Here we enter an entirely new class of phenomena. All those previously enumerated belonged either to the fully awakened state of consciousness or to the dream state. There is a third state which hovers between the two. It is entered immediately before falling asleep and before fully waking up out of sleep. During part of my life I went to bed in the morning and woke up in the evening. I often stayed in bed for some time half asleep and half awake, partaking equally and vaguely of both sleep and waking consciousness. I observed my sensations with considerable interest, as they offered some curious characteristics.
|
Ở đây chúng ta bước vào một loại hiện tượng hoàn toàn mới. Tất cả những điều trước đó hoặc thuộc về trạng thái tâm thức hoàn toàn tỉnh thức, hoặc thuộc về trạng thái mộng. Có một trạng thái thứ ba lơ lửng giữa hai trạng thái ấy. Nó được bước vào ngay trước khi chìm vào giấc ngủ và trước khi hoàn toàn thức dậy khỏi giấc ngủ. Trong một phần đời tôi, tôi đi ngủ vào buổi sáng và thức dậy vào buổi tối. Tôi thường nằm trên giường một lúc trong trạng thái nửa ngủ nửa thức, dự phần một cách mơ hồ và ngang nhau vào cả tâm thức ngủ lẫn tâm thức thức. Tôi quan sát các cảm giác của mình với sự quan tâm đáng kể, vì chúng biểu hiện vài đặc điểm kỳ thú.
|
VIII.16. Brain Dramatisations. The first characteristic seems to me the dramatic form in which consciousness manifests in that state. I was always aware of persons and things, and actions, but I do not remember instances of argument or reasoning or feelings and moods.
|
VIII.16. Những Cảnh Kịch hoá của Bộ não. Đặc điểm đầu tiên đối với tôi dường như là hình thức kịch tính mà trong đó tâm thức biểu lộ ở trạng thái ấy. Tôi luôn ý thức có người và vật, và các hành động, nhưng tôi không nhớ có những trường hợp biện luận hay lý lẽ, hoặc các cảm xúc và tâm trạng.
|
VIII.17. Bliss – of a Sort. A second characteristic is that of perfect bliss. This is difficult to describe, if we wish to avoid the little less or the little more. The feeling’ is one of perfect contentment in the sensation of sheer existence. There is no thought of past or future, only a sort of clinging to the present state of well-being. One feels that one does not want any change; one feels mere life as absolutely self-sufficient. There is a complete absence of any feeling of responsibility, and of any duty or relation to anything outside. In a certain sense one might say that one sinks in these moments to the purely animal state, and I should not be surprised if the consciousness of a well-fed cat basking in the sun offered points of affinity with this state. I suppose here we possibly come in contact with a layer of consciousness in ourselves which we have in common with the animal, and which under ordinary circumstances is obscured by the specifically human element of consciousness. This state I know only as occurring after, and never before, sleep.
|
VIII.17. Hỷ lạc – theo một nghĩa. Đặc điểm thứ hai là hỷ lạc hoàn toàn. Điều này khó tả, nếu ta muốn tránh nói quá hay nói thiếu. Cảm giác là một sự mãn túc tuyệt đối trong cảm nghiệm của chính sự hiện hữu. Không có ý nghĩ về quá khứ hay tương lai, chỉ là một kiểu bám chặt vào trạng thái an lạc hiện tiền. Người ta cảm thấy không muốn bất kỳ thay đổi nào; người ta cảm thấy sự sống thuần túy là hoàn toàn tự đủ. Hoàn toàn vắng bóng bất kỳ cảm thức trách nhiệm nào, và mọi bổn phận hay liên hệ với bất cứ điều gì bên ngoài. Theo một nghĩa nào đó có thể nói rằng trong những khoảnh khắc này người ta chìm xuống trạng thái thuần thú, và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu tâm thức của một con mèo no nê phơi nắng có những điểm tương ứng với trạng thái này. Tôi cho rằng ở đây chúng ta có thể chạm vào một lớp tâm thức trong chính mình mà chúng ta có chung với loài vật, và vốn trong những hoàn cảnh bình thường bị yếu tố đặc thù nhân loại trong tâm thức che khuất. Trạng thái này tôi chỉ biết như xảy ra sau, và không bao giờ trước, giấc ngủ.
|
[CWL note] (We may take together the sixteenth and seventeenth experiences, because they are in fact only two sides of the same thing – the realisation of purely physical consciousness in a condition of repose and happiness. Many have experienced the blissful feeling between sleep and waking, and it is often accompanied by the knowledge that fuller awakening will put an end to it; so that one is conscious of a desire to prolong it – of a hope that one will not be too soon further awakened. This condition comes only after sleep and never before it, because it expresses the condition of bliss attained by the physical body through the process of sleep. Our author is quite right in describing this as animal consciousness, for it is precisely the condition of the animal resting undisturbed. It is the natural joy of life – the joy which habitually attends all life when in repose. It is only we human beings who contrive to make of life a misery; and even we can only do it by getting away from the realities and creating for ourselves wholly artificial conditions. It is quite natural that, in the blissful life of the physical body, feelings and emotions, arguments and reasonings should have no part. The physical body as such is incapable of these, and they are mirrored in its brain only when the man himself once more takes full possession of his vehicle, bringing along with him the mental and astral bodies which are their proper vehicles.)
|
[Ghi chú của CWL] (Chúng ta có thể xem chung trải nghiệm thứ mười sáu và mười bảy, vì thực ra chúng chỉ là hai mặt của cùng một điều – sự nhận thức về tâm thức thuần túy hồng trần trong một điều kiện thư thái và hạnh phúc. Nhiều người đã từng trải cảm giác hỷ lạc giữa giấc ngủ và sự thức dậy, và nó thường kèm theo nhận biết rằng sự thức tỉnh trọn vẹn sẽ đặt dấu chấm hết cho nó; đến nỗi người ta ý thức một ước muốn kéo dài nó – một hy vọng rằng mình sẽ không bị đánh thức thêm quá sớm. Trạng thái này chỉ đến sau giấc ngủ và không bao giờ trước đó, vì nó biểu lộ tình trạng hỷ lạc mà thể xác đạt được nhờ tiến trình của giấc ngủ . Tác giả hoàn toàn đúng khi mô tả đây là tâm thức thú tính, vì đó chính là tình trạng của con vật đang nghỉ ngơi không bị quấy nhiễu. Đó là niềm vui tự nhiên của sự sống – niềm vui vốn theo thói quen đi cùng mọi sự sống khi ở trạng thái an nghỉ. Chỉ riêng chúng ta, những con người, lại xoay xở biến sự sống thành nỗi khổ; và ngay cả chúng ta cũng chỉ có thể làm điều đó bằng cách lìa xa các thực tại và tự tạo cho mình những điều kiện hoàn toàn giả tạo. Việc trong đời sống hỷ lạc của thể xác, các cảm xúc, tình cảm, lý lẽ và biện luận không có chỗ đứng là điều rất tự nhiên. Thể xác như thế bất năng đối với những điều ấy, và chúng chỉ được phản chiếu trong bộ não khi chính con người một lần nữa chiếm trọn vận cụ của mình, mang theo thể trí và thể cảm dục là các vận cụ thích đáng của chúng.)
|
VIII.18. A Piece of Mysterious Tapestry. Several times before falling asleep I saw a quaint picture somewhat resembling a piece of ancient tapestry. I could never see clearly what it was, but recognised it as the same as the one I had previously seen. It was very vivid, and gradually I formed the habit, when it showed itself again, of trying to the utmost to make out what it really was. I have never succeeded in determining its nature or origin, or its relations to anything else. I saw this, of course, only with the eyes shut, but always when I was on the point of piercing its meaning it would dissolve and nothing would be left. I have also, at various times, seen other ornamental patterns, looking as if in marble or cloth, of a like nature, but never have I found a meaning for them. A friend with whom I discussed this matter suggested that it may have been a purely physiological phenomenon, connected with the nervation of the retina and some stimulation and reaction of these nerves. As to this, I can only record but not explain. This class of visions I only recall as recurring before falling asleep, never after waking.
|
VIII.18. Một Mảnh Thảm thêu Huyền bí . Vài lần trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi thấy một bức tranh lạ tựa như một mảnh thảm thêu cổ xưa. Tôi chưa bao giờ thấy rõ nó là gì, nhưng nhận ra rằng đó chính là cái mà trước đó tôi đã từng thấy. Nó rất sống động, và dần dần tôi hình thành thói quen, mỗi khi nó lại hiện ra, là cố gắng hết sức để nhận ra nó thực sự là gì. Tôi chưa từng thành công trong việc xác định bản chất hay nguồn gốc của nó, hay các liên hệ của nó với bất cứ điều gì khác. Tôi dĩ nhiên chỉ thấy điều này khi mắt nhắm, nhưng luôn luôn ngay khi tôi sắp xuyên thấu ý nghĩa của nó thì nó tan biến và chẳng còn gì nữa. Tôi cũng đã, vào nhiều lúc khác nhau, thấy những hoa văn trang trí khác, trông như trên đá cẩm thạch hay vải vóc, có cùng bản chất, nhưng tôi chưa bao giờ tìm thấy ý nghĩa nào cho chúng. Một người bạn, người mà tôi đã trao đổi về vấn đề này, gợi ý rằng đó có thể chỉ là một hiện tượng sinh lý thuần túy, liên quan tới sự chi phối thần kinh của võng mạc và một số kích thích và phản ứng của các dây thần kinh ấy. Về điều này, tôi chỉ có thể ghi nhận chứ không giải thích. Loại thị kiến này tôi chỉ nhớ như lặp lại trước khi chìm vào giấc ngủ, chưa từng sau khi thức dậy.
|
[CWL note] (The eighteenth experience is not one which has fallen to my lot, but I have heard something like it described by several other persons. It may be purely physiological, as the writer’s friend suggested; but I should be inclined to class it rather under the head of that higher physiology which takes cognisance of the astral and mental vehicles. It is true that under certain conditions the eyelids give some such impression as is described; but I think that is only when there is some light in the room. The colours of a man’s own aura when seen against a dark background have sometimes very much the appearance of tapestry; and when they are moving slowly, as is often the case when one is just falling asleep, they could be made into pictures as easily as the clouds or the glowing hollows in a fire. Again, every man surrounds himself with a mass of thought-forms, which he is able to see clearly when he uses the consciousness of the mental body or the astral body, according to the type of thought and the level at which the forms were made. But when his consciousness is in a transition state, half on one plane and half on another, it is eminently probable that these also may present the appearance of a confused pattern. As one glides fully into the higher consciousness, these things become comprehensible, but just at that very moment one loses one’s connection with the physical brain and consequently there is usually no coherent recollection.)
|
[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm thứ mười tám không phải là điều đã xảy đến với tôi, nhưng tôi đã nghe một vài người khác mô tả điều gì đó tương tự. Nó có thể thuần túy sinh lý, như người bạn của tác giả đã gợi ý; nhưng tôi nghiêng về xếp nó vào loại sinh lý học cao hơn, vốn ghi nhận đến các vận cụ cảm dục và trí tuệ. Đúng là trong những điều kiện nhất định, mi mắt có thể cho một ấn tượng như đã mô tả; nhưng tôi nghĩ đó chỉ là khi trong phòng có một chút ánh sáng. Màu sắc của chính hào quang một người khi được thấy trên nền tối đôi khi có dáng vẻ rất giống thảm thêu; và khi chúng chuyển động chậm, như thường xảy ra khi người ta sắp chìm vào giấc ngủ, chúng có thể được kết thành hình ảnh dễ dàng như mây trời hay những hốc than hồng rực trong lửa. Mặt khác, mỗi người tự bao quanh mình bởi cả một khối hình tư tưởng, mà y có thể thấy rõ khi dùng tâm thức của thể trí hoặc thể cảm dục, tùy thuộc vào loại tư tưởng và cấp độ nơi các hình được tạo. Nhưng khi tâm thức ở trong trạng thái chuyển tiếp, nửa ở cõi này nửa ở cõi khác, thì rất có khả năng những thứ ấy cũng sẽ hiện ra như một hoa văn lẫn lộn. Khi người ta trượt trọn vào tâm thức cao hơn, các điều này trở nên khả hiểu, nhưng đúng vào khoảnh khắc ấy, người ta mất nối kết với bộ não hồng trần và vì thế thường không có ký ức mạch lạc.)
|
VIII.19. A Sheet of the Vâhan. Once before falling wholly asleep I saw before me one or two pages of The Vâhan, as clear as anything. The front page began with an article by an acquaintance of mine, ran on to the next page and was signed with his name. I noticed exactly at what part of the column his name was, i.e., where the article ended. The impression was clear and definite, but up to date no number of The Vâhan has appeared with such an article, though the vision belongs by now to ancient history. What I should like to know is, how does such a definite and detailed delusion arise?
|
VIII.19. Một Trang của The Vâhan. Một lần, trước khi hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, tôi thấy trước mắt một hay hai trang của The Vâhan , rõ như bất cứ vật gì. Trang bìa mở đầu bằng một bài viết của một người quen của tôi, chạy tiếp sang trang sau và được ký tên ông. Tôi chú ý chính xác vị trí tên ông trong cột, tức là , nơi bài viết kết thúc. Ấn tượng rõ ràng và xác định, nhưng cho đến nay chưa có số The Vâhan nào xuất hiện với một bài như vậy, dù thị kiến ấy nay đã thuộc về “cổ sử”. Điều tôi muốn biết là: làm sao một ảo giác xác định và chi tiết đến thế lại phát sinh?
|
That the above phenomenon is not rare is proven by the following extract from an article on ‘Psychic Experiences’ by John W. Prentice in Theosophy in Australasia for March 1913 (Vol. XVIII, No.12). It furnishes a welcome commentary on my own case and adds material for comparison and judgment.
|
Rằng hiện tượng trên không hiếm được chứng minh bởi đoạn trích sau từ một bài viết về “Những Trải nghiệm Thông linh” của John W. Prentice trên tạp chí Theosophy in Australasia số tháng Ba năm 1913 (Tập XVIII, Số 12). Nó cung cấp một lời bình hoan nghênh cho trường hợp của riêng tôi và thêm chất liệu để so sánh và phán đoán.
|
“On one occasion I was shown a page of The Theosophist on which an important statement, bearing on a matter that was greatly worrying me, appeared. This dream served to quieten my mind greatly, and when The Theosophist came to hand about three weeks after, with the page exactly as I had seen it, I believed that I had developed a most trustworthy power; but since then many such pages have been shown me, and still wait verification.”
|
“Một lần, tôi được cho xem một trang của The Theosophist trên đó xuất hiện một tuyên bố quan trọng, liên hệ đến một vấn đề đang làm tôi rất băn khoăn. Giấc mơ này giúp làm dịu tâm tôi rất nhiều, và khi The Theosophist đến tay khoảng ba tuần sau, với trang y như tôi đã thấy, tôi tin rằng mình đã phát triển một năng lực hết sức đáng tin cậy; nhưng từ đó đến nay nhiều trang như thế đã hiện ra với tôi, và vẫn đang chờ được kiểm chứng.”
|
The author extracts from this the very commonsense conclusion: “From all this I learnt two very valuable lessons; first, never to place any value on what may be called the practical side of such experience (we would prefer “never to rely absolutely on the value of,” etc.), and in the second place never to discuss them with other people.” (We would say: “never to discuss them indiscriminately or broadcast.”)
|
Tác giả rút ra từ đây kết luận rất hợp lẽ: “Từ tất cả điều này, tôi học được hai bài học hết sức quý báu; thứ nhất, đừng bao giờ đặt trọng lượng vào cái có thể gọi là mặt thực dụng của trải nghiệm như thế (chúng tôi thích nói ‘đừng bao giờ tuyệt đối cậy vào giá trị của,’ v.v.), và thứ hai là đừng bao giờ thảo luận chúng với những người khác.” (Chúng tôi sẽ nói: “đừng bao giờ thảo luận chúng một cách bừa bãi hay tung ra khắp nơi.”)
|
[CWL note] (Vision No. 19 is a specimen of a class by no means uncommon – a clear and definite presentation of something which seems to have no correspondence on the physical plane. Evidently the seer expected that this would prove to be a prognostication of reality; and indeed that was a most natural conclusion, for such forecasts frequently show themselves in precisely that sort of way. Without having actually seen the phenomenon oneself, it is impossible to contradict that hypothesis. It may even yet come true! But it is also possible that what was seen was merely a vivid thought-form. It may be that the friend whose name was seen may have had it in mind to write such an article, and may have thought of it as occupying about that much of space. Or again, it may have been that the editor of the paper desired such an article, or that some third or fourth person thought that it ought to be written by that friend. There are quite a number of possibilities, but without actually seeing the form it is scarcely possible to pronounce upon it with any safety. Precisely this is frequently an embarrassment in attempting to explain psychic experiences – not that there is any difficulty in accounting for them, but that it is scarcely possible, with the amount of information given, to make the right selection among half a dozen ways in which the effect might have been produced.
|
[Ghi chú của CWL] (Thị kiến số 19 là một mẫu mực của một loại hoàn toàn không hiếm – một trình hiện rõ ràng và xác định về điều gì đó dường như không có tương ứng nào trên cõi hồng trần. Rõ ràng người thấy trông đợi rằng đây sẽ hóa ra là một lời dự báo về hiện thực; và quả thật, đó là kết luận hết sức tự nhiên, vì những dự báo như vậy thường tự biểu hiện đúng bằng lối đó. Nếu không tận mắt thấy hiện tượng này, thì không thể bác bỏ giả thuyết ấy. Thậm chí nó còn có thể thành sự thật về sau! Nhưng cũng có thể cái được thấy chỉ là một hình tư tưởng sinh động. Có thể người bạn mà tên ông đã được thấy đã từng có ý viết một bài như thế, và đã nghĩ về nó như chiếm chừng ấy dung lượng. Hoặc cũng có thể là biên tập viên của tờ báo mong muốn một bài như vậy, hoặc một người thứ ba, thứ tư nào đó đã nghĩ rằng nó nên được viết bởi người bạn ấy. Có khá nhiều khả năng, nhưng nếu không trực tiếp thấy hình tướng ấy thì hầu như không thể phán đoán an toàn.
|
Our author in his concluding words upon this experience seems to favour an explanation which is, I suppose, not impossible, but is nevertheless perhaps the least likely of all solutions – the idea that the whole thing is simply a delusion, which I take to imply that it was an objectless prank of the imagination. It is difficult to suppose this, for in such a sense as that there are very few delusions. Some one must have thought of such an article, and must have thought of it with a certain amount of precision; and it is eminently improbable that he could have done so with the set purpose of deceiving our author, for what could he possibly gain by so foolish an action? It is true that certain classes of nature-spirits occasionally play apparently aimless pranks; but after a little experience of them, one learns to identify their handiwork without much difficulty, and this particular joke is by no means in their style.)
|
Trong lời kết về trải nghiệm này, tác giả dường như nghiêng về một cách giải thích mà, tôi cho là không phải bất khả, nhưng có lẽ là ít khả dĩ nhất trong mọi lời giải – ý tưởng cho rằng toàn bộ sự việc đơn giản là một ảo giác, mà tôi hiểu hàm ý là một trò đùa vô mục đích của trí tưởng tượng. Thật khó mà giả định như vậy, vì theo nghĩa đó thì có rất ít ảo giác. Hẳn đã có ai đó nghĩ về một bài như vậy, và nghĩ về nó với một mức độ xác định nào đó; và thật hết sức khó tin rằng người đó lại làm như thế với mục đích lừa dối tác giả của chúng ta, vì y ta có thể được gì từ hành động dại dột như vậy? Đúng là một số lớp tinh linh thiên nhiên đôi khi bày những trò đùa có vẻ vô nghĩa; nhưng chỉ sau một chút kinh nghiệm về chúng, người ta sẽ học được cách nhận ra “bút tích” của chúng mà không mấy khó khăn, và trò đùa đặc thù này chẳng hề thuộc phong cách của chúng.)
|
VIII.20. On the Verge. Another characteristic of this half-between state is that the majority of its. pictures are themselves of an ambiguous nature. Very often indeed I was aware of crowds of people moving about, of figures showing themselves, of actions going on, together with the sensation that what happened was not clearly intelligible and that persons and things were not clearly visible. They were, so to say, just on the verge of definite perception, but remained always at an infinitesimal distance beyond the boundary of full recognition. I felt all the time that one last effort would make the whole thing clear, but precisely this effort would either wake me fully up or disperse the picture. My position was that of some dream-Tantalus. The exact meaning, the exact vision, would ever elude my grasp, but there remained always the endeavour to make one more final effort, always without result.
|
VIII.20. Bên Lằn Ranh. Một đặc điểm khác của trạng thái lưng chừng này là đa số các bức tranh của nó tự thân mang bản chất nhập nhằng. Rất thường xuyên, tôi ý thức có những đám đông người chuyển động, có các hình bóng xuất hiện, có những hành động diễn ra, cùng với cảm giác rằng những gì xảy ra là không rõ ràng khả hiểu và rằng người và vật không hiển hiện minh bạch. Chúng, nói vậy, chỉ ở ngay bên lằn ranh của tri giác xác định, nhưng luôn luôn ở cách ranh giới của nhận thức trọn đủ một khoảng vô cùng nhỏ. Tôi luôn cảm thấy rằng chỉ cần một nỗ lực sau cùng là sẽ làm rõ được toàn bộ, nhưng chính nỗ lực ấy hoặc sẽ đánh thức tôi hoàn toàn hoặc làm tan biến bức tranh. Vị thế của tôi là vị thế của một Tantalus trong mộng. Ý nghĩa chính xác, thị kiến chính xác, cứ mãi trốn tránh tầm với của tôi, nhưng luôn còn đó một nỗ lực muốn thêm một lần quyết liệt lần cuối, luôn luôn vô hiệu.
|
In conclusion, I think that, on the whole, there is a difference between the half-awake consciousness before falling asleep and that after emerging from sleep.
|
Kết luận lại, tôi nghĩ rằng, xét chung, có một khác biệt giữa tâm thức nửa tỉnh trước khi chìm vào giấc ngủ và tâm thức nửa tỉnh sau khi thức dậy.
|
[CWL note] (The twentieth paragraph gives us another prominent characteristic of the visions and impressions which come to a man just as he is falling asleep. He has the idea that a great deal is going on – that much motion is taking place – but the exact meaning of it all eludes him; and when be is on the brink of understanding, he either loses consciousness or finds that the visions slip away from him. But ‘these are precisely the only terminations which in the course of nature can come to that half-awake condition. The man’s consciousness is half in his physical vehicle and half in the astral, and consequently everything belonging to the latter world is only half seen and realised. The escape from that intermediate condition must be either forwards or backwards; either the man falls backwards into the waking state, and then the half-grasped astral appearances vanish, or he must pass forwards into full astral consciousness, in which case he severs his connection with the physical brain and loses all memory of what happens. I mean, of course, not that the man himself loses the memory at the time, for he passes straight on into the fuller consciousness; but when he returns to the physical brain in the morning, he finds that just at that point his memory stops. There is a third way out – the development of continuous consciousness; but that means a great deal of patient experiment and much hard work.)
|
[Ghi chú của CWL] (Đoạn thứ hai mươi cho chúng ta một đặc trưng nổi bật khác của những thị kiến và ấn tượng đến với một người ngay lúc y sắp chìm vào giấc ngủ. Y có cảm tưởng rằng có rất nhiều điều đang diễn ra—rằng có nhiều chuyển động đang xảy ra—nhưng ý nghĩa chính xác của tất cả điều ấy lại lẩn tránh y; và khi y ở bờ mép của sự thấu hiểu, hoặc y mất tâm thức hoặc nhận ra rằng những thị kiến trượt khỏi y. Nhưng “đó chính là những kết cục duy nhất mà theo lẽ tự nhiên có thể đến với tình trạng nửa tỉnh ấy. Tâm thức của người ấy nửa ở trong vận cụ hồng trần và nửa ở trong cõi cảm dục, do đó mọi sự thuộc về thế giới sau chỉ được bán thấy và bán nhận. Lối thoát khỏi tình trạng trung gian ấy hoặc phải tiến lên hoặc lùi lại; hoặc người ấy rơi lùi vào trạng thái thức, và lúc đó những hình tướng cảm dục nắm bắt được một nửa sẽ tan biến, hoặc y phải đi tới tâm thức cảm dục trọn vẹn, trong trường hợp ấy y cắt lìa liên hệ với bộ não hồng trần và đánh mất mọi ký ức về những gì xảy ra. Ý tôi, dĩ nhiên, không phải là chính con người ấy mất ký ức ngay lúc đó, vì y tiến thẳng vào tâm thức đầy đủ hơn; mà là khi y trở về với bộ não hồng trần vào buổi sáng, y thấy rằng ngay tại điểm đó ký ức của y dừng lại. Có một lối thoát thứ ba—phát triển tâm thức liên tục; nhưng điều ấy đòi hỏi rất nhiều thực nghiệm nhẫn nại và lao động gian khổ.)
|