04. Chân thần— CHƯƠNG 4: MỘT TRƯỜNG HỢP PHÁT TRIỂN THÔNG LINH

CHAPTER IV: AN INSTANCE OF PSYCHIC DEVELOPMENT

PSYCHIC development of all kinds is wonderfully quickened just now by the great inrush of spiritual force which is preparing the world for the Coming of its Teacher; and naturally the opportunities for such development offer themselves most readily to those who put themselves directly in the way of that mighty current of force by working in connec­tion with the expected Advent. In the previous chapter I gave an instance of the abnormally rapid unfoldment of the buddhic faculty by means of the power of love; this case which I shall describe belongs to another line, for this time it is the faculty of the causal body which is aroused through the mental vehicle, by putting an undue strain upon the physical brain. But I cannot say to our readers in this case, as in the other: “Go thou and do like­wise”; for the mental strain is a serious danger. It happened for once to lead to psychic develop­ment; but far more often it results in nervous breakdown of the gravest character, or even in brain lesion and insanity. The account sent to me is as follows:

Sự phát triển thông linh hiện đang được tăng tốc một cách kỳ diệu nhờ dòng năng lượng tinh thần mạnh mẽ chuẩn bị thế giới cho sự Tái Lâm của Vị Giáo Chủ; và tự nhiên là cơ hội cho sự phát triển này dễ dàng đến với những ai đặt mình vào dòng chảy mạnh mẽ đó bằng cách làm việc liên quan đến sự Tái Lâm sắp tới. Trong chương trước, tôi đã đưa ra một ví dụ về sự khai mở bất thường của năng lực bồ-đề thông qua sức mạnh của tình yêu; trường hợp mà tôi sẽ mô tả thuộc về một hướng khác, vì lần này là năng lực của thể nguyên nhân được khơi dậy thông qua thể trí, bằng cách đặt một áp lực quá mức lên bộ não thể xác. Nhưng tôi không thể nói với các độc giả trong trường hợp này, như trong trường hợp trước: “Hãy làm theo như vậy”; vì sự căng thẳng về trí tuệ là một nguy cơ nghiêm trọng. Đôi khi nó dẫn đến sự phát triển thông linh; nhưng thường hơn là nó dẫn đến sự suy sụp thần kinh nghiêm trọng hoặc thậm chí là tổn thương não và điên loạn. Báo cáo được gửi đến cho tôi như sau:

“When I was at College (about 1910) I took up the study of the calculus, which, as you know, is the [76] mathematics of variable quantities, the study of moving bodies and the like. From a variety of causes I was unable to do justice to the work day by day, and toward the end of the second term, when the day of examination in this was approaching, I was told by the lecturer that my work had been so unsatisfactory that unless I performed some miracle in the forth­coming examination he could not recommend me for a pass in the subject. I fully realised that he was quite right, and set about finding out how I could possibly score a high grade in the examination in order to offset the bad work during the year. I soon found that it would be impossible in the few days left to me really to understand the ground cover­ed, and that the only hope would lie in memorising the formulae and applying them in a mechanical fashion to problems given in the examination. I therefore set to work, first to understand the definitions used in the textbooks, and second to learn by rote all the important formulae. I work­ed very hard, far into the night, neglected other subjects, in which I felt sure of myself in any case, and resorted to all sorts of devices to gain time and keep awake. Bit by bit I covered all the important ground, but only by memorising, sometimes even visualising the appearance of a page or paragraph. The day of the examination I was utterly weary physically, but extraordinarily vivid mentally. I duly appeared, applied my crammed-up facts to the examination, and, as I subsequently found, wrote a paper with only one small mistake in arithmetical computation, or something like that. This was the [77] unexpected performance that the lecturer demand­ed, and he duly gave me a pass.

“Khi tôi học ở Đại học (khoảng năm 1910), tôi đã bắt đầu nghiên cứu môn giải tích, tức là toán học của các đại lượng biến thiên, nghiên cứu các vật thể chuyển động và những thứ tương tự. Vì nhiều lý do khác nhau, tôi không thể hoàn thành bài tập hàng ngày, và đến cuối kỳ học thứ hai, khi ngày thi môn này đang đến gần, giảng viên nói với tôi rằng công việc của tôi rất kém, và trừ khi tôi thực hiện được một điều kỳ diệu trong kỳ thi sắp tới, ông ấy sẽ không thể đề xuất cho tôi đậu môn này. Tôi hoàn toàn nhận ra rằng ông ấy hoàn toàn đúng và bắt đầu tìm cách làm thế nào tôi có thể đạt điểm cao trong kỳ thi để bù đắp cho công việc tồi tệ suốt năm qua. Tôi sớm nhận ra rằng sẽ không thể thực sự hiểu hết những gì đã học được trong vài ngày ngắn ngủi còn lại, và hy vọng duy nhất là ghi nhớ các công thức và áp dụng chúng một cách máy móc vào các bài tập trong kỳ thi. Tôi đã lao vào công việc, trước tiên là để hiểu các định nghĩa trong sách giáo khoa và sau đó học thuộc tất cả các công thức quan trọng. Tôi đã làm việc rất chăm chỉ, thức khuya và bỏ qua các môn khác mà tôi cảm thấy tự tin, và sử dụng mọi cách để tiết kiệm thời gian và giữ tỉnh táo. Từng chút một, tôi đã hoàn thành những phần quan trọng, nhưng chỉ bằng cách ghi nhớ, thậm chí đôi khi hình dung ra hình dạng của một trang hay một đoạn văn trong đầu. Ngày thi đến, tôi kiệt sức về thể chất nhưng tinh thần thì lại tỉnh táo khác thường. Tôi đã làm bài thi, áp dụng các kiến thức đã nhồi nhét vào, và như tôi biết sau này, chỉ mắc một lỗi nhỏ về tính toán. Đây là kết quả bất ngờ mà giảng viên yêu cầu, và ông ấy đã cho tôi qua môn này.

“Now the point of this episode comes in the sequel. I found in a few days, as is usual in such cases, that all the material which I had stuffed into my head was a rapidly-vanishing jumble; but as it disappeared, and as I resumed my physical norm (chiefly by long hours of sleep), I discovered that I had actually done something, either damage or benefit, to my mental machinery, and that my ability to picture things in my mind was tremend­ously enlarged. I now found that if I turned my mind upon something I had seen or experienced even years before, the image returned to me, not in the ordinary vague way, but with the most extraordin­ary clarity in detail, with accompanying attributes of all sorts. For instance, if I was recalling a scene in a wood, I could actually smell the damp earth or the burning fire! This amused me very much, as it was quite possible to get back into the past in momentary flashes of the utmost brilliancy. After a time, however, the power of commanding this strange faculty wore off, and I had to be con­tent with spontaneous outbursts which arose now and then through association. By the sight of a colour or some passing odour this latent power would suddenly put me into another time and place. Fortunately I could always banish the mental image, even though I could not call it up.

“Điểm chính của câu chuyện này đến ở phần sau. Chỉ vài ngày sau, như thường lệ trong những trường hợp như thế này, tất cả những kiến thức mà tôi đã nhồi nhét vào đầu trở thành một mớ hỗn độn dần dần biến mất; nhưng khi nó biến mất và tôi trở lại trạng thái bình thường về thể chất (chủ yếu nhờ giấc ngủ dài), tôi phát hiện ra rằng mình đã thực sự làm điều gì đó, có thể là tổn hại hoặc lợi ích, đối với bộ máy tinh thần của mình, và khả năng tưởng tượng của tôi đã được mở rộng một cách đáng kể. Tôi nhận ra rằng nếu tập trung tâm trí vào một điều gì đó mà tôi đã nhìn thấy hoặc trải qua cách đây nhiều năm, hình ảnh đó quay trở lại với tôi không phải là một cách mơ hồ như thường lệ, mà là một cách chi tiết cực kỳ rõ ràng, kèm theo mọi đặc tính khác. Ví dụ, nếu tôi nhớ lại cảnh trong rừng, tôi có thể thực sự ngửi thấy mùi đất ẩm hoặc ngọn lửa đang cháy! Điều này làm tôi thấy rất thích thú, vì tôi có thể trở lại quá khứ trong những khoảnh khắc lóe sáng rực rỡ. Sau một thời gian, khả năng điều khiển khả năng kỳ lạ này giảm dần, và tôi chỉ có thể dựa vào những đợt bộc phát tự phát xảy ra đôi khi thông qua sự liên tưởng. Khi nhìn thấy một màu sắc hoặc ngửi thấy một mùi thoáng qua, sức mạnh tiềm ẩn này sẽ bất ngờ đưa tôi vào một thời gian và địa điểm khác. May mắn là tôi luôn có thể xua tan hình ảnh trong đầu, dù không thể gọi nó lên theo ý muốn.

“After a time this gradually wore away into a lesser degree of brilliancy, and I was only occa­sionally edified by this annihilation of time and space. [78]

“Sau một thời gian, khả năng này dần mờ nhạt đi, trở thành một cấp độ sáng bóng ít hơn, và chỉ thỉnh thoảng tôi mới được hưởng cảm giác hủy diệt thời gian và không gian như vậy.

“But now, just lately, there has been a return, in a new phase, of the old thing. I have had to learn, during the last year or so, the Government regula­tions of a business which I am carrying on. This bad to be accomplished quickly, and I find that with this effort there is a return of the result which followed the previous effort, and, it is pleasant to note, with two new aspects; first that I am much more able to command and sustain any image that arises, and second that I can magnify the scene to a certain extent. Thus, if the picture includes a wall in the distance I can occasionally magnify it until the crannies are visible. And, what astonished me exceedingly, if there is a perfume, say, of flowers present, the same microscopic power can be turned on! Now the result is not intensification of the per­fume, as one might hastily conclude, but a roughen­ing of it. I mean by this that instead of getting thicker, in the sense that a heavy oil is thicker than water, the smell loses its smoothness and becomes (if one could feel it) like woollen cloth, or a basin of sand. For some reason I cannot perform this same enlarging trick with sound. At present there is no sign of any diminution of this curious phase of memory, but I have no doubt that it will fade away in large part, as I am too busy to undertake its cultivation.”

“Nhưng bây giờ, gần đây, có sự trở lại của điều đó, nhưng với một giai đoạn mới. Trong năm vừa qua, tôi phải học các quy định của chính phủ về một công việc kinh doanh mà tôi đang thực hiện. Việc này cần được thực hiện nhanh chóng, và tôi nhận thấy rằng với nỗ lực này, kết quả giống như lần trước lại xảy ra, và thú vị là lần này còn có hai khía cạnh mới; trước tiên là tôi có thể kiểm soát và duy trì hình ảnh nổi lên một cách mạnh mẽ hơn, và thứ hai là tôi có thể phóng đại cảnh đó lên một mức độ nhất định. Ví dụ, nếu trong hình ảnh có một bức tường ở xa, tôi có thể phóng to nó đến mức thấy được các khe nứt. Và điều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là nếu có mùi hương của hoa xuất hiện, khả năng phóng đại cũng có thể được áp dụng! Kết quả không phải là mùi trở nên đậm đặc hơn, mà là trở nên xù xì hơn. Ý tôi là mùi không trở nên đậm đặc như dầu nặng so với nước, mà nó mất đi độ mượt mà và trở nên như vải len hoặc bề mặt cát. Vì lý do nào đó, tôi không thể thực hiện cùng một thủ thuật này với âm thanh. Hiện tại không có dấu hiệu giảm bớt ở giai đoạn kỳ lạ này của ký ức, nhưng tôi không nghi ngờ rằng nó sẽ dần phai nhạt, vì tôi quá bận rộn để có thể trau dồi nó.”

What is happening in this case is obvious to any­one who has had experience in the use of the higher faculties. Instead of using his memory in the ordinary way, the student is coming into touch with the Records; and that means that he is to a certain [79] extent employing the faculties of his causal body. We are far from certain as to the exact method of ordinary memory, for the subject has not yet been investigated; but it is clear that a vibration in the mental body is part of what occurs, and that the causal body is not in any way involved. In the reading of the Records it is precisely this latter sheath through which the work is done, and the mental body vibrates only in response to the activi­ty of the causal. For that reason no satisfactory or reliable reading of the Records can be done without definite development of the vehicle of the ego.

Điều đang xảy ra trong trường hợp này là hiển nhiên với bất kỳ ai đã có kinh nghiệm trong việc sử dụng các năng lực cao hơn. Thay vì sử dụng trí nhớ theo cách thông thường, người học đang tiếp xúc với các Hồ Sơ (Records); và điều đó có nghĩa là anh ấy đang sử dụng đến một mức độ nhất định các năng lực của thể nguyên nhân. Chúng ta còn rất mơ hồ về phương pháp chính xác của trí nhớ thông thường, vì chủ đề này chưa được nghiên cứu; nhưng rõ ràng là một dao động trong thể trí là một phần của những gì xảy ra, và thể nguyên nhân không hề tham gia vào. Khi đọc các Hồ Sơ, chính thể bao bọc sau cùng này là nơi thực hiện công việc, và thể trí chỉ dao động để phản hồi lại hoạt động của thể nguyên nhân. Vì lý do đó, không thể có được sự đọc chính xác hay đáng tin cậy của các Hồ Sơ nếu không có sự phát triển rõ ràng của thể Chân ngã.

From the description which our student gives, it is clear that he was using his causal body in the glimpses of the past which he relates. It is also ­evident that that vehicle was aroused by the undue pressure put upon the mind by his reckless over­work. Most men would have ruined their health for life if they had pushed the strain as far as he did; he happens to be the one in a million who managed to do this thing and survive. The result is that his steady persistence in keeping up high mental undulations has stirred his causal body into activity, and thus endued him with a faculty differ­ent from any which he has before possessed.

Từ mô tả của người học, rõ ràng anh ấy đã sử dụng thể nguyên nhân trong những lần nhìn thoáng qua quá khứ mà anh ấy kể lại. Cũng dễ nhận thấy rằng thể đó đã được khơi dậy bởi áp lực quá mức đặt lên trí tuệ do sự làm việc quá sức một cách liều lĩnh của anh ấy. Đa số mọi người sẽ tổn hại sức khỏe suốt đời nếu họ chịu đựng căng thẳng đến mức anh ấy đã làm; anh ấy là một trong hàng triệu người có thể làm được điều này và vẫn sống sót. Kết quả là sự kiên trì không ngừng của anh ấy trong việc duy trì các dao động trí tuệ cao đã khuấy động thể nguyên nhân của anh ấy vào hoạt động, nhờ đó trao cho anh ấy một năng lực khác biệt so với bất kỳ khả năng nào anh ấy từng có.

So far it seems to waken only when he turns his thoughts to the past, and only in connection with scenes already familiar to him; but it is probable that he will soon find that he can extend its work­ing in various ways. When a scene is clearly in mind it might be possible to move backwards or forwards from it, and so recover detailed memory [80] of large sections of early life. Perhaps one could in this way push back recollection into childhood—back to birth itself, and even beyond; there have been those who in this manner have attained full knowledge of previous incarnations. Practice makes perfect; and it is encouraging that the power is much more under control now than formerly. The faculty of magnification is another conclusive proof that it is the causal body which is being used; this feature also might by degrees be largely increased, and when fully at the student’s disposal might be used (for example) to undertake researches into occult chemistry.

Đến nay, dường như khả năng này chỉ thức tỉnh khi anh ấy hướng suy nghĩ về quá khứ, và chỉ liên quan đến những cảnh mà anh ấy đã quen thuộc; nhưng có khả năng anh ấy sẽ sớm nhận ra rằng mình có thể mở rộng sự hoạt động của năng lực này theo nhiều cách khác nhau. Khi một cảnh tượng rõ ràng trong tâm trí, có thể sẽ có cách di chuyển về phía trước hoặc lùi lại từ nó, qua đó khôi phục ký ức chi tiết về các phần lớn của cuộc sống ban đầu. Có lẽ một người có thể theo cách này đẩy lùi ký ức về thời thơ ấu — trở về tận lúc sinh ra và thậm chí xa hơn nữa; đã có những người, theo cách này, đạt được tri thức đầy đủ về các kiếp trước. Luyện tập sẽ làm nên hoàn hảo; và thật đáng khích lệ khi thấy rằng quyền kiểm soát khả năng hiện tại đã trở nên mạnh mẽ hơn so với trước đây. Khả năng phóng đại là một bằng chứng thuyết phục khác cho thấy thể nguyên nhân đang được sử dụng; tính năng này cũng có thể dần dần được tăng cường nhiều hơn và khi hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của người học, nó có thể được sử dụng (ví dụ) để thực hiện các nghiên cứu về hóa học huyền bí.

The description of the “roughening” of the smell is most characteristic. The actual process of magni­fying consists not in increasing the size of the object examined, but in lessening the psychic lens through which that object is seen. In ancient scriptures it is said that the operator makes himself as small as he will, and so the organ of vision which he is using becomes commensurate with the microscopic size of that at which he looks. Consequently the tiny physical particles which call into action the sense of smell become separately appreciable, like the grains upon sandpaper, and so the sense of rough­ness is produced. It is a thing difficult to put into words, but anyone who has used the higher faculty will at once recognise our student’s attempt to express it.

Mô tả về sự “thô ráp” của mùi hương là rất đặc trưng. Quá trình phóng đại thực tế không phải là tăng kích thước của đối tượng được quan sát mà là giảm độ lớn của thấu kính tâm linh qua đó đối tượng được nhìn thấy. Trong các kinh điển cổ, người ta nói rằng người vận hành khiến mình trở nên nhỏ như ý muốn, và do đó cơ quan thị giác mà người đó đang sử dụng trở nên phù hợp với kích thước vi mô của thứ mà người đó đang nhìn. Do đó, các hạt vật lý nhỏ tí tạo ra cảm giác về mùi trở nên có thể được cảm nhận riêng rẽ, giống như các hạt cát trên giấy nhám, và do đó cảm giác thô ráp được tạo ra. Đây là một điều khó diễn đạt bằng lời, nhưng bất kỳ ai đã từng sử dụng năng lực cao hơn sẽ ngay lập tức nhận ra nỗ lực của người học trong việc diễn đạt nó.

He is much to be congratulated upon his result, though we certainly cannot recommend his method for imitation by others. Such development will [81] come easily and naturally when, in the course of human evolution, the mind has grown more nearly to the limit of its capabilities; but at our present stage such pressure is distinctly dangerous. That even this partial unfoldment should have been safely achieved is a sign of the times—a sign of the strength of the spiritual outpouring which even now is flooding the world. [82]

Anh ấy rất đáng được chúc mừng vì kết quả này, dù chắc chắn chúng tôi không thể khuyến khích phương pháp của anh ấy để những người khác bắt chước. Sự phát triển như vậy sẽ đến một cách dễ dàng và tự nhiên khi, trong quá trình tiến hóa của con người, trí tuệ đã tiến gần hơn đến giới hạn khả năng của nó; nhưng ở giai đoạn hiện tại của chúng ta, áp lực như vậy rõ ràng là nguy hiểm. Việc ngay cả sự phát triển một phần này cũng đã đạt được an toàn là một dấu hiệu của thời đại — một dấu hiệu của sức mạnh của sự tràn đổ tinh thần, hiện tại đang tràn ngập khắp thế giới.

Leave a Comment

Scroll to Top