3. Những Trải Nghiệm Huyền Bí Của Tôi — CHƯƠNG XII – XVI

CHƯƠNG XII – XVI

XII. LECTURING EXPERIENCES—NHỮNG TRẢI NGHIỆM KHI DIỄN THUYẾT

I once had an interesting experience whilst lecturing at Rotterdam.

Tôi từng có một trải nghiệm thú vị khi diễn thuyết tại Rotterdam.

XII.24. A Sea of Light and Lightness. One winter evening I lectured in a fairly big hall in Rotterdam. There was a biting frost, and I came away with a formidable cold. In the midst of the lecture, quite of a sudden, I felt the atmosphere change. A sense of lightness and buoyancy came over me which changed my feelings altogether. At the same time I was aware that I was surrounded by a brilliant (non-physical) light of rich golden colour. The change of atmosphere was so complete and total that it seemed as if the air before had been of mud and slush in comparison with the rarity, refinedness and purity of that which I was now breathing. Simultaneously I was conscious that, instead of being as it were wholly immersed in my subject, I was listening to myself with a corner of my consciousness. It seemed as if my voice had changed also. There was a curious metallic ring in it which was new to me and which pleased me very much. This lasted for some phrases, I think some minutes, five or ten at the utmost, if so much as that, and then the old conditions set in again. The contrast between the feeling of the atmosphere during and before the experience made a very vivid impression on me. (The twenty-fourth experience implies not so much a change of atmosphere as a change of consciousness in the lecturer. It is evident that he at least partially left his body, so that he was able to watch himself from without. The part of himself which was temporarily freed from physical limitation was able to see the mental conditions surrounding him; and the rich golden colour which seems to have been so prominent a feature is exactly what might have been expected as an expression of the mental activity which was being put forth by the lecturer. The description of the difference between that and the physical atmosphere is most graphic; it constitutes precisely one of the little touches which manifest so clearly the author’s accuracy, and appeal so strongly to those who have passed through a similar experience. It seems evident that he must have carried with him in his externalisation a certain amount of his etheric double, since he was still able to hear his own physical voice, although with an alteration which suggests the inclusion of higher notes than those perceptible to physical ears, and probably also a compensating exclusion of some of the latter.

XII.24. Một Biển Ánh sáng và Sự Nhẹ Bổng.Vào một buổi tối mùa đông tôi diễn thuyết trong một hội trường khá lớn ở Rotterdam. Trời rét cắt da, và tôi ra về với một cơn cảm lạnh khiếp đảm. Ngay giữa bài giảng, thình lình, tôi cảm thấy bầu không khí thay đổi. Một cảm giác nhẹ bỗng và khoáng đạt tràn ngập tôi, khiến cảm xúc tôi đổi khác hoàn toàn. Đồng thời tôi nhận biết rằng mình được bao quanh bởi một luồng ánh sáng rực rỡ (phi vật chất) màu vàng sẫm giàu có. Sự thay đổi của bầu khí quyển trọn vẹn và toàn diện đến mức có cảm tưởng như trước đó không khí như bùn lầy so với sự loãng, tinh luyện và tinh khiết của thứ tôi đang hít thở lúc này. Cùng lúc, tôi ý thức rằng, thay vì dường như hoàn toàn chìm đắm trong đề tài, tôi lại đang lắng nghe chính mình bằng một góc của tâm thức. Dường như giọng nói của tôi cũng đã đổi khác. Có một âm sắc kim loại lạ lùng trong đó, điều mới đối với tôi và khiến tôi rất thích. Tôi nghĩ điều này kéo dài trong vài câu, vài phút, tối đa năm hay mười phút, nếu nhiều đến thế, rồi những điều kiện cũ lại trở lại. Sự tương phản giữa cảm giác về bầu không khí trong và trước trải nghiệm đã để lại trong tôi một ấn tượng rất sống động. (Trải nghiệm thứ hai mươi bốn không hàm ý một sự đổi thay bầu không khí cho bằng một sự đổi thay tâm thức nơi diễn giả. Hiển nhiên là ông đã rời thân thể phần nào, đến mức có thể quan sát chính mình từ bên ngoài. Phần bản thân tạm thời được giải phóng khỏi hạn chế vật chất ấy có thể thấy các điều kiện thể trí bao quanh ông; và màu vàng giàu có dường như là đặc điểm nổi bật chính là điều hoàn toàn có thể chờ đợi như là biểu lộ của hoạt động thể trí đang được diễn giả phát huy. Mô tả về sự khác biệt giữa điều đó và bầu khí vật chất thật sinh động; nó chính là một trong những nét chấm phá nhỏ cho thấy rõ ràng độ chính xác của tác giả, và chạm tới mạnh mẽ những ai đã trải qua một kinh nghiệm tương tự. Có vẻ hiển nhiên rằng trong sự ngoại hiện của mình ông hẳn đã mang theo một phần bản sao dĩ thái, vì ông vẫn có thể nghe tiếng nói thể chất của mình, dù có sự biến đổi gợi ý việc bao gồm những nốt cao hơn mức tai hồng trần tri giác, và có lẽ cũng loại bỏ bù trừ một số nốt thuộc loại sau.

This being a subjective experience, dependent upon a partial projection of the speaker’s consciousness, there is no reason why any member of the audience should have noticed it.)

Vì đây là một trải nghiệm chủ quan, tùy thuộc vào sự phóng chiếu một phần tâm thức của người nói, nên không có lý do gì để bất kỳ thành viên nào trong thính giả phải nhận thấy nó.)

XII.25. Other Phenomena connected with Lecturing which are not of my own experiencing. I have several times been told by friends in my audiences that they have seen luminous halos around my head or even figures behind me. In some cases a stately Hindu wearing a turban has been described. I mention this in order to make the catalogue complete, but as the information comes from others I am not responsible for it. I myself have never seen such forms, and the above Rotterdam experience is the only case in which I have experienced a ‘light’ phenomenon myself. It is amusing that in that case no one of my audience told me he had seen anything of the kind.

XII.25. Những Hiện Tượng Khác liên hệ đến Việc Diễn Thuyết mà không do chính tôi trải nghiệm. Nhiều lần tôi được bạn bè trong thính giả cho biết họ đã thấy những quầng sáng quanh đầu tôi hoặc thậm chí cả những hình bóng phía sau tôi. Trong một số trường hợp, người ta mô tả một vị Hindu phong thái trang nghiêm đội khăn xếp. Tôi nêu điều này để hoàn chỉnh bản kê, nhưng vì thông tin đến từ người khác nên tôi không chịu trách nhiệm về nó. Bản thân tôi chưa từng thấy những hình thể như vậy, và trải nghiệm Rotterdam nói trên là trường hợp duy nhất mà chính tôi trải nghiệm một hiện tượng “ánh sáng”. Thật khôi hài là trong trường hợp ấy chẳng ai trong thính giả nói với tôi rằng họ đã thấy bất cứ điều gì tương tự.

[CWL note] (ln the cases described in paragraph 25, there is no change of consciousness in the speaker, but a temporary accession of sensitiveness in certain members of his audience. The halo seen round the head of a lecturer has often been described. It is one of the easiest non-physical phenomena to see. The mental activity of the lecturer projects this strong yellow light, all of it focussed in the upper part of the aura and therefore surrounding the physical head, so that it readily becomes visible to vision even slightly raised above the normal, especially if it happens to be projected against a dark background. The presence of an Oriental stranger on the platform is also by no means unusual, and it would be rash to assume, as our students so often do, that the visitor is necessarily a great Adept. Even after years of reading on the subject, it seems to be difficult for our students to grasp the utter naturalness of the astral life, and to understand that those who have left their physical bodies (either temporarily or permanently) may be just as much interested in a lecture as if they still retained the coarser vehicle. Astral visitors may attend any lecture anywhere, and they constantly do so; but probably the percentage of such visitors is higher at Theosophical lectures than at others, because those who study our subjects are a little more likely than others to know something of their capabilities along these lines. Naturally our subjects have a special interest for Orientals, and Indian members of our Society, whether living or dead, are likely to watch with comparatively keen interest the endeavours to spread their ideas in western lands. It often occurs also that they good-naturedly endeavour to assist the lecturer by suggesting to him additional ideas or illustrations; and if any member of the audience happens for the moment to develop sufficient sensitiveness to catch sight of such a visitor, a legend immediately grows up like that which our author describes.)

[Ghi chú của CWL] (Trong các trường hợp được mô tả ở đoạn 25, không có sự thay đổi tâm thức nơi diễn giả, mà là sự gia tăng tạm thời độ nhạy cảm nơi một số thành viên trong thính giả của ông. Quầng sáng quanh đầu người diễn thuyết thường được mô tả. Nó là một trong những hiện tượng phi vật chất dễ thấy nhất. Hoạt động thể trí của diễn giả phóng xuất luồng ánh vàng mạnh, tất cả được tập trung ở phần trên của hào quang và vì thế bao quanh đầu thể chất, khiến nó dễ dàng trở nên hiển thị với cái nhìn chỉ hơi vượt trên bình thường, nhất là khi tình cờ nó được phóng chiếu trên một nền tối. Sự hiện diện của một vị khách phương Đông trên bục giảng cũng không hề hiếm, và thật vội vã nếu giả định, như các đạo sinh của chúng ta vẫn hay làm, rằng vị khách ấy tất yếu là một vị Chân sư vĩ đại. Ngay cả sau nhiều năm đọc sách về chủ đề này, dường như các đạo sinh của chúng ta vẫn khó nắm bắt sự tự nhiên tuyệt đối của đời sống cảm dục, và hiểu rằng những ai đã rời bỏ thể xác (tạm thời hoặc vĩnh viễn) có thể hứng thú với một bài giảng chẳng kém gì khi họ còn giữ hiện thể thô trược. Khách cõi cảm dục có thể dự bất kỳ bài giảng nào ở bất cứ đâu, và họ thường xuyên như thế; nhưng có lẽ tỷ lệ những vị khách như vậy cao hơn ở các bài giảng Thông Thiên Học so với những chỗ khác, bởi lẽ những ai học các chủ đề của chúng ta có phần nào hiểu biết hơn người khác về các khả năng của họ theo các tuyến này. Tự nhiên là các đề tài của chúng ta đặc biệt hấp dẫn đối với người Phương Đông, và các hội viên Ấn Độ của Hội chúng ta, dù còn sống hay đã qua đời, có nhiều khả năng theo dõi với mối quan tâm tương đối sâu sắc các nỗ lực truyền bá tư tưởng của họ trên đất phương Tây. Điều cũng thường xảy ra là họ tốt bụng cố gắng trợ giúp diễn giả bằng cách gợi ý cho ông thêm những ý tưởng hay minh họa; và nếu bất kỳ ai trong thính giả tình cờ phát triển đủ mức nhạy cảm để thoáng bắt gặp một vị khách như vậy, thì ngay lập tức một giai thoại sẽ nảy sinh giống như tác giả của chúng ta mô tả.)

XIII. APPARITION AT A DISTANCE—XIII. SỰ HIỆN THÂN Ở XA

The following two incidents concern me, but they are not within my own personal knowledge. Still I think they ought to be mentioned for completeness’ sake. They relate to my appearance, without my knowledge, to others – these others being in the waking state. I have two examples.

Hai sự việc sau đây liên quan đến bản thân tôi, nhưng không nằm trong tri thức trực tiếp của tôi. Tuy vậy, tôi nghĩ chúng nên được kể vì tính toàn vẹn. Chúng liên quan đến việc tôi xuất hiện, mà tôi không hề hay biết, với những người khác—những người này đang ở trong trạng thái thức. Tôi có hai ví dụ.

XIII.26. Advice at a Distance. Some years ago a young man, fairly psychic and, I think, also very weak-willed, came several times to me for advice and to talk Theosophy. He was at that time in all sorts of difficulties, financial, domestic and otherwise. He was a black-and-white artist. One day meeting me, he said: “I thank you very much for the advice you gave me yesterday.” As I was not aware of having seen him on the day before, I asked him what he meant. He told me that he had stood in one of the streets, leaning against a wall in a state of despondency, and that I had appeared to him and had spoken some cheering words of advice. I had no reason whatever to doubt his good faith. The important point is that I must have been up and doing at the time he mentioned. If I had been asleep the explanation might have been easier.

XIII.26. Lời Khuyên Từ Xa. Vài năm trước, một chàng trai trẻ, khá có khả năng thông linh và, tôi nghĩ, cũng rất yếu ý chí, đã đến gặp tôi vài lần để xin lời khuyên và nói chuyện Thông Thiên Học. Lúc đó y gặp đủ mọi khó khăn, tài chính, gia đình và các mặt khác. Y là một họa sĩ tranh đen trắng. Một ngày nọ gặp tôi, y nói: “Tôi cám ơn ông rất nhiều vì lời khuyên ông đã cho tôi ngày hôm qua.” Vì không hay biết rằng mình đã gặp y vào ngày hôm trước, tôi hỏi y muốn nói gì. Y kể rằng y đã đứng trên một con phố, tựa vào tường trong trạng thái chán nản, và rằng tôi đã hiện ra với y và nói vài lời khích lệ. Tôi hoàn toàn không có lý do gì để nghi ngờ thiện chí của y. Điểm quan trọng là vào thời điểm y nói, tôi hẳn đang thức và bận việc. Nếu tôi đang ngủ thì lời giải thích có lẽ dễ hơn.

XIII.27. A Visit aboard a Steamer. The second case of my being told that I appeared was aboard a steamer from Hull to Holland. A friend of mine, travelling on that ship, related to me that she had seen me (I think at about 7 A. M.) and she described my costume completely, a description which tallied with the clothes I was then habitually wearing. I do not know whether I was asleep at the moment of the apparition; I also am ignorant if I, or rather my simulacrum, said anything. I, at the time, was in England.

XIII.27. Một Chuyến Thăm trên Tàu Hơi Nước. Trường hợp thứ hai về việc tôi được nói là đã xuất hiện xảy ra trên một con tàu hơi nước từ Hull sang Hòa Lan. Một người bạn của tôi, đi trên chuyến tàu ấy, kể với tôi rằng cô đã trông thấy tôi (tôi nghĩ khoảng bảy giờ sáng) và cô mô tả đầy đủ trang phục của tôi, một mô tả khớp với bộ quần áo mà lúc ấy tôi thường mặc. Tôi không biết liệu vào lúc hiện thân ấy tôi có đang ngủ hay không; tôi cũng không rõ tôi—đúng hơn là bóng hình của tôi—có nói điều gì không. Lúc đó, tôi đang ở Anh.

[CWL note] (The appearances described in paragraphs 26 and 27 are examples of a very interesting class about which our information is as yet defective. In the second case it seems probable that the author, was asleep, and so we have merely an ordinary astral visit; but in the former of the two cases he distinctly says that he was awake and going about his work in one place, though at the very same time he appeared in another and gave some useful advice. Several possible explanations of this phenomenon may be offered. It may be a case in which some invisible helper, seeing a poor man sadly in need of counsel and comfort, resolved to give it to him, but took for this purpose the form of a friend who was well known to him, in order to make the advice more natural and acceptable. Another possibility is that our author as an ego was watching with interest a person whom he had already tried to help, and – seeing him urgently in need of further assistance at a time when his own physical body was otherwise employed – materialised a thought-form of himself through which he could convey the ideas which he wished to give. Either of these hypotheses would satisfactorily explain the appearance described by our author; but there are other cases on record in which neither of these suggestions seems appropriate. The double of the late Mr. W. T. Stead, for example, can hardly be supposed to come under either of these heads. It seems rather to be a case of an intensely strong thought-form made of him by another person, and then occupied and energised – whether by his own ego or by someone else we have not sufficient evidence to show. In rare circumstances personation on the physical plane by a materialised astral entity becomes possible. There is, however, no reason to suspect anything of that sort in the case described, for we have no evidence to show that anyone but the young man to whom our author spoke was conscious of his presence at that time and place, so that the phenomenon may have been simply subjective.)

[Ghi chú của CWL] (Những lần xuất hiện được mô tả ở các đoạn 26 và 27 là những ví dụ thuộc một lớp hiện tượng rất thú vị mà cho đến nay thông tin của chúng ta vẫn còn thiếu. Trong trường hợp thứ hai, có vẻ khả dĩ rằng tác giả đang ngủ, vậy thì ta chỉ có một chuyến thăm cảm dục thông thường; nhưng trong trường hợp thứ nhất, ông nói rõ rằng ông đang thức và bận công việc ở một nơi, mặc dù cùng lúc đó ông lại xuất hiện ở một nơi khác và đưa ra vài lời khuyên hữu ích. Có thể đưa ra một số lời giải thích cho hiện tượng này. Có thể đó là một trường hợp một người trợ giúp vô hình, khi thấy một người khốn khổ đang rất cần lời khuyên và sự an ủi, đã quyết định ban cho y, nhưng để mục đích này, đã mang hình dạng của một người bạn vốn quen thuộc với y, hầu khiến lời khuyên trở nên tự nhiên và dễ chấp nhận hơn. Một khả năng khác là tác giả của chúng ta, với tư cách chân ngã, đang quan sát với mối quan tâm một người mà ông đã cố gắng giúp đỡ, và—thấy y đang khẩn cấp cần trợ giúp thêm trong lúc thân thể thể chất của chính mình đang bận bịu—đã hiện hình một hình tư tưởng về chính ông qua đó ông có thể truyền đạt những ý niệm mình muốn đưa ra. Bất kỳ giả thuyết nào trong hai giả thuyết này cũng có thể giải thích thỏa đáng sự xuất hiện mà tác giả mô tả; nhưng còn có những trường hợp khác được ghi nhận trong đó dường như không giả thuyết nào phù hợp. Chẳng hạn “bản song trùng” của ông quá cố W. T. Stead, khó lòng được cho là thuộc một trong hai trường hợp trên. Có vẻ đúng hơn đó là một hình tư tưởng về ông được người khác tạo nên với cường độ mãnh liệt, rồi sau đó được nhập vào và gia lực—dù bởi chính chân ngã của ông hay bởi một ai khác thì chúng ta không có đủ bằng chứng để khẳng định. Trong những hoàn cảnh hiếm hoi, việc mạo danh trên cõi hồng trần bởi một thực thể cảm dục đã hiện hình trở nên khả hữu. Tuy nhiên, không có lý do gì để nghi ngờ điều ấy trong trường hợp được mô tả, vì chúng ta không có bằng chứng cho thấy bất kỳ ai ngoài chàng trai trẻ mà tác giả đã nói chuyện ý thức được sự hiện diện của ông vào lúc và nơi chốn ấy, thành ra hiện tượng có thể đơn thuần là chủ quan.)

XIV. KARMIC PROBLEMS—XIV. CÁC VẤN ĐỀ NGHIỆP QUẢ

I remember twice, at least, in my life having been in serious danger, from which I escaped unhurt. There is no need to invoke hidden intervention to explain the safe endings, but to make sure not to pass by even faint indications I note them down here.

Tôi nhớ đã hai lần, ít ra là vậy, trong đời, lâm vào nguy hiểm nghiêm trọng, nhưng tôi thoát nạn bình yên vô sự. Không cần viện đến sự can thiệp ẩn tàng để giải thích các kết cục an toàn ấy, nhưng để chắc chắn không bỏ qua dù chỉ những dấu hiệu mờ nhạt, tôi ghi lại chúng ở đây.

XIV.28. Trick Cycling. When I was a boy of some twelve years I happened to read in a paper a story of how a cyclist rode down the steps of the Washington Capitol. I may about the same time have seen some trick cycling in a circus. I was then living at Haarlem, not far from the sea-side resort Zandvoort. With a friend of my own age I went one day to Zandvoort, where there is a big flight of stairs, divided into three series of steps, leading from the station below to the Gallery on the top of the dunes. When returning to the station we came to the steps, and the sight of them was too big a temptation. I said I would cycle down them. My friend, who was wiser, protested, but I was obstinate. He ran down the first flight. I started on my adventurous ride, but immediately lost control over the machine and came down crashing, banging and bumping, rapidly gathering speed. Fortunately my friend caught hold of the cycle and I fell down without hurt, the machine being only slightly damaged. There is no doubt that he saved my life. But now l ask myself: “An incident of such importance for me, and my present incarnation, can it stand utterly unrelated to my personal karma?” How easily my friend might have missed the grip, how easily might he have become afraid or have lost his head! Was there something lying at the back of his action which made it fatally necessary that he should be there to be a karmic agent? Of course, I do not forget God Chance, nor the purely rationalistic explanation; but are they enough? This incident is therefore not so much an occult experience as an experience giving rise to an occult problem! What is the nature of the determining factor which in a crisis leads to a solution in one definite direction with far-reaching and incalculable results, where any other solution would have led to equally far-reaching results of an entirely different character? This seems to me a very difficult problem indeed, only answerable with certainty by Occultists.

XIV.28. Đạp Xe Mạo Hiểm. Khi tôi là một cậu bé chừng mười hai tuổi, tình cờ tôi đọc trong một tờ báo câu chuyện về việc một người đi xe đạp lao xuống các bậc thềm của Tòa Nhà Quốc Hội Washington. Có lẽ vào khoảng cùng thời gian ấy tôi cũng đã xem vài màn đạp xe nhào lộn trong rạp xiếc. Lúc đó tôi sống ở Haarlem, không xa khu nghỉ mát ven biển Zandvoort. Với một người bạn cùng tuổi, một ngày kia tôi đến Zandvoort, nơi có một cầu thang lớn, chia làm ba đợt bậc, dẫn từ nhà ga phía dưới lên Đại Lộ trên đỉnh cồn cát. Khi quay về nhà ga, chúng tôi đến bậc thang, và cảnh tượng ấy là một cám dỗ quá lớn. Tôi nói mình sẽ đạp xe xuống. Bạn tôi, khôn ngoan hơn, phản đối, nhưng tôi thì ngoan cố. Cậu ấy chạy xuống đợt bậc thứ nhất. Tôi bắt đầu cuộc phiêu lưu, nhưng ngay lập tức mất kiểm soát chiếc xe và lao xuống huỳnh huỵch, ầm ầm và bật nảy, nhanh chóng tăng tốc. May mắn thay, bạn tôi đã chộp được chiếc xe và tôi ngã xuống mà không hề hấn gì, chiếc xe chỉ bị hư hại nhẹ. Không nghi ngờ gì, cậu ấy đã cứu mạng tôi. Nhưng giờ đây tôi tự hỏi: “Một biến cố quan trọng như vậy đối với tôi, và với kiếp sống hiện tại của tôi, liệu có thể hoàn toàn không liên quan gì đến nghiệp quả cá nhân của tôi chăng?” Bạn tôi có thể dễ dàng trượt tay, có thể dễ dàng sợ hãi hay mất bình tĩnh! Có phải có điều gì đó nằm sau hành động của cậu khiến nó trở nên tất yếu về mặt định mệnh rằng cậu phải có mặt ở đó để làm một tác nhân của nghiệp quả? Tất nhiên, tôi không quên Thần Tình Cờ, cũng như lời giải thích thuần duy lý; nhưng như thế đã đủ chưa? Bởi vậy biến cố này không hẳn là một trải nghiệm huyền bí cho bằng một trải nghiệm nêu lên một vấn đề huyền bí! Bản chất của yếu tố quyết định là gì—yếu tố mà trong một cơn khủng hoảng dẫn đến một lối giải quyết theo một hướng nhất định với những hậu quả sâu rộng và không thể lường, trong khi bất kỳ lối giải quyết nào khác cũng dẫn đến những hậu quả sâu rộng tương đương nhưng hoàn toàn khác hẳn về tính chất? Điều này, theo tôi, là một vấn đề thực sự khó, chỉ có thể được các nhà huyền bí học trả lời chắc chắn.

XIV.29. In the Gorges d’Héric. A similar but less obvious case occurred to me a few years ago in the south of France. Mr. Leadbeater and I were staying in the beautiful district of the southern Cevennes, in the department of Hérault. We used to take long walks, and one day we went to the Gorges d’Héric, descending through them into the plains. We lost our way, and darkness overtook us before we had passed out of the Gorge. We had no guide, no lamp, and no knowledge of the country. At a given moment I, leading the party, crossed – in the dark – the stream over a series of boulders, and so we transferred ourselves from the right to the left bank of the stream near the bottom of the Gorge. At that spot we found a path, and, gropingly following that, reached a point where we saw spots of light. Some shouting brought peasants with lanterns, and eventually we came home safe and sound. Now the peasants told us that had we followed the Gorge for only a quite small distance, we should have come to a sudden drop of some thirty metres, a well-known danger-spot in those parts, where quite frequently some one or more unfortunate tourists, in the same plight as ourselves, meet their end by falling over the edge. Now what I want to know is: what made me cross the stream at that particular spot in the pitch dark? I do not know it in the least. I could not see a track, and on the other side, though there was a path, we had to feel our way along it. May it be that I ‘picked up the trail’ as a dog does, or was it a case of inspiration?

XIV.29. Ở Hẻm Núi d’Héric. Một trường hợp tương tự nhưng ít hiển nhiên hơn xảy đến với tôi vài năm trước ở miền nam nước Pháp. Ông Leadbeater và tôi lưu trú tại vùng đất tuyệt đẹp thuộc miền nam Cevennes, trong địa phận Hérault. Chúng tôi thường đi bộ đường dài, và một ngày kia chúng tôi đến Hẻm Núi d’Héric, men xuống xuyên qua nó để vào đồng bằng. Chúng tôi lạc đường, và bóng tối ập xuống trước khi chúng tôi thoát khỏi Hẻm Núi. Chúng tôi không có người dẫn, không có đèn, và không biết địa hình. Tới một thời điểm, tôi, người đi đầu, đã băng qua—trong bóng tối—dòng suối trên một chuỗi tảng đá, và như vậy chúng tôi chuyển từ bờ phải sang bờ trái của suối gần cuối Hẻm Núi. Ở chỗ ấy, chúng tôi thấy một con đường mòn, và, lần mò theo nó, đến một điểm nơi chúng tôi thấy những đốm sáng. Một vài tiếng gọi khiến những người nông dân cầm đèn lồng tìm đến, và cuối cùng chúng tôi về nhà an toàn. Giờ thì người dân nói với chúng tôi rằng nếu chúng tôi theo Hẻm Núi thêm chỉ một quãng rất ngắn, chúng tôi sẽ gặp một chỗ tụt bất ngờ chừng ba mươi mét, một điểm nguy hiểm nổi tiếng ở vùng ấy, nơi khá thường xuyên có một hay nhiều du khách xấu số, lâm vào hoàn cảnh giống chúng tôi, đã bỏ mạng vì rơi xuống mép vực. Điều tôi muốn biết là: điều gì khiến tôi băng qua suối ở đúng chỗ đó giữa đêm tối mù mịt? Tôi hoàn toàn không biết. Tôi không nhìn thấy lối mòn, và ở phía bên kia, dù có đường mòn, chúng tôi vẫn phải lần sờ mà đi. Có thể nào là tôi đã “nhặt được vết” như một con chó, hay đó là một trường hợp linh hứng?

As said before I record these two cases more as involving problems than as being occult experiences in the true sense of the word, for (faithful to H. P. B.’s injunction) we should be attentive to the smallest details.

Như đã nói, tôi ghi lại hai trường hợp này nhiều hơn là vì chúng nêu vấn đề, chứ không hẳn là những trải nghiệm huyền bí theo nghĩa đích thực của từ, vì (trung thành với lời huấn thị của H. P. B.) chúng ta nên lưu tâm đến những chi tiết nhỏ nhất.

[CWL note] (Experiences 28 and 29 are not, strictly speaking occult at all, but we may certainly take them to represent items in the working out of the destiny of the persons concerned. It clearly was not intended by the Powers directing his evolution that our author should perish at the age of twelve in a cycle accident. And since that was not intended, it became necessary to circumvent him in his little effort at self-destruction. The easiest way to do this was through the hands of his companion, who seems to have arrested him precisely at the only point of his descent where such interference would have been possible. I do not know that we are bound to infer anything more than courage and promptitude on the part of that friend; but if more be necessary, the presence of some invisible helper to steady the friend’s hand, and show him exactly what to do and when to do it, would surely be sufficient to account for what happened. And in this case, when I speak of an invisible helper, I do not at all necessarily mean to imply a member of the band of Theosophical students who devote themselves especially to such work. Any dead person of promptitude and resource who happened to be on the spot may have shown the boy-friend how to do what was necessary, and strengthened him in the action. The very fact that he ran ahead to the only place where he could check the headlong descent seems to show that a certain amount of prevision was exercised – most likely not by the boy. Another possibility is that the author’s ego awoke to the danger of the situation. He was unable to control his juvenile personality, which had apparently taken the bit between its teeth, and was in a condition of excited determination. The ego may have found it easier to control for a moment the other boy (who was apparently not excited) than his own lower manifestation; and we have the yet further possibility that the ego of the friend saw here an opportunity of a good piece of work. Or indeed he may have undertaken it at the urgent request of the other’s ego; for this is something which one sees not infrequently in ordinary life. A personality may for some reason take up obstinately some line of action of which the ego behind does not at all approve; and when that happens it is sometimes actually easier for that ego to induce a friend or friends to remonstrate and advise, than to act directly upon the fragment of himself which by its stubbornness has shut itself away for the moment from higher influences.

[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm 28 và 29, nói nghiêm ngặt, không phải là huyền bí, nhưng chúng ta chắc chắn có thể xem chúng như những hạng mục trong tiến trình khai triển số phận của người liên hệ. Rõ ràng là không nằm trong ý định của các Quyền năng chỉ đạo tiến hóa của ông rằng tác giả của chúng ta phải chết ở tuổi mười hai trong một tai nạn xe đạp. Và bởi vì điều ấy không nằm trong ý định, nên cần phải ngăn chặn ông trong nỗ lực nhỏ của mình nhằm tự hủy hoại. Cách dễ nhất để làm điều này là qua đôi tay của người bạn đồng hành của ông, người dường như đã chặn ông lại chính xác ở điểm duy nhất trong cuộc lao dốc nơi sự can thiệp như vậy có thể thực hiện được. Tôi không biết chúng ta có nhất thiết phải suy ra điều gì hơn ngoài lòng can đảm và sự nhanh trí nơi người bạn ấy; nhưng nếu cần thêm nữa, thì sự hiện diện của một người trợ giúp vô hình để giữ vững tay người bạn, và chỉ cho cậu ấy chính xác phải làm gì và khi nào phải làm, hẳn cũng đủ để giải thích điều đã xảy ra. Và trong trường hợp này, khi tôi nói đến một người trợ giúp vô hình, tôi hoàn toàn không nhất thiết muốn ám chỉ một thành viên của nhóm các đạo sinh Thông Thiên Học chuyên dấn thân vào công việc như thế. Bất kỳ người đã qua đời nào có sự nhanh trí và tháo vát tình cờ có mặt tại chỗ cũng có thể cho cậu bé-bạn biết cách làm điều cần thiết, và gia cố cậu trong hành động. Chính việc cậu ấy chạy trước đến điểm duy nhất nơi có thể chặn cuộc lao dốc dường như cho thấy đã có một mức độ tiên kiến nào đó—nhiều khả năng là không phải do cậu bé sở hữu. Một khả năng khác là chân ngã của tác giả đã tỉnh thức trước sự nguy hiểm của tình huống. Ông không thể kiểm soát phàm ngã trẻ con của mình, vốn rõ ràng đã “ngậm chặt hàm thiếc”, và đang ở trong trạng thái hăng hái quyết liệt. Chân ngã có thể thấy dễ dàng hơn khi kiểm soát tạm thời cậu bé kia (người hình như không bị kích động) hơn là hạ thể của chính mình; và chúng ta còn có khả năng nữa là chân ngã của người bạn thấy đây là cơ hội để làm một việc tốt. Thật vậy, y có thể đã đảm nhận điều ấy theo lời thỉnh cầu khẩn cấp của chân ngã bên kia; vì điều này ta không hiếm khi thấy trong đời thường. Một phàm ngã có thể vì lý do nào đó bám chặt một đường hướng hành động mà chân ngã đứng sau hoàn toàn không chấp thuận; và khi điều đó xảy ra, đôi khi chân ngã ấy thực sự dễ dàng hơn khi thuyết phục một người bạn hay nhiều người bạn khuyên can và khuyên bảo, hơn là tác động trực tiếp lên mảnh phần của chính mình, vốn vì cố chấp mà tạm thời tự khép kín khỏi các ảnh hưởng cao hơn.

We should say Theosophically that “it was not in his karma” that our author should come to an untimely end in that particular ways and therefore, since he insisted on making so wild an experiment, he put somebody to the trouble of interfering with its natural result. I know that many similar cases are allowed to pass without interference, and consequently end fatally. In them we are bound to assume that there is something in the stored-up karma of the person concerned which can discharge itself in that particular way, and consequently there is no interference with his free-will. Evidently our author was needed for other work later, and consequently in his case the interference took place. Readers may think that this is very much like the old Christian idea of a Providence which watched over,every moment of our lives. It is precisely the reality which lay behind that idea – the difference being that we do not recognise any principle of arbitrary selection, but hold that such interference can take place only under the working of natural law.

Theo ngôn ngữ Thông Thiên Học, chúng ta sẽ nói rằng “điều ấy không có trong nghiệp quả của ông” rằng tác giả của chúng ta phải kết thúc không đúng lúc theo cách đặc thù đó; và vì thế, bởi ông nhất quyết liều một thí nghiệm quá đỗi liều lĩnh, ông đã khiến ai đó phải nhọc công can thiệp để ngăn chặn kết quả tự nhiên của nó. Tôi biết rằng nhiều trường hợp tương tự được để cho qua đi mà không có sự can thiệp, và hệ quả tất yếu là kết cục bi thảm. Trong những trường hợp ấy, chúng ta buộc phải giả định rằng có điều gì đó trong nghiệp quả tích trữ của người liên hệ có thể phóng ra theo cách đặc thù kia, và do đó không có sự can thiệp vào ý chí tự do của y. Rõ ràng là tác giả của chúng ta còn cần cho công việc khác về sau, và vì vậy trong trường hợp của ông sự can thiệp đã xảy ra. Độc giả có thể nghĩ rằng điều này rất giống với ý niệm Ki-tô giáo xưa về Sự Quan Phòng theo dõi từng khoảnh khắc trong đời chúng ta. Đó chính là thực tại nằm sau ý niệm ấy—chỉ khác là chúng ta không thừa nhận bất kỳ nguyên tắc tuyển chọn tùy tiện nào, mà cho rằng sự can thiệp như vậy chỉ có thể xảy ra theo sự vận hành của định luật tự nhiên.

In case 29 we have no proof as to whether the guiding force was that of the ego or some friend, or whether it may have been, as our author himself suggests, the action of some sort of survival of animal instinct. From what we were afterwards told by the inhabitants of the neighbourhood, it would appear the there had been cases in which no such interference took place. Once more, we can only say that he was not destined to die at that time and in that particular way.)

Trong trường hợp 29, chúng ta không có bằng chứng liệu lực hướng dẫn là của chân ngã hay của một người bạn, hay có thể đó là, như chính tác giả gợi ý, tác động của một thứ bản năng thú vật còn lưu tồn nào đó. Từ những gì chúng ta được kể sau đó bởi dân cư vùng lân cận, có vẻ như đã từng có những trường hợp trong đó không hề có sự can thiệp nào. Một lần nữa, chúng ta chỉ có thể nói rằng ông không được định mệnh để chết vào thời điểm ấy và theo cách đặc thù đó.)

XV. UNPLEASANT EXPERIENCES—XV. NHỮNG TRẢI NGHIỆM KHÓ CHỊU

Most of the visions related up to now are of a pleasant and elevating nature. I have also experienced some unpleasant sights which should not be omitted from this catalogue.

Phần lớn các thị kiến được thuật cho đến giờ đều êm ái và nâng đỡ tinh thần. Tôi cũng đã trải nghiệm vài cảnh tượng khó chịu mà không nên bỏ qua trong bản kê này.

XV.30. An Unwelcome Visitor. One evening when just about to step into my bed, in Amsterdam, I saw a sort of elemental creature of a most objectionable kind sitting on my pillow. It consisted of a soft round body from which, at what may be called the waist, some ten long necks extended, each one something like the neck of a swan. These necks wriggled and twisted and wound through each other as snakes do. The evil eyes in the heads leered and sneered in a wicked way. The colour of the thing was green, that particular slimy and filthy green associated with old stones which have lain in a gutter for a long time, or with the stomach of some frogs. The creature gave an impression of softness and decay, like a jelly-fish or cuttle-fish. Besides, it spread a horrible and filthy stench. Its height was something over a foot. It happened that I was absolutely tired out on that evening, and that I had but one thought, that of rest. I felt that the creature could not do anything to me, and I was in no mood to wait or to try some elaborate magic. So I jumped into my bed and laid my head on the pillow, thinking at the time There is no room for both of us here; either you go, or l.” And at the moment I lay down the creature burst up, as it were, and disappeared. I have never seen it or its brothers since. At the time I wondered much if a creature like this may have had any connection with the origin of the story of Medusa’s head.

XV.30. Một Vị Khách Bất Chào Đón. Một buổi tối, ngay khi sắp bước lên giường, ở Amsterdam, tôi thấy một loại sinh linh hành khí cực kỳ đáng ghét ngồi trên gối của tôi. Nó gồm một thân tròn mềm, từ “chỗ eo” vươn ra chừng mười chiếc cổ dài, mỗi chiếc trông như cổ thiên nga. Những chiếc cổ này ngoằn ngoèo, uốn éo, và quấn lấy nhau như rắn. Đôi mắt ác độc trên các đầu nhìn hau háu và nhếch mép độc địa. Màu của vật ấy là xanh lục, cái sắc xanh nhớp nhúa gớm ghiếc gợi đến những hòn đá cũ nằm lâu trong rãnh nước, hoặc đến cái bụng của vài con ếch. Sinh vật gây ấn tượng mềm nhũn và rữa rã, như sứa hay mực nang. Ngoài ra, nó tỏa ra một mùi hôi khủng khiếp và dơ bẩn. Chiều cao của nó hơn một gang tay. Tối hôm đó tôi mệt rã rời, và tôi chỉ có một ý nghĩ, là nghỉ ngơi. Tôi cảm thấy sinh vật ấy chẳng thể làm gì tôi, và tôi không có tâm trạng chờ đợi hay thử một vài phép huyền thuật công phu nào. Thế là tôi nhảy lên giường và đặt đầu lên gối, lúc ấy tôi nghĩ: Ở đây không có chỗ cho cả hai chúng ta; hoặc ngươi đi, hoặc là ta.” Và ngay khoảnh khắc tôi nằm xuống, sinh vật ấy như vỡ tung và biến mất. Tôi chưa bao giờ thấy nó hay “anh em” của nó nữa. Lúc đó tôi đã tự hỏi nhiều liệu một sinh vật như thế có liên quan gì đến nguồn gốc câu chuyện về cái đầu của Medusa hay không.

XV.31. Undesirable Cattle. On a few other occasions I have seen creatures, seemingly of the same class. I remember in particular a herd of cattle-like beings, somehow a cross between calves and elephants. They had the trunks of elephants (only the ends resembled the snouts of pigs), and something of the build and size of calves. They were white in colour, with a suggestion of leprosy in the whiteness, and these bodies gave the impression of corruption. All over the bodies were festering circular sores, like red flowers on a white field, altogether nauseating. I am reminded in thinking of them of Mr. Leadbeater’s description of the hosts of elementals which he saw tramp past him when he had his experience on the Adyar river island (The Perfume of Egypt, ‘A Test of Courage’). In this case also the malignant gleam in the eyes of the creatures was the chief characteristic. The beasts spelled evil.

XV.31. Lũ Gia Súc Bất Tường. Vài dịp khác tôi cũng thấy những sinh vật dường như cùng một loại. Tôi nhớ đặc biệt một bầy sinh vật giống gia súc, bằng cách nào đó là con lai giữa bê và voi. Chúng có vòi voi (chỉ khác là phần chót giống mõm heo), và phần nào có vóc dáng và kích thước của bê. Chúng có màu trắng, với một gợi ý phong hủi trong sắc trắng ấy, và những thân thể này gây ấn tượng hư hoại. Khắp thân là những vết loét tròn mưng mủ, như hoa đỏ trên nền trắng, hoàn toàn gây buồn nôn. Khi nghĩ về chúng, tôi nhớ đến mô tả của Ông Leadbeater về đoàn quân hành khí mà ông thấy giậm chân đi qua khi ông trải nghiệm trên hòn đảo giữa sông Adyar ( Hương Thơm của Ai Cập , ‘Một Phép Thử về Can đảm’). Trong trường hợp này nữa, tia nhìn hiểm độc trong mắt các sinh vật là đặc trưng chủ yếu. Lũ thú ấy toát ra mùi ác.

[CWL note] (The unpleasant entities described in paragraphs 30 and 31 are specimens of low and undesirable forms which prey almost exclusively on the emanations, produced by a particular type of emotion. Their appearance must, I fear, indicate the presence somewhere in the neighbourhood of a person in the habit of yielding himself to unrestrained sensuality. At least, that is almost certainly the origin of the peculiarly objectionable creature described in 30, and the form of the story suggests that it had been intentionally sent by someone. Those mentioned in 31 may have been of the same nature, but may also have been attracted by abnormal manifestations of aggravated envy and jealousy. The author may be congratulated on his courage in so entirely ignoring the horrible beast which he describes. Assuredly most of us would have spent some time and trouble in driving it away or dissipating it, instead of calmly lying down to sleep, secure in the conviction it could do no harm.)

[Ghi chú của CWL] (Những thực thể khó chịu được mô tả ở các đoạn 30 và 31 là những mẫu dạng thấp và bất hảo sống bám gần như hoàn toàn vào các phóng xuất do một loại cảm xúc đặc thù tạo ra. Sự xuất hiện của chúng, e rằng, cho thấy đâu đó trong vùng lân cận có một người quen buông mình cho dục tính không kiềm chế. Ít nhất, đó gần như chắc chắn là nguồn gốc của sinh vật đặc biệt đáng ghét mô tả trong đoạn 30, và hình thức câu chuyện gợi ý rằng nó đã bị ai đó cố ý sai phái. Những sinh vật nêu ở đoạn 31 có thể cùng bản chất, nhưng cũng có thể đã bị hấp dẫn bởi những biểu hiện bất thường của lòng ghen tị và đố kỵ bị kích động mạnh. Tác giả xứng đáng được chúc mừng về lòng can đảm của mình khi hoàn toàn phớt lờ con quái vật ghê tởm mà ông mô tả. Chắc chắn hầu hết chúng ta sẽ bỏ thời gian và công sức để xua đuổi nó đi hay làm tiêu tan nó, thay vì bình thản nằm ngủ, vững tin rằng nó không thể gây hại.)

XVI. SUNDRIES—XVI. LINH TINH

With the above cases I have practically exhausted my personal experience of things psychic or occult. It only remains to gather together and enumerate a few items which fall within the scope of this article without being readily susceptible of special illustration.

Với những trường hợp trên, tôi hầu như đã kể hết các trải nghiệm cá nhân của mình về những điều thông linh hay huyền bí. Chỉ còn lại việc gom góp và liệt kê vài điều thuộc phạm vi bài viết này nhưng khó có ví dụ minh họa riêng.

XVI.32. Thought-Action on Dreamers.There are two cases known to me in which I, awake, exercised thought-influence on different other persons who were then asleep. The interesting point to me was to hear the reports of their dreams, and to note the dream symbolism, which had completely transformed the formal side of the transaction, but had kept it absolutely intact from a symbolical point of view.

XVI.32. Tác Động Tư Tưởng lên Người Đang Mộng. Có hai trường hợp tôi biết, trong đó, khi đang thức, tôi đã tác động tư tưởng lên hai người khác nhau lúc họ đang ngủ. Điều khiến tôi hứng thú là nghe tường trình về các giấc mơ của họ, và ghi nhận biểu tượng giấc mơ, vốn đã hoàn toàn chuyển hóa mặt hình thức của sự việc, nhưng vẫn giữ nguyên trọn vẹn về phương diện biểu tượng.

The two cases were slightly dissimilar in nature. In the first, I was in a highly excited and turbulent state of mind of an undesirable nature. A very good and intimate friend of mine slept in the room next to me. He was asleep when I was still lying awake. Next morning he told me that he had had a vivid dream about me being in a burning house, and that he had rushed up to help me and to extricate or rescue me from the danger. I recognised at once the ‘fire of passion’ in the burning house, and could not but feel grateful for my friend’s astral loyalty.

Hai trường hợp này có bản chất hơi khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất, tôi đang ở trong một trạng thái thể trí bị kích động mạnh và xáo trộn theo một cách không đáng mong muốn. Một người bạn rất thân và rất gần gũi của tôi ngủ ở căn phòng bên cạnh. Anh ấy đã ngủ khi tôi vẫn còn thức nằm thao thức. Sáng hôm sau, anh kể với tôi rằng anh đã có một giấc mơ sống động về việc tôi ở trong một ngôi nhà đang cháy, và rằng anh đã lao tới để giúp tôi và kéo tôi ra, hoặc cứu tôi khỏi hiểm nguy. Tôi lập tức nhận ra “ngọn lửa dục vọng” trong ngôi nhà bốc cháy ấy, và không thể không cảm thấy biết ơn lòng trung thành trên cõi cảm dục của người bạn tôi.

In the second case I was deliberately thinking of another person with regard to a certain course of action. Next day that friend told me that he had dreamt that I had come to him, and my appearance and conduct as he described it tallied mutatis mutandis with my thoughts of the previous night. Only I, knowing the details, knew also what his description meant; whereas he, not having any data to go on, could not see further than his mere recollection, symbolising but not explaining the affair.

Trong trường hợp thứ hai, tôi cố ý nghĩ về một người khác liên quan tới một đường hướng hành động nhất định. Ngày hôm sau người bạn ấy nói với tôi rằng anh đã mơ thấy tôi đến với anh, và hình dạng cũng như cách cư xử của tôi như anh mô tả thì khớp, với những điều chỉnh cần thiết , với những ý nghĩ của tôi đêm hôm trước. Chỉ có tôi, do biết các chi tiết, nên cũng biết lời mô tả của anh có ý nói gì; còn anh, không có dữ liệu nào để dựa vào, thì không thể thấy xa hơn ngoài ký ức đơn thuần của mình, chỉ biểu tượng hóa mà không giải minh sự việc.

[CWL note] (In the first case mentioned in paragraph 32, the author’s astral body was in a turbulent condition – which means not only brilliant colour and energetic vibration, but also great temporary expansion and vehement pulsations extending over a considerable area. The friend sleeping in the next room could not but be within the sphere of influence of these alarums and excursions, and when his attention was attracted by them, his innate spirit of helpfulness immediately asserted itself, and he pluckily rushed in to try to readjust matters.

[CWL note] (Trong trường hợp thứ nhất nêu ở đoạn 32, thể cảm dục của tác giả ở trong tình trạng xáo động—nghĩa là không chỉ có màu sắc rực rỡ và rung động mãnh liệt, mà còn có sự phồng nở tạm thời rất lớn và những nhịp xung dữ dội lan ra trên một vùng khá rộng. Người bạn ngủ ở phòng bên cạnh ắt hẳn nằm trong phạm vi ảnh hưởng của những náo động và xao động ấy, và khi sự chú ý của anh bị chúng lôi cuốn, tinh thần giúp đỡ bẩm sinh của anh lập tức tự biểu lộ, và anh đã gan dạ lao vào để cố điều chỉnh lại tình trạng.

In the second case, the writer gives us scarcely sufficient detail to enable us usefully to comment upon it further than to remark that during sleep people are specially susceptible to thought-influence, and that each ego has usually his own system of symbolism into which he would be likely to translate whatever was impressed upon him.)

Trong trường hợp thứ hai, tác giả hầu như không cho chúng ta đủ chi tiết để có thể bình luận hữu ích thêm gì ngoài nhận xét rằng trong khi ngủ con người đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi tư tưởng, và rằng mỗi chân ngã thường có hệ biểu tượng riêng, trong đó người đó có khuynh hướng phiên dịch bất cứ điều gì được in ấn vào mình.)

XVI.33. Dream Interpretation. I have noticed that I am very often able when a dream is told to me, to give on the spur of the moment and quite spontaneously an interpretation of it to the dreamer, with which he is satisfied. Again, this is merely a note in passing, which is given only for what it is worth. I have never studied dream-books, or dream interpretation, and am not specially interested in the subject, except so far as it forms a branch of general psychology.

XVI.33. Giải đoán giấc mơ. Tôi nhận thấy rằng rất thường khi có người kể cho tôi một giấc mơ, tôi có thể ngay tức khắc và hoàn toàn tự nhiên đưa ra một cách giải đoán cho chính người mơ, và điều đó làm người ấy hài lòng. Một lần nữa, đây chỉ là một ghi chú lướt qua, được nêu ra theo đúng giá trị của nó mà thôi. Tôi chưa từng học các sách mộng tượng hay giải mộng, và cũng không đặc biệt quan tâm đến đề tài này, ngoại trừ chừng mực nó là một nhánh của tâm lý học nói chung.

[CWL note] (In 33 we see the manifestation of a useful and valuable faculty – evidence of an ego which is quick to read the symbolism of other egos, and has the power of impressing the results of his knowledge upon his own physical brain.)

[CWL note] (Ở đoạn 33, chúng ta thấy sự bộc lộ của một năng khiếu hữu ích và quý giá—bằng chứng của một chân ngã nhanh nhạy trong việc đọc biểu tượng của các chân ngã khác, và có năng lực in ấn kết quả tri thức của mình lên chính bộ não hồng trần của mình.)

XVI.34. Running water. I notice, has always a strange fascination for me. Whether it be a waterfall, rapids in a river, a swiftly rushing stream, waves by the sea, merely rain or even water running from a tap, the motion and sound always please me. I like sitting near a stream or staring at the sea. The sound nearly always suggests voices to me, in a language I do not understand, but might understand if I just could get a little bit more inside it.

XVI.34. Dòng nước chảy. Tôi nhận thấy, luôn có một sức quyến rũ lạ lùng đối với tôi. Dù là thác nước, ghềnh trên sông, dòng suối lao nhanh, sóng biển, chỉ là mưa hay thậm chí nước chảy từ vòi, chuyển động và âm thanh ấy luôn làm tôi thích thú. Tôi thích ngồi bên suối hoặc nhìn đăm đăm ra biển. Âm thanh hầu như luôn gợi với tôi những giọng nói, trong một ngôn ngữ tôi không hiểu, nhưng có thể hiểu nếu tôi chỉ có thể đi thêm một chút bên trong nó.

An American author describes something similar in a recent story. An invalid is lying in a hospital, wearily awaiting convalescence:

Một nhà văn Mỹ tả điều gì đó tương tự trong một truyện gần đây. Một người bệnh nằm trong bệnh viện, mỏi mòn chờ ngày bình phục:

“She listened. Rushing down the valley in the large grounds, there was a stream – a liquid, unending, deep chord of many broken notes!…. The sweet hollow silver of the booming water divided, changed into voices that called, talked, laughed. There were long, low sentences; there were single questioning words; there were murmuring names spoken, and tender half-sounds, all unhurried, all contented and sure and adequate. She did not catch definite words, only intonations, the rise and fall; but the steady strength of the voices seemed to lift her weakness and bear it out on a calm flood. The stream was her friend; the voices of the stream were unreal voices, yet peace-giving.”

“Nàng lắng nghe. Chảy xiết xuống thung lũng trong khu đất rộng, có một dòng suối—một hợp âm lỏng, bất tận, sâu thẳm của nhiều nốt nhạc vỡ!…. Tiếng ngân bạc rỗng ngọt ngào của làn nước ầm ào tách ra, biến thành những giọng nói gọi nhau, trò chuyện, cười vang. Có những câu dài, trầm; có những từ đơn chất vấn; có những cái tên thì thầm được gọi, và những nửa âm dịu nhẹ, tất cả đều ung dung, thảy đều mãn nguyện, vững tin và đủ đầy. Nàng không bắt được những từ xác định, chỉ là ngữ điệu, những nhịp lên xuống; nhưng sức mạnh bền bỉ của các giọng nói dường như nâng sự yếu đuối của nàng lên và chở nó đi trên một dòng lũ êm đềm. Dòng suối là bạn của nàng; những giọng nói của dòng suối là những giọng nói không thật, nhưng mang lại bình an.”

I thought that this feeling might have something to do with the water elementals, but recently whilst motoring in a particularly noiseless motor-car I experienced the same feeling in hearing the smooth swish of its revolving machinery.

Tôi đã nghĩ rằng cảm giác này có lẽ liên quan đến các hành khí nước, nhưng gần đây, khi lái một chiếc xe hơi đặc biệt êm ái, tôi lại trải nghiệm cùng cảm giác ấy khi nghe tiếng rì rào mượt mà của bộ máy quay của nó.

[CWL note] (As to paragraph 34, I incline to our author’s suggestion that it does indicate that he is in special sympathy with the element of water – with what have sometimes been called water-elementals, or perhaps rather nature-spirits; and I would suggest that the sound of machinery which he describes as having produced upon him a similar effect, produced that effect precisely because it was similar, and so gave subconsciously a suggestion of the sound of water. Such a sound consists of a set of vibrations which evidently exercise a special soothing influence upon the writer, and obviously similar vibrations would produce a similar result even independently of the mental suggestion conveyed by them.)

[CWL note] (Về đoạn 34, tôi nghiêng về gợi ý của tác giả chúng ta rằng điều đó quả cho thấy ông có sự đồng cảm đặc biệt với nguyên tố nước—với cái đôi khi được gọi là các hành khí nước, hay có lẽ đúng hơn là tinh linh thiên nhiên; và tôi muốn gợi rằng âm thanh máy móc mà ông mô tả là đã tạo nên nơi ông một hiệu quả tương tự, chính vì nó giống , nên đã gợi một cách tiềm thức ám chỉ về âm thanh của nước. Một âm thanh như thế gồm một tập hợp những rung động rõ ràng gây một ảnh hưởng xoa dịu đặc biệt đối với người viết, và hiển nhiên những rung động tương tự sẽ tạo ra kết quả tương tự ngay cả độc lập với ám chỉ tâm trí do chúng truyền đạt.)

XVI.35. An Anecdote. To finish this lengthy article I relate an insignificant little anecdote about a dream I had the other night. It is amusing.

XVI.35. Một giai thoại. Để kết bài viết dài này, tôi kể một giai thoại nhỏ nhặt về một giấc mơ tôi có đêm trước. Thật thú vị.

I dreamed I was in London, where I moved through parts I know well in my waking consciousness. Suddenly and without any transition I was in Paris, which I know equally well, physically, continuing my wanderings which I had begun in England. The curious thing is that the action was unbroken and did not change, whereas the scene was cut clean in two halves. It was like a conversation begun in English and continued in French without change of subject, listener or speaker. And herewith my catalogue is complete. Johan van Manen.

Tôi mơ thấy mình ở London, nơi tôi đi qua những khu vực tôi rất quen trong trạng thái thức. Bỗng nhiên, không hề có chuyển đoạn, tôi đã ở Paris, nơi tôi cũng quen thuộc như vậy về phương diện thể xác, tiếp tục những cuộc dạo bước tôi đã bắt đầu ở Anh. Điều lạ là hành động thì liền mạch và không thay đổi, trong khi khung cảnh thì bị cắt làm hai nửa rõ rệt. Nó giống như một cuộc đối thoại bắt đầu bằng tiếng Anh và được tiếp tục bằng tiếng Pháp mà không đổi đề tài, người nghe hay người nói. Và với đây, bản kê của tôi đã hoàn tất. Johan van Manen.

[CWL note] (The concluding anecdote gives us a characteristic example of the instantaneous changes which are possible, when one functions in the mental body. It might happen equally well in the astral, but not quite without at least a momentary sense of transition. The strong probability is, therefore, that our author was at the moment of this experience using the mental vehicle; but that also implies that he may not really have been either in London or Paris at all. He may simply have been moving among his own mental reproductions of parts of these two cities.

[CWL note] (Giai thoại kết thúc cho chúng ta một ví dụ đặc trưng về những chuyển đổi tức thời có thể xảy ra khi người ta vận dụng thể trí. Điều ấy cũng có thể xảy ra tương tự trong thể cảm dục, nhưng khó mà hoàn toàn không có ít nhất một cảm giác chuyển tiếp thoáng qua. Do đó, khả năng cao là vào lúc có trải nghiệm này, tác giả của chúng ta đã sử dụng vận cụ thể trí; nhưng điều đó cũng hàm ý rằng có thể thực ra ông không hề ở London hay Paris. Ông có thể chỉ đang di chuyển giữa những tái tạo mang tính trí tuệ của riêng ông về những phần của hai thành phố ấy.

It is one of the peculiarities of this set of stories that the hero of them appears to be more at home in the mental world than the emotional – that so many of his glimpses of higher consciousness show him to be using the causal or mental vehicle rather than that astral body in which most of us have to be content to begin our superphysical voyagings. But students who may be disposed to look enviously upon such capacity may console themselves by the thought that each line of development has its special perils, and that ready use of the mental body brings with it a dangerous facility in criticism which, if indulged to excess, may hold a man back from those still higher realms which are the kingdom of the humble and the especial inheritance of those that be pure in heart.

Một điều đặc thù của loạt câu chuyện này là nhân vật chính dường như cảm thấy thân thuộc với thế giới trí tuệ hơn là thế giới cảm xúc—đến mức nhiều thoáng thấy tâm thức cao của ông cho thấy ông dùng vận cụ nguyên nhân hoặc thể trí hơn là thể cảm dục, trong đó phần đông chúng ta đành phải chấp nhận bắt đầu những cuộc du hành siêu vật chất của mình. Nhưng các đạo sinh có thể khuynh hướng nhìn khả năng như thế với con mắt ganh tị thì có thể tự an ủi bằng ý nghĩ rằng mỗi đường hướng phát triển đều có những hiểm nguy riêng, và sự quen tay dùng thể trí kéo theo một năng lực phê phán dễ dãi nguy hiểm, mà nếu buông thả quá mức, có thể kìm hãm một người khỏi những cảnh giới còn cao hơn nữa, vốn là vương quốc của người khiêm nhu và là gia tài đặc thù của những ai thanh sạch trong tâm.

As a concluding note I can only repeat what I have suggested in the beginning, that the man who has had this singularly complete series of experiences ought to have had more – and even yet should have many more – since they clearly show a degree and type of sensitiveness which is very well worth cultivating, with a view to practical results. We must all thank our author for having thus so fully and so carefully unbosomed himself. He may assuredly take unto himself such reward as is involved in the knowledge that what he has written will be useful to many, and will help them to understand and to coordinate similar happenings in their own lives. Few students have such a wealth of varied experiences; fewer still have the faculty of stating them so clearly and so impersonally; so we may end, as we began, with thanks and congratulations, and (let me add) with high hopes for the future of the author.

Như một lời kết, tôi chỉ có thể lặp lại điều tôi đã gợi ở phần đầu, rằng người đã có chuỗi trải nghiệm trọn vẹn kỳ lạ này lẽ ra phải có nhiều trải nghiệm hơn nữa—và ngay cả bây giờ vẫn nên có thêm nhiều hơn—vì chúng rõ ràng cho thấy một mức độ và loại nhạy cảm rất đáng để tu dưỡng, hướng tới những kết quả thực tiễn. Tất cả chúng ta phải cảm ơn tác giả vì đã tự bộc bạch mình đầy đủ và cẩn trọng đến vậy. Ông hẳn có thể nhận cho mình phần thưởng nằm trong sự biết rằng những gì ông đã viết sẽ hữu ích cho nhiều người, và sẽ giúp họ hiểu và phối hợp những sự việc tương tự trong đời họ. Ít có đạo sinh nào có được nhiều trải nghiệm phong phú và đa dạng như thế; lại càng ít người sở hữu năng khiếu trình bày chúng rành mạch và vô tư đến vậy; vì thế chúng ta có thể kết, như đã mở, bằng lời cảm ơn và chúc mừng, và (cho phép tôi thêm) bằng kỳ vọng lớn lao nơi tương lai của tác giả.

C. W. Leadbeater

C. W. Leadbeater

July 1913 p581 The Theosophist

Tháng 7 năm 1913 tr. 581 The Theosophist

Leave a Comment

Scroll to Top