7. The Working out of Karma
When the soul has lived out its devachanic life, and has assimilated all that it can of the material gathered during its last period on earth, it begins to be drawn again towards earth by the links of desire that bind it to material existence. The last stage of its life-period now lies before it, the stage during which it re-clothes itself for another experience of earthly life, the stage that is closed by the gateway of birth. | Khi linh hồn đã sống trọn đời sống devachan của mình và đã đồng hoá tất cả những gì có thể từ chất liệu thu thập được trong giai đoạn cuối cùng trên trần thế, nó bắt đầu bị thu hút trở lại trần gian bởi những sợi dây của ham muốn vốn trói buộc nó vào sự hiện tồn vật chất. Giai đoạn cuối cùng của chu kỳ sống của nó giờ đây hiện ra trước mắt—giai đoạn mà trong đó nó tự mặc lấy một lần nữa lớp áo cho kinh nghiệm sống trần thế tiếp theo, một giai đoạn kết thúc bởi cánh cửa sinh ra. |
The soul steps over the threshold of devachan into what has been called the plane of reincarnation, bringing with it the result, small or great, of its devachanic work. If it be but a young soul, it will have gained but little; progress in the early stages of soul evolution is slow to an extent scarcely realized by most students, and during the babyhood of the soul life-day succeeds life-day in wearying succession, each earth life sowing but little seed, each devachan ripening but little fruit. As faculties develop, growth quickens at an ever increasing rate, and the soul that enters devachan with a large store of material, comes out of it with a large increase of faculty, worked out under the general laws before stated. It issues from devachan clothed only in that body of the soul that [45] endures and grows throughout the manvantara, surrounded by the aura that belongs to it as an individual, more or less glorious, many-hued, luminous, definite, and extensive, according to the stage of evolution reached by the soul. It has been wrought in the heavenly fire, and conies forth as King Soma.[1] | Linh hồn bước qua ngưỡng cửa devachan để vào cái mà người ta gọi là cõi tái sinh, mang theo kết quả, dù nhỏ hay lớn, của công việc devachan. Nếu đó là một linh hồn còn non trẻ, nó sẽ chỉ thu được rất ít; sự tiến bộ trong những giai đoạn đầu của tiến hóa linh hồn diễn ra rất chậm, một mức độ mà hầu hết các đạo sinh khó có thể hình dung, và trong thời kỳ sơ khai của linh hồn, hết đời sống này đến đời sống khác nối tiếp nhau một cách mỏi mệt, mỗi kiếp sống trần gian gieo rất ít hạt giống, mỗi devachan chỉ làm chín rất ít hoa trái. Khi các năng lực phát triển, tốc độ tăng trưởng trở nên nhanh chóng với nhịp độ ngày càng tăng, và linh hồn bước vào devachan với một kho tàng chất liệu lớn sẽ bước ra khỏi đó với một mức gia tăng lớn về năng lực, được phát triển theo những định luật tổng quát đã nêu. Nó rời khỏi devachan chỉ khoác lấy thể của linh hồn, [45] thể ấy tồn tại và phát triển suốt thời kỳ manvantara, được bao quanh bởi hào quang thuộc về nó như một cá thể riêng biệt, rực rỡ hơn hay kém, nhiều màu hay ít, toả sáng hay mờ nhạt, rõ ràng hay lờ mờ, rộng lớn hay hạn chế—tùy theo trình độ tiến hoá mà linh hồn đã đạt được. Thể ấy đã được rèn luyện trong lửa thiên giới và bước ra như một Vị Vua Soma. |
Passing on to the astral plane on its earthward journey, it clothes itself anew in a body of desire, the first result of the workings out of its past karma. The mental images formed during the past “from materials supplied by the desire nature, that had become latent in consciousness, or what H. P. Blavatsky used to call ‘privations of matter,’ capable of existing, but out of material manifestation,” are now thrown outwards by the soul, and immediately attract to themselves from the matter of the astral plane the kamic elements congenial to their natures, and “become the appetites, passions, and lower emotions of his [the Ego’s] desire body for his new incarnation.”[2] When this work is accomplished—a work sometimes very brief, sometimes one that [46] causes long delay—the Ego stands in the karmic vesture he has prepared for himself, ready to be “clothed upon”, to receive from the hands of the agents of the great Lords of Karma the etheric double[3] built for him according to the elements he has himself provided, after which shall be shaped his physical body, the house which he must inhabit during his coming physical life. The individual and the personal Ego are thus immediately self-built, as it were—what he thought on, that he has become; his qualities, his “natural gifts”, all these appertain to him as the direct results of his thinking; the man is in very truth self-created, responsible, in the fullest sense of the word, for all that he is. | Tiến vào cõi cảm dục trên hành trình trở lại trần gian, nó lại khoác lên mình một thể ham muốn, kết quả đầu tiên của sự vận hành của nghiệp quả quá khứ. Những hình ảnh thể trí được tạo nên trong quá khứ—từ chất liệu cung cấp bởi bản chất ham muốn, vốn đã trở nên tiềm ẩn trong tâm thức, hay như cách gọi của Bà H. P. Blavatsky là “sự khuyết thiếu của chất liệu”, có khả năng tồn tại nhưng chưa biểu lộ dưới dạng vật chất—giờ đây được linh hồn phát ra, và lập tức hấp dẫn về phía mình, từ chất liệu của cõi cảm dục, các yếu tố thuộc bản chất kama phù hợp với chúng, và “trở thành các ham muốn, đam mê, và cảm xúc thấp kém trong thể ham muốn [của Chân ngã] cho lần nhập thể mới”. Khi công việc này hoàn tất—một công việc đôi khi diễn ra rất ngắn ngủi, đôi khi lại [46] gây ra sự trì hoãn lâu dài—Chân ngã đứng trong lớp áo nghiệp quả mà y đã tự chuẩn bị cho chính mình, sẵn sàng được “mặc lấy”, tức là tiếp nhận từ tay các tác nhân của các Đấng Đại Diêm Vương một thể dĩ thái kép được kiến tạo cho y, phù hợp với các yếu tố do chính y cung cấp, và sau đó thể xác sẽ được hình thành—ngôi nhà mà y sẽ cư ngụ trong đời sống trần thế sắp tới. Chân ngã cá nhân và cá thể vì vậy gần như được tự tạo nên—y đã nghĩ điều gì thì đã trở thành điều ấy; các phẩm tính, “năng khiếu tự nhiên” của y, tất cả những điều này thuộc về y như là kết quả trực tiếp của tư duy của y; con người thực sự là tự tạo nên chính mình, và chịu trách nhiệm, theo đúng nghĩa trọn vẹn của từ này, cho tất cả những gì y là. |
But this man is to have a physical and etheric body that will largely condition the exercise of his faculties; he is to live in some environment, and according to this will be his outward circumstances; he is to tread a path marked out by the causes he has set going, other than those which appear as effects in his faculties; he has to meet events joyful and sorrowful, resulting from the forces he has generated. Something more than his individual and personal nature [47] seems here to be needed: how is the field to be provided for its energies? How are the conditioning instruments and the reacting circumstances to be found and adapted? | Nhưng con người này sẽ có một thể xác và thể dĩ thái vốn sẽ phần lớn quyết định mức độ thi triển các năng lực của y; y sẽ sống trong một môi trường nào đó, và theo đó các hoàn cảnh bên ngoài sẽ được hình thành; y sẽ bước đi trên con đường đã được vạch ra bởi các nguyên nhân mà y đã tạo khởi, ngoài những nguyên nhân đã thể hiện thành các năng lực; y sẽ gặp phải những sự kiện vui và buồn, là kết quả của các mãnh lực mà y đã phát ra. Một điều gì đó vượt quá bản chất cá nhân và cá thể của y [47] dường như ở đây là cần thiết: làm sao có thể cung ứng một môi trường cho các năng lượng đó hoạt động? Làm sao có thể tìm ra và điều chỉnh những công cụ quyết định và những hoàn cảnh phản ứng thích hợp? |
We approach a region whereof little may be fitly said, in that it is the region of mighty spiritual Intelligences, whose nature is far beyond the scope of our very limited faculties, whose existence may indeed be known and whose workings may be traced, but towards whom we stand much in the position occupied by one of the least intelligent lower animals towards ourselves, in that it may know that we exist but can have no conception of the scope and workings of our consciousness. These Great Ones are spoken of as the Lipika and the Four Maharajahs. How little we can know of the Lipika may be seen from the following: | Chúng ta đang tiến đến một khu vực mà ít điều có thể nói ra một cách phù hợp, vì đây là khu vực của những Trí Tuệ tinh thần vĩ đại, bản chất của Các Ngài vượt xa phạm vi của những năng lực hết sức hạn chế của chúng ta; sự tồn tại của Các Ngài có thể được biết đến và những hoạt động của Các Ngài có thể được lần theo, nhưng chúng ta đứng trước Các Ngài cũng giống như một trong những loài động vật bậc thấp kém thông minh nhất đứng trước chúng ta—nó có thể biết rằng chúng ta hiện hữu, nhưng không thể nào hình dung được phạm vi và hoạt động của tâm thức chúng ta. Những Đấng Vĩ Đại này được nói đến như là các Đấng Lipika và Bốn Đại Vương Maharajah. Mức độ hiểu biết hạn hẹp của chúng ta về các Đấng Lipika có thể thấy được qua đoạn sau đây: |
The Lipika, a description of whom is given in Commentary 6 of Stanza IV, are the Spirits of the Universe…. [They] belong to the most Occult portion of cosmogenesis, which cannot be given here. Whether the Adepts—even the highest—know this angelic order in the completeness of its triple degrees, or only the lower one connected with the records of our world, is something which the writer is unprepared to say, and she would rather incline to the latter supposition. Of its highest grade one thing only is taught, the Lipika are connected with Karma—being its direct Recorders.[4] [48] | Các Đấng Lipika, như được mô tả trong Bình Giảng số 6 của Khổ Thứ Tư, là Các Đấng Linh Thần của Vũ Trụ… [Các Ngài] thuộc về phần huyền linh nhất trong tiến trình sáng tạo vũ trụ, phần không thể trình bày ở đây. Liệu các đạo đồ—ngay cả các vị cao nhất—có biết đầy đủ về trật tự thiên thần này trong sự viên mãn ba cấp bậc của nó, hay chỉ biết về cấp thấp hơn có liên hệ đến việc ghi chép của thế giới chúng ta, là điều mà tác giả không thể nói, và bà có khuynh hướng nghiêng về giả thuyết sau. Về cấp độ cao nhất của họ, chỉ có một điều được giảng dạy: các Đấng Lipika có liên hệ đến nghiệp quả—là các Ngài Ghi chép trực tiếp nghiệp quả. [48] |
They are the “Second Seven”, and they keep the astral records, filled with the akashic images before spoken of.1 They are connected | Các Ngài là “Bộ Bảy Thứ Hai”, và Các Ngài lưu giữ các ký lục cảm dục, chứa đầy các hình ảnh akasha như đã nói trước. Các Ngài có liên hệ đến |
With the destiny of every man, and the birth of every child.[5] | Số phận của mỗi con người, và sự ra đời của mỗi đứa trẻ. |
They give “the mould of the Etheric Double “,[6] which will serve as the type of the physical body suited for the expression of the mental and passional faculties evolved by the Ego that is to dwell therein, and They give it to “The Four “—to the Maharajahs, Who Are the protectors of mankind arid also the agents of Karma on Earth.[7] | Các Ngài ban “khuôn mẫu của thể dĩ thái kép”, khuôn mẫu này sẽ là bản thiết kế cho thể xác phù hợp với sự biểu lộ của các năng lực thể trí và thể cảm mà Chân ngã sẽ thể hiện trong đó, và Các Ngài ban khuôn mẫu đó cho “Bốn Vị”—cho các Maharajah, Các Ngài là những đấng bảo vệ nhân loại và cũng là các tác nhân của nghiệp quả trên Địa cầu. |
Of these H. P. Blavatsky, writes further, quoting the Fifth Stanza of the Book of Dzyan: | Về các Đấng này, Bà H. P. Blavatsky viết thêm, trích dẫn Khổ Thứ Năm trong Bộ Sách của Dzyan: |
Four “Winged Wheels at each corner… for the Four Holy Ones and Their Armies (Hosts).” These are the “Four Maharajahs,” or Great Kings of the Dhyan Chohans, the Devas, Who preside over each of the four cardinal points…. These Beings are also connected with Karma as the latter needs physical and material agents to carry out its decrees.[8] | “Bốn ‘Bánh Xe Có Cánh’ ở mỗi góc… là dành cho Bốn Đấng Linh Thánh và Các Đạo Binh của Các Ngài.” Đây là “Bốn Đại Vương Maharajah,” hay các Đại Vương của chư Dhyan Chohan, các Thiên Thần, Các Ngài chủ trì bốn phương chính… Các Vị này cũng có liên hệ với nghiệp quả, vì nghiệp quả cần các tác nhân vật chất và trần gian để thi hành các sắc lệnh của mình. |
Receiving the mould—once more the “privation of matter”—from the Lipika, the Maharajahs choose [49] for the composition of the etheric double the elements suited to the qualities that are to be expressed through it, and this etheric double thus becomes a fitting karmic instrument for the Ego, giving it alike the basis for expression of the faculties it has evolved, and the limitations imposed upon it by its own past failures and wasted opportunities. This mould is guided by the Maharajahs to the country, the race, the family, the social surroundings, which afford the most suitable field for the working out of the karma allotted to the particular life-span in question, that which the Hindu calls the prarabdha, or beginning, karma; i.e., that which is to be worked out in the opening life-period. In no one life can the accumulated karma of the past be worked out—no one instrument could be formed, no surroundings could be found, suitable for the expression of all the slowly evolved faculties of the Ego, nor affording all the circumstances necessary for reaping all the harvest sown in the past, for discharging all the obligations contracted towards other Egos with whom the incarnating soul has come into contact in the course of its long evolution. So much then of the total karma as can be arranged for in one life-period, has a suitable etheric double provided for it, the mould of that double being [50] guided to a suitable field. It is placed where the Ego may come into relations with some of such Egos, with whom it has been related in its past, as are present in, or are coming into, incarnation during its own life-period. A country is chosen where the religious, political and social conditions can be found which are suitable to some of its capacities, and afford the field for the occurrence of some of the effects it has generated. A race is selected—subject, of course, to the wider laws affecting incarnation in races, into which we cannot here enter—of which the characteristics resemble some of the faculties which are ripe for exercise, of which the type befits the incoming soul. A family is found in which physical heredity has evolved the kind of physical materials which, built into the etheric double, will adapt themselves to its constitution; a family of which the general or special physical organization will afford play to the mental and passional natures of the Ego. Out of the manifold qualities existing in the soul, and out of the manifold physical types existing in the world, such can be selected as are adapted to each other, a suitable casing can be built for the waiting Ego, an instrument and a field in which some of his karma can be out-worked. Fathomless to our short plummet lines as may be the knowledge and the [51] power required for such adaptations, we can yet dimly see that the adaptations can be made, and that perfect justice can be done; the web of a man’s destiny may indeed be composed of threads that to us are innumerable, and that may need to be woven into a pattern of to us inconceivable complexity; a thread may disappear—it has only passed to the under side to come to the surface again presently; a thread may suddenly appear—it has only re-emerged on the upper side after a long transit underneath; seeing but a fragment of the web, the pattern may to our short sight be indistinguishable. As was written by the sage lamblichus: | Khi tiếp nhận khuôn mẫu—một lần nữa là “sự khuyết thiếu của chất liệu”—từ các Đấng Lipika, các Maharajah [49] chọn lựa từ các yếu tố thích hợp với những phẩm tính sẽ được biểu lộ qua nó để tạo thành thể dĩ thái kép, và thể dĩ thái kép này trở thành một công cụ nghiệp quả thích đáng cho Chân ngã, đồng thời cung cấp cả nền tảng để biểu hiện các năng lực mà y đã phát triển, lẫn những giới hạn áp đặt bởi chính các sai lầm và cơ hội bị lãng phí trong quá khứ của y. Khuôn mẫu này được các Maharajah dẫn dắt đến quốc gia, chủng tộc, gia đình, môi trường xã hội phù hợp nhất cho việc vận hành của nghiệp quả được chỉ định cho giai đoạn sống cụ thể ấy—điều mà người Ấn giáo gọi là prarabdha, hay nghiệp quả khởi đầu; tức là, nghiệp quả sẽ được giải quyết trong giai đoạn đời sống mở đầu. Trong một đời sống duy nhất không thể giải quyết toàn bộ nghiệp quả tích lũy từ quá khứ—không thể tạo được một công cụ nào đủ toàn diện, cũng không thể tìm được một môi trường nào thích hợp để biểu lộ tất cả các năng lực chậm rãi phát triển của Chân ngã, hay để cung cấp đầy đủ các hoàn cảnh cần thiết để gặt hái toàn bộ mùa gặt đã gieo từ trước, để thanh toán tất cả các nghĩa vụ đã cam kết với các Chân ngã khác mà linh hồn tái sinh này đã từng tiếp xúc trong tiến trình tiến hoá dài lâu của mình. Như vậy, chỉ một phần của tổng nghiệp có thể được sắp xếp trong một giai đoạn sống, và phần này sẽ có một thể dĩ thái kép thích hợp được cung cấp, khuôn mẫu của thể này được [50] hướng đến một môi trường thích hợp. Nó được đặt vào nơi mà Chân ngã có thể tiếp xúc với một số trong những Chân ngã mà y đã từng có quan hệ trong quá khứ, và những Chân ngã đó hiện đang hoặc sắp bước vào luân hồi trong giai đoạn sống của y. Một quốc gia sẽ được chọn nơi mà các điều kiện tôn giáo, chính trị và xã hội phù hợp với một số năng lực của y, và cung cấp môi trường cho sự xuất hiện của một số kết quả mà y đã tạo ra. Một chủng tộc sẽ được chọn—dĩ nhiên là tùy thuộc vào các định luật rộng lớn hơn chi phối sự tái sinh vào các chủng tộc mà chúng ta không thể bàn đến ở đây—có các đặc tính tương đồng với một số năng lực đã chín muồi cần được sử dụng, có hình thái phù hợp với linh hồn sắp nhập thể. Một gia đình sẽ được tìm ra, trong đó yếu tố di truyền thể chất đã phát triển các chất liệu thể chất phù hợp, mà khi được cấu trúc thành thể dĩ thái kép, sẽ dễ dàng thích nghi với cấu trúc của nó; một gia đình mà tổ chức thể chất nói chung hay riêng biệt sẽ cho phép thể trí và thể cảm của Chân ngã được triển khai. Trong muôn hình vạn trạng của các phẩm tính nơi linh hồn và trong vô số các loại hình thể chất hiện hữu trên thế gian, có thể lựa chọn ra những yếu tố phù hợp lẫn nhau; một lớp vỏ thích hợp có thể được kiến tạo cho Chân ngã đang chờ đợi—một công cụ và một môi trường trong đó một phần nghiệp quả của y có thể được giải quyết. Dù tri kiến và [51] quyền năng cần thiết để thực hiện những sự thích nghi như thế có thể sâu thẳm đến mức vượt ngoài khả năng hiểu biết hạn hẹp của chúng ta, ta vẫn có thể mường tượng thấy rằng những sự thích nghi ấy là có thể thực hiện được, và rằng công lý hoàn hảo có thể được thực thi; mạng lưới của định mệnh một người thực sự có thể được dệt từ những sợi dây mà đối với chúng ta là vô số, và có thể cần phải được dệt thành một hoa văn với độ phức tạp vượt khỏi khả năng tưởng tượng của chúng ta; một sợi chỉ có thể biến mất—nhưng thực ra chỉ là đang ẩn vào mặt dưới để rồi sẽ xuất hiện trở lại; một sợi chỉ có thể đột nhiên xuất hiện—nhưng chỉ là nó đã nổi lên bề mặt sau một thời gian dài ẩn dưới; vì chỉ nhìn thấy một phần nhỏ của mạng lưới nên với cái nhìn thiển cận của chúng ta, hoa văn có thể không thể phân biệt được. Như vị hiền triết Iamblichus từng viết: |
What appears to us to be an accurate definition of justice does not also appear to be so to the Gods. For we, looking to that which is most brief, direct our attention to things present, and to this momentary life, and the manner in which it subsists. But the Powers that are superior to us know the whole life of the Soul, and all its former lives.[9] | Những gì đối với chúng ta là định nghĩa chính xác của công lý thì lại không giống như vậy đối với các Đấng Thần Linh. Bởi vì chúng ta, nhìn vào điều ngắn ngủi nhất, chỉ chú tâm đến những sự việc hiện tại, đến đời sống chớp nhoáng và cách thức tồn tại nhất thời này. Nhưng Những Quyền Năng cao hơn chúng ta biết rõ toàn bộ đời sống của Linh Hồn và tất cả các đời sống trước đó của nó. |
This assurance that “perfect justice rules the world” rinds support from the increasing knowledge of the evolving soul; for as it advances and begins to see on higher planes and to transmit its knowledge to the waking consciousness, we learn with ever-growing certainty, and therefore with ever-increasing joy, that [52] the Good Law is working with undeviating accuracy, that its Agents apply it everywhere with unerring insight, with unfailing strength, and that all is therefore very well with the world and with its struggling souls. Through the darkness rings out the cry, “All is well,” from the watchmen souls who carry the lamp of Divine Wisdom through the murky ways of our human city. | Niềm tin chắc rằng “công lý hoàn hảo chi phối thế gian” tìm thấy sự hậu thuẫn từ hiểu biết ngày càng tăng của linh hồn đang tiến hoá; bởi vì khi nó tiến bộ và bắt đầu thấy được trên các cõi cao hơn và truyền đạt tri kiến của mình đến tâm thức tỉnh thức, chúng ta ngày càng học được với lòng tin vững chắc hơn, và vì vậy với niềm hoan hỷ ngày càng sâu sắc hơn, rằng [52] Thiện Luật đang vận hành với sự chính xác không hề sai lệch, rằng các Tác Nhân của Luật áp dụng nó ở khắp nơi với trực giác bất di sai, với năng lực không mỏi mệt, và rằng do đó, mọi sự trên thế giới và với các linh hồn đang đấu tranh đều ổn cả. Giữa đêm đen, vẫn vang vọng tiếng kêu “Mọi sự đều tốt lành”, từ các linh hồn canh gác mang theo ngọn đèn Minh Triết Thiêng Liêng dọc theo các nẻo đường u ám của thành phố nhân loại chúng ta. |
Some of the principles of the working out of the Law we can see, and a knowledge of these will help us in the tracing out of causes, the understanding of effects. | Một số nguyên lý về sự vận hành của Luật mà chúng ta có thể nhìn thấy, và việc hiểu rõ những nguyên lý này sẽ giúp ta lần theo các nguyên nhân, thấu hiểu các kết quả. |
We have already seen that Thoughts build Character; let us next realize that Actions make Environment. | Chúng ta đã thấy rằng Tư tưởng tạo nên Tính cách; giờ đây hãy nhận ra rằng Hành động tạo nên Môi trường. |
Here we have to do with a general principle of far-reaching effect, and it will be well to work it out a little into detail. By his actions man affects his neighbours on the physical plane; he spreads happiness around him, or he causes distress, increasing or diminishing the sum of human welfare. This increase or diminution of happiness may be due to very different motives—good, bad or mixed. A man may do an act that gives widespread enjoyment from sheer benevolence, from a longing to give happiness to his fellow creatures; let us say that from such a motive he [53] presents a park to a town, for the free use of its inhabitants; another may do a similar act from mere ostentation, from desire to attract attention from those who can bestow social honours (say, he might give it as purchase money for a title); a third may give a park from mixed motives, partly unselfish, partly selfish. The motives will severally affect these three men’s characters in their future incarnations, for improvement, for degradation, for small results. But the effect of the action in causing happiness to large numbers of people does not depend on the motive of the giver; the people enjoy the park equally, no matter what may have prompted its gift, and this enjoyment, due to the action of the giver, establishes for him a karmic claim on Nature, a debt due to him that will be scrupulously paid. He will receive a physically comfortable or luxurious environment, as he has given widespread physical enjoyment, and his sacrifice of physical wealth will bring him his due reward, the karmic fruit of his action. This is his right; but the use he makes of his position, the happiness he derives from his wealth and his surroundings, will depend chiefly on his character, and here again the just reward accrues to him, each seed bearing its appropriate harvest. [54] | Ở đây chúng ta đối diện với một nguyên lý tổng quát có ảnh hưởng sâu rộng, và tốt nhất là nên khai triển một chút chi tiết về nó. Qua các hành động của mình, con người ảnh hưởng đến những người xung quanh trên cõi hồng trần; y gieo rắc hạnh phúc quanh mình, hoặc gây ra đau khổ, làm tăng hoặc giảm tổng thể phúc lợi của nhân loại. Việc tăng hay giảm hạnh phúc này có thể xuất phát từ nhiều động cơ rất khác nhau—tốt, xấu, hay pha trộn. Một người có thể làm một hành động đem lại niềm vui rộng khắp chỉ vì lòng nhân hậu, vì khao khát mang lại hạnh phúc cho đồng loại; chúng ta hãy giả định rằng với động cơ như vậy y [53] tặng một công viên cho một thị trấn để người dân sử dụng miễn phí; một người khác có thể làm một hành động tương tự chỉ vì khoe khoang, vì ham muốn thu hút sự chú ý từ những người có thể ban tặng danh hiệu xã hội (chẳng hạn, y có thể tặng công viên đó như một cách để mua tước vị); một người thứ ba có thể tặng công viên vì những động cơ pha trộn, phần vị tha, phần vị kỷ. Các động cơ này sẽ lần lượt ảnh hưởng đến tính cách của ba người này trong các kiếp sau—dẫn đến sự tiến bộ, sự sa đọa, hoặc kết quả nhỏ nhoi. Nhưng ảnh hưởng của hành động đó trong việc mang lại hạnh phúc cho đông đảo người dân thì không tùy thuộc vào động cơ của người tặng; mọi người đều hưởng thụ công viên như nhau, bất kể điều gì đã thúc đẩy hành động ban tặng ấy, và niềm vui này—do hành động của người tặng mang lại—tạo nên cho y một quyền lợi nghiệp quả trước Thiên Nhiên, một món nợ mà thiên nhiên sẽ cẩn trọng thanh toán. Y sẽ nhận được một môi trường thể chất tiện nghi hay xa hoa, vì y đã đem lại niềm vui thể chất rộng khắp, và sự hy sinh tài sản vật chất của y sẽ mang lại phần thưởng xứng đáng, hoa trái nghiệp quả từ hành động của y. Đó là quyền lợi của y; nhưng việc y sử dụng vị trí của mình ra sao, niềm hạnh phúc mà y cảm nhận từ sự giàu có và hoàn cảnh của mình, sẽ phần lớn tuỳ thuộc vào tính cách của y, và ở đây một lần nữa phần thưởng công bằng sẽ đến với y, mỗi hạt giống sinh ra một mùa gặt tương ứng. [54] |
Service rendered to the full measure of opportunity in one life will produce, as effect, enlarged opportunities of service in another; thus one who in a very limited sphere helped each who came in the way, would in a future life be born into a position where openings for giving effective help were many and far-reaching. | Sự phụng sự được thực hiện trọn vẹn trong giới hạn cơ hội của một đời sống sẽ tạo ra, như một kết quả, cơ hội phụng sự rộng lớn hơn trong một kiếp sống khác; như vậy, một người đã giúp đỡ tất cả những ai đến với mình trong một phạm vi rất giới hạn, thì trong kiếp sống tương lai sẽ được sinh ra trong một hoàn cảnh nơi có nhiều cơ hội để giúp đỡ hiệu quả một cách sâu rộng hơn. |
Again, wasted opportunities reappear transmuted as limitations of the instrument, and as misfortunes in the environment. For instance, the brain of the etheric double will be built defectively, thus bringing about a defective physical brain; the ego will plan, but will find itself lacking in executive ability, or will grasp an idea, but be unable to impress it distinctly on the brain. The wasted opportunities are transformed into frustrated longings, into desires which fail to find expression, into yearnings to help, blocked by the absence of power to render it, whether from defective capacity or from lack of occasion. | Một lần nữa, những cơ hội bị bỏ phí sẽ tái xuất hiện dưới dạng những giới hạn của công cụ, và những bất hạnh trong môi trường sống. Ví dụ, bộ não của thể dĩ thái kép sẽ được xây dựng một cách khiếm khuyết, dẫn đến bộ não thể xác bị khiếm khuyết; Chân ngã sẽ lập kế hoạch nhưng phát hiện mình thiếu năng lực thực hiện, hoặc nắm bắt được một ý tưởng nhưng không thể truyền đạt nó một cách rõ ràng đến não bộ. Những cơ hội bị lãng phí sẽ chuyển hoá thành những khát vọng bị thất bại, thành những ước muốn không được biểu hiện, thành những khát khao muốn giúp đỡ nhưng bị ngăn trở bởi sự thiếu năng lực để thực hiện, dù là do khả năng kém cỏi hay do thiếu dịp để hành động. |
This same principle is often at work in the cutting away from tender care of some well-loved child or idolized youth. If an ego treats unkindly or neglects one to whom he owes affectionate duty and protection, or service of any kind, he will but too likely again find himself born in close relationship with the neglected [55] one, and perhaps tenderly attached to him, only for early death to snatch him away from the encircling arms; the despised poor relation may reappear as the much-honoured heir, the only son, and when the parents find their house left unto them desolate, they marvel at the “unequal ways of Providence “that deprive them of their only one, on whom all their hopes have been set, and leave untouched the many children of their neighbour. Yet are the ways of karma equal, though past finding out, save for those whose eyes have been opened. | Nguyên lý tương tự này thường biểu hiện trong việc cắt đứt khỏi sự chăm sóc trìu mến đối với một đứa trẻ được thương yêu hay một thanh niên được tôn sùng. Nếu một Chân ngã đối xử tàn nhẫn hoặc thờ ơ với người mà y có nghĩa vụ yêu thương và bảo vệ, hoặc phục vụ theo bất kỳ cách nào, thì rất có thể y sẽ lại được sinh ra trong mối quan hệ gần gũi với người đã bị bỏ bê [55] đó, và có thể rất yêu quý người ấy, chỉ để rồi cái chết sớm cướp đi người ấy khỏi vòng tay thân thương; người bà con nghèo bị khinh miệt có thể tái xuất hiện thành người thừa kế được quý trọng, là đứa con trai duy nhất, và khi cha mẹ thấy ngôi nhà của mình trở nên trống vắng, họ ngạc nhiên trước “sự bất công của Thượng đế” đã cướp đi đứa con duy nhất—nơi đặt tất cả kỳ vọng của họ—mà lại không động đến đám con đông đảo của hàng xóm. Nhưng các lối đi của nghiệp quả thì công bằng, dù không thể dò xét được, trừ với những ai đã được mở mắt. |
Congenital defects result from a defective etheric double, and are life-long penalties for serious rebellions against law, or for injuries inflicted upon others. All such arise from the working of the Lords of Karma, and are the physical manifestation of the deformities necessitated by the errors of the Ego, by his excesses and defects, in the mould of the etheric double made by them. So again from their just administration of the Law come the inwrought tendency to reproduce a family disease, the suitable configuration of the etheric double, and the direction of it to a family in which a given disease is hereditary, and which affords the “continuous plasm “suitable to the development of the appropriate germs. [56] | Những dị tật bẩm sinh là kết quả của một thể dĩ thái kép bị khiếm khuyết, và là hình phạt kéo dài suốt đời cho những vi phạm nghiêm trọng đối với định luật, hoặc cho những tổn hại gây ra cho người khác. Tất cả những điều này đều xuất phát từ sự thi hành công minh của các Đấng Đại Diêm Vương, và là sự biểu hiện thể chất của những dị dạng do lỗi lầm của Chân ngã gây ra, do những hành vi thái quá và thiếu sót của y, trong khuôn mẫu của thể dĩ thái kép do Các Ngài tạo nên. Cũng tương tự, từ sự cai quản công chính của Các Ngài phát sinh khuynh hướng nội tại dẫn đến việc tái phát một căn bệnh di truyền, cấu trúc phù hợp của thể dĩ thái kép, và sự hướng dẫn thể ấy đến một gia đình mà trong đó một căn bệnh nhất định là di truyền, và gia đình ấy cung cấp “chất huyết tương liên tục” phù hợp với sự phát triển của các mầm bệnh tương ứng. [56] |
The development of artistic faculties—to take another type of quality—will be answered by the Lords of Karma by the provision of a mould for the etheric double after which a delicate nervous system can be physically built, and often by the guiding of it to a family in whose members the special faculty developed by the Ego has found expression, sometimes for many generations. For the expression of such a faculty as that of music, for instance, a peculiar physical body is needed, a delicacy of physical ear and of physical touch, and to such delicacy an appropriate physical heredity would be most conducive. | Sự phát triển các năng lực nghệ thuật—để lấy một dạng phẩm chất khác làm ví dụ—sẽ được các Đấng Đại Diêm Vương đáp ứng bằng cách cung cấp một khuôn mẫu cho thể dĩ thái kép mà từ đó một hệ thần kinh tinh tế có thể được kiến tạo về mặt thể chất, và thường bằng cách hướng dẫn nó đến một gia đình mà trong đó năng lực đặc biệt đã được Chân ngã phát triển có cơ hội biểu hiện, đôi khi kéo dài qua nhiều thế hệ. Để biểu hiện một năng lực như năng khiếu âm nhạc, chẳng hạn, cần có một thể xác đặc biệt, sự tinh tế của thính giác thể chất và cảm giác xúc giác, và một yếu tố di truyền thể chất phù hợp sẽ góp phần rất lớn cho sự tinh tế ấy. |
The rendering of service to man collectively as by some noble book or speech, the spreading of elevating ideas by pen or tongue, is again a claim upon the law, scrupulously discharged by its mighty Agents. Such help given comes back as help bestowed on the giver, as mental and spiritual assistance which is his by right. | Việc phụng sự nhân loại một cách tập thể—chẳng hạn qua một cuốn sách hay một bài diễn thuyết cao quý, việc truyền bá các tư tưởng nâng cao qua ngòi bút hoặc lời nói—một lần nữa là một đòi hỏi nghiệp quả đối với luật, được các Tác Nhân hùng mạnh của luật thi hành một cách cẩn trọng. Sự trợ giúp như vậy sẽ quay trở lại dưới dạng sự trợ giúp ban tặng cho người đã giúp đỡ, như sự hỗ trợ thể trí và tinh thần mà y xứng đáng nhận được. |
We thus may grasp the broad principles of karmic working, the respective parts played by the Lords of Karma and by the Ego itself in the destiny of the individual. The Ego supplies all the materials, but the materials are used by the Lords or by the Ego respectively according to their nature: the latter builds up the character, gradually evolves itself; the former [57] build the mould that limits, choose the environment, and generally adapt and adjust, in order that the good law may find its unerring expression despite the clashing wills of men. | Chúng ta nhờ vậy có thể nắm được các nguyên lý tổng quát của sự vận hành nghiệp quả, phần vai trò tương ứng của các Đấng Đại Diêm Vương và của chính Chân ngã trong định mệnh của cá nhân. Chân ngã cung cấp tất cả các chất liệu, nhưng các chất liệu ấy được sử dụng bởi các Đấng hoặc bởi chính Chân ngã tuỳ theo bản chất của chúng: Chân ngã xây dựng nên tính cách, dần dần tự phát triển bản thân; các Đấng [57] tạo khuôn mẫu giới hạn, chọn môi trường, và nói chung thực hiện việc điều chỉnh và thích ứng, để Thiện Luật có thể biểu hiện một cách chính xác, bất chấp những ý chí xung đột của loài người. |
A mystic name, full of meaning to the student who understands the part played by Soma in some ancient mysteries. ↑
Ante, p. 35 ↑
Formerly called the Linga Sharira, a name that gave rise to much confusion. ↑
The Secret Doctrine, i, 153. ↑
Ante, p. 25. ↑
Ante, p. 35. ↑
The Secret Doctrine, i, 151 ↑
Ibid.,!, 147. ↑
On the Mysteries, iv, 4 ↑