Lecture IV—Bài giảng IV
Now, during the last three lectures, we have been considering the stages, carried on simultaneously, by which the aspirant for entrance into the Temple is gradually purifying himself, bringing his thoughts under control, and building up his character—or perhaps, building its foundations. These are the three stages we have considered. We have seen that anyone who has entered the Outer Court will take up these different efforts not so much one after the other, as side by side. He will gradually try to bring his whole nature under control and direct it towards his object. | Giờ đây, trong ba bài giảng trước, chúng ta đã xem xét những giai đoạn, diễn ra đồng thời, nhờ đó người chí nguyện muốn bước vào Đền dần dần tự thanh luyện, đưa tư tưởng dưới sự kiểm soát, và xây dựng Tính cách của mình—hoặc có lẽ, xây nền móng cho nó. Đó là ba giai đoạn chúng ta đã cân nhắc. Chúng ta đã thấy rằng bất kỳ ai đã bước vào Tiền Viện Bên Ngoài sẽ đảm nhiệm những nỗ lực khác nhau này không phải tuần tự cái này sau cái kia, mà là song hành. Y sẽ dần cố gắng đưa toàn bộ bản tính mình vào khuôn phép và hướng nó về mục đích. |
Let us suppose then that our candidate now turns to another part of his great task. I have described this part as Spiritual Alchemy. I had in mind, in using that phrase, a process of change, of transmutation, alluding to the alchemist’s work of changing baser metal into nobler, say, copper into gold. I have in my thought a process that goes on in the world around us, in the mind and life of every thoughtful and religious person, but which with our candidate becomes a self-conscious and deliberate process. He recognises his method and his end and turns himself deliberately to achieve what he desires. | Vậy chúng ta hãy giả định ứng viên của chúng ta giờ quay sang một phần khác của đại công trình của y. Tôi đã mô tả phần này là Giả kim Tinh thần. Khi dùng cụm từ ấy, tôi có trong tâm một tiến trình đổi thay, một sự chuyển hoá, ám chỉ công việc của nhà giả kim trong việc biến kim loại hạ đẳng thành cao quý, như đồng thành vàng. Tôi nghĩ đến một tiến trình đang diễn ra trong thế giới quanh ta, trong thể trí và đời sống của mọi người có suy tư và có đạo tâm, nhưng với ứng viên của chúng ta, nó trở thành một tiến trình có ý thức về chính mình và có chủ tâm. Y nhận biết phương pháp và cứu cánh của mình và tự chủ động hướng đến thành tựu điều y mong muốn. |
This process of spiritual alchemy may be regarded, in the most general sense, as a transmutation of forces. Each man has in himself life, energy, vigour, and power of will. These are the forces with which he is to work. By a process fairly described as alchemical, he transmutes these forces from lower ends to higher, from gross energies to refined and spiritualised ones. It is not only that he changes their object; it is rather that he changes and purifies them without altering their essential nature. Just as the alchemist, taking this grosser matter, passed it through a process of purification—not the mere purging away of dross, but a purification that took the very metal itself, reduced it to a finer state, and then recombined it into a nobler type. So you may imagine the spiritual alchemist taking all the forces of his nature, recognising them as useful, but deliberately changing, purifying, and refining them. We are concerned with the method of refining, with how this work may be carried out. | Tiến trình giả kim tinh thần này, xét theo nghĩa tổng quát nhất, có thể được xem là một sự chuyển hoá các mãnh lực. Mỗi người đều có trong mình sự sống, năng lượng, sinh lực và quyền năng ý chí. Đó là những mãnh lực y sẽ dùng để làm việc. Bằng một tiến trình có thể mô tả khá đúng là giả kim, y chuyển hoá các mãnh lực này từ những cứu cánh thấp sang cao, từ những năng lượng thô trược thành tinh luyện và được tinh thần hoá. Không chỉ là y đổi đối tượng của chúng; đúng hơn là y đổi và tinh luyện chúng mà không làm đổi bản tính cốt yếu. Tựa như nhà giả kim, lấy vật chất thô này, đưa nó qua một tiến trình tinh luyện—không phải chỉ gạn bỏ cặn bã, mà là một sự tinh luyện đụng đến chính kim loại, làm nó trở nên tinh tế hơn, rồi phối kết lại thành một loại cao quý hơn. Bạn có thể hình dung vị giả kim tinh thần lấy tất cả những mãnh lực của bản tính mình, nhận biết chúng là hữu dụng, nhưng chủ tâm đổi, tinh luyện, và lọc chúng. Chúng ta quan tâm đến phương pháp tinh luyện, đến cách công việc này có thể được tiến hành. |
The object of this spiritual alchemy is not only this transmutation of forces, though that is its essential part. There is a subsidiary side to it. Souls are bound to earth-life, to the wheel of births and deaths, by desires. They are held there by ignorance, fettered by their longings after material enjoyments and separated joys. Continually engaged in actions, these actions bind the Soul, whether they be good or bad, helpful or mischievous. Action in the ordinary man springs from desire, and this desire is the binding force. | Mục đích của phép giả kim tinh thần này không chỉ là sự chuyển hoá các mãnh lực, dù đó là phần cốt yếu. Nó còn có một mặt phụ trợ. Linh hồn bị trói buộc vào đời sống trần gian, vào bánh xe sinh tử, bởi các dục vọng. Chúng bị giữ đó bởi vô minh, bị xiềng bởi những khát khao hưởng thụ vật chất và những hoan lạc tách lìa. Liên tục vướng vào hành động, những hành động này trói buộc Linh hồn, bất kể chúng thiện hay ác, hữu ích hay có hại. Hành động nơi người thường nảy sinh từ dục vọng, và dục vọng ấy là lực trói buộc. |
Actions must continue as long as man remains in the world. As a man grows nobler, his action becomes an ever more important factor in the world’s progress. Supposing the greatest should abstain from action, the progress of the race must be delayed. | Hành động phải tiếp diễn chừng nào con người còn ở thế gian. Khi con người càng cao thượng, hành động của y càng trở thành một nhân tố quan trọng hơn đối với bước tiến của thế giới. Giả như bậc vĩ đại nhất kiêng cữ hành động, bước tiến của chủng loại hẳn sẽ bị chậm lại. |
How then shall it be possible that action shall be accomplished and yet the Soul be free? How is it possible that action shall be rendered, yet the Soul not be bound? Here again, we find a case of spiritual alchemy, whereby the greatest may be the most active in service, and yet his service shall not touch him as a liberated Soul. You have exemplified what seems a paradox—a service which is perfect freedom. | Vậy làm sao có thể vừa hoàn tất hành động mà Linh hồn vẫn tự do? Làm sao có thể vừa phụng sự trong hành động mà Linh hồn không bị ràng buộc? Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy một trường hợp giả kim tinh thần, nhờ đó bậc vĩ đại nhất có thể năng hoạt động nhất trong phụng sự, thế mà sự phụng sự ấy lại không chạm đến y như một Linh hồn đã giải thoát. Bạn có một điều tưởng như nghịch lý được chứng thực—một sự phụng sự vốn là tự do hoàn toàn. |
The phrase “spiritual alchemy” as a means to such freedom is only a way of alluding to the fundamental Law of Sacrifice. That great Law lies at the root of all in the manifested universe and is constantly expressing itself. Its forms are so various that it is easy to mistake them, its action so complicated it is easy to blunder. It is easiest of all to blunder in expression, for you are dealing with a many-sided truth seen in many aspects. It has a double aspect as contemplated from above or below. It is a Law that permeates the universe, to which every atom is subject. It is, in the fullest sense, the expression of the Divine Life in manifestation. | Cụm từ “giả kim tinh thần” như một phương tiện đến tự do như vậy chỉ là cách ám chỉ Định luật Hi sinh nền tảng. Định luật vĩ đại ấy nằm ở cội rễ của mọi sự trong vũ trụ biểu lộ và không ngừng tự biểu lộ. Hình thái của nó đa tạp đến độ rất dễ bị nhầm lẫn, tác động của nó phức tạp đến độ rất dễ sai lầm. Sai lầm nhất là ở cách diễn đạt, vì bạn đang đối diện một chân lý đa diện được thấy dưới nhiều khía cạnh. Nó có một lưỡng diện khi được chiêm ngưỡng từ trên xuống hay từ dưới lên. Đó là một Định luật thấm suốt vũ trụ, mà mọi nguyên tử đều lệ thuộc. Nó, theo nghĩa đầy đủ nhất, là sự biểu lộ của Sự Sống Thiêng Liêng trong hiện lộ. |
In touching such a Law, there are endless opportunities for blundering—on the part of the speaker in expression, on the part of the hearers in grasping the thought. One is apt to be one-sided according to the view most before the mind, according as the aspect expresses itself on the side of Matter or Spirit, as we take a standpoint without—looking inwards, or a standpoint within—looking outwards. In dealing with a mighty subject where no single word expresses the thought, it is most difficult for both speaker and hearer to avoid misconception. With regard to the Law of Sacrifice, this is perhaps especially the case. | Khi chạm đến một Định luật như vậy, có vô số cơ hội để sai lầm—ở phía người nói trong cách diễn đạt, ở phía người nghe trong việc nắm bắt tư tưởng. Người ta dễ thiên lệch theo lập trường đang ở trước mắt thể trí, tuỳ theo phương diện biểu hiện ở phía Chất liệu hay phía Tinh thần, tuỳ theo ta đứng ở ngoài—nhìn vào trong, hay đứng ở trong—nhìn ra ngoài. Khi xử lý một đề tài hùng vĩ mà không một từ đơn lẻ nào có thể diễn trọn ý tưởng, thì thật khó cho cả người nói lẫn người nghe để tránh hiểu lầm. Với Định luật Hi sinh, có lẽ điều này lại càng đúng. |
Let us take it first in its lower aspect, which must not be overlooked, for it has many lessons for us. Let us take it as expressed in manifested Nature, working in the physical, astral, and mental worlds. It includes a certain relationship between all living things, including other living beings in the worlds around us. Let us stop on this lower aspect for a moment before rising to the higher. | Chúng ta hãy khảo sát nó trước tiên ở phương diện thấp, vốn không được phép bỏ qua, vì nó có nhiều bài học cho chúng ta. Hãy xét nó như được biểu hiện trong Tự nhiên hiện lộ, vận hành ở các thế giới hồng trần, cảm dục và trí tuệ. Nó bao gồm một mối tương quan nhất định giữa mọi sinh linh, kể cả những hữu thể sống ở các thế giới quanh ta. Hãy dừng lại ở phương diện thấp này trong chốc lát trước khi thăng lên phương diện cao hơn. |
Regarding sacrifice in the lower worlds, it may present itself as a process of mutual service or exchange, a continual turning of the wheel of life, in which each being takes and gives. He cannot avoid the taking; he ought not to refuse the giving. You will see sacrifice, in its lower aspect, as a continual turning of the wheel of life in which all things take conscious or unconscious part. The more highly developed they are, the more conscious their co-operation will be. | Xét về hi sinh trong các cõi thấp, nó có thể trình hiện như một tiến trình phụng sự hỗ tương hay trao đổi, một sự quay vòng liên tục của bánh xe sự sống, trong đó mỗi hữu thể nhận và cho. Y không thể tránh việc nhận; y cũng không nên khước từ việc cho. Bạn sẽ thấy hi sinh, ở phương diện thấp, là sự quay vòng liên tục của bánh xe sự sống, trong đó mọi sự đều tham dự, có ý thức hoặc vô thức. Càng phát triển cao, sự cộng tác của họ càng có ý thức hơn. |
This view of sacrifice has been put clearly, perhaps more clearly than anywhere else, in The Lord’s Song, one of the Indian Scriptures, where this wheel of life is dealt with. You find sacrifice and action connected in a way it is well to realise. The great Teacher says: | Quan điểm về hi sinh này đã từng được trình bày rõ ràng—có lẽ rõ ràng hơn bất kỳ nơi nào khác—trong Bài Ca của Chúa , một trong các Thánh điển Ấn Độ, nơi bánh xe sự sống này được luận giải. Bạn thấy hi sinh và hành động được nối kết với nhau theo một cách rất đáng để thấu hiểu. Bậc Đại Huấn Sư dạy rằng: |
The world is bound by all action, by action with sacrifice for object; with such object, free from attachment, O son of Kunti, perform thou action. | Thế gian bị ràng buộc bởi mọi hành động, bởi hành động lấy hi sinh làm đối tượng; với mục đích như thế, không dính chấp, hỡi con của Kunti, hãy thực hiện hành động. |
Then, going backwards into the past to make this cycle complete, the Teacher says: | Rồi, ngược dòng về quá khứ để làm tròn chu kỳ này, bậc Huấn Sư nói: |
Having in ancient times emanated mankind by sacrifice, the Lord of Emanation said: “By this shall ye propagate; be this to you the Kamaduk (the milk of desire); with this nourish ye the Gods, and may the Gods nourish you; thus nourishing one another, ye shall reap the supremest good. For, nourished by sacrifice, the Gods shall bestow on you the enjoyment you desire.” A thief verily is he, who enjoyeth what is given by Them, without returning the gift. . . . From food creatures become; from rain is the production of food; rain proceedeth from sacrifice; sacrifice arises out of action. Know thou from Brahma action groweth and Brahma from the Imperishable cometh. Therefore Brahman, the all-permeating, is ever present in sacrifice. He who on earth doth not follow the wheel thus revolving, sinful of life, and rejoicing in the senses, he, O son of Friths, liveth in vain.¹⁰ | Vào thuở xưa kia, sau khi xuất lộ nhân loại bằng hi sinh, Chúa Tể của Xuất lộ phán: “Bởi điều này các ngươi sẽ tăng trưởng; hãy để điều này là Kamaduk (dòng sữa của dục vọng) cho các ngươi; bằng điều này các ngươi hãy nuôi dưỡng chư Thiên, và nguyện chư Thiên nuôi dưỡng các ngươi; như thế nuôi dưỡng lẫn nhau, các ngươi sẽ gặt hái điều thiện tối thượng. Vì, được nuôi dưỡng bởi hi sinh, chư Thiên sẽ ban cho các ngươi các lạc thú mà các ngươi ước muốn.” Quả thật là kẻ trộm là kẻ hưởng thụ những gì Các Ngài ban tặng mà không hoàn đáp lại. . . . Từ thực phẩm mà chúng sinh được sinh; từ mưa mà thực phẩm được sản sinh; mưa tuôn từ hi sinh; hi sinh khởi từ hành động. Hãy biết rằng từ Brahma mà hành động sinh ra và Brahma khởi từ Đấng Bất Diệt. Bởi vậy, Brahman, Đấng thấm nhập khắp cùng, hằng hiện diện trong hi sinh. Kẻ nào ở trần gian không theo bánh xe đang quay như vậy, sống tội lỗi, và vui thích trong các giác quan, y, hỡi con của Friths, sống uổng phí.”¹⁰ |
You have there this wheel of life which lies at the root of sacrifice in all religions. The purer the religion, the purer will be the idea of sacrifice. Notice how thoroughly this alchemical idea is carried out, the changing always of one into the other. Food changes into beings, but for food to be, rain had been changed into food. For rain to fall, sacrifice had been offered to the Gods. Then the Gods nourish. You will find this turning of the wheel prominent in these ancient religions. | Bạn có ở đó bánh xe sự sống nằm ở cội rễ của hi sinh trong mọi tôn giáo. Tôn giáo càng thanh tịnh, ý niệm hi sinh càng thanh tịnh. Hãy lưu ý ý tưởng giả kim này được triển khai triệt để ra sao—sự đổi thay luôn luôn từ cái này thành cái khác. Lương thực biến thành sinh linh, nhưng để có lương thực, mưa đã được chuyển hoá thành thực phẩm. Để mưa rơi, hi sinh đã được dâng lên chư Thiên. Rồi chư Thiên nuôi dưỡng. Bạn sẽ thấy sự chuyển quay của bánh xe này nổi bật trong những tôn giáo cổ xưa. |
The Brahman, for instance, will cast his sacrifice into the fire, for fire, Agni, is the mouth of the Gods. The throwing of that sacrifice into the fire in ancient days, accompanied by Mantras made by men who knew what they were making, regulated many of these forces in Nature, which bring forth food for men. Although the action was a symbol, what it symbolised was real, and the force that went forth was real also. The symbol was meant to teach people about this wheel of life, to make them understand that action is essentially sacrifice. | Một vị Bà-la-môn, chẳng hạn, sẽ ném lễ vật của mình vào lửa, vì lửa, Agni, là miệng của chư Thiên. Việc phó dâng lễ vật ấy vào lửa thời xưa, kèm theo các mantram do những người biết mình đang xướng tạo, đã điều hoà nhiều mãnh lực của Tự Nhiên, vốn mang lại thực phẩm cho con người. Dẫu hành vi ấy mang tính biểu tượng, điều nó biểu trưng là có thật, và lực phát ra cũng là thật. Biểu tượng ấy nhằm dạy dân chúng về bánh xe sự sống này, khiến họ hiểu hành động về bản chất là hi sinh. |
That is, action should be done as duty, because it is right and with no other object, so that man may be in harmony with law. Sacrifice was the bond of union, the golden thread that linked all beings in this manifested universe. As the root of sacrifice was action, as action came from the manifesting God, it was said that Brahman permeated every sacrifice. All action could thus be done as duty in the world, not with desire for individual fruit or personal gain. That is the lower, debased, selfish view with which sacrifices were later done. | Tức là, hành động nên được làm như bổn phận, vì đó là điều đúng và không vì mục đích nào khác, để con người hoà điệu với định luật. Hi sinh là mối dây liên kết, sợi chỉ vàng nối kết mọi hữu thể trong vũ trụ biểu lộ này. Vì cội rễ của hi sinh là hành động, vì hành động đến từ Thượng đế đang hiện lộ, nên người ta nói rằng Brahman thấm nhập mọi hi sinh. Như vậy mọi hành động đều có thể được làm như bổn phận giữa đời, không với dục vọng nhằm quả báo cá nhân hay lợi lộc riêng tư. Đó là quan điểm thấp kém, bị bại hoại, ích kỷ mà về sau các hi sinh được làm theo. |
As part of turning the wheel, as part of duty for duty’s sake, there is the essence of the alchemy which, changing action into sacrifice, burns up the bonds of desire and liberates the wise. Thus burned in the fire of wisdom, action loses all its binding force upon the Soul. The Soul becomes a fellow-worker with the divine in Nature. Every action cast upon the altar of duty becomes a force that turns the wheel of life but never binds the Soul. | Như một phần của sự chuyển quay bánh xe, như một phần của việc làm bổn phận vì chính bổn phận, có cái tinh tuý của phép giả kim vốn, bằng cách chuyển hành động thành hi sinh, sẽ thiêu cháy những mối dây dục vọng và giải thoát bậc trí giả. Được thiêu trong lửa trí tuệ như thế, hành động đánh mất mọi lực ràng buộc đối với Linh hồn. Linh hồn trở thành cộng tác viên với đấng thiêng liêng trong Tự Nhiên. Mọi hành động đặt lên bàn thờ của bổn phận trở thành một mãnh lực chuyển bánh xe sự sống nhưng không bao giờ trói buộc Linh hồn. |
That, then—this constant exchange, this mutual service—is one form of the great Law of Sacrifice. The change produced is that where action is done as duty, it becomes part of the universal harmony and helps forward evolution. The work of our aspirant in the Outer Court is gradually to train himself to perform all action in this sacrificial way, realising he is thus performing it, asking for nothing, seeking nothing, demanding no reward, doing it because it ought to be done. He who does that is performing this work of spiritual alchemy. He is in conscious harmony with the divine will and so becomes a force for evolution. The whole race then benefits by the action which otherwise would only have brought a personal fruit, binding his Soul. | Vậy thì—sự trao đổi liên tục này, sự phụng sự hỗ tương này—là một hình thái của Định luật Hi sinh vĩ đại. Biến đổi được tạo ra là ở chỗ khi hành động được làm như bổn phận, nó trở thành một phần của hoà điệu vũ trụ và thúc đẩy tiến hoá. Công việc của người chí nguyện trong Tiền Viện Bên Ngoài là dần dần rèn luyện mình để thực hiện mọi hành động theo cách hi sinh này, nhận biết rằng y đang làm như thế, không đòi hỏi gì, không tìm cầu gì, không yêu sách phần thưởng nào, làm bởi vì nó phải được làm. Ai làm như thế là đang thực hiện công trình giả kim tinh thần này. Y hoà điệu một cách tự ý thức với ý chí thiêng liêng và do đó trở thành một mãnh lực cho tiến hoá. Toàn thể chủng loại rồi sẽ hưởng lợi bởi hành động vốn, nếu không, chỉ mang lại quả báo cá nhân, trói buộc Linh hồn của y. |
Let us come on now to the higher, sublimer view. In order to gain this without misconception, I will try to do it more carefully. I want to-night to delay a moment on the essence of sacrifice and try to realise what it really means. It seems to me that sacrifice, regarded in its innermost essence—from the standpoint we shall all regard it as we rise towards the diviner life—is a giving or a pouring forth. It is motived by the desire to give. Its essence is in the longing to pour forth something precious to the possessor, which he desires to pour out for the helping and joy of others. | Giờ chúng ta hãy bước lên quan điểm cao hơn, siêu việt hơn. Để lĩnh hội điều này mà không hiểu lầm, tối nay tôi sẽ cố dừng lại đôi chút ở tinh tuý của hi sinh và cố gắng thấu hiểu nó thực sự có nghĩa gì. Với tôi, hi sinh, xét ở bản thể thâm sâu nhất của nó—từ lập trường mà chúng ta tất thảy sẽ xét nó khi chúng ta vươn lên đời sống thiêng liêng hơn—là một sự ban hiến hay tuôn đổ. Nó được thúc đẩy bởi ước muốn cho đi. Tinh tuý của nó là trong khát vọng tuôn đổ ra điều gì quý báu đối với kẻ sở hữu, mà y ước muốn tuôn ra để trợ giúp và đem vui mừng đến cho kẻ khác. |
The way to regard sacrifice, from the inner side, is that it is an act of gift, a pouring forth of the nature to confer happiness on others. Therefore, it is in its essence joyous, not grievous, the gift itself being the heart of the action. Looking at the sacrifice as sacrifice, it is a gift. It is offered by a nature that desires to give, that longs to pour itself forth, to share its bliss with others. | Cách để xét hi sinh, từ nội diện, là xem nó như một hành vi tặng hiến, một sự tuôn đổ bản tính nhằm ban phúc lạc cho kẻ khác. Do đó, tự bản chất, nó là hân hoan, không phải sầu não, chính việc tặng hiến là trái tim của hành vi. Nhìn hi sinh như hi sinh, ấy là một lễ vật. Nó được dâng bởi một bản tính khao khát cho đi, khát vọng tuôn đổ bản thân, sẻ chia phúc lạc của mình với người khác. |
But, you may say, why in its joy? Because I asked you to come back to the core of Manifestation. The supreme act of sacrifice was that Self-limitation of the One Existence by which It put forth the manifested Logos as Energy. I find that this view has been held to imply what seems a contradiction: “the agony of the Logos”. But what is Logos? Brahman in Manifestation. The nature of Brahman, we have been told, is Bliss. No other thought is possible if you try to think of that which is beyond manifestation. That Brahman is bliss has been the keynote of the most ancient Aryan religion. | Nhưng, bạn có thể nói, vì sao lại “trong niềm hoan lạc” của nó? Bởi vì tôi đã yêu cầu bạn trở lại hạch tâm của Sự Biểu Hiện. Hành vi hy sinh tối thượng chính là sự Tự-giới hạn của Sự sống Duy Nhất, nhờ đó Ngài phóng xuất Thượng đế biểu hiện như Năng lượng. Tôi nhận thấy quan điểm này thường bị hiểu là hàm ý một điều có vẻ mâu thuẫn: “nỗi thống khổ của Thượng đế”. Nhưng Thượng đế là gì? Là Brahman trong Sự Biểu Hiện. Bản tính của Brahman, như chúng ta đã được dạy, là Phúc lạc. Không thể có một ý nghĩ nào khác nếu bạn cố gắng suy tư về cái vốn vượt ngoài biểu hiện. Rằng Brahman là phúc lạc đã là chủ âm của tôn giáo Arya cổ xưa nhất. |
As man rises towards Brahman, the very last sheath of the Soul is called the Sheath of Bliss. If you take the Raja Yoga of India and study the vehicles of the Soul, you will find that as it retires from the lower worlds, it casts aside the sheath of the body, then the subtle body, then desire, then mind. As it goes upwards, approaching the Brahman which is itself, you will find that at the very end there is a sheath, the highest, so subtle it scarcely differentiates it from the One. And that sheath is called the Sheath of Bliss. They say: “Brahman is Bliss”. | Khi con người thăng thượng hướng về Brahman, thì ngay cái bao thể cuối cùng của Linh hồn được gọi là Bao thể Phúc lạc. Nếu bạn lấy Raja Yoga của Ấn Độ và khảo sát các vận cụ của Linh hồn, bạn sẽ thấy rằng khi Linh hồn rút khỏi các cõi thấp, nó lần lượt cởi bỏ bao thể của thân xác, rồi thể vi tế, rồi dục vọng, rồi thể trí. Khi nó thăng lên, tiến gần Brahman, vốn là chính nó, bạn sẽ thấy rằng ở tận cùng có một bao thể, cao nhất, vi tế đến nỗi hầu như không còn biến phân nó khỏi Cái Duy Nhất. Và bao thể ấy được gọi là Bao thể Phúc lạc. Người xưa nói: “Brahman là Phúc lạc”. |
You realise that there is not possible an act of sacrifice in that lofty region which can be aught but an act of joy, of giving forth bliss. The very essence of the thought is that from that Supreme Nature which is bliss, the universe came forth. The very object of the Self-limitation was to pour forth the bliss which was Its own essential nature. When the cycle of existence should be completed, there should be many radiant and joyous individuals to share that perfect bliss. There is misery only in the supposed distance from It, because of the ignorance in which the Soul is wrapped. | Bạn nhận ra rằng không thể có một hành vi hy sinh nào ở cõi cao vời ấy mà lại không là một hành vi hoan lạc, một sự ban phát phúc lạc. Cốt tủy của tư tưởng này là: từ Bản Tính Tối Thượng vốn là phúc lạc, vũ trụ đã xuất lộ. Mục đích của Sự tự-giới hạn chính là để tuôn đổ phúc lạc, vốn là bản tính cốt lõi của Ngài. Khi chu kỳ tồn sinh hoàn tất, sẽ có nhiều cá thể quang huy và hoan hỷ để chia sẻ phúc lạc hoàn hảo ấy. Chỉ có khổ lụy trong khoảng cách tưởng định khỏi Ngài, do vô minh đang bao phủ Linh hồn. |
Take then that as the essential thought: the Law of Sacrifice is based on the Divine Nature. The supreme sacrifice by which the universe was emanated was this act of giving by the Nature which is bliss. Therefore, the object of the whole must be this sharing of bliss. The root of the sacrifice is this joy in pouring forth to bring many into union with Itself, of which the end is the Peace which passeth all expression. | Hãy xem đó là tư tưởng cốt yếu: Định luật Hy sinh đặt nền trên Bản Tính Thiêng liêng. Sự hy sinh tối thượng nhờ đó vũ trụ được xuất lộ chính là hành vi ban tặng của Bản Tính vốn là phúc lạc. Bởi vậy, cứu cánh của toàn thể phải là sự chia sẻ phúc lạc này. Cội nguồn của hy sinh là niềm hoan lạc trong việc tuôn đổ để đưa muôn vàn sự sống vào hợp nhất với Chính Ngài, mà chung cuộc là sự Bình an vượt mọi lời diễn tả. |
Realising that, we shall be able to trace our Law of Sacrifice and understand its dual aspect. The aspect which in giving is joy; but, inasmuch as the lower nature grasps rather than gives, it shows itself from the standpoint of the lower nature as a renouncing, which is pain. If we study this, we can escape from contradiction. | Thấu hiểu như vậy, chúng ta sẽ có thể lần theo Định luật Hy sinh và hiểu được nhị nguyên tướng của nó. Phương diện mà trong đó cho đi là hoan lạc; nhưng, bởi bản chất thấp ưa nắm giữ hơn là ban tặng, cho nên từ lập trường của bản chất thấp, nó bộc lộ như một sự từ bỏ, nghĩa là đau đớn. Nếu chúng ta khảo sát điều này, chúng ta có thể thoát khỏi mâu thuẫn. |
Let us realise that giving is the highest joy because it is of the essence of the Divine Nature. Let us next realise that as man becomes himself, that is, divine in his own self-consciousness, he will become more joyful in himself and more joy-giving to others. So that bliss must increase as the highest nature develops, and pain can arise only out of the friction in the lower, out of the struggle of the lower—which is the Self encumbered with ignorance. The use of pain is to get rid of ignorance. The whole process of evolution is this getting rid of ignorance. Although that may be experienced by us as pain and conflict, yet in proportion as the true man within us develops, he will realise that the essence of all his efforts is to bring to a sorrowful world this manifestation of joy and peace. He will gradually permeate the lower nature with his own conviction as he purifies it from ignorance. | Hãy nhận ra rằng ban tặng là niềm hoan lạc tối thượng vì nó thuộc về cốt yếu của Bản Tính Thiêng liêng. Hãy nhận ra tiếp rằng khi con người trở nên là chính mình, tức là trở nên thiêng liêng trong tự-tự thức của mình, y sẽ trở nên hoan lạc hơn trong chính y và trao ban nhiều hoan lạc hơn cho người khác. Như vậy, phúc lạc ắt tăng trưởng khi bản tính cao nhất phát triển, và đau đớn chỉ có thể khởi sinh từ ma sát trong phần thấp, từ cuộc tranh đấu của phần thấp—vốn là Chân Ngã bị vướng bận bởi vô minh. Công dụng của đau khổ là để trừ khử vô minh. Toàn bộ tiến trình tiến hoá chính là sự trừ khử vô minh này. Tuy tiến trình ấy có thể được chúng ta thể nghiệm như đau đớn và xung đột, nhưng tỷ lệ thuận với mức độ con người chân thật trong chúng ta phát triển, y sẽ nhận ra rằng cốt lõi mọi nỗ lực của y là đem đến cho một thế gian sầu khổ sự biểu hiện của hoan lạc và bình an. Y sẽ dần thấm nhuần bản chất thấp bằng niềm xác tín của riêng y khi y đang thanh lọc nó khỏi vô minh. |
How then, it may be asked, has this idea of pain been so continually taken in connection with sacrifice? Why have they been identified so much that the very word sacrifice conveys the idea of unmingled agony? It seems the root of misconception lies in the lower nature. All its first activities are directed towards grasping, taking, holding for its own isolated self. Coming out into this world to gather experience, where the higher man is not yet developed, this lower nature plunges about in the world of sensation, grasping at everything attractive, ignorant of the nature and result of things. | Vậy thì, người ta có thể hỏi, vì sao ý niệm về đau khổ lại không ngừng được gắn liền với hy sinh? Vì sao chúng đã bị đồng nhất đến mức chính từ “hy sinh” gợi lên ý tưởng về nỗi thống khổ thuần túy? Có vẻ như gốc rễ của ngộ nhận nằm ở bản chất thấp. Mọi hoạt động ban đầu của nó đều hướng đến việc chụp giật, chiếm hữu, nắm giữ cho cái tự ngã cô lập của mình. Khi bước vào trần đời để thu gom kinh nghiệm, trong khi con người cao cả chưa phát triển, bản chất thấp này lao vào thế giới cảm giác, chụp giật mọi thứ hấp dẫn, chẳng hiểu gì về tự tính và hậu quả của sự vật. |
These early and long-continued experiences will be a constant grasping after apparent delights and finding them less satisfactory than imagined. You may remember that once I worked out for you the meaning and use of pain in teaching man about law and the transitory nature of the desires of the senses. In this way, pain leads to knowledge, as does pleasure. Experiencing these two sides of manifested nature, the Soul gathers knowledge of the underlying reality. | Những kinh nghiệm sớm sủa và kéo dài ấy sẽ là một sự chụp giật không ngừng theo đuổi các thú vui bề ngoài, rồi nhận ra chúng kém thỏa mãn hơn tưởng tượng. Bạn có thể nhớ rằng đã có lần tôi phân giải cho bạn ý nghĩa và công dụng của đau khổ trong việc dạy con người về định luật và tính chất vô thường của các ham muốn cảm quan. Theo cách đó, đau khổ dẫn đến tri thức, cũng như khoái lạc vậy. Khi trải nghiệm hai mặt của tự nhiên biểu hiện này, Linh hồn gom góp tri thức về thực tại nằm bên dưới. |
Gathering this experience, which may be painful, it transmutes it into knowledge, changes this knowledge into wisdom, which it takes as its guide. As the knowledge accumulates, this growing self begins to realise what it is. As it transmutes it into wisdom, the wisdom is ever a source of pure joy. This growing wisdom means an increasing vision, serenity, and strength. So that to it, what to the lower nature is painful is not unwelcome. Where some gratification brings disappointment, the true man changes that experience into wisdom. From this standpoint, even pain has its joyous side, for he sees not the transitory pain but the gain of knowledge to the higher. | Gom góp kinh nghiệm, dẫu có thể đau đớn, Linh hồn chuyển hoá nó thành tri thức, rồi biến tri thức này thành minh triết, cái mà Linh hồn lấy làm chỉ đạo. Khi tri thức tích lũy, cái “tự ngã” đang lớn dần bắt đầu nhận ra nó là gì. Khi nó chuyển hoá thành minh triết, minh triết ấy luôn là nguồn của hoan lạc thuần khiết. Minh triết đang tăng trưởng đồng nghĩa với tầm nhìn tăng trưởng, sự định tĩnh, và sức mạnh. Vậy nên đối với nó, điều là đau đớn đối với bản chất thấp lại không đáng chán ghét. Nơi nào sự thoả mãn nào đó đem đến thất vọng, con người chân thật chuyển đổi kinh nghiệm ấy thành minh triết. Từ lập trường này, ngay cả đau khổ cũng có mặt hoan lạc của nó, bởi y không nhìn cái đau khổ thoáng qua mà nhìn lợi lạc của tri thức đối với phần cao. |
But supposing we take the human being, blinded with ignorance, learning these stern and painful lessons. Suppose we see him seeking animal gratification, careless of the loss inflicted on others. Then certainly, when he finds it fall to pieces in his grasp, his first feeling will be one of acute pain, intense disappointment, weariness, and disgust. From his standpoint, the experience is truly painful, although from the higher standpoint, it was well worth gathering for the wisdom it brings. | Nhưng giả như chúng ta xét một con người, bị vô minh che mờ, đang học những bài học nghiêm khắc và đau đớn này. Giả như chúng ta thấy y tìm kiếm thoả mãn thú tính, bất chấp những mất mát gây cho người khác. Thì chắc chắn, khi y thấy mọi thứ tan vỡ trong tay, cảm thức đầu tiên của y sẽ là đau đớn nhói buốt, thất vọng tột độ, mệt mỏi và ghê tởm. Từ lập trường của y, kinh nghiệm ấy quả thật đau đớn, dẫu từ lập trường cao hơn, nó rất đáng để thu nhận vì minh triết nó đem lại. |
But it is far more than that. The lower and the higher find themselves in conflict. The higher wills a certain achievement; through the lower it has to work. The lower understands not the aim of the higher. Without the co-operation of the lower, the object cannot be accomplished. There is this struggle with the lower nature, sometimes to force it forwards, sometimes to hold it back. All of this, to the lower nature, results in a feeling of restraint, of enforced giving up. | Nhưng còn hơn thế nữa. Phần thấp và phần cao thấy mình ở trong xung đột. Phần cao chủ ý đạt đến một thành tựu nào đó; song phải hoạt động thông qua phần thấp. Phần thấp không hiểu mục tiêu của phần cao. Không có sự hợp tác của phần thấp, mục đích không thể hoàn thành. Do đó có cuộc vật lộn với bản chất thấp, khi thì thúc ép nó tiến lên, khi thì kìm giữ nó lại. Tất cả điều này, đối với bản chất thấp, dẫn đến cảm giác bị kiềm toả, bị cưỡng bức từ bỏ. |
But slowly, as the higher works upon it, an understanding comes that it is well this thing should be done. Although there may be pain, the gain is well worth the suffering. This overcoming of difficulty by effort, while painful, results in so much gain of strength that the passing pain is lost in the joy of achieving. As the Soul develops, there will be this double working in the intellect, in which he will deliberately choose a difficult thing because he realises it is supremely desirable. Yet he cannot gain it without sacrificing some lower desires, and he sacrifices them in the fire of knowledge. | Nhưng chậm rãi, khi phần cao tác động lên nó, một sự hiểu biết nảy sinh rằng làm điều ấy là tốt lành. Dẫu có thể đau đớn, thì sự đạt được lại rất đáng cho nỗi chịu đựng. Sự vượt qua khó khăn bằng nỗ lực, tuy đau đớn, nhưng đem lại lợi lạc đến mức nỗi đau qua đi bị tan biến trong niềm hoan lạc của thành tựu. Khi Linh hồn phát triển, sẽ có công cuộc kép này trong trí năng, trong đó y sẽ cố ý chọn điều khó vì y nhận ra nó là đáng mong mỏi tối thượng. Tuy nhiên, y không thể đạt nó nếu không hy sinh vài dục vọng thấp, và y hy sinh chúng trong ngọn lửa của tri thức. |
He then finds he burns up limitations that held him down, weaknesses that held him back. The touch of the fire, which seemed painful, is really the burning of the chains that held him. Then he joyfully takes the freedom. As the experience is repeated, he realises more and more the freedom and less and less the suffering. So from that inner standpoint once more, this suffering is changed into joy. Here again is the divine alchemy. He sees that in this pouring forth of the Higher into the lower, the Higher is bringing the lower to share its joy. | Rồi y nhận ra y đang thiêu rụi những giới hạn vốn ghì chặt y, những yếu đuối vốn níu giữ y. Cái chạm của lửa, tưởng như đau đớn, thực ra là sự đốt cháy các xiềng xích giam hãm y. Rồi y hân hoan đón lấy tự do. Khi kinh nghiệm được lặp lại, y càng ngày càng cảm nhận tự do nhiều hơn và đau đớn ít hơn. Thế là, từ lập trường bên trong một lần nữa, nỗi khổ này hoá thành hoan lạc. Ở đây lại là thuật luyện đan thiêng liêng. Y thấy rằng trong sự tuôn đổ của Phần Cao vào phần thấp, Phần Cao đang đưa phần thấp vào chia sẻ hoan lạc của chính Ngài. |
When the Soul is approaching the gateway of the Temple, when this process is understood, the Soul will see that all this is getting rid of limitations. The whole of the suffering is in these limitations, which prevent it from realising its oneness with its brothers and the Divine. As this is understood, and the pouring forth of the Divine Nature expresses itself, it will be felt that by the bursting of the limitation, this diviner joy is found. The pain, after all, is a question of separation, rooted in ignorance. With the destruction of ignorance, there is also the ceasing of pain. | Khi Linh hồn đang đến gần cổng Đền, khi tiến trình này được thấu triệt, Linh hồn sẽ thấy rằng tất cả điều này là sự trừ khử các giới hạn. Toàn bộ nỗi khổ nằm trong những giới hạn này, vốn cản trở nó thực chứng sự đồng nhất của mình với các huynh đệ và với Đấng Thiêng liêng. Khi điều này được hiểu, và sự tuôn đổ của Bản Tính Thiêng liêng tự biểu hiện, sẽ cảm được rằng nhờ bùng vỡ giới hạn, niềm hoan lạc thiêng liêng hơn được tìm thấy. Sau rốt, đau khổ là vấn đề của chia cách, bắt nguồn trong vô minh. Với sự hủy diệt vô minh, đau khổ cũng chấm dứt. |
Not only that, but as this limitation is felt to be illusory, he will begin deliberately to transmute the faculties of the lower nature, and by this alchemical process, refine them. | Không chỉ thế, nhưng khi giới hạn này được cảm thấy là hão huyền, y sẽ bắt đầu cố ý chuyển hoá các năng năng của bản chất thấp, và bằng tiến trình luyện đan này, tinh luyện chúng. |
Let us take one or two cases and see how that might be. Let us first take what is a great source of pain in the lower world—the seeking of pleasure for the personal self, without regard to the wishes of others. The desire to enjoy in separation. That pleasure-seeking instinct, how shall the Soul deal with that? The pleasure-seeking which always ends in suffering may be changed into a joy-spreading faculty, in which all shall share what the one has gained. | Hãy lấy một hai trường hợp và xem điều đó có thể thế nào. Trước hết, hãy xét một nguồn đau đớn lớn ở cõi thấp—sự tìm kiếm khoái lạc cho tự ngã cá nhân, không đoái hoài đến ước muốn của người khác. Dục vọng hưởng thụ trong phân ly. Bản năng truy tầm khoái lạc ấy, Linh hồn sẽ xử lý ra sao? Việc truy tầm khoái lạc vốn luôn kết thúc bằng đau khổ có thể được chuyển thành một năng lực lan tỏa hoan lạc, trong đó mọi người cùng chia sẻ điều người ấy có được. |
The Soul finds it can carry on this transmutation by gradually eliminating the element of separateness from this pleasure-seeking. By constantly trying to get rid of the desire to exclude, by knocking down the little wall of ignorance. So that when a pleasure is gained, the self pours itself out amongst all its brethren. But still, in truth, it finds joy in seeking obedience. For in a world where all is law, harmony with it must bring peace and happiness. | Linh hồn nhận ra y có thể tiếp tục cuộc chuyển hoá này bằng cách dần loại bỏ yếu tố phân ly khỏi sự truy tầm khoái lạc. Bằng cách luôn cố gắng trừ khử ước muốn loại trừ, bằng cách đập đổ bức tường vô minh nhỏ bé. Đến nỗi khi một niềm vui được đạt, cái “tự ngã” tuôn đổ chính nó giữa muôn huynh đệ. Nhưng rồi, thực sự, y lại tìm thấy hoan lạc trong việc tìm kiếm sự tuân hợp. Bởi trong một thế giới nơi mọi sự đều là định luật, thì hòa điệu với nó ắt đem bình an và hạnh phúc. |
But this Soul which is growing, when it finds it has gained some spiritual power, knowledge, or truth, will train itself to feel that the joy of possession lies in the act of giving, not gaining. It needs to break down all the walls it once made and let the joy spread out over the whole world. Thus the pleasure-seeking instinct may be transmuted into the joy-giving power. That which once sought pleasure in isolation shall realise that joy is only found in sharing, and nothing is worth having save that which is possessed in giving. The joy of giving is the essential sacrifice. | Nhưng Linh hồn đang tăng trưởng này, khi nhận ra y đã có được một ít quyền năng tinh thần, tri thức hay chân lý, sẽ tự huấn luyện để cảm thấy rằng niềm hoan lạc của sở hữu nằm trong hành động trao tặng, không phải sở đắc. Y cần phá đổ mọi bức tường y từng dựng và để cho hoan lạc lan tỏa khắp thế gian. Thế là bản năng truy tầm khoái lạc có thể được chuyển hoá thành quyền năng trao ban hoan lạc. Cái từng tìm khoái lạc trong cô lập sẽ nhận ra rằng hoan lạc chỉ được tìm thấy trong chia sẻ, và chẳng có gì đáng giữ ngoại trừ cái được sở hữu trong hành động cho đi. Niềm hoan lạc của trao ban là hy sinh cốt yếu. |
Take another case for this same spiritual alchemy—the love which is selfish. Now here we have something higher than a pleasure-seeking instinct, for the very word love implies some giving to another. But it may still be a selfish love, seeking to get instead of to give. A love which, because it seeks to gain, is sure to show the unlovely attributes of exclusiveness, jealousy, and the desire to have the beloved object for itself. | Hãy lấy trường hợp khác cho cùng thuật luyện đan tinh thần này—tình thương vị kỷ. Ở đây chúng ta có điều gì đó cao hơn bản năng truy tầm khoái lạc, bởi chính từ “tình thương” đã hàm ý một phần ban tặng cho người khác. Nhưng nó vẫn có thể là tình thương vị kỷ, tìm nhận thay vì cho. Một tình thương bởi vì mong thủ đắc nên chắc chắn bộc lộ những thuộc tính không đẹp: tính loại trừ, ghen tuông, và ước muốn chiếm hữu người yêu làm của riêng. |
But a love that is selfish, how shall it be changed? Not by diminishing the love; that is the blunder some men make. Not by chilling it down. But by encouraging the love and deliberately trying to eliminate the elements that degrade it. By watching the lower self, and when it builds a little wall of exclusion, knocking that wall down. When it desires to keep what is so precious, then at once trying to share it. When it tries to draw the loved one from others, rather to give him out that he may be shared. The Soul must realise that what is beautiful and joy-giving should be given to all. | Nhưng một tình thương vị kỷ, phải đổi thay thế nào? Không phải bằng cách làm cho tình thương giảm bớt; đó là lầm lẫn mà vài người mắc. Cũng không phải bằng cách làm nguội lạnh nó. Mà bằng cách khích lệ tình thương và cố ý loại trừ các yếu tố làm hạ phẩm nó. Bằng cách theo dõi phàm ngã, và khi nó dựng lên một bức tường loại trừ nhỏ bé, lập tức đập đổ bức tường ấy. Khi nó muốn giữ lấy điều quá quý, thì tức khắc cố gắng chia sẻ nó. Khi nó tìm kéo người mình thương khỏi người khác, thì thà đưa người ấy ra để có thể được cùng chia sẻ. Linh hồn phải nhận ra rằng điều gì đẹp đẽ và ban tặng hoan lạc thì nên trao cho mọi người. |
So that all these grosser elements shall gradually disappear. When the feeling of selfishness arises, it shall be deliberately put aside. When jealousy expresses itself, it shall at once be put an end to. So that where the feeling was, “Let us keep alone and enjoy,” it shall be changed into, “Let us go forth to the world together to give and share the joy that together we have found.” | Như vậy, tất cả các yếu tố thô trược ấy sẽ dần biến mất. Khi cảm thức vị kỷ trỗi dậy, nó sẽ được cố ý gạt qua. Khi ghen tuông biểu hiện, nó phải tức khắc chấm dứt. Để rồi nơi đã từng có cảm thức: “Chúng ta hãy giữ riêng và tận hưởng,” nay sẽ đổi thành: “Chúng ta hãy cùng đi ra thế gian để trao tặng và chia sẻ niềm hoan lạc mà chúng ta đã cùng tìm thấy.” |
By this process of alchemy, the love will become divine compassion and will spread itself over all the world of men. That which found its joy in receiving from the beloved will find its delight in pouring forth to all that which it has found. This love, which once was selfish, which was perhaps between one man and one woman, then widened to the home, the community, the nation, and the race, shall finally widen to include everything that lives. It shall have lost nothing in its depth, warmth, intensity, or fervour, but it shall have spread over the Universe instead of being concentrated on a single heart. It shall have become that ocean of compassion which includes everything that feels and lives. Such would be, with regard to love, this alchemy of the Soul. | Bằng tiến trình luyện đan này, tình thương sẽ trở thành đại bi và lan tỏa khắp thế giới loài người. Cái từng tìm hoan lạc trong việc nhận từ người yêu sẽ tìm thấy thú vị trong việc tuôn đổ cho hết thảy những gì nó đã tìm ra. Tình thương này, vốn từng vị kỷ, vốn có lẽ chỉ giữa một người nam và một người nữ, rồi mở rộng ra gia đình, cộng đồng, quốc gia, và nhân loại, sau cùng sẽ mở rộng để bao gồm mọi sự đang sống. Nó sẽ không mất đi gì về chiều sâu, ấm áp, mãnh liệt hay nồng nhiệt, nhưng nó sẽ trải ra khắp Vũ trụ thay vì tập trung vào một trái tim đơn lẻ. Nó sẽ trở thành đại dương từ bi bao dung mọi cảm thức và sự sống. Ấy là sự luyện đan của Linh hồn đối với tình thương. |
Thus you might take quality after quality of the lower nature and trace it out. You will see that the whole process is essentially getting rid of separateness, a burning up of that by deliberate will and understanding. The whole process is a joy to the true, real man, however much the lower man may sometimes fail to understand. When that is known, what was pain loses its aspect of pain and becomes a joy. Even in the sensation of what would have been pain, the joy overbears and changes the suffering because the Soul sees, and the lower nature begins to understand the end of the work. | Như thế, bạn có thể lần lượt lấy từng phẩm chất của bản chất thấp và theo dõi. Bạn sẽ thấy toàn bộ tiến trình cốt ở việc loại trừ tính phân ly, thiêu hủy nó bằng ý chí cố ý và sự thấu hiểu. Toàn bộ tiến trình là niềm hoan lạc đối với con người chân thật, dẫu phàm nhân nhiều khi không hiểu nổi. Khi điều đó được biết, cái từng là đau khổ mất đi diện mạo đau khổ và trở thành hoan lạc. Ngay trong cảm giác của cái vốn sẽ là đau khổ, niềm hoan lạc trổi vượt và chuyển hóa nỗi chịu đựng, bởi Linh hồn đã thấy, và bản chất thấp bắt đầu hiểu cứu cánh của công việc. |
Thus tracing this subject, we shall realise another way in which this transmutation may occur. As this fire of wisdom and love, which is the Divine Nature in man, comes forth into the lower nature, burning up these limitations and transmuting it into its own likeness, there is also a liberation of spiritual energy and power. This Self, manifested in the lower man, can put forth energies that seem to be the outcome of this process. The result of the burning is the liberation of the spiritual life. | Lần theo đề tài này, chúng ta sẽ nhận ra một cách khác mà cuộc chuyển hoá có thể diễn ra. Khi ngọn lửa của minh triết và tình thương, vốn là Bản Tính Thiêng liêng trong con người, tuôn đổ vào bản chất thấp, thiêu hủy các giới hạn này và chuyển hoá nó theo hình như chính mình, thì đồng thời cũng có sự giải phóng năng lực và quyền năng tinh thần. Cái Ngã này, biểu hiện trong phàm nhân, có thể phóng xuất những năng lực xem như là kết quả của tiến trình ấy. Hệ quả của ngọn lửa thiêu là sự giải phóng đời sống tinh thần. |
We come dimly to understand, as the Soul rises to higher planes and realises its identity with all, that it is able, by virtue of its oneness with other Souls, to share with and help them. It is able to surrender, with joy, that which it might have had for itself, but which, having identified itself with all, it must give to the world. And so, what might be called the prize of spiritual achievements—the possibilities of spiritual rest, bliss, and growth—may be surrendered by this Soul as a joyful act. It is a necessity of its own nature, so that all it surrenders may become common property and help forward evolution. | Chúng ta mơ hồ hiểu được, khi Linh hồn thăng lên các cõi cao và thực nghiệm đồng nhất với tất cả, rằng bởi đức đồng nhất của mình với các Linh hồn khác, y có khả năng chia sẻ và trợ giúp họ. Y có thể, trong hoan lạc, xả bỏ điều lẽ ra y có thể giữ cho riêng mình, nhưng vì đã đồng nhất với tất cả, y phải trao tặng thế gian. Và do vậy, điều có thể gọi là phần thưởng của thành tựu tinh thần—các khả tính của nghỉ ngơi, phúc lạc và tăng trưởng tinh thần—có thể được Linh hồn này tự nguyện xả bỏ như một hành vi hoan hỷ. Đó là tất yếu của chính bản tính y, để mọi điều y xả bỏ trở thành tài sản chung và thúc đẩy tiến hoá. |
So we hear of disciples who give up Devachan, and Adepts who give up Nirvana. We realise dimly that they are reaching a point of self-identification with their brothers which makes it a divine necessity to share what they have gained. The true reward for them lies not in the bliss of Devachan or the beatitude of Nirvana, but in throwing all that is theirs into the common stock, helping forward the common evolution. | Vì thế, chúng ta nghe nói về các đệ tử bỏ Devachan, và các chân sư bỏ Niết Bàn. Chúng ta mơ hồ nhận ra rằng Các Ngài đang đạt đến điểm tự-đồng nhất với các huynh đệ đến mức trở thành một tất yếu thiêng liêng phải chia sẻ điều Các Ngài đã đạt. Phần thưởng chân thật đối với Các Ngài không nằm trong phúc lạc của Devachan hay diệu lạc của Niết Bàn, mà ở chỗ ném toàn bộ những gì thuộc về mình vào kho tàng chung, thúc đẩy tiến hoá chung. |
Then we catch a glimpse of another truth, of how this help may sometimes be given. We see that when a man is weighed down under suffering he has made for himself, and when the great law brings upon a human Soul pain and suffering, it is possible for one who knows no separation—who realises he and this suffering Soul are one on the plane of Reality—not to take the inevitable result upon himself, but to stand beside him in the reaping and breathe strength into his Soul. While the burden is borne by the one who made it, there is still thrown into that Soul a new strength, life, and understanding, which make it possible for him to fulfil his task. It changes not the task but the attitude of the Soul. It changes not the burden but the strength of the Soul which lifts it. | Rồi chúng ta thoáng bắt gặp một chân lý khác, về cách sự trợ giúp đôi khi có thể được ban. Chúng ta thấy rằng khi một người bị đè nặng dưới nỗi chịu đựng do chính mình gây ra, và khi đại định luật mang đến cho một Linh hồn người nỗi đau và chịu đựng, thì điều khả hữu là—đối với một vị biết không có phân ly, người thực nghiệm rằng y và Linh hồn đang khổ ấy là một trên bình diện Thực tại—không phải nhận lấy hậu quả tất yếu vào mình, mà đứng kề bên người ấy trong mùa gặt và hà sinh lực vào Linh hồn của y. Trong khi gánh nặng vẫn do kẻ đã tạo nó gánh lấy, thì vẫn có thể truyền vào Linh hồn ấy một sức mạnh, một sinh lực và một sự thấu hiểu mới, làm cho y có thể hoàn tất phần việc của mình. Điều đó không đổi thay công việc, mà đổi thay thái độ của Linh hồn. Nó không thay đổi gánh nặng, mà đổi thay sức mạnh của Linh hồn đang nâng gánh nặng ấy. |
One of the greatest joys that can come to the growing Soul, which asks nothing for itself save the power of service, comes when it sees a weaker Soul being crushed and finds it can breathe into that Soul some breath of divine courage and relief. The help given is the strengthening of the brother-Soul to accomplish, not setting it free from a burden it has made. It is a breathing into it of that power which grows out of understanding the nature of things, which changes the pain of the penalty into the quiet endurance of a well-deserved pain that teaches its own lesson. A Soul thus aided becomes joyous even while bearing the burden of its Karma. The gift given makes it stronger now and in the future, an outpouring of the Divine Life from the plane where all Souls are one. That plane is kept full of this spiritual energy by the constant giving of those who have found the divine joy of pouring themselves out. | Một trong những niềm hoan lạc lớn nhất có thể đến với Linh hồn đang trưởng thành, Linh hồn không cầu xin gì cho riêng mình ngoài năng lực phụng sự, là khi y thấy một Linh hồn yếu hơn đang bị nghiền nát và nhận ra y có thể hà sinh vào Linh hồn ấy một hơi thở can đảm và an ủi thiêng liêng. Sự trợ giúp được ban là làm mạnh mẽ Linh hồn-huynh đệ để hoàn thành, không phải giải phóng nó khỏi gánh nặng chính nó đã tạo. Đó là truyền vào nó quyền năng sinh trưởng từ sự thấu hiểu bản tính của sự vật, biến nỗi đau của hình phạt thành sự nhẫn chịu tĩnh lặng của một nỗi đau xứng đáng, vốn tự dạy bài học của chính nó. Một Linh hồn được trợ giúp như thế trở nên hoan hỷ ngay khi đang gánh nghiệp quả của mình. Món quà được trao khiến nó mạnh mẽ trong hiện tại và tương lai, một lần tuôn đổ của Đời sống Thiêng liêng đến từ bình diện nơi mọi Linh hồn là một. Bình diện ấy được giữ đầy tràn năng lượng tinh thần này bởi sự ban tặng không ngừng của những ai đã tìm ra niềm hoan lạc thiêng liêng trong việc tuôn đổ chính mình. |
But if this be true, what means the difficult thought with which we are all familiar, which our aspirant will have heard, which he feels himself facing? Why has the Path been called “the Path of Woe,” if, as it is trodden, it becomes ever more radiant with this diviner joy? | Nhưng nếu điều ấy là thật, thì ý niệm khó khăn mà tất cả chúng ta đều quen thuộc, mà người chí nguyện đã nghe, mà y cảm thấy mình đang đối diện, có nghĩa gì? Vì sao Thánh Đạo đã được gọi là “Con Đường Khổ Đau”, nếu, khi bước đi trên đó, nó ngày càng rực rỡ bởi niềm hoan lạc thiêng liêng hơn này? |
Yet it is not hard to understand why that phrase was used, if you realise to whom the Path at first must seem a Path of Woe. In this deliberate will to climb so rapidly, one inevitable result is the concentration into a few lives of results that would have been spread over many. The coming down on the Soul of the Karma of the past, which now has to be faced in so brief a time, and therefore with a tremendous added force. When that first falls upon the Soul, it may come with a bewildering, blinding energy, making it realise suffering as never before. | Tuy vậy, không khó để hiểu vì sao cụm từ ấy được dùng, nếu bạn nhận ra ai là người ban đầu phải thấy Thánh Đạo như Con Đường Khổ Đau. Trong ý chí cố ý leo nhanh như vậy, một hệ quả tất yếu là sự tập trung vào vài đời các kết quả lẽ ra trải qua nhiều đời. Nghiệp quả của quá khứ giáng xuống trên Linh hồn, mà nay phải đối mặt trong một thời gian ngắn ngủi như thế, bởi vậy với một sức mạnh gia tăng khủng khiếp. Khi điều đó mới giáng lên Linh hồn, nó có thể đến với một năng lượng choáng váng, mù lòa, làm cho Linh hồn thể nghiệm đau khổ như chưa từng. |
But even then, it is not the Soul itself which feels the woe. It is the lower nature, blinded still and forced onward by the higher. Even in that moment of bitter trial, the Soul itself is in a place of peace, joyous that this should be done speedily which otherwise had lasted through so many lives. In a fire which may be keen but brief, the dross of the past shall be purged away, and it shall be left free. | Nhưng ngay khi ấy, không phải chính Linh hồn cảm điều khổ. Ấy là bản chất thấp, còn mù lòa và bị phần cao cưỡng đẩy tiến lên. Dẫu trong khoảnh khắc thử luyện đắng cay ấy, bản thân Linh hồn vẫn ở trong một nơi bình an, hoan hỷ rằng điều lẽ ra kéo dài qua biết bao đời nay sẽ được làm xong nhanh chóng. Trong một ngọn lửa có thể gay gắt nhưng ngắn ngủi, cặn bã quá khứ sẽ bị tẩy trừ, và Linh hồn sẽ được tự do. |
Thus, this path, looked at from beneath, has been called a Path of Woe. Also, because men on entering it give up so much that to the world appears as pleasure—pleasures of the senses, worldly life, enjoyments of every description. But this Soul that is resolute to climb has lost its taste for them. This Soul desires them no longer; it seeks something that does not fade, joys that are not transient. Although the Path may look from the outside like a Path of Renunciation, it is a renunciation which, on the other side, means added joy and peace. It is not taking woe for pleasure, but throwing aside a passing happiness for eternal bliss. | Do vậy, con đường này, nhìn từ bên dưới, đã được gọi là Con Đường Khổ Đau. Cũng vì khi con người bước vào đó, y từ bỏ quá nhiều điều mà với thế gian xem là khoái lạc—khoái lạc của cảm quan, đời sống thế tục, thú vui đủ loại. Nhưng Linh hồn quyết chí leo lên này đã mất khẩu vị đối với chúng. Linh hồn này không còn khao khát chúng nữa; y tìm kiếm điều không tàn phai, những hoan lạc không phù du. Dẫu Con Đường có thể trông bề ngoài như Con Đường Từ Bỏ, nhưng đó là một sự từ bỏ mà ở bờ bên kia đồng nghĩa với hoan lạc và bình an gia tăng. Ấy không phải là lấy khổ thay vui, mà là gạt bỏ một hạnh phúc thoáng qua để đổi lấy phúc lạc vĩnh cửu. |
As the Soul goes onwards, the joy deepens. For we saw that sorrow had its root in ignorance. True, bitter pain will often come before knowledge, but that is because of ignorance. There is sorrow in the hearts of those who, because of sorrow, seek the Path, when they look over the world and see the misery and wretchedness, the suffering of men, women, and children. When they see men suffer who know not why, and so have that sting of ignorance which is the essence of pain. In looking over the world sunk in ignorance, the hearts of the men who are to be Saviours feel the misery of the world, and this inspires them to seek the Path of Liberation. | Khi Linh hồn tiến bước, hoan lạc càng sâu. Vì chúng ta đã thấy rằng sầu khổ có gốc rễ trong vô minh. Đúng vậy, đau đớn cay nghiệt thường đến trước tri kiến, nhưng ấy là vì vô minh. Có sầu khổ trong tâm những người, do sầu khổ mà tìm Thánh Đạo, khi họ nhìn khắp thế gian và thấy cảnh khốn cùng, nỗi đau của những người nam, người nữ và trẻ nhỏ. Khi họ thấy con người đau khổ mà không biết vì sao, nên có cái nhói buốt của vô minh—cái cốt lõi của khổ đau. Khi nhìn khắp thế gian đắm chìm trong vô minh, trái tim của những người sắp là Đấng Cứu Độ cảm thấu nỗi khốn cùng của thế gian, và điều đó thúc giục họ tìm Con Đường Giải Thoát. |
But has it never struck you, looking back at the history of those great Ones, that this agony They went through was before They saw the light? The agony was of helplessness, the reflection of sorrows They realised while yet They saw not the cause. Take the sorrow of that Divine Man, the Buddha, whom so many millions regard as highest. He sought the cause of sorrow, mourned over the ignorance and misery, and saw not how it might be cured. He went through suffering, renounced wife, child, palace, and kingdom. He went out with only the mendicant’s bowl into the jungle. His heart was heavy, his eyes clouded. He knew not how to save the world, yet could not be at peace while the world suffered. He went through mortification of the body and the misery of the mind which sought to see but could not. | Nhưng đã bao giờ bạn để ý, nhìn lại lịch sử của các Đấng Vĩ Đại ấy, rằng nỗi thống khổ Các Ngài trải qua là trước khi Các Ngài thấy ánh sáng? Nỗi thống khổ là của sự bất lực, là phản chiếu của những sầu khổ Các Ngài cảm nhận trong khi chưa thấy nguyên nhân. Hãy lấy nỗi sầu của Vị Người Thiêng liêng ấy, Đức Phật, Đấng mà hàng trăm triệu người tôn xưng là tối thượng. Ngài truy tầm nguyên nhân của sầu khổ, đau xót trước vô minh và khốn cùng, và chưa thấy cách nào chữa trị. Ngài đi qua chịu đựng, từ bỏ vợ, con, cung điện, và vương quốc. Ngài ra đi chỉ với bình bát của người khất sĩ vào rừng sâu. Tim Ngài nặng trĩu, mắt Ngài mờ lệ. Ngài chưa biết làm sao cứu thế gian, nhưng không thể an khi thế gian còn khổ. Ngài trải qua khổ hạnh thân xác và nỗi khổ của tâm trí muốn thấy mà không thể. |
At last, sitting beneath the tree, there came illumination, and He knew the cause of sorrow. Then sorrow vanished, and joy took its place. In the words that have come ringing down through the centuries, there is the cry of triumph, of joy, of happiness that shall know no future change. You may remember the words in which an English poet has voiced His saying, showing how ignorance was the cause of sorrow, and knowledge the coming of joy: | Sau cùng, ngồi dưới cội cây, sự soi sáng đến, và Ngài biết nguyên nhân của sầu khổ. Rồi sầu khổ tan biến, hoan lạc thay vào. Trong những lời đã vang vọng qua các thế kỷ, có tiếng kêu khải hoàn, của niềm hoan hỷ, của hạnh phúc chẳng còn biến đổi về sau. Bạn có thể nhớ những lời mà một thi sĩ Anh đã diễn tả lời Ngài, cho thấy vô minh là nguyên nhân của sầu khổ, và tri thức là sự đến của hoan lạc: |
I, Buddh, who wept with all my brothers’ tears, | Ta, Phật, từng khóc cùng nước mắt của tất cả huynh đệ, |
Whose heart was broken with the whole world’s woe, | Tim Ta tan vỡ bởi khổ lụy của cả thế gian, |
Laugh and am glad, for there is liberty. | Nay Ta cười và hân hoan, vì có tự do. |
Liberty! But that is joy. The tears came from ignorance, from blindness. The heart was broken with the world’s woe, as men’s hearts are breaking now because they know not. But there is liberty. And the message of liberty is that the cause of sorrow lies in ourselves, not in the universe. It lies in our ignorance, not in the nature of things. It lies in our blindness, not in the life. Thus it is that when the light comes, liberty comes with it, and the joy and the laughter of the man become divine. For the divine light has flowed in upon His Soul. He is the illuminated, the wise. For the wise, there is no such thing as sorrow. For the divinely illuminated Soul, grief is dead for evermore. | Tự do! Ấy chính là hoan lạc. Nước mắt đến từ vô minh, từ mù lòa. Tim tan vỡ vì khổ lụy của thế gian, như trái tim con người đang tan vỡ hôm nay vì họ không biết. Nhưng có tự do. Và thông điệp của tự do là nguyên nhân của sầu khổ nằm trong chính chúng ta, không phải trong vũ trụ. Nó nằm trong vô minh của chúng ta, không phải trong bản tính của sự vật. Nó nằm trong mù lòa của chúng ta, không phải trong sự sống. Do vậy, khi ánh sáng đến, tự do đến cùng, và niềm hoan lạc, tiếng cười của con người trở nên thiêng liêng. Vì ánh sáng thiêng đã tràn vào Linh hồn của Ngài. Ngài là bậc được soi sáng, là bậc trí giả. Với bậc trí, chẳng có thứ gọi là sầu khổ. Với Linh hồn được soi sáng thiêng liêng, bi thương chết đi mãi mãi. |