Chia Sẻ Ánh Sáng – Tập I- Phần 2. 7

SECTION I–2–7

76

The Inner Government of the World—Chính Phủ Bên Trong của Thế Giới

The Brotherhood of the Adepts is the pattern of the perfect World Order. It is the planetary model, ceaselessly influencing by its very existence and by its activity the thought of mankind con­cerning political ideals, statesmanship and the ideal state.

Huynh đệ Đoàn Chân sư là mô hình của Trật Tự Thế Giới hoàn hảo. Đó là mô hình hành tinh, không ngừng gây ảnh hưởng bằng chính sự tồn tại và hoạt động của nó đến tư tưởng của nhân loại về các lý tưởng chính trị, tài thao lược và nhà nước lý tưởng.

Is it not a wonderful fact that on earth there exists, has existed without interruption for millennia of centuries, the perfect Govern­ment, the Ideal State? This is the Inner Government of the World, of which all human Governments are, as yet, imperfect reflections. Actu­ally it is a dynamic model perpetually, if gradually, influencing the de­velopment of human institutions towards the Ideal. The United Nations is an example.

Chẳng phải là một sự thật tuyệt vời sao khi trên trái đất tồn tại, đã tồn tại không gián đoạn trong hàng thiên niên kỷ, một Chính Phủ hoàn hảo, một Nhà Nước Lý Tưởng? Đây là Chính Phủ Bên Trong của Thế Giới, mà tất cả các Chính Phủ của con người, cho đến nay, là những phản ánh chưa hoàn hảo. Trên thực tế, đó là một mô hình năng động liên tục, nếu dần dần, ảnh hưởng đến sự phát triển của các thể chế của con người hướng tới Lý Tưởng. Liên Hợp Quốc là một ví dụ.

What can we Theosophists learn from the activities of the Inner Government of the World? From the little we know, it would seem that four of its outstanding characteristics are:—(1) THE ABSOLUTE RULE OF ONE PRINCIPLE to which every Member gives implicit and explicit obedience. That principle is DUTY.

Chúng ta, những người theo Thông Thiên Học, có thể học được gì từ các hoạt động của Chính Phủ Bên Trong của Thế Giới? Từ những gì chúng ta biết, dường như bốn trong số những đặc điểm nổi bật của nó là:—(1) QUY TẮC TUYỆT ĐỐI CỦA MỘT NGUYÊN TẮC mà mọi Thành Viên đều tuân theo một cách ngầm hiểu và rõ ràng. Nguyên tắc đó là BỔN PHẬN.

cf. Mahatma Letters, p. 259. L. XLIII. Master M.

so sánh với Mahatma Letters, tr. 259. L. XLIII. Chân sư M.

‘Realize, my friend, that the social affections have little, if any, control over any true Adept in the performance of his duty. In propor­tion as he rises towards perfect Adeptship, the fancies and antipathies of his former self are weakened: he takes all mankind into his heart and regards them in the mass’.

‘Bạn thân mến, hãy nhận ra rằng những tình cảm xã hội có rất ít, nếu có, sự kiểm soát đối với bất kỳ Chân sư thực sự nào trong việc thực hiện bổn phận của y. Khi y tiến gần hơn đến Địa vị Chân sư hoàn hảo, những ảo tưởng và ác cảm về bản thân trước đây của y sẽ suy yếu: y mang tất cả nhân loại vào trái tim mình và coi họ là một khối’.

p. 225. L. XXIX. Master M.

tr. 225. L. XXIX. Chân sư M.

‘I am as I was; and as I was and am, so am I likely always to be—the slave of my duty to the Lodge and mankind, not only taught, but desirous to subordinate every preference for individuals to a love for the human race’. p. 351. Master K.H.

‘Ta vẫn như ta đã từng; và như ta đã từng và đang là, ta có khả năng luôn luôn là—nô lệ cho bổn phận của ta đối với Hội và nhân loại, không chỉ được dạy, mà còn mong muốn đặt mọi ưu tiên cho các cá nhân dưới tình yêu dành cho chủng tộc loài người’. tr. 351. Chân sư KH

‘And duty … is for us stronger than any friendship or even love, as without this abiding principle which is the indestructible cement that has held together for so many millenia, the scattered custodians of nature’s grand secrets—our Brotherhood, nay, our doctrine itself would have crumbled long ago into unrecognisable elements’.

‘Và bổn phận… đối với chúng ta mạnh mẽ hơn bất kỳ tình bạn hoặc thậm chí tình yêu nào, vì nếu không có nguyên tắc thường trực này, vốn là chất gắn kết không thể phá hủy đã gắn kết trong nhiều thiên niên kỷ, những người bảo vệ rải rác những bí mật vĩ đại của tự nhiên—Huynh đệ Đoàn của chúng ta, thậm chí, chính giáo lý của chúng ta từ lâu đã tan rã thành những yếu tố không thể nhận ra’.

The term ‘scattered custodians’ is interesting. We know that Adepts have lived, doubtless still live, in Tibet, Than-la, Terichmir Valley, Sakkya-jong, Shigatze, Kohonor, China, India, the southern slopes of the Himalayas near Darjeeling, Tiruvallum, Bornbay, Egypt (Luxor), Syria (Lebanon Mts.), Hungary, England and America (Yucatan). The occult powers of each Adept are so great that not even an invading army could intrude upon this privacy against His will.

Thuật ngữ ‘những người bảo vệ rải rác’ rất thú vị. Chúng ta biết rằng các Chân sư đã sống, chắc chắn vẫn đang sống, ở Tây Tạng, Than-la, Thung lũng Terichmir, Sakkya-jong, Shigatze, Kohonor, Trung Quốc, Ấn Độ, sườn phía nam của dãy Himalaya gần Darjeeling, Tiruvallum, Bornbay, Ai Cập (Luxor), Syria (Lebanon Mts.), Hungary, Anh và Mỹ (Yucatan). Các quyền năng huyền bí của mỗi Chân sư rất lớn đến nỗi ngay cả một đội quân xâm lược cũng không thể xâm phạm vào sự riêng tư này trái với Ý Ngài.

The statements I have quoted imply an IMMENSE SENSE OF RE­SPONSIBILITY on the part of every Adept for the fulfilment of the Plan. In this, too, one principle guides the activity of all: it is that of UNIVER­SAL, SPIRITUAL AND MATERIAL EVOLUTION.

Những tuyên bố tôi đã trích dẫn ngụ ý một Ý THỨC TRÁCH NHIỆM VÔ CÙNG lớn từ phía mỗi Chân sư đối với việc hoàn thành Thiên Cơ. Trong điều này, một nguyên tắc cũng hướng dẫn hoạt động của tất cả: đó là SỰ TIẾN HÓA PHỔ QUÁT, TINH THẦN VÀ VẬT CHẤT.

To this procedure in Nature every Adept subscribes, and every iota of available power is ceaselessly exerted by the Members of the Inner Government of the World with the sole purpose, the SINGLE AIM, of advancing the evolution of life and form on this planet, and so in our Solar System.

Mọi Chân sư đều tuân theo quy trình này trong Tự Nhiên và mọi iota sức mạnh có sẵn đều được các Thành Viên của Chính Phủ Bên Trong của Thế Giới không ngừng nỗ lực với mục đích duy nhất, MỤC TIÊU DUY NHẤT, là thúc đẩy sự tiến hóa của sự sống và hình tướng trên hành tinh này, và do đó trong Hệ Mặt Trời của chúng ta.

This second fundamental characteristic of Earth’s Occult Hierar­chy of Adepts—SINGLENESS OF AIM TO ADVANCE EVOLUTION—is in part, one may assume, the secret and source of Their mighty power.

Đặc điểm cơ bản thứ hai này của Huyền Giai Chân sư Huyền Bí của Trái Đất—TÍNH ĐƠN NHẤT CỦA MỤC TIÊU ĐỂ THÚC ĐẨY SỰ TIẾN HÓA—một phần, người ta có thể cho rằng, là bí mật và nguồn gốc sức mạnh to lớn của Các Ngài.

A third characteristic apparently is that of COMPLETE AND per­fect CO-OPERATION between every Adept of whatever degree in car­rying out agreed plans. Divergence of method there may well be, but division of effort and divided councils there cannot be. The full attain­ment of Buddhic and Atmic consciousness ensures against these. SEPARATED INDIVIDUALISM CANNOT EXIST FOR THE ADEPT. The dewdrop of individual self-existence has literally slipped into the shining sea.

Một đặc điểm thứ ba dường như là SỰ HỢP TÁC HOÀN TOÀN VÀ hoàn hảo giữa mọi Chân sư ở bất kỳ cấp độ nào trong việc thực hiện các kế hoạch đã thỏa thuận. Có thể có sự khác biệt về phương pháp, nhưng không thể có sự chia rẽ về nỗ lực và các hội đồng bị chia rẽ. Việc đạt được đầy đủ tâm thức Bồ đề và Atma đảm bảo chống lại những điều này. CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN TÁCH BIỆT KHÔNG THỂ TỒN TẠI ĐỐI VỚI CHÂN SƯ. Giọt sương của sự tồn tại bản ngã cá nhân đã thực sự trượt vào biển cả rực rỡ.

In pursuance of this great Ideal, Master M. wrote in Mahatma Letters page 263:

Để theo đuổi Lý Tưởng vĩ đại này, Chân sư M. đã viết trong Mahatma Letters trang 263:

‘One or two of us hoped that the world had so far advanced intel­lectually, if not intuitionally, that the Occult doctrine might gain intel­lectual acceptance, and the impulse given for a new cycle of occult research. Others—wiser as it would seem—held differently, but con­sent was given for the trial’.

‘Một hoặc hai người trong chúng ta hy vọng rằng thế giới đã tiến bộ về mặt trí tuệ, nếu không phải là trực giác, đến mức giáo lý Huyền Bí có thể được chấp nhận về mặt trí tuệ và tạo động lực cho một chu kỳ nghiên cứu huyền bí mới. Những người khác—khôn ngoan hơn như có vẻ—có quan điểm khác, nhưng sự đồng ý đã được đưa ra cho cuộc thử nghiệm’.

Thus we note that, once the decision was made, all co-operated.

Như vậy, chúng ta lưu ý rằng, một khi quyết định được đưa ra, tất cả đều hợp tác.

Another early writing helps us to understand this. T. Subba Row wrote concerning the Path of Occultism: ‘But this Path is eminently dangerous to those who do not hold the talisman which ensures safety; this talisman is a perfectly unselfish, self-forgetting, self-annihilating devotion to the religious good of mankind, a self-abnegation which is not temporal, but MUST HAVE NO END FOREVER, and the object of which is THE RELIGIOUS ENLIGHTMENT OF THE HUMAN RACE’ (Eso­teric Writings).

Một bài viết ban đầu khác giúp chúng ta hiểu điều này. T. Subba Row đã viết về Con Đường Huyền Bí: ‘Nhưng Con Đường này vô cùng nguy hiểm cho những ai không giữ bùa hộ mệnh đảm bảo an toàn; bùa hộ mệnh này là sự tận tâm hoàn toàn vị tha, quên mình, tự hủy diệt vì lợi ích tôn giáo của nhân loại, một sự từ bỏ bản thân không phải là tạm thời, mà PHẢI KHÔNG CÓ KẾT THÚC MÃI MÃI, và mục tiêu của nó là SỰ KHAI SÁNG TÔN GIÁO CỦA CHỦNG TỘC LOÀI NGƯỜI’ (Esoteric Writings).

Thus, though varied in Their views, IN ACTION THE ADEPTS ARE AS ONE.

Như vậy, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, NHƯNG TRONG HÀNH ĐỘNG, CÁC CHÂN SƯ LÀ MỘT.

A fourth activity evidently consists of constant recruiting from amongst mankind of NEW MEMBERS to the ranks of the Great White Brotherhood.

Một hoạt động thứ tư rõ ràng bao gồm việc liên tục tuyển mộ từ trong nhân loại các THÀNH VIÊN MỚI vào hàng ngũ của Huynh đệ Đoàn Chánh đạo.

A CEASELESS WATCH IS MAINTAINED, and whenever any indi­vidual whatever on this planet begins to show signs of spiritual awak­ening, of the recognition of duty as the governing principle, of co-operation as the perfect means and of service as the perfect way, they come at once under Adept surveillance and receive Adept assistance.

MỘT SỰ GIÁM SÁT KHÔNG NGỪNG ĐƯỢC DUY TRÌ, và bất cứ khi nào bất kỳ cá nhân nào trên hành tinh này bắt đầu có dấu hiệu thức tỉnh tinh thần, nhận ra bổn phận là nguyên tắc chi phối, hợp tác là phương tiện hoàn hảo và phụng sự là con đường hoàn hảo, họ sẽ ngay lập tức chịu sự giám sát của Chân sư và nhận được sự hỗ trợ của Chân sư.

Such are four characteristics of the Inner Government of the World:

Đó là bốn đặc điểm của Chính Phủ Bên Trong của Thế Giới:

(1) THE ABSOLUTE RULE OF THE PRINCIPLE OF DUTY.

QUY TẮC TUYỆT ĐỐI CỦA NGUYÊN TẮC BỔN PHẬN.

(2) SINGLENESS OF AIM—to advance evolution.

TÍNH ĐƠN NHẤT CỦA MỤC TIÊU—để thúc đẩy sự tiến hóa.

(3) COMPLETE AND PERFECT CO-OPERATION.

SỰ HỢP TÁC HOÀN TOÀN VÀ HOÀN HẢO.

(4) CONSTANT RECRUITING.

TUYỂN DỤNG LIÊN TỤC.

Aspiring recruits presumably best qualify by following here in the world in their daily lives, the example of the Masters in these same ways—fulfilment of duty, service, co-operation and aiding those who are beginning the great Quest.

Những người mới được tuyển mộ đầy khát vọng có lẽ đủ điều kiện tốt nhất bằng cách noi theo tấm gương của các Chân sư trong những cách tương tự này trong cuộc sống hàng ngày của họ trên thế giới—hoàn thành bổn phận, phụng sự, hợp tác và giúp đỡ những người đang bắt đầu Cuộc Tìm Kiếm vĩ đại.

Theosophy in New Zealand, Vol. 26, No. 2, 1965, p. 28

Thông Thiên Học ở New Zealand, Tập. 26, Số 2, 1965, tr. 28

77

The Long Mysterious Exodus of Death—Cuộc Di Cư Bí Ẩn Dài Dằng Dặc của Cái Chết

I

I

SOME THEOSOPHICAL CONCEPTS

MỘT SỐ KHÁI NIỆM THÔNG THIÊN HỌC

Does Death Bring the Extinction of Human Identity?

Cái Chết Có Mang Lại Sự Tuyệt Diệt Bản Sắc Con Người Không?

This surely must be one of the basic questions which confronts those who either contemplate or are faced with the problem of the life after death. The answer included in the group of ideas known as Theosophy consists of a very firm negative. With world scriptures, Theosophy affirms that the body alone dies, whilst the immortal Spirit of man, the real Self, lives on eternally. Theosophy reaffirms the great teaching in the Bible (the Apocrypha) which gives the solution of the problem of life after death in the words: ‘For God created man for im­mortality, and made him the image of his own eternity’.[1] A Hindu Scripture, The Bhagavad Gita, affirms the same truth concerning the spirit of man:

Đây chắc chắn phải là một trong những câu hỏi cơ bản mà những người chiêm ngưỡng hoặc đối mặt với vấn đề cuộc sống sau khi chết phải đối diện. Câu trả lời nằm trong nhóm các ý tưởng được gọi là Thông Thiên Học bao gồm một phủ định rất chắc chắn. Cùng với kinh sách thế giới, Thông Thiên Học khẳng định rằng chỉ có thể xác chết, trong khi Tinh Thần bất tử của con người, Chân Ngã thực sự, sống mãi mãi. Thông Thiên Học tái khẳng định giáo lý vĩ đại trong Kinh Thánh (Ngụy thư) đưa ra giải pháp cho vấn đề cuộc sống sau khi chết bằng những lời: ‘Vì Thượng đế đã tạo ra con người cho sự bất tử, và tạo ra y theo hình ảnh của sự vĩnh cửu của chính Ngài’. Một Kinh điển Hindu, Bhagavad Gita, khẳng định sự thật tương tự về tinh thần của con người:

Never the spirit was born; the spirit shall cease to be never:

Tinh thần không bao giờ được sinh ra; tinh thần sẽ không bao giờ ngừng tồn tại:

Never was time it was not; End and Beginning are dreams! Birthless and deathless and changeless remaineth the spirit forever;

Không bao giờ có thời gian mà nó không có; Kết thúc và Khởi đầu là những giấc mơ! Vô sinh và bất tử và bất biến vẫn là tinh thần mãi mãi;

Death hath not touched it at all, dead though the house of it seems.[2]

Cái chết hoàn toàn không chạm vào nó, dù ngôi nhà của nó có vẻ đã chết.

Extended Vision, a Valuable Means of Research

Tầm Nhìn Mở Rộng, một Phương Tiện Nghiên Cứu Giá Trị

The student of Theosophy learns also that there resides in man a faculty by means of which the veil hiding the invisible world from our sight may be rent asunder and the facts and phenomena of that world, the conditions of life in it, may be seen, investigated, and understood. This extended vision, which is a sixth sense, latent in the majority, awakened in a few, will be used quite normally and naturally, it is taught, later in our evolution. When developed, this faculty enables its possessor to explore directly and in full waking consciousness the world of the life after death, to meet its inhabitants face to face, and to study and check with scientific accuracy the conditions under which they live.

Đạo sinh của Thông Thiên Học cũng học được rằng trong con người có một khả năng mà nhờ đó tấm màn che giấu thế giới vô hình khỏi tầm mắt của chúng ta có thể bị xé toạc và các sự kiện và hiện tượng của thế giới đó, các điều kiện sống trong đó, có thể được nhìn thấy, điều tra và thấu hiểu. Tầm nhìn mở rộng này, vốn là giác quan thứ sáu, tiềm ẩn ở phần lớn, được đánh thức ở một số ít, sẽ được sử dụng hoàn toàn bình thường và tự nhiên, như được dạy, sau này trong quá trình tiến hóa của chúng ta. Khi được phát triển, khả năng này cho phép người sở hữu nó khám phá trực tiếp và trong tâm thức hoàn toàn tỉnh táo thế giới của cuộc sống sau khi chết, gặp gỡ cư dân của nó mặt đối mặt, và nghiên cứu và kiểm tra với độ chính xác khoa học các điều kiện mà họ sống.

Generations of seers, having awakened these faculties into con­trolled activity, have carried out researches into the normally invisible aspects of Nature and of man. The fruits of their investigations are all preserved and have been continually extended, checked and counter checked. As a result, there is available to the student of today a vast treasury of knowledge on every subject to which the mind of man can be turned.

Các thế hệ nhà ngoại cảm, sau khi đánh thức những khả năng này thành hoạt động được kiểm soát, đã thực hiện các nghiên cứu về các khía cạnh vô hình thông thường của Tự Nhiên và của con người. Thành quả của các cuộc điều tra của họ đều được bảo tồn và liên tục được mở rộng, kiểm tra và đối chiếu. Kết quả là, có sẵn cho đạo sinh ngày nay một kho tàng kiến thức rộng lớn về mọi chủ đề mà thể trí của con người có thể hướng tới.

Man’s Seven Vehicles and the Thread of Life

Bảy Vận Cụ của Con Người và Sinh Mệnh Tuyến

What is found? That man is a threefold, immortal, spiritual being incarnated during earthly life in four mortal bodies. When physically alive—occupying the body—the ‘inner Self is joined to it by a stream of flowing forces which shine with a delicate silvery light. This current flows between the heads of the physical and the superphysical bodies, thus connecting them. So long as it continues to flow, there is always the possibility of continued physical existence. Once it is bro­ken, as at the moment of death, there is no longer any possibility of re­turning to bodily life. This is described in the Old Testament as follows: ‘Or ever the silver cord be loosed, or the golden bowl [the Etheric Double] be broken, or the pitcher [the physical body] be bro­ken at the fountain, or the wheel broken at the cistern. Then shall the dust return to the earth as it was: and the spirit shall return unto God who gave it’.[3] The silver cord thus referred to appears to refer to the Sutratma of Hindu philosophy. This Sanskrit word is translated as ‘Thread-self and is described as a current of spiritual life-force upon which the seed or permanent atoms or nuclei of the seven bodies of man are ‘strung’.[4]

Những gì được tìm thấy? Rằng con người là một bản thể tinh thần, bất tử, tam phân, được nhập thể trong suốt cuộc đời trần thế trong bốn thể hữu tử. Khi còn sống về mặt thể xác—chiếm giữ thể xác—‘Nội Ngã được nối với nó bằng một dòng chảy của các mãnh lực chảy tràn, tỏa sáng với ánh sáng bạc tinh tế. Dòng chảy này chảy giữa đầu của thể xác và các thể siêu vật chất, do đó kết nối chúng. Chừng nào nó còn tiếp tục chảy, luôn có khả năng tiếp tục tồn tại về mặt thể xác. Một khi nó bị phá vỡ, như vào thời điểm chết, thì không còn khả năng quay trở lại cuộc sống thể xác nữa. Điều này được mô tả trong Cựu Ước như sau: ‘Hoặc trước khi sợi dây bạc bị đứt, hoặc bát vàng [Thể Dĩ Thái] bị vỡ, hoặc bình [thể xác] bị vỡ ở đài phun nước, hoặc bánh xe bị vỡ ở bể chứa. Bấy giờ bụi sẽ trở về đất như nó đã từng: và tinh thần sẽ trở về với Thượng đế, Đấng đã ban nó’. Sợi dây bạc được đề cập đến dường như đề cập đến Sutratma của triết học Hindu. Từ tiếng Phạn này được dịch là ‘Tự-tuyến và được mô tả như một dòng sinh lực tinh thần mà trên đó hạt giống hoặc các nguyên tử trường tồn hoặc hạt nhân của bảy thể của con người được ‘xâu chuỗi’.

The Final Sleep and the Review

Giấc Ngủ Cuối Cùng và Sự Ôn Tập

The actual final departure at death from the physical body has been likened to the unconscious procedure of falling asleep. The de­ceased passes, as it were, upon a sigh from this world to the next. He is generally engaged in a process of review, in which the events of the life just closed pass before his mind’s eye in clear perspective: causes and their effects, successes, and their results, failures and their out work­ings, being seen and correlated. This process of review is very impor­tant, for from it is distilled a certain wisdom an immediate fruitage of the life just closed.

Sự ra đi cuối cùng thực sự lúc chết khỏi thể xác đã được ví như thủ tục vô thức của việc đi vào giấc ngủ. Người đã khuất đi qua, như thể, trên một tiếng thở dài từ thế giới này sang thế giới khác. Y thường tham gia vào một quá trình ôn tập, trong đó các sự kiện của cuộc đời vừa khép lại lướt qua tâm trí y trong một viễn cảnh rõ ràng: nguyên nhân và kết quả của chúng, thành công và kết quả của chúng, thất bại và những tác động của chúng, được nhìn thấy và tương quan. Quá trình ôn tập này rất quan trọng, vì từ đó chắt lọc được một sự minh triết nhất định, một thành quả tức thời của cuộc đời vừa khép lại.

An Adept Teacher has described the process or the review of the physical life, which occurs at the death of the body, in these words:

Một Huấn Sư Chân sư đã mô tả quá trình hoặc sự ôn tập cuộc đời thể xác, xảy ra khi thể xác chết đi, bằng những lời này:

‘At the last moment, the whole life is reflected in our memory and emerges from all the forgotten nooks and comers picture after picture, one event after the other. The dying brain dislodges memory with a strong supreme impulse, and memory restores faithfully every impres­sion entrusted to it during the period of the brain’s activity. That im­pression and thought which was the strongest naturally becomes the most vivid and survives so to say all the rest which now vanish and dis­appear forever, to reappear but in Devachan. No man dies insane or un­conscious—as some physiologists assert. Even a madman, or one in a fit of delirium tremens will have his instant of perfect lucidity at the moment of death, though unable to say so to those present. The man may often appear dead. Yet from the last pulsation, from and between the last throbbing of his heart and the moment when the last spark of animal heat leaves the body—the brain thinks and the Ego lives in those few brief seconds his whole life over again. Speak in whispers, ye, who assist at a death bed and find yourselves in the solemn pres­ence of Death. Especially have you to keep quiet just after Death has laid her clammy hand upon the body. Speak in whispers, I say, lest you disturb the quiet ripple of thought, and hinder the busy work of the Past casting its reflections upon the Veil of the Future’.[5]

‘Vào khoảnh khắc cuối cùng, toàn bộ cuộc đời được phản ánh trong ký ức của chúng ta và nổi lên từ tất cả các ngóc ngách và góc khuất bị lãng quên, hết bức tranh này đến bức tranh khác, hết sự kiện này đến sự kiện khác. Bộ não đang hấp hối loại bỏ ký ức bằng một xung động tối cao mạnh mẽ, và ký ức khôi phục một cách trung thực mọi ấn tượng được giao cho nó trong suốt thời gian hoạt động của bộ não. Ấn tượng và tư tưởng mạnh mẽ nhất một cách tự nhiên trở nên sống động nhất và sống sót, có thể nói như vậy, tất cả những thứ còn lại giờ biến mất và biến mất vĩnh viễn, chỉ xuất hiện lại ở Devachan. Không ai chết điên loạn hoặc bất tỉnh—như một số nhà sinh lý học khẳng định. Ngay cả một người điên, hoặc một người đang trong cơn mê sảng run rẩy sẽ có khoảnh khắc sáng suốt hoàn hảo vào thời điểm chết, mặc dù không thể nói như vậy với những người có mặt. Người đó thường có vẻ đã chết. Tuy nhiên, từ nhịp đập cuối cùng, từ và giữa nhịp đập cuối cùng của trái tim y và thời điểm tia nhiệt động vật cuối cùng rời khỏi cơ thể—bộ não suy nghĩ và Chân Ngã sống lại toàn bộ cuộc đời y trong vài giây ngắn ngủi đó. Hãy nói thì thầm, hỡi những người giúp đỡ bên giường bệnh và thấy mình đang ở trong sự hiện diện trang nghiêm của Thần Chết. Đặc biệt, bạn phải giữ im lặng ngay sau khi Thần Chết đặt bàn tay lạnh lẽo lên cơ thể. Hãy nói thì thầm, tôi nói, kẻo bạn làm xáo trộn sự gợn sóng yên tĩnh của tư tưởng, và cản trở công việc bận rộn của Quá Khứ đang đổ bóng lên Bức Màn của Tương Lai’.

External Awareness Resumed

Nhận Thức Bên Ngoài Được Tiếp Tục

A period of complete unconsciousness in the personal vehicles (of emotion and of thought) generally follows the completion of the re­view. Awakening then occurs and the deceased, frequently still un­aware of what has happened, looks about him. In nearly all cases, friends or relatives await; or, if the deceased has none such to welcome him, then some member of the great band of helpers whose work it is to greet newcomers comes forward to receive him. Such helpers are members of a highly trained band of servers deputed to this particular work of assisting new arrivals.[6]

Một giai đoạn hoàn toàn bất tỉnh trong các vận cụ cá nhân (của cảm xúc và tư tưởng) thường xảy ra sau khi hoàn thành việc ôn tập. Sau đó, sự thức tỉnh xảy ra và người đã khuất, thường vẫn không nhận thức được những gì đã xảy ra, nhìn xung quanh y. Trong gần như tất cả các trường hợp, bạn bè hoặc người thân đang chờ đợi; hoặc, nếu người đã khuất không có ai như vậy để chào đón y, thì một thành viên nào đó của nhóm lớn những người trợ giúp có công việc chào đón những người mới đến sẽ tiến lên để tiếp nhận y. Những người trợ giúp như vậy là thành viên của một nhóm người phụng sự được đào tạo bài bản, được cử đến công việc đặc biệt này là hỗ trợ những người mới đến.

The conditions, or ‘world’, to which the deceased then awakens is not an entirely strange land; for it is entered every night whilst the physical body sleeps. Sleep has aptly and truly been called the twin brother of death and one may go further and call them the same thing; for whilst the physical body sleeps, the Soul is awake in the body which it will use after death. Dreams are, in part, the confused memo­ries of life in that world brought back on awakening—the pleasant, poetic, floating motion by which one moves, thought-propelled, throughout the superphysical worlds. Hence, quite naturally, the world of the life after death proves to be a familiar place. The difference be­tween sleep and death lies in the fact that, in sleep, the ‘silver cord’ which links Soul and body is not broken. In death the ‘cord’ is broken and, having no link with the physical body, one can return to it no more. The superphysical world and state of consciousness entered at death consists of two divisions or planes of Nature, the emotional and the mental. The former, the emotional, contains human and angelic in­habitants, and scenery and other forms visible to the deceased. The lat­ter, the mental, also has its own inhabitants and phenomena, but the experience of the departed whilst living there is more subjective and individual.[7]

Các điều kiện, hay ‘thế giới’, mà người đã khuất sau đó thức tỉnh không phải là một vùng đất hoàn toàn xa lạ; vì nó được bước vào mỗi đêm khi thể xác ngủ. Giấc ngủ đã được gọi một cách khéo léo và chân thực là anh em sinh đôi của cái chết và người ta có thể đi xa hơn và gọi chúng là cùng một thứ; vì trong khi thể xác ngủ, Linh Hồn thức tỉnh trong thể mà nó sẽ sử dụng sau khi chết. Những giấc mơ, một phần, là những ký ức lẫn lộn về cuộc sống ở thế giới đó được mang trở lại khi thức tỉnh—chuyển động dễ chịu, thơ mộng, trôi nổi mà người ta di chuyển, được tư tưởng thúc đẩy, khắp các cõi siêu vật chất. Do đó, một cách khá tự nhiên, thế giới của cuộc sống sau khi chết hóa ra là một nơi quen thuộc. Sự khác biệt giữa giấc ngủ và cái chết nằm ở chỗ, trong giấc ngủ, ‘sợi dây bạc’ liên kết Linh Hồn và thể xác không bị đứt. Trong cái chết, ‘sợi dây’ bị đứt và, không có liên kết với thể xác, người ta không thể quay trở lại nó nữa. Thế giới và trạng thái tâm thức siêu vật chất bước vào khi chết bao gồm hai bộ phận hoặc cõi của Tự Nhiên, cảm xúc và trí tuệ. Cái trước, cảm xúc, chứa đựng cư dân là người và thiên thần, và phong cảnh và các hình thức khác có thể nhìn thấy đối với người đã khuất. Cái sau, trí tuệ, cũng có cư dân và hiện tượng riêng, nhưng trải nghiệm của người đã khuất khi sống ở đó mang tính chủ quan và cá nhân hơn.

The conditions in which a person finds himself after death depend largely upon temperament, and upon the nature of the life that has been previously led. Each one sees the world around him through the win­dows of his temperament. The sunny nature friendly individual awak­ens after death to a sunny, friendly world; whilst the gloomy, self centred hypochondriac may awaken to a dull, gloomy, and somewhat lonely world—not because that world is lonely, but because the self-centred individual does not inspire and is unable to give true friendship.

Các điều kiện mà một người thấy mình sau khi chết phụ thuộc phần lớn vào khí chất và bản chất của cuộc đời đã sống trước đó. Mỗi người nhìn thế giới xung quanh mình qua cửa sổ khí chất của mình. Bản chất tươi sáng, cá nhân thân thiện thức tỉnh sau khi chết đến một thế giới tươi sáng, thân thiện; trong khi người ủ rũ, tự cho mình là trung tâm, mắc bệnh tưởng có thể thức tỉnh đến một thế giới buồn tẻ, ảm đạm và có phần cô đơn—không phải vì thế giới đó cô đơn, mà vì cá nhân tự cho mình là trung tâm không truyền cảm hứng và không thể trao đi tình bạn chân thành.

Ministration After Bodily Death

Sự Phục Vụ Sau Khi Chết Thể Xác

The servant of his fellow men, the physician, for example, finds a new world of service opening up before him. If he possesses the true spirit of the healer, the physician will find coming to him for help men and women with twisted minds and tortured feelings, people who have died with uneasy consciences, duties left undone, vices unconquered, obliquities of vision, complexes unresolved and other psychical distur­bances. Such conditions are to a far greater extent sources of difficulty there than here, for that is the world of emotion. People thus disturbed are greatly in need of the services of a physician. There is, in fact, a great host of workers dedicated to this task of reattuning and harmonising those in need.

Người phụng sự đồng loại, ví dụ như bác sĩ, tìm thấy một thế giới phục vụ mới mở ra trước mắt y. Nếu y sở hữu tinh thần thực sự của người chữa lành, bác sĩ sẽ thấy những người nam và nữ đến với y để được giúp đỡ với tâm trí vặn vẹo và cảm xúc bị dày vò, những người đã chết với lương tâm bất an, những nhiệm vụ chưa hoàn thành, những thói xấu chưa bị chinh phục, những lệch lạc trong tầm nhìn, những phức cảm chưa được giải quyết và những xáo trộn tâm lý khác. Những điều kiện như vậy ở đó là nguồn gốc của khó khăn ở mức độ lớn hơn nhiều so với ở đây, vì đó là thế giới của cảm xúc. Những người bị xáo trộn như vậy rất cần đến sự phục vụ của một bác sĩ. Trên thực tế, có một đội ngũ lớn những người lao động tận tâm với nhiệm vụ điều chỉnh lại và hài hòa những người có nhu cầu này.

Individuals and groups of helpers efficiently administer to those who have died physically after psychological distress and prolonged restrictions suffered before final freedom from the body came to them. This protective, healing and becalming treatment helps very greatly those who arrive in great need. When, for example, one has lain for many months or even years in increasing debility and an almost para­lysed bodily state, awakening to superphysical life can cause a severe shock.

Các cá nhân và nhóm người trợ giúp quản lý hiệu quả cho những người đã chết về thể xác sau khi bị đau khổ về tâm lý và những hạn chế kéo dài phải chịu đựng trước khi cuối cùng được tự do khỏi thể xác. Phương pháp điều trị bảo vệ, chữa lành và làm dịu này giúp ích rất nhiều cho những người đến trong tình trạng rất cần thiết. Ví dụ, khi một người đã nằm trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm trong tình trạng suy nhược ngày càng tăng và trạng thái thể xác gần như tê liệt, thì việc thức tỉnh với cuộc sống siêu vật chất có thể gây ra một cú sốc nghiêm trọng.

There may, of course, also be a wonderful freedom from the sick body, but the Astral elemental can have become somewhat warped and distressed. In consequence, there is difficulty in adapting to normal af­ter-death life. Many such sufferers are cared for and even saved from very trying and possibly dangerous psychological conditions of distur­bance, stress and other problems in self-orientation.

Tất nhiên, cũng có thể có một sự tự do tuyệt vời khỏi thể xác bệnh tật, nhưng Tinh linh cảm dục có thể đã trở nên hơi méo mó và đau khổ. Do đó, có khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống bình thường sau khi chết. Nhiều người đau khổ như vậy được chăm sóc và thậm chí được cứu khỏi những điều kiện tâm lý rất khó khăn và có thể nguy hiểm của sự xáo trộn, căng thẳng và các vấn đề khác trong việc tự định hướng.

Numbers of people thus recover consciousness after death to find themselves in very great need. This is largely psychological and caused by life’s experiences and their reactions to them, tragic and pro­longed as they may so often have been. Fortunately, many individuals and groups are continuously at work in this field, whilst, in addition, prayers for those who have died are very helpful.

Vô số người do đó phục hồi tâm thức sau khi chết để thấy mình rất cần giúp đỡ. Điều này phần lớn là do tâm lý và do những trải nghiệm trong cuộc sống và phản ứng của họ đối với chúng, bi thảm và kéo dài như chúng thường có thể xảy ra. May mắn thay, nhiều cá nhân và nhóm liên tục làm việc trong lĩnh vực này, đồng thời, ngoài ra, những lời cầu nguyện cho những người đã chết rất hữu ích.

Life Interest Unchanged, Freedom Attained

Sở Thích Cuộc Sống Không Thay Đổi, Tự Do Đạt Được

The business man finds that the main causes of his activities do not obtain here in his new sphere and that consequently the life after death can prove to be the beginning of a most wonderful freedom. The grinding necessities which keep us busy here and tend to chain our thoughts and feelings to material things, no longer exist. Food, for ex­ample, though one of the principal causes of business and personal ef­fort on the physical plane, ceases to have any significance in the life after death; for all the nourishment our subtle bodies need is absorbed automatically from the atmosphere. The air there, as here, is charged with the universal life force (prana) outpoured through the sun, and contains all that is needed for bodily sustenance in that world. The whole process of its absorption and assimilation is as unconscious as is breathing on the physical plane. Food, consequently, is not a source of business activity.

Doanh nhân nhận thấy rằng những nguyên nhân chính gây ra các hoạt động của y không có được ở đây trong phạm vi mới của y và do đó cuộc sống sau khi chết có thể chứng tỏ là sự khởi đầu của một sự tự do tuyệt vời nhất. Những nhu cầu nghiệt ngã khiến chúng ta bận rộn ở đây và có xu hướng xích tư tưởng và cảm xúc của chúng ta vào những thứ vật chất, không còn tồn tại nữa. Ví dụ, thức ăn, mặc dù là một trong những nguyên nhân chính gây ra hoạt động kinh doanh và nỗ lực cá nhân trên cõi hồng trần, nhưng không còn ý nghĩa gì trong cuộc sống sau khi chết; vì tất cả chất dinh dưỡng mà các thể vi tế của chúng ta cần đều được hấp thụ tự động từ bầu khí quyển. Không khí ở đó, cũng như ở đây, chứa đầy sinh lực vũ trụ (prana) tuôn đổ qua mặt trời, và chứa tất cả những gì cần thiết cho sự duy trì thể xác ở thế giới đó. Toàn bộ quá trình hấp thụ và đồng hóa của nó là vô thức như việc thở trên cõi hồng trần. Do đó, thức ăn không phải là nguồn gốc của hoạt động kinh doanh.

Clothing is made by thought. Since the matter of the next world responds instantly to thought, to think of oneself as clothed is to be clothed. Whilst one finds people dressed in various modes of attire, in the fashion of their own day or nationality, the most general raiment would seem to be a convenient, loose garment, the colour and decora­tion of which can be changed instantly at will. Transportation does not depend upon the labours of oneself or others; for in the superphysical worlds movements is thought-impelled. To think of oneself in a place is to move to that place, swiftly or slowly at will, by a delightful, float­ing motion as of flying. As suggested, dreams of the body as light and easily elevated, or as gliding gently or swiftly through the air, are fre­quently memories of the normal mode of progression in the world of the life after death.

Quần áo được tạo ra bởi tư tưởng. Vì vật chất của thế giới bên kia phản ứng ngay lập tức với tư tưởng, nên việc nghĩ về bản thân như được mặc quần áo là được mặc quần áo. Trong khi người ta thấy mọi người ăn mặc theo nhiều kiểu trang phục khác nhau, theo thời trang của ngày hoặc quốc tịch của họ, thì trang phục phổ biến nhất dường như là một chiếc áo choàng rộng rãi, tiện lợi, màu sắc và trang trí của nó có thể được thay đổi ngay lập tức theo ý muốn. Việc di chuyển không phụ thuộc vào công sức của bản thân hoặc người khác; vì trong các cõi siêu vật chất, các chuyển động được thúc đẩy bằng tư tưởng. Nghĩ về bản thân ở một nơi nào đó là di chuyển đến nơi đó, nhanh chóng hoặc chậm chạp theo ý muốn, bằng một chuyển động trôi nổi thú vị như đang bay. Như đã gợi ý, những giấc mơ về thể xác nhẹ nhàng và dễ dàng được nâng lên, hoặc trượt nhẹ nhàng hoặc nhanh chóng trong không khí, thường là những ký ức về phương thức tiến triển bình thường trong thế giới của cuộc sống sau khi chết.

Shelter, the fourth of the great sources of business and human ef­fort on the physical plane, is also created by thought in the next world. There, as here, people gather together in thought-forms of houses and cities. Privacy is needed in the after-death life just as it is needed on earth, but not shelter from the climate; for adverse climatic conditions are not reproduced there.

Nơi trú ẩn, nguồn gốc thứ tư trong số các nguồn gốc lớn của hoạt động kinh doanh và nỗ lực của con người trên cõi hồng trần, cũng được tạo ra bởi tư tưởng ở thế giới bên kia. Ở đó, cũng như ở đây, mọi người tụ tập với nhau trong các hình tư tưởng của nhà cửa và thành phố. Sự riêng tư là cần thiết trong cuộc sống sau khi chết giống như nó cần thiết trên trái đất, nhưng không phải là nơi trú ẩn khỏi khí hậu; vì các điều kiện khí hậu bất lợi không được tái tạo ở đó.

The Second and Third Deaths

Cái Chết Thứ Hai và Thứ Ba

These conditions are, however, in no sense permanent. Every nor­mal person who dies a natural death passes through the worlds of emo­tion and mind with varying speeds, and varying degrees of awareness, largely according to evolutionary stature, interior ‘aliveness’ and suc­cess in the practices associated with the spiritual life, prayer and con­templation, for example. Eventually, the centre of awareness which had been incarnated in the physical body is withdrawn into its Source, inner Self, or the ‘Causal Body’. Whilst there are exceptions, this is the general rule, and the time spent in the intermediate, emotional and mental worlds after death depends largely upon the degree of spiritual­ity or materialism in the character and interests of the deceased. The ideal, naturally, is to pass as rapidly as possible through the worlds of emotion and analytical thought into the beatitude of the heaven life, and later to full re-absorption into the inner Self.

Tuy nhiên, những điều kiện này hoàn toàn không phải là vĩnh viễn. Mỗi người bình thường chết một cách tự nhiên đều đi qua các cõi cảm xúc và thể trí với tốc độ khác nhau và mức độ nhận biết khác nhau, phần lớn là tùy theo tầm vóc tiến hóa, sự ‘sống động’ bên trong và thành công trong các thực hành liên quan đến đời sống tinh thần, ví dụ như cầu nguyện và chiêm ngưỡng. Cuối cùng, trung tâm tâm thức vốn đã nhập thể trong thể xác được rút về Nguồn cội, Chân ngã bên trong hoặc ‘Thể Nguyên Nhân’. Mặc dù có những ngoại lệ, nhưng đây là quy tắc chung, và thời gian ở trong các cõi trung gian, cảm xúc và trí tuệ sau khi chết phần lớn phụ thuộc vào mức độ tinh thần hoặc vật chất trong tính cách và sở thích của người đã khuất. Đương nhiên, lý tưởng nhất là vượt qua các cõi cảm xúc và tư duy phân tích càng nhanh càng tốt để đi vào sự phúc lạc của đời sống thiên giới, và sau đó là sự tái hấp thu hoàn toàn vào Chân ngã bên trong.

Love Itself is Immortal

Tình Thương Vốn Bất Tử

What is found in Theosophy concerning the often pressing prob­lem of reunion after death with those one loves? Theosophy answers: ‘Yes, very definitely those who truly love will be reunited’. Nothing, neither death nor rebirth, can break the bonds of true love; for love it­self is immortal and reunion is therefore utterly assured both after death and in future lives for those who truly, deeply love. Does there then exist not only a life after death, but also a certainty of future lives in physical bodies on this our Earth?

Những gì được tìm thấy trong Thông Thiên Học liên quan đến vấn đề thường cấp bách là sự đoàn tụ sau khi chết với những người mình yêu thương? Thông Thiên Học trả lời: ‘Vâng, chắc chắn những người thực sự yêu thương sẽ được đoàn tụ’. Không gì, kể cả cái chết hay sự tái sinh, có thể phá vỡ mối dây liên kết của tình yêu đích thực; vì bản thân tình yêu là bất tử và do đó, sự đoàn tụ hoàn toàn được đảm bảo cả sau khi chết và trong những kiếp sống tương lai cho những ai thực sự, yêu thương sâu sắc. Vậy thì không chỉ tồn tại một cuộc sống sau khi chết, mà còn có một sự chắc chắn về những kiếp sống tương lai trong thể xác trên Trái Đất này của chúng ta?

Theosophy answers yes and ‘teaches’ that after the heaven life, the spiritual Souls of men are, indeed, repeatedly reborn in new physi­cal bodies. In each life they further unfold their innate powers, develop added faculties, attain to deeper wisdom, greater insight, nobler love. This evolutionary process culminates in the attainment of the stature of the perfected man. In these continual rebirths, we who have deeply loved are sure both to meet again and to love again. Indeed, the comradeships and the affections of this life, when very strong, are themselves almost certainly continuances or renewals of the attachments formed in preceding lives.

Thông Thiên Học trả lời có và ‘dạy’ rằng sau đời sống thiên giới, các Linh Hồn tinh thần của con người thực sự được tái sinh nhiều lần trong những thể xác mới. Trong mỗi kiếp sống, Các Ngài tiếp tục mở ra những năng lực bẩm sinh của mình, phát triển thêm các khả năng, đạt đến sự minh triết sâu sắc hơn, cái nhìn sâu sắc hơn, tình yêu cao thượng hơn. Quá trình tiến hóa này lên đến đỉnh điểm là đạt được tầm vóc của người hoàn thiện. Trong những lần tái sinh liên tục này, chúng ta, những người đã yêu thương sâu sắc, chắc chắn sẽ gặp lại nhau và yêu nhau lần nữa. Thật vậy, tình bạn và tình cảm của cuộc sống này, khi rất mạnh mẽ, gần như chắc chắn là sự tiếp nối hoặc đổi mới của những mối liên hệ được hình thành trong những kiếp sống trước.

‘Many Mansions’

‘Nhiều Cung Điện’

The space available hardly permits references to such important aspects of our subject as religion, heaven life, suicide, purgatory, and sudden death. I may however refer to the theosophical concept that the gradual withdrawal from the material toward the more spiritual worlds, which normally begins at death, culminates in entry into per­fect happiness and fulfilment. This state of supreme content is a heaven indeed; for in it every aspiration is fulfilled, every feeling of unselfish love is completely expressed. In the heaven to which the departed withdraw in this second phase of the life after death, all loved ones are perceived as intimately present, all truth, all beauty, all peace, all love and happiness which the deceased is capable of experiencing, heal, up­lift, and reorient the Soul after its essential and fruitful, if often pain-filled, sojourn on Earth.

Không gian có sẵn hầu như không cho phép đề cập đến những khía cạnh quan trọng của chủ đề của chúng ta như tôn giáo, đời sống thiên giới, tự tử, luyện ngục và cái chết đột ngột. Tuy nhiên, tôi có thể đề cập đến khái niệm thông thiên học rằng sự rút lui dần dần khỏi thế giới vật chất hướng tới những cõi tinh thần hơn, vốn thường bắt đầu khi chết, lên đến đỉnh điểm là đi vào hạnh phúc và viên mãn hoàn hảo. Trạng thái mãn nguyện tối cao này thực sự là một thiên đường; vì trong đó mọi khát vọng đều được đáp ứng, mọi cảm xúc yêu thương vô vị kỷ đều được thể hiện trọn vẹn. Trong thiên đường mà người đã khuất rút lui trong giai đoạn thứ hai của cuộc sống sau khi chết này, tất cả những người thân yêu đều được cảm nhận là hiện diện mật thiết, tất cả chân lý, tất cả vẻ đẹp, tất cả sự bình an, tất cả tình yêu và hạnh phúc mà người đã khuất có khả năng trải nghiệm, chữa lành, nâng đỡ và định hướng lại Linh Hồn sau thời gian ở Trái Đất thiết yếu và hiệu quả, dù thường đầy đau khổ.

Herein we perceive the precise operation of a Law of Cause and Effect; for all experiences after death are the effects of causes gener­ated during Earth-life. Their reactions are also exactly proportionate to the depth of the causative motives, feelings, thoughts, and aspirations. Everywhere, and so both here and hereafter, there is law, that Law of Cause and Effect which ensures eventual justice to every human being. A noble, kind, unselfish physical life is, therefore, the best preparation for the life after death.

Ở đây chúng ta nhận thấy sự vận hành chính xác của một Định luật Nhân Quả; vì tất cả những trải nghiệm sau khi chết đều là kết quả của những nguyên nhân được tạo ra trong suốt cuộc đời trên Trái Đất. Phản ứng của chúng cũng hoàn toàn tương xứng với chiều sâu của những động cơ, cảm xúc, suy nghĩ và khát vọng gây ra. Ở khắp mọi nơi, và do đó cả ở đây và ở thế giới bên kia, đều có luật pháp, Định luật Nhân Quả đó đảm bảo công lý cuối cùng cho mọi con người. Do đó, một cuộc sống thể xác cao thượng, tử tế, vô vị kỷ là sự chuẩn bị tốt nhất cho cuộc sống sau khi chết.

If these theosophical ideas concerning death are at all acceptable, then in physical death there is nought of which to be afraid. Rarely is an individual conscious of the final departure from the body. He or she slips away as in sleep, tranquilly, peacefully, without pain. Death for most people is a release into a freer, happier life.

Nếu những ý tưởng thông thiên học này về cái chết có thể chấp nhận được, thì trong cái chết thể xác không có gì phải sợ hãi. Hiếm khi một cá nhân ý thức được sự ra đi cuối cùng khỏi cơ thể. Y trượt đi như đang ngủ, thanh thản, bình yên, không đau đớn. Đối với hầu hết mọi người, cái chết là một sự giải thoát vào một cuộc sống tự do hơn, hạnh phúc hơn.

Birth is not the beginning of human existence. Death is not its end. The body alone is born at physical birth. The body alone dies at physical death. Both birth and death are oft-recurring incidents in the long series of earthly lives, by means of which alone we are enabled to climb upward to full spiritual knowledge of our true, immortal Selves, or in other words, to attain to Adeptship.

Sự ra đời không phải là sự khởi đầu của sự tồn tại của con người. Cái chết không phải là kết thúc của nó. Chỉ có thể xác được sinh ra khi sinh ra về thể xác. Chỉ có thể xác chết đi khi chết về thể xác. Cả sự ra đời và cái chết đều là những sự kiện thường xuyên lặp lại trong chuỗi dài những kiếp sống trần thế, nhờ đó mà chúng ta có thể leo lên đến sự hiểu biết tinh thần trọn vẹn về Chân ngã bất tử đích thực của mình, hay nói cách khác, để đạt đến Địa vị Chân sư.

The Secret Doctrine and the Life After Death

Giáo Lý Bí Nhiệm và Cuộc Sống Sau Khi Chết

Madame Blavatsky describes death and these post-mortem pro­cesses as follows:

Bà Blavatsky mô tả cái chết và những quá trình sau khi chết này như sau:

‘When the man dies, his lower three principles leave him for ever; i.e. body, life, and vehicle of the latter, the astral body or the double of the living man. And then, his four principles—the central or middle principle, the animal soul or Kama-rupa, with what it has assimilated from the lower Manas, and the higher triad find themselves in Kamaloka. The latter is an astral locality, the limbus of scholastic the­ology, the Hades of the ancients, and, strictly speaking, a locality only in a relative sense. It has neither a definite area nor boundary, but exists within subjective space; i.e., is beyond our sensuous perceptions. Still it exists and it is there that the astral eidolons of all the beings that have lived, animals included, await their second death. For the animals it comes with the disintegration and the entire fading out of their astral particles to the last. For the human eidolon it begins when the Atma-Buddhi-Manasic triad is said to “separate” itself from its lower principles, or the reflection of the ex-personality, by falling into the Devachanic state…. Then the Kama-rupic phantom, remaining bereft of its informing thinking principle, the higher Manas, and the lower as­pect of the latter, the animal intelligence, no longer receiving light from the higher mind, and no longer having a physical brain to work through, collapses’.[8]

‘Khi một người chết, ba nguyên lý thấp hơn của y rời bỏ y mãi mãi; tức là thể xác, sự sống và vận cụ của sự sống, thể cảm dục hoặc bản sao của người đang sống. Và sau đó, bốn nguyên lý của y—nguyên lý trung tâm hoặc ở giữa, linh hồn động vật hoặc Kama-rupa, với những gì nó đã đồng hóa từ Hạ trí, và tam nguyên tinh thần cao hơn thấy mình ở Kamaloka. Kamaloka là một địa phương cảm dục, limbus của thần học kinh viện, Hades của người xưa, và nói một cách chính xác, một địa phương chỉ theo nghĩa tương đối. Nó không có một khu vực hoặc ranh giới xác định, nhưng tồn tại trong không gian chủ quan; tức là, vượt quá nhận thức giác quan của chúng ta. Tuy nhiên, nó tồn tại và chính ở đó mà những hình ảnh cảm dục của tất cả những sinh vật đã từng sống, bao gồm cả động vật, chờ đợi cái chết thứ hai của chúng. Đối với động vật, nó đến với sự tan rã và sự phai tàn hoàn toàn của các hạt cảm dục của chúng cho đến hạt cuối cùng. Đối với hình ảnh con người, nó bắt đầu khi tam nguyên Atma-Bồ đề-Manas được cho là “tách rời” khỏi các nguyên lý thấp hơn của nó, hoặc sự phản ánh của cựu phàm ngã, bằng cách rơi vào trạng thái Devachanic…. Sau đó, ảo ảnh Kama-rupa, vẫn còn thiếu nguyên lý tư duy thông tin của nó, Thượng trí và khía cạnh thấp hơn của Thượng trí, trí thông minh động vật, không còn nhận được ánh sáng từ thượng trí, và không còn có một bộ não thể xác để làm việc thông qua, sụp đổ’.

II

II

THE MYSTERY TRADITION OF HUMAN DEATH AND RESURRECTION

TRUYỀN THỐNG HUYỀN BÍ VỀ CÁI CHẾT VÀ SỰ PHỤC SINH CỦA CON NGƯỜI

When, as in the Mysteries, dying, death, and burial are symboli­cal, they have little or nothing to do with the natural death of the physi­cal body. Rather are they descriptive of the transition of the sense of personal identity from the limitations of the terrestrial, mortal nature to the freedom of the spiritual, immortal Selfhood. This kind of death im­plies only translation from undue concern with the lower, personal na­ture in the body—which thus metaphorically ‘dies’—to the higher, spiritual Self in its ‘Body of Perpetual Light’. The centre of awareness is then mystically ‘newborn’, having died to and been ‘resurrected’ from the ‘tomb’ of the flesh.

Khi, như trong các Nghi lễ Huyền bí, sự chết, cái chết và sự chôn cất mang tính biểu tượng, chúng ít hoặc không liên quan gì đến cái chết tự nhiên của thể xác. Thay vào đó, chúng mô tả sự chuyển đổi của ý thức về bản sắc cá nhân từ những giới hạn của bản chất trần thế, hữu tử sang sự tự do của Bản ngã tinh thần, bất tử. Loại chết này chỉ ngụ ý sự chuyển đổi từ sự quan tâm quá mức đến bản chất cá nhân thấp hơn trong cơ thể—do đó, một cách ẩn dụ ‘chết đi’—sang Chân ngã tinh thần cao hơn trong ‘Thể Ánh Sáng Vĩnh Cửu’ của nó. Trung tâm tâm thức sau đó được ‘tái sinh’ một cách huyền bí, đã chết đi và được ‘phục sinh’ từ ‘ngôi mộ’ của xác thịt.

In his Georgias, Plato writes: ‘For I should not wonder if Euripi­des spoke the truth when saying: “Who knows whether to live is not to die, and to die is not to live?” And we are perhaps in reality dead. For I have heard from one of the wise that we are now dead; and that the body is our sepulchre’.[9]

Trong Georgias của mình, Plato viết: ‘Vì tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Euripides nói sự thật khi nói: “Ai biết liệu sống không phải là chết, và chết không phải là sống?” Và có lẽ chúng ta thực sự đã chết. Vì tôi đã nghe từ một trong những người khôn ngoan rằng chúng ta bây giờ đã chết; và rằng cơ thể là mồ chôn của chúng ta’.

This inner death is of course only figurative. It is a letting go, a laying down and an outgrowing and leaving behind of selfish personal desires and of the sense of self-separateness with which they are asso­ciated and from which they arise. This symbolic ‘death’ may in fact oc­cur in the midst of bodily virility, although in certain allegories it is attained at the mystic thirty or thirty-three years of age. The life of the physical body is largely out-flowing and eventually ends in physical death. The life of the inner Self, on the other hand, consists of an inflowing or upwelling from within of an ever-increasing fullness of Life. In order to experience this inner Life of the Soul, the outer life of the body must metaphorically, but not actually, die. Death in this sense means only that the interest is no longer limited to the body, and that its demands are no more able to dominate motive and conduct. It thus dies figuratively, especially in comparison with the former mode of life in which personal and bodily experiences, desires, and activities had so large a part.

Cái chết bên trong này tất nhiên chỉ là hình tượng. Đó là một sự buông bỏ, một sự đặt xuống và một sự phát triển vượt bậc và bỏ lại phía sau những ham muốn cá nhân ích kỷ và ý thức về sự tự tách biệt mà chúng liên kết và từ đó chúng phát sinh. ‘Cái chết’ mang tính biểu tượng này trên thực tế có thể xảy ra giữa sự cường tráng của cơ thể, mặc dù trong một số ngụ ngôn nhất định, nó đạt được ở độ tuổi ba mươi hoặc ba mươi ba huyền bí. Cuộc sống của thể xác phần lớn là sự tuôn chảy ra ngoài và cuối cùng kết thúc bằng cái chết thể xác. Mặt khác, cuộc sống của Chân ngã bên trong bao gồm một sự tuôn chảy vào trong hoặc trào dâng từ bên trong của một sự viên mãn của Sự Sống ngày càng tăng. Để trải nghiệm Sự Sống bên trong của Linh Hồn này, cuộc sống bên ngoài của cơ thể phải chết một cách ẩn dụ, nhưng không thực sự. Cái chết theo nghĩa này chỉ có nghĩa là sự quan tâm không còn giới hạn ở cơ thể, và những yêu cầu của nó không còn có thể chi phối động cơ và hành vi. Do đó, nó chết một cách hình tượng, đặc biệt là so với phương thức sống trước đây, trong đó những trải nghiệm, ham muốn và hoạt động cá nhân và thể xác chiếm một phần lớn.

The experience of this kind of death to material interests and res­urrection to spiritual consciousness occurs either naturally as a result of normal evolutionary progress or enforcedly by an intense effort of an awakened Soul. In the Lesser Mysteries, designed to lead toward the experience gradually and safely, the ‘death’ of the lower self is en­acted ceremonially and described allegorically as in the various Mys­tery Traditions recounting the deaths of Saviours, Deities, and Heroes. In the Greater Mysteries, designed to produce the actual experience, the Candidate is aided externally by the Rite of Initiation, and interi­orly by means of the practice of yoga. This achievement is only fully possible when a certain stage of Egoic development has been reached, one at which the Personality is literally forced to collaborate with and ‘die’ at the hands of the Initiated Ego by whom it is ‘slain’.

Trải nghiệm về loại chết đối với những mối quan tâm vật chất và sự phục sinh đối với tâm thức tinh thần này xảy ra một cách tự nhiên do sự tiến bộ tiến hóa bình thường hoặc bị cưỡng bức bởi một nỗ lực mãnh liệt của một Linh Hồn đã thức tỉnh. Trong các Nghi lễ Huyền bí Nhỏ, được thiết kế để dẫn dắt đến trải nghiệm một cách dần dần và an toàn, ‘cái chết’ của phàm ngã được thực hiện một cách nghi lễ và được mô tả một cách ngụ ngôn như trong các Truyền thống Huyền bí khác nhau kể lại cái chết của các Đấng Cứu Thế, Thượng đế và Anh hùng. Trong các Nghi lễ Huyền bí Lớn, được thiết kế để tạo ra trải nghiệm thực tế, Ứng Viên được hỗ trợ từ bên ngoài bằng Nghi thức Điểm Đạo, và bên trong bằng cách thực hành yoga. Thành tựu này chỉ có thể thực hiện được một cách trọn vẹn khi đạt đến một giai đoạn phát triển Chân ngã nhất định, một giai đoạn mà Phàm ngã thực sự bị buộc phải cộng tác và ‘chết’ dưới tay của Chân ngã Điểm Đạo, người mà nó bị ‘giết’.

Aspirants attain this gradually by the continual and habitual sur­render of the lower self to the Higher and the transcendence of per­sonal, possessive desire and the ahamkara from which it is born. This ‘death’ is however not a single act occurring at one single time. The process continues for many lives until fulfilled at the final Initiation—the triumphal coronation of the spirit of man.

Những người chí nguyện đạt được điều này dần dần bằng sự đầu hàng liên tục và theo thói quen của phàm ngã cho Chân ngã và sự siêu việt của ham muốn chiếm hữu cá nhân và ahamkara từ đó nó được sinh ra. Tuy nhiên, ‘cái chết’ này không phải là một hành động duy nhất xảy ra tại một thời điểm duy nhất. Quá trình này tiếp tục trong nhiều kiếp sống cho đến khi được hoàn thành tại Cuộc Điểm Đạo cuối cùng—lễ đăng quang khải hoàn của tinh thần con người.

All such Mystery ceremonials may rightly be regarded as portray­ing interior mystical experiences which are passed through within the heart and mind of the living man. Angelus Silesius expressed it thus:

Tất cả những nghi lễ Huyền bí như vậy có thể được coi là mô tả những trải nghiệm huyền bí bên trong được trải qua trong trái tim và thể trí của người đang sống. Angelus Silesius đã diễn đạt nó như sau:

Though Christ a thousand times in Bethlehem be born

Dù Đức Christ ngàn lần sinh ra ở Bethlehem

And not within thyself, thy Soul will be forlorn.

Và không ở trong chính ngươi, Linh Hồn ngươi sẽ bị bỏ rơi.

The Cross on Golgtha thou lookest to in vain

Ngươi nhìn lên Thập Giá trên Golgtha một cách vô ích

Unless within thyself it be set up again.

Trừ khi bên trong chính ngươi nó được dựng lại.

Theosophy in Australia, Vol. 61, Issue 5, May 1973, p. 105

Thông Thiên Học ở Úc, Tập. 61, Số 5, tháng 5 năm 1973, tr. [2]105[/h2]

78

The Masters’ World—Thế Giới của Các Chân Sư

This is not a place but a state of being, a condition of conscious­ness; it is entirely irrespective of physical location. In terms of awareness and state of being it is above the mists of the mayavic, rupa planes. These change, sometimes as if by volcanic eruptions, sud­den and even prolonged storms and sometimes as a result of the long rhythmic sweep of cyclic evolution progressing in great and small waves. Some of these have crests and breakers, whilst others proceed smoothly as if into infinite distance.

Đây không phải là một địa điểm mà là một trạng thái tồn tại, một điều kiện của tâm thức; nó hoàn toàn không phụ thuộc vào vị trí thể xác. Về mặt nhận thức và trạng thái tồn tại, nó nằm trên những màn sương của các cõi ảo lực, rupa. Những điều này thay đổi, đôi khi như thể bởi những vụ phun trào núi lửa, những cơn bão đột ngột và thậm chí kéo dài và đôi khi là kết quả của sự quét nhịp nhàng dài của quá trình tiến hóa theo chu kỳ tiến triển trong những làn sóng lớn và nhỏ. Một số trong số này có đỉnh và sóng vỗ, trong khi những số khác tiến triển suôn sẻ như thể vào khoảng cách vô tận.

All the changes, harmonious or discordant, in animal and human consciousness, particularly emotion, cause minute alterations and dis­turbances in the great depths, middle depths and on the surface, so to speak, of the mayavic worlds. There is no permanent peace and there is no freedom from the maya of self-separateness whilst consciousness is imprisoned and active alone in the three lower worlds.

Tất cả những thay đổi, hài hòa hay bất hòa, trong tâm thức động vật và con người, đặc biệt là cảm xúc, gây ra những thay đổi và xáo trộn nhỏ trong những chiều sâu lớn, chiều sâu giữa và trên bề mặt, có thể nói như vậy, của thế giới ảo lực. Không có sự bình an vĩnh viễn và không có sự tự do khỏi ảo lực của sự tự tách biệt khi tâm thức bị giam cầm và hoạt động một mình trong ba cõi thấp.

Nevertheless, these conditions have a value for the Monads and Egos which pass through them on the downward and upward arcs and throughout myriads of sub-cycles. Latent powers, capacities and forces get stirred out of the sleeping seed-like state into increasing ac­tivity, development and controlled expression. But there is no peace and there is no security and no permanent bliss for the dwellers in the three worlds alone.

Tuy nhiên, những điều kiện này có giá trị đối với các Chân Thần và Chân ngã vốn đi qua chúng trên các vòng cung đi xuống và đi lên và trong suốt vô số chu kỳ phụ. Những năng lực, khả năng và mãnh lực tiềm ẩn được khuấy động từ trạng thái giống như hạt giống đang ngủ sang hoạt động, phát triển và biểu hiện được kiểm soát ngày càng tăng. Nhưng không có sự bình an và không có sự an toàn và không có sự hoan lạc vĩnh viễn cho những cư dân chỉ ở trong ba cõi.

The Masters’ world is harmonious, rhythmic and dynamic be­cause moved from the source. In Their atmic Selves, Their conscious­ness is in similar rhythmic and dynamic action but poised and immovably still because at one with the Source. Selfless and therefore karma-less, all-comprehending and in absolute mastery they abide in undisturbable peace within Their own consciousness.

Thế giới của Các Chân sư hài hòa, nhịp nhàng và năng động vì được di chuyển từ nguồn cội. Trong Chân ngã atmic của Các Ngài, tâm thức của Các Ngài cũng ở trong hành động nhịp nhàng và năng động tương tự nhưng điềm tĩnh và bất động vì hợp nhất với Nguồn cội. Vô vị kỷ và do đó không có nghiệp quả, thấu hiểu tất cả và hoàn toàn làm chủ, Các Ngài ngự trong sự bình an không thể lay chuyển trong tâm thức của chính Các Ngài.

The secret of this poised serenity is complete and final self-emancipation from the delusion of Individuality and self-separateness. He who would pass from the ever-restless world of maya into the realm of reality must similarly and progressively divest himself or herself of the maya or self. This is an absolute essential because selfness bars the way and selflessness alone opens the way. Man can pass through be­cause he himself is a dweller in both the real and the mayavic, the arupa and the rupa, worlds.

Bí mật của sự thanh thản điềm tĩnh này là sự tự giải phóng hoàn toàn và cuối cùng khỏi sự ảo tưởng về Tính Cá Nhân và sự tự tách biệt. Y, người muốn đi từ thế giới ảo lực luôn không ngừng nghỉ vào cõi thực tại, cũng phải tương tự và dần dần tước bỏ bản thân khỏi ảo lực hoặc bản ngã. Đây là một điều tuyệt đối cần thiết vì bản ngã cản đường và chỉ có sự vô ngã mới mở đường. Con người có thể đi qua vì bản thân y là một cư dân ở cả thế giới thực và ảo lực, arupa và rupa.

A veil separates them and it is almost impenetrable by a mind powerfully penetrated by the delusion of self and solely motivated by self-gain and’ self-desire. Gradually, the aspirant must, with strong will, persistent aspiration and endeavour, impersonal love and com­passion for all and wise procedure, approach and seek a passage into the Masters’ world, the Masters’ holy Presence and into participation in Their varied activities on behalf of all who are matter-bound.

Một bức màn ngăn cách chúng và nó gần như không thể xuyên thủng bởi một thể trí bị sự ảo tưởng về bản ngã xâm nhập mạnh mẽ và chỉ được thúc đẩy bởi lợi ích bản thân và ham muốn bản thân. Dần dần, người chí nguyện phải, với ý chí mạnh mẽ, khát vọng và nỗ lực bền bỉ, tình yêu vô tư và lòng trắc ẩn đối với tất cả và thủ tục khôn ngoan, tiếp cận và tìm kiếm một lối đi vào thế giới của Các Chân sư, Sự Hiện Diện thiêng liêng của Các Chân sư và tham gia vào các hoạt động đa dạng của Các Ngài thay mặt cho tất cả những ai bị ràng buộc bởi vật chất.

Their secret knowledge, the Brahma-Vidya will then be gradually attained. As constant dripping of water will wear away a stone, so con­stant and aspiring thought of the Masters and the Masters’ world will assuredly wear away all barriers, all veils and all obstacles.

Kiến thức bí mật của Các Ngài, Brahma-Vidya sau đó sẽ dần dần đạt được. Như nước nhỏ giọt liên tục sẽ làm mòn một viên đá, thì tư tưởng hằng tâm và khát vọng về Các Chân sư và thế giới của Các Chân sư chắc chắn sẽ làm mòn tất cả các rào cản, tất cả các bức màn và tất cả các chướng ngại vật.

The spiritual mountaineer must truly aspire, truly and deeply wish for this attainment as if it were the only prize. He must also proceed with wisdom and selflessness in every fact, mundane, intellectual and spiritual.

Nhà leo núi tinh thần phải thực sự khao khát, thực sự và sâu sắc mong muốn thành tựu này như thể đó là giải thưởng duy nhất. Y cũng phải tiến hành với sự minh triết và vô ngã trong mọi sự thật, trần tục, trí tuệ và tinh thần.

Theosophy in New Zealand, Vol. 41, No. 2, 1980, p. 35

Thông Thiên Học ở New Zealand, Tập. 41, Số 2, 1980, tr. [2]35[/h2]

79

Armageddon and the Last Days—Armageddon và Những Ngày Cuối Cùng

For they are demonic spirits … who go abroad to the kings of the whole world, to assemble them for battle on the great day of God the Almighty … at the place which is called in Hebrew Armageddon . . .

Vì chúng là những linh hồn ma quỷ… vốn đi khắp các vua trên toàn thế giới, để tập hợp họ cho trận chiến vào ngày trọng đại của Thượng đế Toàn năng… tại nơi được gọi bằng tiếng Do Thái là Armageddon…

– Revelation 16:14, 16

– Khải Huyền 16:14, 16

More than 100 religious figures, many from the anti-nuclear left (among them the Rev. William Sloane Coffin and Pacifist Ro­man Catholic Bishop Thomas Gumbleton), held a Washington press conference recently to declare it ‘profoundly disturbing’ that high political leaders ‘might identify with extremists who believe that nuclear war is inevitable and imminent’. They also attacked the religi­ous right for supposedly believing ‘that reconciliation with American adversaries is ultimately futile’. The statement was orchestrated by the Christie Institute, a liberal research and action agency, which drew on some enterprising research by Journalists Ronnie Dugger and Joe Cuomo that cited eleven public and private utterances by Ronald Reagan on the possible imminence of Armageddon.

Hơn 100 nhân vật tôn giáo, nhiều người từ cánh tả chống hạt nhân (trong đó có Mục sư William Sloane Coffin và Giám mục Công giáo La Mã theo chủ nghĩa hòa bình Thomas Gumbleton), đã tổ chức một cuộc họp báo ở Washington gần đây để tuyên bố rằng “vô cùng đáng lo ngại” khi các nhà lãnh đạo chính trị cấp cao “có thể đồng nhất với những kẻ cực đoan vốn tin rằng chiến tranh hạt nhân là không thể tránh khỏi và sắp xảy ra”. Họ cũng tấn công phe cánh hữu tôn giáo vì cho rằng họ tin rằng “sự hòa giải với các đối thủ của Mỹ cuối cùng là vô ích”. Tuyên bố này được dàn dựng bởi Viện Christie, một cơ quan nghiên cứu và hành động tự do, dựa trên một số nghiên cứu táo bạo của các nhà báo Ronnie Dugger và Joe Cuomo, trích dẫn mười một phát ngôn công khai và riêng tư của Ronald Reagan về khả năng Armageddon sắp xảy ra.

Trying to put the Armageddon issue into perspective, one moder­ate evangelical, New Testament Professor A. Berkeley Mickelsen of Minnesota’s Bethel Theological Seminary, points out that the accounts of Christ’s return are rich in symbolism. Says he: ‘If you’re not careful, pretty soon it’s Buck Rogers. To take apocalyptic language and make it scientific language is wrong’. He is perturbed at the prophecy hunt­ers’ emphasis on global conflict (Time).

Cố gắng đưa vấn đề Armageddon vào đúng перспектива, một người theo евангелический ôn hòa, Giáo sư Tân Ước A. Berkeley Mickelsen của Chủng viện Thần học Bethel ở Minnesota, chỉ ra rằng các ghi chép về sự trở lại của Đức Christ rất giàu tính biểu tượng. Ông nói: “Nếu bạn không cẩn thận, chẳng bao lâu nữa nó sẽ thành Buck Rogers. Lấy ngôn ngữ khải huyền và biến nó thành ngôn ngữ khoa học là sai”. Ông lo lắng về việc những người săn lùng lời tiên tri nhấn mạnh vào xung đột toàn cầu (Time).

Geophysicist Dr Frank Press who, early in his distinguished ca­reer, served as a Unesco expert and now is President of the National Academy of Sciences of the United States had this to say recently in an address to the school of graduate studies of Case Western University, Cleveland:

Nhà địa vật lý Tiến sĩ Frank Press, người mà trong sự nghiệp lừng lẫy của mình, từng là chuyên gia của Unesco và hiện là Chủ tịch của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, gần đây đã phát biểu như sau trong một bài phát biểu trước trường cao học của Đại học Case Western, Cleveland:

‘Today’s young are likely to live out their lives with the specter of a nuclear holocaust. Many are fatalistic about the prospect, believing that the forces shaping the nuclear confrontation are simply beyond the influence of any person’.

“Thế hệ trẻ ngày nay có khả năng sống hết cuộc đời với bóng ma của một cuộc tàn sát hạt nhân. Nhiều người bi quan về viễn cảnh này, tin rằng các thế lực định hình cuộc đối đầu hạt nhân đơn giản là vượt quá tầm ảnh hưởng của bất kỳ người nào”.

This fatalism, even resignation, is being met, however, by a grow­ing determination to confront the insane threat which hangs over us. When the novelist William Faulkner accepted his Nobel Prize, he said that ‘our tragedy today is a general and universal physical fear, so long sustained by now, that we can even bear it. Yet, I decline to accept the end of man. I believe that man will not merely endure; he will prevail’.

Tuy nhiên, chủ nghĩa định mệnh này, thậm chí là sự cam chịu, đang được đáp ứng bằng một quyết tâm ngày càng tăng để đối đầu với mối đe dọa điên rồ đang treo lơ lửng trên đầu chúng ta. Khi tiểu thuyết gia William Faulkner nhận giải Nobel, ông nói rằng “bi kịch của chúng ta ngày nay là một nỗi sợ hãi thể xác chung và phổ quát, kéo dài đến mức chúng ta thậm chí có thể chịu đựng được nó. Tuy nhiên, tôi từ chối chấp nhận sự kết thúc của con người. Tôi tin rằng con người sẽ không chỉ chịu đựng; y sẽ chiến thắng”.

Faulkner said that in 1950. That same fear, that we will all be blown up, still haunts us. Yet, Faulkner’s optimism that we will prevail is with us, and I believe, becoming ever more powerful. And it is being energized by a common endeavour of scientists, artists, and religious leaders.

Faulkner đã nói điều đó vào năm 1950. Nỗi sợ hãi đó, rằng tất cả chúng ta sẽ bị thổi bay, vẫn ám ảnh chúng ta. Tuy nhiên, sự lạc quan của Faulkner rằng chúng ta sẽ chiến thắng vẫn ở bên chúng ta, và tôi tin rằng, ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Và nó đang được tiếp thêm sinh lực bởi một nỗ lực chung của các nhà khoa học, nghệ sĩ và các nhà lãnh đạo tinh thần.

We have had a succession of articles, books, meetings, studies in which scientists have banded with others to help articulate the danger to human survival posed by nuclear weapons. A recent example is the book by the physicist, Freeman Dyson, called Weapons and Hope. Dyson set out to understand, and to bridge, the two worlds of the war­rior and the victim. As Dyson writes, ‘the warrior’s world describes the outcome of war in the language of exchange ratios and cost effective­ness; the victim’s world describes it in the language of comedy and tragedy’.

Chúng ta đã có một loạt các bài báo, sách, cuộc họp, nghiên cứu trong đó các nhà khoa học đã liên kết với những người khác để giúp diễn đạt sự nguy hiểm đối với sự sống còn của con người do vũ khí hạt nhân gây ra. Một ví dụ gần đây là cuốn sách của nhà vật lý, Freeman Dyson, có tên là Vũ khí và Hy vọng. Dyson bắt đầu tìm hiểu và kết nối hai thế giới của chiến binh và nạn nhân. Như Dyson viết, “thế giới của chiến binh mô tả kết quả của chiến tranh bằng ngôn ngữ của tỷ lệ trao đổi và hiệu quả chi phí; thế giới của nạn nhân mô tả nó bằng ngôn ngữ của hài kịch và bi kịch”.

Dyson lives in both worlds. Yet, he writes that ‘I am possessed by an immodest hope that I may improve mankind’s chances of escaping the horrors of nuclear holocaust if I can help these two worlds to under­stand and listen to each other’.

Dyson sống trong cả hai thế giới. Tuy nhiên, ông viết rằng “Tôi bị ám ảnh bởi một hy vọng khiêm tốn rằng tôi có thể cải thiện cơ hội thoát khỏi những kinh hoàng của cuộc tàn sát hạt nhân của nhân loại nếu tôi có thể giúp hai thế giới này hiểu và lắng nghe lẫn nhau”.

It is an important book because it is a lucid expression of that mo­saic linkage of which Dean Mayne spoke, as applied to the overriding problem of nuclear war.

Đó là một cuốn sách quan trọng vì nó là một biểu hiện rõ ràng về mối liên kết khảm mà Dean Mayne đã nói, khi áp dụng cho vấn đề quan trọng nhất là chiến tranh hạt nhân.

What has Theosophy to offer on this matter? ‘The demoniac pos­session of individuals and Nations is not primarily an external obses­sion. Evil made manifest is a distortion and a debasement by man himself of the one Universal Power. There is no one else upon whom to place the blame, behind whom to shelter, to use as an excuse. And the sooner we squarely face this fact, cease all attempted evasion, recog­nize that the evil only exists within ourselves, the sooner will the age long Armageddon be won, and health, spiritual, moral and physical be restored to mankind. The sooner also will nuclear power be safe in his hands and permanent peace be established on earth…Humanly speaking, Armageddon is the heart, the mind and the will of man. The great battle is waged within him’.

Thông Thiên Học có gì để cung cấp về vấn đề này? “Sự ám ảnh ma quỷ của các cá nhân và các Quốc gia không chủ yếu là một nỗi ám ảnh bên ngoài. Cái ác được biểu hiện là một sự bóp méo và làm suy đồi bởi chính con người về Quyền năng Duy Nhất Phổ Quát. Không có ai khác để đổ lỗi, để ẩn náu phía sau, để sử dụng như một cái cớ. Và chúng ta càng sớm đối mặt trực diện với sự thật này, ngừng mọi nỗ lực trốn tránh, nhận ra rằng cái ác chỉ tồn tại bên trong chúng ta, thì Armageddon kéo dài hàng thế kỷ sẽ càng sớm giành chiến thắng, và sức khỏe, tinh thần, đạo đức và thể chất sẽ được phục hồi cho nhân loại. Quyền lực hạt nhân cũng sẽ càng sớm an toàn trong tay y và hòa bình vĩnh viễn sẽ được thiết lập trên trái đất… Về mặt con người, Armageddon là trái tim, thể trí và ý chí của con người. Trận chiến vĩ đại diễn ra bên trong y”.

Theosophy in New Zealand, Vol. 46, No. 2, 1985, p. 25

Theosophy in New Zealand, Tập. 46, Số 2, 1985, tr. 25

80

The Meaning of Evil—Ý Nghĩa của Cái Ác

This subject gives rise to certain deeply significant questions, per­haps 6 in number:

Chủ đề này làm nảy sinh một số câu hỏi vô cùng quan trọng, có lẽ là 6 câu hỏi:

1. Did the Divine Creator of the Universe deliberately make evil, produce a dark Devil, an isolated embodiment of infamy? If not and the idea is inconceivable—whence did evil come?

Liệu Đấng Sáng Tạo Thiêng Liêng của Vũ Trụ có cố ý tạo ra cái ác, tạo ra một Ác Quỷ đen tối, một hiện thân cô lập của sự ô nhục? Nếu không và ý tưởng này là không thể tưởng tượng được—thì cái ác từ đâu đến?

2. Is Nature herself potentially evil as well as potentially good?

Bản thân Tự Nhiên có khả năng xấu xa cũng như có khả năng tốt đẹp không?

3. Is there indeed a second Deity or Power behind and within all creation, a God of Evil, a Satan, a Cosmic Beelzebub?

Có thực sự có một Thượng Đế hoặc Quyền Năng thứ hai đằng sau và bên trong tất cả sự sáng tạo, một Thượng Đế của Cái Ác, một Satan, một Beelzebub Vũ Trụ?

4. Has there been, or is there, some doubt concerning the ultimate triumph of Spirit, truth, beauty, order?

Đã có, hoặc có, một số nghi ngờ về chiến thắng cuối cùng của Tinh Thần, chân lý, vẻ đẹp, trật tự?

5. Has there been, and is there still, a danger of the victory of chaos?

Đã có, và vẫn còn, một nguy cơ chiến thắng của sự hỗn loạn?

6. What is meant by the Powers of Darkness, and what by the Powers of Light?

Ý nghĩa của Quyền Lực Bóng Tối là gì, và ý nghĩa của Quyền Lực Ánh Sáng là gì?

Theosophy offers a clear, concise answer to the first five of these questions. It is an unhesitating negative.

Thông Thiên Học đưa ra một câu trả lời rõ ràng, ngắn gọn cho năm câu hỏi đầu tiên này. Đó là một sự phủ nhận không do dự.

1. No, Nature herself is not potentially evil as well as potentially good.

Không, bản thân Tự Nhiên không có khả năng xấu xa cũng như có khả năng tốt đẹp.

2. No, Nature herself is not potentially evil as well as potentially good.

Không, bản thân Tự Nhiên không có khả năng xấu xa cũng như có khả năng tốt đẹp.

3. No, there is not a second Deity or Power behind and within all creation, a God of Evil, a Satan, a Cosmic Beelzebub.

Không, không có một Thượng Đế hoặc Quyền Năng thứ hai đằng sau và bên trong tất cả sự sáng tạo, một Thượng Đế của Cái Ác, một Satan, một Beelzebub Vũ Trụ.

4. No, there has not been, nor is there, any doubt about the ulti­mate triumph of Spirit, truth, beauty, order.

Không, đã không có, cũng không có, bất kỳ nghi ngờ nào về chiến thắng cuối cùng của Tinh Thần, chân lý, vẻ đẹp, trật tự.

5. No, there has not been and is not now a danger of the victory of chaos.

Không, đã không có và hiện tại không có nguy cơ chiến thắng của sự hỗn loạn.

A Master has written: ‘Evil has no existence per se and is but the absence of good and exists only for him who is made its victim’.[10] The Devil has been described as the shadow of himself which a man sees when he turns his back to the light. Nature is neither good nor evil, and manifestation follows only unchanging and impersonal Law.

Một Chân sư đã viết: “Cái ác không tự nó tồn tại và chỉ là sự vắng mặt của cái tốt và chỉ tồn tại cho người bị biến thành nạn nhân của nó”. Ác Quỷ đã được mô tả là cái bóng của chính y mà một người nhìn thấy khi y quay lưng lại với ánh sáng. Tự Nhiên không tốt cũng không xấu, và sự biểu hiện chỉ tuân theo Định luật bất biến và vô tư.

The Satanic Hierarchies

Các Huyền Giai Satan

Lofty Intelligences, Dhyan-Chohans, the Archangels and angels of Kabbalism, direct both the involutionary and the evolutionary pro­cesses and ensure their ‘success’. Those assisting on the downward arc tend to be regarded by man as Satanic. Those active on the upward arc are regarded as redemptive. Scriptural allegories present them as an­tagonists and man looks upon them as devilish and divine respectively. In reality, they are mutually equipoised powers working for tempo­rarily opposite objectives.

Các Trí Tuệ Cao Cả, Dhyan-Chohans, các Tổng lãnh thiên thần và thiên thần của Kabbalism, chỉ đạo cả quá trình giáng hạ tiến hóa và thăng thượng tiến hóa và đảm bảo ‘thành công’ của chúng. Những người hỗ trợ trên vòng cung đi xuống có xu hướng được con người coi là Satan. Những người hoạt động trên vòng cung đi lên được coi là cứu chuộc. Các ngụ ngôn trong kinh thánh trình bày chúng như những kẻ đối kháng và con người coi chúng là quỷ quyệt và thiêng liêng tương ứng. Trong thực tế, chúng là những quyền lực cân bằng lẫn nhau, làm việc vì các mục tiêu tạm thời đối lập.

The Irish poet, James Stephens, intuited and expressed this pro­foundly occult teaching in his poem,

Nhà thơ người Ireland, James Stephens, đã trực giác và bày tỏ giáo lý huyền bí sâu sắc này trong bài thơ của mình,

‘The Fullness of Time’:

‘Sự Viên Mãn của Thời Gian’:

On a rusty iron throne,

Trên một ngai sắt gỉ sét,

Past the furthest star of space,

Vượt qua ngôi sao xa nhất của không gian,

I saw Satan sit alone,

Tôi thấy Satan ngồi một mình,

Old and haggard was his face;

Khuôn mặt y già nua và hốc hác;

For his work was done, and he

Vì công việc của y đã hoàn thành, và y

Rested in eternity.

Nghỉ ngơi trong cõi vĩnh hằng.

And to him from out the sun

Và đến với y từ mặt trời

Came his father and his friend,

Cha và bạn của y,

Saying,—Now the work is done

Nói rằng,—Bây giờ công việc đã hoàn thành

Enmity is at an end –

Sự thù hận đã kết thúc –

And He guided Satan to

Và Ngài đã dẫn Satan đến

Paradises that He knew.

Những thiên đường mà Ngài biết.

Gabriel, without a frown;

Gabriel, không cau mày;

Uriel, without a spear;

Uriel, không có ngọn giáo;

Raphael, came singing down,

Raphael, hát vang xuống,

Welcoming their ancient peer;

Chào đón người ngang hàng cổ xưa của họ;

And they seated him beside,

Và họ đã đặt y ngồi bên cạnh,

One who had been crucified.

Một người đã bị đóng đinh.

Theosophy in New Zealand, Vol. 30, No. 4, 1969, p. 81

Theosophy in New Zealand, Tập. 30, Số 4, 1969, tr. 81



  1. The Apocrapha, ‘The Wisdom of Solomon’, 11.23.




  2. The Song Celestial, Sir Edwin Arnold.




  3. Ecclesiastes, 12:6-7.




  4. q.v. A Study in Consciousness, A. Besant.




  5. The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, 3rd ed., Letter 23, p. 167.




  6. q.v. Invisible Helpers, C. W. Leadbeater.




  7. q.v. The Devachanic Plane, C. W. Leadbeater.




  8. The Key to Theosophy, H. P. Blavatsky, an Abridgement, ed. by Joy Mills,



    A Quest Book, p. 98.




  9. The Collected Dialogues of Plato, Princeton University Press, 1969, p. 275.




  10. The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, Letter X.


Leave a Comment

Scroll to Top