With the above cases I have practically exhausted my personal experience of things psychic or occult. It only remains to gather together and enumerate a few items which fall within the scope of this article without being readily susceptible of special illustration.
|
Với những trường hợp trên, tôi hầu như đã kể hết các trải nghiệm cá nhân của mình về những điều thông linh hay huyền bí. Chỉ còn lại việc gom góp và liệt kê vài điều thuộc phạm vi bài viết này nhưng khó có ví dụ minh họa riêng.
|
XVI.32. Thought-Action on Dreamers.There are two cases known to me in which I, awake, exercised thought-influence on different other persons who were then asleep. The interesting point to me was to hear the reports of their dreams, and to note the dream symbolism, which had completely transformed the formal side of the transaction, but had kept it absolutely intact from a symbolical point of view.
|
XVI.32. Tác Động Tư Tưởng lên Người Đang Mộng. Có hai trường hợp tôi biết, trong đó, khi đang thức, tôi đã tác động tư tưởng lên hai người khác nhau lúc họ đang ngủ. Điều khiến tôi hứng thú là nghe tường trình về các giấc mơ của họ, và ghi nhận biểu tượng giấc mơ, vốn đã hoàn toàn chuyển hóa mặt hình thức của sự việc, nhưng vẫn giữ nguyên trọn vẹn về phương diện biểu tượng.
|
The two cases were slightly dissimilar in nature. In the first, I was in a highly excited and turbulent state of mind of an undesirable nature. A very good and intimate friend of mine slept in the room next to me. He was asleep when I was still lying awake. Next morning he told me that he had had a vivid dream about me being in a burning house, and that he had rushed up to help me and to extricate or rescue me from the danger. I recognised at once the ‘fire of passion’ in the burning house, and could not but feel grateful for my friend’s astral loyalty.
|
Hai trường hợp này có bản chất hơi khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất, tôi đang ở trong một trạng thái thể trí bị kích động mạnh và xáo trộn theo một cách không đáng mong muốn. Một người bạn rất thân và rất gần gũi của tôi ngủ ở căn phòng bên cạnh. Anh ấy đã ngủ khi tôi vẫn còn thức nằm thao thức. Sáng hôm sau, anh kể với tôi rằng anh đã có một giấc mơ sống động về việc tôi ở trong một ngôi nhà đang cháy, và rằng anh đã lao tới để giúp tôi và kéo tôi ra, hoặc cứu tôi khỏi hiểm nguy. Tôi lập tức nhận ra “ngọn lửa dục vọng” trong ngôi nhà bốc cháy ấy, và không thể không cảm thấy biết ơn lòng trung thành trên cõi cảm dục của người bạn tôi.
|
In the second case I was deliberately thinking of another person with regard to a certain course of action. Next day that friend told me that he had dreamt that I had come to him, and my appearance and conduct as he described it tallied mutatis mutandis with my thoughts of the previous night. Only I, knowing the details, knew also what his description meant; whereas he, not having any data to go on, could not see further than his mere recollection, symbolising but not explaining the affair.
|
Trong trường hợp thứ hai, tôi cố ý nghĩ về một người khác liên quan tới một đường hướng hành động nhất định. Ngày hôm sau người bạn ấy nói với tôi rằng anh đã mơ thấy tôi đến với anh, và hình dạng cũng như cách cư xử của tôi như anh mô tả thì khớp, với những điều chỉnh cần thiết , với những ý nghĩ của tôi đêm hôm trước. Chỉ có tôi, do biết các chi tiết, nên cũng biết lời mô tả của anh có ý nói gì; còn anh, không có dữ liệu nào để dựa vào, thì không thể thấy xa hơn ngoài ký ức đơn thuần của mình, chỉ biểu tượng hóa mà không giải minh sự việc.
|
[CWL note] (In the first case mentioned in paragraph 32, the author’s astral body was in a turbulent condition – which means not only brilliant colour and energetic vibration, but also great temporary expansion and vehement pulsations extending over a considerable area. The friend sleeping in the next room could not but be within the sphere of influence of these alarums and excursions, and when his attention was attracted by them, his innate spirit of helpfulness immediately asserted itself, and he pluckily rushed in to try to readjust matters.
|
[CWL note] (Trong trường hợp thứ nhất nêu ở đoạn 32, thể cảm dục của tác giả ở trong tình trạng xáo động—nghĩa là không chỉ có màu sắc rực rỡ và rung động mãnh liệt, mà còn có sự phồng nở tạm thời rất lớn và những nhịp xung dữ dội lan ra trên một vùng khá rộng. Người bạn ngủ ở phòng bên cạnh ắt hẳn nằm trong phạm vi ảnh hưởng của những náo động và xao động ấy, và khi sự chú ý của anh bị chúng lôi cuốn, tinh thần giúp đỡ bẩm sinh của anh lập tức tự biểu lộ, và anh đã gan dạ lao vào để cố điều chỉnh lại tình trạng.
|
In the second case, the writer gives us scarcely sufficient detail to enable us usefully to comment upon it further than to remark that during sleep people are specially susceptible to thought-influence, and that each ego has usually his own system of symbolism into which he would be likely to translate whatever was impressed upon him.)
|
Trong trường hợp thứ hai, tác giả hầu như không cho chúng ta đủ chi tiết để có thể bình luận hữu ích thêm gì ngoài nhận xét rằng trong khi ngủ con người đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi tư tưởng, và rằng mỗi chân ngã thường có hệ biểu tượng riêng, trong đó người đó có khuynh hướng phiên dịch bất cứ điều gì được in ấn vào mình.)
|
XVI.33. Dream Interpretation. I have noticed that I am very often able when a dream is told to me, to give on the spur of the moment and quite spontaneously an interpretation of it to the dreamer, with which he is satisfied. Again, this is merely a note in passing, which is given only for what it is worth. I have never studied dream-books, or dream interpretation, and am not specially interested in the subject, except so far as it forms a branch of general psychology.
|
XVI.33. Giải đoán giấc mơ. Tôi nhận thấy rằng rất thường khi có người kể cho tôi một giấc mơ, tôi có thể ngay tức khắc và hoàn toàn tự nhiên đưa ra một cách giải đoán cho chính người mơ, và điều đó làm người ấy hài lòng. Một lần nữa, đây chỉ là một ghi chú lướt qua, được nêu ra theo đúng giá trị của nó mà thôi. Tôi chưa từng học các sách mộng tượng hay giải mộng, và cũng không đặc biệt quan tâm đến đề tài này, ngoại trừ chừng mực nó là một nhánh của tâm lý học nói chung.
|
[CWL note] (In 33 we see the manifestation of a useful and valuable faculty – evidence of an ego which is quick to read the symbolism of other egos, and has the power of impressing the results of his knowledge upon his own physical brain.)
|
[CWL note] (Ở đoạn 33, chúng ta thấy sự bộc lộ của một năng khiếu hữu ích và quý giá—bằng chứng của một chân ngã nhanh nhạy trong việc đọc biểu tượng của các chân ngã khác, và có năng lực in ấn kết quả tri thức của mình lên chính bộ não hồng trần của mình.)
|
XVI.34. Running water. I notice, has always a strange fascination for me. Whether it be a waterfall, rapids in a river, a swiftly rushing stream, waves by the sea, merely rain or even water running from a tap, the motion and sound always please me. I like sitting near a stream or staring at the sea. The sound nearly always suggests voices to me, in a language I do not understand, but might understand if I just could get a little bit more inside it.
|
XVI.34. Dòng nước chảy. Tôi nhận thấy, luôn có một sức quyến rũ lạ lùng đối với tôi. Dù là thác nước, ghềnh trên sông, dòng suối lao nhanh, sóng biển, chỉ là mưa hay thậm chí nước chảy từ vòi, chuyển động và âm thanh ấy luôn làm tôi thích thú. Tôi thích ngồi bên suối hoặc nhìn đăm đăm ra biển. Âm thanh hầu như luôn gợi với tôi những giọng nói, trong một ngôn ngữ tôi không hiểu, nhưng có thể hiểu nếu tôi chỉ có thể đi thêm một chút bên trong nó.
|
An American author describes something similar in a recent story. An invalid is lying in a hospital, wearily awaiting convalescence:
|
Một nhà văn Mỹ tả điều gì đó tương tự trong một truyện gần đây. Một người bệnh nằm trong bệnh viện, mỏi mòn chờ ngày bình phục:
|
“She listened. Rushing down the valley in the large grounds, there was a stream – a liquid, unending, deep chord of many broken notes!…. The sweet hollow silver of the booming water divided, changed into voices that called, talked, laughed. There were long, low sentences; there were single questioning words; there were murmuring names spoken, and tender half-sounds, all unhurried, all contented and sure and adequate. She did not catch definite words, only intonations, the rise and fall; but the steady strength of the voices seemed to lift her weakness and bear it out on a calm flood. The stream was her friend; the voices of the stream were unreal voices, yet peace-giving.”
|
“Nàng lắng nghe. Chảy xiết xuống thung lũng trong khu đất rộng, có một dòng suối—một hợp âm lỏng, bất tận, sâu thẳm của nhiều nốt nhạc vỡ!…. Tiếng ngân bạc rỗng ngọt ngào của làn nước ầm ào tách ra, biến thành những giọng nói gọi nhau, trò chuyện, cười vang. Có những câu dài, trầm; có những từ đơn chất vấn; có những cái tên thì thầm được gọi, và những nửa âm dịu nhẹ, tất cả đều ung dung, thảy đều mãn nguyện, vững tin và đủ đầy. Nàng không bắt được những từ xác định, chỉ là ngữ điệu, những nhịp lên xuống; nhưng sức mạnh bền bỉ của các giọng nói dường như nâng sự yếu đuối của nàng lên và chở nó đi trên một dòng lũ êm đềm. Dòng suối là bạn của nàng; những giọng nói của dòng suối là những giọng nói không thật, nhưng mang lại bình an.”
|
I thought that this feeling might have something to do with the water elementals, but recently whilst motoring in a particularly noiseless motor-car I experienced the same feeling in hearing the smooth swish of its revolving machinery.
|
Tôi đã nghĩ rằng cảm giác này có lẽ liên quan đến các hành khí nước, nhưng gần đây, khi lái một chiếc xe hơi đặc biệt êm ái, tôi lại trải nghiệm cùng cảm giác ấy khi nghe tiếng rì rào mượt mà của bộ máy quay của nó.
|
[CWL note] (As to paragraph 34, I incline to our author’s suggestion that it does indicate that he is in special sympathy with the element of water – with what have sometimes been called water-elementals, or perhaps rather nature-spirits; and I would suggest that the sound of machinery which he describes as having produced upon him a similar effect, produced that effect precisely because it was similar, and so gave subconsciously a suggestion of the sound of water. Such a sound consists of a set of vibrations which evidently exercise a special soothing influence upon the writer, and obviously similar vibrations would produce a similar result even independently of the mental suggestion conveyed by them.)
|
[CWL note] (Về đoạn 34, tôi nghiêng về gợi ý của tác giả chúng ta rằng điều đó quả cho thấy ông có sự đồng cảm đặc biệt với nguyên tố nước—với cái đôi khi được gọi là các hành khí nước, hay có lẽ đúng hơn là tinh linh thiên nhiên; và tôi muốn gợi rằng âm thanh máy móc mà ông mô tả là đã tạo nên nơi ông một hiệu quả tương tự, chính vì nó giống , nên đã gợi một cách tiềm thức ám chỉ về âm thanh của nước. Một âm thanh như thế gồm một tập hợp những rung động rõ ràng gây một ảnh hưởng xoa dịu đặc biệt đối với người viết, và hiển nhiên những rung động tương tự sẽ tạo ra kết quả tương tự ngay cả độc lập với ám chỉ tâm trí do chúng truyền đạt.)
|
XVI.35. An Anecdote. To finish this lengthy article I relate an insignificant little anecdote about a dream I had the other night. It is amusing.
|
XVI.35. Một giai thoại. Để kết bài viết dài này, tôi kể một giai thoại nhỏ nhặt về một giấc mơ tôi có đêm trước. Thật thú vị.
|
I dreamed I was in London, where I moved through parts I know well in my waking consciousness. Suddenly and without any transition I was in Paris, which I know equally well, physically, continuing my wanderings which I had begun in England. The curious thing is that the action was unbroken and did not change, whereas the scene was cut clean in two halves. It was like a conversation begun in English and continued in French without change of subject, listener or speaker. And herewith my catalogue is complete. Johan van Manen.
|
Tôi mơ thấy mình ở London, nơi tôi đi qua những khu vực tôi rất quen trong trạng thái thức. Bỗng nhiên, không hề có chuyển đoạn, tôi đã ở Paris, nơi tôi cũng quen thuộc như vậy về phương diện thể xác, tiếp tục những cuộc dạo bước tôi đã bắt đầu ở Anh. Điều lạ là hành động thì liền mạch và không thay đổi, trong khi khung cảnh thì bị cắt làm hai nửa rõ rệt. Nó giống như một cuộc đối thoại bắt đầu bằng tiếng Anh và được tiếp tục bằng tiếng Pháp mà không đổi đề tài, người nghe hay người nói. Và với đây, bản kê của tôi đã hoàn tất. Johan van Manen.
|
[CWL note] (The concluding anecdote gives us a characteristic example of the instantaneous changes which are possible, when one functions in the mental body. It might happen equally well in the astral, but not quite without at least a momentary sense of transition. The strong probability is, therefore, that our author was at the moment of this experience using the mental vehicle; but that also implies that he may not really have been either in London or Paris at all. He may simply have been moving among his own mental reproductions of parts of these two cities.
|
[CWL note] (Giai thoại kết thúc cho chúng ta một ví dụ đặc trưng về những chuyển đổi tức thời có thể xảy ra khi người ta vận dụng thể trí. Điều ấy cũng có thể xảy ra tương tự trong thể cảm dục, nhưng khó mà hoàn toàn không có ít nhất một cảm giác chuyển tiếp thoáng qua. Do đó, khả năng cao là vào lúc có trải nghiệm này, tác giả của chúng ta đã sử dụng vận cụ thể trí; nhưng điều đó cũng hàm ý rằng có thể thực ra ông không hề ở London hay Paris. Ông có thể chỉ đang di chuyển giữa những tái tạo mang tính trí tuệ của riêng ông về những phần của hai thành phố ấy.
|
It is one of the peculiarities of this set of stories that the hero of them appears to be more at home in the mental world than the emotional – that so many of his glimpses of higher consciousness show him to be using the causal or mental vehicle rather than that astral body in which most of us have to be content to begin our superphysical voyagings. But students who may be disposed to look enviously upon such capacity may console themselves by the thought that each line of development has its special perils, and that ready use of the mental body brings with it a dangerous facility in criticism which, if indulged to excess, may hold a man back from those still higher realms which are the kingdom of the humble and the especial inheritance of those that be pure in heart.
|
Một điều đặc thù của loạt câu chuyện này là nhân vật chính dường như cảm thấy thân thuộc với thế giới trí tuệ hơn là thế giới cảm xúc—đến mức nhiều thoáng thấy tâm thức cao của ông cho thấy ông dùng vận cụ nguyên nhân hoặc thể trí hơn là thể cảm dục, trong đó phần đông chúng ta đành phải chấp nhận bắt đầu những cuộc du hành siêu vật chất của mình. Nhưng các đạo sinh có thể khuynh hướng nhìn khả năng như thế với con mắt ganh tị thì có thể tự an ủi bằng ý nghĩ rằng mỗi đường hướng phát triển đều có những hiểm nguy riêng, và sự quen tay dùng thể trí kéo theo một năng lực phê phán dễ dãi nguy hiểm, mà nếu buông thả quá mức, có thể kìm hãm một người khỏi những cảnh giới còn cao hơn nữa, vốn là vương quốc của người khiêm nhu và là gia tài đặc thù của những ai thanh sạch trong tâm.
|
As a concluding note I can only repeat what I have suggested in the beginning, that the man who has had this singularly complete series of experiences ought to have had more – and even yet should have many more – since they clearly show a degree and type of sensitiveness which is very well worth cultivating, with a view to practical results. We must all thank our author for having thus so fully and so carefully unbosomed himself. He may assuredly take unto himself such reward as is involved in the knowledge that what he has written will be useful to many, and will help them to understand and to coordinate similar happenings in their own lives. Few students have such a wealth of varied experiences; fewer still have the faculty of stating them so clearly and so impersonally; so we may end, as we began, with thanks and congratulations, and (let me add) with high hopes for the future of the author.
|
Như một lời kết, tôi chỉ có thể lặp lại điều tôi đã gợi ở phần đầu, rằng người đã có chuỗi trải nghiệm trọn vẹn kỳ lạ này lẽ ra phải có nhiều trải nghiệm hơn nữa—và ngay cả bây giờ vẫn nên có thêm nhiều hơn—vì chúng rõ ràng cho thấy một mức độ và loại nhạy cảm rất đáng để tu dưỡng, hướng tới những kết quả thực tiễn. Tất cả chúng ta phải cảm ơn tác giả vì đã tự bộc bạch mình đầy đủ và cẩn trọng đến vậy. Ông hẳn có thể nhận cho mình phần thưởng nằm trong sự biết rằng những gì ông đã viết sẽ hữu ích cho nhiều người, và sẽ giúp họ hiểu và phối hợp những sự việc tương tự trong đời họ. Ít có đạo sinh nào có được nhiều trải nghiệm phong phú và đa dạng như thế; lại càng ít người sở hữu năng khiếu trình bày chúng rành mạch và vô tư đến vậy; vì thế chúng ta có thể kết, như đã mở, bằng lời cảm ơn và chúc mừng, và (cho phép tôi thêm) bằng kỳ vọng lớn lao nơi tương lai của tác giả.
|
C. W. Leadbeater
| C. W. Leadbeater
|
July 1913 p581 The Theosophist
|
Tháng 7 năm 1913 tr. 581 The Theosophist
|