2. Những Trải Nghiệm Huyền Bí Của Tôi — CHƯƠNG VI – XI

CHƯƠNG VI – XI

VI. ILLUSTRATIONS—VI. MINH HOẠ

Of this class I quote only a single example. Its chief characteristic is that the vision has a direct illustrative meaning, and no symbolic one. This class also comes in ordinary waking consciousness.

Trong loại này tôi chỉ dẫn một ví dụ duy nhất. Đặc trưng chủ yếu của nó là thị kiến mang nghĩa minh họa trực tiếp, chứ không mang nghĩa tượng trưng. Loại này cũng đến trong tâm thức tỉnh thức thông thường.

VI.13. The Size of the Earth. I do not remember clearly when and where and under what circumstances I saw this vision. I saw before me a sea-surface of immense proportions, the waves surging in mighty curves. One wave in particular drew my attention; it was so huge that it seemed to reach to the utmost heaven, beyond the sun. The primary impression of that ocean was its vastness, its measureless greatness. On the crest of that wave a small globe, our earth, was borne along, a tiny ball tossed about by overwhelming forces. Just as we may say that the moon seems the size of a football, so this little earth seemed about the size of an orange in the shoreless expanse of waters. The other planets, the sun and moon, the stars also, were absent. There was nothing but the illimitable space of sea and the insignificant sphere swept on by it. I realised by this illustration a truer conception of the relation between the dimensions of stellar space and those of our earth than I had done before or have done since. The sense of the vastness of space was for a moment real and living in me. Now I know the greatness theoretically, and I can express it in numbers by speaking of light-years or millions of miles, but then I felt it direct and immediately.

VI.13. Kích thước của Trái Đất. Tôi không nhớ rõ đã thấy thị kiến này khi nào, ở đâu và trong hoàn cảnh nào. Trước mắt tôi là một mặt biển có kích thước vĩ đại, những làn sóng cuộn dâng thành vòng cung hùng tráng. Một con sóng đặc biệt thu hút sự chú ý của tôi; nó lớn đến nỗi dường như vươn tới tận trời cao nhất, vượt qua mặt trời. Ấn tượng sơ khởi về đại dương ấy là tính mênh mông của nó, là sự vĩ đại không thể đo lường. Trên đỉnh của con sóng ấy, một quả cầu nhỏ, địa cầu của chúng ta, đang được nâng bổng, một trái cầu bé tí bị các lực áp đảo quăng quật. Cũng như ta có thể nói mặt trăng trông lớn bằng một trái bóng đá, thì địa cầu nhỏ bé này cũng trông chừng bằng một trái cam trong bao la vô bờ của đại dương. Các hành tinh khác, mặt trời và mặt trăng, các vì sao cũng vậy, đều không có mặt. Không có gì khác ngoài không gian vô hạn của biển cả và quả cầu nhỏ bé vô nghĩa bị nó cuốn đi. Nhờ minh họa này, tôi đã lĩnh hội một quan niệm chân thực hơn về tương quan giữa các kích thước của không gian tinh tú và kích thước của địa cầu chúng ta, hơn những gì tôi từng có trước đó hay từ đó về sau. Cảm thức về sự mênh mông của không gian, trong một khoảnh khắc, đã sống động và hiện thực trong tôi. Nay tôi biết về cái vĩ đại ấy một cách lý thuyết, và tôi có thể diễn đạt nó bằng con số, nói về năm ánh sáng hay hàng triệu dặm, nhưng khi ấy tôi đã cảm nó trực tiếp và tức thời.

As will be seen, there was no symbolic value to the vision; it was only an illustration, and as such it was different from the previous class.

Như sẽ thấy, thị kiến này không có giá trị tượng trưng; nó chỉ là một minh họa, và vì vậy nó khác với loại trước.

[CWL note] (The thirteenth of the series is correctly labelled as an illustration, but once more it is an illustration at the level of the causal body, and belongs to the type of that to which we have already referred. The impression which it gives is that the writer really saw the earth for an instant from outside – or perhaps saw merely the thought-form of someone else who had so seen it, and had been deeply impressed by it. Such a glimpse of the world from outside is by no means impossible to the ego, but in order to have it he must for the moment free himself from his lower vehicles. I know how impossible such an experience appears to us when imprisoned in the physical consciousness; but the very fact that it seems so impossible is merely an illustration of the limitations so forcibly imaged for us by our author in experience number eleven. The ego also has his limitations, but they are not such as to preclude the vision described. To be able to maintain his consciousness for some time at that level – time sufficient to enable him to make detailed observations – would imply high development and a good deal of special practice; but such a glimpse as is here described comes sometimes at an earlier stage, just in the same way as spasmodic fragments of the lower clairvoyance come often long before astral sight is fully developed.)

[Ghi chú của CWL] (Thị kiến thứ mười ba được gắn nhãn đúng là một minh họa, nhưng một lần nữa đó là một minh họa ở cấp độ thể nguyên nhân, và thuộc cùng kiểu mà chúng ta đã đề cập. Ấn tượng mà nó đem lại là người viết thực sự đã thấy địa cầu trong một sát-na từ bên ngoài – hoặc có lẽ chỉ thấy hình tư tưởng của một ai đó đã từng thấy như vậy, và đã bị ấn tượng sâu đậm bởi điều ấy. Một thoáng nhìn thế giới từ bên ngoài hoàn toàn không phải là bất khả đối với chân ngã, nhưng để có nó y phải trong khoảnh khắc giải phóng mình khỏi các vận cụ thấp. Tôi biết trải nghiệm như vậy xem ra bất khả đến thế nào đối với chúng ta khi đang bị cầm tù trong tâm thức hồng trần; nhưng chính sự kiện nó có vẻ bất khả lại chỉ là một minh họa về những giới hạn đã được tác giả miêu tả thật sinh động nơi trải nghiệm số mười một. Chân ngã cũng có những giới hạn, nhưng không phải là những giới hạn ngăn cản thị kiến đã được mô tả. Có thể duy trì tâm thức của mình một thời gian ở cấp ấy – thời gian đủ để cho phép y thực hiện các quan sát chi tiết – sẽ hàm ý một trình độ phát triển cao và kha khá rèn luyện đặc biệt; nhưng một thoáng nhìn như được mô tả ở đây đôi khi cũng đến ở giai đoạn sớm hơn, tương tự như cách mà các mảnh vụn gián đoạn của thông nhãn thấp thường đến từ lâu trước khi thị giác cảm dục phát triển trọn vẹn.)

VII. OBJECTIVE THINGS—VII. NHỮNG SỰ VẬT KHÁCH QUAN

The next class embraces a group of visions which, until I have further information on the subject, I am inclined to put down as seeings of actually existing, objective things, whether thought-forms or otherwise. This statement must be accepted with caution, of course as I lack the necessary power and knowledge to make such a declaration with authority. They seem to me, to be of the nature indicated, and that is all I can say. An Occultist only would be able to pronounce upon them definitely. I am not implying by the above that, for instance, the symbolical visions were not provoked by realities, but it may be that they were based more on contacts of consciousness visually conceived, whereas the visions now alluded to seem to me more based on seeing apart from contact with unusual currents of consciousness.

Loại kế tiếp bao gồm một nhóm thị kiến mà, cho đến khi tôi có thêm thông tin về chủ đề này, tôi thiên về xem như những cái thấy về các sự vật khách quan đang thực sự hiện hữu, dù là hình tư tưởng hay thứ gì khác. Tuyên bố này dĩ nhiên cần được tiếp nhận một cách thận trọng, vì tôi thiếu quyền năng và tri thức cần thiết để đưa ra một khẳng quyết có thẩm quyền. Chúng dường như đối với tôi là thuộc bản chất như vừa gợi ý, và đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Chỉ một nhà huyền bí học mới có thể quyết đoán về chúng một cách dứt khoát. Tôi không ngụ ý rằng, chẳng hạn, các thị kiến tượng trưng không được khơi gợi bởi các thực tại, mà có thể là chúng dựa nhiều hơn trên những tiếp xúc của tâm thức được hình dung bằng thị giác, trong khi các thị kiến được nói đến nay có vẻ dựa nhiều hơn trên sự thấy tách khỏi tiếp xúc với những dòng tâm thức bất thường.

VII.14. The Blue Lotus. Once, in meditation, I saw the form of a lotus of the softest shade of blue, exquisitely shaped and mounting upwards in a straight line with a steady, regular motion, neither very slow nor very rapid. My eyes were closed, but the form disappeared from my vision when it reached a point a few yards higher than my head. This is strange – as, the eyes being shut, there was no physically limited field of vision I recognised the form at once for that pictured as Fig. 16 in Annie Besant and C. W. Leadbeater’s book on Thought-Forms, and described on page 45 of that work. The problem involved is to my mind rather difficult. I was at the time not engaged in the devotional part of meditation, nor thinking about thought-forms or devotion, and the sensation evoked was primarily one of astonishment at seeing the form without any apparent cause. Yet the similarity was so unmistakable and the impression so clear that I cannot admit any possibility of mistake.

VII.14. Hoa Sen Xanh. Một lần, trong tham thiền, tôi thấy hình một đóa sen mang sắc xanh dịu nhất, hình dáng tuyệt mỹ và đang vươn thẳng lên theo một đường thẳng với chuyển động vững vàng, đều đặn, không quá chậm cũng không quá nhanh. Mắt tôi nhắm, nhưng hình tướng ấy biến khỏi thị kiến của tôi khi nó chạm tới một điểm ở trên đầu tôi vài thước. Điều này thật lạ – vì, mắt đã nhắm, nên không có trường thị giác bị giới hạn về mặt thể chất. Tôi lập tức nhận ra hình tướng ấy là đúng như hình minh họa số 16 trong cuốn sách của Bà Annie Besant và Ông C. W. Leadbeater về Hình Tư Tưởng , và được mô tả ở trang 45 của tác phẩm ấy. Vấn đề liên quan, theo tôi, khá nan giải. Lúc ấy tôi không tham dự vào phần sùng mộ của tham thiền, cũng không nghĩ về hình tư tưởng hay về sùng mộ, và cảm giác được khơi dậy chủ yếu là sự kinh ngạc khi thấy hình tướng ấy mà không có nguyên do hiển nhiên nào. Thế nhưng sự tương tự lại quá hiển nhiên và ấn tượng quá rõ ràng đến nỗi tôi không thể chấp nhận khả năng nhầm lẫn nào.

[CWL note] (The blue lotus described in number fourteen was without doubt a thought-form just like that which is imaged in the book upon the subject. There is no reason whatever to assume that it was the thought-form of the seer himself – indeed, the probability is that it came from quite another source. It must be borne in mind that a strong and definite thought, such as this must have been, persists for many hours, and is on its own plane perfectly objective. Any one who has for a moment a glimpse of the astral or mental vision, whichever may be required (a detail which depends upon the method of formation of the object) will be able to see this thought-form as it floats by him, just as definitely as we should see with our physical eyes a bird or a balloon which passed us in this lower world. It is possible that, if our observer had made an effort to identify himself with the thought-form which he observed, he would have been able to trace it to its maker; but naturally, this did not occur to him. It is true that the astral field of vision is far more extensive than the physical, and that it is therefore not probable that this form passed suddenly out of it; but it must be remembered that there is for the higher vision what may be described as a field of close attention, and it is quite probable that the thought-form may have drifted into and out of that. For one not specially trained in the use of the higher vision, its disappearance from that field of attention would be equivalent to losing sight of it, even though that sight could be instantly recovered by one who was practised in such efforts.

[Ghi chú của CWL] (Đóa sen xanh được mô tả trong số mười bốn hẳn là một hình tư tưởng đúng như hình đã được vẽ trong cuốn sách về chủ đề này. Hoàn toàn không có lý do gì để giả định rằng đó là hình tư tưởng của chính người thấy – thực ra, khả năng lớn là nó đến từ một nguồn hoàn toàn khác. Cần ghi nhớ rằng một tư tưởng mạnh và xác định, như hẳn phải là thế trong trường hợp này, tồn tại bền lâu suốt nhiều giờ, và trên cõi riêng của nó thì hoàn toàn là khách quan. Bất kỳ ai trong khoảnh khắc có một thoáng thị kiến cảm dục hay thị kiến trí tuệ, tùy theo yêu cầu (một chi tiết phụ thuộc vào phương pháp hình thành đối tượng) đều sẽ có thể thấy hình tư tưởng này khi nó trôi ngang qua mình, rõ rệt hệt như chúng ta thấy bằng mắt hồng trần một con chim hay một khinh khí cầu lướt qua trước mắt trong cõi thấp này. Có thể rằng, nếu người quan sát của chúng ta đã cố gắng đồng hóa với hình tư tưởng mà ông nhìn thấy, ông đã có thể lần theo nó tới người tạo tác; nhưng dĩ nhiên, điều ấy đã không đến với ông. Đúng là trường thị giác cảm dục bao quát hơn rất nhiều so với trường thị giác hồng trần, và vì thế khó có khả năng hình tướng này bỗng dưng rơi ra khỏi tầm nhìn; nhưng cần nhớ rằng đối với thị kiến cao hơn có một điều có thể gọi là trường của chú ý gần, và rất có thể hình tư tưởng ấy đã trôi vào rồi ra khỏi trường ấy . Đối với một người không được huấn luyện đặc biệt trong việc sử dụng thị kiến cao hơn, việc nó biến khỏi trường chú ý sẽ tương đương với đánh mất nó khỏi tầm mắt, cho dù thị kiến ấy có thể lập tức được phục hồi bởi một người đã quen tập luyện như vậy.

Our students sometimes forget that the habit of the physical plane is strongly impressed upon them, and that to overcome it when in the astral world needs either a determined effort or long experience. Our ordinary life on the physical plane is possible to us only because a certain number of actions have become absolutely instinctive to us; the heart beats, the chest expands and contracts without our volition, and in the same way we have learnt to balance ourselves when walking. This also we do entirely without thinking, yet every little child has to learn the art afresh, just as it has to learn to coordinate the senses of sight and touch, and to reverse in practice the inverted image which is imposed upon the retina. One could imagine a limited form of physical existence which would be possible without some of these instinctive adaptations. A man who was content to remain always recumbent in one place need not learn how to balance himself, nor to reverse by the action of his mind all the objects which are shown to him upside-down by the sense of sight. To most of us such an existence would seem hardly worth the trouble; but there is no doubt that it would be possible.

Các đạo sinh của chúng ta đôi khi quên rằng thói quen của cõi hồng trần đã in dấu rất mạnh lên họ, và để vượt thắng nó khi ở cõi cảm dục thì cần hoặc một nỗ lực dứt khoát hoặc một kinh nghiệm lâu dài. Đời sống thường nhật của chúng ta trên cõi hồng trần chỉ khả hữu vì một số hành vi đã trở nên tuyệt đối bản năng đối với chúng ta; tim đập, lồng ngực phồng xẹp mà không cần ý chí của ta, và theo cách tương tự, chúng ta đã học cách giữ thăng bằng khi đi. Điều này cũng vậy, chúng ta thực hiện hoàn toàn không cần suy nghĩ, vậy mà mỗi đứa trẻ nhỏ đều phải học lại nghệ thuật ấy ngay từ đầu, cũng như nó phải học phối hợp các giác quan nhìn và chạm, và phải đảo ngược trong thực hành hình ảnh đảo ngược vốn được in trên võng mạc. Ta có thể hình dung một dạng tồn tại hồng trần hạn chế vẫn khả dĩ mà không cần một vài thích nghi bản năng này. Một người mãn nguyện nằm yên ở một nơi có lẽ không cần học cách giữ thăng bằng, cũng chẳng cần đảo ngược bằng hành động của tâm mọi vật bị thị giác trình ra theo kiểu lộn ngược. Đối với đa số chúng ta, một tồn tại như vậy xem ra chẳng đáng công sức; nhưng không nghi ngờ gì nó vẫn khả thi.

A great many people live in the astral world with just as imperfect an idea of its possibilities; for they bring into it all the limitations of the physical life to which they are accustomed. Because in this lower world fire will burn and water will drown, because it is unwise here to throw oneself over a precipice, and impossible to force oneself through a wall or a rock, most people fail to realise that in the astral world the conditions are so different that they may plunge unharmed into the depths of the sea or into the crater of Vesuvius, and that the densest physical matter is no obstacle to perfect freedom of movement. It is precisely in order that the physical instinct may be thoroughly overcome that it is necessary to apply what have been called the tests of earth, air, fire and water to those who wish to join the band of Invisible Helpers, so that they may develop what might be called an astral instinct to take the place, while on that plane, of the deeply ingrained physical instinct. Fourth-dimensional sight is within reach of every astral entity, yet most people have no more idea of such a power after death than they had during physical life. So the fact that this devotional thought-form came into our author’s field of sight and passed out of it again may perhaps be explained as an instance in which he imported the restriction of his physical field of view into a world where such an idea is in truth unnecessary, because the limitation which causes it does not exist.)

Rất nhiều người sống ở cõi cảm dục với một ý niệm về các khả tính của nó cũng khiếm khuyết như thế; vì họ mang vào đó tất cả giới hạn của đời sống hồng trần mà họ đã quen thuộc. Bởi vì ở cõi thấp này lửa đốt cháy và nước làm chết chìm, bởi vì thật là không khôn ngoan nếu gieo mình từ vách đá, và bất khả nếu cố ép mình xuyên qua một bức tường hay một khối đá, nên đa số người ta không nhận ra rằng ở cõi cảm dục, các điều kiện quá khác biệt đến nỗi họ có thể đắm mình vô sự vào đáy biển hay vào miệng núi lửa Vesuvius, và rằng vật chất hồng trần dày đặc nhất cũng không là chướng ngại đối với tự do di chuyển hoàn toàn. Chính để bản năng hồng trần có thể được vượt thắng triệt để mà người ta cần áp dụng những điều đã được gọi là các thử thách của đất, khí, lửa và nước cho những ai muốn gia nhập đoàn Trợ Giúp Vô Hình, hầu họ phát triển điều có thể gọi là bản năng cảm dục để, khi ở trên cõi ấy, nó thay thế cho bản năng hồng trần đã ăn sâu. Thị kiến chiều thứ tư nằm trong tầm với của mọi thực thể cảm dục, vậy mà đa số người ta đâu có hiểu biết gì về năng lực ấy sau khi chết, hơn hẳn họ từng có trong đời sống hồng trần. Vậy nên sự kiện hình tư tưởng sùng mộ này đi vào rồi ra khỏi trường thị giác của tác giả chúng ta có lẽ được giải thích như một trường hợp mà trong đó ông đã mang sự hạn chế của trường nhìn hồng trần vào một thế giới nơi ý niệm như vậy thực ra là không cần thiết, vì cái giới hạn gây ra nó không tồn tại.)

VII.15. Higher Dimensions. When residing and touring in the North of England, several years ago, I talked and lectured several times on the fourth dimension. One day after having retired to bed, I lay fully awake, thinking out some problems connected with this subject. I tried to visualise or think out the shape of a fourth-dimensional cube, which I imagined to be the simplest fourth-dimensional shape. To my great astonishment I saw plainly before me first a fourth-dimensional globe and afterwards a fourth-dimensional cube, and learned only then from this object-lesson that the globe is the simplest body, and not the cube, as the third dimensional analogy ought to have told me beforehand. The remarkable thing was that the definite endeavour to see the one thing made me see the other. I saw the forms as before me in the air (though the room was dark), and behind the forms I saw clearly a rift in the curtains through which a glimmer of light filtered into the room. This was a case in which I can clearly fix the impression that the objects seen were outside my head. In most of the other cases I could not say so definitely, as they partake of a dual character, being almost equally felt as outside and inside the brain.

VII.15. Các Chiều Cao Hơn. Khi cư trú và đi thuyết giảng ở miền Bắc nước Anh, vài năm trước, tôi đã trò chuyện và diễn giảng nhiều lần về chiều thứ tư. Một ngày nọ, sau khi lên giường, tôi nằm hoàn toàn tỉnh táo, suy nghĩ về một vài vấn đề liên hệ đến chủ đề này. Tôi cố hình dung, hay suy ra hình dạng của một khối lập phương bốn chiều, mà tôi tưởng là hình dạng bốn chiều đơn giản nhất. Đến nỗi kinh ngạc của tôi, tôi rõ ràng thấy trước mắt mình trước hết là một quả cầu bốn chiều rồi sau đó là một khối lập phương bốn chiều, và chỉ từ bài học trực quan ấy tôi mới biết rằng quả cầu mới là vận cụ đơn giản nhất, chứ không phải khối lập phương, như phép loại suy ba chiều lẽ ra phải cho tôi biết trước. Điều đáng chú ý là sự nỗ lực dứt khoát để thấy một thứ đã khiến tôi thấy thứ kia. Tôi thấy các hình thể như ở trước mặt trong không khí (dù căn phòng tối), và phía sau những hình thể ấy tôi rõ ràng thấy một khe hở ở màn cửa, qua đó một tia sáng lờ mờ lọt vào phòng. Đây là một trường hợp mà tôi có thể xác định rõ ấn tượng rằng các đối tượng được thấy ở bên ngoài đầu tôi. Trong hầu hết các trường hợp khác tôi không thể nói rành rẽ như vậy, vì chúng mang một tính chất lưỡng tính, gần như được cảm thấy như ở ngoài và ở trong bộ não ngang nhau.

I forego the attempt to describe the fourth-dimensional cube as to its form. Mathematical description would be possible, but would at the same time disintegrate the real impression in its totality. The fourth-dimensional globe can be better described. It was an ordinary three-dimensional globe, out of which on each side, beginning at its vertical circumference bent tapering horns proceeded, which, with a circular bend, united their points above the globe from which they started. The effect is best indicated by circumscribing the numeral 8 by a circle. So three circles are formed, the lower one representing the initial globe, the upper one representing empty space, and the greater circle circumscribing the whole. If it be now understood that the upper circle does not exist and the lower (small) circle is identical with the outer (large) circle, the impression will have been conveyed, at least to some extent. We may also call the total impression that of a ring. I think it was then that I understood for the first time that so-called fourth-dimensional sight is sight with reference to a space-conception arising from the visual perception of density. I have always been easily able to recall this globe; to recall the cube is far more difficult, and I have to concentrate to get it back.

Tôi bỏ qua việc cố gắng mô tả khối lập phương bốn chiều về mặt hình tướng. Mô tả toán học là khả dĩ, nhưng đồng thời sẽ làm tan rã ấn tượng chân thực trong tính tổng thể của nó. Quả cầu bốn chiều có thể được mô tả tốt hơn. Đó là một quả cầu ba chiều thông thường, từ hai bên của nó, bắt đầu ở đường tròn thẳng đứng, những chiếc sừng thuôn nhọn uốn cong tiếp tục vươn ra, và với một đường cong tròn, chúng hợp mút nhọn của mình lại ở phía trên quả cầu mà từ đó chúng khởi đi. Hiệu ứng được gợi tả tốt nhất bằng cách vẽ một vòng tròn bao lấy con số 8. Như vậy sẽ thành ba vòng tròn, vòng dưới biểu trưng cho quả cầu khởi nguyên, vòng trên biểu trưng cho khoảng không, và vòng tròn lớn bao trùm toàn thể. Nếu giờ hiểu rằng vòng tròn trên không tồn tại và vòng tròn dưới (nhỏ) là đồng nhất với vòng tròn ngoài (lớn), thì ấn tượng sẽ được truyền đạt, ít nhất là ở một mức độ nào đó. Chúng ta cũng có thể gọi ấn tượng tổng thể ấy là ấn tượng về một chiếc nhẫn. Tôi nghĩ chính khi đó tôi lần đầu hiểu rằng cái gọi là thị kiến bốn chiều là thị kiến liên hệ tới một quan niệm-không-gian phát sinh từ tri giác bằng mắt về mật độ. Tôi luôn có thể dễ dàng hồi tưởng lại quả cầu này; còn hồi tưởng khối lập phương khó hơn nhiều, và tôi phải tập trung mới đưa nó trở lại được.

I have in a like manner had rare visions of fifth and sixth dimensional figures. At least I have felt as if the figures I saw were fifth and sixth dimensional. In these matters the greatest caution is necessary. I am aware that I have come into contact with these things as far as the physical brain allows it, without denying that beyond what the brain has caught there was something further, felt at the time, which was not handed on. The sixth-dimensional figure I cannot describe. All I remember of it is that it gave me at the time an impression in form of what we might call diversity in unity, or synthesis in differentiation. The fifth-dimensional vision is best described, or rather hinted at, by saying that it looked like an Alpine relief map, with the singularity that all mountain peaks and the whole landscape represented in the map were one mountain, or again in other words as if all the mountains had one single base. This was the difference between the fifth and the sixth, that in the fifth excrescences were in one sense exteriorised and yet rooted in the same unit; but in the sixth they were differentiated but not exteriorised; they were only in different ways identical with the same base, which was their whole.

Theo cách tương tự, tôi đã hiếm khi có những thị kiến về các dạng hình năm và sáu chiều. Ít nhất tôi đã cảm như thể những hình mà tôi thấy là năm và sáu chiều. Trong những việc này, sự thận trọng tối đa là cần thiết. Tôi ý thức rằng tôi đã tiếp xúc với những điều này trong giới hạn mà bộ não hồng trần cho phép, mà không phủ nhận rằng bên ngoài những gì bộ não bắt được vẫn còn cái gì đó nữa, đã được cảm nhận lúc ấy, nhưng đã không được truyền xuống. Hình sáu chiều thì tôi không thể mô tả. Tất cả những gì tôi nhớ về nó là lúc ấy nó đã cho tôi một ấn tượng bằng hình tướng về điều mà ta có thể gọi là đa dạng trong hợp nhất, hay tổng hợp trong sai biệt. Thị kiến năm chiều được mô tả tốt nhất, hay đúng hơn là gợi ý, bằng cách nói rằng nó trông như một bản đồ phù điêu vùng An-pơ, với điều lạ lùng là tất cả các đỉnh núi và toàn thể phong cảnh được biểu hiện trong bản đồ đều là một ngọn núi, hay nói cách khác, như thể mọi ngọn núi đều có chung một nền móng duy nhất. Đây là khác biệt giữa năm và sáu chiều: rằng ở năm chiều, các chỗ lồi lõm theo một nghĩa đã được ngoại hiện và dẫu vậy vẫn bám rễ trong cùng một nhất thể; còn ở sáu chiều, chúng được biệt hóa nhưng không ngoại hiện; chúng chỉ là theo những cách khác nhau thì đồng nhất với cùng một nền tảng, vốn là toàn thể của chúng.

[CWL note] (Among the many and varied subjects which our Theosophical study brings before us, the fourth dimension is at once one of the most difficult and the most fascinating. I believe that the little drawing which our author has given is the first attempt in modern literature at an actual delineation of a fourth-dimensional solid. The winged globe in Egypt was a symbol, or perhaps rather a mnemonic, of this same idea (though it was also used to typify the sun with his attendant zodiacal light); but outside of the Mysteries it was never drawn so nearly in the real shape as this. Striking as this drawing is, its value lies chiefly in its suggestiveness to those who have once seen that which it represents. One can hardly hope that it will convey a clear idea of the reality to those who have never seen it. It is difficult to get an animal to understand a picture – apparently because he is incapable of grasping the idea that perspective on a flat surface is intended to represent objects which he knows only as solid. The average man is in exactly the same position with regard to any drawing or model which is intended to suggest to him the idea of the fourth dimension; and so, clever and suggestive as this is, I doubt whether it will be of much help to the average reader. The man who has seen the reality might well be helped by this to bring into his ordinary life a flash of that higher consciousness; and in that case he might perhaps be able to supply, in his thought, what must necessarily be lacking in the physical-plane drawing. I am not sure that I agree with our author in regarding the sphere as simpler than the tesseract; but that may be only because all our earlier fourth-dimensional experiments were conducted with the latter. Also I am not sure that one can unreservedly endorse the author’s remark that the so-called fourth-dimensional sight is sight with reference to a space-conception arising from the visual perception of density; though I remember a suggestion by Mr. Hinton that the density of a gas may be a measure of its thickness in the fourth dimension.

[Ghi chú của CWL] (Giữa nhiều chủ đề đa dạng mà việc học hỏi Thông Thiên Học đem đến cho chúng ta, chiều thứ tư vừa là một trong những điều khó nhất vừa là một trong những điều mê hoặc nhất. Tôi tin rằng bức vẽ nhỏ mà tác giả đưa ra là nỗ lực đầu tiên trong văn học hiện đại nhằm phác thảo một khối đặc bốn chiều thực sự. “Quả cầu có cánh” của Ai Cập là một biểu tượng, hay đúng hơn là một ký hiệu ghi nhớ, của cùng ý niệm này (dẫu nó cũng được dùng để tượng trưng mặt trời với ánh sáng hoàng đạo đi kèm); nhưng bên ngoài các Nghi lễ Huyền Môn thì nó chưa bao giờ được vẽ gần với hình dạng thật như thế này. Nổi bật như bản vẽ ấy là, giá trị của nó nằm chủ yếu ở tính gợi mở đối với những ai đã từng thấy điều nó biểu thị. Người ta khó có thể hy vọng rằng nó sẽ truyền đạt một ý niệm rõ ràng về thực tại cho những ai chưa từng thấy. Thật khó khiến một con vật hiểu một bức tranh – có vẻ vì nó bất năng nắm được ý niệm rằng phối cảnh trên một mặt phẳng là để biểu trưng cho các đối tượng mà nó chỉ biết như những vật thể rắn. Người thường ở đúng vị thế như vậy đối với bất kỳ bức vẽ hay mô hình nào được dùng để gợi cho y ý niệm về chiều thứ tư; vì thế, dù bản vẽ này thông minh và gợi ý, tôi e rằng nó sẽ không giúp được bao nhiêu cho độc giả trung bình. Người đã thấy thực tại có thể được điều này hỗ trợ để đưa một tia chớp của tâm thức cao hơn ấy vào đời sống thông thường; và trong trường hợp đó, có lẽ y có thể bổ sung, trong tư tưởng của mình, những gì tất yếu phải thiếu vắng nơi bản vẽ trên cõi hồng trần. Tôi không chắc là tôi đồng tình với tác giả khi xem hình cầu là đơn giản hơn khối siêu lập phương; nhưng có lẽ điều đó chỉ vì tất cả các thí nghiệm bốn chiều trước đây của chúng tôi đều tiến hành với khối sau. Tôi cũng không chắc là có thể hoàn toàn tán thành nhận xét của tác giả rằng cái gọi là thị kiến bốn chiều là thị kiến liên hệ tới một quan niệm-không-gian phát sinh từ tri giác thị giác về mật độ; dù tôi nhớ một gợi ý của Ông Hinton rằng mật độ của một chất khí có thể là thước đo độ dày của nó trong chiều thứ tư.

In the same way we owe our author much thanks for his brave endeavour to give us some suggestion of the appearance of figures belonging to the fifth and sixth dimensions. Once more, we can hardly hope that they will convey much to those who have not seen; to those who have seen, they are, at the same time, tantalising and most suggestive. They begin to express just a little of what one has seen, but has never been able to describe; and yet they do not go far enough to convey anything definite to the student who has not seen. To say that is no reproach, for it is but to say that the writer is a human being working under human limitations; indeed he shows so singular an aptitude for the subject that one cannot but hope that he will some day turn his attention to it more seriously, and produce a book which may help the rest of us to understand as he evidently understands. It is given to but few to be able to grasp these matters at all, and so among those who can there is a certain brotherhood of comprehension – a brotherhood in which it is already evident that Mr. Van Manen may take a high place if he will.)

Tương tự, chúng ta rất biết ơn tác giả vì nỗ lực can đảm nhằm gợi cho chúng ta đôi chút về diện mạo của các hình thuộc chiều thứ năm và thứ sáu. Một lần nữa, ta khó hy vọng rằng chúng sẽ chuyên chở được bao nhiêu đến những ai chưa thấy; đối với những ai đã thấy, chúng vừa gây bứt rứt vừa vô cùng gợi ý. Chúng bắt đầu biểu đạt chỉ một chút ít của điều mà người ta đã thấy nhưng chưa bao giờ có thể mô tả; và dẫu vậy chúng vẫn chưa đủ đi xa để truyền đạt điều gì xác định cho đạo sinh chưa từng thấy. Nói vậy không phải là lời chê trách, vì chỉ có nghĩa rằng người viết là một con người đang làm việc trong những giới hạn của con người; thật vậy, ông cho thấy một thiên hướng đặc biệt đối với chủ đề này đến mức người ta không thể không hy vọng rằng một ngày kia ông sẽ nghiêm túc hơn nữa hướng tâm vào nó, và viết nên một cuốn sách có thể giúp phần còn lại của chúng ta hiểu như ông hiển nhiên đã hiểu. Chỉ có rất ít người có thể nắm bắt những điều này, và vì thế, giữa những người có thể, có một tình huynh đệ của sự thấu hiểu – một tình huynh đệ mà trong đó đã hiển lộ rằng Ông Van Manen có thể giữ một vị trí cao, nếu ông muốn.)

VIII. PHENOMENA OF THE HALF-AWAKENED STATE—VIII. HIỆN TƯỢNG CỦA TRẠNG THÁI NỬA THỨC

Here we enter an entirely new class of phenomena. All those previously enumerated belonged either to the fully awakened state of consciousness or to the dream state. There is a third state which hovers between the two. It is entered immediately before falling asleep and before fully waking up out of sleep. During part of my life I went to bed in the morning and woke up in the evening. I often stayed in bed for some time half asleep and half awake, partaking equally and vaguely of both sleep and waking consciousness. I observed my sensations with considerable interest, as they offered some curious characteristics.

Ở đây chúng ta bước vào một loại hiện tượng hoàn toàn mới. Tất cả những điều trước đó hoặc thuộc về trạng thái tâm thức hoàn toàn tỉnh thức, hoặc thuộc về trạng thái mộng. Có một trạng thái thứ ba lơ lửng giữa hai trạng thái ấy. Nó được bước vào ngay trước khi chìm vào giấc ngủ và trước khi hoàn toàn thức dậy khỏi giấc ngủ. Trong một phần đời tôi, tôi đi ngủ vào buổi sáng và thức dậy vào buổi tối. Tôi thường nằm trên giường một lúc trong trạng thái nửa ngủ nửa thức, dự phần một cách mơ hồ và ngang nhau vào cả tâm thức ngủ lẫn tâm thức thức. Tôi quan sát các cảm giác của mình với sự quan tâm đáng kể, vì chúng biểu hiện vài đặc điểm kỳ thú.

VIII.16. Brain Dramatisations. The first characteristic seems to me the dramatic form in which consciousness manifests in that state. I was always aware of persons and things, and actions, but I do not remember instances of argument or reasoning or feelings and moods.

VIII.16. Những Cảnh Kịch hoá của Bộ não. Đặc điểm đầu tiên đối với tôi dường như là hình thức kịch tính mà trong đó tâm thức biểu lộ ở trạng thái ấy. Tôi luôn ý thức có người và vật, và các hành động, nhưng tôi không nhớ có những trường hợp biện luận hay lý lẽ, hoặc các cảm xúc và tâm trạng.

VIII.17. Bliss – of a Sort. A second characteristic is that of perfect bliss. This is difficult to describe, if we wish to avoid the little less or the little more. The feeling’ is one of perfect contentment in the sensation of sheer existence. There is no thought of past or future, only a sort of clinging to the present state of well-being. One feels that one does not want any change; one feels mere life as absolutely self-sufficient. There is a complete absence of any feeling of responsibility, and of any duty or relation to anything outside. In a certain sense one might say that one sinks in these moments to the purely animal state, and I should not be surprised if the consciousness of a well-fed cat basking in the sun offered points of affinity with this state. I suppose here we possibly come in contact with a layer of consciousness in ourselves which we have in common with the animal, and which under ordinary circumstances is obscured by the specifically human element of consciousness. This state I know only as occurring after, and never before, sleep.

VIII.17. Hỷ lạc – theo một nghĩa. Đặc điểm thứ hai là hỷ lạc hoàn toàn. Điều này khó tả, nếu ta muốn tránh nói quá hay nói thiếu. Cảm giác là một sự mãn túc tuyệt đối trong cảm nghiệm của chính sự hiện hữu. Không có ý nghĩ về quá khứ hay tương lai, chỉ là một kiểu bám chặt vào trạng thái an lạc hiện tiền. Người ta cảm thấy không muốn bất kỳ thay đổi nào; người ta cảm thấy sự sống thuần túy là hoàn toàn tự đủ. Hoàn toàn vắng bóng bất kỳ cảm thức trách nhiệm nào, và mọi bổn phận hay liên hệ với bất cứ điều gì bên ngoài. Theo một nghĩa nào đó có thể nói rằng trong những khoảnh khắc này người ta chìm xuống trạng thái thuần thú, và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu tâm thức của một con mèo no nê phơi nắng có những điểm tương ứng với trạng thái này. Tôi cho rằng ở đây chúng ta có thể chạm vào một lớp tâm thức trong chính mình mà chúng ta có chung với loài vật, và vốn trong những hoàn cảnh bình thường bị yếu tố đặc thù nhân loại trong tâm thức che khuất. Trạng thái này tôi chỉ biết như xảy ra sau, và không bao giờ trước, giấc ngủ.

[CWL note] (We may take together the sixteenth and seventeenth experiences, because they are in fact only two sides of the same thing – the realisation of purely physical consciousness in a condition of repose and happiness. Many have experienced the blissful feeling between sleep and waking, and it is often accompanied by the knowledge that fuller awakening will put an end to it; so that one is conscious of a desire to prolong it – of a hope that one will not be too soon further awakened. This condition comes only after sleep and never before it, because it expresses the condition of bliss attained by the physical body through the process of sleep. Our author is quite right in describing this as animal consciousness, for it is precisely the condition of the animal resting undisturbed. It is the natural joy of life – the joy which habitually attends all life when in repose. It is only we human beings who contrive to make of life a misery; and even we can only do it by getting away from the realities and creating for ourselves wholly artificial conditions. It is quite natural that, in the blissful life of the physical body, feelings and emotions, arguments and reasonings should have no part. The physical body as such is incapable of these, and they are mirrored in its brain only when the man himself once more takes full possession of his vehicle, bringing along with him the mental and astral bodies which are their proper vehicles.)

[Ghi chú của CWL] (Chúng ta có thể xem chung trải nghiệm thứ mười sáu và mười bảy, vì thực ra chúng chỉ là hai mặt của cùng một điều – sự nhận thức về tâm thức thuần túy hồng trần trong một điều kiện thư thái và hạnh phúc. Nhiều người đã từng trải cảm giác hỷ lạc giữa giấc ngủ và sự thức dậy, và nó thường kèm theo nhận biết rằng sự thức tỉnh trọn vẹn sẽ đặt dấu chấm hết cho nó; đến nỗi người ta ý thức một ước muốn kéo dài nó – một hy vọng rằng mình sẽ không bị đánh thức thêm quá sớm. Trạng thái này chỉ đến sau giấc ngủ và không bao giờ trước đó, vì nó biểu lộ tình trạng hỷ lạc mà thể xác đạt được nhờ tiến trình của giấc ngủ . Tác giả hoàn toàn đúng khi mô tả đây là tâm thức thú tính, vì đó chính là tình trạng của con vật đang nghỉ ngơi không bị quấy nhiễu. Đó là niềm vui tự nhiên của sự sống – niềm vui vốn theo thói quen đi cùng mọi sự sống khi ở trạng thái an nghỉ. Chỉ riêng chúng ta, những con người, lại xoay xở biến sự sống thành nỗi khổ; và ngay cả chúng ta cũng chỉ có thể làm điều đó bằng cách lìa xa các thực tại và tự tạo cho mình những điều kiện hoàn toàn giả tạo. Việc trong đời sống hỷ lạc của thể xác, các cảm xúc, tình cảm, lý lẽ và biện luận không có chỗ đứng là điều rất tự nhiên. Thể xác như thế bất năng đối với những điều ấy, và chúng chỉ được phản chiếu trong bộ não khi chính con người một lần nữa chiếm trọn vận cụ của mình, mang theo thể trí và thể cảm dục là các vận cụ thích đáng của chúng.)

VIII.18. A Piece of Mysterious Tapestry. Several times before falling asleep I saw a quaint picture somewhat resembling a piece of ancient tapestry. I could never see clearly what it was, but recognised it as the same as the one I had previously seen. It was very vivid, and gradually I formed the habit, when it showed itself again, of trying to the utmost to make out what it really was. I have never succeeded in determining its nature or origin, or its relations to anything else. I saw this, of course, only with the eyes shut, but always when I was on the point of piercing its meaning it would dissolve and nothing would be left. I have also, at various times, seen other ornamental patterns, looking as if in marble or cloth, of a like nature, but never have I found a meaning for them. A friend with whom I discussed this matter suggested that it may have been a purely physiological phenomenon, connected with the nervation of the retina and some stimulation and reaction of these nerves. As to this, I can only record but not explain. This class of visions I only recall as recurring before falling asleep, never after waking.

VIII.18. Một Mảnh Thảm thêu Huyền bí . Vài lần trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi thấy một bức tranh lạ tựa như một mảnh thảm thêu cổ xưa. Tôi chưa bao giờ thấy rõ nó là gì, nhưng nhận ra rằng đó chính là cái mà trước đó tôi đã từng thấy. Nó rất sống động, và dần dần tôi hình thành thói quen, mỗi khi nó lại hiện ra, là cố gắng hết sức để nhận ra nó thực sự là gì. Tôi chưa từng thành công trong việc xác định bản chất hay nguồn gốc của nó, hay các liên hệ của nó với bất cứ điều gì khác. Tôi dĩ nhiên chỉ thấy điều này khi mắt nhắm, nhưng luôn luôn ngay khi tôi sắp xuyên thấu ý nghĩa của nó thì nó tan biến và chẳng còn gì nữa. Tôi cũng đã, vào nhiều lúc khác nhau, thấy những hoa văn trang trí khác, trông như trên đá cẩm thạch hay vải vóc, có cùng bản chất, nhưng tôi chưa bao giờ tìm thấy ý nghĩa nào cho chúng. Một người bạn, người mà tôi đã trao đổi về vấn đề này, gợi ý rằng đó có thể chỉ là một hiện tượng sinh lý thuần túy, liên quan tới sự chi phối thần kinh của võng mạc và một số kích thích và phản ứng của các dây thần kinh ấy. Về điều này, tôi chỉ có thể ghi nhận chứ không giải thích. Loại thị kiến này tôi chỉ nhớ như lặp lại trước khi chìm vào giấc ngủ, chưa từng sau khi thức dậy.

[CWL note] (The eighteenth experience is not one which has fallen to my lot, but I have heard something like it described by several other persons. It may be purely physiological, as the writer’s friend suggested; but I should be inclined to class it rather under the head of that higher physiology which takes cognisance of the astral and mental vehicles. It is true that under certain conditions the eyelids give some such impression as is described; but I think that is only when there is some light in the room. The colours of a man’s own aura when seen against a dark background have sometimes very much the appearance of tapestry; and when they are moving slowly, as is often the case when one is just falling asleep, they could be made into pictures as easily as the clouds or the glowing hollows in a fire. Again, every man surrounds himself with a mass of thought-forms, which he is able to see clearly when he uses the consciousness of the mental body or the astral body, according to the type of thought and the level at which the forms were made. But when his consciousness is in a transition state, half on one plane and half on another, it is eminently probable that these also may present the appearance of a confused pattern. As one glides fully into the higher consciousness, these things become comprehensible, but just at that very moment one loses one’s connection with the physical brain and consequently there is usually no coherent recollection.)

[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm thứ mười tám không phải là điều đã xảy đến với tôi, nhưng tôi đã nghe một vài người khác mô tả điều gì đó tương tự. Nó có thể thuần túy sinh lý, như người bạn của tác giả đã gợi ý; nhưng tôi nghiêng về xếp nó vào loại sinh lý học cao hơn, vốn ghi nhận đến các vận cụ cảm dục và trí tuệ. Đúng là trong những điều kiện nhất định, mi mắt có thể cho một ấn tượng như đã mô tả; nhưng tôi nghĩ đó chỉ là khi trong phòng có một chút ánh sáng. Màu sắc của chính hào quang một người khi được thấy trên nền tối đôi khi có dáng vẻ rất giống thảm thêu; và khi chúng chuyển động chậm, như thường xảy ra khi người ta sắp chìm vào giấc ngủ, chúng có thể được kết thành hình ảnh dễ dàng như mây trời hay những hốc than hồng rực trong lửa. Mặt khác, mỗi người tự bao quanh mình bởi cả một khối hình tư tưởng, mà y có thể thấy rõ khi dùng tâm thức của thể trí hoặc thể cảm dục, tùy thuộc vào loại tư tưởng và cấp độ nơi các hình được tạo. Nhưng khi tâm thức ở trong trạng thái chuyển tiếp, nửa ở cõi này nửa ở cõi khác, thì rất có khả năng những thứ ấy cũng sẽ hiện ra như một hoa văn lẫn lộn. Khi người ta trượt trọn vào tâm thức cao hơn, các điều này trở nên khả hiểu, nhưng đúng vào khoảnh khắc ấy, người ta mất nối kết với bộ não hồng trần và vì thế thường không có ký ức mạch lạc.)

VIII.19. A Sheet of the Vâhan. Once before falling wholly asleep I saw before me one or two pages of The Vâhan, as clear as anything. The front page began with an article by an acquaintance of mine, ran on to the next page and was signed with his name. I noticed exactly at what part of the column his name was, i.e., where the article ended. The impression was clear and definite, but up to date no number of The Vâhan has appeared with such an article, though the vision belongs by now to ancient history. What I should like to know is, how does such a definite and detailed delusion arise?

VIII.19. Một Trang của The Vâhan. Một lần, trước khi hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, tôi thấy trước mắt một hay hai trang của The Vâhan , rõ như bất cứ vật gì. Trang bìa mở đầu bằng một bài viết của một người quen của tôi, chạy tiếp sang trang sau và được ký tên ông. Tôi chú ý chính xác vị trí tên ông trong cột, tức là , nơi bài viết kết thúc. Ấn tượng rõ ràng và xác định, nhưng cho đến nay chưa có số The Vâhan nào xuất hiện với một bài như vậy, dù thị kiến ấy nay đã thuộc về “cổ sử”. Điều tôi muốn biết là: làm sao một ảo giác xác định và chi tiết đến thế lại phát sinh?

That the above phenomenon is not rare is proven by the following extract from an article on ‘Psychic Experiences’ by John W. Prentice in Theosophy in Australasia for March 1913 (Vol. XVIII, No.12). It furnishes a welcome commentary on my own case and adds material for comparison and judgment.

Rằng hiện tượng trên không hiếm được chứng minh bởi đoạn trích sau từ một bài viết về “Những Trải nghiệm Thông linh” của John W. Prentice trên tạp chí Theosophy in Australasia số tháng Ba năm 1913 (Tập XVIII, Số 12). Nó cung cấp một lời bình hoan nghênh cho trường hợp của riêng tôi và thêm chất liệu để so sánh và phán đoán.

“On one occasion I was shown a page of The Theosophist on which an important statement, bearing on a matter that was greatly worrying me, appeared. This dream served to quieten my mind greatly, and when The Theosophist came to hand about three weeks after, with the page exactly as I had seen it, I believed that I had developed a most trustworthy power; but since then many such pages have been shown me, and still wait verification.”

“Một lần, tôi được cho xem một trang của The Theosophist trên đó xuất hiện một tuyên bố quan trọng, liên hệ đến một vấn đề đang làm tôi rất băn khoăn. Giấc mơ này giúp làm dịu tâm tôi rất nhiều, và khi The Theosophist đến tay khoảng ba tuần sau, với trang y như tôi đã thấy, tôi tin rằng mình đã phát triển một năng lực hết sức đáng tin cậy; nhưng từ đó đến nay nhiều trang như thế đã hiện ra với tôi, và vẫn đang chờ được kiểm chứng.”

The author extracts from this the very commonsense conclusion: “From all this I learnt two very valuable lessons; first, never to place any value on what may be called the practical side of such experience (we would prefer “never to rely absolutely on the value of,” etc.), and in the second place never to discuss them with other people.” (We would say: “never to discuss them indiscriminately or broadcast.”)

Tác giả rút ra từ đây kết luận rất hợp lẽ: “Từ tất cả điều này, tôi học được hai bài học hết sức quý báu; thứ nhất, đừng bao giờ đặt trọng lượng vào cái có thể gọi là mặt thực dụng của trải nghiệm như thế (chúng tôi thích nói ‘đừng bao giờ tuyệt đối cậy vào giá trị của,’ v.v.), và thứ hai là đừng bao giờ thảo luận chúng với những người khác.” (Chúng tôi sẽ nói: “đừng bao giờ thảo luận chúng một cách bừa bãi hay tung ra khắp nơi.”)

[CWL note] (Vision No. 19 is a specimen of a class by no means uncommon – a clear and definite presentation of something which seems to have no correspondence on the physical plane. Evidently the seer expected that this would prove to be a prognostication of reality; and indeed that was a most natural conclusion, for such forecasts frequently show themselves in precisely that sort of way. Without having actually seen the phenomenon oneself, it is impossible to contradict that hypothesis. It may even yet come true! But it is also possible that what was seen was merely a vivid thought-form. It may be that the friend whose name was seen may have had it in mind to write such an article, and may have thought of it as occupying about that much of space. Or again, it may have been that the editor of the paper desired such an article, or that some third or fourth person thought that it ought to be written by that friend. There are quite a number of possibilities, but without actually seeing the form it is scarcely possible to pronounce upon it with any safety. Precisely this is frequently an embarrassment in attempting to explain psychic experiences – not that there is any difficulty in accounting for them, but that it is scarcely possible, with the amount of information given, to make the right selection among half a dozen ways in which the effect might have been produced.

[Ghi chú của CWL] (Thị kiến số 19 là một mẫu mực của một loại hoàn toàn không hiếm – một trình hiện rõ ràng và xác định về điều gì đó dường như không có tương ứng nào trên cõi hồng trần. Rõ ràng người thấy trông đợi rằng đây sẽ hóa ra là một lời dự báo về hiện thực; và quả thật, đó là kết luận hết sức tự nhiên, vì những dự báo như vậy thường tự biểu hiện đúng bằng lối đó. Nếu không tận mắt thấy hiện tượng này, thì không thể bác bỏ giả thuyết ấy. Thậm chí nó còn có thể thành sự thật về sau! Nhưng cũng có thể cái được thấy chỉ là một hình tư tưởng sinh động. Có thể người bạn mà tên ông đã được thấy đã từng có ý viết một bài như thế, và đã nghĩ về nó như chiếm chừng ấy dung lượng. Hoặc cũng có thể là biên tập viên của tờ báo mong muốn một bài như vậy, hoặc một người thứ ba, thứ tư nào đó đã nghĩ rằng nó nên được viết bởi người bạn ấy. Có khá nhiều khả năng, nhưng nếu không trực tiếp thấy hình tướng ấy thì hầu như không thể phán đoán an toàn.

Our author in his concluding words upon this experience seems to favour an explanation which is, I suppose, not impossible, but is nevertheless perhaps the least likely of all solutions – the idea that the whole thing is simply a delusion, which I take to imply that it was an objectless prank of the imagination. It is difficult to suppose this, for in such a sense as that there are very few delusions. Some one must have thought of such an article, and must have thought of it with a certain amount of precision; and it is eminently improbable that he could have done so with the set purpose of deceiving our author, for what could he possibly gain by so foolish an action? It is true that certain classes of nature-spirits occasionally play apparently aimless pranks; but after a little experience of them, one learns to identify their handiwork without much difficulty, and this particular joke is by no means in their style.)

Trong lời kết về trải nghiệm này, tác giả dường như nghiêng về một cách giải thích mà, tôi cho là không phải bất khả, nhưng có lẽ là ít khả dĩ nhất trong mọi lời giải – ý tưởng cho rằng toàn bộ sự việc đơn giản là một ảo giác, mà tôi hiểu hàm ý là một trò đùa vô mục đích của trí tưởng tượng. Thật khó mà giả định như vậy, vì theo nghĩa đó thì có rất ít ảo giác. Hẳn đã có ai đó nghĩ về một bài như vậy, và nghĩ về nó với một mức độ xác định nào đó; và thật hết sức khó tin rằng người đó lại làm như thế với mục đích lừa dối tác giả của chúng ta, vì y ta có thể được gì từ hành động dại dột như vậy? Đúng là một số lớp tinh linh thiên nhiên đôi khi bày những trò đùa có vẻ vô nghĩa; nhưng chỉ sau một chút kinh nghiệm về chúng, người ta sẽ học được cách nhận ra “bút tích” của chúng mà không mấy khó khăn, và trò đùa đặc thù này chẳng hề thuộc phong cách của chúng.)

VIII.20. On the Verge. Another characteristic of this half-between state is that the majority of its. pictures are themselves of an ambiguous nature. Very often indeed I was aware of crowds of people moving about, of figures showing themselves, of actions going on, together with the sensation that what happened was not clearly intelligible and that persons and things were not clearly visible. They were, so to say, just on the verge of definite perception, but remained always at an infinitesimal distance beyond the boundary of full recognition. I felt all the time that one last effort would make the whole thing clear, but precisely this effort would either wake me fully up or disperse the picture. My position was that of some dream-Tantalus. The exact meaning, the exact vision, would ever elude my grasp, but there remained always the endeavour to make one more final effort, always without result.

VIII.20. Bên Lằn Ranh. Một đặc điểm khác của trạng thái lưng chừng này là đa số các bức tranh của nó tự thân mang bản chất nhập nhằng. Rất thường xuyên, tôi ý thức có những đám đông người chuyển động, có các hình bóng xuất hiện, có những hành động diễn ra, cùng với cảm giác rằng những gì xảy ra là không rõ ràng khả hiểu và rằng người và vật không hiển hiện minh bạch. Chúng, nói vậy, chỉ ở ngay bên lằn ranh của tri giác xác định, nhưng luôn luôn ở cách ranh giới của nhận thức trọn đủ một khoảng vô cùng nhỏ. Tôi luôn cảm thấy rằng chỉ cần một nỗ lực sau cùng là sẽ làm rõ được toàn bộ, nhưng chính nỗ lực ấy hoặc sẽ đánh thức tôi hoàn toàn hoặc làm tan biến bức tranh. Vị thế của tôi là vị thế của một Tantalus trong mộng. Ý nghĩa chính xác, thị kiến chính xác, cứ mãi trốn tránh tầm với của tôi, nhưng luôn còn đó một nỗ lực muốn thêm một lần quyết liệt lần cuối, luôn luôn vô hiệu.

In conclusion, I think that, on the whole, there is a difference between the half-awake consciousness before falling asleep and that after emerging from sleep.

Kết luận lại, tôi nghĩ rằng, xét chung, có một khác biệt giữa tâm thức nửa tỉnh trước khi chìm vào giấc ngủ và tâm thức nửa tỉnh sau khi thức dậy.

[CWL note] (The twentieth paragraph gives us another prominent characteristic of the visions and impressions which come to a man just as he is falling asleep. He has the idea that a great deal is going on – that much motion is taking place – but the exact meaning of it all eludes him; and when be is on the brink of understanding, he either loses consciousness or finds that the visions slip away from him. But ‘these are precisely the only terminations which in the course of nature can come to that half-awake condition. The man’s consciousness is half in his physical vehicle and half in the astral, and consequently everything belonging to the latter world is only half seen and realised. The escape from that intermediate condition must be either forwards or backwards; either the man falls backwards into the waking state, and then the half-grasped astral appearances vanish, or he must pass forwards into full astral consciousness, in which case he severs his connection with the physical brain and loses all memory of what happens. I mean, of course, not that the man himself loses the memory at the time, for he passes straight on into the fuller consciousness; but when he returns to the physical brain in the morning, he finds that just at that point his memory stops. There is a third way out – the development of continuous consciousness; but that means a great deal of patient experiment and much hard work.)

[Ghi chú của CWL] (Đoạn thứ hai mươi cho chúng ta một đặc trưng nổi bật khác của những thị kiến và ấn tượng đến với một người ngay lúc y sắp chìm vào giấc ngủ. Y có cảm tưởng rằng có rất nhiều điều đang diễn ra—rằng có nhiều chuyển động đang xảy ra—nhưng ý nghĩa chính xác của tất cả điều ấy lại lẩn tránh y; và khi y ở bờ mép của sự thấu hiểu, hoặc y mất tâm thức hoặc nhận ra rằng những thị kiến trượt khỏi y. Nhưng “đó chính là những kết cục duy nhất mà theo lẽ tự nhiên có thể đến với tình trạng nửa tỉnh ấy. Tâm thức của người ấy nửa ở trong vận cụ hồng trần và nửa ở trong cõi cảm dục, do đó mọi sự thuộc về thế giới sau chỉ được bán thấy và bán nhận. Lối thoát khỏi tình trạng trung gian ấy hoặc phải tiến lên hoặc lùi lại; hoặc người ấy rơi lùi vào trạng thái thức, và lúc đó những hình tướng cảm dục nắm bắt được một nửa sẽ tan biến, hoặc y phải đi tới tâm thức cảm dục trọn vẹn, trong trường hợp ấy y cắt lìa liên hệ với bộ não hồng trần và đánh mất mọi ký ức về những gì xảy ra. Ý tôi, dĩ nhiên, không phải là chính con người ấy mất ký ức ngay lúc đó, vì y tiến thẳng vào tâm thức đầy đủ hơn; mà là khi y trở về với bộ não hồng trần vào buổi sáng, y thấy rằng ngay tại điểm đó ký ức của y dừng lại. Có một lối thoát thứ ba—phát triển tâm thức liên tục; nhưng điều ấy đòi hỏi rất nhiều thực nghiệm nhẫn nại và lao động gian khổ.)

IX. False Dreams—IX. Những Giấc mơ Giả

One of the most instructive dreams I ever had was a false one. It was so vivid, was followed by such detailed and profuse physical-plane corroborations, involved such seemingly strong occult authority, that the lesson I received when I learnt that the whole affair was untrustworthy became very precious to me; and struck a note of caution which I shall always remember in dealing with psychic or superphysical matters.

Một trong những giấc mơ dạy dỗ tôi nhiều nhất lại là một giấc mơ giả. Nó sống động đến mức lạ thường, lại được tiếp nối bởi những xác chứng ở cõi hồng trần chi tiết và dồi dào, liên quan đến thẩm quyền huyền bí có vẻ rất mạnh mẽ, đến nỗi bài học tôi nhận được khi biết rằng toàn bộ sự việc không đáng tin trở nên vô cùng quý báu đối với tôi; và gióng lên một âm điệu cảnh giác mà tôi sẽ luôn ghi nhớ khi xử lý các vấn đề thông linh hay siêu vật lý.

For obvious reasons I cannot here indicate names; this would be bad taste and indiscreet, as too intimate feelings are connected with the story. I shall therefore indicate my personages by the letters of the alphabet.

Vì những lý do hiển nhiên, tôi không thể nêu tên ở đây; làm thế là khiếm nhã và thiếu thận trọng, vì có những cảm xúc quá thân mật gắn với câu chuyện. Do đó, tôi sẽ ký hiệu các nhân vật của mình bằng các chữ cái trong mẫu tự.

IX.21. A Salutary Object Lesson. X was a person enjoying the highest respect in a circle of friends, named A, B, C, etc., all of whom regarded X more as a guru, teacher, guide, and a highly evolved Occultist than as an equal. I myself had also a very high regard for X, but had come to the conclusion that I must base my estimate of him on all such good and noble qualities as I myself recognised and saw manifested in him, and not on any claim on his behalf of occult greatness or hidden attainments. X died, and fairly soon after his death I had a particularly vivid dream in which Mrs. Besant visited me – she was unmistakably and most livingly represented – and chid me for having undervalued X during his lifetime. She added: “If you had only known how great he was, and who he has been, you would have honoured him more.” My answer was to the effect that I was sorry if I had underestimated him, but that I was not able to do better than to recognise greatness to the extent that I realised it myself, and that it was not possible to appreciate qualities which I only knew by reputation and not by experience. And I asked who then X had been. Mrs. Besant answered that X had been Julius Caesar and Marcus Aurelius.

IX.21. Một Bài Học Cảnh Tỉnh Bổ Ích . X là một người được trọng vọng bậc nhất trong một vòng bạn hữu, ký hiệu A, B, C, v.v., tất cả đều xem X như một guru, một huấn sư, một người dẫn dắt và một nhà huyền bí học tiến hóa cao, hơn là một người ngang hàng. Bản thân tôi cũng rất kính trọng X, nhưng đi đến kết luận rằng tôi phải đặt đánh giá của mình về y trên tất cả những phẩm hạnh tốt đẹp và cao quý mà chính tôi nhận ra và thấy biểu lộ nơi y, chứ không dựa trên bất kỳ lời tuyên xưng nào thay cho y về sự vĩ đại huyền bí hay những thành tựu ẩn tàng. X qua đời, và chẳng bao lâu sau khi y mất, tôi có một giấc mơ đặc biệt sinh động trong đó Bà Besant đến thăm tôi—hình bóng Bà hiện lên rõ ràng và sống động không thể lầm lẫn—và quở trách tôi vì đã xem nhẹ X trong đời y. Bà nói thêm: “Nếu anh chỉ biết y vĩ đại dường nào, và y đã từng là ai, hẳn anh đã tôn kính y nhiều hơn.” Câu trả lời của tôi đại ý rằng tôi rất tiếc nếu tôi đã đánh giá thấp y, nhưng tôi không thể làm gì hơn ngoài việc thừa nhận sự vĩ đại tới mức tôi tự mình nhận ra, và rằng không thể trân trọng những phẩm chất mà tôi chỉ biết qua lời đồn chứ không qua kinh nghiệm. Và tôi hỏi vậy X đã từng là ai. Bà Besant đáp rằng X đã từng là Julius Caesar và Marcus Aurelius.

Next day I told this dream to A, who congratulated me on having had it and told me it was true. When I told the dream to B, he told me that already twenty years ago the same message had come to him through spiritualistic channels. Some time later C told me that she had heard a voice adding another incarnation (I withhold details of this for certain reasons) and D told me that Master K. H. Himself had come to him one day at noon (in meditation, I think) and had also given the two identifications which I received from Mrs. Besant in my dream. Now, previously, in my waking consciousness, I knew nothing of the existence of these identifications; only later I became aware that the circle of friends (A, B, C, etc.) had an elaborate list of identifications of various incarnations of X.

Ngày hôm sau tôi kể giấc mơ này cho A, người chúc mừng tôi vì đã có nó và nói với tôi rằng điều đó là đúng. Khi tôi kể giấc mơ cho B, y nói với tôi rằng cách đây đã hai mươi năm y đã nhận được cùng một thông điệp qua các kênh thần linh học. Vài lâu sau C nói với tôi rằng cô đã nghe một giọng nói bổ sung một hóa thân khác (vì một số lý do tôi giữ kín chi tiết này) và D nói với tôi rằng chính Chân sư KH một ngày nọ vào buổi trưa (tôi nghĩ là trong lúc tham thiền) đã đến với y và cũng đưa ra hai xác nhận mà tôi nhận được từ Bà Besant trong giấc mơ. Trước đó, trong tâm thức thức tỉnh của mình, tôi hoàn toàn không biết đến sự tồn tại của những xác nhận này; chỉ về sau tôi mới biết rằng vòng bạn hữu (A, B, C, v.v.) có một danh mục công phu về các xác nhận những hóa thân khác nhau của X.

Mrs. Besant, whom I met for the first time two years after the experience, denied that she had visited and given me the above information, and Mr. Leadbeater traversed the correctness of the identifications. Nevertheless there remained the fact that in my dream I was told two names which were known in this connection to some other people; and further that some of these names had been communicated to some of these people at various periods, by various means, and in one case seemingly by one of the Masters.

Bà Besant, người mà tôi gặp lần đầu tiên hai năm sau trải nghiệm ấy, phủ nhận rằng Bà đã đến thăm và cho tôi biết các thông tin trên, và Ông Leadbeater thì bác bỏ tính đúng đắn của những xác nhận ấy. Tuy nhiên, vẫn còn đó sự kiện rằng trong giấc mơ tôi đã được cho biết hai cái tên vốn được vài người khác biết trong mối liên hệ này; hơn nữa, một số tên trong đó đã được truyền đạt cho một vài người này ở những thời điểm khác nhau, bằng nhiều phương tiện khác nhau, và trong một trường hợp dường như bởi một trong các Chân sư.

My own guess at what really happened is as follows A had his information from his own power to look up incarnations. He was ‘occultly’ closest to X, and his chief disciple, as it were. He may have regretted that I was not sufficiently strong in the faith, and may have thought: “He does not believe me; perhaps he will believe when A. B. tells him. I wish that A. B. would tell him.” Falling asleep with this strong wish, he may. have assumed Mrs. Besant’s form on the astral plane and spoken to me himself, with the result as related above. This is only a surmise and goes no further than this. At all events, seeing the clearness and vividness of the impression, the outside physical plane corroboration, and the mise-en-scène of Master K. H., this experience has been a formidable warning to me, which I.am indeed thankful to have received.

Phỏng đoán riêng của tôi về điều thực sự đã xảy ra như sau: A có thông tin của mình từ chính năng lực tra cứu các hóa thân. “Về mặt huyền bí”, y gần gũi với X nhất, như thể là đệ tử chính của y. Có thể y đã tiếc rằng tôi không đủ vững tin, và có thể đã nghĩ: “Anh ta không tin tôi; có lẽ anh ta sẽ tin khi A. B. nói với anh ta. Ước gì A. B. nói với anh ta.” Khi chìm vào giấc ngủ với ước muốn mạnh mẽ ấy, y có thể đã khoác lấy hình dạng của Bà Besant trên cõi cảm dục và tự mình nói chuyện với tôi, đưa đến kết quả như đã kể trên. Đây chỉ là một phỏng đoán và không đi xa hơn thế. Dù sao đi nữa, xét đến độ rõ ràng và sống động của ấn tượng, sự xác chứng bên ngoài ở cõi hồng trần, và bối cảnh dàn dựng liên quan đến Chân sư KH, trải nghiệm này đã là một lời cảnh tỉnh nghiêm khắc đối với tôi, mà thực sự tôi rất biết ơn vì đã nhận được.

[CWL note] (In the case of the twenty-first experience, the explanation given by the author himself is distinctly the most probable. It may be said that, if this be true, no one may safely trust to any astral impression, as it is always possible that there may be a case of personation. That is true; personation is undoubtedly much easier in the astral world than in the physical, and only a trained Occultist is thoroughly armed against it. This is a fact which all students of the occult have to face, and it is for this reason that emphatic warnings have been constantly given against placing undue reliance upon information conveyed in this manner. We shall all remember the advice given so decidedly by Aryasangha in The Voice of the Silence: “Look not for thy Guru in those mayavic regions.” It is of course perfectly possible that any member may meet our President at night in the astral world, and obtain from her valuable information or teaching; but it is also true that the average member has no guarantee that it is really the President whom he has seen, or that, even if it were she, he has brought through the message correctly. It is part of the training of the Occultist to learn how to detect impostures. The only absolutely certain way of doing this is to trace the ego behind the figure which is seen and to be able to do this naturally requires the unfolding of the faculties of the causal body. Short of that, one may develop an instinct with regard to a particular person which is usually reliable – usually, but not invariably; but for most members it is emphatically advisable to write and obtain confirmation on the physical plane when the matter is of any importance.

[Ghi chú của CWL] (Trong trường hợp trải nghiệm thứ hai mươi mốt, lời giải thích do chính tác giả đưa ra rõ ràng là khả dĩ nhất. Có thể nói rằng, nếu điều đó là đúng, thì không ai có thể an toàn tin cậy vào bất kỳ ấn tượng cảm dục nào, vì luôn có khả năng xảy ra trường hợp mạo danh. Điều đó đúng; mạo danh ở cõi cảm dục không nghi ngờ gì dễ hơn ở cõi hồng trần, và chỉ một nhà huyền bí học được đào luyện mới có thể hoàn toàn được trang bị chống lại nó. Đây là một sự kiện mà mọi đạo sinh huyền bí đều phải đối mặt, và chính vì thế mà những lời cảnh báo cương quyết đã liên tục được đưa ra chống lại việc đặt quá nhiều tin cậy vào thông tin được truyền đạt theo cách này. Chúng ta đều nhớ lời khuyên được Aryasangha đưa ra rất dứt khoát trong Tiếng Nói của Im Lặng : “Đừng tìm Minh sư của con trong những miền ảo lực ấy.” Tất nhiên hoàn toàn có thể là bất kỳ hội viên nào cũng có thể gặp Chủ tịch của chúng ta vào ban đêm ở cõi cảm dục, và nhận từ Bà những thông tin hay chỉ dạy quý giá; nhưng cũng đúng là người hội viên trung bình không có đảm bảo rằng quả thật đó là chính vị Chủ tịch mà y đã thấy, hoặc dẫu có là Bà đi nữa, y đã truyền đạt lại thông điệp cho não bộ một cách đúng đắn. Một phần của sự đào luyện nhà huyền bí học là học cách phát hiện các trò lừa mị. Cách tuyệt đối chắc chắn duy nhất để làm điều này là lần theo chân ngã đứng đằng sau hình bóng được thấy, và để làm được điều đó một cách tự nhiên, tất yếu đòi hỏi sự khai mở các năng lực của thể nguyên nhân. Thiếu điều ấy, người ta có thể phát triển một trực giác liên hệ đến một cá nhân nhất định vốn thường đáng tin—thường thôi, chứ không phải luôn luôn; nhưng đối với đa số hội viên thì rất nên viết thư và nhận xác nhận trên cõi hồng trần khi vấn đề có tầm quan trọng nào đó.

I may mention that I myself well knew and greatly liked the character named X; but he had not the slightest resemblance either to Julius Caesar or Marcus Aurelius.

Tôi có thể nói thêm rằng chính tôi rất hiểu và rất quý mến nhân vật mang tên X; nhưng y chẳng có chút giống nào, dù là nhỏ nhất, với Julius Caesar hay Marcus Aurelius.

Students should endeavour to realise that the mere possession of astral sight no more enables them to judge accurately on astral matters than the physical sight of a newly-born baby gives him an accurate impression of physical distance. Much undeserved discredit has been cast upon occult study by the blind belief of its neophytes in the accuracy of everything which they happen to see and to hear in their earlier astral experiences.)

Các đạo sinh nên cố gắng nhận ra rằng chỉ sở hữu thị kiến cảm dục không khiến họ có khả năng phán đoán chuẩn xác về các vấn đề cảm dục, cũng như thị giác thể chất của một đứa trẻ sơ sinh không cho nó một ấn tượng chính xác về khoảng cách vật lý. Nhiều tai tiếng không đáng đã đổ lên việc học hỏi huyền bí do niềm tin mù quáng của những người sơ cơ vào tính chính xác của mọi điều họ tình cờ thấy và nghe trong những trải nghiệm cảm dục buổi đầu của mình.)

X. MUSICAL FORMS—X. CÁC HÌNH THỂ ÂM NHẠC

Of visual impressions akin to Mr. Leadbeater’s descriptions and pictures in the book on Thought-Forms, I have experienced none. Music sometimes suggests forms to me, but without accompanying vision. There is a phrase in the Kreuzer Sonata, for instance, which suggests a waterfall or a big wave breaking with a deep boom. Such suggested forms, however, I do not intend to describe. They seem to belong to the simpler and more exterior forms of mechanical association.

Về những ấn tượng thị giác tương tự các mô tả và bức vẽ của Ông Leadbeater trong cuốn Hình Tư Tưởng , tôi thì không có trải nghiệm nào. Âm nhạc đôi khi gợi cho tôi những hình thể, nhưng không kèm theo thị kiến. Có một câu nhạc trong Bản Sonata Kreutzer , chẳng hạn, gợi lên một thác nước hay một con sóng lớn đang vỡ tung với tiếng ầm trầm sâu. Tuy nhiên, tôi không có ý định mô tả những hình thể do gợi ý như vậy. Chúng dường như thuộc về những dạng liên tưởng máy móc đơn giản và bề ngoài hơn.

X.22. A Cathedral and Angels. In Amsterdam I once heard Bach’s Missa Solemnis executed by Mengelberg’s famous band. At a given stage I saw the walls of a magnificent Gothic cathedral slowly arise. The lines and disposition of these walls were in harmony with the strains of the music, and as the music proceeded so did the walls rise up. At last they were completed up to the roof. At this point a new motif or a new movement commenced, and the picture followed suit; the roof remained absent, but instead of further construction angels came from above, descended and flew upwards again. There was a system of graceful response and counter-response between these angelic visitors, bringing messages from on high and answering from below. It was a sort of chorus and anti-chorus. All this again was in complete harmony with the music. Then again the music changed and the vision disappeared. What puzzles me specially in this vision is the appearance of orthodox angels, parfaitement en règle. I don’t believe in them in the Christian sense and form, and had no reason to think on ecclesiastical lines. I knew that the composition was a Mass; but I was merely following and enjoying the music as music.

X.22. Một Nhà Thờ Lớn và Các Thiên Thần. Ở Amsterdam, có lần tôi nghe Missa Solemnis của Bach do dàn nhạc lừng danh của Mengelberg trình diễn. Đến một đoạn nhất định, tôi thấy những bức tường của một nhà thờ Gothic tráng lệ từ từ vươn lên. Các đường nét và sự bố trí của những bức tường này hòa điệu với những cung bậc của âm nhạc, và khi âm nhạc tiếp diễn thì các bức tường cũng tiếp tục dựng lên. Cuối cùng chúng hoàn tất đến tận mái. Ở điểm này một mô-típ mới hay một chuyển đoạn mới bắt đầu, và bức tranh cũng thay đổi theo; mái vẫn vắng bóng, nhưng thay vì tiếp tục công trình, các thiên thần từ trên cao giáng xuống rồi lại bay lên. Có một nhịp điệu đáp ứng và đối đáp uyển chuyển giữa những vị khách thiên giới ấy, mang thông điệp từ trên cao và hồi đáp từ bên dưới. Đó là một kiểu hợp xướng và đối xướng. Tất cả điều này một lần nữa hoàn toàn hòa hợp với âm nhạc. Rồi âm nhạc lại đổi, và thị kiến biến mất. Điều khiến tôi đặc biệt bối rối trong thị kiến này là sự xuất hiện của những thiên thần theo lối chính thống, hoàn toàn đúng lề lối . Tôi không tin vào họ theo nghĩa và hình thức Ki-tô giáo, và cũng không có lý do gì để suy nghĩ theo đường hướng giáo hội. Tôi biết bản nhạc là một Thánh lễ; nhưng tôi chỉ đơn giản theo dõi và thưởng thức âm nhạc như âm nhạc.

In speaking about this matter with a friend recently, she told me that she had once had a similar experience. Hearing some music she suddenly saw a gigantic face, and though she hears very much music she had never had another such vision.

Khi gần đây nói về chuyện này với một người bạn, cô kể rằng mình cũng từng có một trải nghiệm tương tự. Nghe một bản nhạc, cô bỗng nhiên thấy một gương mặt khổng lồ, và tuy cô nghe nhạc rất nhiều, cô chưa bao giờ có một thị kiến nào khác như vậy.

These two experiences here related, are, I think, different in nature from what I call the suggestions arising from listening to music. With these one can trace the link, with the former that is not the case. So I have always associated a certain composition by Chopin with Morocco, most likely because whilst hearing the piece played for the first time, I was reading Hall Caine’s Scapegoat, and because the melancholic and exotic nature of the music fitted in on that occasion with the mood produced by the book.

Hai trải nghiệm được kể ở đây, theo tôi, khác về bản chất với điều tôi gọi là những gợi ý nảy sinh khi nghe nhạc. Với những gợi ý đó, người ta có thể lần ra mối liên kết; còn với những cái trước thì không. Chẳng hạn, tôi luôn liên tưởng một bản nhạc nào đó của Chopin với Maroc, rất có thể vì trong khi nghe bản ấy lần đầu, tôi đang đọc Kẻ Thế Tội của Hall Caine, và bởi vì nét sầu muộn và sắc thái ngoại lai của bản nhạc, vào dịp đó, đã đi đôi với tâm trạng do cuốn sách gợi lên.

[CWL note] (The special picture seen in the twenty-second experience may well have been of this nature. Our author wonders that he should have seen angels in the curious and anatomically incorrect form usually adopted by Christian painters; but he is perhaps overlooking the fact that what he saw was not his own thought-form, but probably that of the composer. There is still another possibility – that it may have been the thought-form of some devout auditor, who had heard the composition frequently, and associated it with such a vision as is described; but it is on the whole more probable that we owe so large and so well ordered a form to the marvellous genius of the great musician.

[Ghi chú của CWL] (Bức tranh đặc thù được thấy trong trải nghiệm thứ hai mươi hai rất có thể thuộc loại này. Tác giả của chúng ta lấy làm lạ khi mình lại thấy các thiên thần ở hình thức kỳ lạ và không đúng giải phẫu như các họa sĩ Ki-tô giáo thường vẽ; nhưng có lẽ ông bỏ quên một thực tế là những gì ông thấy không phải là hình tư tưởng của riêng ông, mà rất có thể là của nhà soạn nhạc. Cũng còn một khả năng khác—đó có thể là hình tư tưởng của một thính giả mộ đạo nào đó, người đã nghe bản nhạc nhiều lần, và liên kết nó với một thị kiến như mô tả; nhưng xét chung, có lẽ chúng ta mắc nợ thiên tài kỳ diệu của nhà soạn nhạc vĩ đại kia về một hình thể vừa đồ sộ vừa có trật tự như thế.

The gigantic face seen by a friend is a phenomenon that we can hardly pretend to diagnose without a good deal more information than is given to us. If the music was devotional in character, it may perhaps have been someone s idea of a Divine Face. Or again it may have been a real apparition of one of the great musical angels, or possibly a personification of some of the great powers of nature.)

Còn gương mặt khổng lồ mà người bạn trông thấy là một hiện tượng mà chúng ta khó có thể dám chẩn đoán nếu không có nhiều thông tin hơn. Nếu bản nhạc mang tính chất sùng tín, có lẽ đó là ý niệm của ai đó về một Tôn Nhan Thiêng Liêng. Hoặc cũng có thể đó là sự xuất hiện thật sự của một trong những thiên thần âm nhạc vĩ đại, hay có khi là một sự nhân cách hóa một vài quyền năng lớn của thiên nhiên.)

XI. NATURAL BEAUTY—XI. VẺ ĐẸP THIÊN NHIÊN

One experience in connection with the beauty of natural scenery stands isolated. It is remarkable enough to relate, however.

Một trải nghiệm liên quan đến vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên đứng riêng lẻ. Tuy vậy, nó đủ đáng kể để thuật lại.

XI.23. In the Vosges. Some five years ago I made a motor trip in the Vosges with my friends Mr. A. Ostermann, Professor O. Penzig, and Mr. Leadbeater. We left Colmar, in Alsace, went to Gérardmer, in France, and returned to Colmar, crossing the beautiful pass named the Schlucht. We went home towards evening, and when we neared the Schlucht the sun was setting. Alsace with its quaint old towns and villages, itself a broad, flat and verdant valley in which the Rhine winds its silvery stream, flanked on both sides by the Vosges and the Black Forest, both equally beautiful – Alsace is altogether a delightful country. On this occasion the beauty of the Vosges struck me again greatly, and whilst the motor-car was spinning ahead I tried to drink in all the beauty of hillside and valley, of clouds and sun, of pine-forests and rocks. Suddenly a sharp curve of the road changed the position of the car and a new view lay spread out before our sight. At that very moment, a sensation of utter ecstasy, of utter beauty, struck me, so to say, full in the chest; a sensation of such overwhelming happiness and at the same time such strangely deep and endless sadness, that I had to take a firm grip of myself not to cry out. As a matter of fact I felt tears well up in my eyes, and the slightest provocation would have made me weep. The emotion was purely an artistic one, and that accounts for the happiness, but I am ignorant why sadness should have been mingled with it.

XI.23. Ở dãy Vosges. Chừng năm năm trước tôi thực hiện một chuyến đi xe hơi ở Vosges với các bạn tôi là Ông A. Ostermann, Giáo sư O. Penzig, và Ông Leadbeater. Chúng tôi rời Colmar, ở Alsace, đi đến Gérardmer, bên Pháp, và trở về Colmar, băng qua đèo tuyệt đẹp tên là Schlucht. Chúng tôi trở về nhà vào lúc về chiều, và khi tới gần Schlucht thì mặt trời đang lặn. Alsace với những thị trấn và làng mạc cổ kính duyên dáng, bản thân là một thung lũng rộng, phẳng và xanh tươi nơi sông Rhine uốn khúc dòng bạc của mình, kẹp hai bên là Vosges và Rừng Đen, cả hai đều đẹp như nhau—Alsace quả là một xứ sở dễ mến. Lần này, vẻ đẹp của Vosges lại gây ấn tượng mạnh với tôi, và trong khi chiếc xe hơi lao vút về phía trước tôi cố uống cho đầy vẻ đẹp của sườn đồi và thung lũng, của mây và mặt trời, của rừng thông và đá tảng. Đột nhiên một khúc cua gắt của con đường đổi hướng chiếc xe và một cảnh quang mới trải rộng trước mắt chúng tôi. Ngay khoảnh khắc ấy, một cảm giác ngây ngất tột cùng, một vẻ đẹp tột cùng, như đánh ập vào ngực tôi; một cảm giác hạnh phúc tràn ngập và đồng thời là một nỗi buồn sâu lạ lùng và dường như bất tận, đến nỗi tôi phải ghìm chặt mình để khỏi bật thành tiếng. Thực tế là tôi cảm thấy nước mắt trào lên mắt, và chỉ cần một khích động nhỏ nhất cũng đủ khiến tôi òa khóc. Xúc cảm này hoàn toàn mang tính nghệ thuật, và đó là lý do của hạnh phúc; còn vì sao nỗi buồn lại hòa lẫn với nó thì tôi không rõ.

This emotion, provoked by either artistic or other causes, I have never before or since felt in any like measure. I am not an emotional man in these matters and I have seen, in three parts of the world, enough beautiful scenery to make me look in vain for an adequate reason for this particular experience. Furthermore I had motored some thousands of miles in and around Alsace without ever experiencing such a feeling. Therefore I simply note it down and add it to my record.

Xúc cảm này, cho dù được khơi dậy bởi nghệ thuật hay nguyên do nào khác, trước đó và từ đó đến nay tôi chưa từng cảm thấy ở mức độ nào tương tự. Tôi không phải là người dễ xúc cảm trong những chuyện này, và tôi đã nhìn thấy, ở ba phương trời, đủ phong cảnh đẹp để khó lòng tìm ra một lý do tương xứng cho trải nghiệm đặc biệt này. Hơn nữa, tôi đã lái xe hàng nghìn dặm trong và quanh Alsace mà chưa hề trải nghiệm cảm giác như thế. Bởi vậy tôi chỉ ghi nhận nó và thêm vào ký sự của mình.

[CWL note] (The twenty-third experience comes evidently from a definitely exterior source. As our author points out, he has seen many beautiful landscapes in various countries, yet they have never produced upon him at all the same kind of impression. Indeed, I believe he had passed over that very spot at other times without unusual agitation. Clearly, therefore, the emotion was not his own, but was impressed upon him from outside. The most probable explanation is that someone of acute perception and intense artistic feeling had recently been admiring the view from that particular spot – had perhaps even been painting it; and that our author happened just at that moment to be sufficiently in sympathy with the mental attitude of that artist to absorb and to reproduce fully all that he felt. Another possibility is that for the moment our author came into union with the angel or great nature-spirit ensouling that particular part of the country. This hypothesis, however, is less likely than the other, since he describes a strong feeling of sadness as part of his experience – an emotion which is little likely to have been part of what may be called the sensations of Nature itself. Either of these temporary unifications of consciousness with another entity is possible to any sensitive person; but he must have within himself the sympathy to understand and the power to respond.)

[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm thứ hai mươi ba hiển nhiên đến từ một nguồn bên ngoài rõ rệt. Như tác giả của chúng ta chỉ ra, ông đã thấy nhiều phong cảnh đẹp ở nhiều quốc gia, vậy mà chúng chưa bao giờ tạo nên trong ông cùng loại ấn tượng như thế. Thật vậy, tôi tin rằng ông đã đi qua chính điểm ấy vào những lần khác mà không có xao động khác thường. Rõ ràng, do đó, xúc cảm ấy không phải của riêng ông, mà được ấn nhập vào ông từ bên ngoài. Lời giải thích có khả năng nhất là có ai đó với tri giác tinh tế và cảm xúc nghệ thuật mãnh liệt đã ngắm cảnh ở chỗ ấy gần đây—thậm chí có lẽ còn đang vẽ nó; và tác giả của chúng ta, đúng vào lúc đó, đã đủ đồng cảm với thái độ thể trí của người nghệ sĩ kia để hấp thu và tái hiện trọn vẹn mọi điều người ấy cảm nhận. Một khả năng khác là trong khoảnh khắc ấy tác giả của chúng ta đã hợp nhất với thiên thần hay đại tinh linh thiên nhiên phú linh cho phần xứ sở đặc thù đó. Tuy nhiên, giả thuyết này kém khả dĩ hơn giả thuyết kia, vì ông mô tả một cảm giác buồn mạnh mẽ như một phần của trải nghiệm—một xúc cảm khó có thể là một phần của cái mà ta có thể gọi là các cảm giác của tự nhiên tự thân. Bất kỳ sự hợp nhất tạm thời nào của tâm thức với một thực thể khác cũng đều khả hữu đối với một người nhạy cảm; nhưng người ấy phải có trong mình sự đồng cảm để thấu hiểu và năng lực để đáp ứng.)

Leave a Comment

Scroll to Top