to predict the happenings possible.” Your quiescence, demonstrated upon the physical plane, largely as depression and fatigue, produced a negativity which made it difficult for any positive glamour to show itself; this greatly helped, weakening through attrition the hold which it has had upon your astral body. See that it gains no strength again. But be not depressed; simply be negative to all the suggestions of glamour and be encouraged at my words, for I speak not lightly or untruly. No spectacular progress will be made by you in this life. Accept that as factual and be happy at the quiet of the coming period before you pass over to the other side. Make full use of the time and read, study and think.

Một trong những điều mà tôi đã nói trong lời cuối cùng với em là tuổi của em gần như không thể thay đổi được. Tuy nhiên, em đã thay đổi khá rõ ràng trong năm qua, và bằng cách từ chối nuôi dưỡng lối suy nghĩ ảo cảm vốn là nét đặc trưng của em trong những năm qua và thường chứng tỏ em không làm gì, em đã đạt được tiến bộ thực sự—tiến bộ thực sự hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây. Điều này đã gần như làm tôi ngạc nhiên. Khi tôi nêu quan điểm này với một thành viên trong Ashram của tôi (mà không ai trong số các em trong nhóm này mà tôi đang hướng dẫn biết), Ngài nhận xét: “Xét cho cùng, linh hồn là một Chân sư, và khi sức mạnh của chủ nhân được giải phóng, mang lại sự tĩnh lặng và bằng lòng, rất khó để dự đoán những diễn biến có thể xảy ra.” Sự tĩnh lặng của em, được thể hiện trên cõi trần, phần lớn là sự chán nản và mệt mỏi, tạo ra một tính chất tiêu cực khiến cho bất kỳ ảo cảm tích cực nào cũng khó thể hiện ra; điều này đã giúp ích rất nhiều, làm suy yếu do hao mòn lực giữ mà nó đã có trên thể cảm dục của em. Thấy rằng nó không gia tăng sức mạnh nữa. Nhưng đừng chán nản; chỉ đơn giản là tiêu cực với tất cả những gợi ý của ảo cảm và được khuyến khích bởi lời nói của tôi, vì tôi không nói một cách nhẹ nhàng hoặc không trung thực. Em sẽ không đạt được tiến bộ ngoạn mục nào trong cuộc đời này. Hãy chấp nhận điều đó là sự thật và vui vẻ với khoảng thời gian yên bình sắp tới trước khi em bước qua thế giới bên kia. Tận dụng thời gian và đọc, nghiên cứu và suy nghĩ.

You have for long asked me to tell you the rays upon which your three personality bodies are to be found. I do so now, for you can profit from the information.

Từ lâu em đã yêu cầu tôi nói cho em biết các cung mà ba thể phàm ngã của em được tìm thấy trên đó. Bây giờ, Tôi làm điều đó, vì em có thể thu được ích lợi từ thông tin.

You have, as you know, a third ray soul and a sixth ray personality. Your task as regards the latter is to transit on to [Page 731] the first ray, so that next life you will come into incarnation with the difficult combination of three and one. For this the training, discipline and discoveries of the present incarnation should have prepared you, and you can therefore face the future with caution but with surety.

Như em đã biết, em có một linh hồn thuộc cung ba và một phàm ngã thuộc cung sáu. Nhiệm vụ của em đối với cung phàm ngã là chuyển tiếp sang [Trang 731] cung một, để kiếp sau em sẽ tái sinh với sự kết hợp khó khăn giữa cung ba và cung một. Để làm được điều này, sự rèn luyện, kỷ luật và những khám phá của kiếp hiện tại đáng lẽ phải chuẩn bị cho em, và do đó em có thể đối mặt với tương lai một cách thận trọng nhưng chắc chắn.

Your mental body is on the fifth ray and hence your interest in things scientific; but the calibre of your mind is not yet of such a nature that you can profit from this, and this is a fact which you must accept.

Thể trí của em ở cung năm và do đó em quan tâm đến những gì khoa học; nhưng tư chất của thể trí em chưa ở mức độ mà em có thể thu lợi từ điều này, và đây là sự thật mà em phải chấp nhận.

Your astral body is first ray in nature and hence the potent hold which glamour has had on you—a glamour inherited from three previous lives and rendered one-pointed and powerful in this life through your first ray astral nature. You willed to deal with glamour; you ran, last life, a great risk of wandering on to the path of black magic. Your recognition of me and my work and your instantaneous cooperation, completely negated that possibility, but the tendency to glamour remained and still does.

Thể cảm dục của em có bản chất là cung một và do đó sức mạnh mà ảo cảm đã có đối với em–một ảo cảm được thừa hưởng từ ba kiếp trước và được thể hiện một cách nhất tâm và mạnh mẽ trong kiếp này thông qua bản chất cảm dục cung một của em. Em sẵn sàng đáp ứng với ảo cảm; trong kiếp trước, em đã gặp một rủi ro lớn khi lang thang trên con đường của hắc thuật. Sự công nhận của em đối với tôi và công việc của tôi và sự hợp tác tức thời của em đã phủ nhận hoàn toàn khả năng đó, nhưng xu hướng ảo cảm vẫn còn đó, và sẽ vẫn còn.

Your physical body is third ray in type, and this has intensified the worst aspects of that ray, because soul energy (undirected by an illumined mind) at times stimulates it and the glamour can take effect in physical plane activity.

Cơ thể vật lý của em thuộc cung ba, và điều này đã tăng cường những khía cạnh tồi tệ nhất của cung đó, bởi vì năng lượng linh hồn (không được điều khiển bởi một trí tuệ được soi sáng) đôi khi kích thích nó và ảo cảm có thể có tác dụng trong hoạt động trên cõi trần.

If you can develop mental perception to a fuller degree, and if you can achieve in this life and the next a measure of real illumination, all the difficulties now troubling you will be resolved. In your next incarnation, you should endeavour to work through a second ray astral body, for there is a real lack of second ray force in your most difficult equipment. There are too many energies in your present equipment along the line of the first ray, and your ultimate goal must be a second ray personality, following upon the coming first ray personality of your next life. Love and light are greatly needed by you, and their reception by you in your lower fourfold nature would produce great transforming results. These must be brought about by you through keen interest in and love of others, and by stern mental control and unfoldment. [Page 732]

Nếu em có thể phát triển nhận thức trí tuệ đến một mức độ đầy đủ hơn, và nếu em có thể đạt được trong kiếp này và kiếp sau một mức độ giác ngộ thực sự, thì tất cả những khó khăn hiện đang gây khó khăn cho em sẽ được giải quyết. Trong lần tái sinh tiếp theo của em, em nên cố gắng hoạt động thông qua thể cảm dục cung hai, vì em thực sự thiếu mãnh lực cung hai trong thiết bị khó khăn nhất của em. Có quá nhiều năng lượng trong trang bị hiện tại của em đi theo đường của cung một, và mục tiêu tối hậu của em phải là một phàm ngã cung hai, tiếp theo sau phàm ngã cung một sắp tới trong kiếp sau của em. Tình yêu và ánh sáng rất cần thiết cho em, và em tiếp nhận chúng trong bản chất tứ phân thấp của em sẽ tạo ra những kết quả chuyển hóa vĩ đại. Những điều này phải do em tạo ra thông qua sự quan tâm sâu sắc và tình yêu đối với người khác, và bằng sự kiểm soát và phát triển tinh thần nghiêm khắc. [Trang 732]

August 1946—Tháng 8 năm 1946

BROTHER OF OLD:

HUYNH ĐỆ NGÀY XƯA:

This is but a parting word to you as regards your physical plane affiliation with my Ashram. I will start by assuring you that the inner link remains unbroken and will persist, though even I have no idea when freedom will distinguish you or when you can advance with surety into the Ashram itself. Any progress that you could have made this life, as a result of my corrective teaching and aid, has been largely negated by your supine acceptance of failure, by your profound and lasting “conviction of sin” (if I may use so old-fashioned a phrase), and by your constant inner dwelling on your group relations. You did fail, my brother. But why stay overwhelmed by failure for year after year and remain with your eyes concentrated on the lower self that failed? All have failed and will again along some line. E’en the Masters fail at times to pass through one or other of the highest initiations at their first attempt and—from the hierarchical angle—that connotes failure. But the failure is scarce recognised; the effort is made to register what caused the failure and the inability to stand before the One Initiator, for all effects emanate from some ascertainable cause. So should it be on all levels of advancement, even such a relatively unimportant effort (from the point of view of hierarchical work) as your attempt to gain the right of entry into my Ashram or what is called “ashramic penetration,” and then on and up through many graded failures, until you meet the well-known failure of the Buddha to attain His goal.

Đây chỉ là một lời chia tay đối với em trong mối quan hệ trên cõi trần của em với Ashram của tôi. Tôi sẽ bắt đầu bằng cách đảm bảo với em rằng liên kết bên trong vẫn không bị phá vỡ và sẽ tồn tại, mặc dù ngay cả tôi cũng không biết khi nào sự tự sẽ đặc trưng cho em, hoặc khi nào em có thể tiến vào Ashram một cách chắc chắn. Bất kỳ tiến bộ nào mà em có thể đạt được trong cuộc sống này nhờ sự dạy dỗ và trợ giúp sửa chữa của tôi, đã bị phủ nhận phần lớn bởi sự chấp nhận thất bại của em, bởi “niềm tin tội lỗi” sâu sắc và lâu dài của em (nếu tôi có thể dùng một cụm từ lỗi thời như vậy), và bằng sự suy ngẫm liên tục của em về các mối quan hệ nhóm của em. Em đã thất bại, huynh đệ của tôi. Nhưng tại sao cứ chìm đắm trong thất bại hết năm này qua năm khác và cứ tập trung vào phàm ngã đã thất bại? Tất cả đều thất bại và sẽ lại xảy thất bại theo một số hướng nào đó. Ngay cả các Chân sư đôi khi không vượt qua được một trong những cuộc điểm đạo cao nhất ở lần thử thách đầu tiên của các Ngài, và—từ góc độ Huyền Giai—điều đó có nghĩa là thất bại. Nhưng sự thất bại hiếm khi được công nhận; nỗ lực được thực hiện để ghi nhận nguyên nhân gây ra thất bại và không có khả năng đứng trước Đấng Điểm đạo duy nhất, vì tất cả các tác động đều bắt nguồn từ một số nguyên nhân có thể xác định được. Vì vậy, nó ở trên tất cả các cấp độ thăng tiến, ngay cả một nỗ lực tương đối không quan trọng như vậy (từ quan điểm của công việc Thánh đoàn) như nỗ lực của em để giành quyền vào Ashram của tôi, hay cái được gọi là “thâm nhập đạo tràng”, v.v. và trải qua nhiều lần thất bại, cho đến khi em gặp thất bại nổi tiếng của Đức Phật trong việc đạt được mục tiêu của Ngài.

I have therefore for you a message based on the words of the initiate, Paul: “Forgetting the things which are behind, press forward.” Dwell no longer on the past but make the relatively few years which are left you of this life, years of usefulness and of purpose in my work. This will require the acquisition and the recognition of a spirit which is unembarrassed by ambition but which is pledged to the perfecting of each day’s relationships. Preoccupation with the beautifying and the spiritualising of the day’s affairs will give you no time for any reaction to glamour; your mind and desire [Page 733] (your kama-manasic nature) will be—with definite purpose—physically oriented; your demonstration of right living upon the physical plane will be to you the factor of major importance.

Do đó, tôi có một thông điệp dành cho em dựa trên những lời của điểm đạo đồ Paul: “Hãy quên đi những điều phía sau, hãy tiến tới.” Đừng sống mãi trong quá khứ mà hãy tận dụng những năm tương đối ít ỏi còn lại của em trên cuộc đời này, những năm hữu ích và có mục đích trong công việc của tôi. Điều này sẽ đòi hỏi phải có được và thừa nhận một tinh thần không bối rối bởi tham vọng nhưng cam kết hoàn thiện các mối quan hệ hàng ngày. Bận tâm với việc làm đẹp và tâm linh hóa các công việc hàng ngày sẽ khiến em không có thời gian cho bất kỳ phản ứng nào đối với ảo cảm; cái trí và ham muốn của em [Trang 733] (bản chất trí cảm của em) sẽ—với mục đích rõ ràng—được định hướng về trần gian; Đối với em, việc chứng minh em sống đúng đắn trên cõi trần sẽ là yếu tố quan trọng hàng đầu.

Your spiritual focus will remain unaltered, and it is this tenacity (which you have ever demonstrated) which has preserved untouched your relationship with me and with your brothers; you need therefore have no concern in relation to your spiritual expression on its own plane. It is your physical expression which has been at fault. Reflect with assiduity on these words of mine. A focussing of your spiritual attitude and nature upon the physical plane will result in a more dynamic life, instead of the basically negative life you at present demonstrate; you will be surprised at the results which may eventuate.

Trọng tâm tinh thần của em sẽ không thay đổi, và chính sự kiên trì này (mà em đã từng thể hiện) đã giữ nguyên vẹn mối quan hệ của em với tôi và với huynh đệ của em; do đó em không cần quan tâm đến biểu hiện tâm linh của em trên cõi riêng của nó. Chính biểu hiện trần gian của em đã có lỗi. Hãy suy nghĩ cẩn thận về những lời này của tôi. Việc tập trung thái độ và bản chất tinh thần của em trên cõi trần sẽ dẫn đến một cuộc sống năng động hơn, thay vì cuộc sống cơ bản là tiêu cực mà em hiện đang thể hiện; em sẽ ngạc nhiên về kết quả có thể xảy ra.

I am giving you no meditation. I seek to see the flow of your spiritual life downward into daily life, and I seek not to see you raising your human soul towards a soul contact you seldom achieve, consciously at least, this life. Your problem has been due to the fact that in the past you at one time achieved a most definite soul contact, but knew not how to handle the force engendered. In this incarnation, this force flowed into the astral body to a very great extent and evoked the glamour and the deception which have coloured your life. But—you have a vast stored reservoir of spiritual potency on higher levels than the astral, and can perhaps draw upon its source of love and light if your major concentration and preoccupation is the perfecting of your daily living in the place where you are and in the environment and the circumstances for which you are responsible.

Tôi không cho em bài tham thiền nào cả. Tôi muốn thấy dòng chảy đời sống tinh thần của em đi xuống cuộc sống hàng ngày, và tôi không muốn thấy em nâng cao nhân hồn của em hướng tới một tiếp xúc linh hồn mà em hiếm khi đạt được, ít nhất là có ý thức, trong cuộc sống này. Vấn đề của em là do trong quá khứ, đã có lúc em đạt được sự tiếp xúc linh hồn rõ ràng nhất, nhưng không biết cách xử lý mãnh lực được tạo ra. Trong lần tái sinh này, mãnh lực này chảy vào thể cảm dục ở một mức độ rất lớn và gợi lên ảo cảm và sự lừa dối vốn tô điểm cho cuộc sống của em. Nhưng—em có một kho dự trữ khổng lồ tiềm năng tinh thần ở các cấp độ cao hơn so với cõi cảm dục, và có lẽ có thể sử dụng nguồn tình thương và ánh sáng của nó nếu sự tập trung và mối bận tâm chính của em là hoàn thiện cuộc sống hàng ngày của em ở nơi em đang ở, và trong môi trường và hoàn cảnh mà em chịu trách nhiệm.

You need have no fear that I shall withdraw from you the attention and the careful thought which I have given you all these years. I earnestly desire to see you achieve success; I have been sorry when you failed. I seek to have you within the Ashram, which is not as yet the case. A move forward can, however, be made this life if—in your closing years—you obey instructions. Go forward in confidence, my brother; the group has never left you or deserted you, and you need no assurance from me that I hold you in my thought.

Em không cần phải sợ rằng tôi sẽ rút lại sự quan tâm và suy nghĩ cẩn thận mà tôi đã dành cho em trong suốt những năm qua. Tôi tha thiết mong muốn được nhìn thấy em đạt được thành công; Tôi đã nuối tiếc khi em thất bại. Tôi muốn có em trong Ashram, điều này vẫn chưa xảy ra. Tuy nhiên, em có thể tiến lên phía trước trong cuộc sống này nếu—trong những năm cuối đời—em tuân theo chỉ dẫn. Hãy tự tin tiến lên, huynh đệ của tôi; nhóm chưa bao giờ rời bỏ em hoặc bỏ rơi em, và em không cần tôi đảm bảo rằng tôi luôn nghĩ đến em.

Scroll to Top