Chia Sẻ Ánh Sáng – Tập I- Phần 2. 2

SECTION I–2–2

46

The World of the Occult [1]—Thế Giới Huyền Bí [1]

Who Reincarnates?

Ai Tái Sinh?

The Ego of man is said to be a vehicle for his Monad in somewhat the same way in which the Personality is a vehicle for the Ego.

Người ta nói rằng Chân Ngã của con người là một vận cụ cho Chân Thần của y theo cách tương tự như cách phàm ngã là một vận cụ cho Chân Ngã.

The question, therefore, arises as to which part of man is actually present in the physical body during earth life.

Do đó, câu hỏi đặt ra là phần nào của con người thực sự hiện diện trong thể xác trong suốt cuộc đời trên trái đất.

In Theosophy man is described as being triple—the outer, per­sonal, mortal man; the inner, reincarnating Spiritual Soul which we call the Ego; and the still higher, finer Self, the Spark of the Divine Flame, the Scintilla of the Spiritual Sun, the Dweller in the Innermost, called in philosophy the Monad or the One. Thus there exists the inner, highest spiritual consciousness, the Monad; the reincarnating Spiritual Soul of Will, Wisdom and Intelligence; and the outer, bodily man con­sisting of mind, emotion, vitality and flesh. Actually the Monad and the Ego cannot be regarded as separate, since the Ego is but a manifes­tation of a ray of the Monad. Therefore you find some writers using the term ‘Monad-Ego’. It is the Monad-Ego of man which is making the great pilgrimage to perfection and which is continually reborn. I must here add that Man-Spirit, or the Monad, is in no sense different or sepa­rate from God-Spirit, or the Monad of the Universe. In one sense man has no separate, individually possessed portion of pure Spirit which belongs to him alone. His Spirit is but a ray of Universal Spirit, with which the spiritual Selves of all men are equally interfused. This is, however, not merely a doctrine concerning man; it is also an experi­ence to be entered into, a direct knowledge to be gained, an illumina­tion which is within the reach of those who will seek it ardently and by the proper means. Cosmic consciousness is one name for this direct ex­perience of the unity and the identity of the Spirit of man with the Spirit of the universe, man with God.

Trong Thông Thiên Học, con người được mô tả là tam phân—con người bên ngoài, cá nhân, phàm nhân; Linh Hồn Tinh Thần tái sinh bên trong mà chúng ta gọi là Chân Ngã; và Chân Ngã cao hơn, tốt đẹp hơn, Tia Lửa của Ngọn Lửa Thiêng Liêng, Tia Sáng của Mặt Trời Tinh Thần, Kẻ Chận Ngõ trong Sâu Thẳm Nhất, được gọi trong triết học là Chân Thần hay Đấng Duy Nhất. Do đó, tồn tại tâm thức tinh thần cao nhất bên trong, Chân Thần; Linh Hồn Tinh Thần tái sinh của Ý Chí, Minh Triết và Trí Tuệ; và con người thể xác bên ngoài bao gồm thể trí, cảm xúc, sinh lực và xác thịt. Trên thực tế, Chân Thần và Chân Ngã không thể được coi là tách biệt, vì Chân Ngã chỉ là một biểu hiện của một tia của Chân Thần. Do đó, bạn thấy một số nhà văn sử dụng thuật ngữ ‘Chân Thần-Chân Ngã’. Chính Chân Thần-Chân Ngã của con người đang thực hiện cuộc hành hương vĩ đại đến sự hoàn hảo và liên tục được tái sinh. Ở đây tôi phải nói thêm rằng Nhân-Tinh Thần, hay Chân Thần, không có nghĩa là khác biệt hoặc tách biệt với Thượng đế-Tinh Thần, hay Chân Thần của Vũ Trụ. Theo một nghĩa nào đó, con người không có phần Tinh Thần thuần khiết riêng biệt, thuộc sở hữu cá nhân, chỉ thuộc về y. Tinh Thần của y chỉ là một tia của Tinh Thần Phổ Quát, mà Chân Ngã tinh thần của tất cả mọi người đều được hòa quyện một cách bình đẳng. Tuy nhiên, đây không chỉ là một học thuyết liên quan đến con người; nó cũng là một kinh nghiệm cần phải tham gia vào, một tri thức trực tiếp cần đạt được, một sự soi sáng nằm trong tầm tay của những người sẽ tìm kiếm nó một cách nhiệt thành và bằng những phương tiện thích hợp. Tâm thức vũ trụ là một tên gọi cho kinh nghiệm trực tiếp này về sự hợp nhất và sự đồng nhất của Tinh Thần của con người với Tinh Thần của vũ trụ, con người với Thượng đế.

Proof of Reincarnation

Bằng Chứng Về Sự Tái Sinh

Evidence for reincarnation of many kinds can be discovered but can hardly be regarded as final demonstrable proof. There are people who, when describing a remembered past life, correctly relate histori­cal events concerning which they could not otherwise have been aware. This is strong evidence—and there are many such cases—but it is not proof. Accurate clairvoyance could reveal the same facts. The unusual powers of child geniuses and prodigies are only explained in terms of logic by the fact of the Ego having brought over from preced­ing lives an acquired and highly developed faculty. Instinct, antipathy and sympathy without obvious reason are also said to be the results of such memories, but they are not proofs.

Bằng chứng về sự tái sinh của nhiều loại có thể được khám phá nhưng khó có thể được coi là bằng chứng cuối cùng có thể chứng minh được. Có những người, khi mô tả một kiếp trước đã nhớ lại, đã kể lại chính xác các sự kiện lịch sử liên quan đến những điều mà họ không thể biết được bằng cách khác. Đây là bằng chứng mạnh mẽ—và có rất nhiều trường hợp như vậy—nhưng nó không phải là bằng chứng. Sự thông nhãn chính xác có thể tiết lộ những sự thật tương tự. Những khả năng khác thường của những thiên tài và thần đồng trẻ tuổi chỉ được giải thích theo logic bằng sự thật là Chân Ngã đã mang từ những kiếp trước một khả năng đã được trau dồi và phát triển cao. Bản năng, ác cảm và thiện cảm mà không có lý do rõ ràng cũng được cho là kết quả của những ký ức như vậy, nhưng chúng không phải là bằng chứng.

I personally think that one of the strongest supporting evidences for rebirth is the existence of masculine types of women and feminine types of men, both common phenomena. The masculine type of woman may have been a man in a previous life, still retaining the at­tributes, the impression and the tendencies of masculinity. Similarly, feminine types of men were, perhaps, women in the past and possibly in more than one immediately preceding life. These again, however, are only evidences and not demonstrable proofs.

Cá nhân tôi nghĩ rằng một trong những bằng chứng hỗ trợ mạnh mẽ nhất cho sự tái sinh là sự tồn tại của những phụ nữ có tính cách đàn ông và những người đàn ông có tính cách phụ nữ, cả hai đều là những hiện tượng phổ biến. Người phụ nữ có tính cách đàn ông có thể đã là đàn ông trong một kiếp trước, vẫn giữ lại những thuộc tính, ấn tượng và khuynh hướng của nam tính. Tương tự, những người đàn ông có tính cách nữ tính có lẽ là phụ nữ trong quá khứ và có thể trong nhiều hơn một kiếp sống ngay trước đó. Tuy nhiên, đây chỉ là những bằng chứng chứ không phải là những bằng chứng có thể chứng minh được.

The only personal proof is one’s own direct recollection or Egoic awareness of one’s own past lives, just as one is aware of yesterday. Even then, as in all metaphysical and spiritual realizations, such expe­riences can only be true to one’s own consciousness. They are proof to the illumined one, but that proof cannot be demonstrably conveyed to another. Words may describe such discovered truth, philosophers, po­ets and artists may portray it, but it is the inner experience alone which is final demonstration and proof of its truthfulness. So I must answer you—‘No, I do not think that Reincarnation, or even the Life after Death, can be externally demonstrated beyond all possibility of doubt’.

Bằng chứng cá nhân duy nhất là ký ức trực tiếp của một người hoặc nhận thức chân ngã về những kiếp sống quá khứ của chính mình, giống như người ta nhận thức được ngày hôm qua. Ngay cả khi đó, như trong tất cả các nhận thức về tinh thần và siêu hình học, những trải nghiệm như vậy chỉ có thể đúng với tâm thức của chính một người. Chúng là bằng chứng cho người được soi sáng, nhưng bằng chứng đó không thể được truyền đạt một cách chứng minh cho người khác. Lời nói có thể mô tả sự thật đã được khám phá như vậy, các triết gia, nhà thơ và nghệ sĩ có thể miêu tả nó, nhưng chỉ có trải nghiệm nội tâm mới là sự chứng minh cuối cùng và bằng chứng về tính chân thật của nó. Vì vậy, tôi phải trả lời bạn—’Không, tôi không nghĩ rằng Luân hồi, hoặc thậm chí là Cuộc sống sau cái chết, có thể được chứng minh từ bên ngoài vượt quá mọi khả năng nghi ngờ’.

Though at first thought this may appear to be somewhat disheart­ening, there could, I suggest, be much value in the limitation; for it forces upon each sincere seeker for truth the necessity of finding his or her own light, of establishing oneself in a faith which, being founded upon direct, first-hand, interior experience, is unshakeable. This at­tainment of interior light, and perhaps still more, the effort made in reaching it, are of the greatest possible value in the development of the human mind and intuitive faculty.

Mặc dù thoạt đầu điều này có vẻ hơi nản lòng, nhưng tôi cho rằng có thể có nhiều giá trị trong sự hạn chế; vì nó buộc mỗi người tìm kiếm chân lý chân thành phải tìm thấy ánh sáng của riêng mình, thiết lập bản thân trong một đức tin, vốn được xây dựng trên trải nghiệm nội tâm trực tiếp, tận mắt, là không thể lay chuyển. Việc đạt được ánh sáng nội tâm này, và có lẽ hơn thế nữa, nỗ lực thực hiện để đạt được nó, có giá trị lớn nhất có thể trong sự phát triển của thể trí con người và khả năng trực giác.

The True Self and Its Former Lives

Bản Ngã Chân Thực và Những Kiếp Sống Trước Đây Của Nó

In considering the subject of reincarnation in general, and more especially, of the memory of former lives, it is important to remember that the true identity of man is not his named Personality. Rather it is the Self the mind or thinker who is employing the brain, that something which definitely is not the bodily self but of which, in one ’ s higher mo­ments, one becomes aware. Are we that in us which is time-free and sometimes seems to be all-knowing, from which on occasions there descends a kind of fiery power and knowledge which can make the named person immortal? Theosophy says it is that inner Individuality of power and wisdom and fire, the immortal genius within, which is the true Self, and that it is this Inner Self—not the outer man—which re­incarnates.

Khi xem xét chủ đề luân hồi nói chung, và đặc biệt hơn, về ký ức về những kiếp sống trước đây, điều quan trọng cần nhớ là bản sắc thực sự của con người không phải là phàm ngã được đặt tên của y. Thay vào đó, đó là Bản Ngã, thể trí hay người tư duy đang sử dụng bộ não, một thứ gì đó chắc chắn không phải là bản ngã thể xác mà là thứ mà trong những khoảnh khắc cao thượng hơn của một người, người ta nhận thức được. Có phải chúng ta là thứ ở trong chúng ta vốn vượt thời gian và đôi khi dường như là toàn tri, từ đó đôi khi giáng xuống một loại sức mạnh và tri thức rực lửa vốn có thể làm cho người được đặt tên trở nên bất tử? Thông Thiên Học nói rằng đó là Tính Cá Nhân bên trong của sức mạnh, minh triết và ngọn lửa, thiên tài bất tử bên trong, vốn là Bản Ngã chân thực, và chính Bản Ngã Bên Trong này—chứ không phải con người bên ngoài—tái sinh.

The author of the book narrating some thirty lives of Krishnamurti, C. W. Leadbeater, does not name it The Lives of Krishnamurti; he gives the Ego a star name, Alcyone. So the book is not a record of the past lives of the Indian philosopher and teacher known to his fellows as Jiddu Krishnamurti, but of the former lives of the fragment of the Divine Self of the Universe of which Jiddu Krishnamurti is a modern manifestation. Actually, each one of us has an Egoic name in addition to this physical name by which we are known down here. This spiritual name is probably a wonderfully beau­tiful chord, every note of which is expressive of an inherent power and developed attribute and faculty, a chord or name which is growing fuller and richer as life follows life. It is this, the Inner Ruler Immortal with its spiritual name, which reincarnates.

Tác giả của cuốn sách kể về khoảng ba mươi kiếp sống của Krishnamurti, Ông C. W. Leadbeater, không đặt tên nó là Những Kiếp Sống của Krishnamurti; Ông đặt cho chân ngã một tên sao, Alcyone. Vì vậy, cuốn sách không phải là một bản ghi lại về những kiếp sống quá khứ của nhà triết học và giáo viên người Ấn Độ được những người đồng nghiệp của Ông biết đến với cái tên Jiddu Krishnamurti, mà là về những kiếp sống trước đây của một phần Bản Ngã Thiêng Liêng của Vũ Trụ mà Jiddu Krishnamurti là một biểu hiện hiện đại. Trên thực tế, mỗi người chúng ta đều có một tên chân ngã ngoài tên thể xác này mà chúng ta được biết đến ở đây. Tên tinh thần này có lẽ là một hợp âm tuyệt đẹp, mọi nốt nhạc đều thể hiện một sức mạnh vốn có và thuộc tính và khả năng đã phát triển, một hợp âm hoặc tên đang trở nên đầy đủ và phong phú hơn khi cuộc sống tiếp nối cuộc sống. Chính điều này, Đấng Thống Trị Bất Tử Bên Trong với tên tinh thần của Ngài, tái sinh.

Theosophy in New Zealand, Vol. 19, No. 3, 1958, p. 38

Theosophy in New Zealand, Tập 19, Số 3, 1958, tr. 38

47

Studies in Occultism [1]—Studies in Occultism [1]

A. Can the Future be Foretold?

Tương Lai Có Thể Được Báo Trước Không?

Accurate prophecy is said sometimes to be the result of a flash of the energy and the consciousness of the Inner Self which tempo­rarily illumines the physical brain. A simple analogy will help us. A man walking on the ground, perhaps in a hollow, can only see for a limited distance in any direction. His present range of view may be one hundred yards in diameter all around him. Now, a man in an aeroplane, three thousand feet or more above the ground, could see that walker and the country all round him. The present time of this second person would include both the past and the future of the man below in the hol­low. The aeronaut might see thirty miles ahead and thirty miles behind the walker. He will know that if the man goes on walking he will reach a wood, then a bridge, then the main road, then a valley, all of which is in a future that has not yet occurred for this man on the ground.

Lời tiên tri chính xác đôi khi được cho là kết quả của một tia năng lượng và tâm thức của Bản Ngã Bên Trong tạm thời soi sáng bộ não thể xác. Một phép loại suy đơn giản sẽ giúp chúng ta. Một người đàn ông đi bộ trên mặt đất, có lẽ là trong một hốc, chỉ có thể nhìn thấy một khoảng cách giới hạn theo bất kỳ hướng nào. Phạm vi xem hiện tại của y có thể là đường kính một trăm thước xung quanh y. Bây giờ, một người đàn ông trên máy bay, ở độ cao ba nghìn feet trở lên so với mặt đất, có thể nhìn thấy người đi bộ đó và vùng đất xung quanh y. Thời điểm hiện tại của người thứ hai này sẽ bao gồm cả quá khứ và tương lai của người đàn ông bên dưới trong hốc. Người điều khiển khí cầu có thể nhìn thấy ba mươi dặm phía trước và ba mươi dặm phía sau người đi bộ. Y sẽ biết rằng nếu người đàn ông tiếp tục đi bộ, y sẽ đến một khu rừng, sau đó là một cây cầu, sau đó là con đường chính, sau đó là một thung lũng, tất cả đều nằm trong một tương lai chưa xảy ra đối với người đàn ông này trên mặt đất.

These places are, however, all in the present for the man three thousand feet in the air. So, the Ego may be regarded somewhat as a high flying aeronaut, with a far greater area of now-ness and here-ness than the man on the ground. He can see that causes have been set going such as a certain man walking purposefully in a certain direction—and he will know that in due course resultant effects will follow.

Tuy nhiên, những địa điểm này đều nằm trong hiện tại đối với người đàn ông ở độ cao ba nghìn feet trên không. Vì vậy, chân ngã có thể được coi là một người điều khiển khí cầu bay cao, với một khu vực rộng lớn hơn nhiều về tính bây giờ và tính ở đây so với người đàn ông trên mặt đất. Ngài có thể thấy rằng những nguyên nhân đã được khởi động—chẳng hạn như một người đàn ông nào đó đang đi bộ có chủ đích theo một hướng nhất định—và Ngài sẽ biết rằng đến lượt nó, những kết quả tất yếu sẽ xảy ra.

Sometimes a man will receive a flash of this Egoic foreknowledge in his brain and so know in advance that a particular event will come to pass. This can hardly be referred to as either Reincarnation or Telepa­thy. Rather is it brain participation in the wider vision of the Inner Self. This pre-knowledge might be telepathically communicated to another person, but Telepathy was hardly its original cause.

Đôi khi một người sẽ nhận được một tia kiến thức trước chân ngã này trong bộ não của y và do đó biết trước rằng một sự kiện cụ thể sẽ xảy ra. Điều này khó có thể được gọi là Luân hồi hay Viễn cảm. Thay vào đó, đó là sự tham gia của bộ não vào tầm nhìn rộng lớn hơn của Bản Ngã Bên Trong. Kiến thức trước này có thể được truyền đạt bằng viễn cảm cho một người khác, nhưng Viễn cảm khó có thể là nguyên nhân ban đầu của nó.

B. INTERVALS BETWEEN LIVES

KHOẢNG THỜI GIAN GIỮA CÁC KIẾP SỐNG

The period spent in the intermediate worlds after death and before rebirth is probably governed by some major law, some great rhythm of Nature to which the evolutionary needs of each individual are adapted. There are said to be two main groups of Egos or Spiritual Souls of Men, one of which takes some fifteen hundred years between lives and the other from five to seven or eight hundred years, wide variation oc­curring within both groups. Other factors affect these periods. When certain cycles converge as at present, to make a series of crises on Earth, with all their magnificent opportunities for quickened evolu­tionary progress, I have heard it taught that as many people as possible are brought into incarnation, so that they may benefit from the critical conditions and have a chance of making unusually rapid progress.

Khoảng thời gian được trải qua ở các cõi trung gian sau khi chết và trước khi tái sinh có lẽ được chi phối bởi một định luật lớn nào đó, một nhịp điệu vĩ đại nào đó của Tự Nhiên mà nhu cầu tiến hóa của mỗi cá nhân được điều chỉnh theo. Người ta nói rằng có hai nhóm chính của các chân ngã hoặc Linh Hồn Tinh Thần của Con Người, một nhóm mất khoảng một nghìn năm trăm năm giữa các kiếp sống và nhóm kia từ năm đến bảy hoặc tám trăm năm, sự khác biệt lớn xảy ra trong cả hai nhóm. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến những khoảng thời gian này. Khi một số chu kỳ hội tụ như hiện tại, để tạo ra một loạt các cuộc khủng hoảng trên Trái Đất, với tất cả những cơ hội tuyệt vời của chúng để tiến bộ tiến hóa nhanh chóng, tôi đã nghe dạy rằng càng nhiều người càng tốt được đưa vào hóa thân, để họ có thể hưởng lợi từ các điều kiện quan trọng và có cơ hội đạt được tiến bộ đặc biệt nhanh chóng.

Another modification of the period between lives occurs when a certain stage or phase of evolution has been entered, at which the Inner Self is sufficiently strong and developed to be able to take its evolution into its own hands. It can then cause its Personality to live so intensely, so vividly and so actively as to make unusually rapid progress in a sin­gle life. This entry upon the Path, as it is called, could shorten the num­ber of lives necessary to reach Adeptship. We cannot say with certainty, therefore, how many lives would be needed to achieve this, because the number is subject to modification according to planetary and racial circumstances and also to alteration by the individual. The number of seven hundred and seventy-seven has been hinted at, but this number can presumably be either increased or reduced according to the way the individual lives. Eventually the state of Adeptship is closely approached, and then the necessity for further lives is outgrown.

Một sự sửa đổi khác về khoảng thời gian giữa các kiếp sống xảy ra khi một giai đoạn hoặc pha tiến hóa nhất định đã được nhập vào, tại đó Bản Ngã Bên Trong đủ mạnh và phát triển để có thể tự mình tiến hóa. Sau đó, nó có thể khiến phàm ngã của mình sống mãnh liệt, sống động và tích cực đến mức đạt được tiến bộ đặc biệt nhanh chóng trong một kiếp sống. Sự gia nhập vào Thánh Đạo này, như nó được gọi, có thể rút ngắn số lượng kiếp sống cần thiết để đạt đến địa vị chân sư. Do đó, chúng ta không thể nói chắc chắn cần bao nhiêu kiếp sống để đạt được điều này, bởi vì con số này có thể được sửa đổi theo hoàn cảnh hành tinh và chủng tộc và cũng có thể thay đổi bởi cá nhân. Con số bảy trăm bảy mươi bảy đã được gợi ý, nhưng con số này có lẽ có thể được tăng lên hoặc giảm đi tùy theo cách sống của cá nhân. Cuối cùng, trạng thái chân sư được tiếp cận gần, và sau đó sự cần thiết cho những kiếp sống tiếp theo sẽ không còn nữa.

Theosophy in New Zealand, Vol. 17, No. 5 & 6, 1957, p. 1

Theosophy in New Zealand, Tập 17, Số 5 & 6, 1957, tr. 1

48

Studies in Occultism [2]—Studies in Occultism [2]

predestination and freewill

định mệnh và tự do ý chí

The subject of predestination and freewill has deeply occupied the minds of scholars and students. Part of the Theosophical contri­bution to the solution of the apparent paradox would seem to be that there are at least two universal forces at work upon man under which he is virtually powerless. One of these is evolutionary pressure at all levels of his existence from within outwards such as that, for ex­ample, which physically applied produces an oak from an acorn. The other force perpetually resolves into harmony all discordant editions, continually corrects imbalance.

Chủ đề về định mệnh và tự do ý chí đã chiếm giữ sâu sắc tâm trí của các học giả và sinh viên. Một phần đóng góp của Thông Thiên Học vào việc giải quyết nghịch lý rõ ràng dường như là có ít nhất hai lực lượng phổ quát tác động lên con người mà theo đó y hầu như bất lực. Một trong số này là áp lực tiến hóa ở mọi cấp độ tồn tại của y từ trong ra ngoài, chẳng hạn như áp lực này, ví dụ, được áp dụng về mặt thể chất tạo ra một cây sồi từ một hạt sồi. Lực lượng kia liên tục giải quyết thành sự hài hòa tất cả các phiên bản bất hòa, liên tục điều chỉnh sự mất cân bằng.

The principle of unfoldment under the irresistible pressure of a propellant energy operates from within the innermost essence of the universe, and the spiritual seeds or germs (Monads) of all beings. The process the maintenance of harmony is ceaselessly active throughout the universe and all it contains. This harmonization operates on man as a sequence of cause and effect, under which discordances created by his selfish and cruel actions, for example, are forcibly resolved and harmony is restored.

Nguyên tắc khai triển dưới áp lực không thể cưỡng lại của một năng lượng đẩy hoạt động từ bên trong bản chất sâu xa nhất của vũ trụ, và các hạt giống hoặc mầm tinh thần (chân thần) của tất cả chúng sinh. Quá trình duy trì sự hài hòa liên tục hoạt động khắp vũ trụ và mọi thứ nó chứa đựng. Sự hài hòa này hoạt động trên con người như một chuỗi nhân quả, theo đó những bất hòa do những hành động ích kỷ và tàn ác của y tạo ra, chẳng hạn, bị cưỡng bức giải quyết và sự hài hòa được phục hồi.

The Irresistible Forces

Các Lực Lượng Không Thể Cưỡng Lại

These two powers—unfoldment from less to more and reharmonization—operate irresistibly upon man, as upon all else that exists. Man can delay or hasten, but he cannot ultimately frustrate these two actions of the Cosmic Will. The operation the Universal Law of cyclic expansion and evolution is irresistible. In these two natural processes, man is helpless, in them predestined. In due course man as Monad must reach the stature of perfected and harmonized manhood. Similarly every human action, modified by subsequent actions, will in­evitably bring about an exactly appropriate reaction upon the actor. In this man is indeed powerless, and predestined.

Hai sức mạnh này—khai triển từ ít đến nhiều và tái hài hòa—tác động không thể cưỡng lại lên con người, cũng như lên mọi thứ khác tồn tại. Con người có thể trì hoãn hoặc đẩy nhanh, nhưng cuối cùng y không thể cản trở hai hành động này của Ý Chí Vũ Trụ. Hoạt động của Định luật Phổ Quát về sự mở rộng và tiến hóa theo chu kỳ là không thể cưỡng lại. Trong hai quá trình tự nhiên này, con người bất lực, trong chúng đã được định trước. Đến lượt nó, con người với tư cách là chân thần phải đạt đến tầm vóc của nhân tính hoàn thiện và hài hòa. Tương tự, mọi hành động của con người, được sửa đổi bởi các hành động tiếp theo, chắc chắn sẽ mang lại một phản ứng hoàn toàn thích hợp đối với người thực hiện. Trong điều này, con người thực sự bất lực và đã được định trước.

This predestination need not in the least disturb the minds of those who become aware of it, for the simple reason that the two inner im­pulses—to expand and to harmonize—arise from within the Spirit Self of man which is identical with the Spirit-Self of the universe. Once the concept is removed of an external, controlling Deity separate from man, the sense of compulsion then vanishes, for if man is predes­tined, then he is self-destined, which removes all stigma from the fact. If man’s future is pre-determined, then he himself is the only pre-determinator and, moreover, predestined by the action of his own free will.

Sự định trước này không cần thiết phải làm xáo trộn tâm trí của những người nhận thức được nó, vì lý do đơn giản là hai xung lực bên trong—mở rộng và hài hòa—phát sinh từ bên trong Bản Ngã Tinh Thần của con người, vốn đồng nhất với Bản Ngã Tinh Thần của vũ trụ. Một khi khái niệm về một Thượng đế kiểm soát bên ngoài tách biệt với con người bị loại bỏ, thì cảm giác bị ép buộc sẽ biến mất, vì nếu con người đã được định trước, thì y đã tự định trước, điều này loại bỏ mọi sự kỳ thị khỏi thực tế. Nếu tương lai của con người đã được định trước, thì chính y là người định trước duy nhất và hơn nữa, đã được định trước bởi hành động tự do ý chí của chính y.

Co-operate with the Inevitable

Hợp Tác Với Điều Tất Yếu

Perfect happiness is utterly certain for him if he voluntarily col­laborates with these two Cosmic procedures—perpetual unfoldment and the maintenance of harmony. The man who orders his life to the end of the most harmonious and speedy evolutionary progress at all levels, will generate no friction and so find peace. The man who al­ways acts harmoniously, never unnecessarily injuring any other being, and who within himself is ever harmonious and a harmoniser—is as­sured of freedom from the painful re-attuning process. He does not provoke the retaliation of the law. Ever deepening harmony and happi­ness will be his. A Greek proverb says: ‘He who is obedient to the law, the Gods lead gently by the hand. Those who resist, they drive mercilessly’.

Hạnh phúc hoàn hảo là hoàn toàn chắc chắn cho y nếu y tự nguyện cộng tác với hai thủ tục Vũ Trụ này—sự khai triển vĩnh viễn và duy trì sự hài hòa. Người đàn ông sắp xếp cuộc sống của mình để đạt được sự tiến bộ tiến hóa hài hòa và nhanh chóng nhất ở mọi cấp độ, sẽ không tạo ra ma sát và do đó tìm thấy sự bình yên. Người đàn ông luôn hành động hài hòa, không bao giờ làm tổn thương bất kỳ chúng sinh nào khác một cách không cần thiết, và người mà bên trong mình luôn hài hòa và là một người hài hòa—được đảm bảo không bị quá trình điều chỉnh lại đau đớn. Y không kích động sự trả đũa của luật pháp. Sự hài hòa và hạnh phúc ngày càng sâu sắc sẽ là của y. Một câu tục ngữ Hy Lạp nói: ‘Người tuân theo luật pháp, các vị Thần dẫn dắt nhẹ nhàng bằng tay. Những người chống lại, họ lái xe không thương tiếc’.

Thus, though fundamentally self-predestined, restriction and suf­fering are by no means inevitably pre-ordained for man. He creates them for himself and he can, therefore, do away with them for himself. In these ways man can be free and the Great Teachers who have visited mankind have, by both example and precept, shown him the way of freedom.

Do đó, mặc dù về cơ bản đã tự định trước, nhưng sự hạn chế và đau khổ không có nghĩa là chắc chắn đã được định trước cho con người. Y tạo ra chúng cho chính mình và do đó, y có thể loại bỏ chúng cho chính mình. Bằng những cách này, con người có thể được tự do và Các Huấn Sư Vĩ Đại đã đến thăm nhân loại đã, bằng cả ví dụ và giới luật, chỉ cho y con đường tự do.

The problem of predestination and free will may perhaps thus be regarded, and the apparent paradox which they seem to present be par­tially resolved. Other factors are, however, also involved.

Vấn đề về định mệnh và tự do ý chí có lẽ có thể được xem xét như vậy, và nghịch lý rõ ràng mà chúng dường như trình bày được giải quyết một phần. Tuy nhiên, các yếu tố khác cũng liên quan.

Theosophy in New Zealand, Vol. 16, No. 3 & 4, 1956, p. 17

Theosophy in New Zealand, Tập 16, Số 3 & 4, 1956, tr. 17

49

The Reincarnating Self of Man: A Study in Causal Consciousness—

As I understand there may be some members of the public present this evening, and perhaps some new members of our Theosophical Society not fully aware of our teachings of the nature of man, I will begin by briefly advancing the view that man is at least seven-fold in his nature. These seven parts all occupy the same location in space; they are here and now from highest Spirit to the densest matter. The seven vestures are the physical body, the vital body, container and conserver of vitality, and the emotional and mental bodies. These four vehicles are sometimes called the Personality of man. This is mortal; it comes into existence as a vehicle of the indwelling Self during prenatal life. After the allotted span these four bodies at death gradually disintegrate, the real reincarnating Self having withdrawn from them. This Inner Self is three-fold, being a reflection of the three aspects of the Creative Logos, spiritual intelligence, intuitive wisdom and within these the Spirit-Essence, the Atma within, the real Self of man, the core of his existences. This, in its turn, is forever inseparably united with the one Spirit-Essence of all, the Paramatma.

Như tôi hiểu có thể có một số thành viên của công chúng có mặt tối nay, và có lẽ một số thành viên mới của Hội Thông Thiên Học của chúng ta chưa hoàn toàn nhận thức được những lời dạy của chúng ta về bản chất của con người, tôi sẽ bắt đầu bằng cách trình bày ngắn gọn quan điểm rằng con người ít nhất là thất phân trong bản chất của y. Bảy phần này đều chiếm cùng một vị trí trong không gian; chúng ở đây và bây giờ từ Tinh Thần cao nhất đến vật chất đậm đặc nhất. Bảy lớp áo là thể xác, thể sinh lực, vật chứa và vật bảo tồn sinh lực, và thể cảm xúc và thể trí. Bốn vận cụ này đôi khi được gọi là phàm ngã của con người. Điều này là hữu tử; nó xuất hiện như một vận cụ của Bản Ngã ngự trị trong cuộc sống trước khi sinh. Sau khoảng thời gian được phân bổ, bốn thể này khi chết dần dần tan rã, Bản Ngã tái sinh thực sự đã rút khỏi chúng. Bản Ngã Bên Trong này là tam phân, là sự phản ánh của ba khía cạnh của Thái dương Thượng đế Sáng Tạo, trí tuệ tinh thần, minh triết trực giác và bên trong chúng là Tinh Chất Tinh Thần, Atma bên trong, Bản Ngã thực sự của con người, cốt lõi của sự tồn tại của y. Đến lượt nó, điều này mãi mãi gắn liền không thể tách rời với Tinh Chất Tinh Thần duy nhất của tất cả, Paramatma.

I am now going to share with you some fruits of study and research into the condition of consciousness of that reincarnating Self, the unfolding spiritual unit, the Ego in the Causal Body. This research is possible because we do not need to remain imprisoned in the physical body whilst awake. By focusing attention in superphysical vehicles, we can learn to become aware in them and explore them.

Bây giờ tôi sẽ chia sẻ với bạn một số thành quả của việc nghiên cứu và tìm hiểu về trạng thái tâm thức của Bản Ngã tái sinh đó, đơn vị tinh thần đang khai triển, chân ngã trong thể nguyên nhân. Nghiên cứu này có thể thực hiện được vì chúng ta không cần phải ở tù trong thể xác khi còn thức. Bằng cách tập trung sự chú ý vào các vận cụ siêu vật chất, chúng ta có thể học cách nhận biết chúng và khám phá chúng.

What, then, is the life of the human Ego? I offer, quite undogmatically, some answers born of my studies of the subject, limiting myself to pure Causal consciousness, the spirit Self of a reasonably developed Ego in its Causal Body. Conditions will vary according to development and temperament, but, I think there will be certain common characteristics. At once I am faced with difficulties because words can and do falsify abstract ideals, and experiences in arupa worlds cannot be fully translated into terms of concrete thought and physical speech. Certain arupa [abstract] conditions contradict rupa [concrete] experience. For example, in Causal consciousness there are no negatives; only positives exist. There are no contrasts. All is light all the time and physically we can hardly imagine light without darkness in contrast.

Vậy thì, sự sống của Chân ngã nhân loại là gì? Tôi xin đưa ra, hoàn toàn không giáo điều, một vài câu trả lời có được từ những nghiên cứu của tôi về chủ đề này, giới hạn bản thân trong tâm thức Nguyên nhân thuần túy, Chân ngã tinh thần của một Chân ngã đã phát triển hợp lý trong Thể Nguyên Nhân của nó. Các điều kiện sẽ khác nhau tùy theo sự phát triển và khí chất, nhưng, tôi nghĩ rằng sẽ có những đặc điểm chung nhất định. Ngay lập tức tôi phải đối mặt với những khó khăn vì ngôn từ có thể và thực sự xuyên tạc những lý tưởng trừu tượng, và những kinh nghiệm trong các cõi arupa không thể được dịch đầy đủ thành các khái niệm tư duy cụ thể và lời nói thể xác. Một số điều kiện arupa [trừu tượng] mâu thuẫn với kinh nghiệm rupa [cụ thể]. Ví dụ, trong tâm thức Nguyên nhân không có phủ định; chỉ có khẳng định tồn tại. Không có sự tương phản. Tất cả là ánh sáng mọi lúc và về mặt thể chất, chúng ta khó có thể tưởng tượng ánh sáng mà không có bóng tối tương phản.

Complete freedom of existence is another characteristic. There is no necessity to make any effort about anything. Entry into Causal consciousness brings at once complete ease as if all resistance, all restrictions, had vanished, leaving only pure being, the essential existence of the divine principle in man, his true integral Self, in a serene happiness in which doubt, worry and all other stresses cannot exist. The Ego dwells in smiling and unbroken ease and serenity.

Một đặc điểm khác là sự tự do tồn tại hoàn toàn. Không cần thiết phải nỗ lực về bất cứ điều gì. Bước vào tâm thức Nguyên nhân mang lại ngay lập tức sự dễ dàng hoàn toàn như thể mọi sự kháng cự, mọi hạn chế, đã biến mất, chỉ còn lại sự thuần khiết, sự tồn tại thiết yếu của nguyên lý thiêng liêng trong con người, Chân ngã toàn vẹn thực sự của y, trong một hạnh phúc thanh thản mà sự nghi ngờ, lo lắng và mọi căng thẳng khác không thể tồn tại. Chân ngã ngự trong sự dễ dàng và thanh thản mỉm cười và không gián đoạn.

No effort is ever needed and so no planning. Indeed no thought of a plan is possible, for to Causal consciousness, all exists and is perpetually available in its fullness. Any change is but a steady, unrecognized increase in the fullness of being. No action and therefore no fatigue, no exhaustion, no boredom can be experienced, no action being called for. There is only an increasing interior fullness and deepening of existence naturally occurring. The unfolding human Ego in its own world amongst its peers is simply pure being, without plan, spontaneous, thought-free, motiveless, complete.

Không cần nỗ lực và do đó không cần lập kế hoạch. Thật vậy, không thể có ý nghĩ về một kế hoạch, vì đối với tâm thức Nguyên nhân, mọi thứ đều tồn tại và luôn sẵn có trong sự viên mãn của nó. Bất kỳ sự thay đổi nào cũng chỉ là sự gia tăng ổn định, không được công nhận trong sự viên mãn của hữu thể. Không có hành động và do đó không có mệt mỏi, không có kiệt sức, không có nhàm chán nào có thể trải nghiệm được, không có hành động nào được kêu gọi. Chỉ có sự viên mãn bên trong ngày càng tăng và sự đào sâu sự tồn tại một cách tự nhiên xảy ra. Chân ngã nhân loại mở ra trong thế giới riêng của nó giữa những người đồng đẳng của nó chỉ đơn giản là sự thuần khiết, không có kế hoạch, tự phát, không cần suy nghĩ, vô động cơ, hoàn chỉnh.

Mystics and occultists have also borne testimony to the causal experience of entering into supernal, infinite light, of being light itself, a centre of light in an ocean of light, the ‘true light that never was on sea or land’ and ‘lighteth every man that cometh into the world’. The Causal Body is self-radiant, an out-raying of light from its centre. Another contrast with physical life is that there is no skin, no edge to this radiance of what has been called ‘The Robe of Glory’[1]. Causal consciousness is virtually universal and the sense of division, of being separated from anyone or anything does not, cannot, exist in this state. One is light in a world of universal light. When once this state has been entered and particularly when dwelt in until it becomes part of consciousness, that same light can be seen in all beings and all things. The lower worlds are ‘seen’ to be bathed in and permeated by the vast ocean of spiritual light.

Các nhà thần bí và nhà huyền bí học cũng đã làm chứng cho kinh nghiệm nhân quả về việc bước vào ánh sáng vô tận, siêu phàm, về việc trở thành ánh sáng, một trung tâm ánh sáng trong một đại dương ánh sáng, ‘ánh sáng thực sự chưa từng có trên biển hay đất liền’ và ‘soi sáng mọi người đến thế gian’. Thể Nguyên Nhân tự phát sáng, một sự phát xạ ánh sáng từ trung tâm của nó. Một sự tương phản khác với cuộc sống thể xác là không có da, không có mép cho sự rạng rỡ này của cái được gọi là ‘Áo Choàng Vinh Quang’. Tâm thức Nguyên nhân hầu như mang tính phổ quát và cảm giác chia rẽ, bị tách biệt khỏi bất kỳ ai hoặc bất cứ điều gì không tồn tại, không thể tồn tại trong trạng thái này. Người ta là ánh sáng trong một thế giới ánh sáng phổ quát. Một khi trạng thái này đã được bước vào và đặc biệt là khi ngự trong đó cho đến khi nó trở thành một phần của tâm thức, thì ánh sáng tương tự đó có thể được nhìn thấy trong tất cả chúng sinh và mọi vật. Các cõi thấp hơn được ‘nhìn thấy’ được tắm mình và thấm đẫm đại dương ánh sáng tinh thần bao la.

Another strange experience on entering this plane of existence is that the time sense is greatly changed, almost lost, as if the Inner Self were independent of time. Time is not a factor in existence and awareness. The Ego abides in duration or time without limits. Here we live amidst past, present and future. Of these it is said only the future is actually real, the past having gone and the present vanishing whilst we think of it. The future approaches all the time. Causally this is not so. All is in complete existence all the time. The Ego does not actually dwell in eternity, in the eternal now. That appertains to a far deeper state within universe and man, at the level of the Spirit-Essence, the Atma, within us. When we touch that deeper layer, our Monadic self, then perhaps we may know eternity and that all exists in uttermost fullness all the ‘time’. Processes of beginning, developing, evolving, achieving, have there little or no meaning; for all exists all at once. Physically, this is negated, is just not so. Egoic consciousness is somewhere between the two relatively independent of time, dwelling in time without limits.

Một trải nghiệm kỳ lạ khác khi bước vào cõi tồn tại này là cảm giác về thời gian bị thay đổi rất nhiều, gần như mất đi, như thể Nội Ngã không phụ thuộc vào thời gian. Thời gian không phải là một yếu tố trong sự tồn tại và nhận thức. Chân ngã tồn tại trong thời gian hoặc thời gian vô hạn. Ở đây chúng ta sống giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong số này, người ta nói rằng chỉ có tương lai là thực sự có thật, quá khứ đã qua và hiện tại biến mất trong khi chúng ta nghĩ về nó. Tương lai đến gần mọi lúc. Về mặt nhân quả thì không phải vậy. Tất cả đều tồn tại hoàn toàn mọi lúc. Chân ngã không thực sự ngự trong cõi vĩnh hằng, trong hiện tại vĩnh cửu. Điều đó thuộc về một trạng thái sâu sắc hơn nhiều bên trong vũ trụ và con người, ở cấp độ Tinh Thần-Bản Thể, Atma, bên trong chúng ta. Khi chúng ta chạm vào lớp sâu hơn đó, bản thể Chân thần của chúng ta, thì có lẽ chúng ta có thể biết được sự vĩnh cửu và tất cả tồn tại trong sự viên mãn tột độ ‘thời gian’. Các quá trình bắt đầu, phát triển, tiến hóa, thành tựu, có ít hoặc không có ý nghĩa gì ở đó; vì tất cả tồn tại cùng một lúc. Về mặt thể chất, điều này bị phủ nhận, không phải như vậy. Tâm thức Chân ngã ở đâu đó giữa hai cái tương đối độc lập với thời gian, ngự trong thời gian vô hạn.

Awareness there can bring strange phenomena into one’s experience; for example, physically, a swiftly moving body, a bullet fired through the air or, far more swiftly, a sub-atomic particle, an electron, perhaps, shot with great velocity passes invisibly. When one tries to examine with heightened vision these swiftly moving sub-atomic particles and perhaps the root particle, the anu [2], these are causally and even in some strange way, clairvoyantly, observed to be motionless — a contradiction of physical experience, and there are many others, all of which can nevertheless be living and repeatable experiences whilst in the physical body. A physically moving object, then, can be observed as if there were no such phenomenon as motion, there being nowhere to go, to come from, to reach, as if everything exists now, here and all at once.

Nhận thức ở đó có thể mang lại những hiện tượng kỳ lạ vào trải nghiệm của một người; ví dụ, về mặt thể chất, một vật thể chuyển động nhanh, một viên đạn bắn xuyên không trung hoặc, nhanh hơn nhiều, một hạt hạ nguyên tử, một electron, có lẽ, bắn với vận tốc lớn đi qua một cách vô hình. Khi người ta cố gắng kiểm tra bằng tầm nhìn nâng cao những hạt hạ nguyên tử chuyển động nhanh này và có lẽ là hạt gốc, anu, chúng được quan sát một cách nhân quả và thậm chí theo một cách kỳ lạ nào đó, bằng nhãn thông, là bất động — một sự mâu thuẫn với kinh nghiệm thể chất, và có nhiều kinh nghiệm khác, tất cả đều có thể là những trải nghiệm sống động và có thể lặp lại trong khi ở trong thể xác. Do đó, một vật thể chuyển động về mặt thể chất có thể được quan sát như thể không có hiện tượng chuyển động nào như vậy, không có nơi nào để đi, đến từ đâu, để đạt được, như thể mọi thứ tồn tại ngay bây giờ, ở đây và tất cả cùng một lúc.

What, then, is causal knowledge? Here, as we grow up, are educated and educate ourselves, we have the experience of receiving information, of considering it, meditatively, contemplatively in some cases, as if something external to ourselves had come to us. Physically, then, a process occurs of gaining knowledge from without. That is negated in causal consciousness. The principles of existence, of emanation, unfoldment in successive degrees, of an underlying harmony of the whole universe, and all other basic equations and formulae of life, Egoically are not received ideas. We grow up with them as part of the very nature of our existence. They are built increasingly as it were into the construction of consciousness in the higher worlds, after a certain level of development has been reached. Even those words are contradictions because suggesting time. Egoically, the processes of Nature operate all around and within and upon one. They are observed and known intuitively as beyond question or necessity of thought. All natural principles and processes are, in fact, continually lived and in no sense observed as if external. They are ‘parts’ of the unified fabric of being. Now those words have falsified what I want to say, and I find it extremely hard to bring these causal, arupa, concepts in their vital significance into terms of the concrete mind. The brain is especially limiting and still more so words.

Vậy thì, tri thức nhân quả là gì? Ở đây, khi chúng ta lớn lên, được giáo dục và tự giáo dục, chúng ta có kinh nghiệm nhận thông tin, xem xét nó, một cách thiền định, chiêm nghiệm trong một số trường hợp, như thể một cái gì đó bên ngoài bản thân chúng ta đã đến với chúng ta. Về mặt thể chất, sau đó, một quá trình xảy ra là thu được kiến thức từ bên ngoài. Điều đó bị phủ nhận trong tâm thức nhân quả. Các nguyên tắc tồn tại, xuất lộ, mở ra theo các mức độ kế tiếp, về một sự hài hòa cơ bản của toàn bộ vũ trụ, và tất cả các phương trình và công thức cơ bản khác của cuộc sống, về mặt Chân ngã không phải là những ý tưởng được tiếp nhận. Chúng ta lớn lên với chúng như một phần bản chất của sự tồn tại của chúng ta. Chúng được xây dựng ngày càng nhiều như thể vào cấu trúc của tâm thức trong các cõi cao hơn, sau khi đạt đến một mức độ phát triển nhất định. Ngay cả những từ đó cũng là những mâu thuẫn vì gợi ý thời gian. Về mặt Chân ngã, các quá trình của Tự nhiên vận hành xung quanh và bên trong và trên một người. Chúng được quan sát và biết một cách trực quan là vượt quá câu hỏi hoặc sự cần thiết của tư duy. Tất cả các nguyên tắc và quá trình tự nhiên, trên thực tế, liên tục được sống và không theo nghĩa nào được quan sát như thể bên ngoài. Chúng là ‘các phần’ của cấu trúc thống nhất của hữu thể. Bây giờ những từ đó đã xuyên tạc những gì tôi muốn nói, và tôi thấy cực kỳ khó khăn để đưa những khái niệm nhân quả, arupa này vào ý nghĩa quan trọng của chúng thành các khái niệm của trí cụ thể. Bộ não đặc biệt hạn chế và lời nói còn hạn chế hơn nữa.

Let me, then, deliberately provide some concrete ideas. We, Theosophists, are taught, we believe, and some of us know, that this Inner Self of universe and man gradually unfolds its inherent powers, reaches one standard of development after another by virtue of successive lives on earth, the whole process operating under a flexible Law of Cause and Effect. So in our thought, we say we have had past lives. We lived on earth in another body, for example, two, three, four, or five hundred years or so ago. That life came to an end. It finished. It is now a past life. Behind that again hundreds of other existences as personalities, lived their little day and, with the civilizations with which they were a part, have all gone into the past. Now, imagine a state of consciousness in duration or time without limit in which this simply is not so, those former existences still continuing here and now. If we were in Egypt once or twice in those lives, then they are still going on. A past life is, causally, not finished and done with. The whole procedure occurs here and now, very much as we attending this gathering have been all together a few minutes before it started when we found our seats and we waited for what had to be done and is now being done. Whilst physically all events were in succession, they are still present in our consciousness, still going on. We are here together in a continuing, non-temporal, process. Something like that, but far more subtle and extensive, obtains in causal consciousness. Thus the Ego dwells in timelessness.

Vậy thì, hãy để tôi cố ý cung cấp một số ý tưởng cụ thể. Chúng ta, những nhà Thông Thiên Học, được dạy, chúng ta tin, và một số người trong chúng ta biết, rằng Nội Ngã này của vũ trụ và con người dần dần mở ra những sức mạnh vốn có của nó, đạt đến tiêu chuẩn phát triển này đến tiêu chuẩn phát triển khác nhờ những kiếp sống liên tiếp trên trái đất, toàn bộ quá trình vận hành theo một Định luật Nhân quả linh hoạt. Vì vậy, trong suy nghĩ của chúng ta, chúng ta nói rằng chúng ta đã có những kiếp sống quá khứ. Chúng ta đã sống trên trái đất trong một cơ thể khác, ví dụ, hai, ba, bốn hoặc năm trăm năm trước. Cuộc sống đó đã đi đến hồi kết. Nó đã kết thúc. Bây giờ nó là một kiếp sống quá khứ. Đằng sau đó một lần nữa hàng trăm sự tồn tại khác như những phàm ngã, đã sống một ngày nhỏ bé của chúng và, với các nền văn minh mà chúng là một phần, tất cả đã đi vào quá khứ. Bây giờ, hãy tưởng tượng một trạng thái tâm thức trong thời gian hoặc thời gian vô hạn, trong đó điều này đơn giản là không phải vậy, những sự tồn tại trước đây đó vẫn tiếp tục ở đây và bây giờ. Nếu chúng ta đã ở Ai Cập một hoặc hai lần trong những kiếp sống đó, thì chúng vẫn đang tiếp diễn. Một kiếp sống quá khứ, về mặt nhân quả, không kết thúc và hoàn thành. Toàn bộ quy trình diễn ra ở đây và bây giờ, rất giống như chúng ta tham dự buổi họp mặt này đã ở cùng nhau vài phút trước khi nó bắt đầu khi chúng ta tìm thấy chỗ ngồi của mình và chúng ta chờ đợi những gì phải làm và hiện đang được thực hiện. Trong khi về mặt thể chất tất cả các sự kiện đều diễn ra liên tiếp, chúng vẫn hiện diện trong tâm thức của chúng ta, vẫn đang tiếp diễn. Chúng ta ở đây cùng nhau trong một quá trình tiếp diễn, phi thời gian. Một cái gì đó tương tự như vậy, nhưng tinh tế và rộng lớn hơn nhiều, có được trong tâm thức nhân quả. Vì vậy, Chân ngã ngự trong sự vô thời gian.

A peculiarity of physical embodiment is that consciousness is continually snapped off, broken, lost. Every time we go to sleep, briefly, or for the night, consciousness is lost, put out like a candle that is extinguished. For us physically all then vanishes including ourselves. We, Theosophists, may believe that consciousness continues and there is activity in an inner world but, physically at any rate, consciousness is intermittent, being continually broken. This is not at all the case for the Ego in the Causal Body. There — a falsifying word — consciousness is unbroken, continuous as if the Ego dwells in continuity with everything going on all the time, without any break in awareness or any change. If there is any change, it is as of a perpetually unfolding sphere, which from within is ever unfolding; from a centre or germ within one there is welling up all the time more and more spirit-essence; more power, life, love, vital energies and awareness and understanding are perpetually increasing, like a sphere of light with continually increasing range.

Một đặc điểm của sự thể hiện thể xác là tâm thức liên tục bị ngắt, phá vỡ, mất đi. Mỗi khi chúng ta đi ngủ, dù là chốc lát hay qua đêm, tâm thức bị mất đi, tắt ngấm như một ngọn nến bị dập tắt. Đối với chúng ta về mặt thể chất, tất cả sau đó biến mất bao gồm cả chính chúng ta. Chúng ta, những nhà Thông Thiên Học, có thể tin rằng tâm thức tiếp tục và có hoạt động trong một thế giới bên trong, nhưng, về mặt thể chất, ít nhất, tâm thức bị gián đoạn, liên tục bị phá vỡ. Đây hoàn toàn không phải là trường hợp của Chân ngã trong Thể Nguyên Nhân. Ở đó — một từ xuyên tạc — tâm thức không bị phá vỡ, liên tục như thể Chân ngã ngự trong sự liên tục với mọi thứ đang diễn ra mọi lúc, mà không có bất kỳ sự gián đoạn nào trong nhận thức hoặc bất kỳ sự thay đổi nào. Nếu có bất kỳ sự thay đổi nào, thì đó là một quả cầu liên tục mở ra, từ bên trong luôn mở ra; từ một trung tâm hoặc mầm bên trong một người, ngày càng có nhiều bản thể tinh thần trào dâng mọi lúc; ngày càng có nhiều sức mạnh, sự sống, tình thương/bác ái, năng lượng sinh lực và nhận thức và thấu hiểu liên tục gia tăng, giống như một quả cầu ánh sáng với phạm vi ngày càng tăng.

Thus in causal consciousness there cannot ever be any sense of lack, of want, anything to be striven for. All is fully available all the time, and Egoic existence consists of a perpetual expansion due to the continuous up-welling from an infinite source of light, life and energizing, dynamic power. All that ever can be is already present in this sense of growing fullness in timeless experience. As I said in the beginning, the experience of causal consciousness in whatever degree is thus one of rest, peace, great and smiling ease.

Do đó, trong tâm thức nhân quả, không bao giờ có thể có bất kỳ cảm giác thiếu thốn, mong muốn, bất cứ điều gì cần phải phấn đấu. Tất cả đều có sẵn đầy đủ mọi lúc, và sự tồn tại của Chân ngã bao gồm một sự mở rộng vĩnh viễn do sự trào dâng liên tục từ một nguồn ánh sáng, sự sống và năng lượng vô hạn, sức mạnh năng động. Tất cả những gì có thể có đều đã có mặt trong cảm giác viên mãn đang phát triển này trong trải nghiệm vô thời gian. Như tôi đã nói ngay từ đầu, kinh nghiệm về tâm thức nhân quả ở bất kỳ mức độ nào do đó là một trong những sự nghỉ ngơi, bình an, dễ dàng tuyệt vời và mỉm cười.

Another contrast with physical awareness, a contradiction in fact of our three dimensional consciousness is that of infinite withinness. Physically, we know that all objects can be expanded limitlessly in size. Apart from obstructions on the physical plane, space is limitless, and so we are able to conceive of limitless outward expansion. Movement outward is for us without restriction, but when we try to penetrate limitlessly into the interior of things we come to the impassible centre. Now imagine a state where that impassibility does not exist, where there is also infinite withinness. This is applicable to both universe and man and if he so focuses his attention, he can indeed penetrate in consciousness deeper and deeper towards his inner nature without ever coming to a stop, a barrier, an absolutely resistant centre.

Một sự tương phản khác với nhận thức thể xác, một sự mâu thuẫn trên thực tế với tâm thức ba chiều của chúng ta là tính nội tại vô hạn. Về mặt thể chất, chúng ta biết rằng tất cả các vật thể có thể được mở rộng vô hạn về kích thước. Ngoài những chướng ngại vật trên cõi hồng trần, không gian là vô hạn, và do đó chúng ta có thể hình dung về sự mở rộng ra bên ngoài vô hạn. Chuyển động ra bên ngoài đối với chúng ta là không có hạn chế, nhưng khi chúng ta cố gắng thâm nhập vô hạn vào bên trong mọi thứ, chúng ta sẽ đến trung tâm không thể vượt qua. Bây giờ hãy tưởng tượng một trạng thái mà sự không thể vượt qua đó không tồn tại, nơi cũng có tính nội tại vô hạn. Điều này có thể áp dụng cho cả vũ trụ và con người và nếu y tập trung sự chú ý của mình, y thực sự có thể thâm nhập vào tâm thức ngày càng sâu hơn vào bản chất bên trong của mình mà không bao giờ dừng lại, một rào cản, một trung tâm hoàn toàn kháng cự.

This is a very strange experience and again in examining sub-atomic particles, for example, one finds that deep within the minutest of them there is another kind of existence, penetrating into which one comes to another world from which the force that makes the object appear in the physical world is coming. This can be pursued into successive interior states until presumably you come to that centre which H.P.B. [Helena P. Blavatsky] says is everywhere with circumference nowhere — inconceivable physically. The brain cannot conceive it though it is good to meditate upon. Egoically it is a natural characteristic of consciousness in the causal world.

Đây là một trải nghiệm rất kỳ lạ và một lần nữa khi kiểm tra các hạt hạ nguyên tử, ví dụ, người ta thấy rằng sâu bên trong những hạt nhỏ nhất trong số chúng có một loại tồn tại khác, thâm nhập vào đó người ta đến một thế giới khác từ đó lực làm cho vật thể xuất hiện trong thế giới thể xác đang đến. Điều này có thể được theo đuổi vào các trạng thái bên trong kế tiếp cho đến khi có lẽ bạn đến trung tâm mà Bà Blavatsky [Helena P. Blavatsky] nói là ở khắp mọi nơi với chu vi không ở đâu — không thể tưởng tượng được về mặt thể chất. Bộ não không thể hình dung ra nó mặc dù tốt để tham thiền về nó. Về mặt Chân ngã, đó là một đặc điểm tự nhiên của tâm thức trong thế giới nhân quả.

Then, again, the integrity of the Ego is unstained[3] and unstainable a wonderful state! Wholeness, actuality, of that which you are is a causal attribute. You are what you are. How difficult to attain down here, where we are continually shaped, moulded and conditioned by all sorts of external influences and uttermost trueness, integrity is almost impossible. But, causally, there are no external influences. All is within and part of the fabric of one’s being. There is nothing to attain, nothing to manoeuvre[4] for, plot for, plan for, deceive for. The jewel of sincerity shines in the crown of the Inner Self of Man

Sau đó, một lần nữa, sự toàn vẹn của Chân ngã là không tì vết và không thể làm hoen ố một trạng thái tuyệt vời! Sự toàn vẹn, tính hiện thực của những gì bạn là một thuộc tính nhân quả. Bạn là những gì bạn là. Thật khó để đạt được ở dưới này, nơi chúng ta liên tục bị định hình, uốn nắn và điều kiện hóa bởi tất cả các loại ảnh hưởng bên ngoài và sự chân thật tột cùng, sự toàn vẹn là gần như không thể. Nhưng, về mặt nhân quả, không có ảnh hưởng bên ngoài. Tất cả đều ở bên trong và là một phần của cấu trúc hữu thể của một người. Không có gì để đạt được, không có gì để vận động, âm mưu, lên kế hoạch, lừa dối. Viên ngọc của sự chân thành tỏa sáng trên vương miện của Nội Ngã của Con Người

Imagine also a condition of consciousness in which not only time is not a factor in existence, but space also. To the Ego, space and distance hardly exist. The Ego of man is independent of location. There is no geography in the causal world. It does not matter where one is, existence not being in any way affected by position in space.

Hãy tưởng tượng một trạng thái tâm thức, trong đó không chỉ thời gian không phải là một yếu tố trong sự tồn tại, mà cả không gian cũng vậy. Đối với Chân ngã, không gian và khoảng cách hầu như không tồn tại. Chân ngã của con người không phụ thuộc vào vị trí. Không có địa lý trong thế giới nhân quả. Không quan trọng người ta ở đâu, sự tồn tại không bị ảnh hưởng theo bất kỳ cách nào bởi vị trí trong không gian.

There is no going away because there is nowhere to go. There is no losing someone or something, because all is always here, all ever available. The only necessity for communion is attunement. If one can attune with any other being in the causal world or with great ideas and principles of existence then they are present in fullness. Death of course cannot exist, for the Inner Self is immune from death. Only the body dies. Having been born, it must die, but the shining Self of Light is virtually immortal. Egoically, for us all there is no death, no separation, no bereavements. Perhaps the analogy of radio might help us in this. It does not help to have the receiver close to the transmitting station. Receivers are generally fairly independent of location. If you can tune in adequately, all things being equal, you can pick up a chosen station. Carry that up into terms of pure consciousness and realize that distance, separation, other locations are not part of the content of such consciousness.

Không có việc rời đi vì không có nơi nào để đi. Không có việc mất ai đó hoặc một cái gì đó, bởi vì tất cả luôn ở đây, tất cả luôn có sẵn. Sự cần thiết duy nhất cho sự hiệp thông là sự hòa hợp. Nếu một người có thể hòa hợp với bất kỳ chúng sinh nào khác trong thế giới nhân quả hoặc với những ý tưởng và nguyên tắc tồn tại tuyệt vời thì chúng sẽ hiện diện đầy đủ. Tất nhiên, cái chết không thể tồn tại, vì Nội Ngã được miễn nhiễm khỏi cái chết. Chỉ có thể xác chết. Đã được sinh ra, nó phải chết, nhưng Chân ngã Ánh sáng rạng ngời hầu như bất tử. Về mặt Chân ngã, đối với tất cả chúng ta, không có cái chết, không có sự chia ly, không có sự mất mát. Có lẽ sự tương tự của đài phát thanh có thể giúp chúng ta trong việc này. Việc có máy thu gần trạm phát không giúp ích gì. Máy thu thường khá độc lập với vị trí. Nếu bạn có thể dò kênh đầy đủ, mọi thứ đều bình đẳng, bạn có thể chọn một trạm đã chọn. Mang điều đó lên thành các khái niệm về tâm thức thuần túy và nhận ra rằng khoảng cách, sự chia ly, các vị trí khác không phải là một phần của nội dung của tâm thức đó.

If that consciousness is blessed by knowledge of a Master, if there is a sense of having dedicated oneself and one’s life and being to a great Adept, then He is ever present and can never be lost as long as the power to attune with Him remains. So in this sense, the Guru, the Adept, the Master, is not away in an ashram. He is here, an ever-present living Light and Presence and Power within one’s Inner Self. The Himalayan Ranges cannot separate the disciple from his Guru, for He is here and now and within one all the time — a blessed thought for the devotee! Even more blessed when it is a fully conscious experience as we are promised it can be.

Nếu tâm thức đó được ban phước bởi tri thức của một Chân sư, nếu có một cảm giác đã hiến dâng bản thân và sự sống và hữu thể của mình cho một bậc Chân sư vĩ đại, thì Ngài luôn hiện diện và không bao giờ có thể bị mất đi miễn là sức mạnh để hòa hợp với Ngài vẫn còn. Vì vậy, theo nghĩa này, Guru, bậc Chân sư, Huấn sư, không ở xa trong một ashram. Ngài ở đây, một Ánh Sáng và Hiện Diện và Quyền Năng sống động luôn hiện diện bên trong Nội Tâm của một người. Dãy Himalaya không thể tách đệ tử khỏi Guru của y, vì Ngài ở đây và bây giờ và ở bên trong tất cả mọi người mọi lúc — một ý nghĩ may mắn cho người mộ đạo! Thậm chí còn may mắn hơn khi đó là một trải nghiệm hoàn toàn tỉnh thức như chúng ta đã được hứa hẹn.

I expect some of you are mentally asking: ‘How can we know some of this wondrous life, this serene content, this poised harmony, and tranquillity of soul and mind?’ Indeed this is the great question: How to know? Most of you know full well and will answer, by the practice of Yoga. May I simplify that and say, ‘by strong focusing of attention’. Awareness can be established at that point where your thought is focused. So we should focus our attention out of the unreal into the real, out of this relative darkness into the light and out of this death into immortality. By following the habit of living there in thought, of being often focused there, the doors, the double doorway, opens and we can pass in to the holy of holies of our inner nature where is enshrined the Atma, the immortal Spirit-Essence of our real selves. Simply put, it is done by thinking. Think constantly on the eternal and the eternal will become ours. I have written an affirmation with which I will close. Lifting consciousness above the physical, astral and mental levels, we may frequently affirm: ‘I am a divine and immortal being. I live for ever in radiance, in eternal youth, and in oneness with God’.

Tôi cho rằng một số bạn đang thầm hỏi: ‘Làm sao chúng ta có thể biết được một phần nào đó của cuộc sống kỳ diệu này, sự mãn nguyện thanh thản này, sự hài hòa và tĩnh lặng điềm tĩnh của linh hồn và thể trí?’ Thật vậy, đây là câu hỏi lớn: Làm thế nào để biết? Hầu hết các bạn đều biết rất rõ và sẽ trả lời, bằng cách thực hành Yoga. Tôi có thể đơn giản hóa điều đó và nói, ‘bằng cách tập trung mạnh mẽ sự chú ý’. Nhận thức có thể được thiết lập tại điểm mà tư tưởng của bạn được tập trung. Vì vậy, chúng ta nên tập trung sự chú ý của mình ra khỏi cái không có thật vào cái có thật, ra khỏi bóng tối tương đối này vào ánh sáng và ra khỏi cái chết này vào sự bất tử. Bằng cách tuân theo thói quen sống ở đó trong tư tưởng, thường xuyên tập trung ở đó, các cánh cửa, cánh cửa đôi, mở ra và chúng ta có thể bước vào nơi chí thánh của bản chất nội tại của mình, nơi có khắc ghi Atma, Tinh chất Tinh thần bất tử của bản ngã thật của chúng ta. Nói một cách đơn giản, nó được thực hiện bằng cách suy nghĩ. Hãy suy nghĩ liên tục về vĩnh hằng và vĩnh hằng sẽ trở thành của chúng ta. Tôi đã viết một lời khẳng định mà tôi sẽ kết thúc. Nâng tâm thức lên trên các cõi hồng trần, cảm dục và trí tuệ, chúng ta có thể thường xuyên khẳng định: ‘Tôi là một hữu thể thiêng liêng và bất tử. Tôi sống mãi mãi trong rạng rỡ, trong tuổi trẻ vĩnh cửu và trong sự hợp nhất với Thượng đế’.

A Convention Lecture delivered at Adyar on 26 December 1950

Một Bài Giảng Hội Nghị được trình bày tại Adyar vào ngày 26 tháng 12 năm 1950

50

The Royal Secret—Bí Mật Hoàng Gia

What is the supreme Theosophical revelation? What is the highest Truth, the ultimate fact, the ‘Royal Secret’? What can we, Theosophists, say to a world of men perplexed, confused, frightened, disillusioned, cynical, trusting, if in anything, in physical science alone? The answer can be given in one three-lettered Sanskrit word, which must of course be translated into the language of the people addressed. This, I conceive, is our task to translate that one essential word, and to convey convincingly that translation to humanity.

Mặc khải Thông Thiên Học tối thượng là gì? Chân lý cao nhất, sự thật tối thượng, ‘Bí Mật Hoàng Gia’ là gì? Chúng ta, những nhà Thông Thiên Học, có thể nói gì với một thế giới của những người đang bối rối, hoang mang, sợ hãi, vỡ mộng, hoài nghi, tin tưởng, nếu có, chỉ riêng khoa học vật lý? Câu trả lời có thể được đưa ra trong một từ tiếng Phạn ba chữ cái, tất nhiên phải được dịch sang ngôn ngữ của những người được nói đến. Tôi cho rằng đây là nhiệm vụ của chúng ta là dịch một từ thiết yếu đó và truyền đạt một cách thuyết phục bản dịch đó cho nhân loại.

What is that short word which reveals all, solves all, satisfies all? It is the name of God given to the Aryan Race by the Rishis of old! It is spelt AUM and pronounced OM. One translation into English of this three-lettered word which is pronounced in one syllable is ‘The Divine Source is threefold in manifestation and one in essence’. This divine essence constitutes the essential Self in every human being. There are not two essences, but one. Such is the one truth, the Atma Vidya, the Supreme Wisdom.

Từ ngắn gọn nào tiết lộ tất cả, giải quyết tất cả, thỏa mãn tất cả? Đó là tên của Thượng đế được trao cho Arya bởi các Rishi thời xưa! Nó được đánh vần là AUM và được phát âm là OM. Một bản dịch sang tiếng Anh của từ ba chữ cái này được phát âm trong một âm tiết là ‘Nguồn Thiêng Liêng là tam phân trong biểu hiện và hợp nhất trong bản chất’. Bản chất thiêng liêng này cấu thành Bản Ngã thiết yếu trong mỗi con người. Không có hai bản chất, mà chỉ có một. Đó là chân lý duy nhất, Atma Vidya, Minh Triết Tối Thượng.

Why is this apparently simple and not unfamiliar idea so important and so potent? Because it solves man’s two greatest problems — those of religion and human relationships. Applied to a religion, AUM directs man’s thoughts to his Divine Source, and links him therewith when meditated upon and correctly chanted as a Mantram. AUM leads, therefore, to the vital religious experience of

Tại sao ý tưởng có vẻ đơn giản và không xa lạ này lại quan trọng và mạnh mẽ đến vậy? Bởi vì nó giải quyết hai vấn đề lớn nhất của con người — những vấn đề về tôn giáo và các mối quan hệ giữa con người. Áp dụng cho một tôn giáo, AUM hướng tư tưởng của con người đến Nguồn Thiêng Liêng của y, và liên kết y với nó khi được tham thiền và tụng chính xác như một Mantram. Vì vậy, AUM dẫn đến trải nghiệm tôn giáo quan trọng của

In these days, certain parts only of the ‘Grand System of Correspondences’ have been given to mankind by the Adept Teachers of the Race; for knowledge is power and only the more innocuous aspects of the Science can safely be put before humanity at this stage of its evolution. While this reservation would appear to be a limitation, it is, in fact, a challenge to the intellect and intuition of those students in whom the determination to know has awakened; for to those organs of consciousness all knowledge lies open, and in seeking to fill in the gaps in the present revelation the student exercises, and so develops, his powers of intellection and perception.

Trong những ngày này, chỉ một số phần nhất định của ‘Hệ Thống Tương Ứng Vĩ Đại’ đã được trao cho nhân loại bởi các Huấn Sư Chân sư của Nhân Loại; vì tri thức là sức mạnh và chỉ những khía cạnh vô hại hơn của Khoa Học mới có thể được đặt trước nhân loại một cách an toàn ở giai đoạn tiến hóa này. Mặc dù sự dè dặt này dường như là một hạn chế, nhưng trên thực tế, nó là một thách thức đối với trí tuệ và trực giác của những học viên mà trong đó quyết tâm biết đã thức tỉnh; vì đối với những cơ quan tâm thức đó, mọi tri thức đều rộng mở, và trong việc tìm cách lấp đầy những khoảng trống trong mặc khải hiện tại, học viên thực hành, và do đó phát triển, sức mạnh tư duy và tri giác của mình.

The Lord Buddha is reported to have said: ‘In this very body, six feet in length, with its sense impressions and its thoughts and ideas, is the world, and the origin of the world, and the ceasing of the world, and likewise the Way that leadeth to the ceasing thereof.[5]

Đức Phật được thuật lại đã nói: ‘Trong chính thân thể này, dài sáu thước, với những ấn tượng giác quan và những tư tưởng và ý tưởng của nó, là thế giới, và nguồn gốc của thế giới, và sự chấm dứt của thế giới, và tương tự như vậy là Con Đường dẫn đến sự chấm dứt của nó.

Thus, because of the underlying unity of this tremendous pattern of unfoldment, man contains in himself every element that is found in the universe. In the chain of being, everything is magically contained in everything else. Where you stand, there stand all the worlds. Kabbalism — the Theosophy of the Hebrews — adds to the Hermetic axiom — ‘what is below is above’ — the statement that what is inside is outside, and also acts upon everything else. Man himself is portrayed as a symbolic transparency through which the secret of the Cosmos may be discerned. Kabbalists stress the interrelation of all worlds and levels of being, affirming that everything is connected with and interpenetrates everything else according to exact though unfathomable laws. Everything possesses its infinite depths which from every point may be contemplated.

Do đó, vì sự thống nhất tiềm ẩn của mô hình mở rộng vĩ đại này, con người chứa đựng trong mình mọi yếu tố được tìm thấy trong vũ trụ. Trong chuỗi hữu thể, mọi thứ đều được chứa đựng một cách kỳ diệu trong mọi thứ khác. Nơi bạn đứng, tất cả các thế giới đều đứng đó. Kabbalism — Thông Thiên Học của người Do Thái — thêm vào tiên đề Hermetic — ‘trên sao, dưới vậy’ — tuyên bố rằng những gì ở bên trong là ở bên ngoài, và cũng tác động lên mọi thứ khác. Bản thân con người được miêu tả như một sự minh bạch tượng trưng mà qua đó bí mật của Vũ Trụ có thể được nhận ra. Các nhà Kabbalist nhấn mạnh mối tương quan giữa tất cả các thế giới và các cấp độ hữu thể, khẳng định rằng mọi thứ đều được kết nối với và xuyên thấu mọi thứ khác theo các định luật chính xác mặc dù không thể dò thấu. Mọi thứ đều sở hữu những chiều sâu vô tận của nó mà từ mọi điểm có thể được chiêm ngưỡng.

The Theosophist, Vol. 103, November 1981, p. 46

The Theosophist, Tập 103, tháng 11 năm 1981, tr. 46



  1. Robe of Glory, a gnostic term for the Causal Body.




  2. Ultimate, indivisible atom.




  3. không bị lem luốc




  4. dẫn dắt ai/cái gì một cách khéo léo và xảo quyệt; lôi kéo một cách khéo léo




  5. Footsteps of Gautama the Buddha, M. B. Byles.


Leave a Comment

Scroll to Top