PHẦN 1—ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT

First Section:The After-death Life
PHẦN 1: ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT

THE INNER LIFE II

THE THEOSOPHIST AFTER DEATH—
NGƯỜI THÔNG THIÊN HỌC SAU KHI CHẾT

WHEN a member of the Theosophical Society finds himself upon the astral plane after having permanently laid aside his physical body, it will be well for him to begin by taking stock, as it were—by seeing what is his position, what is the life before him, and how he can make the best use of it. He will do wisely to consult on these matters some friend who has had wider experience than himself, and in practice this is what dead members almost always do. Remember that when the member enters upon the astral plane after death he is not making his first appearance there. Usually he has already done much work there during the sleep of the physical body, and is therefore on familiar ground. As a general rule his first instinct is to make straight for our beloved President, which is probably quite the wisest thing for him to do, as there is no one better qualified to give him sound advice. So many possibilities open out in astral life that one cannot lay down any general rule, though a man cannot go far wrong who tries to make himself useful to those around him. There are plentiful opportunities for learning, as well as for work, and the new-comer will have to decide how he can best apportion his time between them.

KHI một thành viên của Hội Thông Thiên Học thấy mình trên cõi cảm dục sau khi đã vĩnh viễn bỏ lại thể xác, sẽ tốt cho y nếu bắt đầu bằng việc đánh giá tình hình—bằng cách xem xét vị trí của mình, cuộc sống trước mắt là gì, và cách nào y có thể tận dụng tốt nhất điều đó. Y sẽ làm điều khôn ngoan khi tham khảo ý kiến của một người bạn nào đó có kinh nghiệm rộng hơn mình, và thực tế là các thành viên đã khuất hầu như luôn làm như vậy. Hãy nhớ rằng khi thành viên bước vào cõi cảm dục sau khi chết, đó không phải là lần đầu tiên y xuất hiện ở đó. Thường thì y đã làm rất nhiều việc tại đó trong khi thể xác ngủ, do đó y đã quen thuộc với nơi này. Theo quy luật chung, bản năng đầu tiên của y là đi thẳng đến Bà Hội Trưởng thân yêu của chúng ta, điều mà có lẽ là điều khôn ngoan nhất y có thể làm, vì không ai đủ khả năng hơn để đưa ra những lời khuyên đúng đắn cho y. Có quá nhiều khả năng mở ra trong cuộc sống cảm dục mà không thể đặt ra bất kỳ quy tắc chung nào, dù một người không thể đi lạc hướng nhiều nếu y cố gắng trở nên hữu ích cho những người xung quanh. Có rất nhiều cơ hội để học hỏi, cũng như để làm việc, và người mới đến sẽ phải quyết định cách phân chia thời gian của mình giữa hai điều đó một cách tốt nhất.

The astral world will not be altered for the convenience of members of the Theosophical Society, any more than the physical world is, and they, like every one else, will have to encounter what happens to be there. If a drunken man is walking along a certain road, those who happen to pass along that road will meet him, whether they are members or not, and the astral plane does not, in this respect, differ from the physical. The members, being instructed in regard to the rules governing life on astral plane, ought to know better than the uninstructed how to deal with such unpleasant beings as happen to come in their way, but they are just as likely as any one else to meet them. They have, however, probably met such beings many times while functioning upon the astral plane during life, and there is no more reason to be afraid of them than before; indeed, meeting them then upon their own level, it will be far easier to come to an understanding with them and to give them such help as they are able to receive.

Cõi cảm dục sẽ không thay đổi để phù hợp với các thành viên của Hội Thông Thiên Học, giống như cõi hồng trần cũng không thay đổi, và họ, giống như bất kỳ ai khác, sẽ phải đối mặt với những gì có ở đó. Nếu một người say rượu đang đi trên một con đường nhất định, những người tình cờ đi qua con đường đó sẽ gặp y, dù họ có là thành viên hay không, và cõi cảm dục cũng không khác gì cõi hồng trần ở điểm này. Các thành viên, vì đã được hướng dẫn về các quy luật chi phối cuộc sống trên cõi cảm dục, nên biết cách xử lý tốt hơn những thực thể khó chịu mà họ có thể gặp trên đường, nhưng họ cũng có khả năng gặp phải chúng như bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, họ có lẽ đã gặp những thực thể như vậy nhiều lần khi hoạt động trên cõi cảm dục trong suốt cuộc sống, và không có lý do gì để sợ chúng hơn trước đây; thật vậy, khi gặp chúng trên cùng một cấp độ, sẽ dễ dàng hơn để đạt được sự hiểu biết với chúng và cung cấp cho chúng sự giúp đỡ mà chúng có thể nhận được.

There is practically no difference between the condition of the ordinary person and the psychic after death, except that the psychic, being somewhat more familiar with astral matters, would feel more at home in his new environment. To be psychic means to be able to bring through into the physical consciousness something of the wider life; it is therefore in the condition of the physical vehicle that there is an inequality between the psychic and the ordinary person, but when the physical is dropped that inequality no longer exists.

Về thực tế, không có sự khác biệt nào giữa tình trạng của người bình thường và người có khả năng thông linh sau khi chết, ngoại trừ việc người thông linh, vì đã quen thuộc hơn với các vấn đề cảm dục, sẽ cảm thấy thoải mái hơn trong môi trường mới của mình. Để có khả năng thông linh có nghĩa là có thể đưa vào tâm thức hồng trần một phần của cuộc sống rộng lớn hơn; do đó, sự bất bình đẳng giữa người có khả năng thông linh và người bình thường nằm ở trạng thái của phương tiện hồng trần, nhưng khi phương tiện hồng trần bị bỏ lại, sự bất bình đẳng đó không còn tồn tại nữa.

THE RELATION OF THE DEAD TO EARTH—
MỐI LIÊN HỆ CỦA NGƯỜI CHẾT VỚI TRÁI ĐẤT

A dead man is often aware of the feelings of the family that he has left. If you try to think exactly what it is that can be manifested through the astral body, you may easily see how much he is likely to know. He does not necessarily follow in detail all the events of the physical life; he does not necessarily know what his friends are eating, or in what occupations they are engaged. But he knows whether they are glad or sorry, and he is at once aware of such feelings as love or hate, jealousy or envy.

Một người đã khuất thường nhận biết được cảm xúc của gia đình mà y đã rời bỏ. Nếu bạn cố gắng nghĩ kỹ về những gì có thể được thể hiện qua thể cảm dục, bạn sẽ dễ dàng thấy được y có khả năng biết bao nhiêu. Y không nhất thiết phải theo dõi chi tiết mọi sự kiện trong đời sống hồng trần; y không nhất thiết phải biết bạn bè của mình đang ăn gì, hay họ đang làm gì. Nhưng y biết liệu họ có vui hay buồn, và ngay lập tức nhận thức được những cảm xúc như tình yêu hay hận thù, ghen tuông hay đố kỵ.

When a drunkard hovers about a gin-shop it is only by partial materialisation (that is, by drawing round himself a veil of etheric matter) that he can draw in the odour of the alcohol. He does not smell it in at all the same sense as we do; and that is why he is always anxious to force others into the condition of drunkenness, so that he may be able partially to enter their physical bodies and obsess them, so that through those bodies he can once more directly experience the taste and the other sensations which he so ardently desires.

Khi một kẻ say rượu lảng vảng quanh quán rượu, chỉ bằng việc hiện hình một phần (nghĩa là bao quanh mình một màn vật chất dĩ thái), y mới có thể hít được mùi rượu. Y không hít mùi rượu theo cách chúng ta làm; và đó là lý do tại sao y luôn muốn ép buộc người khác vào trạng thái say rượu, để y có thể phần nào nhập vào thể xác của họ và chiếm hữu họ, từ đó y có thể một lần nữa trực tiếp trải nghiệm vị giác và các cảm giác khác mà y khao khát.

In the astral body there are exact counterparts of the eyes and the nose and the mouth, but we must not therefore think that the astral man sees with those eyes, hears with those ears, or can smell or taste through the nose or mouth. All the matter of the astral body is constantly in rapid motion from one part of it to another, so that it is quite impossible for any astral particles to be specialised in the same way as certain nerve-ends are specialised in the physical body. The senses of the astral body act not through special organs, but through every particle of the body, so that with astral sight a man can see equally well with any part of his body, and can see all around him simultaneously, instead of only in front of him. He could grasp at the astral counterpart of the hand of a living man, but as the two hands would pass through one another without any sense of contact, there would be no object in his doing so. It is, however, perfectly possible for him to materialise a hand which, though invisible, can be felt just as the ordinary physical hand can be, as may often be observed at séances.

Trong thể cảm dục có các đối phần chính xác của mắt, mũi và miệng, nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng người cảm dục nhìn bằng mắt đó, nghe bằng tai đó, hay có thể ngửi hay nếm qua mũi hoặc miệng đó. Toàn bộ vật chất của thể cảm dục luôn trong chuyển động nhanh chóng từ phần này sang phần khác, nên hoàn toàn không thể có các phần tử cảm dục được chuyên hóa giống như các đầu dây thần kinh được chuyên hóa trong thể xác. Các giác quan của thể cảm dục không hoạt động qua các cơ quan đặc biệt, mà thông qua mọi phần tử của cơ thể, vì vậy với thị giác cảm dục, một người có thể nhìn rõ bằng bất kỳ phần nào của cơ thể và có thể nhìn xung quanh cùng lúc, thay vì chỉ nhìn phía trước như thường lệ. Y có thể nắm lấy đối phần cảm dục của tay một người sống, nhưng vì hai bàn tay sẽ xuyên qua nhau mà không có cảm giác tiếp xúc, nên chẳng có lý do gì để làm vậy. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể cho y làm hiện hình một bàn tay mà, dù vô hình, vẫn có thể cảm nhận được như bàn tay hồng trần thông thường, như thường thấy trong các buổi cầu cơ.

There are three subdivisions of the astral plane from which it may be possible (though not desirable) for disembodied men to see and follow events taking place upon the physical plane. On the lowest sub-plane the man is usually occupied in other ways, and concerns himself little with what takes place in the physical world, except, as is explained in our literature, when he haunts vile resorts; but, in the next subdivision, he has very close touch with the physical plane, and may quite probably be conscious of a good many things in connection with it, though what he sees is never the physical matter itself, but always the astral counterpart of it. In rapidly diminishing degree this consciousness is also possible as he ascends through the next two sub-planes; but beyond that, it would be only by the special effort to communicate through a medium that contact with the physical plane could be gained, and from the highest sub-plane even that would be extremely difficult.

Có ba phân khu của cõi cảm dục từ đó người đã khuất có thể (mặc dù không được khuyến khích) nhìn thấy và theo dõi các sự kiện diễn ra trên cõi hồng trần. Ở cõi phụ thấp nhất, người đó thường bận rộn với những việc khác và không mấy quan tâm đến những gì diễn ra trong thế giới hồng trần, ngoại trừ, như đã được giải thích trong các tài liệu của chúng tôi, khi y ám những nơi hạ đẳng; nhưng ở phân khu tiếp theo, y có liên hệ rất gần với cõi hồng trần, và có thể ý thức về khá nhiều điều liên quan đến nó, dù những gì y thấy không bao giờ là vật chất hồng trần thật, mà luôn là đối phần cảm dục của nó. Mức độ ý thức này cũng giảm dần khi y thăng lên qua hai cõi phụ tiếp theo; nhưng ngoài cõi đó, chỉ bằng nỗ lực đặc biệt để giao tiếp qua một đồng cốt, y mới có thể liên lạc với cõi hồng trần, và từ cõi phụ cao nhất thì ngay cả điều đó cũng vô cùng khó khăn.

The extent of a man’ s power to see and follow physical events from the astral plane is determined by his character and disposition, as well as by the stage of development to which he has attained. Most of those whom we ordinarily call good people, living out their lives to their natural end, sweep through all these lower stages before awakening to astral consciousness, and they are therefore unlikely to be conscious of anything physical at all. Some few, however, even of these are drawn back into touch with this world by great anxiety about some one left behind.

Mức độ mà một người có thể nhìn thấy và theo dõi các sự kiện hồng trần từ cõi cảm dục phụ thuộc vào tính cách và thiên hướng của y, cũng như giai đoạn phát triển mà y đã đạt được. Hầu hết những người mà chúng ta thường gọi là người tốt, sống cuộc đời của họ đến hết tuổi thọ tự nhiên, thường đi qua tất cả những giai đoạn thấp hơn này trước khi thức tỉnh đến tâm thức cảm dục, vì vậy họ khó có thể ý thức được bất cứ điều gì hồng trần. Tuy nhiên, một số ít trong số đó vẫn bị kéo trở lại liên hệ với thế giới này bởi sự lo lắng lớn về ai đó mà họ để lại phía sau.

Less developed persons have in their composition of the matter of these lower sub-planes, and are therefore much more likely to be able to follow to some extent what goes on upon earth. Most of all is this the case if they are people whose whole turn of thought is essentially of this world—who have in them little or nothing of spiritual aspiration or of high intellect. This downward tendency grows with the using, and a man who is at first happily unconscious of what lies below him may be so unfortunate as to have his attention attracted to it, frequently by selfish manifestations of the grief of the survivors. He then exerts his will to keep himself from rising out of touch with this life to which he no longer belongs; and in such a case his power of seeing earthly things increases for a time, and then he suffers mentally when he presently finds such power slipping from him. Such suffering is entirely due to the irregularity introduced into the astral life by his own action, for it is absolutely unknown in the ordinary and orderly evolution after death.

Những người kém phát triển hơn có trong thành phần của họ vật chất từ các cõi phụ thấp hơn này, và do đó có nhiều khả năng hơn để theo dõi một phần nào đó những gì diễn ra trên trần gian. Đặc biệt là trường hợp này nếu họ là những người mà toàn bộ tư tưởng của họ chủ yếu thuộc về thế giới này—những người có ít hoặc không có khát vọng tinh thần hoặc trí tuệ cao. Xu hướng đi xuống này càng lớn khi họ tiếp tục sử dụng nó, và một người ban đầu vui vẻ không biết gì về những gì nằm bên dưới y có thể bị bất hạnh thu hút vào đó, thường là do những biểu hiện ích kỷ của nỗi đau buồn từ những người còn sống. Sau đó, y dùng ý chí của mình để ngăn bản thân khỏi việc thoát khỏi sự liên hệ với cuộc sống mà y không còn thuộc về; và trong trường hợp như vậy, khả năng nhìn thấy những điều trên trần gian của y sẽ tăng lên trong một thời gian, sau đó y sẽ chịu khổ khi nhận thấy sức mạnh đó dần dần trượt khỏi tay mình. Sự đau khổ như vậy hoàn toàn là do sự bất thường được đưa vào đời sống cảm dục bởi hành động của chính người đó, vì nó hoàn toàn không được biết đến trong sự tiến hóa bình thường và có trật tự sau khi chết.

If it is complained that in this way the departed does not see the physical world exactly as it really is, we must answer that neither the departed nor we on this plane ever see the physical world as it really is at all, for we (or most of us) see only the solid and liquid portions thereof, and are altogether blind to the far vaster gaseous and etheric parts; while the departed does not see the physical matter at all, nor even the whole astral counterpart of it, but only that portion of the latter which belongs to the particular sub-plane upon which he is at the time. The only man who gets anything like a comprehensive view of affairs is he who has developed etheric and astral sight while still alive in the physical body.

Nếu có người phàn nàn rằng theo cách này, người đã khuất không nhìn thấy thế giới hồng trần như thật sự nó vốn là, chúng ta phải trả lời rằng cả người đã khuất lẫn chúng ta trên cõi này không bao giờ nhìn thấy thế giới hồng trần như nó thực sự là; vì chúng ta (hoặc hầu hết chúng ta) chỉ nhìn thấy các phần rắn và lỏng của nó, và hoàn toàn mù quáng trước các phần khí và dĩ thái rộng lớn hơn nhiều; trong khi người đã khuất không nhìn thấy vật chất hồng trần chút nào, cũng không nhìn thấy toàn bộ đối phần cảm dục của nó, mà chỉ thấy phần của nó thuộc về cõi phụ cụ thể mà y đang ở. Người duy nhất có được một cái nhìn bao quát về sự việc là người đã phát triển khả năng nhìn dĩ thái và cảm dục khi còn sống trong thể xác.

Another difficulty in the way of the disembodied is that he by no means always recognises with any certainty the astral counterpart of the physical body even when he sees it. He usually requires considerable experience before he can clearly identify objects, and any attempt which he makes to deal with them is liable to be very vague and uncertain, as is often seen in haunted houses where stone-throwing, trampling, or vague movements of physical matter take place. This power of the identification of objects is thus largely a question of experience and knowledge, but it is little likely to be perfect unless he has known something of such matters before death.

Một khó khăn khác đối với người đã khuất là y không phải lúc nào cũng nhận ra với sự chắc chắn nào đó đối phần cảm dục của thể xác ngay cả khi y nhìn thấy nó. Y thường cần một thời gian trải nghiệm trước khi có thể rõ ràng nhận diện các đối tượng, và bất kỳ nỗ lực nào của y để xử lý chúng đều có thể rất mơ hồ và không chắc chắn, như thường thấy trong các ngôi nhà bị ám nơi xảy ra ném đá, dẫm đạp, hoặc các chuyển động mơ hồ của vật chất hồng trần. Sức mạnh nhận diện các đối tượng do đó phần lớn là vấn đề của kinh nghiệm và kiến thức, nhưng rất ít khả năng sẽ hoàn hảo trừ khi y đã biết điều gì đó về các vấn đề này trước khi chết.

A correspondent writes to ask whether a dead man can enjoy the astral counterpart of a play at a theatre, and whether there will be room for him there if the building is already full of people.

Một người viết thư hỏi rằng liệu người đã khuất có thể thưởng thức đối phần cảm dục của một vở kịch ở nhà hát, và liệu sẽ có chỗ cho y nếu nhà hát đã đầy người.

Certainly a theatre full of people has its astral counterpart, which is visible to dead people. The play, however, is not likely to afford them any enjoyment, since they cannot see the costumes and the expression of the actors at all as we see them, and the emotions of these actors, being only simulated and not real, make no impression upon the astral plane. Astral bodies can and constantly do interpenetrate one another fully, without in the least injuring one another. If you will think for a moment you will see that this must be so. When you sit next to any person in a railway carriage or in a tram-car your astral body and his must necessarily interpenetrate to a very large extent. There is not the slightest difficulty in such interpenetration, since the astral particles are enormously farther apart in proportion to their size even than physical particles are. At the same time they seriously affect one another as far as their rates of vibration are concerned, so that to sit in close proximity to a person of impure, jealous or angry thought is exceedingly prejudicial. A dead friend can, therefore, quite easily enter a theatre which is full of people—more especially as the people are seated upon the ground or the platforms, while the astral entity is far more probably floating about in the air.

Chắc chắn nhà hát đầy người có đối phần cảm dục của nó, điều đó hiển nhiên đối với những người đã khuất. Tuy nhiên, vở kịch không có khả năng mang lại cho họ sự thích thú, vì họ không thể nhìn thấy trang phục và biểu cảm của các diễn viên như chúng ta, và cảm xúc của các diễn viên này, chỉ là giả vờ và không thật, không để lại ấn tượng trên cõi cảm dục. Các thể cảm dục có thể và thường xuyên xuyên lẫn nhau hoàn toàn mà không hề gây tổn hại cho nhau. Nếu bạn suy nghĩ trong giây lát, bạn sẽ thấy rằng điều này chắc chắn phải như vậy. Khi bạn ngồi cạnh bất kỳ ai trong toa tàu hỏa hoặc xe điện, thể cảm dục của bạn và của người kia nhất thiết phải xuyên qua nhau với mức độ rất lớn. Không có chút khó khăn nào trong việc xuyên lẫn nhau, vì các phần tử cảm dục cách xa nhau rất nhiều so với kích thước của chúng, thậm chí hơn cả các phần tử hồng trần. Đồng thời, chúng ảnh hưởng đáng kể lẫn nhau về mức độ rung động, đến nỗi việc ngồi gần người có tư tưởng ô uế, ghen tuông hoặc tức giận là vô cùng có hại. Do đó, một người bạn đã khuất có thể dễ dàng bước vào nhà hát đầy người—đặc biệt là khi những người đó ngồi trên mặt đất hoặc trên các bục, trong khi thực thể cảm dục có khả năng trôi nổi trong không trung.

The man who commits suicide runs away from school before the appointed lesson is learnt; he is guilty of the great presumption involved in taking into his own hands a decision which should be left to the working of the Great Law. The consequences of so great a rebellion against nature are always of a momentous character. They are certain to affect the next life, and quite probably more lives than one. The circumstances surrounding a suicide immediately after death are the same as they would be for the victim of an accident, since both of them arrive upon the astral plane with equal suddenness. But there is the enormous difference that the man who dies by accident, not expecting death, is thrown into a condition of unconsciousness and usually passes through the lowest sub-plane without knowing anything of its varied unpleasantness. The suicide, on the contrary, has acted deliberately, and is generally painfully aware of much that is horrible and repugnant to him. He cannot be saved from the sights and feelings which he has brought upon himself; but he may often be helped to understand them, and may be inspired with patience, perseverance and hope by the good offices of some kind friend.

Người tự tử bỏ trốn khỏi trường học trước khi bài học đã định được học; y phạm phải sự ngạo mạn lớn lao khi quyết định một điều mà lẽ ra nên để Định Luật Vĩ Đại vận hành. Hậu quả của việc nổi loạn nghiêm trọng như vậy chống lại tự nhiên luôn mang tính trọng đại. Chúng chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kiếp sau, và có khả năng là nhiều kiếp hơn thế. Hoàn cảnh bao quanh một người tự tử ngay sau cái chết giống với nạn nhân của một tai nạn, vì cả hai đều đột ngột đến cõi cảm dục. Nhưng có một sự khác biệt rất lớn là người chết do tai nạn, không mong đợi cái chết, sẽ rơi vào tình trạng bất tỉnh và thường vượt qua cõi phụ thấp nhất mà không biết gì về những điều không vui của nó. Ngược lại, người tự tử đã hành động có chủ đích và thường nhận thức đau đớn về nhiều thứ kinh khủng và ghê tởm đối với y. Y không thể thoát khỏi những cảnh tượng và cảm giác mà chính mình đã mang lại; nhưng y có thể được giúp đỡ để hiểu chúng, và có thể được truyền cảm hứng với sự kiên nhẫn, bền bỉ và hy vọng bởi những hành động tốt bụng của một người bạn nào đó.

While fully recognising that suicide is a mistake, and a most serious one, we are not called upon judge our brother who commits that mistake. There is a wide difference between different cases, and it is impossible for us to know the various factors which enter into each, although every one of them is duly taken into account in the working of the law of eternal justice.

Mặc dù hoàn toàn công nhận rằng tự tử là một sai lầm—và là một sai lầm rất nghiêm trọng— chúng ta không được phán xét người huynh đệ của mình khi y phạm phải sai lầm đó. Có sự khác biệt lớn giữa các trường hợp khác nhau, và không thể nào chúng ta biết được các yếu tố khác nhau tham gia vào mỗi trường hợp, mặc dù tất cả đều được tính đến trong sự vận hành của Định Luật Công Bằng Vĩnh Cửu.

In trying to estimate the conditions of a man’ s life on the astral plane after death, there are two prominent factors to be considered—the length of time which he stays upon any particular sub-plane and the amount of his consciousness upon it. The length of a man’ s stay upon any sub-plane depends, as has been said, upon the amount of matter belonging to that sub-plane he has built into himself during earth-life.

Khi cố gắng đánh giá các điều kiện của cuộc sống của một người trên cõi cảm dục sau khi chết, có hai yếu tố nổi bật cần được xem xét—thời gian mà y ở lại bất kỳ cõi phụ nào và mức độ ý thức của y trên cõi đó. Như đã nói, thời gian mà một người ở lại bất kỳ cõi phụ nào phụ thuộc vào lượng vật chất thuộc cõi phụ đó mà y đã tích hợp vào bản thân trong cuộc sống trần thế.

But the amount of consciousness that a person will have upon a given sub-plane does not invariably follow precisely the same law. Let us consider an extreme example of possible variation, in order that we may grasp its method. Suppose a man has brought over from his past incarnation tendencies requiring for their manifestation a large amount of the matter of the lowest sub-plane, and has in his present life been fortunate enough to learn in his earliest years the possibility and the necessity of controlling these tendencies. It is improbable that such a man’ s efforts at control would be uniformly and entirely successful; but if they were, the substitution of finer for grosser particles would progress steadily though slowly.

Nhưng mức độ ý thức mà một người có trên một cõi phụ nhất định không nhất thiết tuân theo cùng một quy luật. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ cực đoan về sự biến đổi có thể xảy ra, để chúng ta hiểu rõ phương pháp của nó. Giả sử một người đã mang theo từ kiếp trước những khuynh hướng đòi hỏi một lượng lớn vật chất của cõi phụ thấp nhất để thể hiện, và trong kiếp này, may mắn học được sớm về khả năng và sự cần thiết phải kiểm soát những khuynh hướng đó. Khó có khả năng nỗ lực kiểm soát của người đó sẽ luôn và hoàn toàn thành công; nhưng nếu chúng thành công, sự thay thế các hạt mịn hơn cho các hạt thô hơn sẽ tiến triển đều đặn dù chậm.

This process is at best a gradual one, and it might well happen that the man died before it was half completed. In that case there would undoubtedly be enough matter of the lowest sub-plane left in his astral body to ensure him no inconsiderable residence there; but it would be matter through which in this incarnation his consciousness had never been in the habit of functioning, and, as it could not suddenly acquire this habit, the result would be that the man would rest upon that sub-plane until his share of its matter was disintegrated, but would be all the while in a condition of unconsciousness—that is, he would practically sleep through the period of his sojourn there, and so would be entirely unaffected by its many disagreeables.

Quá trình này diễn ra một cách từ từ, và rất có thể người đó chết trước khi quá trình này hoàn tất một nửa. Trong trường hợp đó, chắc chắn sẽ còn lại đủ vật chất của cõi phụ thấp nhất trong thể cảm dục của y để đảm bảo một thời gian cư trú không nhỏ ở đó; nhưng đó sẽ là vật chất mà trong kiếp sống này, ý thức của y chưa bao giờ có thói quen hoạt động thông qua, và vì nó không thể đột nhiên đạt được thói quen này, kết quả sẽ là người đó sẽ ở lại cõi phụ đó cho đến khi phần của vật chất thuộc về y bị phân rã, nhưng trong suốt thời gian đó, y sẽ ở trong tình trạng vô thức—tức là, y sẽ ngủ qua giai đoạn đó, và do đó hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi những điều khó chịu của nó.

It will be seen that both these factors of post-mortem existence—the sub-plane to which the man is carried and the degree of his consciousness there—depend not in the least on the nature of his death, but upon the nature of his life, so that any accident, however sudden or terrible, can scarcely affect them. Nevertheless, there is reason behind the familiar old prayer of the Church: “From sudden death, good Lord, deliver us;” for though a sudden death does not necessarily affect the man’s position upon the astral plane in any way for the worse, at least it does nothing to improve it, whereas the slow wasting away of the aged or the ravages of any kind of long-continued disease are almost invariably accompanied by a considerable loosening and breaking up of the astral particles, so that when the man recovers consciousness upon the astral plane, he finds some at any rate of his chief work there already done for him.

Có thể thấy rằng cả hai yếu tố của sự tồn tại sau khi chết—cõi phụ mà người đó được đưa đến và mức độ ý thức của y ở đó—không hề phụ thuộc vào bản chất của cái chết, mà phụ thuộc vào bản chất của cuộc sống, do đó bất kỳ tai nạn nào, dù đột ngột hay khủng khiếp, hầu như không thể ảnh hưởng đến chúng. Tuy nhiên, vẫn có lý do đằng sau lời cầu nguyện cổ xưa quen thuộc của Giáo hội: “Từ cái chết đột ngột, lạy Chúa tốt lành, xin cứu rỗi chúng con;” vì mặc dù một cái chết đột ngột không nhất thiết ảnh hưởng đến vị trí của người đó trên cõi cảm dục theo bất kỳ cách nào xấu hơn, ít nhất nó cũng không cải thiện được gì, trong khi sự lụi tàn chậm chạp của người già hoặc sự tàn phá bởi bất kỳ loại bệnh kéo dài nào hầu như luôn đi kèm với sự nới lỏng và phân tán đáng kể các hạt cảm dục, do đó khi người đó tỉnh lại trên cõi cảm dục, họ thấy rằng ít nhất một phần công việc quan trọng của mình đã được thực hiện.

The great mental terror and disturbance which sometimes accompany accidental death are in themselves a very unfavourable preparation for the astral life; indeed, cases have been known in which such agitation and terror persisted after death, though that is happily rare. Still, the popular desire to have some time in which to prepare for death is not a mere superstition, but has a certain amount of reason at the back of it. Naturally, to anyone who is leading the Theosophical life it will make but little difference whether the transition from the physical plane to the astral comes slowly or quickly, since he is all the time doing his best to make as much progress as possible, and the object before him will remain the same in either case.

Nỗi sợ hãi tinh thần lớn và sự xáo trộn đôi khi đi kèm với cái chết do tai nạn là một sự chuẩn bị rất không thuận lợi cho cuộc sống cảm dục; thực tế, có những trường hợp được biết đến mà sự xáo trộn và sợ hãi đó tiếp tục sau cái chết, dù, may mắn thay, điều đó rất hiếm. Tuy nhiên, mong muốn phổ biến là có một khoảng thời gian để chuẩn bị cho cái chết không chỉ là mê tín, mà có một phần lý do đằng sau nó. Tự nhiên, với bất kỳ ai đang sống đời sống Thông Thiên Học, thì sẽ không có sự khác biệt lớn dù quá trình chuyển tiếp từ cõi hồng trần sang cõi cảm dục diễn ra nhanh hay chậm, vì họ luôn cố gắng tiến bộ nhiều nhất có thể, và mục tiêu trước mắt sẽ vẫn giữ nguyên trong cả hai trường hợp.

To sum up then: it seems clear that death by accident does not necessarily involve any lengthy residence on the lowest level of the astral plane, though it may in one sense be said slightly to prolong such residence, since it deprives the victim of the opportunity of burning out the particles belonging to that level during the sufferings of a lingering disease. In the case of young children it is exceedingly unlikely that in their short and comparatively blameless young lives they will have developed much affinity for the lowest subdivisions of astral life; indeed, as a matter of practical experience they are hardly ever to be found in connection with that sub-plane at all. In any case, whether they die by accident or disease, their life on the astral plane is a comparatively short one; the heaven-life, though much longer, is still in reasonable proportion to it, and their early reincarnation follows as soon as the forces which they have been able to set in motion during their short earth-lives work themselves out, precisely as we might expect from our observation of the action of the same great law in the case of adults.

Tóm lại, có vẻ rõ ràng rằng cái chết do tai nạn không nhất thiết liên quan đến việc cư trú lâu dài trên cõi thấp nhất của cõi cảm dục, mặc dù có thể nói rằng nó kéo dài sự cư trú đó một chút, vì nó tước đoạt cơ hội tiêu hủy các phần tử thuộc về cõi đó trong suốt sự đau khổ của một căn bệnh kéo dài. Trong trường hợp trẻ nhỏ, rất ít khả năng trong cuộc sống ngắn ngủi và tương đối trong sáng của chúng, chúng đã phát triển nhiều sự liên kết với các phân khu thấp nhất của cuộc sống cảm dục; thực tế, theo kinh nghiệm thực tế, chúng hầu như không bao giờ được tìm thấy có liên quan đến cõi phụ đó. Trong mọi trường hợp, dù chúng chết do tai nạn hay bệnh tật, cuộc sống của chúng trên cõi cảm dục là một cuộc sống tương đối ngắn ngủi; cuộc sống trên Thiên Đàng tuy dài hơn nhiều nhưng vẫn tỷ lệ hợp lý với nó, và sự tái sinh sớm của chúng sẽ diễn ra ngay sau khi các lực mà chúng đã khởi động trong cuộc sống ngắn ngủi của chúng tự tiêu tan, chính xác như chúng ta có thể dự đoán từ sự quan sát của chúng ta về sự vận hành của cùng một định luật vĩ đại trong trường hợp của người lớn.

Nothing that is likely to be done in ordinary life to his physical corpse need make any difference whatever to the man living on the astral plane. I am obliged to make these two reservations because, in the first case, outside of ordinary life there are certain horrible magical rites which would very seriously affect the condition of the man on the other plane, and in the second, although the state of the physical corpse need not make any difference to the real man, it nevertheless sometimes does, by reason of his ignorance or foolishness. Let me endeavour to explain.

Không có điều gì trong cuộc sống bình thường có thể làm ảnh hưởng đến xác thân hồng trần của một người đã khuất mà lại gây ra bất kỳ sự khác biệt nào cho người đang sống trên cõi cảm dục. Tuy nhiên, tôi buộc phải đưa ra hai lưu ý vì, trong trường hợp thứ nhất, ngoài đời sống bình thường, có những nghi thức ma thuật kinh khủng có thể ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình trạng của người ở cõi khác; và trong trường hợp thứ hai, mặc dù tình trạng của xác thân hồng trần không nhất thiết ảnh hưởng đến con người thật, nhưng đôi khi nó vẫn có, do sự thiếu hiểu biết hoặc dại dột của người đó. Để tôi cố gắng giải thích điều này.

The length of a man’ s astral life after he has put off his physical body depends mainly upon two factors—the nature of his past physical life, and his attitude of mind after what we call death. During his earth-life he is constantly influencing the building of matter into his astral body. He affects it directly by the passions, emotions and desires which he allows to hold sway over him; he affects it indirectly by the action upon it of his thoughts from above, and of all the details of his physical life (his continence or his debauchery, his cleanliness or his uncleanliness, his food and his drink) from below. If, by persistence in perversity along any of these lines, he is so stupid as to build for himself a coarse and gross astral vehicle, habituated to responding only to the lower vibrations of the plane, he will find himself after death bound to that plane during the long and slow process of that body’ s disintegration. On the other hand if, by decent and careful living, he gives himself a vehicle mainly composed of finer material, he will have very much less post-mortem trouble and discomfort, and his evolution will proceed much more rapidly and easily.

Thời gian mà một người sẽ sống trên cõi cảm dục sau khi bỏ xác thân chủ yếu phụ thuộc vào hai yếu tố—bản chất của cuộc sống hồng trần trước đây của y và thái độ tinh thần của y sau cái chết. Trong suốt cuộc đời trên trần thế, người đó liên tục ảnh hưởng đến việc tích hợp vật chất vào thể cảm dục của mình. Y ảnh hưởng đến nó trực tiếp qua các đam mê, cảm xúc và dục vọng mà y cho phép chi phối mình; y ảnh hưởng gián tiếp đến nó qua các hành động suy nghĩ từ trên cao của mình, và tất cả các chi tiết trong đời sống hồng trần của y (sự kiêng cữ hay sự trụy lạc của y, sự sạch sẽ hay không sạch sẽ của y, thức ăn và đồ uống của y) từ bên dưới. Nếu, bằng cách duy trì thói hư tật xấu trong bất kỳ phương diện nào này, y đủ ngu ngốc để tạo cho mình một cơ thể cảm dục thô kệch và cục mịch, quen phản ứng chỉ với các rung động thấp của cõi này, y sẽ thấy sau khi chết mình bị giam cầm trong cõi đó trong quá trình dài và chậm chạp của sự phân rã của thể này. Ngược lại, nếu bằng cách sống đúng mực và cẩn thận, y tự tạo cho mình một cơ thể chủ yếu được cấu thành từ vật chất mịn hơn, thì y sẽ ít gặp rắc rối và khó chịu sau khi chết, và sự tiến hóa của y sẽ diễn ra nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều.

This much is generally understood, but the second great factor—his attitude of mind after death—seems often to be forgotten. The desirable thing is for him to realise his position on this little arc of his evolution—to learn that he is at this stage withdrawing steadily inward towards the plane of the true ego, and that consequently it is his business to disengage his thought as far as may be from things physical, and fix his attention more and more upon those spiritual matters which will occupy him during his life in the heaven-world. By doing this he will greatly facilitate the natural astral disintegration, and will avoid the sadly common mistake of unnecessarily delaying himself upon the lower levels of what should be so temporary a residence.

Điều này thì thường được hiểu, nhưng yếu tố lớn thứ hai—thái độ tinh thần của y sau khi chết—dường như thường bị lãng quên. Điều đáng mong đợi là y nhận ra vị trí của mình trên đoạn ngắn của quá trình tiến hóa của y—học cách rằng ở giai đoạn này, y đang dần dần rút lui vào bên trong hướng về cõi chân ngã, và rằng do đó nhiệm vụ của y là buông bỏ tư tưởng về các sự vật hồng trần càng nhiều càng tốt, và tập trung sự chú ý ngày càng nhiều vào những vấn đề tinh thần sẽ chiếm lĩnh y trong cuộc sống trên cõi Thiên Đàng. Bằng cách làm điều này, y sẽ tạo điều kiện rất lớn cho sự phân rã tự nhiên của thể cảm dục, và sẽ tránh được sai lầm thường gặp là kéo dài không cần thiết thời gian cư trú trên các cõi thấp hơn của một nơi mà đáng lẽ chỉ là nơi cư trú tạm thời.

Many people, however, simply will not turn their thoughts upwards, but spend their time in struggling with all their might to keep in touch with the physical plane which they have left, thus causing great trouble to anyone who may be trying to help them. Earthly matters are the only ones in which they have ever had any living interest, and they cling to them with desperate tenacity even after death. Naturally, as time passes on, they find it increasingly difficult to keep hold of things down here, but instead of welcoming and encouraging this process of gradual refinement and spiritualisation they resist it vigorously by every means in their power. The mighty force of evolution is eventually too strong for them, and they are swept on in its beneficent current, yet they fight every step of the way, thereby not only causing themselves a vast amount of entirely unnecessary pain and sorrow, but also seriously delaying their upward progress.

Tuy nhiên, nhiều người lại không chịu hướng tư tưởng của mình lên cao, mà dành thời gian để cố gắng hết sức giữ liên lạc với cõi hồng trần mà họ đã rời bỏ, gây ra rất nhiều khó khăn cho bất kỳ ai đang cố gắng giúp đỡ họ. Các vấn đề trần tục là những vấn đề duy nhất mà họ từng có bất kỳ mối quan tâm sống động nào, và họ bám chặt vào chúng với sự tuyệt vọng, ngay cả sau khi chết. Tất nhiên, khi thời gian trôi qua, họ nhận thấy ngày càng khó giữ vững những thứ ở thế gian này, nhưng thay vì chào đón và khuyến khích quá trình tinh luyện và tâm linh hóa dần dần này, họ lại chống cự quyết liệt bằng mọi cách có thể. Lực lượng tiến hóa hùng mạnh cuối cùng vẫn quá mạnh đối với họ, và họ bị cuốn vào dòng chảy có lợi của nó, nhưng họ lại chống lại từng bước một, do đó không chỉ gây cho mình vô vàn nỗi đau và nỗi buồn hoàn toàn không cần thiết, mà còn trì hoãn nghiêm trọng sự tiến bộ lên cao của họ.

Now, in this ignorant and disastrous opposition to the cosmic will a man is much assisted by the possession of his physical corpse as a kind of fulcrum on this plane. He is naturally in close rapport with it, and if he is so misguided as to wish to do so, he can use it as an anchor to hold him down firmly to the mud until its decomposition is far advanced. Cremation saves the man from himself in this matter, for, when the physical body has been thus properly disposed of, his boats are literally burned behind him, and his power of holding back is happily greatly diminished.

Bây giờ, trong sự phản kháng ngu dốt và tai hại này đối với ý chí vũ trụ, một người được giúp đỡ rất nhiều bởi việc sở hữu xác thân hồng trần của mình như một điểm tựa trên cõi này. Tự nhiên y có mối liên hệ mật thiết với nó, và nếu y không may muốn làm như vậy, y có thể sử dụng nó như một mỏ neo để giữ mình bám chặt xuống lớp bùn cho đến khi sự phân rã của nó tiến xa. Việc hỏa táng sẽ cứu người đó khỏi chính mình trong trường hợp này, vì khi xác thân hồng trần đã được xử lý đúng cách như vậy, những chiếc thuyền của y đã thực sự bị đốt cháy phía sau, và khả năng giữ lại của y sẽ giảm đi đáng kể.

We see therefore that, while neither the burial nor the embalming of a corpse can in any way force the ego to whom it once belonged to prolong his stay upon the astral plane against his will, either of those causes is a distinct temptation to him to delay, and immensely facilitates his doing so if he should unfortunately wish it. No ego of any advancement would allow himself to be detained upon the astral plane, even by a proceeding so foolish as the embalming of his corpse. Whether his physical vehicle was burned or allowed to decay slowly in the usual loathsome manner, or indefinitely preserved as an Egyptian mummy, his astral body would pursue its own line of quick disintegration entirely unaffected.

Do đó, chúng ta thấy rằng, mặc dù việc chôn cất hay ướp xác không thể nào ép buộc chân ngã mà nó từng thuộc về phải kéo dài sự lưu lại của y trên cõi cảm dục nếu y không muốn, nhưng cả hai nguyên nhân này đều là một sự cám dỗ rõ rệt đối với y trì hoãn, và tạo điều kiện rất lớn cho việc đó nếu y không may muốn nó. Không một chân ngã nào đạt được tiến bộ nào lại cho phép mình bị giữ lại trên cõi cảm dục, ngay cả bởi một hành động ngu xuẩn như việc ướp xác của y. Dù thể xác của y bị thiêu hủy hay để phân hủy từ từ theo cách ghê tởm thông thường, hay được bảo quản vô thời hạn như một xác ướp Ai Cập, thì thể cảm dục của y vẫn sẽ tiếp tục phân rã nhanh chóng mà không hề bị ảnh hưởng.

Among the many advantages gained by cremation the principal are that it entirely prevents any attempt at partial and unnatural temporary reunion of the principles, or any endeavour to make use of the corpse for the purposes of the lower magic—to say nothing of the many dangers to the living which are avoided by its adoption.

Trong số nhiều lợi ích đạt được từ việc hỏa táng, lợi ích chính là nó hoàn toàn ngăn chặn bất kỳ nỗ lực nào nhằm tái hợp các nguyên lý tạm thời và phi tự nhiên, hoặc bất kỳ nỗ lực nào nhằm sử dụng xác thân cho mục đích ma thuật thấp kém—chưa kể đến những nguy hiểm đối với người sống mà việc hỏa táng giúp tránh khỏi.

CONDITIONS AFTER DEATH—
ĐIỀU KIỆN SAU CHẾT

Students often ask whether for the ordinary man a subconscious or an active existence is more desirable on the astral plane. This depends upon the nature of the active existence, and upon the stage of development of the ego concerned. The ordinary man dies with a certain amount of unexhausted desire still in his composition, and this force must work itself out before it is possible for him to sink into a subconscious condition. If the only activity possible for him is that of the lower desires, it is obviously better for him that nothing should be allowed to interfere with his sinking into comparative unconsciousness as soon as possible, since any new karma that he makes is little likely to be of an advantageous kind.

Các học viên thường hỏi liệu đối với người bình thường, một sự tồn tại tiềm thức hay một sự tồn tại chủ động trên cõi cảm dục có đáng mong muốn hơn không. Điều này phụ thuộc vào bản chất của sự tồn tại chủ động đó và vào giai đoạn phát triển của chân ngã liên quan. Người bình thường khi chết đi vẫn còn một số lượng mong muốn chưa cạn kiệt trong cấu tạo thành phần của mình, và lực này phải tự tiêu hao trước khi y có thể chìm vào trạng thái tiềm thức. Nếu hoạt động duy nhất mà y có thể thực hiện là những ham muốn thấp hơn, thì rõ ràng là tốt hơn cho y không để bất kỳ điều gì cản trở quá trình chìm vào trạng thái gần như vô thức càng sớm càng tốt, vì bất kỳ nghiệp mới nào mà y tạo ra sẽ ít có khả năng mang lại lợi ích.

If, on the other hand, he is sufficiently developed to be able to be of use to others on the astral plane, and especially if he has already been in the habit of working there during sleep, there is no reason why he should not usefully employ the time of his enforced sojourn there, though it would be inadvisable to set in motion new forces which would lengthen that sojourn. Those who are working under the direction of the pupils of the Masters of Wisdom will naturally avail themselves of their counsel, since they have had much experience along these lines, and can in turn consult others of still wider knowledge.

Ngược lại, nếu y đủ phát triển để có thể giúp đỡ người khác trên cõi cảm dục, và đặc biệt nếu y đã có thói quen làm việc ở đó trong giấc ngủ, thì không có lý do gì y không thể sử dụng thời gian lưu trú bắt buộc đó một cách hữu ích, mặc dù sẽ không nên kích hoạt những lực mới làm kéo dài sự lưu trú đó. Những ai đang làm việc dưới sự chỉ dẫn của các đệ tử của Chân Sư Minh Triết sẽ tự nhiên tìm kiếm lời khuyên của các Ngài, vì các Ngài có nhiều kinh nghiệm trong các vấn đề này và có thể tham khảo ý kiến với những người khác có kiến thức sâu rộng hơn.

The astral life may be directed by the will, just as the physical life may be, always within the limits prescribed in each case by karma—that is to say, by our own previous action. The ordinary man has little will-power or initiative, and is very much the creature of the surroundings which he has made for himself, on the astral plane as on the physical; but a determined man can always make the best of his conditions and live his own life in spite of them. What has, after all, been caused by his will can gradually be changed by his will, if time permits.

Đời sống trên cõi cảm dục có thể được định hướng bởi ý chí, cũng giống như đời sống hồng trần, luôn trong giới hạn được quy định bởi nghiệp quả—tức là bởi hành động trước đó của chúng ta. Người bình thường có rất ít ý chí hoặc sáng kiến, và phần lớn bị ảnh hưởng bởi môi trường mà y đã tự tạo ra cho mình, trên cõi cảm dục cũng như trên cõi trần; nhưng một người quyết tâm luôn có thể tận dụng tốt nhất các điều kiện của mình và sống theo cách riêng của mình bất chấp chúng. Những gì đã được tạo ra bởi ý chí của y có thể dần dần thay đổi bởi ý chí của y, nếu thời gian cho phép.

A man does not rid himself of evil tendencies in the astral world any more than he would in this life, unless he definitely works to that end. Many of the desires which are so strong and persistent in him are such as need a physical body for their satisfaction, and since he has that no longer, they often cause him acute and prolonged suffering; but in process of time they wear themselves out, they become as it were atrophied, and die down because of this impossibility of fulfilment. In the same way the matter of the astral body slowly wears away and disintegrates as the consciousness is gradually withdrawn from it by the half-unconscious effort of the ego, and thus the man by degrees gets rid of what ever holds him back from the heaven-world.

Một người không thể từ bỏ những khuynh hướng xấu trên cõi cảm dục hơn so với trong cuộc sống này, trừ khi y chủ động làm việc để đạt được điều đó. Nhiều ham muốn mạnh mẽ và dai dẳng trong y là những ham muốn cần đến một thể xác để thỏa mãn, và vì y không còn thể xác nữa, chúng thường gây ra cho y sự đau khổ kéo dài; nhưng theo thời gian chúng sẽ tự tiêu hao, trở nên thoái hóa và tắt dần do không thể được thỏa mãn. Tương tự, chất liệu của thể cảm dục sẽ từ từ tiêu hao và phân rã khi tâm thức được rút khỏi nó một cách dần dần bởi nỗ lực nửa vô thức của chân ngã, và nhờ đó, người ta từ từ loại bỏ những gì giữ chân mình khỏi thế giới thiên đường.

But the worst of his trouble is that the man is generally not alive to the necessity of getting rid of the evil which detains him. It is obvious that if he realises the facts of the case and gives his mind to the work, he can greatly expedite both the processes referred to the above. If he knows that it is his business to kill out earthly desires, and to withdraw into himself as quickly as may be, he will earnestly set himself to do these things; instead of which he usually in his ignorance broods over the desires and so lengthens their life, and clings desperately to the grossest particles of astral matter as long as he possibly can, because the sensation connected with them seems nearest to that physical life for which he is so passionately longing. Thus we see why one of the most important parts of the work of the invisible helpers is to explain facts to the dead, and also why even a merely intellectual knowledge of Theosophical truths is of such inestimable value to a man.

Nhưng vấn đề lớn nhất của y là y thường không nhận thức được sự cần thiết phải từ bỏ những điều xấu ác đang cầm giữ mình. Rõ ràng là nếu y hiểu được sự việc và dồn tâm trí vào công việc, y có thể đẩy nhanh quá trình được nhắc đến ở trên. Nếu y biết rằng nhiệm vụ của mình là tiêu diệt những ham muốn thế tục và rút vào bản thân mình càng nhanh càng tốt, y sẽ nỗ lực làm những việc đó; thay vào đó, do thiếu hiểu biết, y thường suy tư về những ham muốn đó và kéo dài tuổi thọ của chúng, đồng thời bám chặt vào các hạt vật chất cảm dục thô thiển nhất càng lâu càng tốt, bởi vì cảm giác liên quan đến chúng dường như gần nhất với đời sống hồng trần mà y khao khát. Như vậy, chúng ta thấy tại sao một trong những phần quan trọng nhất của công việc của những người trợ giúp vô hình là giải thích sự thật cho những người đã qua đời, và tại sao ngay cả một kiến thức trí tuệ về các chân lý Thông Thiên Học cũng có giá trị vô cùng to lớn đối với con người.

The dead man when he first arrives upon the astral plane by no means always realises that he is dead, and even when that fact comes home to him it does not follow that he at once understands how the astral world differs from the physical. In the physical world man is the slave of a number of imperious necessities; he must have food and clothing and shelter; in order to procure these he must have money; and in most cases in order to obtain money he must do some kind of work. All this is so much a matter of course to us down here that the man who is set free from this slavery finds it difficult for a long time to believe that he is really free, and in many cases he continues unnecessarily to impose upon himself fetters which he has in reality cast aside.

Khi người chết mới bước vào cõi cảm dục, y không phải lúc nào cũng nhận ra rằng mình đã chết, và ngay cả khi y nhận ra điều đó, không có nghĩa là y ngay lập tức hiểu được sự khác biệt giữa cõi cảm dục và cõi trần. Trong cõi trần, con người là nô lệ của một số nhu cầu khẩn thiết; y phải có thức ăn, quần áo và chỗ ở; để có được những thứ đó y phải có tiền; và trong hầu hết các trường hợp, để có tiền, y phải làm một số công việc nào đó. Tất cả điều này đối với chúng ta dưới đây là điều hiển nhiên đến mức người được giải thoát khỏi sự nô lệ này sẽ khó tin rằng mình thực sự được tự do, và trong nhiều trường hợp, y tiếp tục tự áp đặt cho mình những xiềng xích mà thực ra y đã vứt bỏ.

So we sometimes see the newly dead trying to eat—sitting down to or preparing for themselves wholly imaginary meals or building for themselves houses. I have actually seen a man in the summer-land building a house for himself stone by stone, and even though he made each of these stones for himself by an effort of his thought, he did not yet grasp the fact that he might just as well have made the whole house for himself, with the same amount of trouble, by a single effort of the same kind. He was gradually led to see that, by the discovery that the stones had no weight, which showed him that his present conditions differed from those to which he had been used on earth, and so led him to investigate further.

Vì vậy, đôi khi chúng ta thấy những người mới qua đời cố gắng ăn uống—ngồi xuống hoặc chuẩn bị cho mình những bữa ăn hoàn toàn tưởng tượng, hoặc xây dựng nhà cửa cho mình. Tôi đã thực sự thấy một người đàn ông ở cõi trung giới đang xây dựng một ngôi nhà cho mình từng viên đá một, và mặc dù y đã tự tạo ra từng viên đá bằng một nỗ lực của tư tưởng, y vẫn chưa hiểu rằng y có thể tạo ra toàn bộ ngôi nhà cho mình với cùng một lượng công sức, chỉ bằng một nỗ lực duy nhất của cùng một loại tư tưởng. Y dần dần được dẫn dắt để thấy điều đó, nhờ vào phát hiện rằng những viên đá không có trọng lượng, điều này cho thấy rằng các điều kiện hiện tại của y khác với những gì y đã quen thuộc trên trần gian, và từ đó y bắt đầu điều tra thêm.

In the summer-land men surround themselves with landscapes of their own construction, though some avoid that trouble by accepting ready-made the landscapes which have already been constructed by others. Men living on the sixth sub-plane, upon the surface of the earth, find themselves surrounded by the astral counterparts of physically existing mountains, trees and lakes, and consequently are not under the necessity of manufacturing scenery for themselves; but men upon the higher subplanes, who float at some distance above the surface of the earth, usually provide themselves with whatever scenery they desire, by the method that I have described.

Ở vùng đất trường hạ, con người tự tạo ra cho mình những phong cảnh do chính họ tạo dựng, mặc dù một số người tránh phiền phức đó bằng cách chấp nhận những phong cảnh có sẵn đã được tạo ra bởi người khác. Những người sống trên cõi phụ thứ sáu, trên bề mặt trái đất, thấy mình được bao quanh bởi các phiên bản tương đồng về mặt cảm dục của những ngọn núi, cây cối và hồ nước đang tồn tại về mặt hồng trần, và do đó không phải tự mình tạo ra cảnh quan; nhưng những người sống trên các cõi phụ cao hơn, trôi nổi ở một khoảng cách nào đó trên bề mặt trái đất, thường tự tạo ra cho mình bất kỳ cảnh quan nào mà họ mong muốn, bằng phương pháp tôi vừa mô tả.

The commonest example of this is that they construct for themselves the weird scenes described in their various scriptures, and therefore in those regions we constantly find ourselves in presence of clumsy and unimaginative attempts to reproduce such ideas as jewels growing upon trees, and seas of glass mingled with fire, and creatures which are full of eyes within, and deities with a hundred heads and arms to correspond. In this way, as a consequence of ignorance and prejudice during their physical life, many men do a great deal of valueless work when they might be employing their time in the helping of their fellows.

Ví dụ phổ biến nhất về điều này là họ tự tạo ra những cảnh tượng kỳ lạ được mô tả trong các kinh điển của họ, và do đó trong những khu vực đó chúng ta thường xuyên bắt gặp những nỗ lực vụng về và thiếu trí tưởng tượng để tái tạo những ý tưởng như trang sức mọc trên cây, biển thủy tinh pha lẫn với lửa, và những sinh vật đầy mắt bên trong, và các thần linh có trăm đầu và tay tương ứng. Theo cách này, do sự thiếu hiểu biết và định kiến trong cuộc sống hồng trần của họ, nhiều người đã làm một lượng công việc vô giá trị trong khi họ có thể sử dụng thời gian của mình để giúp đỡ đồng loại.

To the man who has studied Theosophy and therefore understands these higher planes, one of their pleasantest characteristics is the utter restfulness and freedom which comes from the absence of all these imperious necessities which make a misery out of physical life. The dead man is the only absolutely free man, free to do whatever he wills and to spend his time as he chooses, free therefore to devote the whole of his energies to helping his fellows.

Đối với người đã học Thông Thiên Học và do đó hiểu được những cõi cao hơn này, một trong những đặc điểm dễ chịu nhất của chúng là sự thư thái và tự do tuyệt đối phát sinh từ sự vắng mặt của tất cả những nhu cầu khẩn thiết vốn gây ra đau khổ trong cuộc sống hồng trần. Người chết là người duy nhất hoàn toàn tự do, tự do làm bất cứ điều gì y muốn và dành thời gian theo cách y chọn, do đó y tự do cống hiến toàn bộ năng lượng của mình để giúp đỡ đồng loại.

ANIMAL OBSESSION—
ÁM ẢNH THÚ VẬT

We are familiar with the idea that an ego on its way down into reincarnation may sometimes be drawn aside from its course and indefinitely delayed at astral levels by the attraction of the group-soul of some kind of animal with whose characteristics it is in too close affinity. We know that the same affinity sometimes seizes upon a soul upon the astral plane after death, and detains it in very intimate association with an animal form, and also that as the result of gross cruelty it is possible to be karmically linked to an animal, and to suffer most horribly with it. All this was described by Mrs. Besant as follows, in a letter to an Indian paper, which was reproduced in The Theosophic Gleaner, vol. xv. page 231:

Chúng ta quen thuộc với ý tưởng rằng một chân ngã trên đường đi xuống để đầu thai đôi khi có thể bị lôi kéo ra khỏi hành trình của mình và bị trì hoãn vô thời hạn ở các cõi cảm dục do sức hút của linh hồn nhóm của một loài động vật nào đó mà nó có mối quan hệ quá gần gũi với các đặc tính của loài đó. Chúng ta biết rằng sự gần gũi tương tự đôi khi cũng nắm bắt lấy một linh hồn trên cõi cảm dục sau khi chết, và giữ nó trong mối liên hệ mật thiết với một hình tướng động vật, và cũng biết rằng do hậu quả của sự tàn ác thô bạo, người ta có thể bị liên kết nghiệp quả với một loài động vật và phải chịu đau khổ khủng khiếp cùng với nó. Tất cả điều này đã được bà Besant mô tả như sau, trong một lá thư gửi cho một tờ báo Ấn Độ, được tái bản trong The Theosophic Gleaner, tập xv, trang 231:

“The human ego does not reincarnate in an animal, for reincarnation means the entering into a physical vehicle which thereafter belongs to and is controlled by the ego. The penal connection of the human ego with an animal form is not reincarnation; for the animal soul, the proper owner of the vehicle, is not dispossessed, nor can the human ego control the body to which it is temporarily attached. Nor does the human ego become an animal, nor lose its human attributes, while undergoing its punishment. It does not have to evolve up again through the successive lower stages of humanity, but on being set free at once takes the grade of human form to which its previous evolution entitles it. (See the cases of Jada Bharata, and of the Rishi’ s wife set free by the touch of Rama’ s feet—cases which show that the popular idea that the man becomes a stone or an animal is erroneous.)

“Chân ngã của con người không tái sinh vào một loài động vật, vì tái sinh có nghĩa là đi vào một phương tiện hồng trần mà sau đó thuộc về và được kiểm soát bởi chân ngã. Sự kết nối hình phạt của chân ngã với một hình dạng động vật không phải là tái sinh; vì linh hồn động vật, chủ nhân chính thức của phương tiện này, không bị trục xuất, và chân ngã con người không thể kiểm soát được cơ thể mà nó tạm thời gắn liền. Cũng không phải là chân ngã con người trở thành động vật, cũng không mất đi các thuộc tính của con người khi đang trải qua sự trừng phạt. Nó không cần phải tiến hóa trở lại qua các giai đoạn thấp hơn của nhân loại, mà khi được giải thoát, sẽ lập tức nhận lấy cấp độ hình thái con người mà tiến hóa trước đó của nó cho phép. (Xem các trường hợp của Jada Bharata, và của người vợ của Vị Thánh Rishi được giải thoát bởi cái chạm của bàn chân Rama—những trường hợp cho thấy quan niệm phổ biến rằng con người trở thành đá hoặc động vật là sai lầm.)

“The facts are these. When an ego, a human soul, by vicious appetite or otherwise, forms a very strong link of attachment to any type of animal, the astral body of such a person shows the corresponding animal characteristics, and in the astral world—where thoughts and passions are visible as forms—may take the animal shapes. Thus, after death, in Pretaloka the soul would be embodied in an astral vesture resembling, or approximating to, the animal whose qualities had been encouraged during earth-life. Either at this stage, or when the soul is returning towards reincarnation, and is again in the astral world, it may in extreme cases be linked by magnetic affinity to the astral body of the animal it has approached in character, and will then, through the animal’ s astral body, be chained as a prisoner to the animal’ s physical body. Thus chained, it cannot go onwards to Svarga if the tie be set up while it is a Preta; nor go onwards to human birth if it be descending towards physical life. It is truly undergoing penal servitude, chained to an animal; it is conscious in the astral world, has its human faculties, but it cannot control the brute body with which it is connected, nor express itself through that body on the physical plane. The animal organisation does not possess the mechanism needed by the human ego for self-expression; it can serve as a jailor, not as a vehicle. Further the animal soul is not ejected, but is the proper tenant and controller of its own body. Shri Shankaracharya hints very clearly at this difference between this penal imprisonment and becoming a stone, a tree or an animal. Such an imprisonment is not reincarnation, and to call it by that name is an inaccuracy; hence, while fully conversant with the above facts, I should always say that the human ego cannot reincarnate as an animal, cannot become an animal. This is not the only experience a degraded soul may have in the invisible world, of which hints may be found in the Hindu Shastras, for… the statements made are partial and very incomplete.

Thực tế là như sau. Khi một chân ngã, một linh hồn con người, bằng những dục vọng tội lỗi hoặc bằng cách khác, hình thành một mối liên hệ rất mạnh với bất kỳ loại động vật nào, thể cảm dục của người đó sẽ cho thấy những đặc điểm động vật tương ứng, và trên cõi cảm dục—nơi mà tư tưởng và đam mê được nhìn thấy dưới dạng hình tướng—có thể mang những hình dáng động vật. Do đó, sau khi chết, trên Pretaloka, linh hồn sẽ nhập vào một lớp vỏ cảm dục tương tự, hoặc gần giống với loài động vật có những phẩm chất đã được khuyến khích trong cuộc sống trần gian. Ở giai đoạn này, hoặc khi linh hồn đang quay trở lại tái sinh, và lại ở trong cõi cảm dục, nó có thể trong những trường hợp cực đoan bị liên kết bởi sự tương đồng từ tính với thể cảm dục của loài động vật mà nó đã đến gần về đặc điểm, và khi đó, thông qua thể cảm dục của loài động vật, sẽ bị xích lại như một tù nhân với thể xác của động vật đó. Bị xích như vậy, nó không thể tiếp tục đến Svarga nếu sự ràng buộc này được thiết lập trong khi nó là một Preta; cũng không thể tiếp tục sinh ra làm người nếu nó đang đi xuống để trở lại cuộc sống hồng trần. Đó thực sự là một sự phục vụ hình phạt, bị xích vào một loài động vật; nó có ý thức trong cõi cảm dục, có các khả năng của con người, nhưng nó không thể kiểm soát cơ thể thú vật mà nó kết nối, cũng không thể biểu lộ bản thân qua cơ thể đó trên cõi trần. Cấu trúc động vật không có cơ chế cần thiết để chân ngã con người biểu hiện bản thân; nó có thể phục vụ như một kẻ giam giữ, không phải là một phương tiện. Hơn nữa, linh hồn động vật không bị trục xuất, mà là người sở hữu hợp pháp và điều khiển cơ thể của chính nó. Shri Shankaracharya gợi ý rất rõ ràng về sự khác biệt giữa việc giam cầm này và việc trở thành một hòn đá, một cây hoặc một động vật. Sự giam cầm như vậy không phải là tái sinh, và gọi nó bằng cái tên đó là không chính xác; do đó, mặc dù hoàn toàn hiểu rõ các sự kiện trên, tôi sẽ luôn nói rằng chân ngã con người không thể tái sinh thành một loài động vật, không thể trở thành một loài động vật. Đây không phải là trải nghiệm duy nhất mà một linh hồn bị thoái hóa có thể gặp phải trong thế giới vô hình, mà những gợi ý có thể tìm thấy trong các Shastra của Ấn Độ, vì… những tuyên bố đưa ra là một phần và rất không đầy đủ.

“In cases where the ego is not degraded enough for absolute imprisonment, but in which the astral body is strongly animalised, it may pass on normally to human re-birth, but the animal characteristics will be largely reproduced in the physical body—as witness the ‘monsters’ who in fact are sometimes repulsively animal, pig-faced, dog-faced, etc. Men, by yielding to the most bestial vices, entail on themselves penalties more terrible than they for the most part realise, for nature’ s laws work on unbrokenly and bring to every man the harvest of the seeds he sows. The suffering entailed on the conscious human entity thus cut off for the time from progress and from self-expression is very great, and is of course reformatory in its action; it is somewhat similar to that endured by other egos, who are linked to bodies human in form, but without healthy brains—those we call idiots, lunatics, etc. Idiocy and lunacy are the results of vices other in kind from those that bring about the animal servitude above explained, but the ego in these cases also is attached to a form through which he cannot express himself.”

“Trong các trường hợp mà chân ngã không bị thoái hóa đến mức bị giam cầm hoàn toàn, nhưng trong đó thể cảm dục bị thú hóa mạnh mẽ, nó có thể tiếp tục tái sinh làm người bình thường, nhưng các đặc điểm động vật sẽ được tái hiện phần lớn trong thể xác—như chúng ta thấy ở những ‘quái vật’ đôi khi trông giống động vật một cách kinh hoàng, có mặt lợn, mặt chó, v.v. Con người, bằng cách buông thả những thói xấu thú tính nhất, đã tự gánh lấy những hình phạt khủng khiếp hơn phần lớn họ nhận ra, vì các định luật của thiên nhiên hoạt động liên tục và mang đến cho mỗi người mùa gặt từ hạt giống mà y đã gieo. Nỗi đau mà thực thể con người có ý thức phải chịu khi bị cắt đứt khỏi tiến trình và sự tự biểu hiện của mình là rất lớn, và tất nhiên là có tính chất cải tạo; nó có phần tương tự như nỗi đau mà các chân ngã khác phải chịu, những người bị gắn kết với các cơ thể mang hình dạng con người nhưng không có bộ não khỏe mạnh—những người mà chúng ta gọi là đần độn, điên loạn, v.v. Sự đần độn và điên loạn là kết quả của những thói xấu khác về bản chất so với những thói xấu gây ra sự giam cầm động vật đã giải thích ở trên, nhưng chân ngã trong những trường hợp này cũng bị gắn kết với một hình thể mà qua đó y không thể biểu hiện bản thân.”

These instances are the explanation (or at least a part of the explanation) of the widely-spread belief that a man may under certain circumstances reincarnate in an animal body. In Oriental books, what we should call three stages of one life are quite commonly spoken of as separate lives. It is said that when a man dies to the physical plane he is reborn at once on the astral plane—meaning simply that his specially and wholly astral life begins then; and in the same way what we should describe as the passing into the heaven-life is called a death on the astral plane and a rebirth at the higher level. This being so, it is easy to understand that one of the abnormal cases above mentioned might be described as ‘rebirth as an animal,’ although it is not at all what we should mean by such a term if we employed it in Theosophical literature.

Những ví dụ này là lời giải thích (hoặc ít nhất là một phần giải thích) cho niềm tin phổ biến rằng một người có thể, trong một số hoàn cảnh nhất định, tái sinh vào cơ thể động vật. Trong các sách phương Đông, điều mà chúng ta gọi là ba giai đoạn của một đời sống thường được nói đến như các đời sống riêng biệt. Người ta nói rằng khi một người chết ở cõi trần, y được tái sinh ngay lập tức trên cõi cảm dục—có nghĩa đơn giản là đời sống đặc biệt và hoàn toàn thuộc cõi cảm dục của y bắt đầu từ đó; và theo cách tương tự, điều mà chúng ta miêu tả là việc bước vào đời sống thiên đường được gọi là một cái chết trên cõi cảm dục và là sự tái sinh ở mức độ cao hơn. Điều này giúp dễ hiểu tại sao một trong những trường hợp bất thường đã nêu ở trên có thể được miêu tả là “tái sinh thành động vật,” mặc dù đó không phải là điều mà chúng ta sẽ hiểu theo nghĩa của thuật ngữ này khi sử dụng trong văn học Thông Thiên Học.

In recent investigations our attention has been drawn to a type of case differing somewhat from either of the above in that the link with the animal is intentionally made by the human being, in order to escape from something which he feels to be far worse. No doubt this type also was known to the ancients, and forms one of the classes referred to in the tradition of animal incarnations. Let me endeavour to explain it.

Trong các cuộc điều tra gần đây, sự chú ý của chúng tôi đã được hướng tới một loại trường hợp hơi khác so với những trường hợp đã đề cập ở trên ở chỗ mối liên hệ với loài động vật được con người cố tình tạo ra nhằm tránh khỏi một điều gì đó mà y cảm thấy còn tồi tệ hơn nhiều. Không còn nghi ngờ gì nữa, loại trường hợp này cũng đã được người xưa biết đến và là một trong những trường hợp được đề cập trong truyền thống về các kiếp sống động vật. Hãy để tôi cố gắng giải thích điều đó.

When a man dies, the etheric part of his physical body is withdrawn from the denser part, and shortly afterwards (usually within a few hours) the astral breaks away from the etheric, and the man’ s life on the astral plane is begun. Normally the man is unconscious until he has freed himself from the etheric, and so when he awakens to a new life it is that of the astral plane. But there are some people who cling so desperately to material existence that their astral vehicles cannot altogether separate from the etheric, and they awaken still surrounded by etheric matter.

Khi một người chết, phần thể dĩ thái của thể xác của y được rút ra khỏi phần đậm đặc hơn, và ngay sau đó (thường là trong vòng vài giờ) thể cảm dục tách rời khỏi thể dĩ thái, và đời sống của người đó trên cõi cảm dục bắt đầu. Thông thường, người đó sẽ bất tỉnh cho đến khi y đã giải phóng hoàn toàn khỏi thể dĩ thái, và khi tỉnh lại, y sẽ bắt đầu đời sống của mình trên cõi cảm dục. Tuy nhiên, có một số người bám víu quá chặt chẽ vào sự tồn tại vật chất đến mức các phương tiện cảm dục của họ không thể hoàn toàn tách rời khỏi thể dĩ thái, và họ tỉnh dậy vẫn còn bao quanh bởi chất liệu dĩ thái.

The etheric body is only a part of the physical, and is not in itself a vehicle of consciousness—not a body in which a man can live and function. So these poor people are in a very unpleasant condition, suspended as it were between two planes. They are shut out from the astral world by the shell of etheric matter which surrounds them, and at the same time they have lost the physical sense-organs by which alone they can come fully into touch with the world of ordinary earth-life.

Thể dĩ thái chỉ là một phần của thể xác và không phải là một phương tiện ý thức—không phải là một cơ thể mà một người có thể sống và hoạt động trong đó. Vì vậy, những người tội nghiệp này rơi vào một tình trạng rất khó chịu, bị treo lơ lửng giữa hai cõi. Họ bị tách biệt khỏi thế giới cảm dục bởi lớp vỏ dĩ thái bao quanh họ, và cùng lúc đó, họ đã mất đi các giác quan hồng trần mà chỉ có chúng mới có thể giúp họ tiếp xúc hoàn toàn với thế giới của đời sống trần gian bình thường.

The result is that they drift about, lonely, dumb and terrified, in a thick and gloomy fog, unable to hold intercourse with the denizens of either plane, glimpsing sometimes other drifting souls in their own unfortunate positions, yet powerless to communicate even with them, incapable of joining them or of arresting their aimless wandering as they are swept on and engulfed in the rayless night. Now and again the etheric veil may part sufficiently to permit one glance into lower astral scenes, but that is rarely encouraging, and indeed is often mistaken for a glimpse into hell; sometimes for a moment some familiar earthly object may be half-seen—usually from passing contact with a strong thought-image; but such rare and tantalising liftings of the fog only make its darkness the more soul-shaking and hopeless when it shuts down again.

Kết quả là họ lang thang một cách cô độc, câm lặng và sợ hãi, trong một lớp sương mù dày đặc và ảm đạm, không thể giao tiếp với cư dân của bất kỳ cõi nào, thỉnh thoảng lướt qua những linh hồn lang thang khác trong cùng hoàn cảnh bất hạnh, nhưng vẫn không thể giao tiếp ngay cả với họ, không thể gia nhập với họ hoặc ngăn chặn việc trôi dạt vô định của họ khi họ bị cuốn đi và chìm vào đêm tối không ánh sáng. Thỉnh thoảng, lớp vỏ dĩ thái có thể tách ra đủ để cho phép một cái nhìn lướt qua vào các cảnh giới thấp hơn của cõi cảm dục, nhưng điều đó hiếm khi khích lệ, và thực sự thường bị hiểu nhầm là một cái nhìn vào địa ngục; đôi khi trong chốc lát, một số hình ảnh quen thuộc trên cõi trần có thể được nhìn thấy một phần—thường là do tiếp xúc thoáng qua với một hình tư tưởng mạnh mẽ; nhưng những lần hiếm hoi và đầy khiêu khích như vậy chỉ làm cho bóng tối càng thêm tăm tối hơn khi nó lại phủ xuống.

All the while the poor soul cannot realise that if he would but let go his frenzied grasp on matter he would slip at once (through a few moments of unconsciousness) into the ordinary life of the astral plane. But it is just that feeling that he cannot bear—the feeling of losing even the miserable half-consciousness that he has; he clings even to the horrors of this grey world of all-embracing fog rather than let himself sink into what seems to him a sea of nothingness and complete extinction. Occasionally, as the result of wicked and blasphemous teaching on earth, he fears to let himself go lest he should fall into hell. In either case, his suffering, his hopelessness and utter dreariness are usually extreme.

Trong suốt thời gian đó, linh hồn tội nghiệp này không nhận ra rằng nếu y chỉ buông bỏ sự bám víu điên cuồng vào vật chất, y sẽ lập tức trượt xuống (sau một vài khoảnh khắc mất ý thức) vào đời sống thông thường của cõi cảm dục. Nhưng chính cảm giác đó là điều mà y không thể chịu đựng—cảm giác mất đi thậm chí sự tỉnh thức mờ nhạt mà y đang có; y bám víu ngay cả vào những kinh hoàng của thế giới xám xịt này đầy sương mù bao trùm thay vì để bản thân chìm vào điều mà y cho rằng là biển hư vô và sự tuyệt diệt hoàn toàn. Đôi khi, do kết quả của sự giáo huấn ác độc và báng bổ khi còn sống, y sợ buông bỏ bản thân vì sợ rằng mình sẽ rơi vào địa ngục. Trong cả hai trường hợp, nỗi đau đớn, sự tuyệt vọng và u tối của y thường là cực kỳ lớn.

Out of this unpleasant but self-imposed predicament there are several ways. There are members of our band of invisible helpers who devote themselves specially to seeking out souls who are in this painful condition, and trying to persuade them to let themselves sink out of it; and there are also many kindly people among the dead who take this up as a sort of branch of astral slum work. Sometimes such efforts are successful, but on the whole few of the victims have faith and courage enough to let go their hold on what to them is life, poor apology though it be. In process of time the etheric shell wears out, and the ordinary course of nature reasserts itself in spite of their struggles; and sometimes in sheer despair they anticipate this result, deciding that annihilation is preferable to such a life, and so recklessly letting themselves go—the result being an overwhelming but pleasant surprise to them.

Có nhiều cách để thoát khỏi tình trạng khó chịu nhưng tự áp đặt này. Có những thành viên trong nhóm trợ giúp vô hình của chúng tôi dành hết tâm huyết để tìm kiếm những linh hồn đang trong tình trạng đau khổ này và cố gắng thuyết phục họ buông bỏ và để bản thân rơi xuống; và cũng có rất nhiều người tử tế trong số những người đã khuất đã chọn công việc này như một dạng công việc từ thiện trên cõi cảm dục. Đôi khi những nỗ lực như vậy thành công, nhưng nhìn chung rất ít nạn nhân có đủ niềm tin và can đảm để buông bỏ sự bám víu của họ vào cái mà đối với họ là sự sống, dù đó chỉ là một lời biện minh tệ hại. Theo thời gian, lớp vỏ dĩ thái sẽ hao mòn, và quy luật tự nhiên thông thường sẽ tái thiết lập bất chấp những cuộc đấu tranh của họ; và đôi khi trong sự tuyệt vọng cùng cực, họ sẽ tự nguyện buông bỏ, quyết định rằng sự hủy diệt còn tốt hơn sự sống như vậy, và họ buông bỏ một cách bất chấp—kết quả là một sự ngạc nhiên lớn nhưng dễ chịu đối với họ.

In their earlier struggles, however, there are some who are so unfortunate as to discover unnatural methods of reviving to some extent their touch with the physical plane instead of sinking into the astral. They can do this readily through a medium, but usually the medium’ s ‘spirit-guide’ sternly forbids them access. He is quite right to do so, for in their terror and their great need they are often utterly unscrupulous, and they would obsess and even madden the medium, fighting as a drowning man fights for life; and all absolutely uselessly, since the eventual result could only be to prolong their sufferings by strengthening that material part of which most of all they should get rid.

Tuy nhiên, trong những cuộc đấu tranh ban đầu của mình, có một số người không may phát hiện ra các phương pháp phi tự nhiên để khôi phục phần nào sự tiếp xúc của họ với cõi trần thay vì trượt vào cõi cảm dục. Họ có thể làm điều này dễ dàng thông qua một phương tiện (medium), nhưng thường thì ‘hướng dẫn tinh thần’ của phương tiện đó nghiêm khắc cấm họ tiếp cận. Người hướng dẫn tinh thần hoàn toàn đúng khi làm như vậy, vì trong nỗi sợ hãi và nhu cầu lớn lao của mình, họ thường hoàn toàn không còn đạo đức, và sẽ ám ảnh và thậm chí khiến phương tiện phát điên, giống như người chết đuối cố gắng giành lấy sự sống; và điều này hoàn toàn vô ích, bởi vì kết quả cuối cùng chỉ có thể là kéo dài thêm sự đau khổ của họ bằng cách củng cố phần vật chất mà lẽ ra họ phải từ bỏ.

Occasionally they contrive to seize upon some one who is unconsciously a medium—some sensitive young girl, usually; but they can be successful in such an attempt only when the ego of the young girl has weakened his hold on his vehicles by allowing the indulgence of undesirable thoughts or passions. When the ego’ s relations with his vehicles are normal and healthy he cannot be dispossessed by the frantic efforts of such poor souls as we have been describing.

Thỉnh thoảng, họ cố gắng chiếm lấy ai đó mà vô tình là một phương tiện—thường là một cô gái trẻ nhạy cảm; nhưng họ chỉ có thể thành công trong nỗ lực này khi chân ngã của cô gái đã suy yếu sự kiểm soát đối với các phương tiện của mình do để cho các tư tưởng hoặc dục vọng không mong muốn trỗi dậy. Khi mối quan hệ giữa chân ngã và các phương tiện của nó là bình thường và lành mạnh, nó không thể bị xâm chiếm bởi những nỗ lực điên cuồng của các linh hồn bất hạnh mà chúng ta đã mô tả.

An animal, however, has no ego behind him, though he has a fragment of a group-soul which may be said to stand for him in the place of an ego. The hold of this fragment upon his vehicles is by no means what that of an ego would be, and so it comes to pass that what for the moment we may call the ‘soul’ of the animal can be dispossessed much more easily than that of a man. Sometimes, as I have said, the human soul wandering in the grey world is unfortunate enough to discover this, and so in his madness he obsesses the body of an animal, or if he cannot quite drive out the animal soul he contrives to gain partial control, so as to share the tenement to some extent with the rightful owner. In such a case he is once more in touch with the physical plane through the animal; he sees through the animal’ s eyes (often a very remarkable experience) and he feels any pain inflicted upon the animal; in fact, so far as his own consciousness is concerned, he is the animal for the time being.

Tuy nhiên, một loài động vật không có chân ngã phía sau nó, mặc dù nó có một mảnh linh hồn nhóm có thể được cho là đại diện cho nó ở vị trí của một chân ngã. Sự kiểm soát của mảnh linh hồn này đối với các phương tiện của nó không mạnh mẽ như của một chân ngã, và vì vậy xảy ra việc mà tạm thời chúng ta có thể gọi là “linh hồn” của động vật có thể bị chiếm đoạt dễ dàng hơn so với của một con người. Đôi khi, như tôi đã nói, linh hồn con người đang lang thang trong thế giới xám xịt này không may phát hiện ra điều này, và do đó trong cơn điên loạn của mình, y ám ảnh cơ thể của một loài động vật, hoặc nếu không thể hoàn toàn đuổi đi linh hồn động vật, y cố gắng giành quyền kiểm soát một phần, để cùng chia sẻ cơ thể với chủ nhân thực sự. Trong trường hợp như vậy, y một lần nữa có thể tiếp xúc với cõi trần qua loài động vật; y nhìn qua đôi mắt của động vật (thường là một trải nghiệm rất đáng chú ý) và cảm nhận mọi đau đớn mà loài động vật phải chịu; trên thực tế, trong phạm vi ý thức của y, y trở thành loài động vật trong một khoảng thời gian nhất định.

An old and respected member of one of our English Branches related that he had received a visit from a man who came to ask for advice under peculiar circumstances. The visitor was a man who gave the impression of having seen better days, but he had fallen into such abject poverty that he was compelled to take any work that offered, and thus it happened that he had become a slaughter-man at a huge abattoir. He declared that he was absolutely unable to execute his loathsome task, because when he prepared to slaughter the creatures he was constantly checked by cries of heart-rending anguish, and by voices which said: “Have mercy upon us! Do not strike, for we are human beings entangled with these animals, and we suffer their pain.” So, since he had heard that the Theosophical Society occupied itself with unusual and uncanny matters, he came to it to ask for advice. No doubt this man was somewhat clairaudient, or perhaps simply sensitive enough to catch the thoughts of these poor creatures who had associated themselves with the animals, and these thoughts naturally symbolised themselves to him as audible cries for mercy. No wonder he was unable to continue his occupation.

Một thành viên lâu năm và được tôn trọng của một chi nhánh Thông Thiên Học tại Anh đã kể rằng Ông đã nhận được một cuộc viếng thăm từ một người đàn ông đến để xin lời khuyên trong những hoàn cảnh đặc biệt. Người viếng thăm này là một người đàn ông từng có cuộc sống khá hơn, nhưng đã rơi vào cảnh nghèo túng đến mức y buộc phải chấp nhận bất kỳ công việc nào có sẵn, và như vậy y đã trở thành một người giết mổ tại một lò mổ lớn. Y tuyên bố rằng mình hoàn toàn không thể thực hiện công việc ghê tởm này, bởi vì khi y chuẩn bị giết các sinh vật, y liên tục bị ngăn lại bởi những tiếng kêu gào đau đớn đến mức đau lòng và bởi những giọng nói nói rằng: “Xin hãy thương xót chúng tôi! Đừng giết, vì chúng tôi là con người đang bị mắc kẹt với những con vật này, và chúng tôi chịu đựng nỗi đau của chúng.” Vì vậy, vì y đã nghe rằng Hội Thông Thiên Học có quan tâm đến các vấn đề bất thường và kỳ bí, y đã đến để xin lời khuyên. Không còn nghi ngờ gì nữa, người đàn ông này có khả năng thông nhãn một phần, hoặc có lẽ đơn giản là đủ nhạy cảm để nắm bắt những tư tưởng của các linh hồn khốn khổ đã liên kết với loài động vật, và những tư tưởng này tự nhiên được biểu hiện đối với y như những lời kêu gào xin tha thứ mà y có thể nghe thấy. Không có gì ngạc nhiên khi y không thể tiếp tục công việc của mình.

This may well give pause to the devourer of flesh, to the man who calls the murder of animals ‘sport,’ and most of all to the vivisector; the man who kills or tortures an animal may be inflicting unspeakable suffering upon a human being.

Điều này có thể làm cho những kẻ ăn thịt, những người gọi việc giết hại động vật là “thể thao”, và đặc biệt là những kẻ hành hạ động vật phải dừng lại suy nghĩ; người giết hại hoặc tra tấn một con vật có thể đang gây ra nỗi đau khủng khiếp không thể tả cho một con người.

I have little doubt that the possibility for a material-minded man of this uncanny blunder is at least part of the rationale of the belief of various tribes that certain creatures must never be killed “lest one should unawares be dispossessing the spirit of an ancestor.” For the man who thus entangles himself with an animal cannot abandon that animal’ s body at will; even if he learnt enough to make him desire to withdraw, he could do so only gradually and by considerable effort, extending probably over many days. It is usually only at the death of the animal that he is set free, and even then there remains an astral entanglement to shake off. After the death of the animal such a soul sometimes struggles to obsess another member of the same herd, or indeed any other creature whom he can seize in his desperation.

Tôi ít nghi ngờ rằng khả năng xảy ra lỗi lầm đáng sợ này đối với một người có tâm trí vật chất ít nhất là một phần lý do giải thích cho niềm tin của nhiều bộ lạc rằng một số loài động vật không bao giờ được giết hại “vì sợ rằng có thể vô tình đánh đuổi linh hồn của một tổ tiên”. Đối với người đàn ông bị cuốn vào loài động vật, y không thể từ bỏ cơ thể của con vật đó theo ý muốn; ngay cả khi y đã học đủ để mong muốn rút lui, y cũng chỉ có thể làm điều đó một cách dần dần và bằng nỗ lực đáng kể, có thể kéo dài trong nhiều ngày. Thông thường, chỉ khi con vật chết, y mới được giải thoát, và ngay cả khi đó vẫn còn lại một sự ràng buộc về mặt cảm dục cần phải loại bỏ. Sau khi con vật chết, linh hồn như vậy đôi khi cố gắng ám ảnh một con vật khác trong cùng đàn, hoặc thậm chí bất kỳ sinh vật nào mà y có thể chiếm lấy trong cơn tuyệt vọng của mình.

I have noticed that animals obsessed or semi-obsessed by human beings are often shunned or feared by the rest of the herd, and indeed they are themselves often half-maddened by anger and terror at the strangeness of the thing and at their own helplessness. The animals most commonly seized upon seem to be the less developed ones—cattle, sheep and swine. More intelligent creatures, such as dogs, cats and horses, would presumably not be so easily dispossessed—though my attention was once drawn to a peculiarly horrible instance in which a Catholic priest had in this way attached himself to a cat. Then there is the well-known case of the monkey of Pandharpur, who betrayed so curious a knowledge of Brahmana ceremonies. But in most cases the obsessing soul has to be satisfied with what he can get, for the effort to overpower even the more stupid beasts usually taxes his powers to the utmost.

Tôi đã nhận thấy rằng những loài động vật bị ám hoặc bán ám bởi con người thường bị cả đàn né tránh hoặc sợ hãi, và thực tế chúng thường trở nên nửa điên loạn bởi sự tức giận và sợ hãi trước sự kỳ lạ của tình trạng này và sự bất lực của chúng. Những loài động vật thường bị chiếm đoạt nhất dường như là những loài kém phát triển hơn—gia súc, cừu và lợn. Những loài thông minh hơn như chó, mèo và ngựa có lẽ sẽ không dễ bị chiếm đoạt đến vậy—mặc dù sự chú ý của tôi đã từng được dẫn đến một trường hợp đặc biệt kinh hoàng trong đó một linh mục Công giáo đã tự ám vào một con mèo. Sau đó, có trường hợp nổi tiếng của con khỉ ở Pandharpur, loài đã thể hiện sự hiểu biết kỳ lạ về các nghi lễ Brahmana. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, linh hồn ám ảnh phải hài lòng với những gì có sẵn, vì nỗ lực để chế ngự thậm chí những con thú ngu ngốc hơn cũng thường đòi hỏi sức lực của y đến mức tối đa.

This obsession of an animal seems to be the modern substitute for the awful life of the vampire. In the time of the fourth root-race, men who had a mad clinging to material life sometimes contrived to maintain a low and unspeakably horrible form of it in their own physical bodies by absorbing living blood from others. In the fifth race that happily seems no longer to be possible, but people of the same type occasionally fall into this snare of animal obsession—bad enough, indubitably, but still not so utterly gruesome and disgusting as vampirism. So even in its very worst and lowest aspects the world is improving!

Sự ám một con vật dường như là sự thay thế hiện đại cho cuộc sống khủng khiếp của ma cà rồng. Trong thời kỳ của giống dân chính thứ tư, những người có sự bám víu điên cuồng vào cuộc sống vật chất đôi khi đã cố gắng duy trì một hình thức sống thấp kém và ghê tởm không thể tưởng tượng được trong chính thể xác của họ bằng cách hấp thụ máu sống từ những người khác. Trong giống dân thứ năm, điều này may mắn không còn khả thi nữa, nhưng những người thuộc loại này đôi khi rơi vào bẫy ám vật động vật—dù sao cũng là điều tồi tệ, không còn nghi ngờ gì, nhưng vẫn chưa hoàn toàn ghê rợn và đáng sợ như ma cà rồng. Vì vậy, ngay cả trong những khía cạnh tồi tệ và thấp hèn nhất của nó, thế giới vẫn đang cải thiện!

I have known of isolated cases of two other types of animal connection; one in which a wicked dead person was in the habit of temporarily seizing the body of a certain animal for specific evil purposes, and another in which an Oriental magician had, as an act of revenge for an insult to his religious faith, mesmerically linked his unhappy victim to an animal form after death. This could be done only if there existed in the victim some weakness through which such a magician could seize upon him, and if he had intentionally done something which gave him a karmic hold upon him. Normally neither of these cases would be at all possible.

Tôi đã biết về một số trường hợp cá biệt thuộc hai loại kết nối động vật khác; một trong số đó là trường hợp một người chết xấu xa thường xuyên chiếm đoạt tạm thời cơ thể của một loài động vật cụ thể để thực hiện các mục đích xấu xa, và một trường hợp khác trong đó một pháp sư phương Đông, như một hành động trả thù cho sự xúc phạm đối với tín ngưỡng tôn giáo của mình, đã kết nối từ trường nạn nhân xấu số của mình với một hình dạng động vật sau khi chết. Điều này chỉ có thể được thực hiện nếu có một điểm yếu nào đó trong nạn nhân, qua đó pháp sư này có thể xâm chiếm, và nếu nạn nhân đã cố ý làm điều gì đó mang lại mối liên kết nghiệp quả với y. Bình thường thì không có trường hợp nào trong số này là có thể.

All obsessions, whether of a human or an animal body, are an evil and a hindrance to the obsessing soul, for they temporarily strengthen his hold upon the material, and so delay his natural progress into the astral life, besides of course making all sorts of undesirable karmic links. This grey life, like almost all other unpleasant possibilities connected with the life after death, can come only as the result of ignorance of the real conditions of that life. The more we learn of life and death, the more emphatic appears the duty of making every effort to spread the knowledge of Theosophy, for it becomes ever clearer and clearer that in that knowledge is life and happiness and progress for all.

Tất cả các trường hợp ám ảnh, dù là cơ thể con người hay động vật, đều là một điều xấu và là một trở ngại đối với linh hồn ám ảnh, vì chúng tạm thời củng cố sự ràng buộc của nó với vật chất, và do đó làm chậm sự tiến triển tự nhiên của nó vào đời sống cảm dục, ngoài ra còn tạo ra đủ loại liên kết nghiệp quả không mong muốn. Cuộc sống xám xịt này, giống như hầu hết các khả năng khó chịu khác liên quan đến cuộc sống sau khi chết, chỉ có thể đến do sự thiếu hiểu biết về các điều kiện thực sự của cuộc sống đó. Càng tìm hiểu về cuộc sống và cái chết, chúng ta càng thấy rõ ràng hơn trách nhiệm phải nỗ lực phổ biến kiến thức Thông Thiên Học, vì ngày càng trở nên rõ ràng rằng trong kiến thức đó, có sự sống, hạnh phúc và sự tiến bộ cho tất cả mọi người.

INDIVIDUALISED ANIMALS—
NHỮNG CON THÚ ĐƯỢC BIỆT NGÃ HÓA

When an individualised animal dies he has a happy astral life of considerable length, during which he usually remains in the immediate neighbourhood of his earthly home and in the closest touch with his especial friend and protector—able to see and enjoy the society of his friend as fully as ever, though himself invisible to the latter, his memory of the past being of course just as perfect as it was on earth. This will be followed by a still happier period of what has sometimes been called dozing consciousness, which will last until in some future world the human form is assumed. During all this time he is in a state analogous to that of a human being in the heaven-world, though at a somewhat lower level. He creates his own surroundings, even though he may be but drowsily conscious of them, and they will undoubtedly include the presence of his earth-friend in his very best and most sympathetic mood. For every entity which comes into connection with it, whether only just entering upon human evolution or preparing to pass beyond it, the heaven-world means the highest bliss of which that entity is, at his level, capable.

Khi một con thú đã được biệt ngã hóa qua đời, nó sẽ trải qua một cuộc sống hạnh phúc ở cõi cảm dục trong một khoảng thời gian khá dài, trong đó nó thường ở gần ngôi nhà trần gian của mình và duy trì mối liên hệ mật thiết nhất với người bạn và người bảo vệ đặc biệt của mình—có thể nhìn thấy và tận hưởng sự đồng hành của người bạn như trước, mặc dù bản thân y vô hình trước người đó, và trí nhớ của y về quá khứ đương nhiên hoàn hảo như khi còn ở trần gian. Sau đó, nó sẽ bước vào một giai đoạn hạnh phúc hơn nữa, đôi khi được gọi là trạng thái tâm thức mơ màng, kéo dài cho đến khi trong một thế giới tương lai, nó khoác lấy hình dạng con người. Trong suốt khoảng thời gian này, nó ở trong một trạng thái tương tự như một con người ở cõi trời, dù ở một mức độ thấp hơn. Nó tạo ra môi trường xung quanh cho riêng mình, ngay cả khi nó chỉ mơ màng nhận thức về chúng, và chúng sẽ bao gồm sự hiện diện của người bạn trần gian trong tâm trạng tốt nhất và thấu cảm nhất của họ. Đối với mọi thực thể có liên hệ với cõi này, dù chỉ vừa bước vào quá trình tiến hóa nhân loại hay chuẩn bị vượt qua nó, cõi trời đại diện cho niềm hạnh phúc tối cao mà thực thể đó, ở cấp độ của mình, có thể đạt được.

LOCALISATION OF STATES—NƠI CHỐN CỦA CÁC TRẠNG THÁI

The idea of location applies to the sub-planes of the astral, but only to a limited extent. Matter of all the stages undoubtedly surrounds us here on the surface of the earth, and the living man, employing his astral body during the sleep of the physical, comes into touch with them all simultaneously, and is able to receive impressions from them all. That is, if I, using my astral body during sleep, look at another living man’ s astral body, I see the whole of it, including of course matter of every sub-plane. But in the case of the average dead man, there has been a rearrangement of the matter of his astral body, consequent upon the proceedings of what is commonly called the desire-elemental, and broadly speaking only one type of astral matter is available to receive impressions.

Ý niệm về vị trí áp dụng cho các cõi phụ của cõi cảm dục, nhưng chỉ ở mức độ hạn chế. Vật chất ở tất cả các giai đoạn chắc chắn bao quanh chúng ta trên bề mặt trái đất, và con người sống, sử dụng thể cảm dục của mình trong khi thể xác đang ngủ, có thể tiếp xúc với tất cả các loại vật chất đó cùng một lúc và nhận được ấn tượng từ tất cả chúng. Tức là, nếu tôi, khi sử dụng thể cảm dục trong giấc ngủ, nhìn vào thể cảm dục của một người sống khác, tôi sẽ thấy toàn bộ nó, bao gồm tất nhiên cả vật chất của mọi cõi phụ. Nhưng trong trường hợp của một người đã chết bình thường, đã có sự tái sắp xếp vật chất của thể cảm dục của y, do các hành động của cái mà thường được gọi là tinh linh dục vọng, và nói chung, chỉ có một loại vật chất cảm dục có sẵn để tiếp nhận các ấn tượng.

What we usually call ‘sight’ on the astral plane is not really sight at all, for that word implies the use of an organ specialised to receive certain vibrations. Astral cognition is arranged on an entirely different scheme. It has often been said that a man can ‘see’ with any part of his astral body—that is, every particle of that body is capable of receiving impressions from without and transmitting them to the consciousness within. But every particle is not capable of receiving every possible impression.

Điều chúng ta thường gọi là ‘thị giác’ trên cõi cảm dục thực sự không phải là thị giác, vì từ đó ngụ ý việc sử dụng một cơ quan chuyên dụng để tiếp nhận các dao động nhất định. Nhận thức cảm dục được tổ chức theo một mô hình hoàn toàn khác. Người ta thường nói rằng một người có thể ‘nhìn’ bằng bất kỳ phần nào của thể cảm dục của mình—nghĩa là, mỗi hạt trong cơ thể đó đều có khả năng tiếp nhận các ấn tượng từ bên ngoài và truyền chúng vào tâm thức bên trong. Nhưng không phải mọi hạt đều có khả năng tiếp nhận mọi ấn tượng có thể.

For example, I became cognizant of the lowest kind of astral matter only by means of matter of the same subdivision existing in my own astral body; and I receive its vibrations through the particles of that lowest type of matter which happen to be at the moment on the surface of my astral body. Since during life all the particles of the astral body are constantly in motion among themselves, much as are the particles of a boiling liquid, it inevitably happens that all the subdivisions of matter are represented upon the surface of the astral body, and that is why I am able to see all the stages simultaneously. The ordinary man after death has for practical purposes only one type of matter outside, because of the concentric shell arrangement; therefore his view of the astral world around him is a very imperfect one.

Chẳng hạn, tôi chỉ có thể nhận thức được loại vật chất cảm dục thấp nhất thông qua vật chất cùng loại tồn tại trong thể cảm dục của chính tôi; và tôi nhận được dao động của nó thông qua các hạt của loại vật chất thấp nhất đó mà tình cờ đang ở trên bề mặt của thể cảm dục của tôi tại thời điểm đó. Vì trong suốt cuộc đời, tất cả các hạt của thể cảm dục luôn di chuyển liên tục với nhau, giống như các hạt của một chất lỏng đang sôi, nên tất cả các phân chia của vật chất đều được đại diện trên bề mặt của thể cảm dục, và đó là lý do tại sao tôi có thể nhìn thấy tất cả các giai đoạn cùng một lúc. Người bình thường sau khi chết, trên thực tế, chỉ có một loại vật chất ở bên ngoài, do sự sắp xếp vỏ đồng tâm; do đó tầm nhìn của y về thế giới cảm dục xung quanh là rất không hoàn chỉnh.

If he, immured in a shell of matter of the lowest stage, looks at a living man’ s astral body, he can see only that part of it which consists of that lowest type of matter; but as he has no means of realising the limitation of his faculties, he inevitably assumes that he sees the whole of the other man’ s astral body, and therefore that the other man is a person possessing no characteristics but those eminently unsatisfactory ones which alone express themselves through matter of that particular subdivision.

Nếu y, bị giam cầm trong vỏ bọc của loại vật chất thấp nhất, nhìn vào thể cảm dục của một người sống, y chỉ có thể nhìn thấy phần của nó bao gồm loại vật chất thấp nhất đó; nhưng vì y không có cách nào nhận thức được giới hạn của khả năng của mình, nên y không thể không cho rằng mình nhìn thấy toàn bộ thể cảm dục của người khác, và do đó nghĩ rằng người đó là một người không có đặc điểm nào ngoài những đặc điểm không mong muốn, chỉ thể hiện qua vật chất của cõi phụ cụ thể đó.

He is living in the midst of all sorts of high influences and beautiful thought-forms, but is almost entirely unconscious of their existence, because those particles of his astral body which could respond to their vibrations are carefully shut in where they cannot be reached. That lowest type of astral matter corresponds to the solid subdivision of physical matter, and the astral counterpart of any solid physical object is composed of that lowest subdivision of astral matter—the seventh class of astral matter, if we number the sub-planes from above downwards. The astral counterparts of the floor, walls and furniture of a room are all of the lowest type of astral matter, and consequently the man newly dead usually sees these counterparts vividly, and is almost entirely unconscious of the vast sea of thought-forms which encompasses him, because nearly all those forms are built out of combinations of the finer types of astral matter.

Y sống giữa vô số ảnh hưởng cao đẹp và các hình tư tưởng tuyệt đẹp, nhưng hầu như hoàn toàn không nhận thức được sự tồn tại của chúng, vì những hạt của thể cảm dục của y có thể phản ứng với các dao động đó đã bị nhốt cẩn thận, không thể tiếp cận được. Loại vật chất cảm dục thấp nhất tương ứng với phân chia vật chất rắn của hồng trần, và hình tư tưởng cảm dục của bất kỳ vật thể hồng trần rắn nào được tạo thành từ loại vật chất cảm dục thấp nhất đó—loại thứ bảy của vật chất cảm dục, nếu chúng ta đánh số các cõi phụ từ trên xuống dưới. Các hình tư tưởng cảm dục của sàn nhà, tường và nội thất trong một căn phòng đều thuộc loại vật chất cảm dục thấp nhất, và do đó, người mới chết thường nhìn thấy những hình tư tưởng này một cách rõ ràng, và gần như hoàn toàn không nhận thức được biển hình tư tưởng xung quanh mình, vì hầu hết những hình tư tưởng đó được xây dựng từ các kết hợp của các loại vật chất cảm dục tinh tế hơn.

In process of time, as the consciousness steadily withdraws inward; the shell of this coarsest type of matter atrophies and begins to disintegrate, and matter of a somewhat higher type is as it were uncovered, and becomes the surface through which impressions can be received. Since this usually happens gradually, it means that the man finds the counterparts of physical objects growing dimmer and dimmer, while the thought-forms become more and more vivid to him, so that without necessarily moving at all in space, he finds himself living in a different world. If while this process is going on he should encounter you at intervals he will be sensible of what will appear to him as a great improvement in your character—not that you have necessarily changed, but that he is becoming able to appreciate the higher vibrations of that character, and is losing the power to receive the lower ones. Your disposition may remain just what it was, but the dead man having commenced by seeing only its worst features, will pass it all slowly in review until presently he reaches a condition in which only the best and highest side of it is within his consciousness.

Theo thời gian, khi tâm thức dần dần rút vào bên trong; lớp vỏ của loại vật chất thô nhất bị thoái hóa và bắt đầu phân rã, và vật chất của loại cao hơn một chút được “hé lộ”, trở thành bề mặt mà qua đó các ấn tượng có thể được tiếp nhận. Vì điều này thường xảy ra dần dần, nó có nghĩa là người đó sẽ thấy các hình tư tưởng của các vật thể hồng trần mờ dần, trong khi các hình tư tưởng dần trở nên sống động hơn với y, khiến y, dù không nhất thiết phải di chuyển trong không gian, thấy mình sống trong một thế giới khác. Nếu trong quá trình này, y gặp bạn vào những khoảng thời gian khác nhau, y sẽ nhận thấy sự cải thiện lớn trong tính cách của bạn—không phải bạn đã thay đổi, mà là y đang bắt đầu đánh giá cao các dao động cao hơn của tính cách đó, và đang mất dần khả năng tiếp nhận các dao động thấp hơn. Tính cách của bạn có thể vẫn như cũ, nhưng người chết ban đầu chỉ nhìn thấy các đặc điểm tệ nhất của bạn, sẽ dần dần đánh giá lại tất cả, cho đến khi y đạt đến một trạng thái mà chỉ những khía cạnh tốt nhất và cao nhất của bạn nằm trong tâm thức của y.

This then is what is meant by passing from one sub-plane to another—that the man loses sight of one part of the wonderful complexity which is the astral world, and that another part of it comes into his view. It is after all only a repetition on a smaller scale of what happens to each one of us as we pass from plane to plane. The whole astral world and the whole mental world are both of them around us here and now, yet so long as our consciousness is focussed in the physical brain we are blankly unconscious of them. At death the consciousness is transferred to the astral body, and at once we find ourselves seeing the astral part of our world, having lost sight of the physical. When later on we lose the astral body in turn, and live in the mental body, we are then conscious (though only partially) of the mental part of our world, and have altogether lost for the time both the astral and the physical. Just as it is possible for the man living on the astral plane to defy the desire-elemental and insist upon keeping the particles of his astral body in constant motion, just as they were during his physical life, so it is possible for the man still in physical life to train himself to have at his command the physical and astral and mental consciousness practically simultaneously; but this means considerable advancement.

Đây chính là ý nghĩa của việc đi từ một cõi phụ này sang cõi phụ khác—rằng người đó mất đi tầm nhìn của một phần trong sự phức tạp kỳ diệu của cõi cảm dục, và một phần khác của nó dần hiện ra trước mắt y. Điều này, xét cho cùng, chỉ là sự lặp lại ở quy mô nhỏ hơn của những gì xảy ra với mỗi chúng ta khi chúng ta di chuyển từ cõi này sang cõi khác. Cả thế giới cảm dục và thế giới trí tuệ đều bao quanh chúng ta ở đây và ngay bây giờ, nhưng miễn là tâm thức của chúng ta tập trung vào bộ não hồng trần, chúng ta hoàn toàn không nhận thức được chúng. Khi chết, tâm thức chuyển sang thể cảm dục, và ngay lập tức chúng ta thấy mình nhìn thấy phần cảm dục của thế giới xung quanh, đồng thời mất đi sự nhìn thấy phần hồng trần. Sau đó, khi chúng ta mất đi thể cảm dục và sống trong thể trí, chúng ta sẽ trở nên nhận thức (mặc dù chỉ là một phần) về phần trí tuệ của thế giới xung quanh mình, và trong thời gian đó hoàn toàn mất đi sự kết nối với cả cõi cảm dục lẫn hồng trần. Cũng như người sống trong cõi cảm dục có thể chống lại tinh linh dục vọng và cố giữ cho các hạt của thể cảm dục chuyển động liên tục, giống như trong cuộc sống thể chất của mình, thì người vẫn còn sống trong cõi trần cũng có thể rèn luyện bản thân để có thể điều khiển đồng thời cả tâm thức hồng trần, cảm dục và trí tuệ; nhưng điều này đòi hỏi sự tiến bộ đáng kể.

To sum up the foregoing, then: ‘rising higher’ in the ordinary spiritualistic sense is simply raising the consciousness from one stage of the astral to another, the matter of the astral body having in the first place been arranged after death by the desire-elemental. In such a case the consciousness can act only through the shell of matter which lies outermost, and consequently at first the dead man is confined to the perception of the lowest subplane, and can only become conscious of a higher sub-plane when that outer coating of denser matter is in great part worn away. Consequently such a man in the earlier part of his post-mortem existence is naturally shut off from all the best and pleasantest part of astral life; and when he escapes from that condition he may in one sense be said to have risen higher.

Để tóm tắt lại những điều đã nói ở trên: “vươn cao hơn” theo nghĩa thông thường của thuyết tâm linh đơn giản là nâng cao tâm thức từ một giai đoạn của cõi cảm dục sang một giai đoạn khác, khi vật chất của thể cảm dục đã được sắp xếp lại sau khi chết bởi tinh linh dục vọng. Trong trường hợp như vậy, tâm thức chỉ có thể hoạt động thông qua lớp vỏ vật chất nằm ở bên ngoài, và do đó lúc đầu người chết bị giới hạn trong nhận thức về cõi phụ thấp nhất, và chỉ có thể trở nên nhận thức về một cõi phụ cao hơn khi lớp vỏ ngoài dày đặc đó bị mòn đi phần lớn. Do đó, trong giai đoạn đầu của đời sống hậu tử, người như vậy tự nhiên bị cắt đứt khỏi tất cả những phần tốt đẹp nhất và dễ chịu nhất của đời sống cảm dục; và khi y thoát khỏi tình trạng đó, về một mặt nào đó, có thể nói rằng y đã “vươn cao hơn”.

A Theosophist, who comprehends the conditions of the astral plane, altogether declines to permit the rearrangement of his astral body by the desire-elemental in the first place; or if that should happen during the momentary unconsciousness which immediately succeeds death, those of us who are trying to help the man immediately break up the elemental’ s arrangement and restore the astral body to exactly the condition in which it was during life, with all its varieties of matter mingled in the natural way, so that the dead man can perceive the whole of the astral plane, instead of only one subdivision of it. In this way his astral life is perfect from the first, and he can be a much more useful person than if he were confined to the consciousness of one subdivision only.

Một người Thông Thiên Học, hiểu rõ các điều kiện của cõi cảm dục, hoàn toàn từ chối cho phép tinh linh dục vọng sắp xếp lại thể cảm dục của mình ngay từ đầu; hoặc nếu điều đó xảy ra trong khoảnh khắc bất tỉnh ngắn ngủi ngay sau cái chết, thì những người trong chúng ta đang cố gắng giúp đỡ sẽ ngay lập tức phá vỡ sự sắp xếp của tinh linh dục vọng và khôi phục thể cảm dục trở lại tình trạng chính xác như trong cuộc sống, với tất cả các loại vật chất hòa trộn theo cách tự nhiên, để người chết có thể nhận thức toàn bộ cõi cảm dục, thay vì chỉ một phân khu của nó. Bằng cách này, đời sống cảm dục của y hoàn hảo ngay từ đầu, và y có thể trở thành một người hữu ích hơn nhiều so với khi y chỉ bị giới hạn trong nhận thức của một phân khu duy nhất.

Still, as I explained in The Inner Life, Vol. I, in the chapter on spheres, there is just this much of truth behind the idea of location as connected with the sub-planes. Here on the surface of the earth we are in presence of matter in the solid, liquid, gaseous and etheric conditions. But it is undoubtedly true that, broadly speaking, the solid matter forms the basic, that the liquid matter is usually resting upon it, and that the gaseous matter rests upon both of these lower forms. There is a certain amount of solid matter and a great deal of liquid matter floating in the air above us, but still it remains broadly true that the zone of solid matter is limited by the surface of the earth, and the zone of liquid matter by the upper surface of the clouds, while the zone of gaseous matter extends a great many miles above that, and the zone of specialised etheric matter a great deal farther still. So that although all classes of matter exist around us here, we might yet say that in one sense each has a zone of its own, and that in each case the zone of a finer type of matter extends somewhat farther from the centre of the earth than the zone of the denser type of matter next below it.

Tuy nhiên, như tôi đã giải thích trong cuốn The Inner Life, Vol. I, trong chương nói về các bầu, có một sự thật nhất định đằng sau ý niệm về vị trí liên quan đến các cõi phụ. Ở đây, trên bề mặt trái đất, chúng ta hiện diện trước vật chất ở các điều kiện rắn, lỏng, khí và dĩ thái. Nhưng không nghi ngờ gì nữa, về cơ bản, vật chất rắn tạo thành nền tảng, vật chất lỏng thường nằm trên nó, và vật chất khí nằm trên cả hai dạng thấp hơn này. Có một lượng vật chất rắn nhất định và rất nhiều vật chất lỏng nổi trong không khí trên chúng ta, nhưng vẫn là sự thật rằng vùng vật chất rắn bị giới hạn bởi bề mặt trái đất, vùng vật chất lỏng bị giới hạn bởi bề mặt trên của các đám mây, trong khi vùng vật chất khí mở rộng rất nhiều dặm trên đó, và vùng vật chất dĩ thái chuyên biệt mở rộng xa hơn nữa. Vì vậy, mặc dù tất cả các loại vật chất đều tồn tại xung quanh chúng ta ở đây, chúng ta vẫn có thể nói rằng, theo một nghĩa nào đó, mỗi loại có một vùng của riêng mình, và trong mỗi trường hợp, vùng của loại vật chất tinh tế hơn kéo dài xa hơn từ trung tâm trái đất so với vùng của loại vật chất dày đặc hơn nằm bên dưới nó.

A similar condition exists with regard to astral matter. All possible kinds of it exist here close about us, and the great majority of the denizens of the astral world spend most of their lives comparatively near to the surface of the physical earth; but as they withdraw into themselves, and their consciousness touches the higher types of matter, they find it easier and more natural than before to soar away from that surface into regions where there are fewer disturbing currents. I was once brought into touch with the case of a dead man who informed a friend of mine, during a series of spiritualistic séances, that he frequently found himself about five hundred miles above the surface of the earth. In this case the questioner was one who was well versed in occultism, and who would therefore know well how to conduct his enquiries and the investigations of his friend on the other side intelligently and scientifically; so that there might well be some truth in his friend’ s assertions.

Một tình trạng tương tự cũng tồn tại đối với vật chất cảm dục. Tất cả các loại vật chất có thể có đều tồn tại ở đây gần chúng ta, và phần lớn cư dân của cõi cảm dục dành hầu hết cuộc đời của họ ở gần bề mặt trái đất hồng trần; nhưng khi họ rút vào trong chính mình, và tâm thức của họ tiếp xúc với các loại vật chất cao hơn, họ nhận thấy rằng dễ dàng và tự nhiên hơn trước để bay khỏi bề mặt đó vào những vùng có ít dòng chảy gây nhiễu hơn. Tôi đã từng được liên hệ với trường hợp một người đã chết thông báo cho một người bạn của tôi, trong một loạt các buổi lên đồng, rằng y thường xuyên thấy mình cách bề mặt trái đất khoảng năm trăm dặm. Trong trường hợp này, người hỏi là một người am hiểu về huyền bí học, và do đó biết rõ cách đặt câu hỏi và tiến hành các cuộc điều tra của mình một cách thông minh và khoa học; vì vậy có thể có một phần sự thật trong những tuyên bố của người bạn đã khuất của y.

The finer types of astral matter extend almost to the orbit of the moon, whence the name that the Greeks gave to the astral plane—the sublunar world. In fact, so nearly does the limit of astral matter coincide with that orbit, that the astral envelopes of the moon and the earth usually touch one another at perigee, but not at apogee. I knew, likewise, of a case in which a dead man reached the moon, but could not then return. That was because the continuity of astral matter failed him—the tide of space had flowed in between, as it were, and he had to wait until communication was re-established the approach of the satellite to its primary.

Các loại vật chất cảm dục tinh tế hơn mở rộng gần đến quỹ đạo của mặt trăng, do đó có tên gọi mà người Hy Lạp đã đặt cho cõi cảm dục—thế giới dưới mặt trăng. Trên thực tế, giới hạn của vật chất cảm dục gần như trùng khớp với quỹ đạo đó, đến nỗi các lớp vỏ cảm dục của mặt trăng và trái đất thường chạm nhau ở cận điểm, nhưng không ở viễn điểm. Tôi cũng biết về một trường hợp mà một người đã chết đã đến được mặt trăng, nhưng sau đó không thể quay trở lại. Điều đó xảy ra vì sự liên tục của vật chất cảm dục đã đứt đoạn với y—dòng chảy của không gian như thể đã chảy vào giữa, và y phải chờ cho đến khi liên lạc được thiết lập lại khi vệ tinh đến gần với hành tinh mẹ của nó.

HEAVEN-LIFE CONDITIONS—TÌNH TRẠNG CÕI TRỜI

The principal difficulty in understanding the conditions of the heaven-world comes from our inveterate habit of thinking of the personality as the man. If two friends are bound by ties of affection, we must try to remember that the bond is between the souls and not the bodies—that they are friends now on earth because in quite different bodies they have known and loved each other perhaps for thousands of years. That fact draws their physical bodies together on this plane, but it does not enable them to understand more of one another than their physical capabilities permit; and further, each wears three heavy veils, in the shape of the mental, astral and physical bodies, to conceal his real self from the other.

Khó khăn chính trong việc thấu hiểu các điều kiện của thế giới thiên đàng bắt nguồn từ thói quen bám rễ sâu của chúng ta trong việc coi phàm ngã là con người thật sự. Nếu hai người bạn được gắn kết bởi các mối dây tình cảm, chúng ta phải cố gắng nhớ rằng sự gắn kết này nằm ở giữa các linh hồn chứ không phải giữa các thể xác—rằng họ là bạn của nhau ở cõi trần này bởi vì trong những thể xác khác nhau, họ đã từng biết và yêu thương nhau có lẽ qua hàng ngàn năm. Thực tế đó kéo các thể xác hồng trần của họ lại gần nhau trên cõi này, nhưng nó không giúp họ hiểu nhau hơn những gì mà khả năng hồng trần của họ cho phép; hơn nữa, mỗi người đều mang ba tấm màn nặng nề, dưới hình thức các thể trí tuệ, cảm dục và thể xác, để che giấu chân ngã thật sự của mình khỏi người kia.

When one of them dies he passes on to the astral plane, and there he meets his living friend face to face during the sleep of the latter. Even already he can see somewhat more of his friend than before, because for each of them, during those hours of sleep, the heaviest of the three veils has been withdrawn. The dead man is still dealing with the personality of his friend only, and therefore if some great sorrow should fall upon the waking life of that friend, it would inevitably be reflected in his astral life, and the dead man would perceive it. For our sleeping and walking lives are in reality but one, and during our sleep we are aware of that fact, and have the continuous memory of both open before us. You will see, therefore, that the astral body of his living friend (with which the dead man is dealing) is the astral body of the personality, and he is therefore fully conscious of what is happening to that personality.

Khi một người trong số họ qua đời, người đó bước vào cõi cảm dục, và tại đó, họ gặp lại người bạn còn sống của mình đối mặt trong những giờ ngủ của người còn sống. Thậm chí khi đó, họ có thể thấy được một phần nào nhiều hơn về người bạn so với trước đây, bởi vì đối với cả hai, trong những giờ ngủ ấy, tấm màn nặng nề nhất trong ba tấm màn đã được gỡ bỏ. Người chết vẫn đang giao tiếp với phàm ngã của bạn mình, vì vậy nếu một nỗi buồn lớn nào đó rơi vào đời sống thức của người bạn, nó chắc chắn sẽ phản chiếu lên đời sống cảm dục của người đó, và người chết sẽ nhận ra điều đó. Bởi vì cuộc sống khi ngủ và cuộc sống khi thức thực tế là một, và trong giấc ngủ, chúng ta nhận thức được điều đó, và có ký ức liên tục của cả hai mở ra trước chúng ta. Do đó, các bạn sẽ thấy rằng thể cảm dục của người bạn còn sống (mà người chết đang tương tác) là thể cảm dục của phàm ngã, và vì vậy người chết hoàn toàn ý thức được những gì đang xảy ra với phàm ngã đó.

When the heaven-world is reached all this is changed. The dead man is then functioning in his mental body—the same mental body which he has used during his past earth-life; but he does not meet there the mental body which his friend is using during life. On the contrary, the dead man himself by his thought builds for his friend an entirely separate mental body, and it is the ego of his friend which ensouls it, working from its own level and from the causal body. This is an additional opportunity for mental-plane activity for the friend, and is entirely separate in every way from the personality of his physical life.

Khi thế giới thiên đàng được đạt đến, mọi thứ này đều thay đổi. Người chết khi đó hoạt động trong thể trí—thể trí mà họ đã sử dụng trong suốt đời sống trần gian trước đây; nhưng họ không gặp thể trí mà người bạn của họ đang sử dụng trong đời sống trần gian. Ngược lại, chính người chết tự mình, bằng tư tưởng, tạo ra cho bạn mình một thể trí hoàn toàn riêng biệt, và chính là chân ngã của người bạn nhập vào thể ấy, hoạt động từ cấp độ của chân ngã và từ thể nhân quả. Đây là một cơ hội bổ sung cho hoạt động trên cõi trí đối với người bạn, và hoàn toàn tách biệt về mọi mặt với phàm ngã của cuộc sống hồng trần.

It is not possible for one man to ensoul more than one physical body at one time, but it is quite possible for him to ensoul simultaneously any number of the thought-forms which other people may make of him on the mental plane in the course of their heaven-life. I think it is a misunderstanding of this fact which had led some to think that several physical bodies may be incarnations of one man.

Không thể nào một con người nhập vào nhiều hơn một thể xác cùng một lúc, nhưng hoàn toàn có thể cho y nhập vào cùng lúc bất kỳ số lượng nào của các hình tư tưởng mà người khác có thể tạo ra về y trên cõi trí trong quá trình sống thiên đàng của họ. Tôi nghĩ rằng sự hiểu lầm về thực tế này đã dẫn một số người nghĩ rằng nhiều thể xác có thể là sự hiện hình của một người.

You will see, therefore, that any sorrow or trouble which may fall upon the personality of the living man, and may conceivably influence his mental body, will not in the least affect his other thought-form which his ego is using as an additional mental body. If in that manifestation he knows at all of such sorrow or trouble, he will regard it as he would from the causal body—that is to say, it will not be to him a sorrow or trouble at all, but only a lesson, or the working out of some karma. There is no delusion at all in this view of his, because he is seeing the matter as it really is, from the point of view of the ego on his own plane. It is our lower personal view that is the delusion, because we see sorrow and trouble where in reality there are only the steps on our upward way.

Các bạn sẽ thấy rằng bất kỳ nỗi buồn hay rắc rối nào có thể ập đến phàm ngã của người còn sống, và có thể ảnh hưởng đến thể trí của y, sẽ không ảnh hưởng gì đến hình tư tưởng khác mà chân ngã của y đang sử dụng như một thể trí bổ sung. Nếu trong biểu hiện đó y biết về nỗi buồn hay rắc rối, y sẽ coi chúng như y đang nhìn từ thể nhân quả—có nghĩa là, với y chúng không phải là nỗi buồn hay rắc rối, mà chỉ là một bài học, hoặc là sự vận hành của một nghiệp quả nào đó. Quan điểm này của y hoàn toàn không phải là ảo tưởng, bởi vì y đang nhìn vấn đề như thực tế vốn có, từ quan điểm của chân ngã trên cõi của nó. Chính quan điểm phàm ngã của chúng ta mới là ảo tưởng, vì chúng ta thấy nỗi buồn và rắc rối ở nơi thực tế chỉ có những bước đi trên con đường thăng tiến của chúng ta.

The two friends may know far more of each other at that level, because each has now only one veil, that of the mental body, cast over his individuality; but there is still that veil. If the dead man has known only one side of his friend during life, it will be only through that side that the friend can express himself in the heaven-world. He can express that side of himself much more fully and satisfactorily than ever before; but he is largely confined to that side. Still, it is a fuller expression than the dead man has ever been able to see upon the lower planes. He by no means forgets that there is such a thing as suffering, because he remembers clearly his past life; but he understands now many things that were not clear when he was on the physical plane, and the delight of the present is for him so great that sorrow seems to him almost like a dream.

Hai người bạn có thể hiểu rõ hơn rất nhiều về nhau ở cấp độ đó, bởi vì mỗi người giờ đây chỉ còn một tấm màn duy nhất, đó là thể trí, phủ lên cá tính của họ; nhưng vẫn còn tồn tại tấm màn đó. Nếu người chết chỉ biết một khía cạnh của bạn mình trong suốt đời sống, thì chỉ qua khía cạnh đó mà bạn mình có thể thể hiện bản thân trong thế giới thiên đàng. Người bạn có thể thể hiện khía cạnh đó của mình đầy đủ và thỏa mãn hơn bao giờ hết; nhưng y vẫn phần lớn bị giới hạn bởi khía cạnh đó. Tuy nhiên, đây vẫn là một biểu hiện đầy đủ hơn so với những gì mà người chết đã từng có thể thấy được trên các cõi thấp. Người chết không hề quên rằng có tồn tại nỗi đau, bởi vì y nhớ rất rõ đời sống quá khứ của mình; nhưng giờ đây y hiểu nhiều điều mà y chưa rõ khi còn ở cõi hồng trần, và niềm vui hiện tại đối với y lớn đến mức nỗi buồn dường như chỉ như một giấc mơ.

It is asked how we who still live on earth converse with our friends in heaven; if by we you mean our personality, that does not converse with friends in heaven. The real ego does do so, as has been said, but in the veil of this personality we know nothing of that.

Có người hỏi rằng chúng ta, những người vẫn còn sống trên Trái đất, trò chuyện với bạn bè của chúng ta ở thiên đàng bằng cách nào; nếu “chúng ta” nghĩa là phàm ngã của chúng ta, thì nó không trò chuyện với bạn bè ở thiên đàng. Chân ngã thật sự có làm điều đó, như đã nói, nhưng trong tấm màn của phàm ngã này chúng ta không biết gì về điều đó.

Suppose that a good Catholic mother died, who dearly loved her daughter, and that after the mother had reached the heaven-world, her daughter embraced Theosophy. The mother would go on imagining her daughter as merely orthodox; would she not in this be under a delusion? Yes, she would, for this is an instance of one of the possible limitations to which I have previously referred. If the mother could see only such of her daughter’ s thought as could be expressed by orthodox ideas, there would naturally be points in the new revelation which had come to the daughter which the mother would be little able to grasp. But in so far as the ego of the daughter profited by what the personality had learnt, there would be a tendency on her part gradually to widen out and perfect the conception of the mother, but always along the lines to which the mother was accustomed. There would be no sense of difference of opinion, and no avoidance of subjects of religion.

Giả sử rằng một người mẹ Công giáo tốt lành qua đời, người mẹ yêu thương con gái của mình rất nhiều, và sau khi người mẹ đạt đến thế giới thiên đàng, người con gái trở thành người theo Thông Thiên Học. Người mẹ sẽ tiếp tục tưởng tượng con gái mình chỉ đơn thuần là người chính thống; liệu điều này có phải là ảo tưởng không? Vâng, đúng vậy, vì đây là một ví dụ về một trong những giới hạn có thể xảy ra mà tôi đã đề cập trước đó. Nếu người mẹ chỉ có thể thấy những suy nghĩ của con gái mình có thể được thể hiện qua các ý tưởng chính thống, thì sẽ có những điểm trong sự mặc khải mới mà người con gái nhận được mà người mẹ ít có khả năng nắm bắt. Nhưng trong chừng mực chân ngã của người con gái thu được lợi ích từ những gì phàm ngã của cô đã học được, thì sẽ có một xu hướng nơi người mẹ dần dần mở rộng và hoàn thiện quan niệm của mình về con gái, nhưng luôn luôn theo những hướng mà người mẹ quen thuộc. Sẽ không có cảm giác khác biệt về quan điểm, và không tránh né các chủ đề về tôn giáo.

You will understand that I am speaking here of the ordinary person; in the case of a more advanced man who was already fully conscious in the causal body, he would put himself down consciously into the thought-form provided for him by a friend in the heaven-world, as into an additional mental body, and work through it with definite intention; so that if such a man should acquire additional knowledge he could directly and intentionally communicate it to that friend. In this way the Masters work on such of their pupils as take the heaven-life, and alter their characters immensely.

Các bạn sẽ hiểu rằng tôi đang nói ở đây về người bình thường; trong trường hợp của một người tiến bộ hơn, người đã hoàn toàn ý thức trong thể nhân quả, y sẽ tự đưa mình xuống một cách có ý thức vào hình tư tưởng mà người bạn của mình đã tạo ra cho y ở thế giới thiên đàng, giống như một thể trí bổ sung, và làm việc thông qua nó với ý định rõ ràng; vì vậy, nếu một người như vậy đạt được kiến thức bổ sung, y có thể trực tiếp và có chủ ý truyền đạt nó cho người bạn đó. Theo cách này, các Chân sư làm việc trên những học trò của mình khi họ trải qua đời sống thiên đàng, và thay đổi tính cách của họ rất nhiều.

A man’ s condition in the heaven-life depends upon the amount of spiritual force in him. Of two people of the same class or type the more spiritual would naturally remain a longer time; but it must be borne in mind that the force may be used up quickly or slowly according to the necessities of each man’ s evolution. Those who have devoted themselves especially to the work of serving the Great Ones, and through them humanity, are likely in this respect to have experiences differing somewhat from the ordinary. It is evident that our Masters have already, many millennia ago, formed a special band of servers and helpers from those who have offered themselves for such work, and They use this body of men as a kind of regiment of pioneers to be sent wherever special work of that kind is needed.

Điều kiện của một người trong đời sống thiên đàng phụ thuộc vào lượng lực tinh thần trong y. Trong hai người cùng giai cấp hoặc loại hình, người có tính tinh thần hơn sẽ tự nhiên ở lại lâu hơn; nhưng cần nhớ rằng lực đó có thể được sử dụng nhanh chóng hay chậm chạp tùy theo nhu cầu của sự tiến hóa của từng người. Những ai đã đặc biệt tận tụy với công việc phụng sự các Đấng Cao Cả, và thông qua các Ngài phụng sự nhân loại, sẽ có khả năng có những trải nghiệm khác biệt đôi chút so với người bình thường trong khía cạnh này. Rõ ràng là các Chân sư của chúng ta đã, từ nhiều thiên niên kỷ trước, hình thành một đoàn thể đặc biệt gồm những người phụng sự và trợ giúp từ những người đã tự nguyện cống hiến cho công việc như vậy, và các Ngài sử dụng đoàn thể này như một loại quân tiên phong để được phái đi bất cứ nơi nào có nhu cầu về công việc đặc biệt thuộc loại đó.

Those who have read the lives of Alcyone, as published in The Theosophist, will realise that the hero of that remarkable story is a member of that band—or perhaps we should rather say of one of those bands; and for that reason it will be found that over and over again the same set of people come together in all sorts of different places, in their successive incarnations. It is obvious that in a group of a hundred people there must be many divergences; some of them will assuredly generate more spiritual force than others, and their karma would naturally be such as to take them into differing surroundings, yet the one great fact that they are devoted to service overpowers all these considerations, and they are brought together in order that they may be utilised as a whole.

Những ai đã đọc tiểu sử của Alcyone, như được công bố trong tạp chí Thông Thiên Học, sẽ nhận ra rằng nhân vật chính của câu chuyện đáng chú ý đó là thành viên của đoàn thể ấy—hoặc có lẽ chúng ta nên nói là một trong những đoàn thể đó; và vì lý do đó, sẽ thấy rằng cùng một nhóm người thường xuyên gặp lại nhau ở nhiều nơi khác nhau trong các kiếp luân hồi kế tiếp của họ. Rõ ràng là trong một nhóm gồm một trăm người sẽ có nhiều khác biệt; một số trong số họ chắc chắn sẽ tạo ra nhiều lực tinh thần hơn những người khác, và nghiệp quả của họ sẽ tự nhiên đưa họ vào những môi trường khác nhau, nhưng sự thật lớn rằng họ cống hiến cho phụng sự sẽ vượt qua tất cả những cân nhắc đó, và họ được đưa lại với nhau để họ có thể được sử dụng như một tổng thể.

Be sure that in this there is no injustice, and that no one of them, for this or any other reason, escapes one jot of the karma which is legitimately due to him. Indeed, those who offer themselves for service not infrequently suffer considerably in the course of that service—sometimes because it is necessary that their past karma should be cleared up quickly, in order that they may be free to do higher work without any hindrance from it, and in other cases because their work may have made it impossible for them to reap life after life the karma that would otherwise have come to them, and so a considerable accumulation may descend upon them at once in some gigantic catastrophe. Instances of the working of both these methods may be found in the lives of Alcyone.

Hãy chắc chắn rằng trong điều này không có bất công nào cả, và không ai trong số họ, vì lý do này hay bất kỳ lý do nào khác, trốn thoát khỏi một chút nghiệp quả nào xứng đáng với y. Thật vậy, những ai tự nguyện phụng sự thường không ít lần phải chịu đựng nhiều trong quá trình phụng sự đó—đôi khi vì cần thiết phải thanh toán nhanh chóng nghiệp quả quá khứ của họ, để họ có thể được tự do làm công việc cao hơn mà không gặp trở ngại nào từ nó, và trong những trường hợp khác vì công việc của họ có thể đã khiến họ không thể gặt hái nghiệp quả lẽ ra sẽ đến với họ qua nhiều kiếp, và vì vậy một sự tích lũy lớn có thể ập đến họ một lúc trong một thảm họa lớn. Những ví dụ về hoạt động của cả hai phương pháp này có thể được tìm thấy trong cuộc đời của Alcyone.

In the case of the great bulk of humanity there is no special interference from without, and the heaven-life of each works itself out at whatever may be its ordinary rate. Naturally this difference in the time of working out involves also a difference of intensity which is shown by a greater or less brilliancy in the light of the mental body. The more developed man, especially if he has before him the idea of service, usually generates karma during his heaven-life, and thus he may modify it even while it is in progress.

Đối với phần lớn nhân loại, không có sự can thiệp đặc biệt nào từ bên ngoài, và đời sống thiên đàng của mỗi người diễn ra theo tốc độ bình thường của nó. Tự nhiên sự khác biệt về thời gian hoạt động này cũng liên quan đến sự khác biệt về cường độ, điều này được thể hiện bằng độ sáng nhiều hay ít trong ánh sáng của thể trí. Người tiến bộ hơn, đặc biệt nếu y có trước mắt ý tưởng về phụng sự, thường tạo nghiệp quả trong suốt đời sống thiên đàng của mình, và nhờ đó y có thể điều chỉnh nghiệp quả ngay cả khi nó đang diễn ra.

It is true that Madame Blavatsky states in The Key To Theosophy that it is impossible for a materialist to have any heaven-life, as he had not while on earth believed in any such condition; but it seems probable that she was employing the word materialist in a more restricted sense than that in which it is generally used, for in the same volume she also asserts that for them no conscious life after death is possible at all, whereas it is a matter of common knowledge among those whose nightly work lies upon the astral plane that many of those whom we usually call materialists are to be met with there, and are certainly not unconscious.

Sự thật là bà Blavatsky đã tuyên bố trong “The Key To Theosophy” rằng một người duy vật không thể có đời sống thiên đàng, bởi vì khi còn trên cõi trần, y không tin vào bất kỳ điều kiện như vậy; nhưng có vẻ bà đã sử dụng từ “duy vật” theo nghĩa hẹp hơn so với cách nó thường được sử dụng, bởi vì trong cùng một tác phẩm bà cũng khẳng định rằng đối với họ, không có đời sống ý thức nào sau khi chết là có thể, trong khi thực tế là điều này đã được công nhận rộng rãi giữa những ai có công việc hàng đêm trên cõi cảm dục rằng nhiều người mà chúng ta thường gọi là người duy vật vẫn gặp được ở đó, và chắc chắn không phải là những người vô thức.

For example, a prominent materialist intimately known to one of our members was not long ago discovered by his friend in the highest subdivision of the astral world, where he had surrounded himself with his books and was continuing his studies almost as he might have done on earth. On being questioned by his friend he readily admitted that the theories which he had held while on earth were confuted by the irresistible logic of facts, but his own agnostic tendencies were still strong enough to make him unwilling to accept what his friend told him as to the existence of the still higher spiritual state of the heaven-world. Yet there was certainly much in this man’ s character which could find its full result only in the heaven-world, and since his entire disbelief in any life after death has not prevented his astral experience, there seems no reason to suppose that it can check the due working out of the higher forces in him upon the mental plane.

Ví dụ, một người duy vật nổi tiếng mà một trong những thành viên của chúng tôi biết rõ, không lâu trước đây đã được phát hiện bởi người bạn của mình ở phân khu cao nhất của cõi cảm dục, nơi y bao quanh mình với những cuốn sách và tiếp tục các nghiên cứu của mình gần như y đã làm ở cõi trần. Khi được người bạn hỏi, y thừa nhận rằng các lý thuyết mà y đã giữ khi còn sống đã bị bác bỏ bởi lý lẽ không thể cưỡng lại của các sự kiện, nhưng khuynh hướng hoài nghi của y vẫn đủ mạnh để khiến y không muốn chấp nhận những gì mà người bạn đã nói với y về sự tồn tại của trạng thái tinh thần cao hơn của thế giới thiên đàng. Tuy nhiên, chắc chắn có nhiều đặc điểm trong tính cách của người này chỉ có thể đạt đến kết quả đầy đủ của chúng trên cõi thiên đàng, và vì sự hoàn toàn không tin vào bất kỳ đời sống nào sau cái chết không ngăn cản được trải nghiệm của y trên cõi cảm dục, không có lý do gì để cho rằng nó có thể ngăn chặn được việc vận hành chính đáng của các lực lượng cao hơn trong y trên cõi trí.

We constantly find down here that nature makes no allowance for our ignorance of her laws; if, under an impression that fire does not burn, a man puts his hand into a flame, he is speedily convinced of his error. In the same way a man’ s disbelief in a future existence does not affect the facts of nature, and in some cases at least he simply finds out after death that he was under a mistake. The kind of materialism referred to by Madame Blavatsky was probably something much coarser and more aggressive than ordinary agnosticism—something which would render it exceedingly unlikely that a man who held it would have any qualities requiring a heaven-life in which to work themselves out; but no such case as that has yet come under our observation.

Chúng ta thường nhận thấy rằng tự nhiên không hề dung thứ cho sự vô minh của chúng ta về các định luật của mình; nếu một người dưới ấn tượng rằng lửa không cháy, đưa tay vào ngọn lửa, y sẽ nhanh chóng bị thuyết phục rằng mình đã sai lầm. Cũng vậy, sự không tin vào một sự tồn tại tương lai của một người không ảnh hưởng đến các sự kiện của tự nhiên, và ít nhất trong một số trường hợp, người đó chỉ đơn giản là nhận ra sau khi chết rằng mình đã mắc sai lầm. Loại chủ nghĩa duy vật mà bà Blavatsky đề cập có lẽ là một thứ gì đó thô kệch hơn và hung hãn hơn sự hoài nghi thông thường—một điều mà sẽ khiến cho một người giữ nó khó có thể có bất kỳ phẩm tính nào yêu cầu một đời sống thiên đàng để chúng có thể hoạt động; nhưng cho đến nay, chúng tôi chưa gặp phải trường hợp nào như vậy.

KARMA IN THE HEAVEN LIFE—
NGHIỆP QUẢ TRONG ĐỜI SỐNG CÕI TRỜI

In the earlier days of our study of Theosophy we were led to look upon all other worlds but the physical as almost exclusively the theatre of results and not of causes. It was supposed that man spent his physical life to a large extent in generating karma, and his existence on the astral and mental planes in working it out, and the suggestion that a man could by any means make any more karma, even on the astral plane, was regarded as almost heretical.

Trong những ngày đầu nghiên cứu Thông Thiên Học, chúng ta được dẫn dắt nhìn nhận tất cả các cõi khác ngoài cõi trần hầu như chỉ là sân khấu của các kết quả, chứ không phải là các nguyên nhân. Người ta cho rằng con người dành phần lớn cuộc đời mình trên cõi hồng trần để tạo ra nghiệp quả, và sự tồn tại của họ trên các cõi cảm dục và trí tuệ là để giải quyết nghiệp quả đó. Ý tưởng rằng một người có thể tạo thêm nghiệp, ngay cả trên cõi cảm dục, đã bị coi là gần như dị giáo.

As the years rolled on and some of us became able to study astral conditions at first-hand, it became obvious that this idea had been an error, since it was manifestly possible for us in working on that plane to performs actions of various sorts which produced far-reaching results, We soon saw also that not only the man still attached to a physical body could produce these results, but that they were equally within the power of one who had cast off that vehicle. We found that any developed man is in every way quite as active during his astral life after physical death as during his physical life before it; that he can unquestionably help or hinder not only his own progress but that of others quite as much after death as before, and consequently that he is all the time generating karma of the greatest importance.

Khi năm tháng trôi qua và một số người trong chúng ta có khả năng nghiên cứu trực tiếp các điều kiện của cõi cảm dục, rõ ràng rằng ý tưởng này là một sai lầm, vì rõ ràng chúng ta có thể thực hiện những hành động trên cõi đó có những kết quả sâu rộng. Chúng ta nhanh chóng thấy rằng không chỉ con người vẫn còn gắn kết với thể xác có thể tạo ra những kết quả này, mà nó cũng nằm trong khả năng của người đã rũ bỏ thể xác hồng trần. Chúng ta nhận thấy rằng bất kỳ người phát triển nào cũng hoạt động đầy đủ trong đời sống cảm dục sau khi chết không kém gì trong cuộc sống trần gian trước đó; rằng y chắc chắn có thể giúp đỡ hoặc cản trở không chỉ tiến bộ của mình mà còn cả của người khác sau khi chết cũng như trước đó, và do đó, y liên tục tạo ra nghiệp quả có tầm quan trọng lớn.

This modified view of after-death conditions gradually found its way into our literature, and may be considered now as universally accepted by all Theosophists. But for many years after we had corrected our misconceptions upon this important point, we still held to the idea that in the heaven-world at least man could do practically nothing but enjoy the conditions which he had made for himself during the previous stages of his existence. Broadly speaking, this is true for the ordinary man, though we do not always realize that even in the course of that enjoyment the inhabitant of the heaven-world is affecting others, and therefore producing results.

Quan điểm được điều chỉnh này về các điều kiện sau cái chết dần dần tìm được đường vào văn học của chúng ta và bây giờ có thể được coi là được tất cả các nhà Thông Thiên Học chấp nhận. Nhưng trong nhiều năm sau khi chúng ta đã sửa chữa những quan niệm sai lầm của mình về điểm quan trọng này, chúng ta vẫn giữ ý tưởng rằng ít nhất ở cõi thiên đàng, con người không thể làm gì khác ngoài việc tận hưởng các điều kiện mà y đã tạo ra cho chính mình trong các giai đoạn trước đó của sự tồn tại. Nói chung, điều này đúng với người bình thường, mặc dù chúng ta không phải lúc nào cũng nhận ra rằng ngay cả trong quá trình tận hưởng đó, cư dân của cõi thiên đàng vẫn ảnh hưởng đến người khác và do đó tạo ra kết quả.

One who has succeeded in raising his consciousness to the level of the causal body has already unified the higher and lower selves (to use the older terminology), and to him the statements made as to average humanity naturally do not apply. Such an one has the consciousness of the ego at his disposal during the whole of his physical life, and that is not at all affected by the death of the physical body, nor even by the second and third deaths in which he leaves behind him the astral and the mental bodies respectively. For him the whole of that series of incarnations is only one long life, and what we call an incarnation is to him a day in that life. All through his human evolution his consciousness is fully active, and it naturally follows that he is making karma just as much at one period of it as at another; and while his condition at any one moment is the result of the causes which he has set in motion in the past, there is no instant at which he is not modifying his conditions by the exercise of thought and will.

Một người đã thành công trong việc nâng cao tâm thức của mình lên cấp độ của thể nhân quả đã thống nhất phàm ngã và chân ngã (theo thuật ngữ cũ), và với người đó, các tuyên bố liên quan đến nhân loại trung bình tự nhiên không áp dụng. Người như vậy có tâm thức của chân ngã trong suốt cuộc sống trần gian của mình, và điều đó hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cái chết của thể xác, thậm chí không bởi cái chết thứ hai và thứ ba khi y lần lượt rời bỏ các thể cảm dục và trí tuệ. Đối với y, toàn bộ chuỗi hóa thân chỉ là một cuộc sống dài, và điều chúng ta gọi là một hóa thân đối với y chỉ là một ngày trong cuộc đời đó. Trong suốt quá trình tiến hóa nhân loại của mình, tâm thức của y hoạt động đầy đủ, và hiển nhiên là y đang tạo ra nghiệp quả nhiều ở một giai đoạn như ở một giai đoạn khác; và mặc dù tình trạng của y ở bất kỳ thời điểm nào là kết quả của những nguyên nhân mà y đã khởi động trong quá khứ, không có khoảnh khắc nào mà y không điều chỉnh tình trạng của mình bằng việc sử dụng tư tưởng và ý chí.

Men who have reached that level are at present rare; but there are others who possess a similar power in a minor degree. Every human being, after he has passed through his life on the astral and lower mental planes, has a momentary flash of the consciousness of the ego, in which he sees his last life as a whole, and gathers from it the impression of success or failure in the work which it was meant to do; and along with this he has also a forecast of the life before him, with the knowledge of the general lesson which that is to teach, or the specific progress which he is intended to make in it. Only very slowly does the ego awaken to the value of these glimpses, but when he comes to understand them he naturally begins to make use of them.

Những người đã đạt đến cấp độ đó hiện nay rất hiếm; nhưng có những người khác có sức mạnh tương tự ở mức độ nhỏ hơn. Mỗi con người, sau khi đã trải qua đời sống của mình trên các cõi cảm dục và hạ trí, có một tia chớp ngắn ngủi của tâm thức chân ngã, trong đó y nhìn thấy cuộc đời cuối cùng của mình như một tổng thể và rút ra ấn tượng về thành công hoặc thất bại trong công việc mà cuộc đời đó được định làm; và cùng với điều này, y cũng có một cái nhìn tiên tri về cuộc đời sắp tới của mình, với sự hiểu biết về bài học chung mà cuộc đời đó phải dạy hoặc tiến bộ cụ thể mà y dự định đạt được trong đó. Chỉ rất chậm rãi chân ngã mới thức tỉnh với giá trị của những cái nhìn thoáng qua này, nhưng khi y bắt đầu hiểu chúng, y tự nhiên bắt đầu sử dụng chúng.

Thus by imperceptible degrees he arrives at a stage in his evolution when this glimpse is no longer momentary—when he is able to consider the question much more fully, and to devote some time to his plans for the life which lies before him. His consciousness gradually increases, and he comes to have an appreciable life on the higher levels of the mental plane each time that he touches them. When he arrives at this stage he soon finds that he is one among a vast number of other egos, and that he can do something else with his life among them besides making plans for his own future. He may and does live a conscious life among his peers, in the course of which he influences them in many ways, and is himself influenced in turn. Here therefore is a possibility of making karma, and of making it on a scale which is entirely out of his reach on these lower planes, for every thought on those higher mental levels has a force quite out of proportion to that of our limited thought during physical life.

Nhờ đó, từng bước một cách không nhận thấy, y đạt đến một giai đoạn trong quá trình tiến hóa của mình khi cái nhìn này không còn chỉ là thoáng qua nữa—khi y có thể xem xét câu hỏi đầy đủ hơn nhiều và dành thời gian để lập kế hoạch cho cuộc sống đang chờ đợi trước mặt mình. Tâm thức của y dần tăng lên, và mỗi khi y chạm vào các cấp độ cao hơn của cõi trí, y có một cuộc sống có ý nghĩa trên những cấp độ đó. Khi y đạt đến giai đoạn này, y nhanh chóng nhận ra rằng y là một trong số rất nhiều chân ngã khác, và y có thể làm điều gì đó với cuộc sống của mình giữa những người đồng loại ngoài việc lập kế hoạch cho tương lai của chính mình. Y có thể và thực sự sống một cuộc sống có ý thức giữa các chân ngã khác, trong quá trình đó y ảnh hưởng đến họ theo nhiều cách và bản thân y cũng bị ảnh hưởng ngược lại. Do đó, đây là một khả năng tạo ra nghiệp quả, và tạo ra nó ở một quy mô hoàn toàn nằm ngoài tầm với của y ở các cõi thấp hơn, vì mỗi tư tưởng trên các cấp độ trí tuệ cao hơn đó có một sức mạnh hoàn toàn không tương xứng so với sức mạnh tư tưởng hạn chế của chúng ta trong cuộc sống trần gian.

This of which I am speaking is quite distinct from the consciousness which comes with the unifying of the higher and lower selves. When that feat has been performed the man’ s consciousness resides in the ego all the time, and from that ego it plays through whatever vehicle he may happen to be using. But in the case of a man who has not yet achieved that union the consciousness of the ego on his own plane comes into activity only when he is no longer hampered by any lower vehicles, and exists only until he puts himself down again into incarnation; for as soon as he takes up a lower body his consciousness can manifest for the time only through that body.

Điều tôi đang nói là hoàn toàn khác biệt với tâm thức xuất hiện cùng với sự hợp nhất của phàm ngã và chân ngã. Khi thành tựu đó đã được thực hiện, tâm thức của người đó cư ngụ trong chân ngã suốt thời gian, và từ chân ngã đó, nó hoạt động thông qua bất kỳ phương tiện nào mà y có thể sử dụng. Nhưng trong trường hợp của một người chưa đạt được sự hợp nhất đó, tâm thức của chân ngã trên cõi của nó chỉ hoạt động khi y không còn bị cản trở bởi các phương tiện thấp hơn, và nó chỉ tồn tại cho đến khi y nhập trở lại vào một hóa thân; vì ngay khi y nhận lấy một thể thấp hơn, tâm thức của y chỉ có thể biểu hiện thông qua thể đó trong một thời gian.

Short of that perfect consciousness of the ego, there are stages of development which it is necessary to note. The ordinary ‘man in the street’ has usually no definite and reliable consciousness outside of the physical plane. His astral body may be fully developed and quite capable of being used as a vehicle in any and every way; yet he is probably not in the habit of so using it, and therefore his experiences of the astral world are of a vague and uncertain character. He may sometimes remember one of them vividly, but on the whole the time of the sleep of the physical body is for him a blank.

Trước khi đạt được tâm thức hoàn hảo của chân ngã, có những giai đoạn phát triển cần được lưu ý. Người “bình thường trên đường phố” thường không có tâm thức rõ ràng và đáng tin cậy bên ngoài cõi trần. Thể cảm dục của y có thể đã phát triển đầy đủ và hoàn toàn có khả năng được sử dụng như một phương tiện theo bất kỳ cách nào; nhưng y có lẽ không có thói quen sử dụng nó, và do đó những trải nghiệm của y về cõi cảm dục là mơ hồ và không chắc chắn. Đôi khi y có thể nhớ một trong những trải nghiệm đó một cách sống động, nhưng nhìn chung, thời gian ngủ của thể xác là một khoảng trống đối với y.

The next stage beyond this is that of the gradual development of the habit of using the astral body, accompanied as time goes on by some recollection of what is done in it. The end of this is the opening of the astral consciousness, though usually that comes only as the result of definite efforts along the line of meditation. When this opening is attained the man’ s consciousness is continuous through night and day, and up to the end of the astral life, so that he avoids the usual temporary suspension of consciousness at the death of the physical body.

Giai đoạn tiếp theo sau đó là sự phát triển dần dần của thói quen sử dụng thể cảm dục, đi kèm theo thời gian với một số ký ức về những gì đã làm trong đó. Cuối cùng của quá trình này là sự khai mở tâm thức cảm dục, mặc dù thông thường điều này chỉ đến như kết quả của những nỗ lực cụ thể theo hướng tham thiền. Khi sự khai mở này đạt được, tâm thức của người đó liên tục suốt đêm và ngày, và cho đến khi kết thúc đời sống cảm dục, để y tránh được việc tạm thời mất đi tâm thức khi thể xác chết.

The next stage beyond this—a long stage usually—is the development of the consciousness of the mental body, and when that is achieved, each personality remains conscious from physical birth until the end of its life in the heaven-world. But even then it is only the consciousness of the personality, and not yet of the ego, and still another step must be taken before complete unification is attained.

Giai đoạn tiếp theo—thường là một giai đoạn dài—là sự phát triển của tâm thức trí tuệ, và khi điều này được đạt được, mỗi phàm ngã vẫn còn tỉnh thức từ lúc sinh ra cho đến khi kết thúc đời sống trên cõi thiên đàng. Nhưng ngay cả khi đó, đó vẫn chỉ là tâm thức của phàm ngã, chứ chưa phải của chân ngã, và vẫn cần thêm một bước nữa để đạt được sự hợp nhất hoàn toàn.

It is clear that men who have reached any of these stages are making karma as far as their consciousness reaches; but what as to the ordinary man, who has not yet quite succeeded in linking even the astral consciousness to the physical? In so far as he has any activities on the astral plane during sleep, he must be producing results. If he feels, even blindly, love and affection towards certain persons, and goes out towards them during sleep with vague thoughts of good-will, he must inevitably affect them to a certain extent, and the effect must be a good one. Therefore there is no possibility of avoiding a reaction upon himself which will also be good. The same is true if the feeling unfortunately be one of dislike or of active hatred, and the result for him in that case cannot but be painful.

Rõ ràng là những người đã đạt được bất kỳ giai đoạn nào trong số này đều đang tạo ra nghiệp quả cho đến mức mà tâm thức của họ đạt được; nhưng đối với người bình thường, người vẫn chưa thành công trong việc kết nối tâm thức cảm dục với tâm thức hồng trần, thì sao? Trong chừng mực mà y có bất kỳ hoạt động nào trên cõi cảm dục trong giấc ngủ, y phải đang tạo ra các kết quả. Nếu y cảm thấy, thậm chí mù quáng, tình yêu và sự ân cần đối với một số người, và trong giấc ngủ của mình y hướng về họ với những tư tưởng mơ hồ về thiện ý, y chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến họ ở một mức độ nào đó, và ảnh hưởng đó phải là một ảnh hưởng tốt. Do đó, không có khả năng tránh được phản ứng ngược lại bản thân y, và điều này cũng sẽ là tốt. Điều tương tự cũng đúng nếu cảm xúc không may là sự không thích hoặc thù hận mãnh liệt, và kết quả đối với y trong trường hợp đó không thể không đau đớn.

When, after death, he lives entirely in the astral world, his consciousness is usually much more definite than it has been during the sleep of his physical body, and he is correspondingly better able to think and act with determination in regard to other men, and so his opportunities of making good or bad karma are the greater. But when such a man ends his astral life and passes into the heaven-world he reaches a condition where activity is no longer possible for him. He has encouraged activities in his mental body, during life, in certain directions only, and now that he comes to live entirely in that mental body he finds himself enclosed within it as in a tower, shut off from the world around him and able to look out upon it only through the windows in it which he has opened by means of those activities.

Khi, sau khi chết, y sống hoàn toàn trong cõi cảm dục, tâm thức của y thường rõ ràng hơn nhiều so với khi y ngủ trong thể xác của mình, và do đó y có khả năng suy nghĩ và hành động quyết đoán hơn nhiều đối với người khác, và vì thế, cơ hội của y trong việc tạo ra nghiệp quả tốt hoặc xấu cũng lớn hơn. Nhưng khi người như vậy kết thúc đời sống cảm dục và bước vào cõi thiên đàng, y đạt đến một trạng thái mà ở đó hoạt động không còn là điều có thể đối với y. Y đã khuyến khích các hoạt động của thể trí của mình trong cuộc sống, chỉ theo một số hướng nhất định, và bây giờ khi y sống hoàn toàn trong thể trí đó, y thấy mình bị bao vây trong nó như trong một tòa tháp, bị tách biệt khỏi thế giới xung quanh và chỉ có thể nhìn ra ngoài thông qua những cửa sổ trong thể trí mà y đã mở thông qua các hoạt động đó.

Through those windows the mighty forces of the plane play upon him; he responds to them and leads a life of vivid joy—which is, however, confined to those particular lines. But, though he is thus shut away from the full enjoyment of the possibilities of the mental world, it must not be supposed that he is in the slightest degree conscious of any curtailment of his activities or his feelings. He is, on the contrary, filled with bliss to the very utmost of which he is capable, and it is to him incredible that there can be any greater joy than that which he is himself experiencing. True, he has shut himself in within certain limits; but he is quite unconscious of those limits, and he has all that he can possibly desire or think of within them. He has surrounded himself with images of his friends, so that through these images he is actually in closer connection with them than he has ever been on any other plane.

Qua những cửa sổ đó, các lực mạnh mẽ của cõi giới tác động lên y; y phản ứng với chúng và sống một cuộc đời tràn đầy niềm vui mãnh liệt—tuy nhiên, niềm vui này chỉ giới hạn trong những hướng cụ thể đó. Nhưng, mặc dù y bị giới hạn như vậy trong việc tận hưởng đầy đủ các khả năng của cõi trí, không nên nghĩ rằng y có ý thức về bất kỳ sự hạn chế nào của hoạt động hoặc cảm xúc của mình. Ngược lại, y tràn ngập hạnh phúc đến mức cao nhất mà y có thể trải nghiệm, và đối với y, thật không thể tin nổi rằng có thể có niềm vui nào lớn hơn những gì mà y đang trải nghiệm. Đúng là y đã tự giới hạn mình trong một số ranh giới nhất định; nhưng y hoàn toàn không ý thức về những ranh giới đó, và y có tất cả những gì y có thể mong muốn hoặc nghĩ đến trong những ranh giới đó. Y đã tự bao quanh mình bằng các hình ảnh của những người bạn của mình, do đó thông qua những hình ảnh này, y thực sự có sự kết nối chặt chẽ hơn với họ hơn bao giờ hết ở bất kỳ cõi giới nào khác.

Let us see then what are his possibilities for making karma in this curiously limited life—limited, we must remember, from the point of view of the mental world only, for along the lines of its special directions its possibilities are far greater than those of physical life. A man under such conditions cannot originate a fresh line of affection or devotion, but his affection and devotion along the lines which he has already decided will be distinctly much more powerful than they ever could have been while he was labouring under the heavy limitations of the physical body.

Hãy xem xét các khả năng tạo ra nghiệp quả của y trong đời sống bị giới hạn một cách kỳ lạ này—giới hạn, chúng ta phải nhớ, từ quan điểm của cõi trí, vì theo những hướng cụ thể đó, các khả năng của nó còn lớn hơn nhiều so với cuộc sống trần gian. Một người trong hoàn cảnh như vậy không thể khởi đầu một dòng cảm xúc hoặc sự tận tâm mới, nhưng tình cảm và sự tận tâm của y theo những hướng mà y đã quyết định sẽ rõ ràng mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì y từng có thể có trong khi chịu đựng những hạn chế nặng nề của thể xác.

An ordinary man such as we have described is, quite unintentionally and unconsciously to himself, producing three separate results, during the whole of his heaven-life. Let us take as an example the emotion of affection. He feels this strongly for certain friends, and it is probable that even after his death those friends still think of him with kindly remembrance, and thus his memory is not without its effect even upon their personalities. But entirely apart from this is the effect to which I have above referred—that he makes an image of each friend and, in so doing, draws forth a strong response from the ego of that friend. The affection which he pours upon that ego (manifesting through the thought-form which he has made for it) is a mighty power for good, which bears no inconsiderable part in the evolution of that ego. It evokes from him an amount of affection which would not otherwise be stirred up in him; and the steady intensification of that most admirable quality throughout the centuries of the heaven-life raises the friend considerably in the scale of evolution. To do this for another ego is unquestionably an act which generates karma, even though the man who has set all this machinery in motion has done so uncomprehendingly.

Một người bình thường như chúng ta đã mô tả, dù hoàn toàn không có ý định và vô thức với bản thân, vẫn đang tạo ra ba kết quả riêng biệt trong suốt cuộc đời trên cõi thiên đàng của mình. Hãy lấy ví dụ về cảm xúc tình cảm. Y cảm thấy điều này mãnh liệt đối với một số người bạn nhất định, và có lẽ ngay cả sau khi y qua đời, những người bạn đó vẫn nghĩ về y với những ký ức tốt đẹp, và do đó ký ức về y không phải là không có ảnh hưởng đến chính phàm ngã của họ. Nhưng hoàn toàn tách biệt khỏi điều này là hiệu ứng mà tôi đã đề cập ở trên—rằng y tạo ra một hình ảnh của mỗi người bạn và trong việc làm như vậy, y gợi lên một phản ứng mạnh mẽ từ chân ngã của người bạn đó. Tình cảm mà y trút lên chân ngã đó (thể hiện qua hình tư tưởng mà y đã tạo ra cho nó) là một sức mạnh to lớn cho điều tốt lành, và đóng góp không nhỏ vào sự tiến hóa của chân ngã đó. Nó đánh thức một lượng tình cảm mà bình thường sẽ không được khơi dậy trong chân ngã đó; và sự tăng cường liên tục của phẩm tính đáng khen ngợi này trong suốt nhiều thế kỷ của đời sống trên cõi thiên đàng nâng cao người bạn đó đáng kể trong thang tiến hóa. Làm điều này cho một chân ngã khác chắc chắn là một hành động tạo ra nghiệp quả, ngay cả khi người đã khởi động toàn bộ quá trình này đã làm điều đó mà không hiểu biết.

Occasionally the action of such a force upon the ego of a surviving friend may manifest itself even in the personality of that friend upon the physical plane. The action is upon the ego through the special thought-form; but the personality of the surviving friend in this world is a manifestation of the same ego, and if the ego be considerably modified it is at least possible that that modification may show itself in the physical manifestation on this lower plane. It may be asked why the thought of the man in the heaven-world should not act upon his friend precisely as does the thought of a living man—why the vibrations sent forth from his mental body cannot strike directly upon the mental body of his friend, and why it should not generate a thought-form which would travel through space and attach itself to his friend in the ordinary way. If he were moving freely and consciously about the mental plane that is precisely what would happen, but the reason that it does not lies in the peculiar condition of the man in the heaven-world.

Đôi khi, hành động của một lực như vậy đối với chân ngã của một người bạn còn sống có thể biểu hiện ngay cả trong phàm ngã của người bạn đó trên cõi trần. Hành động đó tác động lên chân ngã thông qua hình tư tưởng đặc biệt; nhưng phàm ngã của người bạn còn sống trong thế giới này là sự thể hiện của cùng một chân ngã, và nếu chân ngã bị thay đổi đáng kể, ít nhất có thể rằng sự thay đổi đó sẽ biểu hiện trong sự thể hiện hồng trần trên cõi thấp này. Người ta có thể hỏi tại sao tư tưởng của một người trên cõi thiên đàng không tác động lên bạn mình chính xác như cách tư tưởng của một người đang sống—tại sao những rung động được phát ra từ thể trí của y không thể tác động trực tiếp lên thể trí của bạn mình, và tại sao nó không thể tạo ra một hình tư tưởng di chuyển qua không gian và gắn liền với người bạn theo cách thông thường. Nếu y di chuyển tự do và có ý thức trên cõi trí, đó chính xác là điều sẽ xảy ra, nhưng lý do mà nó không xảy ra nằm ở tình trạng đặc biệt của người đó trong đời sống thiên đàng.

The man in the heaven-life has shut himself out absolutely from the rest of the world—from the mental plane as much as from the lower levels, and he is living inside the shell of his own thoughts. If his thoughts could reach us in the ordinary way, ours could reach him in precisely the same way, but we know that that is not so. The thought-form which he makes of his friend is within his own shell, and therefore he can act upon it; and, since the ego of the friend has poured himself down into that thought-form, the force reaches the ego of the friend in that way, and from that ego it may, as we have said, to some extent manifest itself even in the personality of the friend down here. The shell is as regards the mental plane much like the shell of an egg on the physical plane. The only way to get anything into the shell of an egg, without breaking it, would be to pour it in from the fourth dimension, or to find a force whose vibrations are sufficiently fine to penetrate between the particles of the shell without disturbing them. This is true also of this mental shell; it cannot be penetrated by any vibrations of matter of its own level, but the finer vibrations which belong to the ego can pass through it without disturbing it in the least; so that it can be acted upon freely from above, but not from below.

Người trong đời sống thiên đàng đã hoàn toàn tách biệt khỏi thế giới còn lại—khỏi cõi trí cũng như khỏi các cấp độ thấp hơn, và y đang sống bên trong vỏ bọc của những tư tưởng của riêng mình. Nếu những tư tưởng của y có thể chạm đến chúng ta theo cách thông thường, thì những tư tưởng của chúng ta cũng có thể chạm đến y theo cùng một cách, nhưng chúng ta biết rằng điều đó không xảy ra. Hình tư tưởng mà y tạo ra về bạn mình nằm trong vỏ bọc của chính y, và do đó y có thể tác động lên nó; và bởi vì chân ngã của người bạn đã trút mình xuống hình tư tưởng đó, nên lực lượng đó tác động lên chân ngã của người bạn theo cách đó, và từ chân ngã đó, như chúng tôi đã nói, đến một mức độ nào đó, nó có thể biểu hiện ngay cả trong phàm ngã của người bạn đó ở dưới đây. Vỏ bọc đó đối với cõi trí giống như vỏ của một quả trứng trên cõi hồng trần. Cách duy nhất để đưa bất cứ thứ gì vào bên trong vỏ trứng mà không làm vỡ nó là đổ nó vào từ chiều thứ tư, hoặc tìm một lực có rung động đủ tinh tế để thâm nhập vào giữa các hạt của vỏ trứng mà không làm chúng rối loạn. Điều này cũng đúng đối với vỏ bọc tinh thần này; nó không thể bị thâm nhập bởi bất kỳ rung động nào của vật chất ở cấp độ của chính nó, nhưng những rung động tinh tế hơn thuộc về chân ngã có thể xuyên qua nó mà không làm rối loạn nó chút nào; do đó nó có thể bị tác động tự do từ phía trên, nhưng không phải từ phía dưới.

The thought-form made by the dead man may be considered as a kind of additional artificial mental body, made for and presented to the friend upon whom the love is being poured forth. The personality down here knows nothing of this, but the ego is fully conscious of it and plunges down into it with delight and avidity, realising incidentally that this affords him an additional opportunity of manifestation, and therefore of evolution. From this it follows that the man who has made himself generally beloved—the man who has many real friends—will evolve with far greater rapidity than a more ordinary man; and this again is obviously the karma of his development within himself of the qualities which make him so lovable.

Hình tư tưởng được tạo ra bởi người đã chết có thể được coi là một loại thể trí bổ sung nhân tạo, được tạo ra và trao cho người bạn mà tình yêu đang được trút lên. Phàm ngã ở dưới đây không biết gì về điều này, nhưng chân ngã hoàn toàn ý thức về nó và đắm mình trong đó với niềm vui và sự ham muốn, đồng thời nhận ra rằng điều này mang lại cho y một cơ hội biểu hiện bổ sung, và do đó là một cơ hội để tiến hóa. Từ đó, chúng ta có thể suy ra rằng một người đã tự làm mình được yêu mến rộng rãi—người có nhiều người bạn thực sự—sẽ tiến hóa nhanh hơn rất nhiều so với một người bình thường; và điều này hiển nhiên là nghiệp quả của sự phát triển trong bản thân y những phẩm tính khiến y trở nên đáng yêu như vậy.

So much for the direct result of his action upon individuals; but there are also two aspects of its general action which must not be ignored. A man who thus pours out a great flood of affection, and evokes in response other floods from his friends, is distinctly improving the mental atmosphere in his neighborhood. It is good for the world and for the humanity evolving in it that its mental atmosphere should thus be charged with such feelings, for they play upon all its inhabitants—devas, men, animals, plants—and on every one of these widely different forms of life they have their influence, and always an influence for good.

Đó là về kết quả trực tiếp của hành động của y đối với các cá nhân; nhưng cũng có hai khía cạnh khác trong hành động chung của y mà chúng ta không được bỏ qua. Một người như vậy đổ ra một dòng tình cảm mạnh mẽ, và đánh thức ngược lại những dòng tình cảm khác từ bạn mình, rõ ràng là đang cải thiện bầu không khí trí tuệ xung quanh mình. Điều đó là tốt cho thế giới và cho nhân loại đang tiến hóa trong đó khi bầu không khí trí tuệ được sạc đầy những cảm xúc như vậy, vì chúng tác động lên tất cả cư dân—chư thiên, con người, động vật, thực vật—và đối với mỗi một trong những hình thức sống khác nhau này, chúng có ảnh hưởng, và luôn luôn là một ảnh hưởng tốt.

The second and more important of the results produced for the world at large will be readily comprehensible to those who have studied the book on Thought-forms, as an attempt is there made to indicate the outpouring which flows down from the LOGOS in response to a thought of unselfish devotion. It has often been explained that such response comes not only to the individual who originated the thought, but that it also helps to fill the reservoir of spiritual force, which is held by the Nirmanakaya at the disposal of the Masters of Wisdom and their pupils, to be used for the helping of mankind. What is true of devotion is true also of unselfish affection, and if every outrush of such affection or devotion during the comparatively limited physical life produces so magnificent a result, it is easy to see that a far stronger outrush, sustained through a period of perhaps a thousand years, will make to that reservoir a really considerable contribution, and this will bring to the world a benefit which is not calculable in any terms that we can use upon the physical plane.

Kết quả thứ hai và quan trọng hơn được tạo ra cho thế giới nói chung sẽ dễ dàng hiểu được đối với những ai đã nghiên cứu cuốn sách về Hình tư tưởng, vì một nỗ lực đã được thực hiện trong đó để chỉ ra sự tuôn tràn chảy xuống từ Thượng Đế (LOGOS) để đáp lại một tư tưởng về sự tận tâm vị tha. Đã nhiều lần được giải thích rằng sự đáp lại như vậy không chỉ đến với cá nhân đã khởi phát tư tưởng, mà còn giúp làm đầy kho chứa lực tinh thần, được các Nirmanakaya nắm giữ để các Chân Sư Minh Triết và các đệ tử của các Ngài sử dụng nhằm giúp đỡ nhân loại. Điều gì đúng với sự tận tâm cũng đúng với tình cảm vị tha, và nếu mỗi lần tuôn trào của tình cảm hoặc sự tận tâm trong cuộc sống ngắn ngủi trên cõi trần tạo ra một kết quả tuyệt vời như vậy, thì dễ dàng nhận thấy rằng một dòng tuôn trào mạnh mẽ hơn nhiều, được duy trì trong khoảng một ngàn năm, sẽ đóng góp đáng kể vào kho chứa đó, và điều này sẽ mang lại cho thế giới một lợi ích không thể tính toán được bằng bất kỳ điều kiện nào mà chúng ta có thể sử dụng trên cõi trần.

So it is clear that while a man’ s power for good augments as his consciousness in these higher worlds increases, even the quite ordinary man, who has as yet no special development of consciousness, is nevertheless capable of doing an enormous amount of good during his sojourn upon the higher planes. During his long stay in the heaven-world he may benefit his fellow-men, and so make a large amount of good karma for himself; but, in order to do that, he must be a man of unselfish love or unselfish devotion. It is this quality of unselfishness, of self-forgetfulness, which puts the power into his hands; and that, therefore, is the virtue which every man must cultivate now in full consciousness, in order that after death he may use to the best advantage those far longer periods whose conditions it is now so impossible for him to realize.

Vì vậy, rõ ràng rằng khi sức mạnh của một người đối với điều thiện tăng lên cùng với sự gia tăng tâm thức của y trên các cõi cao hơn, thì ngay cả người bình thường, người vẫn chưa phát triển đặc biệt về tâm thức, vẫn có khả năng làm rất nhiều điều tốt trong suốt hành trình của mình trên các cõi cao. Trong thời gian dài y ở lại cõi thiên đàng, y có thể mang lại lợi ích cho đồng loại của mình và do đó tạo ra một lượng nghiệp quả tốt lớn cho bản thân; nhưng để làm được điều đó, y phải là người có tình yêu vị tha hoặc lòng tận tâm vị tha. Chính phẩm chất vị tha, sự quên mình, là thứ trao quyền vào tay y; và do đó, đó là đức hạnh mà mỗi con người phải trau dồi ngay bây giờ trong tâm thức đầy đủ, để sau khi chết, y có thể tận dụng tối đa những khoảng thời gian dài hơn nhiều, với những điều kiện mà bây giờ y khó có thể hình dung ra.

Leave a Comment

Scroll to Top