Lecture II—Bài giảng II
Perhaps in the section of the subject I have to deal with tonight, there will be almost more of a difference than in any other part between the view taken by a thoughtful, well-balanced, virtuous man in the world and the view taken by the Occultist. I shall want to lead you step by step from the beginning and show you how this change of standpoint occurs. For it is perhaps especially in regard to the mind—the position it holds towards the man, the place it has in his developing nature, the functions it performs, and the way it performs them—that so much difference will arise according to the position of the thinker. | Có lẽ trong phần đề tài mà tôi phải đề cập tối nay, sẽ có khác biệt gần như lớn hơn mọi phần khác giữa cách nhìn của một người đời suy tư, quân bình, đức hạnh và cách nhìn của nhà huyền bí học. Tôi muốn dẫn các bạn đi từng bước ngay từ khởi đầu và chỉ cho thấy sự đổi thay quan điểm ấy diễn ra thế nào. Vì có lẽ đặc biệt là đối với thể trí—vị thế nó giữ đối với con người, chỗ đứng nó có trong bản tính đang phát triển của y, những chức năng nó đảm nhận, và cách nó vận hành—mà khác biệt sẽ nảy sinh rất nhiều tuỳ theo vị trí của người tư tưởng. |
Let us for a moment try to think how a good, just, and intellectual man—that is, a man who is distinctly not careless, frivolous, nor worldly—would regard this question of mental self-control. A good man, who has deliberately set before himself an ideal of virtue which he strives to realise, will recognise that what we call the lower nature is a thing to be mastered and controlled. On that, no question will arise. The passions and appetites of the body, the lower emotions which hurry people away without reflection—all that side of a man’s nature which is played upon from without so that he acts without consideration—our virtuous man will most certainly say that this is to be dominated. He will speak of that as the lower nature and seek to reduce it to obedience to the higher. | Chúng ta hãy thử, trong giây lát, nghĩ xem một người tốt, công chính và có trí tuệ—tức người rõ ràng không cẩu thả, không phù phiếm, cũng không thế tục—sẽ nhìn nhận câu chuyện tự chủ về mặt trí tuệ như thế nào. Một người tốt, người đã chủ ý đặt trước mình một lý tưởng đức hạnh mà y nỗ lực hiện thực, sẽ nhận ra rằng điều chúng ta gọi là bản tính thấp là điều cần phải khắc phục và chế ngự. Về điều đó, sẽ không có tranh cãi. Những đam mê và dục vọng của thân xác, những xúc cảm thấp kéo người ta đi mà không cần suy xét—tất cả mặt ấy của bản tánh con người, vốn bị tác động từ bên ngoài đến nỗi y hành động không đắn đo—người đức hạnh của chúng ta hẳn chắn sẽ nói rằng phải đặt nó dưới quyền chủ trị. Y sẽ gọi đó là bản tính thấp và tìm cách đưa nó vào sự vâng phục với phần cao hơn. |
If we examine carefully the position of such a man, we shall find that what we mean by a self-controlled man is one who exercises this mental control over the lower nature, so that the mind controls the desires. When we say “self-controlled,” it is the man that is thought of as the self who is controlling. | Nếu khảo sát kỹ vị thế của một người như vậy, chúng ta sẽ thấy cái mà ta gọi là con người tự chủ là người thực thi quyền chế ngự bằng thể trí đối với bản tính thấp, sao cho thể trí chế ngự các ham muốn. Khi ta nói “tự chủ,” thì chính con người—với tư cách cái tôi—được hiểu là đang chế ngự. |
More than that, if we look at him a little more closely, we shall see that what we call the strong will, the formed character, is one in whom the mind has been largely developed. When he comes to act, he is not determined by external circumstances or attractions. He is determined, we shall find, by a mass of experiences recorded in his memory. The mind has worked upon these, arranged and compared them, and has drawn from them a definite result by an intellectual effort. This result remains in the mind as a rule of conduct. When the man is under disturbing circumstances that would overcome a weak will, this stronger mind guides its conduct by this rule and does not permit itself to be turned out of its course. | Hơn thế nữa, nếu nhìn y kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy cái mà ta gọi là ý chí mạnh, tính cách đã định hình, là nơi thể trí đã được phát triển sâu rộng. Khi y hành động, y không bị quyết định bởi hoàn cảnh hay hấp lực bên ngoài. Ta sẽ thấy y được quyết định bởi một khối kinh nghiệm ghi lại trong ký ức. Thể trí đã làm việc trên đó, sắp xếp và so sánh chúng, và bằng nỗ lực trí tuệ đã rút ra từ đó một kết quả minh định. Kết quả này lưu lại trong thể trí như một quy luật xử thế. Khi con người ở trong hoàn cảnh xáo động có thể đánh bại một ý chí yếu, thì thể trí mạnh mẽ này hướng dẫn hành vi của nó theo quy luật ấy và không cho phép mình bị bẻ khỏi đường đi. |
In dealing with such a person, you can often forecast what he will do. You know the principles upon which his conduct is based. You feel pretty sure that no matter what the outside temptations, that man will fulfil in the moment of strife the ideal which he conceived in the moments of calm. This is what we generally mean by a self-controlled man. He has reached this stage of development, which is by no means low, in which he has deliberately set himself to conquer and manage this lower nature. | Khi tiếp xúc với một người như thế, bạn thường có thể dự đoán người ấy sẽ làm gì. Bạn biết những nguyên tắc làm nền cho cách xử sự của người ấy. Bạn khá chắc rằng, bất kể cám dỗ bên ngoài ra sao, người ấy sẽ, trong giờ phút tranh đấu, thực hiện lý tưởng mà người ấy đã thai nghén trong những khoảnh khắc tĩnh lặng. Đó là điều chúng ta thường muốn nói khi gọi một người là tự chủ. Người ấy đã đạt đến một giai đoạn phát triển, cũng không phải thấp, trong đó người ấy đã cố ý tự đặt mình vào việc chinh phục và điều ngự bản tính thấp của mình. |
So far then, we have taken what may well be called a virtuous man. But there is another stage to which this man may come. He may come into contact with a great philosophy of life, such as the great Theosophical teachings, whether from ancient or modern sources. In that philosophy, he may learn a new view of the Universe, and it may largely modify his own position. | Cho đến đây, chúng ta đã nói về điều có thể gọi là một người đức hạnh. Nhưng còn một giai đoạn khác mà người ấy có thể đạt tới. Người ấy có thể tiếp xúc với một triết lý sống vĩ đại, như những giáo lý vĩ đại của Thông Thiên Học, dù từ nguồn cổ hay kim. Trong triết lý ấy, người ấy có thể học được một cái nhìn mới về Vũ Trụ, và điều đó có thể tác động lớn lao thay đổi lập trường của chính người ấy. |
Suppose that such a man should accept Theosophy’s main teachings. He will then begin to realise the enormous influence of his thoughts. He will understand that when his mind is working, it is exercising a creative power. The mind is actually making definite entities, constantly sending out into the world active entities that work for good or for evil, often upon the minds of people with whom the creator of these entities has no personal contact. He will begin to understand that it is not necessary to put his thought into spoken or written words to affect others. | Giả như một người như thế chấp nhận các giáo lý chủ chốt của Thông Thiên Học. Khi ấy người ấy sẽ bắt đầu nhận ra ảnh hưởng vô cùng to lớn của tư tưởng mình. Người ấy sẽ hiểu rằng khi thể trí đang vận hành, nó đang thi thố một quyền năng sáng tạo. Thể trí thực sự đang tạo ra những đơn vị xác định, liên tục phóng xuất ra thế gian những đơn vị hoạt động vì điều thiện hay điều ác, thường tác động lên các thể trí của những người mà tác giả của các đơn vị ấy không hề có tiếp xúc cá nhân. Người ấy sẽ bắt đầu hiểu rằng không cần phải đưa tư tưởng thành lời nói hay chữ viết thì mới có thể ảnh hưởng đến người khác. |
He realises that he may be an exceedingly obscure person as the world counts obscurity, yet he has a power which transcends either the force of example or speech. Sitting alone and isolated, he may be exercising a force potent for good or for evil. He may be purifying or fouling the minds of his generation, helping or hindering the progress of the world, quite apart from what ordinary people recognise as the force of precept or example. He may be influencing the mind of his time by these subtle energies of thought. | Người ấy nhận ra rằng mình có thể là một người hết sức vô danh theo cách thế gian đánh giá về sự vô danh, thế nhưng người ấy có một quyền năng vượt trên cả sức mạnh của gương mẫu hay ngôn từ. Ngồi một mình và cô lập, người ấy có thể đang phát huy một lực có sức mạnh cho điều thiện hay điều ác. Người ấy có thể đang thanh lọc hoặc làm vẩn đục các thể trí của thế hệ mình, hỗ trợ hay cản trở tiến trình của thế giới, hoàn toàn tách biệt với điều mà người thường coi là sức mạnh của lời dạy hay gương mẫu. Người ấy có thể đang ảnh hưởng đến tâm trí thời đại mình bằng những năng lượng vi tế của tư tưởng. |
In this way, as he grows in his knowledge, thought will take on a new complexion. He will realise how mighty is the responsibility of thought, a responsibility upon his own shoulders simply for exercising the faculties of the mind. He will realise that his responsibility extends much farther than he can see. He is responsible in a very real way for the crimes that happen in his society, as well as for the deeds of heroism. He will grasp that great principle that every act is an incarnation of ideas, and that every one who takes part in generating the ideas takes part in the responsibility for the action. | Theo cách ấy, khi tri thức của người ấy lớn lên, tư tưởng sẽ mang một sắc thái mới. Người ấy sẽ nhận ra trách nhiệm của tư tưởng là lớn lao dường nào, một trách nhiệm đặt trên vai mình chỉ vì việc sử dụng các năng lực của thể trí. Người ấy sẽ nhận ra trách nhiệm của mình trải rộng xa hơn tầm mắt thấy. Người ấy thực sự chịu trách nhiệm, theo một nghĩa rất thật, cho những tội ác xảy ra trong xã hội của mình, cũng như cho những hành vi anh hùng. Người ấy sẽ nắm bắt được nguyên lý vĩ đại rằng mọi hành động là một lần nhập thể của các ý tưởng, và rằng bất cứ ai tham gia vào việc sản sinh ý tưởng đều cùng chia phần trách nhiệm với hành động. |
Understanding that, he would begin to be very careful about his thoughts. He would realise that he must control them. He also finds that the kind of thoughts he attracts to himself will be largely determined by the nature of the thoughts he himself generates. He is not only a magnet sending out thought-force, but also a magnet attracting substances that answer to the force he sends out. Whether his mind be full of good or base thoughts will depend on the lines along which his own mental force is exercised. | Hiểu như thế, người ấy sẽ bắt đầu hết sức cẩn trọng với tư tưởng của mình. Người ấy sẽ nhận ra rằng mình phải chế ngự chúng. Người ấy cũng khám phá rằng loại tư tưởng mà người ấy thu hút về phía mình phần lớn sẽ do bản chất của những tư tưởng người ấy tự thân tạo ra quyết định. Người ấy không chỉ là một nam châm phóng ra lực tư tưởng, mà còn là một nam châm thu hút những chất liệu đáp ứng với lực mà người ấy phát ra. Thể trí người ấy đầy những tư tưởng cao đẹp hay thấp hèn sẽ tùy thuộc vào những đường hướng mà lực trí tuệ của người ấy được vận dụng. |
He will begin to understand that in generating a good thought, he is not only discharging his supreme duty, but he himself is gaining by what he gives. In each case he gives a noble thought, he has set up in himself an attractive centre to which other noble thoughts will come. He recognises also with pain and shame that when he sends out a foul thought, he has made a similar centre which will attract baser thoughts, increasing his own tendencies towards evil. As he learns to understand this mental brotherhood, he will change his mental attitude. He will begin to deal more with thought than with action, understanding that in that invisible region are generated all the forces that come down into the psychic and physical life. | Người ấy sẽ bắt đầu hiểu rằng, khi phát sinh một tư tưởng tốt, người ấy không chỉ chu toàn bổn phận tối thượng của mình, mà bản thân người ấy còn được lợi từ điều mình hiến tặng. Mỗi lần người ấy hiến ra một tư tưởng cao quý, người ấy đã thiết lập trong chính mình một trung tâm hấp dẫn để những tư tưởng cao quý khác sẽ tìm đến. Người ấy cũng nhận ra với nỗi đau và hổ thẹn rằng, khi người ấy phóng ra một tư tưởng nhơ bẩn, người ấy đã tạo nên một trung tâm tương tự sẽ hấp dẫn những tư tưởng thấp kém hơn, gia tăng khuynh hướng riêng của mình về phía điều ác. Khi học hiểu tình huynh đệ trí tuệ này, người ấy sẽ thay đổi thái độ trí tuệ của mình. Người ấy sẽ bắt đầu quan tâm đến tư tưởng hơn là đến hành động, hiểu rằng trong miền vô hình ấy mọi lực đều được sản sinh, rồi giáng xuống đời sống cảm linh và hồng trần. |
But there is a step further when he comes within the Outer Court. He is now a candidate on that steeper and shorter Path. Something more will come to him than this recognition. This candidate finds that he recognises something behind the mind, something greater than the mind. He sees a relation which the mind bears to something higher, analogous to the relation borne to the mind by the lower desire-nature. Just as a man recognises the mind above the desires, so when he has stepped across the threshold, he realises that this mind which seemed so great is not the ultimate ruler. | Nhưng có một bước nữa khi người ấy bước vào trong Ngoại viện. Lúc này, người ấy là một ứng viên trên Thánh Đạo dốc hơn và ngắn hơn. Sẽ có điều gì đó vượt hơn sự nhận biết này đến với người ấy. Ứng viên này nhận thấy rằng người ấy nhận ra có một cái gì đó đằng sau thể trí, một cái gì đó lớn lao hơn thể trí. Người ấy thấy một mối liên hệ mà thể trí mang theo đối với một cái gì cao hơn, tương tự như mối liên hệ mà bản chất dục vọng thấp mang theo đối với thể trí. Cũng như một người thừa nhận thể trí ở trên các dục vọng, thì khi người ấy bước qua ngưỡng cửa, người ấy nhận ra thể trí vốn xem ra to tát như thế không phải là vị chủ tể sau cùng. |
He recognises that there is something greater in this Universe than the mind—something sublimer, vaster, something that shines out for a moment and then is veiled again. He recognises dimly, not yet by knowledge but by hearsay, that he has caught a glimpse of the Soul. A ray of light has come downwards into the mind from something above it, and yet he dimly feels it is, in some strange sense, himself. So at first, there will be a confusion and a groping in the darkness. | Người ấy nhận ra rằng trong Vũ Trụ này có cái gì đó lớn hơn thể trí—cái gì đó siêu huy, mênh mang, cái gì đó lóe sáng trong chốc lát rồi lại được che màn. Người ấy nhận ra lờ mờ, chưa phải bằng tri thức mà bằng điều nghe biết, rằng người ấy đã bắt gặp một tia thoáng của Linh hồn. Một tia sáng đã từ cái gì đó ở trên thể trí đi xuống thể trí, và người ấy lờ mờ cảm thấy, theo một nghĩa lạ lùng nào đó, đó chính là mình. Vì vậy, ban đầu sẽ có sự rối bời và lần mò trong bóng tối. |
But before we can deal with the facts clearly, we must try to see what we mean by these words “Mind” and “Soul” and “Consciousness.” These words must not be counters to play with, but real coins representing ideas. | Nhưng trước khi chúng ta có thể minh bạch xử lý các sự kiện, chúng ta phải cố gắng thấy chúng ta muốn nói gì bằng những từ “Thể trí”, “Linh hồn” và “Tâm thức”. Những từ này không được là những quân bài để chơi đùa, mà phải là những đồng tiền thật đại diện cho các ý tưởng. |
I define the Soul as that which individualises the Universal Spirit, which focuses the Universal Light into a single point. It is a receptacle into which the Spirit is poured, so that what is universal appears as separate. The purpose of this separation is that an individual may develop and grow, potent on every plane, with no break in consciousness. It may make for itself the vehicles it needs for acquiring consciousness beyond its own plane, and then gradually purify them until they no longer act as blinds, but as pure and translucent media. | Tôi định nghĩa Linh hồn là cái cá thể hóa Tinh thần Vũ trụ, là cái tập trung Ánh sáng Vũ trụ vào một điểm duy nhất. Đó là một bình chứa mà trong đó Tinh thần được rót vào, để cái vốn phổ quát xuất hiện như tách biệt. Mục đích của sự phân tách này là để một cá thể có thể phát triển và trưởng thành, hùng lực trên mọi cõi, không gián đoạn trong tâm thức. Nó có thể tự tạo cho mình những vận cụ cần thiết để thu nhận tâm thức vượt khỏi chính cõi của nó, rồi dần dần thanh lọc chúng cho đến khi chúng không còn hành xử như những bức màn che, mà như những môi giới tinh khiết và trong suốt. |
But the word “receptacle” may mislead. This process of individualisation is not like pouring something into a vessel. It is more analogous to how a Solar System is formed. Imagine space where nothing is visible. Then imagine a slight mist appears, too delicate to be called a mist, but that is the nearest word. As you watch, the mist grows denser, aggregating more closely, becoming more separated from the space around it, until a system is formed with a central sun and planets. | Nhưng từ “bình chứa” có thể gây hiểu lầm. Quá trình cá thể hóa này không giống như rót một vật gì vào một cái bình. Nó tương tự hơn với cách một hệ mặt trời được hình thành. Hãy hình dung không gian nơi không gì hữu hình. Rồi hình dung một làn sương mỏng hiện ra, quá tinh tế để gọi là sương, nhưng đó là từ gần nhất. Khi bạn quan sát, làn sương trở nên đậm đặc hơn, kết tụ chặt hơn, tách biệt hơn khỏi không gian chung quanh, cho đến khi một hệ thống được hình thành với một mặt trời trung tâm và các hành tinh. |
So it seems, however blunderingly put, is this coming of Spirit into individualisation. It is like the faint appearance of a shadow in the universal void, becoming a mist, then taking clearer form, until there is an individual, a Soul. Such is the process of forming the individual consciousness. The Soul is formed in the long course of evolution. It is not a thing complete at first, but is slowly builded until out of the Universal it becomes the individual. | Dường như là như thế, dẫu diễn đạt vụng về, về sự đi vào cá thể hóa của Tinh thần. Nó giống như bóng dáng mờ nhạt xuất hiện trong hư không phổ quát, trở thành làn sương, rồi mang hình tướng rõ dần, cho đến khi có một cá thể, một Linh hồn. Đó là tiến trình hình thành tâm thức cá thể. Linh hồn được hình thành trong suốt trường kỳ tiến hóa. Nó không phải là một sự vật hoàn chỉnh ngay từ đầu, mà được xây dựng chậm rãi cho đến khi từ Cái Phổ Quát trở thành cái cá thể. |
That Soul lasts from life to life through endless years. It is the growing individual, and its consciousness is the consciousness of all that lies behind it in its growth. The Soul is that entity, with a storied past ever present to its consciousness. As each new birth comes, this Soul casts out into new vestures a part of itself to gather new experience. This part of itself flowing outwards is what we call the Mind in man. It is the part of the Soul working in the brain, fettered by the brain, with the burden of the flesh upon it. All that greatness we know as the Mind is only this struggling part of the Soul. But what the man in the Outer Court understands is that it is this Soul which is himself, and that the mind is only its passing manifestation. | Linh hồn ấy tồn tại từ đời này sang đời khác qua những năm tháng vô cùng. Nó là cá thể đang lớn dần, và tâm thức của nó là tâm thức của tất cả những gì nằm phía sau nó trong tiến trình trưởng thành. Linh hồn là thực thể ấy, với một quá khứ dày dặn câu chuyện luôn hiện diện trong tâm thức của nó. Mỗi khi một sinh ra mới đến, Linh hồn này phóng một phần của chính mình vào những y phục mới để thâu thập kinh nghiệm mới. Phần của chính nó tuôn chảy ra ngoài ấy là điều chúng ta gọi là Thể trí nơi con người. Đó là phần của Linh hồn hoạt động trong bộ não, bị bộ não trói buộc, mang trên mình gánh nặng thể xác. Tất cả sự vĩ đại mà chúng ta biết như là Thể trí chỉ là phần Linh hồn đang vật lộn ấy. Nhưng điều mà người ở Ngoại viện hiểu được là Linh hồn ấy mới là chính mình, và thể trí chỉ là hiện lộ thoáng qua của nó. |
Then he begins to understand that just as the body and desire-nature are to be subject to the mind, so that mind itself is to be subject to the great Soul of which it is only the projected representative. It is only an instrument, an organ of the Soul. | Rồi người ấy bắt đầu hiểu rằng, cũng như thân xác và bản chất dục vọng phải phục tùng thể trí, thì chính thể trí ấy cũng phải phục tùng Linh hồn vĩ đại mà nó chỉ là đại biểu phóng chiếu của Linh hồn. Nó chỉ là một nhạc cụ, một cơ quan của Linh hồn. |
Realising that, what will be the position of our candidate? The mind learns. As it comes into contact with the outer world, it gathers facts, arranges them, and forms judgments. The result of this activity passes upwards into the Soul itself. This is what the Soul takes with it into Devachan and works upon to change it into wisdom. For wisdom is very different from learning. Learning is the mass of facts and judgments; wisdom is the extracted essence of the whole. | Nhận ra điều đó, vị thế của ứng viên chúng ta sẽ là gì? Thể trí học hỏi. Khi nó tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nó thu thập các dữ kiện, sắp xếp chúng, và hình thành các phán đoán. Kết quả của hoạt động này được chuyển lên trên vào chính Linh hồn. Đó là điều mà Linh hồn mang theo vào Devachan và làm việc trên đó để chuyển nó thành minh triết. Vì minh triết rất khác với học vấn. Học vấn là khối lượng dữ kiện và phán đoán; minh triết là tinh chất được trích lọc của toàn thể. |
But our candidate will realise that it is this Soul which is “I.” And then he begins to understand why it is said that at the very outset he has to distinguish between the “I” that endures and this mind which is only a passing manifestation. When the pupil sends out to the Master his first cry for teaching, the Wise One replies: “Search for the Paths. But, O Lanoo, be of clean heart before thou startest on thy journey. Before thou takest thy first step, learn to discern the real from the false, the ever-fleeting from the everlasting.”² | Nhưng ứng viên của chúng ta sẽ nhận ra rằng Linh hồn ấy chính là “Ta”. Và rồi người ấy bắt đầu hiểu vì sao nói rằng ngay từ bước đầu tiên, người ấy phải phân biệt giữa cái “Ta” bền lâu và thể trí này, vốn chỉ là một hiện lộ thoáng qua. Khi người môn sinh gửi lên Chân sư tiếng kêu đầu tiên cầu xin giáo huấn, Bậc Trí Giả đáp: “Hãy tìm các Đạo Lộ. Nhưng, hỡi Lanoo, hãy giữ lòng thanh tịnh trước khi ngươi khởi hành. Trước khi bước chân đầu tiên, hãy học phân biệt cái chân thực với cái hư dối, cái luôn trôi nổi với cái vĩnh hằng.”² |
And then the Teacher explains the difference between learning and wisdom. The distinction is drawn between the mind—the mind that is “like a mirror; it gathers dust while it reflects”; the mind that needs the “breezes of Soul-wisdom to brush away the dust of our illusions.” On those words, the candidate reflects. What is this difference between the real and the fleeting, and why is the mind connected with it? What part does this mind play, which seems so mighty? What is its function if the first step on the Path is to distinguish the illusory from the real? | Và rồi Vị Huấn Sư giải thích sự khác nhau giữa học vấn và minh triết. Sự phân biệt được nêu giữa thể trí—thể trí “như tấm gương; nó bám bụi trong khi phản chiếu”; thể trí cần đến “những làn gió của minh triết Linh hồn để quét sạch bụi bặm ảo tưởng của chúng ta.” Trên những lời ấy, ứng viên suy tư. Sự khác nhau giữa cái thật và cái phù du là gì, và vì sao thể trí lại liên quan đến điều đó? Vai trò của thể trí này là gì, thứ vốn xem chừng hùng mạnh như vậy? Chức năng của nó là gì nếu bước đầu tiên trên Thánh Đạo là phân biệt cái hư huyễn với cái chân thực? |
And there are other words which he remembers. He remembers a strange word that spoke of the Rajah of the senses, ruler of the lower nature, but no friend of the disciple. He remembers that he was bidden to seek out that Rajah, for he is “the Thought-Producer, he who awakes illusion.” And the disciple is told that the “mind is the great slayer of the Real. Let the disciple slay the slayer.”³ | Và còn những lời khác mà người ấy nhớ lại. Người ấy nhớ một từ lạ nói về Rajah của các giác quan, đấng cai quản bản tính thấp, nhưng không phải là bạn của đệ tử. Người ấy nhớ rằng mình đã được dặn phải tìm ra vị Rajah ấy, bởi vì Ngài là “Kẻ Sản Sinh Tư Tưởng, kẻ đánh thức ảo tưởng.” Và đệ tử được bảo rằng “thể trí là kẻ đại sát hại Cái Thực. Hãy để đệ tử diệt kẻ sát hại.”³ |
Here then we seem to be on the track of some illuminative thought. That Rajah of the senses is the thought-producer, and he who produces thought awakes illusion. It is he who slays the Real. For in the Spirit-World there is Reality. As differentiation proceeds, illusion is produced, and it is this mind that makes the illusion. It has endless images and pictures, the image-making faculty we call imagination. It is this which is the real creator of illusion. His first work as disciple will be to slay the slayer. For unless he can get rid of this illusive power of the mind, he will never penetrate beyond the Outer Court. | Thế là chúng ta dường như đang lần theo vết một tư tưởng khai minh nào đó. Vị Rajah của các giác quan là kẻ sản sinh tư tưởng, và kẻ tạo ra tư tưởng thì đánh thức ảo tưởng. Chính y là kẻ sát hại Cái Thực. Vì trong Thế giới Tinh thần có Thực Tại. Khi sự biến phân tiến triển, ảo tưởng được sản sinh, và chính thể trí này tạo ra ảo tưởng. Nó có vô số hình ảnh và bức tranh, năng lực tạo ảnh mà chúng ta gọi là sự tưởng tượng. Chính điều này là kẻ sáng tạo thực sự của ảo tưởng. Công việc đầu tiên của người đệ tử sẽ là diệt kẻ sát hại. Vì trừ khi người ấy khử trừ được quyền năng ảo hóa của thể trí, người ấy sẽ không bao giờ xuyên vượt khỏi Ngoại viện. |
Then, listening still to the Teacher, he hears a voice which bids him seek to blend his Mind and Soul. His work will be to make some change in this lower mind which shall make it capable of blending with the higher. | Rồi, vẫn lắng nghe Vị Huấn Sư, người ấy nghe một tiếng nói bảo người ấy hãy tìm cách hòa trộn Thể trí và Linh hồn của mình. Công việc của người ấy sẽ là tạo nên một biến đổi nào đó trong thể trí thấp này để nó có thể hòa trộn với thể trí cao. |
He then hears a teaching which in mystic language says he must destroy the lunar body and cleanse the mind-body.⁴ Studying that, he learns that the lunar body belongs to Kama or Desire, the astral man. That is to be destroyed, and the mind-body is to be cleansed. “Cleanse thy mind-body,” the Teacher tells him. Only by cleansing away the dust of illusion will it be possible for that mind-body to re-enter itself and be blended with its Soul. | Sau đó, người ấy nghe một giáo huấn, nói bằng ngôn ngữ huyền nhiệm, rằng người ấy phải phá hủy thể nguyệt và tẩy tịnh thể trí.⁴ Nghiên cứu điều đó, người ấy học rằng thể nguyệt thuộc về Kama hay Dục vọng, con người cảm dục. Cái đó phải bị phá hủy, và thể trí phải được tẩy tịnh. “Hãy tẩy tịnh thể trí của ngươi,” Vị Huấn Sư bảo người ấy. Chỉ bằng cách gột sạch bụi bặm của ảo tưởng thì thể trí ấy mới có thể quay vào trong chính nó và được hòa trộn với Linh hồn của nó. |
Now he begins to understand the work before him regarding this mind. He begins to realise that he himself, this living Soul, has been putting out this force to create an instrument for its own use. Instead of the mind being master, the mind is to be an obedient slave. As that grows upon him, he begins to train his mind. | Giờ đây người ấy bắt đầu hiểu công việc trước mắt mình đối với thể trí này. Người ấy bắt đầu nhận ra rằng chính mình, Linh hồn đang sống này, đã phóng xuất lực để tạo ra một nhạc cụ cho chính việc sử dụng của nó. Thay vì thể trí làm chủ, thể trí phải là một tôi tớ vâng phục. Khi điều này lớn lên trong người ấy, người ấy bắt đầu rèn luyện thể trí của mình. |
He will find that this mind is always running about, hard to control. He will begin by training it, as you would train a steed, to go definitely along the road you choose. In his daily life, he will gradually train his mind in thinking consecutively and definitely. He will refuse to scatter thought. He will insist that it pursue a definite path. He will read with deliberate motive sustained arguments which train the mind in going along one definite line, and he will not permit it to leap from one thing to another rapidly, intensifying the restlessness which is an obstacle. | Người ấy sẽ thấy rằng thể trí này luôn chạy nhảy, khó kiểm soát. Người ấy sẽ bắt đầu bằng cách rèn nó, như bạn sẽ rèn một con tuấn mã, để nó đi đúng con đường bạn lựa chọn. Trong đời sống hằng ngày, người ấy sẽ dần rèn thể trí mình suy nghĩ có mạch lạc và xác quyết. Người ấy sẽ từ chối phân tán tư tưởng. Người ấy sẽ buộc nó phải theo đuổi một lộ trình xác định. Người ấy sẽ đọc, với động cơ có suy xét, những lập luận liên tục rèn luyện thể trí đi theo một đường lối nhất định, và người ấy sẽ không cho phép nó nhảy từ việc này sang việc khác một cách nhanh chóng, làm tăng cường sự bồn chồn vốn là một chướng ngại. |
Thus daily, month by month, and year by year, he will work at his mind. He will learn to choose what he thinks about. He will no longer permit a thought to grip him and hold him. He will be master within his own house. He may have troubles in his daily life; they will help him in this training. When these troubles are pressing, when anxieties are trying, he will say: “No; no such anxiety shall remain within my mind.” | Như thế mỗi ngày, tháng nối tháng, năm tiếp năm, người ấy sẽ làm việc với thể trí của mình. Người ấy sẽ học cách chọn điều mình nghĩ đến. Người ấy sẽ không còn cho phép một tư tưởng chụp lấy và giữ chặt mình. Người ấy sẽ là chủ trong ngôi nhà của chính mình. Người ấy có thể gặp rắc rối trong đời sống thường nhật; chúng sẽ giúp người ấy trong sự rèn luyện này. Khi những rắc rối ấy dồn ép, khi lo âu thử thách, người ấy sẽ nói: “Không; không một nỗi lo nào như thế được phép lưu lại trong thể trí ta.” |
People lie awake at night, filled with anxious thoughts, half killing themselves not by their troubles but by the worries those troubles cause. All that kind of thing will be put an end to by the candidate. He will shut and lock the doors of the mind against all these uninvited thoughts. This will be a difficult and long training. Over and over again he must do it. There is no way save by taking such a thought, whenever it comes in, and deliberately declining to give it harbourage. | Người ta thường thức trắng đêm, đầy những ý nghĩ lo âu, gần như tự hủy hoại mình không phải vì rắc rối, mà vì những nỗi lo mà rắc rối ấy gây ra. Mọi thứ kiểu như thế sẽ được ứng viên chấm dứt. Người ấy sẽ đóng và khóa cửa thể trí trước mọi tư tưởng không mời mà đến này. Đây sẽ là một sự rèn luyện khó khăn và lâu dài. Hết lần này đến lần khác người ấy phải làm như vậy. Không có con đường nào khác ngoài việc, mỗi khi một tư tưởng như thế lọt vào, cố ý từ chối cho nó trú ngụ. |
How? Probably at first most easily by giving the mind something else to think about. Later, by simply refusing to admit it. But until he is strong enough, he may do wisely to substitute one thought for another. Always substitute some high thought which deals with the permanent for the thought he wants to get rid of, which deals with the transitory. For then it will serve the double purpose of getting rid of the transitory thought and habituating the mind to rest in the eternal. It will strengthen that dwelling of the mind in the eternal, which is the secret of all peace. | Làm sao? Có lẽ lúc đầu, cách dễ nhất là cho thể trí một điều khác để nghĩ đến. Về sau, chỉ đơn giản từ chối thừa nhận nó. Nhưng cho đến khi đủ mạnh, người ấy có thể khôn ngoan mà thay thế một tư tưởng bằng một tư tưởng khác. Luôn thay thế một tư tưởng cao thượng, vốn liên hệ đến cái thường hằng, cho tư tưởng mà người ấy muốn trừ bỏ, vốn liên hệ đến cái vô thường. Vì khi đó nó sẽ có tác dụng kép: vừa loại bỏ tư tưởng vô thường, vừa tập cho thể trí quen an trú trong cái vĩnh cửu. Nó sẽ củng cố sự an trú ấy của thể trí trong vĩnh cửu, vốn là bí quyết của mọi an bình. |
As he trains his mind and gains power over it, he will take a further, more difficult step. He will withdraw himself from the mind and think not in the mind at all. Not because he is going to become unconscious, but because he is seeking a deeper consciousness. Not because the life in him is dulling, but because it has become so vivid that the brain can no longer contain it. With this growth of the inner life, he will slowly find it is possible to reach a stage where “thought” will no longer be the thought of the mind, but the consciousness in the Soul. | Khi người ấy rèn luyện thể trí và đoạt được quyền năng trên nó, người ấy sẽ bước thêm một bước xa hơn, khó hơn. Người ấy sẽ rút mình ra khỏi thể trí và không còn nghĩ trong thể trí nữa. Không phải vì người ấy sắp trở nên vô tâm thức, mà vì người ấy đang tìm một tâm thức sâu hơn. Không phải vì sự sống trong người ấy đang cùn mòn, mà vì nó đã trở nên sinh động đến mức bộ não không còn dung chứa nổi. Cùng với sự lớn lên của đời sống nội tại này, người ấy sẽ chậm rãi nhận ra rằng có thể đạt tới một giai đoạn mà “tư tưởng” sẽ không còn là tư tưởng của thể trí, mà là tâm thức trong Linh hồn. |
Long ere he will find that consciousness, he will have to pass through the stage of blankness, of emptiness—one of the most trying stages. Then he will dimly begin to understand the meaning breathed in the words of the Teacher: “Restrain by thy Divine thy lower self; restrain by the Eternal the Divine.”⁵ The Divine Self is this Soul which is to restrain the lower mind. But beyond the Soul is the Eternal. In some future that lies within the Temple, that Eternal is to restrain the Divine in him. | Lâu trước khi tìm thấy tâm thức ấy, người ấy sẽ phải đi qua giai đoạn trống rỗng, hư không—một trong những giai đoạn thử thách nhất. Rồi người ấy sẽ lờ mờ bắt đầu hiểu ý nghĩa thấm trong lời của Vị Huấn Sư: “Hãy chế ngự phàm ngã của ngươi bằng Cái Thiêng liêng; hãy chế ngự Cái Thiêng liêng bằng Đấng Vĩnh cửu.”⁵ Cái Thiêng liêng là Linh hồn này, vốn phải chế ngự hạ trí. Nhưng ở bên kia Linh hồn là Đấng Vĩnh cửu. Trong một tương lai nằm trong Đền Thờ, Đấng Vĩnh cửu ấy sẽ chế ngự Cái Thiêng liêng trong y. |
He gradually learns that he is to be master of everything around him. He will come to a stage where subtle temptations will flock around him, temptations that do not touch the lower nature, but dare to raise themselves against the higher. Then come those subtle temptations that ensnare the inner man, temptations of the thought-world thronging round him. He must have gained utter control over the mental images he himself has created ere he will be able to hold his own unshaken, serene, unruffled. | Người ấy dần dần học rằng mình phải là chủ của mọi thứ quanh mình. Người ấy sẽ đến một giai đoạn nơi những cám dỗ vi tế kéo đến quanh mình, những cám dỗ không đụng chạm đến bản tính thấp, mà cả gan dấy mình lên chống lại cái cao. Rồi đến những cám dỗ tinh vi giăng bẫy người nội tại, những cám dỗ của thế giới tư tưởng chen chúc quanh người ấy. Người ấy phải đạt đến sự chế ngự trọn vẹn đối với những hình ảnh trí tuệ do chính mình tạo dựng trước khi có thể giữ vững bản thân một cách bất lay chuyển, điềm nhiên, không xao động. |
These thoughts are now coming to him, vitalised no longer by the feeble minds of men, but with a tremendous impulse from the dark side of the spiritual plane—from those who would fain slay the Soul. In the Outer Court, he finds himself face to face with these. If he has not trained himself to be master within the limits of the mind against the puny attacks of the outer world, how then shall he hold his own against these hosts of Mara, the Evil One? How shall he cross that fourth stage in the Outer Court? | Những tư tưởng này giờ đây đến với người ấy, không còn được sinh lực hóa bởi những thể trí yếu ớt của người đời, mà bằng một xung lực ghê gớm từ phía tối của cõi tinh thần—từ những kẻ muốn sát hại Linh hồn. Ở Ngoại viện, người ấy thấy mình mặt đối mặt với chúng. Nếu người ấy chưa tự rèn luyện để làm chủ trong phạm vi của thể trí trước những cuộc công kích tầm thường của ngoại giới, vậy người ấy sẽ làm sao giữ vững trước những đạo binh của Mara, Ma Vương? Người ấy sẽ làm sao vượt qua giai đoạn thứ tư ấy trong Ngoại viện? |
Then comes this strength which grows out of the fixity of the mind. The mind has grown so strong that it can fix itself on what it will and stay there unshaken, no matter what whirlwind may be going on around. A fixity so great that nothing without can avail to shake it. It has grown so strong that it does not need effort any longer. The stronger the Soul, the less of effort in its working. | Rồi đến sức mạnh này, sức mạnh nảy sinh từ tính kiên định của thể trí. Thể trí đã trở nên mạnh mẽ đến nỗi có thể tự định trụ vào điều nó muốn và ở yên đó không lay động, bất kể cuồng phong nào đang diễn ra quanh mình. Một sự kiên định lớn đến mức không gì bên ngoài có thể làm nó rung chuyển. Nó đã trở nên mạnh đến mức không còn cần đến nỗ lực nữa. Linh hồn càng mạnh, nỗ lực trong hoạt động của nó càng ít. |
Then that great stage of the mind is reached when, instead of being slain, thoughts fall dead of themselves when they reach the shrine. No longer need the mind slay. It has become cleansed, pure, and obedient. The result is that the moment anything alien strikes against it, it falls dead of its own impulsion. There is no longer need to strike. This is that fixity of the mind of which it is written that the lamp is placed in a steady spot where no wind can cause it to flicker. | Rồi giai đoạn vĩ đại của thể trí ấy được đạt tới khi, thay vì bị hạ sát, các tư tưởng tự chúng gục chết khi vừa chạm đến điện thờ. Thể trí không còn cần hạ sát nữa. Nó đã trở nên được tẩy tịnh, tinh sạch, và vâng phục. Kết quả là, ngay khoảnh khắc bất cứ cái gì ngoại lai va vào nó, cái đó tự đổ gục bởi chính xung lực của mình. Không còn cần phải đánh. Đây là sự kiên định của thể trí mà người ta đã viết rằng ngọn đèn được đặt ở một nơi vững chắc, nơi không cơn gió nào có thể làm nó chập chờn. |
It is in that place of rest where the will is beginning to be realised. It is there that there is absolute peace, a spot under the shadow of the Temple walls. It is of that that it is written in an ancient Scripture that when a man is free from desire, when he is free from grief, it is then in the tranquillity of the senses that he beholds the majesty of the Soul.⁶ Then he sees indeed for the first time, no longer by broken gleam, but in this absolute peace and serenity. There the majesty of the Soul shines out unbroken, and the mind, now a polished mirror, reflects it back as it really is. | Đó là nơi an nghỉ, nơi ý chí bắt đầu được nhận biết. Ở đó có hòa bình tuyệt đối, một chốn dưới bóng tường Đền Thờ. Về nơi ấy, một Kinh văn cổ đã chép rằng khi con người thoát khỏi dục vọng, khi người ấy thoát khỏi sầu muộn, thì chính trong sự vắng động của các giác quan, người ấy thấy được uy nghi của Linh hồn.⁶ Khi ấy người ấy thật sự thấy lần đầu tiên, không còn qua những tia lóe gãy vụn, mà trong an bình và tĩnh lặng tuyệt đối. Ở đó, uy nghi của Linh hồn tỏa sáng bất đoạn, và thể trí, giờ như một tấm gương được đánh bóng, phản chiếu lại đúng như nó là. |
This mind, that in the early days was a dust-covered mirror, has become as the polished mirror that reflects perfectly. It gives back everything in mountain and in sky. But how? There is a moment of danger ere this, of which the warning voice has spoken. A moment when the mind and Soul join in a last struggle, when the mind becomes as a mad elephant that rages in the jungle. How then shall it be tamed? It is the last struggle of the mind, the final effort of the lower to assert itself against the higher. | Thể trí này, thuở ban sơ là một tấm gương phủ bụi, nay đã trở thành tấm gương đánh bóng phản chiếu hoàn hảo. Nó trả lại mọi thứ trong núi non và bầu trời. Nhưng thế nào? Có một khoảnh khắc nguy hiểm trước đó, về điều này tiếng cảnh báo đã vang lên. Một khoảnh khắc khi thể trí và Linh hồn nhập vào một cuộc giao tranh sau cùng, khi thể trí trở nên như một con voi điên cuồng tung phá trong rừng rậm. Vậy làm sao thuần phục nó? Ấy là cuộc đọ sức sau cùng của thể trí, nỗ lực cuối cùng của cái thấp nhằm tự khẳng định trước cái cao. |
It has been written in every book of the Hidden Wisdom that, as the candidate approaches the gateway, all the powers of Nature rise up against him to drag him down. It is the last struggle to be passed through ere the conquest is complete. On higher planes, there is a struggle of which this is the reflection, symbolised in the last struggle of the Buddha beneath the Sacred Tree. There, where came to Him the last illumination, all the hosts gathered for the last struggle. Though on infinitely lower planes, there is that crucial struggle also in the life of the disciple coming near the gateway of the Temple. | Người ta đã chép trong mọi sách Minh Triết Huyền Tàng rằng, khi ứng viên đến gần cổng, mọi quyền lực của Tự Nhiên đều dấy lên chống lại người ấy để kéo người ấy xuống. Ấy là cuộc tranh đấu cuối cùng phải vượt qua trước khi chiến thắng được hoàn mãn. Trên các cõi cao hơn, có một cuộc tranh đấu mà điều này là ảnh xạ, được biểu tượng trong cuộc đấu sau chót của Đức Phật dưới Cội Thiêng. Ở nơi Người đón nhận minh chứng tối hậu, mọi đạo binh đều tụ hội cho trận cuối cùng. Tuy ở những cõi thấp hơn vô lượng lần, cũng có cuộc thử thách tối hậu ấy trong đời của người đệ tử đang đến gần cổng Đền Thờ. |
How shall he conquer in the struggle? Still from the words of the Teacher there comes the help. “It needs,” we hear spoken in the silence, “it needs points to draw it towards the Diamond Soul.”⁷ What is the Diamond Soul? It is the Soul that has accomplished its union with the true Self, without spot or flaw, translucent—as the diamond is—to the Light of the Logos. The mighty Name is that of a Soul high above all others to whom belongs this title, through which the Light of the Logos Itself shines down to men. | Người ấy sẽ thắng thế trong cuộc giao tranh bằng cách nào? Vẫn từ lời Vị Huấn Sư, sự giúp đỡ đến. “Cần,” ta nghe vang trong tịch mặc, “cần những điểm để kéo nó hướng về Linh hồn Kim Cương.”⁷ Linh hồn Kim Cương là gì? Ấy là Linh hồn đã thành tựu sự hợp nhất với Chân Ngã đích thực, không tỳ vết hay tì ố, trong suốt—như kim cương—trước Ánh sáng của Thượng đế. Danh Hiệu Vĩ Đại là của một Linh hồn cao cả vượt trên các linh hồn khác, Đấng mang tước hiệu ấy, qua đó chính Ánh sáng của Thượng đế soi xuống nhân gian. |
It is the Soul to which we look at the moments of our highest aspiration. What we need to draw us upwards towards It is only one glimpse of Its beauty, one touch from Its fire. For the Soul grows upwards towards its own as the flower grows towards the light. The points that draw it upwards are these radiant outshinings from the Diamond Soul. | Đó là Linh hồn mà chúng ta hướng nhìn trong những giờ phút khát vọng cao nhất. Điều chúng ta cần để kéo mình đi lên hướng về Linh hồn ấy chỉ là một thoáng nhìn vẻ đẹp của Ngài, một chạm chạm của lửa Ngài. Vì Linh hồn lớn lên hướng về đồng loại của nó như đóa hoa lớn lên hướng về ánh sáng. Những điểm kéo nó đi lên chính là những tia rực rỡ tỏa ra từ Linh hồn Kim Cương. |
As the disciple begins to understand, there grows upon him what is meant by the Diamond Soul. He realises that in himself also that Diamond Soul is to be re-incarnate. “Look inwards! Thou art Buddha!” This mind of his is but an instrument for Its service, precious as it makes music worthy to reach the higher. Then by devotion, these strings of the mind are tuned, utterly subdued to the Soul. Then it becomes an instrument of music fit for the Master’s touch. | Khi đệ tử bắt đầu hiểu, người ấy dần dần cảm thấu điều được gọi là Linh hồn Kim Cương. Người ấy nhận ra rằng chính nơi mình, Linh hồn Kim Cương ấy cũng phải được tái nhập thể. “Hãy nhìn vào trong! Ngươi là Phật!” Thể trí này của người ấy chỉ là một nhạc cụ để phục vụ Linh hồn ấy, trở nên quý báu khi nó làm vang lên bản nhạc xứng đáng vươn tới điều cao hơn. Rồi bằng sự sùng kính, những dây đàn của thể trí được lên dây, hoàn toàn thuận phục Linh hồn. Bấy giờ nó trở thành một nhạc khí xứng đáng cho nhịp chạm của Bàn tay Bậc Thầy. |
At last, the disciple stands before the gateway and realises that he himself has found Himself. The Soul that is Himself is looking upwards to One yet higher with whom it is now going to blend. The further union takes place only within the Temple. Standing at the gateway, he has only united Himself eternal to his self that was perishable—Himself the Soul to himself that was mind. | Sau cùng, đệ tử đứng trước cổng và nhận ra rằng chính mình đã tìm thấy Chính Mình. Linh hồn là Chính Mình đang ngước lên hướng về Một Đấng còn cao hơn nữa, với Đấng ấy nó sắp sửa hòa quyện. Sự hợp nhất xa hơn nữa chỉ diễn ra bên trong Đền Thờ. Đứng nơi cổng, người ấy mới chỉ hợp nhất Chính Mình vĩnh cửu với cái mình vốn phàm hoại—Chính Mình là Linh hồn với cái mình vốn là thể trí. |
Then he begins the worship which means identification with the highest. He learns that in his daily life, the Soul can always be worshipping, no matter what the mind may do. He realises at last that the life of the disciple is absolutely unbroken worship of the Highest, contemplation that never ceases. While the Soul is ever thus busied in the Court of the Temple, the body and the mind will be at work for the humanity that needs them. They are instruments while the man is living. They are his messengers while himself is worshipping. | Rồi người ấy khởi sự cuộc lễ bái vốn có nghĩa là đồng nhất với Đấng Tối Cao. Người ấy học rằng trong đời sống thường nhật, Linh hồn luôn có thể lễ bái, bất kể thể trí có làm gì. Sau cùng người ấy nhận ra rằng đời sống của đệ tử là lễ bái tuyệt đối không gián đoạn đối với Đấng Tối Thượng, là sự chiêm ngưỡng không bao giờ dứt. Trong khi Linh hồn luôn bận việc như thế ở trong Tiền đường của Đền Thờ, thì thân thể và thể trí sẽ làm việc cho nhân loại đang cần đến chúng. Chúng là nhạc cụ khi con người còn sống. Chúng là sứ giả khi chính mình đang lễ bái. |
Then he realises what it means that “in heaven their Angels always behold the face of the Father.” For the vision of the Father Soul is an unbroken vision. No cloud of earth may dim it. Ever the Soul is beholding, while the mind and the body are labouring. When that is achieved, the threshold is being crossed, and from the Outer Court, the Soul is entering into the Temple of its Lord. | Rồi người ấy hiểu ý nghĩa của lời rằng “trên trời các Thiên thần của họ hằng chiêm ngưỡng Nhan Thánh của Cha.” Vì thị kiến về Cha—Linh hồn—là một thị kiến không gián đoạn. Không mây trần nào có thể làm lu mờ nó. Linh hồn luôn chiêm ngưỡng, trong khi thể trí và thân thể lao động. Khi điều ấy được thành tựu, ngưỡng cửa đang được vượt qua, và từ Ngoại viện, Linh hồn đang tiến vào Đền Thờ của Chúa Tể mình. |