Bình giảng về Lửa Vũ Trụ S6S3 (586-600)

Đọc các trang Cosmic Fire liên quan ở đây

TCF 586 – 600: S6S3

26 October – 10 November 2007

26 Tháng Mười – 10 Tháng Mười Một 2007

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Hầu hết văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi chiếu trong lớp học. Chú thích và tham chiếu từ các sách AAB khác và từ các trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Phần bình giảng xuất hiện ở cỡ chữ 12. Phần Gạch dưới, In đậm và Tô sáng do MDR thực hiện)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph.

Có gợi ý rằng Bản Bình giảng này nên được đọc cùng với cuốn TCF trong tay, nhằm đảm bảo tính liên tục. Khi việc phân tích văn bản được tiến hành, nhiều đoạn văn được phân chia, và phần trình bày cô đọng trong chính cuốn sách sẽ truyền đạt ý nghĩa tổng thể của đoạn văn.

The Laws in the Three Worlds.—We will now take up and briefly study the three most important laws affecting the evolving human being, as he lives his life in the three worlds.  These laws are:

Các Định Luật trong Ba Cõi .—Giờ đây chúng ta sẽ bắt đầu và khảo cứu vắn tắt ba định luật quan trọng nhất ảnh hưởng đến con người đang tiến hóa, khi y sống đời mình trong ba cõi. Các định luật ấy là:

1. The Law of Fixation.

1. Định luật Cố định.

2. The Law of Love.

2. Định luật Bác ái.

3. The Law of Sacrifice and Death.

3. Định luật Hiến tế và Tử vong.

1. We are to gather that the first four laws studied in the previous section—

1. Chúng ta hiểu rằng bốn định luật đầu đã khảo cứu trong phần trước—

a. The “Law of Vibration”

a. “Định luật Rung động”

b. The “Law of Cohesion”

b. “Định luật Kết dính”

c. The “Law of Disintegration”

c. “Định luật Phân rã”

d. The “Law of Magnetic Control”

d. “Định luật Kiểm soát Từ tính”

relating primarily to the logoic, monadic, atmic and buddhic planes respectively, do not affect the human being as he lives his life in the three worlds.

chủ yếu liên hệ với các cõi logoic, chân thần, atma và Bồ đề tương ứng, không ảnh hưởng đến con người khi y sống trong ba cõi.

2. The systemic laws now under discussion relate to the three lower planes of the lower three worlds whereon the average human being is focussed.

2. Các định luật hệ thống hiện đang được bàn liên hệ đến ba cõi thấp của ba cõi giới thấp, nơi người trung bình tập trung.

These laws are all dominated and controlled eventually by the three higher laws in the system—the Laws of Magnetic Control, of Disintegration, and of Cohesion.

Những định luật này rồi sẽ bị chi phối và điều khiển bởi ba định luật cao hơn trong hệ thống—các Định luật Kiểm soát Từ tính, Phân rã và Kết dính.

3. We note that the “Law of Vibration” is not mentioned as a law controlling one of the lower three laws. even though it is the highest of the laws of the solar system.

3. Chúng ta ghi nhận rằng “Định luật Rung động” không được nêu như một định luật chi phối một trong ba định luật thấp, mặc dù nó là định luật cao nhất của hệ mặt trời.

4. It is evident that the laws mentioned (Magnetic Control, Disintegration and Cohesion) are not all of the three higher laws in the system. The “Law of Vibration” is missing and it is the highest of the laws of the solar system.

4. Hiển nhiên các định luật vừa nêu (Kiểm soát Từ tính, Phân rã và Kết dính) không phải là toàn bộ ba định luật cao hơn trong hệ thống. “Định luật Rung động” bị thiếu và nó là định luật cao nhất của hệ mặt trời.

5. Can we compare the three lower with the three higher laws here mentioned?

5. Chúng ta có thể so sánh ba định luật thấp với ba định luật cao được nêu ở đây chăng?

6. The “Law of Magnetic Control”, we were told, directly affects the Ego functioning through the causal body. Will this mean that it will control the “Law of Fixation”?

6. Như chúng ta được dạy, “Định luật Kiểm soát Từ tính” trực tiếp ảnh hưởng đến Chân ngã hoạt động qua thể nguyên nhân. Điều này có nghĩa là nó sẽ kiểm soát “Định luật Cố định” chăng?

On the plane of buddhi, as the law of magnetic control.  It shows itself as the love-wisdom aspect, irradiating the ego, and eventually gathering to itself the essence of all experience, garnered, via the Ego, through the personality lives, and controlled throughout from the plane of buddhi. (TCF 576)

Trên cõi Bồ đề, như định luật kiểm soát từ tính. Nó tự hiển như phương diện Bác Ái – Minh Triết, chiếu rọi vào Chân ngã, và rốt cuộc thu hút về mình tinh túy của mọi kinh nghiệm, thu hoạch được, qua Chân ngã, thông qua các đời phàm ngã, và được điều khiển suốt dọc từ cõi Bồ đề. (TCF 576)

7. We have already, seen, however that along the 2-4-6 line, the “Law of Magnetic Control” could be linked to the “Law of Love”.

7. Tuy vậy, chúng ta đã thấy rằng trên trục 2-4-6, “Định luật Kiểm soát Từ tính” có thể liên hệ với “Định luật Bác ái”.

8. We have also seen that there is a direct connection between the “Law of Disintegration” and the “Law of Sacrifice and Death”.

8. Chúng ta cũng đã thấy rằng có một mối liên hệ trực tiếp giữa “Định luật Phân rã” và “Định luật Hiến tế và Tử vong”.

We can trace the connection between the atmic and the physical plane (demonstrating on the lower plane as the law of sacrifice and death)… (TCF 581)

Chúng ta có thể lần theo mối liên hệ giữa cõi atma và cõi hồng trần (biểu hiện trên cõi thấp như định luật hiến tế và tử vong)… (TCF 581)

This law links itself to the third law, that of Disintegration following the connection that always exists between the atmic and the physical plane. (TCF 596)

Định luật này nối mình với định luật thứ ba, tức Phân rã, theo sau mối liên hệ luôn luôn tồn tại giữa cõi atma và cõi hồng trần. (TCF 596)

9. This might leave the “Law of Cohesion” to be paired with the “Law of Love”.

9. Điều này có thể để “Định luật Kết dính” ghép đôi với “Định luật Bác ái”.

10. If what is here suggested is true, the method of pairing is not symmetrical.

10. Nếu điều gợi ý ở đây là đúng, thì phương pháp ghép đôi là không đối xứng.

There is a direct connection between these seven laws and the seven Rays or Vibrations, and if we study the corres­pondence we shall recognise the fact that the first law, that of Vibration, is the controlling law of the six, demonstrat­ing through the second law, that of Cohesion, just as the solar Logos is at this time manifesting Himself through His second aspect in this the second solar system.

Có một mối liên hệ trực tiếp giữa bảy định luật này và bảy Cung hay Rung động, và nếu chúng ta khảo sát sự tương ứng, chúng ta sẽ nhận ra rằng định luật thứ nhất, tức Rung động, là định luật kiểm soát sáu định luật kia, biểu hiện qua định luật thứ hai, tức Kết dính , cũng như Thái dương Thượng đế hiện đang tự biểu lộ qua phương diện thứ hai của Ngài trong hệ mặt trời thứ hai này.

11. It is obvious that the seven laws and the seven rays are correlated.

11. Hiển nhiên bảy định luật và bảy cung được tương liên.

12. It is significant that the “seven Rays” are called “Vibrations”. This links the seven rays to the seven fundamental vibrations or frequencies on the atomic sub-plane of each systemic plane.

12. Đáng chú ý là “bảy Cung” được gọi là “Rung động”. Điều này nối bảy cung với bảy rung động hay tần số căn bản trên cõi nguyên tử của mỗi cõi hệ thống.

13. DK makes an analogy which connects the Solar Logos with the “Law of Vibration” and the second aspect of the solar system (through which the Solar Logos demonstrates) with the “Law of Cohesion”.

13. Chân sư DK làm một phép liên tưởng kết nối Thái dương Thượng đế với “Định luật Rung động” và phương diện thứ hai của hệ mặt trời (qua đó Thái dương Thượng đế biểu lộ) với “Định luật Kết dính”.

14. We have seen that the Solar Logos manifests particularly in relation to the first systemic plane (just as the Planetary Logoi manifest primarily through the second systemic plane). Since the “Law of Vibration” correlates with the first systemic plane, a relation exists between it and the power of the Solar Logos.

14. Chúng ta đã thấy rằng Thái dương Thượng đế biểu lộ đặc biệt liên hệ với cõi hệ thống thứ nhất (cũng như các Hành Tinh Thượng đế chủ yếu biểu lộ qua cõi hệ thống thứ hai). Vì “Định luật Rung động” tương liên với cõi hệ thống thứ nhất, nên tồn tại mối liên hệ giữa định luật này và quyền năng của Thái dương Thượng đế.

15. There is a fundamental simplicity operating through the “Law of Vibration”; all other laws are based upon the tempo or frequency of vibration. Both attraction and separation are based on difference in frequency.

15. Có một tính đơn giản căn để vận hành xuyên suốt “Định luật Rung động”; mọi định luật khác đều dựa trên nhịp điệu hay tần số rung động. Cả hấp dẫn lẫn phân ly đều dựa trên sai khác tần số.

The first Ray of Will or Power is the first aspect of the All-self,

Phương diện thứ nhất của Ý Chí hay Quyền Lực là phương diện thứ nhất của Đại Ngã,

16. In this context the “All-self” seems to be the Solar Logos, the God of the immediate ‘universe’ in which we live and move and have our being.

16. Trong ngữ cảnh này, “Đại Ngã” có vẻ là Thái dương Thượng đế, Thượng đế của “vũ trụ” cận kề mà trong đó chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu.

and in the third outpouring, 83 came [587] down to the fifth plane, along with the other monads.

và trong lần tuôn đổ thứ ba, 83 đã đi [587] xuống cõi thứ năm, cùng với các Chân Thần khác.

17. There is a close connection between the first and fifth rays. This is seen in the Tetraktys. It is also understood by the fact that fifth ray egos when refocussing on one of the Rays of Aspect, merge along the first ray line of force and become first ray egos.

17. Có một mối liên hệ mật thiết giữa cung một và cung năm. Điều này được thấy trong Tetraktys. Nó cũng được hiểu qua sự kiện rằng các Chân ngã cung năm khi tái tập trung trên một trong các Cung Trạng Thái, thì hòa nhập theo đường lực cung một và trở thành các Chân ngã cung một.

18. The first Ray of Will or Power ‘descended’ to the fifth plane, the mental plane. DK seems to be calling this first ray a ‘Monad’ because He says the Ray “came down to the fifth plane, along with the other monads”. Of course, every E/entity is essentially a Monad.

18. Phương diện thứ nhất của Ý Chí hay Quyền Lực “giáng xuống” cõi thứ năm, cõi trí. Chân sư DK dường như gọi phương diện thứ nhất này là một “Chân Thần” bởi vì Ngài nói Cung ấy “đi xuống cõi thứ năm, cùng với các Chân Thần khác”. Dĩ nhiên, mọi Hữu thể đều cốt yếu là một Chân Thần.

19. Below is the diagram of “The Three Outpourings”

19. Dưới đây là sơ đồ “Ba Lần Tuôn Đổ”

FOOTNOTE 83:

CHÚ THÍCH 83:

The Three Outpourings. “In the diagram the symbols of the three Aspects (of the Logos) are placed outside of time and space, and only the streams of influence from them descend into our system of planes….

Ba Lần Tuôn Đổ. “Trong sơ đồ, các biểu tượng của ba Phương diện (của Thượng đế) được đặt bên ngoài thời gian và không gian, và chỉ các dòng ảnh hưởng từ các Ngài giáng vào hệ thống các cõi của chúng ta….

20. Our “system of planes” is considered the seven solar planes of the cosmic physical plane.

20. “Hệ thống các cõi” của chúng ta được xem là bảy cõi thái dương thuộc cõi hồng trần vũ trụ.

21. It is as if DK considers the worlds of time and space to be all that transpires upon the cosmic physical plane.

21. Cứ như thể Chân sư DK xem các thế giới của thời gian và không gian là tất cả những gì diễn ra trên cõi hồng trần vũ trụ.

22. The “Kosmic” planes in this diagram are the planes we name as the cosmic physical plane, the cosmic astral plane, the cosmic mental plane, etc.

22. Các “cõi Vũ trụ” trong sơ đồ này là các cõi mà chúng ta gọi là cõi hồng trần vũ trụ, cõi cảm dục vũ trụ, cõi trí vũ trụ, v.v.

23. The three symbols for the Three Logoi are “placed outside of time and space” but ‘where’? Probably it is possible to trace the origin of these streams of influence to the cosmic monadic plane. This would be a cosmic ‘location’ far ‘above’ anything illustrated in the early Theosophical literature.

23. Cần lưu ý rằng ba biểu tượng cho Ba Ngôi được “đặt bên ngoài thời gian và không gian” nhưng “ở đâu”? Có lẽ có thể lần ngược nguồn của các dòng ảnh hưởng này lên đến cõi chân thần vũ trụ. Đó sẽ là một “vị trí” vũ trụ cao “hơn” bất cứ điều gì được minh họa trong văn liệu Thông Thiên Học thời kỳ đầu.

They represent in due order what are commonly called the three Persons of the Trinity….

Chúng biểu thị theo trình tự lần lượt những gì thường được gọi là ba Ngôi của Tam Vị….

24. These Three Persons are diagramed in Chart XIII (TCF 1238-1239). There They are seen as subsidiary to the Solar Logos (the “All-self” in this context).

24. Ba Ngôi này được minh họa trong Biểu đồ XIII (TCF 1238-1239). Ở đó, Các Ngài được thấy là phụ thuộc Thái dương Thượng đế (trong ngữ cảnh này là “Đại Ngã”).

It will be seen that from each of them an outpouring of life or force is projected into the planes below.

Sẽ thấy rằng từ mỗi Ngôi có một dòng tuôn đổ sự sống hay lực được phóng chiếu xuống các cõi bên dưới.

25. We are speaking of developments which occur strictly in relation to the lowest of the “Kosmic” planes, the cosmic physical plane. Upon these seven solar planes all of humanity’s presently conceivable development occurs. Humanity’s inconceivable development will take place on planes ‘above’ the cosmic physical but, then, humanity will not be “humanity”, per se.

25. Chúng ta đang nói về những diễn tiến diễn ra nghiêm ngặt trong tương quan với cõi thấp nhất của các “cõi Vũ trụ”, tức cõi hồng trần vũ trụ. Trên bảy cõi thái dương này, toàn bộ phát triển hiện có thể quan niệm của nhân loại diễn ra. Sự phát triển không thể quan niệm của nhân loại sẽ diễn ra trên các cõi “cao hơn” cõi hồng trần vũ trụ, nhưng khi ấy, nhân loại sẽ không còn là “nhân loại” theo nghĩa thông thường nữa.

The first of these in order is the straight line which descends from the third Aspect;

Lần thứ nhất theo thứ tự là đường thẳng đi xuống từ Phương diện thứ ba;

26. This is the descent of Fohat in seven streams of force creating the diversified matter of the atomic sub-planes of the seven solar planes.

26. Đây là sự giáng hạ của Fohat trong bảy dòng lực tạo ra vật chất sai biệt của các cõi nguyên tử thuộc bảy cõi thái dương.

the second is that part of the large oval which lies on our left hand—the stream which descends from the second Aspect until it has touched the lowest point in matter, and then rises again up the side on our right hand until it reaches the lower mental level.

lần thứ hai là phần của hình bầu dục lớn nằm phía tay trái của chúng ta—dòng tuôn đổ giáng xuống từ Phương diện thứ hai cho đến khi chạm đáy thấp nhất của vật chất, rồi lại dâng lên phía tay phải của chúng ta cho đến khi đạt đến cõi trí hạ phân.

27. This is the outgoing and incoming journey of the Vishnu or form-building aspect. The returning or evolutionary part of the oval is, in a way, incomplete. It does not rise beyond the lower mental plane.

27. Đây là hành trình xuất ly và hoàn nguyên của phương diện Vishnu hay xây dựng hình tướng. Phần trở lên hay tiến hóa của hình bầu dục, theo một nghĩa nào đó, là chưa hoàn tất. Nó không dâng lên vượt quá cõi trí hạ phân.

It will be noted that in both of these outpourings the divine life becomes darker and more veiled as it descends into matter, until at the lowest point we might almost fail to recognise it as divine life at all; but as it rises again when it has passed its nadir it shows itself somewhat more clearly.

Cần lưu ý rằng trong cả hai lần tuôn đổ này, sự sống thiêng liêng trở nên tối tăm hơn và bị che mờ nhiều hơn khi giáng vào vật chất, cho đến ở điểm thấp nhất chúng ta hầu như không còn nhận ra đó là sự sống thiêng liêng nữa; nhưng khi nó lại thăng dần sau khi đã vượt qua điểm đáy, nó tỏ hiện phần nào rõ hơn.

28. This darkening and subsequent lightening after the returning arc is begun is apparently not depicted on this diagram. The assertion, however, makes sense and is commonly credited as true. Perhaps as this diagram appears in The Christian Creed the darkening and lightening are depicted.

28. Sự tối đi và rồi sáng lại sau khi bắt đầu cung trở về này dường như không được minh họa trên sơ đồ. Tuy vậy, khẳng định ấy có lý và nói chung được thừa nhận là đúng. Có lẽ vì sơ đồ này xuất hiện trong Tín Điều Kitô giáo nên sự tối đi và sáng lại được minh họa.

The third outpouring which descends from the highest aspect of the Logos differs from the others in that it is in no way clouded by the matter through which it passes, but retains its virgin purity and splendour untarnished.

Lần tuôn đổ thứ ba giáng xuống từ phương diện cao nhất của Thượng đế khác với hai lần kia ở chỗ nó không hề bị vẩn đục bởi vật chất mà nó đi qua, nhưng giữ nguyên sự tinh khiết trinh nguyên và hào quang không hề hoen ố .

29. Another way of saying this is, that in its descent, the splendor of the Monad is uncompromised by the lowering frequencies of the dimensions through which it passes.

29. Nói cách khác, trong sự giáng hạ, quang huy của Chân Thần không bị hạ tần số của các chiều kích mà nó đi qua làm tổn hại.

It will be noted that this outpouring descends only to the level of the buddhic plane (the fourth plane) and that the link between the two is formed by a triangle in a circle, representing the individual soul of man—the reincarnating ego.

Cần lưu ý rằng lần tuôn đổ này chỉ giáng xuống đến cấp độ cõi Bồ đề (cõi thứ tư) và mối liên kết giữa hai phần được hình thành bởi một tam giác trong vòng tròn, tượng trưng cho linh hồn cá nhân của con người—chân ngã tái sinh.

30. It now becomes evident that the diagram of the Three Outpourings available in the text, A Treatise on Cosmic Fire is not the same as the one being reference from The Christian Creed. No triangle and circle are to be found. However the symbol mentioned suggests the Ego within the causal body and is found on another TCF diagram.

30. Giờ đây trở nên hiển nhiên rằng sơ đồ Ba Lần Tuôn Đổ có trong văn bản Luận về Lửa Vũ Trụ không giống với sơ đồ đang được dẫn từ Tín Điều Kitô giáo . Không có tam giác và vòng tròn. Tuy nhiên, biểu tượng vừa nêu gợi ra Chân ngã trong thể nguyên nhân và được tìm thấy trong một sơ đồ TCF khác.

31. The Monad is a solar being. It is “that which finds its home within the sun”. The lower three solar planes do not contain any principles of the Solar Logos and are considered dense, unprincipled matter. This may be the reason why the third outpouring descends no lower than the buddhic plane.

31. Chân Thần là một hữu thể thái dương . Nó là “cái tìm được nhà của mình trong mặt trời”. Ba cõi thái dương hạ không chứa bất kỳ nguyên khí nào của Thái dương Thượng đế và được xem là vật chất đậm đặc, vô nguyên khí. Đây có thể là lý do vì sao lần tuôn đổ thứ ba không giáng thấp hơn cõi Bồ đề.

Here the triangle is contributed by the third outpouring and the circle by the second….”—The Christian Creed, by C. W. Leadbeater, pp. 3

Ở đây tam giác do lần tuôn đổ thứ ba góp phần, còn vòng tròn là do lần tuôn đổ thứ hai….”—Tín Điều Kitô giáo, của Ông C. W. Leadbeater, tr. 3

32. The circle is the causal body which is built by the form-building second aspect of divinity. The triangle can be thought of as the triple Monad represented by the three aspects of the spiritual triad—atma, buddhi and manas. What we call the atmic, buddhic and manasic ‘extensions’ of the Monad were appropriated during the second outpouring.

32. Vòng tròn là thể nguyên nhân do phương diện thứ hai xây dựng hình tướng kiến tạo. Tam giác có thể được xem như Tam vị của Chân Thần được biểu hiện bởi ba phương diện của tam nguyên tinh thần—atma, Bồ đề và manas. Những “phần mở rộng” atmic, Bồ đề và manasic của Chân Thần mà chúng ta gọi như vậy đã được tiếp nhận trong lần tuôn đổ thứ hai.

It was at the time of the second outpouring that each of the divine centres of consciousness put forth a thread of being into an atom of the highest sub-planes of the atmic, the buddhic, and the manasic planes,—atoms destined to be the nuclei of the future bodies, each on its respective plane, the three forming the upper triad so often referred to. (EP I 168)

Chính vào thời điểm của lần tuôn đổ thứ hai mà mỗi trung tâm thần linh của tâm thức đã phóng ra một sợi chỉ sự sống vào một nguyên tử của các cõi phụ cao nhất của cõi atma, cõi Bồ đề và cõi manas,—các nguyên tử vốn được định làm hạch nhân của các thể tương lai, mỗi thể ở cõi tương ứng của nó, ba nguyên tử ấy hình thành tam nguyên thượng của con người vốn thường được nhắc đến. (EP I 168)

33. If the triangle represents the Will, Wisdom and Activity inherent in the Monad, then the triangle is related directly to the third outpouring and not to the second.

33. Nếu tam giác tượng trưng cho Ý Chí, Minh triết và Hoạt động vốn nội tại trong Chân Thần, thì tam giác được liên hệ trực tiếp với lần tuôn đổ thứ ba chứ không phải lần tuôn đổ thứ hai.

34. Not only the causal body but the entire egoic lotus can be related to the form-building second outpouring. Yet it would not have been created in the way it was unless the third outpouring had occurred.

34. Không chỉ thể nguyên nhân mà toàn bộ hoa sen chân ngã đều có thể liên hệ với lần tuôn đổ thứ hai xây dựng hình tướng. Tuy nhiên, nó sẽ không được kiến tạo theo cách đã có nếu lần tuôn đổ thứ ba không diễn ra.

A subtle correspondence exists between the monads of Will on the fifth plane, the fifth law, and the fifth Ray.

Tồn tại một sự tương ứng vi tế giữa các Chân Thần của Ý Chí trên cõi thứ năm, định luật thứ năm, và Cung thứ năm.

35. The Monads of Will are usually discussed in relation to the first sub-plane of the monadic plane. But since there is a close connection between the first and fifth rays (with fifth ray souls refocussing upon the first ray) the fifth ray, fifth law and fifth plane are all reasonably related to the expression of first ray Monads.

35. Các Chân Thần của Ý Chí thường được bàn trong liên hệ với cõi phụ thứ nhất của cõi chân thần . Nhưng vì có mối liên hệ mật thiết giữa cung một và cung năm (khi các linh hồn cung năm tái tập trung trên các Cung Trạng Thái, họ hòa nhập theo đường cung một), nên cung năm, định luật thứ năm và cõi thứ năm đều tương đối liên hệ với sự biểu hiện của các Chân Thần cung một.

36. The relationship here stated suggests much about the nature of Master Hilarion (once St. Paul), Who is the Chohan upon the fifth ray but Who has, we hypothesize, a powerful first ray behind that fifth ray. We hypothesize that He is a first ray Monad.

36. Mối liên hệ được nêu ở đây gợi mở nhiều điều về bản chất của Chân sư Hilarion (xưa là Thánh Phao-lô), Đấng là Chohan của cung năm nhưng theo phỏng đoán của chúng ta, có một cung một hùng hậu đứng phía sau cung năm ấy. Chúng ta giả định Ngài là một Chân Thần cung một.

37. It has yet to be established: “What are these Monads of Will on the fifth plane?” There was a monadic descent to the ‘edge’ of the fifth plane via the third outpouring, but it seems that all types of Monads were involved in that descent and not only Monads of Will or Power.

37. Còn chưa được xác quyết: “Các Chân Thần của Ý Chí trên cõi thứ năm là gì?” Đã có sự giáng hạ của các Chân Thần đến “ranh” của cõi thứ năm qua lần tuôn đổ thứ ba, nhưng dường như mọi loại Chân Thần đều dính dự vào sự giáng ấy chứ không chỉ các Chân Thần của Ý Chí hay Quyền Lực.

38. While DK seems to be indicating a relationship between Monads of Power and the fifth law, the “Law of Fixation”, He is not necessarily indicating a relationship between the law of the monadic plane (the “Law of Cohesion”) and the Law of Fixation. Yet, we must remember that a distinct and important relationship exists between the two and the five (seen, for instance, in Sirian and Venusian expression). We could say that fixation promotes cohesion, and that the tendency towards cohesion makes fixation possible.

38. Trong khi Chân sư DK có vẻ đang chỉ ra một mối liên hệ giữa các Chân Thần của Quyền Lực và định luật thứ năm, “Định luật Cố định”, Ngài không nhất thiết chỉ ra mối liên hệ giữa định luật thuộc cõi chân thần (“Định luật Kết dính”) và Định luật Cố định. Tuy vậy, chúng ta phải nhớ rằng tồn tại một mối liên hệ minh định và quan trọng giữa số hai và số năm (thấy, chẳng hạn, trong biểu hiện Sirius và Kim Tinh). Chúng ta có thể nói rằng sự cố định thúc đẩy sự kết dính , và khuynh hướng hướng đến kết dính khiến cố định khả hữu.

39. The relationship between the first and fifth rays is not always used in a benevolent manner. These two rays are particularly representative of the Black Lodge and in a more mundane sense, condition the “industrial-military complex”.

39. Mối quan hệ giữa cung một và cung năm không phải lúc nào cũng được sử dụng theo cách lành thiện. Hai cung này đặc biệt đại diện cho Hắc Đoàn và, ở bình diện thế tục hơn, quy định “tổ hợp công nghiệp – quân sự”.

V. The materialistic forces Planetary sacral centre Fifth Ray aspect Mind

V. Các lực vật chất Trung tâm xương cùng hành tinh Phương diện Cung Năm Thể trí

The Matter aspect. Conditioning substance. of First Ray Generation (EXH 89)

Phương diện Vật chất. Điều kiện hoá chất liệu. của Cung Một Sinh sản (EXH 89)

The second Ray or the Love-Wisdom aspect wields a control on the fourth and sixth planes, and dominates the Laws of Cohesion and Magnetic Control, and the astral Law of Love.

Phương diện Cung Hai hay Bác Ái – Minh Triết nắm quyền kiểm soát trên các cõi thứ tư và thứ sáu, và chi phối các Định luật Kết dính và Kiểm soát Từ tính, cùng Định luật Bác ái của cõi cảm dục.

40. This is, of course, clear and numerologically necessary.

40. Điều này, dĩ nhiên, rõ ràng và cần thiết về mặt số học.

41. We note here that the “Law of Love” is called the “astral Law of Love”. This law, expressing on the astral plane, indicates the possibility and goal that buddhic energy will suffuse that plane changing its character entirely.

41. Ở đây chúng ta lưu ý rằng “Định luật Bác ái” được gọi là “Định luật Bác ái cảm dục”. Định luật này, biểu hiện trên cõi cảm dục, chỉ ra khả tính và mục tiêu rằng năng lượng Bồ đề sẽ thấm nhuần cõi đó và chuyển đổi toàn bộ đặc tính của nó.

42. Perhaps DK characterizes this law in this way as the idea of the “Law of Love” is much greater than an astral plane expression.

42. Có lẽ Chân sư DK đặc trưng định luật này như vậy vì ý niệm “Định luật Bác ái” rộng lớn hơn nhiều so với một biểu hiện trên cõi cảm dục.

There is a direct interlinking between the abstract Rays and the laws of the planes where they specially control.

Tồn tại một sự liên kết trực tiếp giữa các Cung trừu tượng và các định luật của những cõi nơi chúng đặc biệt chi phối.

43. Although ray one is the principal ‘Ray of Abstraction’ and ray three is called the “Ray of Abstract Intelligence”, it is clear (in this context) that DK is naming rays two, four and six as the “abstract Rays”. At least ray six is called the “Ray of Abstract Idealism”.

43. Dẫu cung một là “Cung Trừu xuất” chủ yếu và cung ba được gọi là “Cung Trí tuệ Trừu tượng”, rõ ràng (trong ngữ cảnh này) Chân sư DK đang gọi các cung hai, bốn và sáu là “các Cung trừu tượng”. Ít nhất cung sáu được gọi là “Cung Lý tưởng Trừu tượng”.

44. The justification for calling these rays “abstract” is that they are most closely related to subjectivity rather than to the structure and condition of the form.

44. Cơ sở để gọi các cung này là “trừu tượng” là vì chúng liên hệ mật thiết nhất với tính chủ quan thay vì với cấu trúc và tình trạng của hình tướng.

The third Ray which is the Activity aspect, controls the Laws of Disintegration and of Death, on the third and seventh planes.

Cung Ba, vốn là phương diện Hoạt động, chi phối các Định luật Phân rã và Tử vong, trên các cõi thứ ba và thứ bảy.

45. DK makes the link between the three and the seven—the third law and the seventh law, just as suggested above. Death is a disintegration (at least of the form even though not of the consciousness).

45. Chân sư DK nối số ba với số bảy—định luật thứ ba và định luật thứ bảy—như đã gợi ý bên trên. Cái chết là một sự phân rã (ít nhất của hình tướng, cho dù không phải của tâm thức).

46. Although the seventh ray is directly related to the first, we see that there is an important relationship between the seventh ray and the third. We could wonder why seventh ray egos do not refocus upon the third ray on occasion. Perhaps they do. It was so in Master R.’s Ashram recently (when He moved to the position of Mahachohan (though “by special dispensation”).

46. Dẫu cung bảy liên hệ trực tiếp với cung một, chúng ta thấy tồn tại một mối liên hệ quan trọng giữa cung bảy và cung ba. Chúng ta có thể tự hỏi vì sao các Chân ngã cung bảy không tái tập trung trên cung ba đôi khi. Có lẽ họ có. Điều đó đã diễn ra trong Đạo viện của Chân sư R. gần đây (khi Ngài chuyển đến vị trí Mahachohan, dù là “do sự chuẩn thuận đặc biệt”).

Therefore, it will be apparent to the careful student of the wisdom that:

Vì vậy, điều này sẽ hiển nhiên đối với đạo sinh thận trọng của Minh triết rằng:

47. Are we that—”careful” students of the wisdom?”

47. Chúng ta có phải là những “đạo sinh” thận trọng của Minh triết chăng?

1. The Power Aspect—Ray 1, Planes 1 and 5, and the Laws of Fixation and Vibration, form one interlocking whole.

1. Phương diện Quyền Lực —Cung 1, các Cõi 1 và 5, và các Định luật Cố định và Rung động, hình thành một chỉnh thể ăn khớp.

48. This is certainly clear. However, when DK said the following, He did not include the “Law of Vibration” in the enumeration:

48. Điều này chắc chắn rõ ràng. Tuy nhiên, khi Chân sư DK nói như sau, Ngài đã không đưa “Định luật Rung động” vào liệt kê:

These laws [i.e., the three laws relating to the three lower planes] are all dominated and controlled eventually by the three higher laws in the system—the Laws of Magnetic Control, of Disintegration, and of Cohesion.

Những định luật này [tức ba định luật liên hệ với ba cõi thấp] rốt cuộc đều bị chi phối và điều khiển bởi ba định luật cao hơn trong hệ thống—các Định luật Kiểm soát Từ tính, Phân rã và Kết dính.

49. Why was the “Law of Vibration” left out of this enumeration? By doing so a very evident symmetry was apparently distorted.

49. Vì sao “Định luật Rung động” bị bỏ ra khỏi liệt kê này? Khi làm vậy, một tính đối xứng hiển nhiên dường như bị phá vỡ.

50. Yet, the fact that DK left it out, caused us to think about the relationships between the three mentioned higher laws and the three lower laws of Fixation, Love, and Disintegration and Death.

50. Tuy vậy, chính việc Chân sư DK bỏ nó ra đã khiến chúng ta suy nghĩ về mối liên hệ giữa ba định luật cao hơn được nêu và ba định luật thấp hơn là Cố định, Bác ái, và Phân rã và Tử vong.

2. The Love Aspect—Ray 2, Planes 2, 4, 6, and the Laws of Cohesion, Magnetic Control, and of Love, form another unit.

2. Phương diện Bác ái —Cung 2, các Cõi 2, 4, 6, và các Định luật Kết dính, Kiểm soát Từ tính, và Bác ái, hình thành một đơn vị khác.

51. Again, this is clear and logical.

51. Một lần nữa, điều này rõ ràng và hợp lẽ.

3.  The Activity Aspect—Ray 3, Planes 3 and 7, and the Laws of Disintegration, Sacrifice and Death, make still another group.

3. Phương diện Hoạt động —cung ba, các cõi 3 và 7, và các Định luật Phân rã, Hy sinh và Chết, tạo thành thêm một nhóm khác.

52. This, too, is logical and was just discussed.

52. Điều này cũng hợp lẽ và vừa được bàn.

53. When one thinks about how those upon the minor soul rays resolve onto major one, the pattern just offered comes very close to the method of resolution, except that those on ray seven resolve primarily onto ray one and not ray three.

53. Khi người ta nghĩ về cách những ai ở trên các cung linh hồn phụ quy về cung chính, mô hình vừa nêu rất gần với phương pháp quy hợp, trừ việc những ai thuộc cung bảy quy chủ yếu về cung một chứ không phải cung ba.

54. So DK has given us a grouping of the laws—grouping higher laws with the lower laws. In the earlier reference, He mentioned the “Law of Magnetic Control” as a higher law of the system and excluded the “Law of Vibration”. In the grouping immediately above He speaks largely in terms of the three aspects and groups the laws according to the aspects to which they are most related. The “Law of Magnetic Control” is no longer mentioned as a higher law and the “Law of Vibration” is reintroduced.

54. Vì vậy, Chân sư DK đã đưa cho chúng ta một sự nhóm các định luật—ghép các định luật cao với các định luật thấp. Trong dẫn chiếu trước đó, Ngài nêu “Định luật Kiểm soát Từ lực” như một định luật cao của hệ và loại trừ “Định luật Rung động”. Trong sắp nhóm ngay trên, Ngài nói phần lớn theo các phương diện ba ngôi và nhóm các định luật theo những phương diện mà chúng liên hệ mật thiết nhất. “Định luật Kiểm soát Từ lực” không còn được nhắc như một định luật cao và “Định luật Rung động” được đưa trở lại.

It is logical for the first Ray only to have control, as yet, on two planes, for the Power Aspect waits for another system in order to demonstrate in full development.

Hợp lẽ rằng chỉ Cung một hiện thời có sự kiểm soát trên hai cõi, vì Phương diện Quyền lực chờ một hệ khác để biểu lộ trọn vẹn.

55. The planes on which the first ray has control appear to be the first or logoic plane and the fifth or mental plane. Yet, let us remember, as stated above, that the “Law of Vibration” demonstrate through the “Law of Cohesion”, and thus, through the second plane to which the “Law of Cohesion” is most closely related.

55. Những cõi mà cung một có sự kiểm soát dường như là cõi thứ nhất hay cõi logoic và cõi thứ năm hay cõi trí. Tuy vậy, hãy nhớ, như đã nói ở trên, rằng “Định luật Rung động” biểu hiện qua “Định luật Kết dính”, và do đó, qua cõi thứ hai mà “Định luật Kết dính” liên hệ gần gũi nhất.

56. Between the first ray and the fifth ray there is a direct conduit, but we cannot think why it should be considered more direct than the conduit between rays one and seven.

56. Giữa cung một và cung năm có một kênh dẫn trực tiếp, nhưng chúng ta không thấy vì sao nó lại được xem là trực tiếp hơn kênh dẫn giữa cung một và cung bảy.

Ray two, the synthetic Ray for our system, controls [588] on three planes; it has the preponderance, for paramountly we are the Monads of Love, and Love is our synthesis.

Cung hai, Cung tổng hợp cho hệ của chúng ta, kiểm soát [ 588] trên ba cõi; nó chiếm ưu thế, vì trước hết và trên hết chúng ta là các Chân thần của Tình thương, và Tình thương là sự tổng hợp của chúng ta.

57. Just the vegetable kingdom supports the expression of three rays, whereas the animal and mineral kingdom are only associated with two rays, so the ray most closely associated with the vegetable kingdom (the second ray) “controls on three planes”—the second, fourth and sixth. The rays associated with the second, fourth and sixth planes are the second, fourth and sixth rays—the very ones which express through the vegetable kingdom. Since Venus rules the vegetable kingdom, it must have a close association with these three rays.

57. Chính giới thực vật nâng đỡ sự biểu lộ của ba cung, trong khi giới động vật và giới khoáng vật chỉ liên hệ với hai cung, do đó, cung liên hệ mật thiết nhất với giới thực vật (cung hai) “kiểm soát trên ba cõi”—cõi thứ hai, thứ tư và thứ sáu. Các cung liên quan với các cõi thứ hai, thứ tư và thứ sáu là các cung hai, bốn và sáu—chính là những cung biểu hiện qua giới thực vật. Vì Sao Kim cai quản giới thực vật, nó hẳn có liên hệ gần gũi với ba cung này.

58. How is Master DK identifying when He makes the statement above: “for paramountly we are the Monads of Love…” Is He identifying with humanity in general, or does the term “we” give a hint concerning His own monadic nature?

58. Chân sư DK đang đồng hóa với ai khi Ngài phát biểu ở trên: “vì trước hết và trên hết chúng ta là các Chân thần của Tình thương…”? Ngài đang đồng hóa với nhân loại nói chung, hay từ “chúng ta” gợi ý gì về bản tánh chân thần riêng của Ngài?

59. If the Buddha can be a third ray Monad (and this is established by the fact that He is one of nine who can have three separate, simultaneous appearances), then Master DK can certainly be so.

59. Nếu Đức Phật có thể là một Chân thần cung ba (và điều này được xác lập bởi thực tế rằng Ngài là một trong chín Vị có thể có ba lần xuất hiện riêng biệt, đồng thời), thì Chân sư DK hẳn nhiên cũng có thể như vậy.

60. Yet, in another important reference when He uses the term “we” He seems to be hinting that He is not from the first solar system. Through the use of the word “we” in this context is He also hinting something about his own nature?

60. Tuy nhiên, trong một dẫn chiếu quan trọng khác, khi Ngài dùng từ “chúng ta” Ngài dường như ám chỉ rằng Ngài không đến từ hệ mặt trời thứ nhất. Qua việc dùng từ “chúng ta” trong ngữ cảnh này, liệu Ngài cũng đang gợi mở điều gì về bản tánh riêng của Ngài?

Our earth humanity and the group of human beings who are far more ancient in their origin than we are, will form one humanity and then there will be peace on earth. (EXH 77)

Nhân loại địa cầu của chúng ta và nhóm những con người vốn cổ xưa hơn chúng ta rất nhiều về nguồn gốc hơn chúng ta , sẽ hợp thành một nhân loại và rồi sẽ có hòa bình trên Trái Đất. (EXH 77)

61. In this context DK is definitely speaking of “the previous system” and is stating that He is not from it.

61. Trong ngữ cảnh này, DK rõ ràng đang nói về “hệ trước” và khẳng định rằng Ngài không từ đó.

62. Yet, the Monads of Love are found in the majority in this solar system, and (in using the word “we” in relation to the Monads of Love) DK may be identifying Himself as a entity from this solar system, and not as an entity from the past solar system, thus, reinforcing the message of the text reference above.

62. Tuy vậy, các Chân thần của Tình thương chiếm đa số trong hệ mặt trời này, và (khi dùng từ “chúng ta” liên hệ đến các Chân thần của Tình thương) DK có thể đang đồng hóa chính Ngài như một thực thể thuộc hệ mặt trời này, chứ không phải một thực thể từ hệ mặt trời quá khứ, nhờ đó, củng cố thông điệp của dẫn chiếu văn bản trên.

63. This seems likely, because if His identification was with the Monads who pass through the Earth-scheme, He would have to say, ‘we are primarily Monads of Intelligence’ for the majority of Monads which pass through the Earth-scheme are Monads of Intelligence. (cf. EP II 101) So, He appears to be thinking in terms of the second solar system and of the preponderance of Monads in that second system. Nevertheless, there is good reason to believe that His Monad is upon the third ray, identifying Him with Mercury, just as the Buddha is identified with Mercury.

63. Điều này có vẻ khả tín, vì nếu sự đồng hóa của Ngài là với các Chân thần đi qua Hệ-Địa Cầu, Ngài hẳn phải nói, ‘chúng ta chủ yếu là các Chân thần của Trí tuệ’ bởi đa số các Chân thần đi qua Hệ-Địa Cầu là các Chân thần của Trí tuệ. (x. EP II 101) Vậy, Ngài dường như đang nghĩ theo hạn từ của hệ mặt trời thứ hai và về tính áp đảo của các Chân thần trong hệ thứ hai ấy. Dù vậy, có lý do chính đáng để tin rằng Chân thần của Ngài ở trên cung ba, gắn Ngài với Sao Thủy, y như Đức Phật được gắn với Sao Thủy.

Ray three, the dominant Ray of the system which is past, its synthetic Ray, controls on two planes, and on one that is little under­stood, for, just as the physical body is not con­sid­ered a principle, so there is a sphere of activity that is not included in our enumeration, it is past and gone.  Some expla­nation of this lies hid in the occult words, “The Eighth Sphere.”

Cung ba, Cung trội của hệ đã qua, Cung tổng hợp của nó, kiểm soát trên hai cõi, và trên một cõi ít được hiểu, vì, cũng như thể xác không được xem là một nguyên khí, nên có một khu vực hoạt động không được kể vào trong sự liệt kê của chúng ta, nó đã thuộc về quá khứ và đã đi qua. Một phần giải minh về điều này ẩn giấu trong những từ huyền bí, “Quả cầu thứ Tám.”

64. We have here a very amazing reference. Planes three and seven are allied, but a kind of ‘plane eight’ should also be included. If we are discussing the “Eighth Sphere” we have an association with a sphere of activity which existed in the previous solar system but no longer exists in any manner integrated with our own system. Its presence existence is as a ‘sphere of retrogression’—a negatively magnetic sub-tone of the tones sounding in our present solar system.

64. Ở đây chúng ta có một dẫn chiếu hết sức kỳ lạ. Các cõi ba và bảy liên kết, nhưng một loại ‘cõi tám’ cũng nên được kể đến. Nếu chúng ta đang bàn về “Quả cầu thứ Tám” thì chúng ta có một liên hệ với một khu vực hoạt động từng hiện hữu trong hệ mặt trời trước nhưng không còn hiện hữu theo bất kỳ cách nào được tích hợp với hệ của chúng ta. Sự hiện tồn của nó là như một ‘quả cầu thoái hóa’—một âm phụ mang tính từ tính âm của các chủ âm đang ngân vang trong hệ mặt trời hiện tại của chúng ta.

65. Perhaps the dense physical plane (in its three states of solid, liquid and gas) counts as a kind of eighth sphere. It has been stated that the physical matter is directly associated with the third ray rather than the seventh (which is associated with the etheric body).

65. Có lẽ cõi hồng trần đậm đặc (trong ba trạng thái đặc, lỏng và khí) được kể như một loại quả cầu thứ tám. Người ta đã nói rằng chất vật lý liên hệ trực tiếp với cung ba hơn là với cung bảy (cung liên hệ với thể dĩ thái).

66. Of these three lower systemic sub-planes, the very dense and the liquid are the two sub-planes definitely not to be included in the physical nature of man. The gaseous sub-plane has a higher function and can be considered the lowest of the physical sub-planes appropriated by man in the creation of his physical-etheric body.

66. Trong ba cõi phụ hồng trần hệ thống thấp này, cõi phụ rất đậm đặc và cõi phụ lỏng là hai cõi phụ chắc chắn không được tính vào bản tánh thể xác của con người. Cõi phụ khí có một chức năng cao hơn và có thể được xem là thấp nhất trong các cõi phụ hồng trần được con người chiếm dụng khi tạo nên thể hồng trần–dĩ thái của y.

67. The numbers three and eight are otherwise associated as well. The third Creative Hierarchy (third of the manifested Creative Hierarchies) is also the eighth (counting from the highest of the liberated Creative Hierarchies on the cosmic astral plane). We are told that it is the rejection of the Triads (the name for the Third/Eighth Creative Hierarchy, which precipitates a man into the “eighth sphere”. The connection is unmistakable.

67. Các con số ba và tám cũng liên hệ theo cách khác nữa. Huyền Giai Sáng Tạo thứ ba (thứ ba trong các Huyền Giai Sáng Tạo đã biểu hiện) cũng là thứ tám (đếm từ cao nhất của các Huyền Giai Sáng Tạo được giải thoát trên cõi cảm dục vũ trụ). Chúng ta được cho biết rằng chính sự bị loại bỏ của các Tam nguyên (tên gọi của Huyền Giai Sáng Tạo Thứ Ba/Thứ Tám) là điều khiến một người rơi vào “quả cầu thứ tám”. Mối liên kết này là không thể lầm lẫn.

68. There is also a sense in which the lower mental planes can become a sphere unto themselves, and that this isolation of the concrete mind into a self-contained, soul-resistant sphere is the worst disaster that can befall a human being. Perhaps, an isolated lower mental vehicle can be called an eighth sphere, of a kind. It could be ruled by the third ray, but one cannot see why it should not be more ruled by the lower fifth ray.

68. Cũng có một nghĩa theo đó các cõi hạ trí có thể trở thành một quả cầu cho riêng chúng, và sự cô lập của trí cụ thể thành một quả cầu khép kín, kháng-cự linh hồn là tai ương tệ hại nhất có thể giáng lên một con người. Có lẽ, một vận cụ hạ trí cô lập có thể được gọi là một quả cầu thứ tám, theo một nghĩa nào đó. Nó có thể do cung ba cai quản, nhưng người ta khó thấy vì sao nó lại không chịu sự cai quản nhiều hơn bởi cung năm hạ.

69. When looking for the “eighth sphere” we simply must remember that there is a plane ‘lower’ than what we call the physical and it is ‘here’. This plane is a kind of sub-tone of the seven systemic planes.

69. Khi tìm “quả cầu thứ tám” chúng ta đơn giản phải nhớ rằng có một cõi ‘thấp hơn’ cái mà chúng ta gọi là cõi hồng trần và nó ‘ở đây’. Cõi này là một loại âm phụ của bảy cõi hệ thống.

70. It would seem that two conduits to this ‘undertone-plane’ are the hardened concrete mind and the lower two sub-planes of the systemic physical plane.

70. Có vẻ như hai kênh dẫn tới ‘cõi âm-phụ’ ấy là cái trí cụ thể bị hóa cứng và hai cõi phụ thấp của cõi hồng trần hệ thống.

In regard to the four minor Rays of Harmony, Concrete Science, Devotion and Ceremonial Order, their control exists in degrees on all the planes, but they have their particular emphasis in the evolution of the reincarnating ego in the three worlds at this time.

Liên quan đến bốn Cung phụ là Hài hòa, Khoa học Cụ thể, Sùng tín và Nghi lễ Trật tự, sự kiểm soát của chúng hiện hữu theo cấp độ trên tất cả các cõi, nhưng chúng nhấn mạnh đặc thù vào diễn trình tiến hóa của chân ngã luân hồi trong ba cõi thấp vào thời điểm này.

71. DK is telling us that each of these rays exerts some degree of control on all the solar planes—at least in relation to sub-planes.

71. DK đang cho chúng ta biết rằng mỗi cung trong số này tác động một mức độ kiểm soát nào đó trên tất cả các cõi thái dương—ít nhất là liên quan đến các cõi phụ.

72. The reincarnating ego works through the lower quaternary at this time and the four Rays of Attribute are particularly associated with this quaternary.

72. Chân ngã luân hồi vận hành qua bộ tứ hạ vào thời điểm này và bốn Cung Thuộc Tính đặc biệt liên hệ với bộ tứ này.

73. Is the personality threefold or fourfold? If the fourth elemental is counted (the elemental which is the occult sum of the lower three elementals) then the lower personality is fourfold.

73. Phàm ngã là tam phân hay tứ phân? Nếu kể cả hành khí thứ tư (hành khí là tổng số huyền bí của ba hành khí thấp) thì phàm ngã thấp là tứ phân.

74. We can understand that the fifth, sixth and seventh rays have a natural affinity with the three lower worlds. The fourth ray has a natural affinity with the fourth or buddhic plane, but not with any planes in the three lower worlds—only with sub-planes and with fourfold structures like the personality which is found in the three lower worlds.

74. Chúng ta có thể hiểu rằng các cung năm, sáu và bảy có một đồng cảm tự nhiên với ba cõi thấp. Cung bốn có một đồng cảm tự nhiên với cõi thứ tư hay cõi Bồ đề, nhưng không với bất kỳ cõi nào trong ba cõi thấp—chỉ với các cõi phụ và với những cấu trúc tứ phân như phàm ngã vốn được tìm thấy trong ba cõi thấp.

These four Rays control, in a subtle and peculiar manner, the four kingdoms of nature—mineral, vegetable, animal and human—

Bốn Cung này kiểm soát, theo một cách vi tế và đặc dị, bốn giới trong thiên nhiên—kim thạch, thực vật, động vật và nhân loại—

75. We can look at this control in various ways, but let us offer one assignment:

75. Chúng ta có thể nhìn sự kiểm soát này theo nhiều cách, nhưng hãy đưa ra một sự phân bổ như sau:

a. Ray four—the human kingdom

a. Cung bốn—giới nhân loại

b. Ray five—the animal kingdom (as it strives towards knowledge and individualization)

b. Cung năm—giới động vật (khi nó nỗ lực hướng tới tri thức và biệt ngã hóa)

c. Ray six—the vegetable kingdom (as it aspires upward towards the sun)

c. Cung sáu—giới thực vật (khi nó hướng vọng đi lên về phía mặt trời)

d. Ray seven—the mineral kingdom (in its ‘frozen’, crystalline aspect).

d. Cung bảy—giới kim thạch (trong phương diện ‘đông cứng’, kết tinh của nó).

and at their merging into the three Rays of Aspect (the Activity Ray of the Maha­chohan being the synthesiser of the lower four in our planetary scheme) have a correspondence with the merging of man (the product of the three kingdoms and the fourth) into the superman kingdom, the spiritual.

và trong sự nhập vào ba Cung Trạng Thái (Cung Hoạt động của MahaChohan là đấng tổng hợp của bốn cung thấp trong hệ hành tinh của chúng ta) có một tương ứng với sự nhập của con người (sản phẩm của ba giới và giới thứ tư) vào giới siêu nhân, tức giới tinh thần.

76. As man (the fourth kingdom) merges into the fifth kingdom (the “Kingdom of Souls”—the “superhuman kingdom”) so the four Rays of Attribute merge into the third ray, the “Ray of Brahma” or the “Ray of the Mahachohan”.

76. Như con người (giới thứ tư) nhập vào giới thứ năm (“Giới Linh hồn”—“giới siêu nhân”) thì bốn Cung Thuộc Tính cũng nhập vào cung ba, “Cung của Brahma” hay “Cung của MahaChohan”.

The fourth Ray and the fourth Kingdom form a point of harmony for the lower three, and all four then pass into the major or upper three.

Cung bốn và Giới thứ tư tạo nên một điểm hài hòa cho ba giới thấp, và cả bốn rồi đi vào ba cung chính yếu hay ba thượng.

77. It is significant that humanity is meant to harmonize the lower three kingdoms. Due attention will be given to this task during the Aquarian Age as the seventh ray (the ‘ray of ecology’) gains in strength.

77. Thật đáng kể rằng nhân loại được định là để hài hòa ba giới thấp. Sẽ dành sự quan tâm thích đáng cho công tác này trong Kỷ nguyên Bảo Bình khi cung bảy (cung ‘sinh thái’) gia tăng sức mạnh.

a. We can understand humanity’s responsibility in this regard—a responsibility far from fulfilled.

a. Chúng ta có thể hiểu trách nhiệm của nhân loại trong phương diện này—một trách nhiệm còn xa mới được hoàn thành.

78. Eventually, all the four lower rays pass into the “upper three”. They arose from the “upper three” and, thence, they return.

78. Rốt cuộc, cả bốn cung thấp sẽ đi vào “ba thượng”. Chúng khởi sinh từ “ba thượng” và, từ đó, chúng trở về.

This is worthy of our serious thought, and the analogy of the fourth plane will also be apparent.

Điều này đáng để chúng ta suy tư nghiêm cẩn, và phép tương đồng của cõi thứ tư cũng sẽ hiển lộ.

79. The fourth plane is the “Plane of Harmony”.

79. Cõi thứ tư là “Cõi của Hài hòa”.

80. The implication is that the fourth plane will one day absorb the lower three planes.

80. Hàm ý là cõi thứ tư một ngày nào đó sẽ hấp thụ ba cõi thấp.

For this system, the buddhic plane, the human kingdom, and the fourth Ray of Harmony or Beauty or Synthesis, have a point of corres­pondence,

Đối với hệ này, cõi Bồ đề, giới nhân loại, và Cung bốn của Hài hòa hay Mỹ lệ hay Tổng hợp, có một điểm tương ứng,

81. We note a special name for the fourth ray as a ‘Ray of Synthesis’.

81. Chúng ta ghi nhận một tên gọi đặc biệt cho cung bốn như một ‘Cung của Tổng hợp’.

82. In different respects, the first ray, second ray, third ray, fourth ray and seventh ray are all ‘Rays of Synthesis’. The fifth ray is a ‘Ray of Union’, which we can see from the Word of Power, “Three Minds Unite”.

82. Ở những phương diện khác nhau, các cung một, hai, ba, bốn và bảy đều là ‘Các Cung của Tổng hợp’. Cung năm là ‘Cung của Hiệp nhất’, điều mà chúng ta có thể thấy từ Quyền năng từ, “ba trí hợp nhất”.

just as the fourth rootrace is the one in which the synthesis is first observed—the door into the fifth kingdom of Spirit being then opened;

như giống dân gốc thứ tư là giống dân trong đó sự tổng hợp lần đầu tiên được quan sát—cánh cửa vào giới thứ năm của Tinh thần khi ấy được mở;

83. If synthesis is first observed in the fourth root race, then analogously, it can be said that synthesis is first observed on the fourth sub-plane (let us say, of the mental plane). We realize rays three, two and one to be synthetic rays and ray four the antechamber to the acknowledged synthesis of the three major rays.

83. Nếu tổng hợp được quan sát trước hết ở giống dân gốc thứ tư, thì theo phép tương ứng, có thể nói rằng tổng hợp được quan sát trước hết trên cõi phụ thứ tư (chúng ta hãy nói, của cõi trí). Chúng ta nhận ra các cung ba, hai và một là những cung tổng hợp và cung bốn là tiền sảnh dẫn vào sự tổng hợp được thừa nhận của ba cung chính.

84. In many respects, synthesis begins with the etheric part of any sevenfold plane—yet the lowest level ruled by the seventh ray is also a field of synthesis.

84. Ở nhiều phương diện, tổng hợp khởi đầu với phần dĩ thái của bất kỳ cõi thất phân nào—tuy nhiên mức thấp nhất do cung bảy cai quản cũng là một trường tổng hợp.

85. On the lower mental plane a kind of synthesis exists which opens the door into the fifth kingdom.

85. Trên cõi hạ trí tồn tại một loại tổng hợp mở cửa vào giới thứ năm.

86. We note here that the fifth kingdom is not called the “Kingdom of Souls” but rather the “fifth kingdom of Spirit”. This is unusual, however, when the fifth kingdom is entered, the Spirit/Monad does actively engage with the soul on its own plane.

86. Ở đây chúng ta lưu ý rằng giới thứ năm không được gọi là “Giới của các Linh hồn” mà là “giới thứ năm của Tinh thần”. Điều này là bất thường; tuy nhiên, khi giới thứ năm được nhập vào, Tinh thần/Chân thần quả thật tham dự tích cực với linh hồn trên chính cõi của nó.

The first faint tremor of the impact of monadic “destiny” (I know not how else to express this concept) makes itself felt, but is registered only by the soul of the initiate and on the level of soul consciousness; it is never registered by the man on the physical plane who is taking the first initiation; his brain cannot respond to this high vibration.   (R&I 312-313)

Rung động mơ hồ đầu tiên của tác động của “định mệnh” chân thần (Tôi không biết diễn đạt khái niệm này cách nào khác) tự làm mình được cảm nhận, nhưng chỉ được ghi nhận bởi linh hồn của vị điểm đạo đồ và trên cấp độ tâm thức linh hồn; nó không bao giờ được ghi nhận bởi người đang ở trên cõi hồng trần mà thọ lần điểm đạo thứ nhất; bộ não của y không thể đáp ứng với rung động cao như vậy. (R&I 312-313)

87. Usually, it would be the sixth kingdom which would be called the “kingdom of Spirit”.

87. Thông thường, đáng lẽ giới thứ sáu mới được gọi là “giới của Tinh thần”.

the fourth rootrace also developed the astral capacity that made contact with the fourth or buddhic level possible.

giống dân gốc thứ tư cũng đã phát triển năng lực cảm dục khiến cho việc tiếp xúc với cấp bốn hay cõi Bồ đề trở nên khả hữu.

88. The buddhic plane is definitely synthetic compared to the lower planes. There is a channel from the astral plane to the buddhic and, in this astral buddhic solar system, and upon our second ray planet, man developed and cultivated this astral-buddhic link.

88. Cõi Bồ đề chắc chắn mang tính tổng hợp so với các cõi thấp. Có một kênh từ cõi cảm dục đến cõi Bồ đề và, trong hệ mặt trời cảm dục–Bồ đề này, và trên hành tinh cung hai của chúng ta, con người đã phát triển và bồi dưỡng mối nối cảm dục–Bồ đề ấy.

89. The upshot of this discussion is the acknowledgment that the number four indicates synthesis and that the fourth ray is a synthetic ray and the fourth plane a synthetic plane (as are the sub-planes corresponding to the number four).

89. Kết cục của cuộc bàn này là sự thừa nhận rằng số bốn chỉ tổng hợp và rằng cung bốn là một cung tổng hợp và cõi thứ tư là một cõi tổng hợp (cũng như các cõi phụ ứng với số bốn).

In a subtle way too (I use the word subtle for lack of a better, meaning a statement of actuality that seems an [589] illusion),

Theo một cách vi tế nữa (tôi dùng từ vi tế vì không có từ hay hơn, chỉ một lời khẳng định về thực tại mà có vẻ như một [589] ảo tưởng),

90. “Subtle” means that which is true but not easily detected.

90. “Vi tế” có nghĩa là cái đúng nhưng không dễ được phát hiện.

the three minor Rays, Concrete Science, Devotion and Ceremonial Law, have each a connection with the three kingdoms of nature below the human, and with the three laws of the three lower worlds.

ba Cung phụ, Khoa học Cụ thể, Sùng tín và Luật Nghi lễ, mỗi cung đều có một mối liên hệ với ba giới của thiên nhiên bên dưới nhân loại, và với ba định luật của ba cõi thấp.

91. This again, stands to reason. We have suggested a connection of the three minor rays with the three lower kingdoms and three lower laws.

91. Điều này, một lần nữa, là hợp lẽ. Chúng ta đã gợi một liên hệ của ba Cung phụ với ba giới thấp và ba định luật thấp.

92. There is a definite connection between the mineral kingdom and the physical nature (ruled by the seventh ray), the vegetable kingdom and the astral nature (ruled by the sixth ray) and the mental nature (ruled by the fifth ray—the ray of mind) and the animal kingdom. The deeper objectives of each of these three kingdoms must be understood if the ray connection is to be understood.

92. Có một liên hệ xác quyết giữa giới kim thạch và bản tánh hồng trần (do cung bảy cai quản), giữa giới thực vật và bản tánh cảm dục (do cung sáu cai quản) và giữa bản tánh trí tuệ (do cung năm—cung của thể trí—cai quản) và giới động vật. Các mục tiêu sâu xa của từng giới trong ba giới này cần được hiểu nếu muốn hiểu liên hệ theo cung.

The Ray of Ceremonial Order has special significance at this time; it controls life in the mineral world, and in the final stages of involutionary life at the point where the upward turn of evolution is made.

Cung Nghi lễ Trật tự  có ý nghĩa đặc biệt vào lúc này; nó kiểm soát sự sống trong giới kim thạch, và trong các giai đoạn cuối của sự sống giáng hạ ở điểm mà bước ngoặt đi lên của tiến hóa được thực hiện.

93. DK raises an important point. The ‘turn’ from involutionary life to evolutionary is mysterious. We understand little if anything of the forms through which involutionary life progresses ‘downward’.

93. DK nêu lên một điểm quan trọng. ‘Bước ngoặt’ từ sự sống giáng hạ sang thăng thượng là điều huyền bí. Chúng ta hiểu rất ít, nếu có, về các hình tướng qua đó sự sống giáng hạ tiến bước ‘xuống dưới’.

94. One wonders here if the turn can be described symbolically in the relationship between Saturn and Uranus.

94. Ở đây người ta tự hỏi liệu bước ngoặt ấy có thể được mô tả biểu tượng qua mối liên hệ giữa Sao Thổ và Sao Thiên Vương hay không.

95. The seventh ray is involved in significant transitions; certainly the ‘moment of the turn’ is highly significant in the progress of the Second Logos through the second outpouring.

95. Cung bảy liên can đến các chuyển tiếp trọng yếu; hẳn nhiên ‘khoảnh khắc chuyển hướng’ là rất trọng yếu trong tiến trình của Ngôi Hai qua lần tuôn đổ thứ hai.

96. We would imagine that at the “turn” there is a definite ‘setting into form’ over which the seventh ray would preside.

96. Chúng ta có thể hình dung rằng tại “bước ngoặt” có một ‘sự định hình’ xác quyết mà cung bảy sẽ chủ trì.

Through Ceremonial Order comes the control of the lesser builders, the elemental forces, the point of synthesis in the lowest plane of all, the period of transition.

Qua Nghi lễ Trật tự đến việc kiểm soát các người kiến tạo nhỏ, các lực hành khí, điểm tổng hợp nơi cõi thấp nhất trong tất cả, giai đoạn chuyển tiếp.

97. We gather that the elemental forces are to be controlled through ceremonial order. This is also true of higher devas.

97. Chúng ta hiểu rằng các lực hành khí sẽ được kiểm soát qua nghi lễ trật tự. Điều này cũng đúng đối với các thiên thần cao.

98. May we say that a point of synthesis uniting the elemental forces of the involutionary arc with the devic forces of the evolutionary arc is reached on the seventh plane at the period of the ‘turn’?

98. Chúng ta có thể nói rằng một điểm tổng hợp, hợp nhất các lực hành khí của vòng giáng hạ với các lực thiên thần của vòng thăng thượng, được đạt tới trên cõi thứ bảy vào thời kỳ ‘bước ngoặt’ chăng?

99. We remember the relationship between the seventh ray and all transitions.

99. Chúng ta nhớ mối liên hệ giữa cung bảy và mọi chuyển tiếp .

100. We live in a time of great transition right now and the seventh ray is increasingly potent. One wonders whether it is the ray ruling the greater and impending 25,000 year Age of Aquarius as well as the lesser Age of some 2500 years.

100. Hiện nay chúng ta đang sống trong một thời kỳ chuyển tiếp lớn lao và cung bảy ngày càng thêm hùng mạnh. Người ta tự hỏi liệu nó có phải là cung cai quản Kỷ nguyên Bảo Bình lớn 25.000 năm sắp tới cũng như Kỷ nguyên nhỏ chừng 2.500 năm hay không.

In all such periods the seventh Ray comes in (as now) the Ray of Law and Order, of accurate arrangement and formation.  It is the reflection on the physical plane of the Power and Activity Aspects working in synthesis.

Trong mọi thời kỳ như vậy cung bảy nhập cuộc (như hiện nay)—Cung của Luật và Trật tự, của sắp đặt và hình thành chính xác. Nó là phản ảnh trên cõi hồng trần của các Phương diện Quyền lực và Hoạt động đang làm việc trong tổng hợp.

101. We have here important names for the seven ray:

101. Ở đây chúng ta có các tên gọi quan trọng cho cung bảy:

a. The “Ray of Law and Order”

a. “Cung của Luật và Trật tự”

b. The ray of accurate arrangement

b. cung của sắp đặt chính xác

c. The ray of accurate formation

c. cung của hình thành chính xác

102. If we combine rays one and three (and they work in synthesis), then ray seven reflects this combination. Does this suggest that the seventh ray can be derived from the combination of the first and third rays? Usually, the thought has been advanced that the seventh ray is derived from the combination of the first, second and third rays.

102. Nếu chúng ta kết hợp các cung một và ba (và chúng làm việc trong tổng hợp), thì cung bảy phản chiếu sự kết hợp này. Điều đó có gợi ý rằng cung bảy có thể được dẫn xuất từ sự kết hợp của cung một và cung ba không? Thông thường, ý tưởng đã được nêu là cung bảy được dẫn xuất từ sự kết hợp của các cung một, hai và ba.

Rays 1, 3, 7, have an interplay, as we know.  Ray seven is the appearance in combination of the forces of evolution.  It is the manifestation of Power and Activity on the lowest plane of all.

Các cung 1, 3, 7, có một sự giao thoa, như chúng ta biết. Cung bảy là sự xuất hiện trong kết hợp của các lực của tiến hóa. Đó là sự biểu lộ của Quyền lực và Hoạt động trên cõi thấp nhất của tất cả.

103. We have here further confirmation of the seventh ray as a combination of the first and third.

103. Ở đây chúng ta có thêm một xác nhận nữa về cung bảy như là một sự kết hợp của cung một và ba.

104. What rays represent the “forces of evolution”? The “Will-to-Evolve” is the third ray aspect of Will. Shall the driving force of the first ray be included in the “forces of evolution”? It would seem so. But then, are there any ray energies which do not make their contribution to evolution?

104. Những cung nào biểu hiện “các lực của tiến hóa”? “Ý Chí-tiến hóa” là phương diện cung ba của Ý Chí. Liệu sức thúc đẩy của cung một có được kể vào “các lực của tiến hóa” không? Có vẻ là có. Nhưng rồi, có năng lượng cung nào mà không góp phần vào tiến hóa chăng?

105. The relation of the seven ray to both the first and third suggests lines of refocus and resolution. We know that seventh ray individuals often refocus on the first ray. Why should they not also refocus upon the third ray? Certain members of Master R.’s Ashram have (with Him) done exactly that.

105. Mối liên hệ của cung bảy với cả cung một lẫn cung ba gợi ý các đường tái hướng và quy hợp. Chúng ta biết rằng những người cung bảy thường tái hướng về cung một. Vì sao họ không cũng tái hướng về cung ba? Một số thành viên của Trường phái của Chân sư R. đã (cùng với Ngài) làm đúng như vậy.

It is allied to the laws of the third and seventh planes, Disintegration and Death,

Nó liên đới với các định luật của cõi thứ ba và thứ bảy, Phân rã và Chết,

106. We are being told that the seventh ray is allied to not only the law of the seventh plane (the “Law of Sacrifice and Death”) but to the law of the third plane (the “Law of Disintegration”).

106. Chúng ta được cho biết rằng cung bảy liên kết không chỉ với định luật của cõi thứ bảy (“Định luật Hy sinh và Chết”) mà còn với định luật của cõi thứ ba (“Định luật Phân rã”).

for all periods of transition are periods of the destruction and building of forms, and the shattering of the old in order that newer and better chalices of life may be constructed.

vì mọi thời kỳ chuyển tiếp đều là những thời kỳ phá hủy và kiến tạo hình tướng, và đập vỡ cái cũ để những bình chứa của sự sống mới mẻ và tốt đẹp hơn có thể được kiến tạo.

107. DK is linking transition (during which the seventh ray is always present) with the factor of destruction and disintegration. Transition (seventh ray activity) He says, involves destruction and disintegration (hence the relation of the seventh law to the third–the “Law of Disintegration”).

107. DK đang liên kết chuyển tiếp (trong đó cung bảy luôn hiện diện) với yếu tố hủy hoại và phân rã. Ngài nói rằng chuyển tiếp (hoạt động cung bảy) bao hàm hủy hoại và phân rã (do đó mối liên hệ của định luật thứ bảy với định luật thứ ba—“Định luật Phân rã”).

108. When the Ray of the Destroyer brings about human death in the three worlds we sometimes call the process “making one’s transition”.

108. Khi Cung của Kẻ Hủy Diệt gây nên cái chết của con người trong ba cõi, chúng ta đôi khi gọi tiến trình ấy là “làm cuộc chuyển tiếp”.

109. Perhaps later there will be methods of making transition without the necessity of disintegration and destruction. Perhaps the dynamic of ‘harmonious metamorphosis’ will appear, and the alterations necessary for successful transition will be smoothly accomplished.

109. Có lẽ về sau sẽ có những phương pháp thực hiện chuyển tiếp mà không cần đến phân rã và hủy hoại. Có lẽ động lực của ‘chuyển hóa hài hòa’ sẽ xuất hiện, và các biến cải cần thiết cho chuyển tiếp thành công sẽ được thực hiện cách êm thuận.

The Ray of Devotion has a definite though little known connection with the vegetable kingdom.

Cung Sùng tín có một liên hệ xác quyết tuy ít được biết tới với giới thực vật.

110. If we examine the relationship between the vegetable kingdom, the sixth ray and Venus, light may come on this connection.

110. Nếu chúng ta xét mối liên hệ giữa giới thực vật, cung sáu và Sao Kim, có thể ánh sáng sẽ đến cho mối liên hệ này.

We must remember that it is linked to a subsidiary law of the cosmic Law of Attraction.

Chúng ta phải nhớ rằng nó được liên kết với một định luật phụ của Định luật Hấp dẫn vũ trụ.

111. Just as the second and sixth rays are linked, so the second ray Law of Attraction and the sixth ray “Law of Love” are linked—we remember that it is called the “astral Law of Love”.

111. Cũng như cung hai và cung sáu được liên kết, thì Định luật Hút của cung hai và “Định luật Tình thương” của cung sáu cũng được liên kết—chúng ta hãy nhớ rằng nó được gọi là “Định luật Tình thương cảm dục”.

It is in the vegetable kingdom that we find one of the first and temporary approximations between the evolving human Monad, and the evolving deva Monad.

Chính trong giới thực vật mà chúng ta tìm thấy một trong những sự tiệm cận đầu tiên và tạm thời giữa Chân thần nhân loại đang tiến hóa và Chân thần thiên thần đang tiến hóa.

112. It is interesting that DK view these approximations as approximations between Monads. It is as if the one Monad of the human kingdom approximates with the one Monad of the deva kingdom and that this happens through many encounters between the representatives of those kingdoms.

112. Điều thú vị là Chân sư DK xem những sự tiếp cận này như là sự tiếp cận giữa các Chân Thần. Cứ như thể Chân Thần của giới nhân loại tiếp cận với Chân Thần của giới thiên thần, và điều này xảy ra thông qua nhiều cuộc gặp gỡ giữa các đại diện của những giới đó.

The two parallel evolutions touch in that kingdom, and then again follow their own paths, finding their next point of contact on the fourth or buddhic level, and a final merging on the second.

Hai dòng tiến hóa song song chạm nhau trong giới ấy , rồi lại theo các lộ trình riêng , tìm điểm tiếp xúc kế tiếp của họ trên cấp bốn hay cõi Bồ đề, và sự nhập chung sau cùng trên cõi thứ hai.

113. This is a most important reference concerning the merging of the human and deva kingdoms:

113. Đây là một dẫn chiếu hết sức quan trọng về sự nhập của nhân loại và chư thiên:

a. They temporarily approximate on the astral plane

a. Họ tiệm cận tạm thời trên cõi cảm dục

b. They have a point of contact on the buddhic level

b. Họ có một điểm tiếp xúc trên bình diện Bồ đề

c. They have a final merging on the monadic level

c. Họ có sự nhập chung sau cùng trên bình diện chân thần

114. The contact here referenced between deva and human units is called an “alliance” in other references:

114. Sự tiếp xúc được nói tới ở đây giữa các đơn vị thiên thần và nhân loại được gọi là một “liên minh” trong các dẫn chiếu khác:

Further, the two great evolutions (human and deva) find their group unity on the buddhic plane, and portions of both hierarchies blend and merge so as to form the body of the divine Hermaphrodite.24,25  Earlier, at certain fixed points, they may temporarily approximate each [329] other.  On the buddhic plane definite and permanent alliance may be seen. (TCF 328-329)

Hơn nữa, hai đại tiến hóa (nhân loại và thiên thần) tìm thấy sự hợp nhất tập thể của họ trên cõi Bồ đề , và những phần của cả hai hệ cấp hòa trộn và nhập chung để hình thành thân thể của Đấng Lưỡng tính thiêng liêng.24,25 Trước đó, tại những điểm cố định nào đó, họ có thể tiệm cận nhau tạm thời [329]. Trên cõi Bồ đề có thể thấy một liên minh minh định và vĩnh cửu. (TCF 328-329)

115. This contact on the buddhic plane is also called a “group unity”.

115. Sự tiếp xúc trên cõi Bồ đề này cũng được gọi là một “hợp nhất tập thể”.

116. Taken together these references supply very important facts about the relationship between humans and devas. As we can see, the two-four-six line is definitely involves in this gradual, merging process.

116. Gộp lại, các dẫn chiếu này cung cấp những sự kiện rất quan trọng về mối liên hệ giữa con người và chư thiên. Như chúng ta có thể thấy, tuyến hai–bốn–sáu chắc chắn có liên quan trong tiến trình nhập dần dần này.

The concrete Rays have an especial effect on the negative evolution of the devas, who form the feminine aspect of the divine hermaphroditic Man, working along [590] the lines of more positive development.  The abstract Rays do a similar work on the positive human hierarchy, tending towards a more receptive attitude.  This hierarchy forms the masculine aspect of the divine Hermaphrodite.

Các Cung cụ thể có một ảnh hưởng đặc biệt trên tiến hóa âm tính của chư thiên, những vị tạo nên phương diện nữ tính của Đấng Lưỡng tính thiêng liêng, làm việc theo [590] các đường lối phát triển dương tính hơn. Các Cung trừu tượng làm một công việc tương tự trên hệ cấp nhân loại dương tính, hướng tới một thái độ tiếp nhận hơn. Hệ cấp này tạo nên phương diện nam tính của Đấng Lưỡng tính thiêng liêng.

117. Here we find an interesting and important contrast. The devas are a feminine evolution and so the concrete (masculine) rays contribute to their positive development. The human hierarchy is already “positive” and so the abstract or feminine rays build in them a more receptive attitude.

117. Ở đây chúng ta thấy một tương phản thú vị và quan trọng. Chư thiên là một tiến hóa nữ tính nên các Cung cụ thể (nam tính) góp phần vào phát triển dương tính của họ. Hệ cấp nhân loại vốn đã “dương tính” nên các Cung trừu tượng hay nữ tính xây dựng trong họ một thái độ tiếp nhận hơn.

118. By “concrete Rays” it is probable that the Tibetan means rays one—three—five–seven. He could of course mean rays five—six—seven, which are “concrete” when compared to the Rays of Aspect.

118. Bằng cụm “Các Cung cụ thể” rất có thể Chân sư muốn nói các cung một—ba—năm—bảy. Dĩ nhiên Ngài cũng có thể muốn nói các cung năm—sáu—bảy, là những cung “cụ thể” khi so với Các Cung Trạng Thái.

119. By “abstract Rays” He probably means rays two—four—six rather than rays one—two—three (which are Rays of Aspect and, therefore, abstract when compared to the Rays of Attribute).

119. Bằng cụm “Các Cung trừu tượng” Ngài có lẽ muốn nói các cung hai—bốn—sáu hơn là các cung một—hai—ba (vốn là Các Cung Trạng Thái và, do đó, là trừu tượng khi so với Các Cung Thuộc Tính).

But at three points on the path of evolution the Monads of Love, working on the abstract qualities, touch the devas of activity working on concrete faculty.

Nhưng tại ba điểm trên con đường tiến hóa, các Chân thần của Tình thương, làm việc trên các phẩm tính trừu tượng, chạm tới các thiên thần của hoạt động vốn làm việc trên năng lực cụ thể.

120. Is DK speaking specifically of the “Monads of Love”, i.e., of second ray Monads? Or are all Monads, because they focus especially on the second systemic plane, to be considered “Monads of Love”?

120. DK đang nói riêng về “các Chân thần của Tình thương”, tức là các Chân thần cung hai? Hay mọi Chân thần, vì chú trọng đặc biệt vào cõi thứ hai của hệ, đều được xem là “các Chân thần của Tình thương”?

121. We may gather that all devas are “devas of activity”. Devas are to be found on all the rays, but DK seems to be speaking of something that is common to them all—i.e., their association with the activity aspect of divinity (an aspect that is at once feminine and masculine).

121. Chúng ta có thể hiểu rằng mọi thiên thần đều là “thiên thần của hoạt động”. Thiên thần có mặt trên tất cả các cung, nhưng DK dường như đang nói về điều gì đó chung cho tất cả họ—tức là sự liên kết của họ với phương diện hoạt động của thần tính (một phương diện vừa nữ tính vừa nam tính).

122. We can see there is much devas and humans have in common and much that differentiates them.

122. Chúng ta có thể thấy có nhiều điều chư thiên và con người có chung và nhiều điều phân biệt họ.

The perfection of the two evolutions marks the point of attainment of the divine Heavenly Man;

Sự viên mãn của hai tiến hóa đánh dấu điểm đạt thành của Đấng Thiên Nhân thiêng liêng;

123. Since the merging of humans and devas occurs on the monadic plane (and since, consequently, their relationship is not complete until their monadic merging), the “attainment of the divine Heavenly Man” is achieved when both evolutions fuse on the monadic plane—the plane upon which the Heavenly Men focus particularly as various charts in TCF reveal.

123. Vì sự nhập của con người và chư thiên diễn ra trên cõi chân thần (và vì, do đó, mối liên hệ của họ chưa hoàn tất cho đến khi họ nhập chân thần), “điểm đạt thành của Đấng Thiên Nhân thiêng liêng” được thành tựu khi cả hai tiến hóa dung hợp trên cõi chân thần—cõi mà các Đấng Thiên Nhân chú trọng đặc biệt, như nhiều biểu đồ trong TCF cho thấy.

124. In short, monadic attainment for both humans and devas signals the attainment of the “divine Heavenly Man”.

124. Nói ngắn, thành tựu chân thần cho cả con người lẫn chư thiên báo hiệu thành tựu của “Đấng Thiên Nhân thiêng liêng”.

it is the perfecting of the two major centres, creative activity and love, of the Logos.

đó là sự làm viên mãn hai đại luân xa—hoạt động sáng tạo và tình thương—của Logos.

125. These two major centers suggest the throat and heart centers of the Heavenly Man. The throat is the center of “creative activity” and the heart is the center of love.

125. Hai đại luân xa này gợi về luân xa cổ họng và luân xa tim của Đấng Thiên Nhân. Cổ họng là luân xa của “hoạt động sáng tạo” và tim là luân xa của tình thương.

126. Devas can reasonably be associate with the sacral center which must be raised to the throat. Humans are associated not only with the throat center point of the Heavenly Man, but with the solar plexus center of the Grand Heavenly Man—a center which must be raised to the heart.

126. Chư thiên một cách hợp lý có thể được liên kết với luân xa xương cùng vốn phải được nâng lên cổ họng. Nhân loại được liên hệ không chỉ với điểm luân xa cổ họng của Đấng Thiên Nhân, mà còn với luân xa tùng thái dương của Đấng Đại Thiên Nhân—một luân xa phải được nâng lên tim.

127. Another way of looking at this is that humanity is meant to become the Spiritual Hierarchy of the planet.

127. Một cách nhìn khác là nhân loại được định trở thành Huyền Giai Tinh Thần của hành tinh.

128. We note that in one breath DK speaks of the Heavenly Man and in the next of the “Logos”. We have to be careful. When He speaks of the “Logos” He generally means Solar Logos. Thus, if so, He has switched His frame of reference from one sentence to the next.

128. Chúng ta lưu ý rằng trong cùng một mạch, DK nói về Đấng Thiên Nhân rồi ngay sau đó về “Logos”. Chúng ta phải cẩn trọng. Khi Ngài nói “Logos” Ngài thường có ý đến Thái dương Thượng đế. Như vậy, nếu đúng thế, Ngài đã chuyển khung tham chiếu của mình từ câu này sang câu khác.

129. Whereas humanity represents the throat center of the Heavenly Man, it represents the solar plexus center of the Grand Heavenly Man.

129. Trong khi nhân loại biểu hiện luân xa cổ họng của Đấng Thiên Nhân, thì nhân loại biểu hiện luân xa tùng thái dương của Đấng Đại Thiên Nhân.

In their lower aspect these centres are known as the centres of generation and the solar plexus, but are transmuted, as evolution proceeds, into the throat and heart centres.

Ở phương diện thấp của chúng, các luân xa này được biết như các trung tâm sinh sản và tùng thái dương, nhưng, khi tiến hóa tiếp diễn, chúng được chuyển hóa thành luân xa cổ họng và luân xa tim.

130. We seem to be looking at where humans and devas begin, and the point to which they must arrive.

130. Có vẻ như chúng ta đang xem xét nơi con người và các thiên thần khởi đầu, và điểm mà họ phải đạt đến.

Then, in a dual synthesis, they will pass on into the third system, that in which the Power aspect is developed, and the head centres will be complete.

Rồi, trong một tổng hợp lưỡng phân , họ sẽ đi vào hệ thống thứ ba, hệ mà trong đó phương diện Quyền lực được phát triển, và các luân xa đầu sẽ được hoàn tất.

131. This seems to suggest that humans and devas will merge in a synthesis. It will be a dual synthesis: sacral center and solar plexus; throat center and heart.

131. Điều này dường như gợi rằng con người và chư thiên sẽ nhập trong một tổng hợp. Đó sẽ là một tổng hợp song : xương cùng và tùng thái dương; cổ họng và tim.

132. Both kingdoms (in a synthesized stated) will pass into the next solar system, which will be based on synthesis and not on duality.

132. Cả hai giới (trong trạng thái đã tổng hợp) sẽ đi vào hệ mặt trời kế tiếp, hệ sẽ dựa trên tổng hợp chứ không trên nhị nguyên.

133. There was but one dominant evolution in the first major solar system. Major evolutions were divided in the second solar system. Will there be one dominant evolution in the third major system and will that dominant group arise from the dual synthesis here discussed, or will there be a triple evolution? It is too early to tell.

133. Trong hệ thái dương lớn thứ nhất chỉ có một tiến hóa trội. Các tiến hóa chính đã được phân đôi trong hệ thứ hai. Liệu sẽ có một tiến hóa trội trong hệ lớn thứ ba và liệu nhóm trội ấy sẽ phát sinh từ tổng hợp lưỡng phân đang bàn này, hay sẽ có một tiến hóa tam phân? Còn quá sớm để biết.

This achieved, our Logos has triumphed, and measured up to the sixth cosmic Initiation, just as He should measure up in this system to the fourth.

Khi điều này hoàn tất, Logos của chúng ta đã khải hoàn, và vươn tới lần Điểm đạo vũ trụ thứ sáu, cũng như Ngài nên vươn tới trong hệ này lần thứ tư.

134. When the power aspect will be developed and the head centers will be complete, the triumph of our Solar Logos will be indicated. This triumph is the “sixth cosmic initiation”. It is important that DK specify the word “cosmic” as the Solar Logos is also engaged in taking a series of lesser initiations (nine in all) which are intra-systemic rather than cosmic. (cf. TCF 384)

134. Khi phương diện Quyền lực được phát triển và các luân xa đầu được hoàn tất, chiến thắng của Thái dương Thượng đế của chúng ta sẽ được biểu thị. Chiến thắng này là “lần điểm đạo vũ trụ thứ sáu”. Điều quan trọng là DK xác định từ “vũ trụ” vì Thái dương Thượng đế cũng đang tiến hành một chuỗi các lần điểm đạo nhỏ hơn (tổng cộng chín) mang tính nội hệ thay vì vũ trụ. (x. TCF 384)

135. We see that the sixth cosmic initiation of our Solar Logos looms ahead and cannot be taken in this solar system. The case for the fifth cosmic initiation is ambiguous. Other references indicate that the Logos will take it in this solar system, while the present reference tells us that He will “measure up in this system to the fourth”. Is it possible that the initiatory possibilities of the Logos are not completely determined? During any one human incarnation, for instance, specified initiatory possibilities may be attained or deferred, depending on the exertions of the human being. May it also be so for the Logos?

135. Chúng ta thấy rằng lần điểm đạo vũ trụ thứ sáu của Thái dương Thượng đế chúng ta còn ở phía trước và không thể được thọ lãnh trong hệ mặt trời này. Trường hợp lần điểm đạo vũ trụ thứ năm thì mơ hồ. Những dẫn chiếu khác chỉ ra rằng Logos sẽ thọ nó trong hệ này, trong khi dẫn chiếu hiện tại cho biết Ngài sẽ “vươn tới trong hệ này đến lần thứ tư”. Có thể chăng rằng các khả tính điểm đạo của Logos không được định đoạt hoàn toàn ? Trong bất kỳ một lần nhập thế của con người, chẳng hạn, những khả tính điểm đạo nhất định có thể được đạt tới hay hoãn lại, tùy vào nỗ lực của con người ấy. Có thể chăng điều đó cũng đúng với Logos?

The Ray of Concrete Science has a peculiar relationship to the animal kingdom, in that it is the Ray that governs the merging of that kingdom into the human.

Cung Khoa học Cụ thể có một mối liên hệ đặc thù với giới động vật, ở chỗ đó là Cung cai quản sự nhập của giới ấy vào nhân loại.

136. This merging occurs at individualization which is strongly conditioned by the fifth ray—the Fifth Creative Hierarchy is intimately concerned in the process as is the fifth sign, Leo.

136. Sự nhập này xảy ra tại biệt ngã hóa vốn chịu điều kiện mạnh mẽ bởi cung năm —Huyền Giai Sáng Tạo Thứ Năm liên hệ mật thiết với tiến trình này cũng như dấu hiệu thứ năm , Sư Tử.

The planet, Venus, in her fifth round, gave the impetus which produced the spark of mind in animal man—a fact well known. 

Hành tinh, Sao Kim, trong chu kỳ thứ năm của nó, đã trao xung lực tạo nên tia lửa trí trong người thú —một sự kiện ai cũng biết.

137. Whether or not Sanat Kumara and His Kumaras originated on Venus (in fact, DK says They did not), it was Venus which gave an important stimulation to the process of individualization which necessitated the coming of Sanat Kumara and His Co-Workers.

137. Dù Sanat Kumara và chư Kumaras của Ngài có khởi nguyên từ Sao Kim hay không (thực tế, DK nói Các Ngài không phải vậy), thì chính Sao Kim đã trao một kích thích quan trọng cho tiến trình biệt ngã hóa vốn đòi hỏi sự quang lâm của Sanat Kumara và các Đồng Công của Ngài.

138. Venus must have affected certain lives related to the cosmic mental plane, for we are given to understand that the spark of mind is essentially cosmic mental in origin.

138. Sao Kim hẳn đã tác động đến những sự sống nhất định liên hệ đến cõi trí vũ trụ, vì chúng ta được hiểu rằng tia lửa trí, về bản chất, có nguồn gốc trí vũ trụ.

It is also the fifth Ray, and has an interesting connection with the fifth Law of Fixation.

Đó cũng là cung năm, và có một liên hệ thú vị với Định luật thứ năm, Định luật Cố định.

139. By numerical resonance or affinity we might expect this.

139. Theo cộng hưởng hay tương ứng số học, chúng ta có thể chờ đợi điều này.

We might study, too, with profit, the analogy that can be seen between these factors and the fifth root-race, the race of peculiarly strong development of the concrete mind.

Chúng ta cũng có thể khảo sát, với nhiều ích lợi, phép tương đồng có thể thấy giữa các yếu tố này và giống dân gốc thứ năm, giống dân có sự phát triển đặc biệt mạnh của trí cụ thể.

140. We are to look at the development of the spark of mind, the expression of the fifth ray and the unfolding of the Law of Fixation especially in relation to the fifth root race.

140. Chúng ta cần xét sự phát triển của tia lửa trí, sự biểu lộ của cung năm và sự khai mở của Định luật Cố định, đặc biệt trong mối liên hệ với giống dân gốc thứ năm.

141. Nature proceeds in gradual steps. Simultaneity and synthesis indicate climactic developments.

141. Tự nhiên vận hành bằng những bước tiệm tiến. Tính đồng thời và tổng hợp chỉ những phát triển đến cao trào.

The Law of Analogy always holds good.

Định luật Tương đồng luôn đúng.

With this as a basis, the three laws of the personality become replete with life, and can be summed up in the well-known term, “The Law of Rebirth and Death in the three worlds.”

Với điều này làm nền tảng, ba định luật của phàm ngã trở nên tràn đầy sự sống, và có thể được tóm lại trong thuật ngữ quen thuộc, “Định luật Luân hồi và Chết trong ba cõi.”

142. DK is telling us that the three lower laws are to be considered “laws of the personality”. When they work together they result in “The Law of Rebirth and Death in the three worlds”.

142. DK đang cho chúng ta biết rằng ba định luật thấp nên được xem là “các định luật của phàm ngã”. Khi chúng phối hợp với nhau chúng tạo thành “Định luật Luân hồi và Chết trong ba cõi”.

143. If desire (six) turns towards physical form (seven) rather than towards the higher mind (five), then a return to the lowest world (seven) via reincarnation is mandated. This return is impulsed from the plane of mind (five).

143. Nếu dục vọng (sáu) quay về hình tướng hồng trần (bảy) thay vì hướng lên thượng trí (năm), thì việc trở lại thế giới thấp nhất (bảy) qua tái sinh là điều tất định. Sự trở lại này được xung lực từ cõi trí (năm).

The fifth law governs a fixed point in the person­ality, that of the fifth principle.

Định luật thứ năm chi phối một điểm cố định trong phàm ngã, tức điểm của nguyên khí thứ năm.

144. The mind can be used as a stabilizing factor to sustain a necessary point of tension.

144. Thể trí có thể được dùng như một yếu tố ổn định để duy trì một điểm nhất tâm cần thiết.

145. When one thinks of a fixed point in the personality which is related to the fifth law and the fifth ray, one thinks of the mental unit (as that unit is stimulated by the fifth principle).

145. Khi người ta nghĩ đến một điểm cố định trong phàm ngã liên hệ với định luật thứ năm và cung năm, người ta nghĩ đến đơn vị hạ trí (khi đơn vị đó được kích hoạt bởi nguyên khí thứ năm).

146. In considering the relationship between the first and fifth rays, we realize that the first ray is a ‘ray of fixity’. It destroys through crystallization. We are well acquainted with the crystallized thoughtforms of the lower concrete mind and how these thoughtforms must be destroyed if they are not to become destructive themselves.

146. Khi xét mối liên hệ giữa các cung một và năm, chúng ta nhận ra rằng cung một là một ‘cung của tính cố định’. Nó hủy diệt qua sự kết tinh. Chúng ta quá quen với những hình tư tưởng kết tinh của trí cụ thể thấp và với việc các hình tư tưởng ấy phải bị phá hủy nếu không chúng sẽ trở nên hủy diệt chính mình.

[591]

[591]

The Law of Love in the astral body also has its points for con­sideration.  There is a direct link between the astral body (love in the personality), the buddhic vehicle (love in the Triad), and the Monads of Love.

Định luật Tình thương trong thể cảm dục cũng có những điểm cần xem xét. Có một mối nối trực tiếp giữa thể cảm dục (tình thương trong phàm ngã), vận cụ Bồ đề (tình thương trong Tam nguyên tinh thần), và các Chân thần của Tình thương.

147. By now this is a familiar idea:

147. Đến nay đây là một ý niệm quen thuộc:

a. The astral body—love in the personality

a. Thể cảm dục—tình thương trong phàm ngã

b. The buddhic vehicle—love in the Triad

b. Vận cụ Bồ đề—tình thương trong Tam nguyên

c. The monadic vehicle—love upon the plane of Sprit (universal love). From this we can see that Aquarius, the sign of “universal love” must, in its own way, be related to the Monad (a solar factor even as Aquarius is directly related to the Sun and Leo because it is the sign opposite Leo).

c. Vận cụ chân thần—tình thương trên bình diện Tinh thần (tình thương phổ quát). Từ đây chúng ta có thể thấy rằng Bảo Bình, dấu hiệu của “tình thương phổ quát”, tất theo cách riêng của nó liên hệ với Chân thần (một yếu tố thái dương ngay cả khi Bảo Bình liên hệ trực tiếp với Mặt Trời và Sư Tử vì nó là dấu hiệu đối nghịch với Sư Tử).

Later on, this will be under­stood more fully, but it is the main channel for the basic law of the system, Love.

Về sau, điều này sẽ được hiểu đầy đủ hơn, nhưng đây là kênh chính cho định luật căn bản của hệ, Tình thương.

148. We are learning about many lines of transmission, but here is the one which is most important for us at this time:

148. Chúng ta đang học về nhiều tuyến truyền dẫn, nhưng đây là tuyến quan trọng nhất đối với chúng ta lúc này:

a. The Monads of Love

a. Các Chân thần của Tình thương

b. Working through the buddhic plane and producing “love in the Triad” which is unitive love

b. Làm việc qua cõi Bồ đề và tạo nên “tình thương trong Tam nguyên” vốn là tình thương hợp nhất

c. Working through the astral plane producing “love in the personality” which is love of the form for other forms.

c. Làm việc qua cõi cảm dục tạo nên “tình thương trong phàm ngã” là tình thương của hình tướng đối với các hình tướng khác.

These three points mark periods of completion, and likewise starting-points for fresh endeavour in the life of the evolving Monad—from the personality to the Triad, from the Triad to the Monad, from the Monad back again to its source.

Ba điểm này đánh dấu những kỳ viên mãn, và cũng là những điểm khởi phát cho nỗ lực mới trong đời sống của Chân thần đang tiến hóa—từ phàm ngã đến Tam nguyên, từ Tam nguyên đến Chân thần, từ Chân thần trở lại nguồn của nó.

149. Consummated personality love awakens a realization of the need for triadal love (a wider love which we can call the “love of God”—really a reflection of the “Love of God”).

149. Tình thương phàm ngã được viên mãn đánh thức nhận thức về nhu cầu tình thương của Tam nguyên (tình thương rộng hơn mà chúng ta có thể gọi là “tình thương của Thượng đế”—thật ra là một phản ảnh của “Tình thương của Thượng đế”).

150. Consummated triadal love awakens a realization of the need for the ‘love of the Spirit’—universal love, the true love of the ‘Solar God’, our Solar Logos.

150. Tình thương Tam nguyên được viên mãn đánh thức nhận thức về nhu cầu ‘tình thương của Tinh thần’—tình thương phổ quát, tình thương chân chính của ‘Thần Thái dương’, Thái dương Thượng đế của chúng ta.

151. We are reminded that the Monad has a “source” and that source is not to be found upon the monadic plane.

151. Chúng ta được nhắc rằng Chân thần có một “nguồn” và nguồn đó không được tìm thấy trên cõi chân thần.

152. If the Monad is “that which finds its home within the sun”, then we must consider the Sun (in one of its aspects) as the “source” of the Monad—at least for practical purposes and within this particular solar system. The real “Source” of the Monad is a profound mystery to be traced back to the fathomless beginning of Cosmos on planes far higher than we can even imagine.

152. Nếu Chân thần là “cái tìm thấy nhà mình trong mặt trời”, thì chúng ta phải xem Mặt Trời (trong một phương diện của nó) là “nguồn” của Chân thần—ít nhất cho các mục đích thực tiễn và trong hệ mặt trời này. “Nguồn” thật sự của Chân thần là một bí nhiệm sâu xa phải lần dò về khởi nguyên bất khả đáy của Vũ trụ trên những cõi cao xa hơn cả điều chúng ta có thể tưởng tượng.

5. The Law of Fixation.—This is the governing law of the mental plane, finding its greater correspondence in the Law of Karma on cosmic mental levels.

5. Định luật  Cố định .—Đây là định luật cai quản của cõi trí, tìm thấy sự tương ứng cao hơn của nó nơi Định luật Nghiệp trên các cấp trí vũ trụ.

153. If the Law of Karma arises from cosmic mental levels; if it is a Sirian law; and if Sirius is focussed in many respects upon the cosmic mental plane, then the “Law of Fixation” must have a higher cosmic correspondence which relates to Sirius.

153. Nếu Định luật Nghiệp khởi lên từ các cấp trí vũ trụ; nếu đó là một định luật thuộc Sirius; và nếu Sirius tập trung, ở nhiều phương diện, trên cõi trí vũ trụ, thì “Định luật Cố định” hẳn có một tương ứng vũ trụ cao hơn liên hệ tới Sirius.

154. The karma for human beings, for instance, is, in any one cycle, largely fixed and determined. This may be one of the effects of the “Law of Fixation”.

154. Nghiệp của con người, chẳng hạn, trong bất kỳ một chu kỳ nào, phần lớn là cố định và được định đoạt. Đây có thể là một trong những hiệu ứng của “Định luật Cố định”.

“As a man thinks, so is he;” according to his thoughts are his desires and acts, and so results the future.

“Con người nghĩ sao, thì là vậy;” theo tư tưởng thế nào thì dục vọng và hành vi thế ấy, và như thế mà tương lai được tạo thành.

155. We might also say that “as a man thinks”, ‘so he becomes’. He becomes objectively what he is subjectively.

155. Chúng ta cũng có thể nói rằng “con người nghĩ sao”, “thì y trở thành như thế”. Y trở thành khách quan đúng như y vốn là chủ quan.

He fixes for himself the resultant karma.

Y tự ấn định cho mình nghiệp quả hệ lụy.

156. By the persistent fixity of his thoughts he creates a resultant karma. Thought fixates karma.

156. Bằng sự kiên định bền bỉ của tư tưởng, y tạo ra một nghiệp quả hệ lụy. Tư tưởng định trụ nghiệp quả.

157. Thoughtforms are structured under the influence of Saturn and Saturn is the most powerful of our systemic Lords of Karma.

157. Các hình tư tưởng được cấu trúc dưới ảnh hưởng của Sao Thổ, và Sao Thổ là quyền năng nhất trong các Đấng Chúa Tể Nghiệp Quả của hệ mặt trời chúng ta.

158. A passing thought will not generate that which we call karma, but when one persists in a line of thought, it becomes a ‘fixed actuality’ and results in outer developments which are correlated to the thought.

158. Một ý tưởng thoáng qua sẽ không tạo ra điều mà chúng ta gọi là nghiệp quả, nhưng khi một người kiên trì theo một tuyến tư tưởng, nó trở thành một “thực tại cố định” và dẫn đến những phát triển bên ngoài tương ứng với tư tưởng ấy.

The word “Fixation” is chosen for two purposes:  First, because the word implies the capacity of the thinker to shape his own destiny,

Từ “Định trụ” được chọn vì hai mục đích: Thứ nhất, vì từ này hàm ý năng lực của người tư duy có thể nắn lấy số phận của chính mình ,

159. “Fixation” is a Saturnian and Vulcanian word. These are two planets which, indeed, shape or formulate destiny.

159. “Định trụ” là một thuật ngữ mang tính Sao Thổ và tính Vulcan. Đây là hai hành tinh quả thực nắn hay định hình số phận.

160. A future intended pattern is held through all vicissitudes and the one within insists that it be. By insistence is meant the deflection of all other possibilities. Fixing/fixating and holding are, in this case, identical.

160. Một mô hình tương lai được chủ định sẽ được giữ xuyên qua mọi thăng trầm, và đấng bên trong khăng khăng rằng nó phải là như thế.  Ở đây “khăng khăng” có nghĩa là bẻ lệch/loại trừ mọi khả năng khác. Cố định/định trụ và giữ vững, trong trường hợp này, là đồng nhất.

161. Fixed thought shapes destiny.

161. Tư tưởng cố định nắn số phận.

and secondly because the word implies a stabilising idea, for as evolution progresses, the Ego evolves the faculty of forming definite concrete thought-forms, and, through these stable products, of subduing the fluctuations of the astral body.

và thứ hai vì từ này hàm ý một ý tưởng làm ổn định, vì khi tiến hoá tiến triển, chân ngã phát triển năng lực hình thành các hình tư tưởng cụ thể xác định, và, thông qua những sản phẩm ổn định này, khuất phục những dao động của thể cảm dục.

162. Fixation subdues fluctuation. This is another way of saying, symbolically, that the stable ‘Sun’/Vulcan subdues the fluctuating ‘Moon’.

162. Định trụ khuất phục dao động. Đây là cách nói khác, mang tính biểu tượng, rằng “Mặt trời”/Vulcan ổn định khuất phục “Mặt trăng” dao động.

163. We have, in sum:

163. Tóm lại, chúng ta có:

a. The shaping of destiny through fixation

a. Nắn số phận thông qua định trụ

b. Through fixation, the holding of stabilized thoughts which subdue astral fluctuations and thus lead to intended accomplishment.

b. Thông qua định trụ, giữ vững các tư tưởng đã ổn định, những tư tưởng này khuất phục các dao động cảm dục và do đó dẫn tới thành tựu đã định.

This law of the fifth, or mental plane is one of the most important laws with which we have to do at any time, and it will find its most complete demonstration in the next, or fifth round.

Định luật trên cõi thứ năm, hay cõi trí, là một trong những định luật quan trọng nhất mà chúng ta phải đụng tới vào bất kỳ thời điểm nào , và định luật này sẽ có màn thị hiện đầy đủ nhất trong cuộc tuần hoàn tới, hay tuần hoàn thứ năm.

164. This is a statement with great implications. Not only is this “Law of Fixation” important now but it is one of the most important laws to consider “at any time”.

164. Đây là một tuyên bố hàm ý rất nhiều. Không chỉ “Định luật Định trụ” quan trọng hiện nay mà nó còn là một trong những định luật quan trọng nhất để xét đến “vào bất kỳ thời điểm nào”.

165. It would appear that we are still in very early days of understanding the full significance of the law. The next round is the fifth round and, numerically, will be the one in which a much fuller understanding and demonstration of the “Law of Fixation” will be achieved.

165. Có vẻ như chúng ta vẫn đang ở những ngày rất sớm trong việc thấu hiểu đầy đủ thâm nghĩa của định luật này. Vòng tới là vòng thứ năm và, theo số học, sẽ là vòng mà ở đó sự thấu hiểu và thị hiện đầy đủ hơn nhiều về “Định luật Định trụ” sẽ đạt được.

166. What kind of ‘fixation’ will occur in the middle of the fifth round at the “Judgment Day”? May we say that some will be ‘fixed’ upon the Earth to pursue their further evolution; others will be dispatched elsewhere.

166. Sẽ có kiểu “định trụ” nào xảy ra vào giữa vòng thứ năm, vào “Ngày Phán Xét”? Chúng ta có thể nói rằng một số sẽ được “định trụ” trên Trái Đất để tiếp tục cuộc tiến hoá của họ; những người khác sẽ được phái sang nơi khác.

167. We might say that the polarization-in-consciousness of humanity (and, by extension, of the Planetary Logos) will be fixed in relation to the second aspect of divinity. Those who have no orientation to that aspect will be ‘expelled’ for progress elsewhere.

167. Chúng ta có thể nói rằng sự phân cực-trong-tâm thức của nhân loại (và, mở rộng ra, của Hành Tinh Thượng đế) sẽ được cố định liên hệ với Phương diện thứ hai của thiên tính. Những ai không có định hướng về phương diện đó sẽ bị “trục xuất” để tiến triển ở nơi khác.

In relation to this fourth round the following facts may be gathered about its working:

Liên hệ với vòng thứ tư này, có thể rút ra các sự kiện sau về sự vận hành của nó:

It is the law under which the evolving personality builds up, during the course of many lives, the causal body;

Đây là định luật theo đó phàm ngã đang tiến hoá xây dựng, qua nhiều kiếp sống, thể nguyên nhân;

168. The causal body is upon the higher levels of the fifth plane. As the light of mind grows within the personality it becomes possible to act in such a manner that value may be extracted from personality experience and fixed as content within the causal body.

168. Thể nguyên nhân nằm trên các cõi phụ cao của cõi thứ năm. Khi ánh sáng của thể trí lớn dần trong phàm ngã, lúc ấy có thể hành động theo cách sao cho giá trị được trích xuất từ kinh nghiệm phàm ngã và được cố định như là nội dung trong thể nguyên nhân.

it fixes the matter inhering in that body, placed there by the man as the ages slip away, and crystallises it.

nó cố định chất liệu hàm chứa trong thể ấy, do con người đặt vào theo dòng thời đại trôi qua, và kết tinh nó.

169. The “matter…placed there” is the substance which embodies faculty. Fixation is, in this case, an act of construction.

169. “Chất liệu…được đặt vào đó” là chất liệu bao hàm các năng lực. Ở đây, định trụ là một hành động kiến tạo.

170. Considering the relative size of a newly made causal body and a causal body possessed by an experienced unit of consciousness, there is a great contrast, the latter having, in fact, much more “matter” within it.

170. Nếu xét kích cỡ tương đối của một thể nguyên nhân mới tạo với một thể nguyên nhân của một đơn vị tâm thức từng trải, thì có một sự tương phản lớn; ở thể sau thực sự có nhiều “chất liệu” hơn ở bên trong.

Before the fourth Initia­tion the crystallisation is complete, and the inevitable shat­tering that is the result of crystallisation in all forms, takes place,

Trước lần Điểm đạo thứ tư, sự kết tinh được hoàn tất, và sự vỡ vụn tất yếu vốn là kết quả của quá trình kết tinh nơi mọi hình tướng xảy ra,

171. Shall we relate “fixation” and “crystallisation”?

171. Chúng ta có nên liên hệ “định trụ” và “kết tinh” không?

172. Crystallization is a Vulcanian process, relating fixation to this planet of unbendable will.

172. Kết tinh là một tiến trình mang tính Vulcan, liên hệ định trụ với hành tinh của ý chí bất khuất này.

setting the [592] indwelling life free for further progress.  All forms are but hindrances and limita­tions, and ultimately must go, but they have their needed place in the development of the race.  Eventually the causal body of the entire race itself disintegrates.

giải phóng [592] sự sống cư trụ bên trong cho tiến bộ xa hơn. Mọi hình tướng chỉ là chướng ngại và giới hạn, và rốt cuộc phải ra đi, nhưng chúng có chỗ đứng cần thiết trong sự phát triển của nhân loại. Rốt cuộc thể nguyên nhân của toàn thể nhân loại tự nó phân rã.

173. The disintegration of the causal body of the race will mark the period in which the race reaches the point of tension at the fourth great cycle of attainment. The race itself will be an Arhat. Will we be closer to this eventuality when the personality ray of humanity becomes the fourth and its soul ray, the second?

173. Sự phân rã thể nguyên nhân của nhân loại sẽ đánh dấu thời kỳ trong đó nhân loại đạt đến điểm nhất tâm ở chu kỳ đại thành tựu thứ tư. Bản thân giống dân sẽ là một A-la-hán. Chúng ta có tiến gần hơn đến điều tất yếu này khi cung phàm ngã của nhân loại trở thành cung bốn và cung linh hồn của nó là cung hai?

This law governs the crystallisation of all forms prior to their shattering in the process of evolution.

Định luật này chi phối sự kết tinh của mọi hình tướng trước khi chúng bị vỡ vụn trong tiến trình tiến hoá.

174. So far, of the “Law of Fixation” in relation to man, we may say:

174. Cho đến nay, về “Định luật Định trụ” liên hệ đến con người, chúng ta có thể nói:

a. It builds up the causal body

a. Nó xây dựng thể nguyên nhân

b. It fixes matter inhering in the causal body

b. Nó cố định chất liệu hàm chứa trong thể nguyên nhân

c. It crystallizes the ‘forms of faculty’ built into the causal body. When human experience has no more to teach the Arhat, the form of the causal body arrives at a crystallized state ripe for shattering.

c. Nó kết tinh các “hình thức của năng lực” được xây vào thể nguyên nhân. Khi kinh nghiệm nhân gian không còn gì để dạy vị A-la-hán nữa, hình tướng của thể nguyên nhân đạt đến trạng thái kết tinh và chín muồi để bị đập vỡ.

175. In governing the crystallizing of all forms prior to shattering, the fifth law works in tandem with the first ray of the destroyer. The fifth ray prepares the way for the act of destruction which comes through the application of the first ray.

175. Khi chi phối sự kết tinh của mọi hình tướng trước khi vỡ vụn, định luật thứ năm vận hành song đôi với cung một của sự hủy diệt. Cung năm dọn đường cho hành vi hủy diệt đến qua việc ứng dụng cung một.

It governs the time of rebirth, being one of the subsidiary branches of the Law of Karma.

Nó chi phối thời điểm tái sinh, vì là một trong những ngành phụ của Định luật Nghiệp quả.

176. We remember that the Law of Karma is an “Intermediary Law”, positioned between the three cosmic laws and the seven systemic laws.

176. Chúng ta nhớ rằng Định luật Nghiệp quả là một “Định luật Trung gian”, đặt giữa ba định luật vũ trụ và bảy định luật hệ thống.

177. The fifth ray is a highly mathematical ray. The “time of rebirth” is calculated with mathematical precision by the Lords of Karma. All manner of cycles have to be taken into consideration.

177. Cung năm là một cung rất “toán học”. “Thời điểm tái sinh” được các Đấng Chúa Tể Nghiệp Quả tính toán với độ chính xác toán học. Mọi loại chu kỳ đều phải được xét đến.

178. DK is telling us that the “Law of Fixation” is “one of the subsidiary branches of the Law of Karma”.

178. Chân sư DK đang nói với chúng ta rằng “Định luật Định trụ” là “một trong các ngành phụ của Định luật Nghiệp quả”.

179. Those who are upon the fifth ray take a cosmic Path which leads to “Absolute Sonship” and the possibility of becoming a Lipika Lord. It is, among many other things, a mathematical Path.

179. Những ai thuộc cung năm đi theo một Con Đường vũ trụ dẫn đến “Địa vị Con tuyệt đối” và khả năng trở thành một Đấng Lipika. Đó là một Con Đường tính toán giữa muôn điều khác nữa.

180. Sirius is the source of the Law of Karma as far as our solar system is concerned. The faculty of manas is highly developed on Sirius; it is great manasic star and thus expresses the fifth ray, just as does the “Law of Fixation”.

180. Sirius là nguồn của Định luật Nghiệp quả xét trong phạm vi hệ mặt trời chúng ta. Nguyên khí manas được phát triển cao trên Sirius; đó là một ngôi sao manas vĩ đại và vì thế biểu lộ cung năm, y hệt như “Định luật Định trụ”.

Each of the seven subsidiary laws is linked to one of the cosmic laws, or with the Sirian Law of Karma.

Mỗi định luật phụ trong bảy định luật phụ đều được liên kết với một trong các định luật vũ trụ, hoặc với Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius.

181. This is an important point. Earlier it seemed that each of the seven systemic laws must be linked with one or other of the three cosmic laws. This is true in a way, but here DK offers another option—”or within the Sirian Law of Karma”.

181. Đây là một điểm quan trọng. Trước đó dường như mỗi định luật hệ thống trong bảy định luật phải được liên kết với một trong ba định luật vũ trụ. Điều này, theo một nghĩa nào đó, là đúng, nhưng ở đây Chân sư DK đưa ra một lựa chọn khác—“hoặc với Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius”.

182. The “Law of Fixation” is definitely linked with the Sirian Law of Karma. I would not be surprised of the “Law of Magnetic Control” is also linked.

182. “Định luật Định trụ” chắc chắn được liên kết với Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu “Định luật Kiểm soát Từ tính” cũng được liên kết.

We need always to remember that the consciousness of the cosmic mental plane is the logoic goal of attainment,

Chúng ta luôn cần nhớ rằng tâm thức của cõi trí vũ trụ là cứu cánh đắc thành của vị Thái dương Thượng đế,

183. Our Solar Logos is not yet mentally polarized and is seeking to become so.

183. Thái dương Thượng đế của chúng ta chưa phân cực trí tuệ và đang tìm cách trở nên như thế.

and that the Sirian Logos is to our solar Logos what the human Ego is to the personality.

và rằng Sirius đối với Thái dương Thượng đế của chúng ta cũng như chân ngã đối với phàm ngã nơi nhân loại vậy.

184. The Sirian Logos (the Logos of the star Sirius, and perhaps of the small companion star, Sirius B) is mentally polarized.

184. Vị Logos của Sirius (Logos của ngôi sao Sirius, và có lẽ của ngôi sao bạn đồng hành nhỏ Sirius B) phân cực trí tuệ .

185. We have the division—when the polarization is astral, the focus is still personal. When the polarization is mental, the polarization can be egoic.

185. Chúng ta có sự phân chia—khi phân cực là cảm dục, trọng tâm vẫn là cá nhân. Khi phân cực là trí tuệ, sự phân cực có thể là chân ngã.

The Law of Karma, or cosmic Fixation, is the law of the cosmic mental plane, and controls the corresponding law in our system.

Định luật Nghiệp quả, hay định trụ vũ trụ , là định luật của cõi trí vũ trụ, và chi phối định luật tương ứng trong hệ của chúng ta.

186. Here we have a direct statement confirming what was earlier suggested. Not only is the “Law of Fixation” an aspect of the Sirian Law of Karma but the Sirian Law of Karma is a “Law of Fixation”—a cosmic “Law of Fixation”.

186. Ở đây có một khẳng định trực tiếp xác nhận điều đã gợi ý trước đó. Không chỉ “Định luật Định trụ” là một khía cạnh của Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius mà chính Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius một “Định luật Định trụ”—một “Định luật Định trụ” vũ trụ .

187. The idea is that each cosmic law has lower correspondences within the system. The systemic “Law of Fixation” is the systemic correspondence to the cosmic “Law of Fixation”—the Sirian Law of Karma.

187. Ý tưởng là: mỗi định luật vũ trụ đều có các tương ứng thấp hơn trong hệ. “Định luật Định trụ” hệ thống là tương ứng hệ thống với “Định luật Định trụ” vũ trụ—tức Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius.

188. The Solar Angels which attend the human race must have much to do with the systemic “Law of Fixation”. There are logoic Solar Angels on the cosmic mental plane, and they probably have much to do with the cosmic “Law of Fixation”.

188. Các Thái dương Thiên Thần vốn chăm lo cho nhân loại hẳn có liên hệ sâu xa với “Định luật Định trụ” hệ thống. Có các Thái dương Thiên Thần cấp logoic trên cõi trí vũ trụ, và rất có thể Các Ngài có liên hệ mật thiết với “Định luật Định trụ” vũ trụ.

A solar Logos uses for His energy centres the planetary schemes, each of which embodies a peculiar type of energy, and each of which, therefore, vibrates to the key of the logoic solar Angel, of which the human solar Angel is a dim reflection. (TCF 1161)

Một Thái dương Thượng đế dùng các hệ hành tinh như là các trung tâm năng lượng của Ngài; mỗi hệ hành tinh đều bao hàm một kiểu năng lượng đặc thù, và do đó mỗi hệ hành tinh rung lên theo chủ âm của Thái dương Thiên Thần của vị Logos, mà Thái dương Thiên Thần của con người chỉ là một phản ảnh mờ nhạt. (TCF 1161)

In the fifth round this law will act as the divider, temporarily crystallising and fixing into two great classes the human Monads, as they evolve.

Trong vòng thứ năm, định luật này sẽ hành xử như kẻ phân chia, tạm thời kết tinh và cố định các Chân thần nhân loại, khi các Ngài tiến hóa, thành hai đại giai tầng.

189. The fifth ray expresses itself through the “Law of Cleavages” or of division.

189. Cung năm biểu lộ qua “Định luật Phân hóa” hay của sự phân chia.

190. Initiation itself is an ‘act of fiery fixation’. Electrical Uranus, associated with the Hierophant, and with the first and fifth rays, carries the power of ‘electrical fixation’. Perhaps this is what the Rod of Power provides during the initiation ceremony.

190. Bản thân điểm đạo là một “hành vi định trụ bằng điện lửa”. Sao Thiên Vương điện lực, liên hệ với vị Chủ lễ Điểm đạo, và với cung một và cung năm, mang năng quyền “định trụ điện lực”. Có lẽ đó chính là điều Thần Trượng Quyền năng ban phát trong nghi lễ điểm đạo.

191. The classes which are divided one from another are really classes of human monads. Some of these Monads work through personalities which are “on the Path” and some through personalities which are not—yet.

191. Những giai tầng bị phân chia khỏi nhau thực ra là các giai tầng của các chân thần nhân loại. Một số Chân thần này tác động qua các phàm ngã “ở trên Thánh Đạo” và một số thì qua các phàm ngã chưa—ở—đó.

192. We see that all such division is only temporary, and we may infer that after the period of division, greater unities lie ahead.

192. Chúng ta thấy rằng mọi sự phân chia như vậy chỉ là tạm thời, và chúng ta có thể suy ra rằng sau thời kỳ phân chia, những hợp nhất lớn lao hơn sẽ ở phía trước.

193. When fixation occurs a law is in progress. A ring-pass-not is created and one cannot violate the law (first ray) by moving outside the ring-pass-not.

193. Khi định trụ xảy ra, một định luật đang tác động. Một vòng-giới-hạn được tạo ra và người ta không thể vi phạm định luật (cung một) bằng cách vượt ra ngoài vòng-giới-hạn.

194. That which is crystallized cannot move. The fifth ray fixes the consciousness of certain entities within a certain field of experience. The field is set and cannot be breached.

194. Cái gì đã kết tinh thì không thể chuyển động. Cung năm cố định tâm thức của những thực thể nhất định trong một trường kinh nghiệm nhất định. Trường ấy đã được thiết lập và không thể bị xuyên phá.

One group then (containing those who will reach the goal), will pass gradually out from under the domination of this law, and will come under the Law of Magnetic Control.

Một nhóm khi ấy (bao gồm những người sẽ đạt tới mục tiêu) sẽ từ từ thoát ra khỏi sự chi phối của định luật này, và sẽ đi vào dưới Định luật Kiểm soát Từ tính.

195. These are those who are on their way into the realm of the spiritual triad. They are transferring from the auspices of the fifth law to the auspices of the fourth. They are the five becoming the four. From manas they pass to buddhi via buddhi-manas.

195. Đây là những người đang đi vào cảnh giới của Tam Nguyên Tinh Thần. Họ đang chuyển từ sự bảo trợ của định luật thứ năm sang sự bảo trợ của định luật thứ tư. Họ là năm trở thành bốn. Từ manas, họ chuyển qua bồ đề, qua trung gian bồ đề-manas.

196. Earlier in the text we studied how many fifths or tenths would reach the sixth, fifth or third initiations, or would be in earlier stages of the Path. (cf. TCF 422)

196. Trước đó trong bản văn chúng ta đã khảo sát có bao nhiêu phần năm hay phần mười sẽ đạt lần điểm đạo thứ sáu, thứ năm hoặc thứ ba, hoặc sẽ ở những giai đoạn sớm hơn của Thánh Đạo. (x. TCF 422)

The other will remain under the law in a static condition,

Nhóm kia sẽ vẫn ở dưới định luật trong một tình trạng tĩnh tại,

197. Fixation produces stasis.

197. Định trụ tạo nên tĩnh tại.

until in a later period a fresh opportunity will come;

cho đến khi về sau một cơ hội mới đến;

198. Will this opportunity come upon the Earth or on another sphere, such as the planet Mars? Or on both at different times?

198. Liệu cơ hội này sẽ đến trên Địa cầu hay ở một thiên cầu khác, như Sao Hỏa? Hoặc ở cả hai, vào những thời điểm khác nhau?

199. When this second group goes into temporary pralaya, will the condition be one of stasis? This seems to be the implication.

199. Khi nhóm thứ hai này đi vào Giai kỳ qui nguyên tạm thời, tình trạng ấy có phải là tĩnh tại không? Có vẻ như đó là hàm ý.

old forms will break, and in another mahamanvantara, and in its fifth period, will come the chance for which they will have waited, when they can again swing into the current of evolution and the imprisoned spirits may mount again towards their source.

các hình tướng cũ sẽ vỡ, và trong một Đại giai kỳ sinh hóa khác, và trong thời kỳ thứ năm của nó, sẽ đến cơ hội mà họ đã chờ đợi, khi họ có thể lại hòa nhập vào dòng tiến hoá và các linh nguyên bị giam cầm  có thể lại thăng lên nguồn của mình.

200. Little has been said of those who at the “Judgment Day” will be sent into pralaya and, thence, transferred to another sphere for development suitable to them.

200. Ít điều đã được nói về những người, vào “Ngày Phán Xét”, sẽ bị đưa vào giai kỳ qui nguyên và, từ đó, chuyển sang một thiên cầu khác để phát triển phù hợp với họ.

201. Will these segregated Monads (two-fifths) have to wait until another solar system to resume their progressive activity, or is the word “mahamanvantara” variously used, sometimes meaning an entire occult century and sometimes a rather shorter span of time.

201. Liệu các Chân thần bị biệt lập này (hai phần năm) phải chờ đến một hệ mặt trời khác mới tiếp tục hoạt động tiến bộ, hay từ “Đại giai kỳ sinh hóa” được dùng theo nhiều cách, đôi khi có nghĩa là một “thế kỷ huyền linh” trọn vẹn và đôi khi là một khoảng thời gian ngắn hơn?

202. Is it being suggested that the transference of the two-fifths into pralaya and thence, into another sphere, is a retardation and imprisonment, or that opportunity is offered in this transference? When transferred are they somehow removed “from the current of evolution”, having only later to return.

202. Có phải đang được gợi ý rằng việc chuyển hai phần năm vào giai kỳ qui nguyên rồi sang một thiên cầu khác là một sự chậm trễ và giam hãm, hay là cơ hội được trao trong sự chuyển dịch này? Khi được chuyển đi, họ có bị “ra khỏi dòng tiến hoá” nào đó, để rồi chỉ có thể quay lại sau này?

203. We note the following suggesting that the two-fifths may not go into a condition of stasis. It seems to be suggested that the place to which they are transferred will be a place of nurture.

203. Chúng ta lưu ý điều sau, gợi rằng hai phần năm có thể không đi vào một tình trạng tĩnh tại. Có vẻ như đang được gợi rằng nơi mà họ được chuyển đến sẽ là một nơi nuôi dưỡng.

These two fifths will pass into temporary pralaya, preparatory to their transference to another scheme, as the Earth scheme will no longer provide for them an adequate place of nurture. (TCF 391)

Hai phần năm này sẽ đi vào Giai kỳ qui nguyên tạm thời, chuẩn bị cho việc chuyển họ sang một hệ hành tinh khác, vì hệ Địa cầu sẽ không còn cung cấp cho họ một nơi nuôi dưỡng thích đáng nữa. (TCF 391)

204. It is interesting that only when a designated fifth cycle returns can then again reach the point of opportunity which was presented to them at the “Judgment Day”.

204. Điều đáng chú ý là chỉ khi một chu kỳ năm được ấn định quay trở lại, họ mới có thể lại đạt đến điểm cơ hội đã được trình ra cho họ tại “Ngày Phán Xét”.

205. That fifth period in another “mahamanvantara” is a kind of fifth round. Will it be a scheme-round (in which case the term “mahamanvantara” will mean a span much less than an occult century) or will it be a ‘systemic-round’ through a solar system and its various planets, in which case the term “mahamanvantara” will mean, exactly, an occult century.

205. Thời kỳ thứ năm đó trong một “Đại giai kỳ sinh hóa” khác là một dạng vòng thứ năm. Liệu đó sẽ là một vòng—hệ (trong trường hợp này, thuật ngữ “Đại giai kỳ sinh hóa” sẽ chỉ một khoảng ít hơn “thế kỷ huyền linh”) hay sẽ là một “vòng—hệ mặt trời” xuyên qua một hệ mặt trời và các hành tinh của nó, trong trường hợp đó thuật ngữ “Đại giai kỳ sinh hóa” sẽ có nghĩa chính xác là một “thế kỷ huyền linh”.

In an occult sense this law is for us the one with which we are the most intimately concerned.

Theo nghĩa huyền linh, đây là định luật mà đối với chúng ta là định luật gắn bó mật thiết nhất.

206. This is so because we are in process of transferring from the fourth kingdom of nature into the fifth.

206. Điều này đúng vì chúng ta đang trong tiến trình chuyển từ giới thứ tư của thiên nhiên sang giới thứ năm.

207. The “Law of Fixation” touches on our very humanity and its possible spiritualization.

207. “Định luật Định trụ” chạm đến chính nhân tính của chúng ta và khả năng được tinh thần hoá của nó.

It plays an important part in the hands of the Lords of Flame, and is one of Their main factors in controlling the three worlds.

Nó đóng một vai trò quan trọng trong tay các Đấng Lửa, và là một trong những yếu tố chính của Các Ngài khi kiểm soát ba cõi.

208. The Solar Angels are really karmic Agents. Since the “Law of Fixation” is really a lesser Law of Karma (which is a greater “Law of Fixation”), we can understand that the Solar Angels would wield it.

208. Thái dương Thiên Thần thật sự là các Tác nhân nghiệp quả. Vì “Định luật Định trụ” thực ra là một Định luật Nghiệp quả nhỏ hơn (vốn là một “Định luật Định trụ” lớn hơn), chúng ta có thể hiểu rằng các Thái dương Thiên Thần sẽ vận dụng nó.

209. We remember also that the “Law of Magnetic Control” is another law by means of which the personality and even the ego in the causal body are controlled—presumably by the Solar Angel (and also by the Monad).

209. Chúng ta cũng nhớ rằng “Định luật Kiểm soát Từ tính” là một định luật khác nhờ đó phàm ngã và ngay cả chân ngã trong thể nguyên nhân được kiểm soát—nhiều khả năng là bởi Thái dương Thiên Thần (và cũng bởi Chân thần).

Note here an interest­ing fact, that Venus is the sixth planet (esoterically the second), and is in her [593] fifth round, and hence is ahead of us along every line.

Lưu ý ở đây một sự kiện thú vị, rằng Kim Tinh là hành tinh thứ sáu (về mặt nội môn là thứ hai), và đang ở trong [593] vòng thứ năm , và do đó vượt trước chúng ta trên mọi phương diện.

210. Venus has a sixth ray Monad (but this is not her “major” monadic ray). To say that Venus is the “sixth planet” correlates with this sixth ray Monad.

210. Kim Tinh có một Chân thần cung sáu (nhưng đây không phải là cung chân thần “chính” của “nàng”). Nói rằng Kim Tinh là “hành tinh thứ sáu” tương hợp với Chân thần cung sáu này.

211. To say that Venus is “esoterically the second” correlates with ‘her’ major monadic ray, the second.

211. Nói rằng Kim Tinh “về mặt nội môn là thứ hai” tương hợp với cung chân thần chính của “nàng”, là cung hai.

212. We remember that in Chart VI of TCF, Venus is shown as the second planetary scheme, and in Chart VII as the second chain. This is the more occult representation and correlates with ‘her’ deeply esoteric second ray Monad.

212. Chúng ta nhớ rằng trong Biểu đồ VI của TCF, Kim Tinh được trình bày là hệ hành tinh thứ hai , và trong Biểu đồ VII là dãy thứ hai . Đây là trình bày huyền nhiệm hơn và tương hợp với Chân thần cung hai thâm sâu, nội bí của “nàng”.

213. Notice that the term “her” is used in relation to Venus, indicating ‘her’ temporarily feminine nature, for ‘she’ is in a feminine incarnation.

213. Lưu ý thuật ngữ “nàng” được dùng liên hệ với Kim Tinh, chỉ ra “bản tánh” nữ tính tạm thời của “nàng”, vì “nàng” đang ở trong một lâm phàm nữ tính.

214. The round in which Venus finds herself is a ‘planetary round’ or a ‘scheme round’. It is a round which concerns the entire planetary scheme and not just a chain within the scheme.

214. Vòng mà Kim Tinh đang ở là một “vòng—hệ” hay “vòng—hệ hành tinh”. Đó là một vòng liên quan đến toàn bộ hệ hành tinh chứ không chỉ một dãy trong hệ.

215. We, on the other hand, are the fourth planet and are in our fourth scheme-round as well as the fourth chain round of the fourth chain. On Earth we have not yet made the transition from the four to the five. And still, in another way, we are preoccupied with the five and have not entered the synthesis which the four makes possible.

215. Còn chúng ta, mặt khác, là hành tinh thứ tư và đang ở vòng—hệ thứ tư cũng như vòng dãy thứ tư của dãy thứ tư. Trên Địa cầu, chúng ta vẫn chưa thực hiện được chuyển tiếp từ bốn sang năm. Và rồi, theo một cách khác, chúng ta đang bận bịu với con số năm và chưa bước vào tổng hợp mà con số bốn làm khả hữu.

This law demonstrates the static quality of love, static tempo­rarily, but necessarily so when viewed from the standpoint of time, the great deluder.

Định luật này biểu lộ phẩm tính tĩnh tại của tình thương , tĩnh tại tạm thời, nhưng tất yếu như thế khi nhìn từ quan điểm của thời gian, kẻ đánh lừa vĩ đại .

216. We must relate the “Law of Fixation” to experience upon the Fixed Cross—the Cross of the Soul.

216. Chúng ta phải liên hệ “Định luật Định trụ” với kinh nghiệm trên Thập Giá Cố Định —Thập Giá của Linh hồn.

217. Through the soul we experience ‘fixed love’ or ‘static love’—a type of love which is non-fluctuating.

217. Qua linh hồn, chúng ta kinh nghiệm “tình thương cố định” hay “tình thương tĩnh tại”—một loại tình thương không dao động.

218. Upon the higher mental plane where the “Law of Fixation” also applies, there is experienced one phase of the overcoming of the illusion of time. A more complete overcoming occurs in relation to the buddhic plane at and after the fourth degree.

218. Trên cõi thượng trí nơi “Định luật Định trụ” cũng áp dụng, có một pha vượt thắng ảo tưởng về thời gian. Một sự vượt thắng đầy đủ hơn xảy ra liên hệ với cõi Bồ đề tại và sau bậc thứ tư.

219. Why is time called “the great deluder”? “Time then and form agree. Being and Time do not agree.” Time veils Being. Saturn veils Uranus (Space, the Heavenly One, and the ‘God of Simultaneity’).

219. Vì sao thời gian được gọi là “kẻ đánh lừa vĩ đại”? “Thời gian và hình tướng hòa hiệp. Hữu Thể và Thời gian không hòa hiệp.” Thời gian che phủ Hữu Thể. Sao Thổ che màn Sao Thiên Vương (Không gian, Đấng Thiên Nhân, và “Thần của Tính Đồng Thời”).

On the path of involution this law again works with the permanent atoms in the three worlds, with the building in of material around those atoms, in con­nection with the building devas and the reincarnating Egos.

Trên con đường giáng hạ tiến hoá, định luật này lại tác động với các nguyên tử trường tồn trong ba cõi, với việc bồi đắp chất liệu chung quanh các nguyên tử ấy, liên hệ với các thiên thần kiến tạo và các Chân ngã tái lâm.

220. We see that the “Law of Fixation” is also a constructive law. It contributes to the building process before contributing to the process of destruction

220. Chúng ta thấy rằng “Định luật Định trụ” cũng là một định luật kiến tạo . Nó góp phần vào tiến trình xây dựng trước khi góp phần vào tiến trình hủy diệt.

221. Along this line, the fifth ray is not only related to the first but also to the second. In fact, it is closely related to the third. This threefold relationship must be closely examined when we study the Word of Power, “Three Minds Unite”.

221. Theo hướng này, cung năm không chỉ liên hệ với cung một mà còn với cung hai. Thực ra, nó liên hệ mật thiết với cung ba. Mối liên hệ tam phân này phải được khảo sát kỹ khi chúng ta học Quyền năng từ “Ba trí hợp nhất”.

222. Presumably the “building in of material around those atoms” means the building of the vehicles through which the Ego is to function.

222. Có thể “bồi đắp chất liệu quanh các nguyên tử ấy” có nghĩa là xây dựng các vận cụ qua đó chân ngã sẽ hoạt động.

223. This building-in and the building, in general, must be a highly technical and ‘karmically mathematical’ process, for which the fifth ray is needed.

223. Việc bồi đắp này và việc xây dựng nói chung hẳn là một tiến trình rất kỹ thuật và “toán nghiệp” cao độ, mà cung năm là cần thiết.

224. There is much scientific knowledge required for work with the permanent atoms. The members so the Fifth Creative Hierarchy (the Solar Angels) have this type of knowledge.

224. Cần có nhiều tri thức khoa học cho công tác với các nguyên tử trường tồn. Các thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ Năm (các Thái dương Thiên Thần) có loại tri thức này.

The devas are the mother aspect, the builders of the body, and the reincarnating Jivas are the son aspect; yet the two are but one, and the result is the divine hermaphroditic man. [See page 512.]

Các thiên thần là phương diện Mẹ, các đấng kiến tạo thể, và các Jiva tái lâm là phương diện Con; tuy vậy hai phương diện chỉ là một, và kết quả là con người lưỡng tính thiêng liêng. [Xem trang 512.]

225. The Planetary Logos is a Divine Hermaphrodite; so is man on a lesser scale.

225. Hành Tinh Thượng đế là một Đấng Lưỡng tính Thiêng liêng; con người cũng vậy ở một cấp độ nhỏ hơn.

226. We are dealing with the mystery of the Mother and the Son. The Jiva is the Son—the solar aspect in man. The Jiva is emanative extension of the monadic “spark”. It is sun-like.

226. Chúng ta đang xử lý huyền cơ của Mẹ và Con. Jiva là Con—phương diện thái dương trong con người. Jiva là xuất lộ phát xạ của “tia lửa” chân thần. Nó mang tính thái dương.

227. If any relationship is to be stable, some degree of fixity is required. Fixation leads to stabilization and stabilization leads to the perpetuation of relationship. Perpetuated relationships can be equated with perpetuated forms through which man can manifest. Without the “Law of Fixation”, man would have no stable vehicles through which to manifest.

227. Nếu bất kỳ mối quan hệ nào muốn bền vững, cần có một mức độ cố định . Định trụ dẫn đến ổn định, và ổn định dẫn đến duy trì mối quan hệ. Các mối quan hệ được duy trì có thể được xem như các hình tướng được duy trì, qua đó con người có thể biểu lộ. Không có “Định luật Định trụ”, con người sẽ không có các vận cụ ổn định để biểu lộ.

6. The Law of Love.—It is not easy, in this brief digest, to approach the tremendous problem of the place love plays in the evolving scheme of things as understood by three-dimensional man.

6. Định luật  Tình thương. —Trong bản tóm yếu ngắn này, không dễ để tiếp cận vấn đề khôn cùng về vai trò của tình thương trong mô thức tiến hoá như con người ba chiều thấu hiểu.

228. In the higher reaches of our identity we are more than “three dimensional man”, and perhaps must repair to those heights in order to understand the true nature of Love.

228. Ở những tầng cao hơn của căn tính chúng ta, chúng ta vượt lên khỏi “con người ba chiều”, và có lẽ phải trở về những đỉnh cao đó để hiểu bản chất chân thật của Tình thương.

A treatise could be written on the subject, and yet leave it unexhausted.

Một bộ luận có thể được viết về chủ đề này, thế mà vẫn chưa thể vắt kiệt nó.

229. When DK says this, He means exactly what He says.

229. Khi Chân sư DK nói vậy, Ngài muốn nói đúng như thế.

230. He can foresee how a subject could be elaborated. His task, in giving us all these writings, is to essentialize His voluminous vision and understanding. It must have been a great act of discrimination to decide what to write about and in what length. Obviously, our capacity to assimilate and the time available to us to assimilate, must have presented Him with a very great challenge.

230. Ngài thấy trước được một đề tài có thể khai triển thế nào. Sứ mệnh của Ngài, khi ban cho chúng ta tất cả những trước tác này, là tinh luyện lại tầm nhìn và sự thấu hiểu mênh mông của Ngài. Hẳn đó là một đại công trình phân biện để quyết định viết về gì và dài ngắn ra sao. Hiển nhiên, khả năng tiếp thu của chúng ta và thời gian sẵn có để tiếp thu hẳn là một thách thức rất lớn đối với Ngài.

Much light comes if we can ponder deeply on the three expressions of Love:  Love in the Personality, Love in the Ego, and Love in the Monad

Nhiều soi sáng sẽ đến nếu chúng ta có thể suy niệm sâu về ba biểu hiện của Tình thương: Tình thương nơi Phàm ngã, Tình thương nơi Chân ngã, và Tình thương nơi Chân thần.

231. These three, and the laws with which they correlate are constantly repeated in the sections of text we have been studying during this and the preceding commentary.

231. Ba điều này, và các định luật tương ứng, được nhắc đi nhắc lại trong những đoạn văn mà chúng ta đã học trong bài và chú giải trước.

Love in the Personality gradually develops through the stages of love of self, pure and simple and entirely selfish, to love of family and friends, to love of men and women, until it arrives at the stage of love of humanity or group love consciousness which is the predominant characteristic of the Ego. 

Tình thương nơi Phàm ngã dần dần phát triển từ giai đoạn yêu bản thân, thuần túy và hoàn toàn ích kỷ, đến yêu gia đình và bè bạn, đến yêu những người nam và nữ, cho đến khi đạt đến giai đoạn yêu nhân loại hay tâm thức tình thương tập thể, vốn là đặc trưng trội của Chân ngã.

232. DK has given us an important developmental sequence. Let us try to fix it in mind through tabulation:

232. Chân sư DK đã cho chúng ta một trình tự phát triển quan trọng. Hãy cố định nó vào trí bằng sự liệt kê:

233. Love in the Personality develops in the following sequence:

233. Tình thương nơi Phàm ngã phát triển theo trình tự sau:

a. Love of self, pure and simple, and entirely selfish

a. Yêu bản thân, thuần túy và hoàn toàn ích kỷ

b. Love of family and friends

b. Yêu gia đình và bè bạn

c. Love of men and women who are not necessarily family and friends

c. Yêu những người nam và nữ không nhất thiết là gia đình hay bạn bè

d. Love of humanity in general—group love. This is the kind of love which expresses itself through the Ego.

d. Yêu nhân loại nói chung—tình thương tập thể. Đây là loại tình thương biểu lộ qua Chân ngã.

A Master of Compassion loves, suffers with, and remains with His kind and with His kin.

Một Chân sư của Bi mẫn yêu thương, đồng khổ, và ở lại với đồng loại và quyến thuộc của Ngài.

234. DK is telling us about the motivation and life process of a Master of Compassion. Perhaps this type of Master is distinguished somewhat from a Master of the Wisdom.

234. Chân sư DK đang nói với chúng ta về động cơ và lối sống của một Chân sư của Bi mẫn. Có lẽ kiểu Chân sư này khác đôi chút với một “Chân sư của Minh triết”.

In the hierarchy of our planet the “Lords of Compassion” are numerically greater than the “Masters of the Wisdom.”  The former must therefore all pass to the sun Sirius there to undergo a tremendous manasic stimulation, for Sirius is the emanating source of manas.  There the mystic must go and become what is called “a spark of mahatic electricity.” (TCF 1243)

Trong Thánh đoàn của hành tinh chúng ta, “các Đấng của Bi mẫn” đông hơn “các Chân sư của Minh triết.” Vì vậy nhóm thứ nhất tất cả đều phải đi đến mặt trời Sirius để chịu một kích thích manas vô cùng mạnh mẽ, vì Sirius là nguồn xuất lộ của manas. Ở đó người huyền nhiệm phải đi và trở thành điều được gọi là “một tia lửa điện mahatic.” (TCF 1243)

235. Let us think of the Christ:

235. Hãy nghĩ về Đức Christ:

a. He loved human beings

a. Ngài thương yêu con người

b. He suffered and suffers with human beings

b. Ngài đã và đang đồng khổ với con người

c. He remained and remains with human being, to all of whom He feels related.

c. Ngài đã và đang ở lại với con người, với tất cả những ai Ngài cảm thấy gắn thuộc.

236. The Christ is both a “Master of the Wisdom” and a “Lord of Compassion”.

236. Đức Christ vừa là một “Chân sư của Minh triết” vừa là một “Đấng của Bi mẫn”.

Love in the Ego gradually develops from love of humanity into love universal—a love that expresses not only love of humanity, but also love of the deva evolutions in their totality, and of all forms of divine manifestation.

Tình thương nơi Chân ngã dần dần phát triển từ yêu nhân loại thành tình thương phổ quát—một tình thương không chỉ biểu lộ yêu nhân loại, mà còn yêu toàn bộ các tiến hóa thiên thần, và mọi hình thái biểu lộ thiêng liêng.

237. We now continue with the development of love. When tracing the development of Love in the Personality, we arrived finally at group love. When discussing Love in the Ego, we now begin with group love or love of humanity—a wider form of group love.

237. Giờ đây chúng ta tiếp tục với sự phát triển của Tình thương. Khi lần theo sự phát triển của Tình thương nơi Phàm ngã, chúng ta rốt cuộc đến tình thương tập thể. Khi bàn về Tình thương nơi Chân ngã, chúng ta bắt đầu với tình thương tập thể hay yêu nhân loại—một dạng tình thương tập thể rộng hơn.

238. Love in the Ego develops through the following stages:

238. Tình thương nơi Chân ngã phát triển qua các giai đoạn sau:

a. Love of the group

a. Yêu nhóm

b. Love of humanity

b. Yêu nhân loại

c. Love universal—including with a love of humanity, the love of the deva evolutions and of all forms of divine manifestation.

c. Tình thương phổ quát—bao gồm, cùng với tình thương nhân loại, tình thương dành cho các tiến hóa thiên thần và mọi hình thái biểu lộ thiêng liêng.

239. Ever the love becomes more and more inclusive.

239. Tình thương càng lúc càng bao gồm nhiều hơn.

Love in the Personality is love in the three worlds; love in the Ego is love in the solar system, and all that it contains; whilst love in the Monad demonstrates a measure of cosmic love, and embraces much that is outside the solar system altogether.

Tình thương nơi Phàm ngã là tình thương trong ba cõi; tình thương nơi Chân ngã là tình thương trong hệ mặt trời, và tất cả những gì nó bao hàm; trong khi tình thương nơi Chân thần biểu lộ một mức độ của tình thương vũ trụ , và ôm trọn nhiều điều vượt ra ngoài hệ mặt trời.

240. Here is an excellent comparison:

240. Đây là một so sánh tuyệt hảo:

241. The three vibratory domains compared are:

241. Ba miền rung động được so sánh là:

a. The three worlds wherein Love in the Personality prevails

a. Ba cõi nơi Tình thương nơi Phàm ngã ngự trị

b. The seven world or seven solar planes wherein Love in the solar system prevails

b. Bảy cõi giới hay bảy cõi thái dương nơi Tình thương trong hệ mặt trời ngự trị

c. Extra-systemic or Cosmic Love wherein “love in the Monad” prevails.

c. Tình thương Ngoại-hệ hay Tình thương vũ trụ, nơi “tình thương nơi Chân thần” ngự trị.

242. The consciousness and love of the Monad reaches beyond even our solar system. Does the Monad begin to relate in love to the Seven Solar Systems of Which Ours is One? Is such love at least Sirian in nature?

242. Tâm thức và tình thương của Chân thần vươn tới vượt hẳn hệ mặt trời của chúng ta. Liệu Chân thần có bắt đầu liên hệ trong tình thương với “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của Chúng ta là Một” chăng? Ít nhất, tình thương ấy có mang tính Sirian không?

243. Or does “love in the Monad” embrace that part of our Solar Logos which lies ‘above’ our cosmic physical plane—such as the astral nature of the Logos and His mental nature, leading eventually to the Heart of the Sun—His causal nature on the cosmic mental plane.

243. Hoặc liệu “tình thương nơi Chân thần” có ôm choàng phần của Thái dương Thượng đế chúng ta nằm “trên” cõi hồng trần vũ trụ—như là thể cảm dục của Ngài và thể trí của Ngài, rốt cuộc dẫn tới “Tim Mặt trời”—thể nguyên nhân của Ngài trên cõi trí vũ trụ?

[594]

[594]

This term “The Law of Love,” is after all too generic a term to apply to one law governing one plane, but will have to suffice for the present, as it conveys the type of idea that is needed, to our minds.

Thuật ngữ “Định luật Tình thương” rốt cuộc quá khái quát để áp dụng cho một định luật chi phối một cõi, nhưng tạm thời sẽ phải chấp nhận, vì nó chuyển đạt kiểu ý tưởng cần thiết cho tâm trí chúng ta.

244. DK realizes that one cannot confine the great “Law of Love” to one plane alone. It pervades the entire cosmic physical plane and cosmic planes beyond. So it is being used for want of a better term.

244. Chân sư DK hiểu rằng không thể gói gọn “Định luật Tình thương” vĩ đại vào một cõi duy nhất. Nó thấm nhuần toàn bộ cõi hồng trần vũ trụ và các cõi vũ trụ cao hơn. Vì thế ở đây dùng thuật ngữ này do chưa có thuật ngữ thích hợp hơn.

245. This is why He called it earlier the “astral Law of Love”.

245. Đây là lý do vì sao Ngài gọi nó trước đó là “Định luật Tình thương cảm dục”.

The Law of Love is in reality but the law of the system in demonstration on all the planes.

Định luật Tình thương thực ra chỉ là định luật của toàn hệ đang được biểu lộ trên mọi cõi.

246. Here DK gives a wider definition of the “Law of Love”

246. Ở đây Chân sư DK đưa ra một định nghĩa rộng hơn về “Định luật Tình thương”.

247. When we call it the law of the system, we should not confine ourselves to the etheric-physical nature of the Solar Logos, but to other and higher cosmic aspects. Our Logos is a “God of Love” in his astral, mental and higher mental nature as well as in His etheric-physical nature.

247. Khi chúng ta gọi nó là định luật của hệ, chúng ta không nên chỉ giới hạn ở bản chất dĩ thái–hồng trần của Thái dương Thượng đế, mà còn bao gồm các phương diện vũ trụ cao hơn. Vị Logos của chúng ta là “Thượng đế của Tình thương” trong bản chất cảm dục, trí tuệ và thượng trí của Ngài cũng như trong bản chất dĩ thái–hồng trần của Ngài.

Love was the impelling motive for manifestation, and love it is that keeps all in ordered sequence; love bears all on the path of return to the Father’s bosom, and love eventually perfects all that is.  It is love that builds the forms that cradle temporarily the inner hidden life, and love is the cause of the disruption of those forms, and their utter shattering, so that the life may further progress.  Love manifests on each plane as the urge that drives the evolving Monad onwards to its goal, and love is the key to the deva kingdom, and the reason of the blending of the two kingdoms eventually into the divine Hermaphrodite.

Tình thương là động lực thúc đẩy cho sự biểu lộ, và chính tình thương giữ vạn hữu theo trình tự trật tự; tình thương cõng mang tất cả trên Con Đường Trở Về vào Lòng Cha, và rốt cuộc tình thương hoàn thiện tất cả những gì hiện hữu. Chính tình thương xây nên các hình tướng cưu mang tạm thời sự sống ẩn giấu bên trong, và chính tình thương là nguyên nhân khiến các hình tướng ấy bị phá vỡ, và hoàn toàn đập nát, để sự sống có thể tiến xa hơn. Tình thương biểu lộ trên mỗi cõi như là xung lực thúc đẩy Chân thần đang tiến hoá hướng đến cứu cánh của mình, và tình thương là chìa khóa của giới thiên thần, và là lý do khiến hai giới cuối cùng hòa quyện thành Vị Lưỡng tính Thiêng liêng.

248. Here is a magnificent paragraph defining the nature of Love.

248. Đây là một đoạn tuyệt diệu định nghĩa bản tính của Tình thương.

249. The Solar Logos is Love and so Love must be defined broadly and inclusively:

249. Vị Thái dương Thượng đế Tình thương và vì thế Tình thương phải được định nghĩa một cách rộng rãi và bao gồm:

250. Let us tabulate what we are learning about the nature of Love, for the sake of greater impression:

250. Hãy liệt kê những gì chúng ta đang học về bản tính của Tình thương, để tạo ấn tượng sâu sắc hơn:

a. Love is the impelling motive for manifestation. Love is archetypal relationship. The Divine Archetype expresses this relationship. That Archetype is magnetic and draws all units towards such relationship.

a. Tình thương là động lực thúc đẩy sự biểu lộ. Tình thương là quan hệ nguyên mẫu. Mẫu Mực Thiêng Liêng biểu lộ quan hệ này. Mẫu Mực ấy có tính từ lực và lôi kéo mọi đơn vị hướng tới mối quan hệ như thế.

b. Love keeps all in ordered sequence. Those who belong to each other (through Love) find each other and come and go in ordered cycles. They do not break their magnetic affinity with each other and cycle in and out accordingly.

b. Tình thương giữ vạn hữu trong trình tự trật tự. Những ai thuộc về nhau (qua Tình thương) sẽ tìm thấy nhau và đến–đi theo các chu kỳ có trật tự. Họ không phá vỡ sự tương ứng từ lực với nhau và tuần hoàn ra–vào tương ứng.

c. Love bears all on the Path of Return to the Father’s Bosom. The Monad in the Father’s Bosom is a great Magnet.

c. Tình thương cõng mang tất cả trên Con Đường Trở Về vào Lòng Cha. Chân thần trong Lòng Cha là một Đại Nam Châm.

d. Love eventually perfects all that is. Love orders all into archetypal relationship. Such an ordering leads to perfection.

d. Rốt cuộc tình thương hoàn thiện tất cả những gì hiện hữu. Tình thương sắp đặt tất cả vào quan hệ nguyên mẫu. Sự sắp đặt như thế dẫn đến hoàn thiện.

e. Love builds the forms that temporarily cradle the inner life. Love provides vehicles for the expression of the inner life. Life invites the inner life into expression through form and protects that inner life as it expresses through form.

e. Tình thương xây các hình tướng tạm thời cưu mang sự sống nội tại. Tình thương cung cấp vận cụ cho sự biểu lộ của sự sống nội tại. Tình thương mời gọi sự sống nội tại biểu lộ qua hình tướng và che chở sự sống nội tại ấy khi nó biểu lộ qua hình tướng.

f. Love is the cause of the disruption of such forms so that the inner hidden life may progress. A greater Love attracts the inner life beyond the form created (which, then, must be destroyed). This attraction and destruction recur until the forms created are the Archetypal Forms.

f. Tình thương là nguyên nhân phá vỡ các hình tướng như vậy để sự sống ẩn giấu bên trong có thể tiến triển. Một Tình thương lớn hơn hấp dẫn sự sống nội tại vượt lên khỏi hình tướng đã tạo (vốn rồi phải bị phá hủy). Sự hấp dẫn và hủy phá này tái diễn cho đến khi các hình tướng được tạo những Hình tướng Nguyên mẫu.

g. Love manifests as the urge that drives the evolving Monad on to its goal. Does Love drive or does it attract? The Monad longs for the return to perfected relationship.

g. Tình thương biểu lộ như xung lực thúc đẩy Chân thần đang tiến hoá đến cứu cánh. Tình thương đẩy hay hấp dẫn? Chân thần khao khát trở về mối quan hệ hoàn hảo.

h. Love is the key to the deva kingdom. This kingdom is the great feminine aspect and lovingly offers itself as a vehicle for the expression for the consciousness aspect. When in the “Love”, one summons the devas wisely and builds with them wisely. An ordered and beautiful life is the result.

h. Tình thương là chìa khóa cho giới thiên thần. Giới này là phương diện nữ lớn lao và yêu thương tự hiến làm vận cụ cho biểu lộ của phương diện tâm thức. Khi ở trong “Tình thương”, người ta triệu thỉnh các thiên thần một cách khôn ngoan và kiến tạo với họ một cách khôn ngoan. Kết quả là một đời sống có trật tự và mỹ lệ.

i. Love is the reason for the blending of the two kingdoms eventually into the Divine Hermaphrodite. Love insists on completeness and inclusion. The two poles must come together to make the whole. Love brings these poles together—man and deva.

i. Tình thương là lý do cho sự hòa quyện cuối cùng của hai giới thành Vị Lưỡng tính Thiêng liêng. Tình thương đòi hỏi sự trọn vẹn và bao gồm. Hai cực phải quy tụ để thành toàn thể. Tình thương mang hai cực ấy lại gần nhau—con người và thiên thần.

Love works through the concrete rays in the building of the system, and in the rearing of the structure that shelters the Spirit,

Tình thương hoạt động qua các cung cụ thể trong việc kiến tạo hệ thống, và trong việc dựng lên kiến trúc che chở Thần Linh,

251. How shall we look at the terms “concrete” and “abstract” in this context?

251. Chúng ta nên nhìn các thuật ngữ “cụ thể” và “trừu tượng” trong ngữ cảnh này như thế nào?

252. Earlier we considered one—three—five—seven concrete, and especially rays five and seven.

252. Trước đó, chúng ta xem 1—3—5—7 là cụ thể, đặc biệt là cung năm và bảy.

253. We considered that the ‘mystic line’ of two—four—six held the “abstract rays”.

253. Chúng ta từng xem “tuyến huyền nhiệm” 2—4—6 là những cung “trừu tượng”.

254. We recall, however, that it is also possible to consider rays five, six and seven the “concrete rays” and rays one, two and three the “abstract rays”.

254. Tuy nhiên, cũng có thể xem các cung năm, sáu và bảy là “các cung cụ thể” và các cung một, hai và ba là “các cung trừu tượng”.

and love works through the abstract rays for the full and potent development of that inherent divinity.

và tình thương hoạt động qua các cung trừu tượng để phát triển đầy đủ và mạnh mẽ thiên tính tiềm tàng ấy.

255. Perhaps in this context it would be wise to consider abstract and concrete differently than before, for it is the Rays of Attribute which build the persona and the Rays of Aspect which develop the Attributes of divinity so that they can express the Aspect.

255. Có lẽ trong ngữ cảnh này khôn ngoan hơn khi xét “trừu tượng” và “cụ thể” khác trước, vì chính các Cung Thuộc Tính xây dựng phàm ngã và các Cung Trạng Thái phát triển các Thuộc Tính của thiên tính để chúng có thể biểu lộ Phương diện.

Love demonstrates, through the concrete rays, the aspects of divinity, forming the persona that hides the one Self; love demonstrates through the abstract rays in developing the attributes of divinity, in evolving to fullest measure the kingdom of God within.

Tình thương biểu lộ, qua các cung cụ thể, các phương diện của thiên tính, hình thành cái mặt nạ che giấu Một Tự Ngã; tình thương biểu lộ qua các cung trừu tượng trong việc phát triển các thuộc tính của thiên tính, trong việc tiến hoá đến mức viên mãn “Thiên Giới” bên trong.

256. This is beautifully stated. The “aspects of divinity” are definitely expressed by the Rays of Aspect—rays one, two and three. These abstract qualities expressed through the Rays of Aspect develop the “Attributes” of divinity as the “Aspects” express through the “Attributes”.

256. Điều này được trình bày thật mỹ lệ. “Các phương diện của thiên tính” chắc chắn được biểu lộ bởi Các Cung Trạng Thái—cung một, hai và ba. Những phẩm tính trừu tượng này khi biểu lộ qua Các Cung Trạng Thái sẽ phát triển các “Thuộc tính” của thiên tính khi “Phương diện” biểu lộ qua “Thuộc tính”.

257. But in all fairness, DK has been turning these words “aspects” and “attributes” in various ways, so there is no entirely clear delineation. It seems very likely that there are at least two different ways of understanding the words “abstract rays” and “concrete rays”.

257. Nhưng công bằng mà nói, Chân sư DK đã xoay trở các từ “phương diện” và “thuộc tính” theo những cách khác nhau, nên không có một ranh giới hoàn toàn rõ rệt. Có vẻ rất có khả năng rằng có ít nhất hai cách khác nhau để hiểu các từ “các cung trừu tượng” và “các cung cụ thể”.

258. If one studies the section of text above, one could come to the conclusion that the term “attributes” indicates something more subjective than the term “aspects”, but clearly Rays of Aspect are the more general, inclusive rays and Rays of Attribute are more specific and more concrete.

258. Nếu người đọc khảo sát đoạn văn trên, có thể đi đến kết luận rằng thuật ngữ “thuộc tính” chỉ điều gì đó chủ quan hơn so với thuật ngữ “phương diện”, nhưng rõ ràng Các Cung Trạng Thái là những cung tổng quát, bao quát hơn, còn Các Cung Thuộc Tính thì cụ thể và cụ thể hơn.

259. We have to follow every sentence closely to see exactly what may evolution meant.

259. Chúng ta phải theo sát từng câu để thấy chính xác điều tiến hoá có thể muốn nói.

Love in the concrete rays leads to the path of occultism; love in the abstract rays leads to that of the mystic.

Tình thương nơi các cung cụ thể dẫn đến con đường huyền bí học; tình thương nơi các cung trừu tượng dẫn đến con đường của nhà thần bí.

260. But now we have the other point of view. The rays on the one—three—five—seven line are definitely the rays which lead to the “path of occultism”. They are not the rays of the mystic. So if this is what DK means by concrete, then the concrete rays are one, three, five and seven.

260. Nhưng giờ đây chúng ta có quan điểm kia. Các cung trên tuyến 1—3—5—7 chắc chắn là những cung dẫn đến “con đường huyền bí học”. Chúng không phải là các cung của nhà thần bí. Vậy nếu đây là điều Chân sư DK muốn nói về “cụ thể”, thì các cung cụ thể là 1, 3, 5 và 7.

261. AND, the rays of the mystic are definitely the two—four—six line. So even though the Rays of Aspect are abstract when compared to the Rays of Attribute, in the context of this particular section of text, we must relate the abstract rays to the mystical line—rays two, four and six.

261. VÀ, các cung của nhà thần bí chắc chắn là tuyến 2—4—6. Vậy dẫu cho Các Cung Trạng Thái là “trừu tượng” khi so với Các Cung Thuộc Tính, trong ngữ cảnh của đoạn văn đặc thù này, chúng ta phải liên hệ các cung trừu tượng với tuyến huyền nhiệm—các cung hai, bốn và sáu.

Love forms the sheath and inspires the life; love causes the logoic vibration to surge forward, carrying all on its way, and bringing all to perfected manifestation.

Tình thương hình thành cái bao thể và truyền cảm hứng cho sự sống; tình thương khiến rung động logoic dâng trào tiến tới, mang tất cả theo đường lối của nó, và đưa tất cả đến biểu lộ hoàn hảo.

262. Behind all these rays is the Great Indigo Ray of Love-Wisdom. It is Solar Love which uses all the rays and all the divine aspects.

262. Ẩn sau tất cả các cung là Đại Cung Chàm của Bác Ái – Minh Triết. Chính Tình thương Thái dương dùng mọi cung và mọi phương diện thiêng liêng.

263. Love uses the occult rays and the mystical rays. Love uses the abstract rays and the concrete rays. Love uses the Rays of Aspect and the Rays of Attribute.

263. Tình thương dùng các cung huyền bí học và các cung thần bí. Tình thương dùng các cung trừu tượng và các cung cụ thể. Tình thương dùng Các Cung Trạng Thái và Các Cung Thuộc Tính.

264. We have two different ways of view ing the concept of concrete and abstract, but whichever is correct (and also if both are correct) it is Love that uses these lines of expression.

264. Chúng ta có hai cách nhìn khác nhau về khái niệm “cụ thể” và “trừu tượng”, nhưng dù cách nào (và ngay cả khi cả hai đều đúng) thì chính Tình thương dùng các tuyến biểu lộ này.

In System I, Activity, Desire for Expression, and the Impulse to Move was the basic note.

Trong Hệ I, Hoạt động, Khát vọng Biểu lộ, và Xung lực để Chuyển động là chủ âm căn bản.

265. Even now those upon the third ray express this “Impulse to Move”. Stillness and centeredness, on the other hand, are the natural expression of many upon the second ray.

265. Ngay cả hiện nay những ai thuộc cung ba biểu lộ “Xung lực để Chuyển động” này. Mặt khác, tĩnh tại và quy tâm là biểu lộ tự nhiên của nhiều người thuộc cung hai.

266. The “Desire for Expression” is related to the seventh ray “Will-to-Express”. The seventh ray, so closely related to the third, was strong in the previous solar system. (cf. EA 605)

266. “Khát vọng Biểu lộ” có liên hệ với “Ý Chí- Biểu lộ” của cung bảy. Cung bảy, vốn liên hệ rất chặt với cung ba, đã mạnh mẽ trong hệ mặt trời trước. (x. EA 605)

267. Virgo, the sign of the zodiac which was powerful in the second half of the previous solar system is hypothesized as having expressed at that time through the third and seventh rays, whereas now it expresses through the second and sixth.

267. Xử Nữ, dấu hiệu hoàng đạo vốn mạnh mẽ trong nửa sau của hệ mặt trời trước, được giả thuyết là khi ấy đã biểu lộ qua cung ba và bảy, trong khi nay biểu lộ qua cung hai và sáu.

268. Or shall we say that at that time the third and seventh rays expressed through Virgo and now the second and sixth rays express through it?

268. Hay chúng ta hãy nói rằng khi ấy cung ba và bảy đã biểu lộ qua Xử Nữ và nay cung hai và sáu biểu lộ qua dấu hiệu này?

269. There are various sources of rays; some may express through a constellation and some may be expressed by a constellations (emitted rather than transmitted as in the first case).

269. Có nhiều nguồn của các cung; có nguồn biểu lộ qua một chòm sao và có nguồn được biểu lộ bởi một chòm sao (phát xạ hơn là truyền dẫn như trong trường hợp thứ nhất).

That activity produced certain results, certain permanent effects, and thus formed the nucleus for the present system.

Hoạt động đó tạo ra những kết quả nhất định, những hiệu ứng trường tồn nhất định, và như vậy hình thành hạch nhân cho hệ thống hiện tại.

270. These “results” became the basic, “primordial” patterns upon which our present solar system was founded.

270. Những “kết quả” này trở thành những mô hình cơ bản, “nguyên sơ” mà trên đó hệ mặt trời hiện tại của chúng ta được dựng lập.

Ordered Activity is the foundation of this system of ordered [595] Love,

Hoạt động có trật tự là nền tảng của hệ thống của [595] Tình thương có trật tự,

271. The third and seventh rays combine. It is as if Virgo (the sign so prominent during the later part of the previous system) gave birth to our system, the second major system.

271. Cung ba và cung bảy kết hợp. Như thể Xử Nữ (dấu hiệu nổi bật trong phần sau của hệ thống trước) sinh ra hệ thống của chúng ta, hệ thống lớn thứ hai.

272. We are also reminded of the nature of a certain One About Whom Naught May Be Said which can be studied in EP I 150, wherein the “active impulse towards organization” is a major quality.

272. Chúng ta cũng được nhắc nhớ về bản chất của một Đấng Bất Khả Tư Nghị nào đó vốn có thể được khảo cứu trong EP I 150, trong đó “xung lực năng động hướng tới tổ chức” là một phẩm tính chủ đạo.

273. A system of “ordered Love” suggests the union of the seventh and second rays. The Monads on the second or seventh plane are an expression of “ordered Love”.

273. Một hệ thống của “Tình thương có trật tự” gợi ý sự kết hợp của cung bảy và cung hai. Các chân thần trên cõi thứ hai hoặc thứ bảy là một biểu lộ của “Tình thương có trật tự”.

and leads to system three, wherein ordered Activity, with ordered Love for its impulse, results in ordered loving Power.

và dẫn tới hệ thống ba, trong đó Hoạt động có trật tự, với Tình thương có trật tự làm xung lực, đưa đến Quyền lực yêu thương có trật tự.

274. We must not dismiss ray three as a ray of order. We sometimes think of it as a ray of chaos, but when highly developed all proceeds cyclically and intelligently—at the right time and in the right place. In other words, ray three contributes significantly to the establishing of order. Ray seven is a more concrete expression of ray three just as it is a more concrete expression of ray one. Ray seven is especially related to these two rays.

274. Chúng ta không được gạt bỏ cung ba như một cung của trật tự. Đôi khi chúng ta nghĩ về nó như một cung của hỗn loạn, nhưng khi phát triển cao, mọi sự tiến hành theo chu kỳ và thông tuệ—đúng thời và đúng chỗ. Nói cách khác, cung ba đóng góp đáng kể vào việc thiết lập trật tự. Cung bảy là biểu lộ cụ thể hơn của cung ba cũng như nó là biểu lộ cụ thể hơn của cung một. Cung bảy liên hệ đặc biệt với hai cung này.

275. So in the third system there is ordered, loving power—rays three/seven—two—one.

275. Vì vậy, trong hệ thống thứ ba có quyền lực yêu thương có trật tự—các cung ba/bảy—hai—một.

276. Each system is built upon the accomplishments of the system preceding.

276. Mỗi hệ thống được xây dựng trên những thành tựu của hệ thống đi trước.

The sixth Ray of devotion and the sixth law of love have a close alliance, and on the sixth plane comes the powerful working out in the lower Triad, the Personality, of the Law of Love.

Cung sáu của sùng tín và định luật sáu của tình thương có liên minh mật thiết, và trên cõi thứ sáu xảy ra sự triển khai mạnh mẽ trong Tam nguyên thấp, tức Phàm ngã, của Định luật Tình thương.

277. If we learn how to think in terms of ‘numerical affinity’ we shall begin to understand the “Science of Relations”

277. Nếu chúng ta học cách tư duy theo các ‘tương ứng số học’ chúng ta sẽ bắt đầu thấu hiểu “Khoa học về các Mối Quan Hệ”

On the astral plane, the home of the desires, originate those feelings which we call personal love;

Trên cõi cảm dục, nơi cư trú của các ham muốn, phát sinh những cảm xúc mà chúng ta gọi là tình thương cá nhân;

278. Personal love is based on “feelings”. It is occultly lunar and is not really an expression of the love of the soul—a solar form of love.

278. Tình thương cá nhân dựa trên “cảm xúc”. Về mặt huyền môn, nó mang tính thái âm và thật ra không phải là biểu lộ của tình thương của linh hồn—một hình thức thái dương của tình thương.

in the lowest type of human being this shows itself as animal passion;

Ở loại người thấp kém nhất điều này bộc lộ thành dục tính thú vật;

279. In this respect the planet Mars, the sign Libra (“unbalanced fiery passion”—EA 333) and personal love under the “astral Law of Love” go together.

279. Ở phương diện này, hành tinh Sao Hỏa, dấu hiệu Thiên Bình (“dục hỏa bất cân bằng”—EA 333) và tình thương cá nhân dưới “Định luật Tình thương cảm dục” đi đôi với nhau.

as evolution proceeds it shows itself as a gradual expansion of the love faculty, passing through the stages of love of mate, love of family, love of surrounding associates, to love of one’s entire environment; patriotism gives place later to love of humanity, often humanity as exemplified in one of the Great Ones.

Khi tiến hoá tiếp diễn, nó biểu lộ như sự mở rộng dần dần của năng lực thương yêu, đi qua các giai đoạn yêu bạn đời, yêu gia đình, yêu những người chung quanh, đến yêu toàn thể môi trường của mình; lòng ái quốc về sau nhường chỗ cho tình thương nhân loại, thường là nhân loại được thể hiện nơi một trong các Đấng Cao Cả.

280. A low grade, strictly personal love can develop into something higher.

280. Một dạng tình thương thấp kém, thuần cá nhân có thể phát triển thành điều cao hơn.

281. Let us trace that development in a tabulation: Passionate personal love can become:

281. Chúng ta hãy lần theo sự phát triển đó trong một bảng liệt kê: Tình thương cá nhân say đắm có thể trở thành:

a. The gradual expansion of the love faculty

a. Sự mở rộng dần dần của năng lực thương yêu

b. Love of mate and family

b. Tình thương đối với bạn đời và gia đình

c. Love of surrounding associates

c. Tình thương đối với những người chung quanh

d. Love of one’s entire environment

d. Tình thương đối với toàn bộ môi trường của mình

e. Love of one’s country—patriotism

e. Tình thương đối với đất nước—lòng ái quốc

f. Love of humanity

f. Tình thương đối với nhân loại

g. Perhaps we should add love of the Divine Plan and the planet

g. Có lẽ chúng ta nên thêm tình thương đối với Thiên Cơ và hành tinh

The astral plane is, at the present time, the most important for us, for in desire—not corrected or transmuted—lies the difference between the personal consciousness and that of the Ego.

Cõi cảm dục hiện tại là quan trọng nhất đối với chúng ta, vì trong dục vọng—chưa được điều chỉnh hay chuyển hoá—có sự khác biệt giữa tâm thức cá nhân và tâm thức của Chân ngã.

282. If we wish to understand the difference between personal consciousness and egoic consciousness, it is in the difference between uncorrected, untransmuted desire and soul-illumined mentality.

282. Nếu chúng ta muốn thấu hiểu sự khác biệt giữa tâm thức cá nhân và tâm thức chân ngã, nó nằm ở sự khác biệt giữa dục vọng chưa được điều chỉnh, chưa được chuyển hoá và tính trí được linh hồn soi sáng.

283. Does desire ‘look up’ or does it ‘look down’? This is a fundamental question:

283. Dục vọng ‘nhìn lên’ hay ‘nhìn xuống’? Đây là một câu hỏi căn bản:

a. In the strictly personal human being, desire looks downward or outward, horizontally

a. Ở con người thuần cá nhân, dục vọng nhìn xuống hay nhìn ra ngoài, theo phương ngang

b. In the disciple desire looks ‘up’.

b. Ở người đệ tử, dục vọng nhìn ‘lên’.

c. In the initiate, desire is transmuted into loving-desire and eventually into pure love.

c. Ở điểm đạo đồ, dục vọng được chuyển hoá thành dục vọng-đầy-tình-thương và rốt cuộc thành tình thương thuần khiết.

FOOTNOTE 85:

CHÚ THÍCH 85:

Why do we consider this matter of the devas of the middle system (as we might call those connected with this system and with buddhi and kamamanas) in our consideration of thought forms?  For two reasons:  One is that all that is in the solar system is but substance energised from the cosmic mental and astral planes, and built into form through the power of electrical law;

Tại sao chúng ta xét đến vấn đề các deva của hệ thống giữa (như chúng ta có thể gọi những vị liên hệ với hệ thống này và với Bồ đề và trí-cảm) trong khi chúng ta khảo cứu về hình tư tưởng? Vì hai lý do: Một là rằng mọi cái hiện hữu trong hệ mặt trời chỉ là chất liệu được tiếp sinh lực từ các cõi trí vũ trụ và cảm dục vũ trụ, và được kết cấu thành hình tướng nhờ quyền năng của định luật điện;

284. We have here the important idea that the solar system is energized from both the cosmic mental plane and the cosmic astral plane.

284. Ở đây chúng ta có ý niệm quan trọng rằng hệ mặt trời được tiếp sinh lực từ cả cõi trí vũ trụ lẫn cõi cảm dục vũ trụ.

285. Form is built through “electrical law”. “Electrical law” is that which pertains to the cosmic physical plane and is impulsed from the Pleiades.

285. Hình tướng được kiến tạo qua “định luật điện”. “Định luật điện” là điều thuộc về cõi hồng trần vũ trụ và được thôi thúc từ Pleiades.

286. The devas are built into thoughtforms; thus they are considered in this section on thoughtforms.

286. Các deva được kết vào các hình tư tưởng; do đó chúng được xét đến trong phần này về hình tư tưởng.

all that can be known is but forms ensouled by ideas.

mọi điều có thể được biết chỉ là các hình tướng được phú linh bởi các ý niệm.

287. This statement simplifies things considerably. Let us think of that which we think we know. Is there anything in this collection of contents of consciousness other than forms ensouled by ideas? Or do we, perhaps, think we contact ideas directly?

287. Mệnh đề này làm đơn giản hoá sự việc đáng kể. Chúng ta hãy nghĩ về cái mà chúng ta tưởng rằng mình biết. Có gì trong tập hợp nội dung của tâm thức ngoài những hình tướng được phú linh bởi các ý niệm? Hay có lẽ chúng ta nghĩ rằng mình tiếp xúc trực tiếp với các ý niệm?

Secondly, that in the knowledge of the creative processes of the system, man learns for himself how in time to become a creator.  

Thứ hai, rằng nhờ hiểu biết các tiến trình sáng tạo của hệ thống, con người tự học cách theo thời gian trở nên một đấng sáng tạo.

288. When we study thoughtforms we are studying creativity. Our objective is to become co-creators with the Divine Life. By the study of how forms have been created we will learn how to create forms—presumably those which accord with the Divine Plan.

288. Khi chúng ta nghiên cứu hình tư tưởng là chúng ta nghiên cứu tính sáng tạo. Mục tiêu của chúng ta là trở thành đồng-sáng tạo với Sự sống Thiêng liêng. Qua việc khảo cứu cách thức các hình tướng đã được tạo lập, chúng ta sẽ học cách kiến tạo các hình tướng—giả định là những hình tướng phù hợp với Thiên Cơ.

We might illustrate this by remarking that one of the main functions of the Theosophical movement in all its many branches is to build a form which can be ensouled, in due time, by the idea of Brotherhood.

Chúng ta có thể minh hoạ điều này bằng nhận xét rằng một trong những chức năng chính của phong trào Thông Thiên Học, qua mọi ngành nhánh của nó, là kiến tạo một hình tướng có thể, đúng thời, được phú linh bởi ý niệm về Tình Huynh Đệ.

289. We students of AAB are still members of the Theosophical movement even if not of the Theosophical Society.

289. Chúng ta, những đạo sinh của AAB, vẫn là thành viên của phong trào Thông Thiên Học dù không thuộc Hội Thông Thiên Học.

290. The Tibetan is saying something really important here. Has the failure been complete, or it is still possible to salvage something of the Theosophical thoughtform?

290. Chân sư Tây Tạng đang nói điều thực sự quan trọng ở đây. Sự thất bại đã hoàn toàn chăng, hay vẫn còn có thể cứu vãn đôi điều của hình tư tưởng Thông Thiên Học?

291. Perhaps we in the AAB movement are beginning to respond to this note of Brotherhood more than hitherto. There is a great “idea of Brotherhood”. It is a living Being. We can build utilizing the energy of love and the form will be resonant to the great idea.

291. Có lẽ chúng ta trong phong trào AAB đang bắt đầu đáp ứng với âm điệu của Tình Huynh Đệ này nhiều hơn trước. Có một “ý niệm về Tình Huynh Đệ” vĩ đại. Đó là một Đấng Sống. Chúng ta có thể kiến tạo bằng cách vận dụng năng lượng tình thương và hình tướng sẽ cộng hưởng với ý niệm vĩ đại ấy.

292. It is not by accident that the Tibetan begins speaking of Venus in this context, for the true era of Brotherhood will enter during the last third of the Aquarian Age when the planet Venus becomes the decanate ruler that period.

292. Không phải ngẫu nhiên mà Chân sư Tây Tạng bắt đầu nói về Kim Tinh trong mạch văn này, vì kỷ nguyên đích thực của Tình Huynh Đệ sẽ bước vào trong phần ba cuối của Thời Đại Bảo Bình khi hành tinh Kim Tinh trở thành chủ tinh thập độ cho giai đoạn đó.

In the sixth Scheme, that of Venus, this can be seen clearly; it is the scheme of love.

Trong Hệ hành tinh thứ sáu, tức của Kim Tinh, điều này có thể thấy rõ; đó là hệ của tình thương.

293. Here DK simply uses the number six. Six is the number of the Venusian Monad, though not of its major monadic ray.

293. Ở đây Chân sư DK đơn giản dùng con số sáu. Sáu là con số của chân thần Kim Tinh, dù không phải là cung chân thần chính của nó.

294. In occultism we read so much of the fifth ray in relation to Venus, and yet it is a scheme of love. The fifth ray (though related to the second ray) is not exclusively or even (at this time) principally a ray of love. So the love emanating from the Venus-scheme must come from other levels of the Venusian ray nature.

294. Trong huyền bí học, chúng ta đọc rất nhiều về cung năm liên hệ với Kim Tinh, vậy mà đó lại là một hệ của tình thương . Cung năm (dẫu có liên hệ với cung hai) không phải là một cung độc nhất hay thậm chí (vào thời điểm này) chủ yếu của tình thương. Vậy nên tình thương tuôn phát từ hệ Kim Tinh hẳn phải đến từ các cấp độ khác trong bản tính cung của Kim Tinh.

Viewed from one angle, the Venusian Scheme is the second, and from another it is the sixth.

Nếu nhìn từ một góc độ, Hệ Kim Tinh là thứ hai, và từ góc độ khác, nó là thứ sáu.

295. We have been reviewing this idea. We hypothesize that by travelling in a counter clockwise direction, Venus is encountered as the second scheme and is ruled by its second ray Monad—its hypothesized major monadic ray. Traveling in the clockwise direction, Venus is encountered as sixth in order. This it presumably the ‘mystical’ way of travel.

295. Chúng ta đã ôn duyệt ý tưởng này. Chúng ta giả thuyết rằng khi đi theo chiều ngược kim đồng hồ, Kim Tinh được gặp như hệ thứ hai và được cai quản bởi chân thần cung hai của nó—cung chân thần chính được giả thuyết. Khi đi theo chiều cùng kim đồng hồ, Kim Tinh được gặp như thứ sáu theo thứ tự. Đây có lẽ là lối di chuyển ‘huyền nhiệm’.

296. The close connection to Jupiter is understood by the fact that they both share the same scheme numbers—either two or six.

296. Sự liên hệ gần gũi với Mộc Tinh được hiểu bởi thực tế là cả hai cùng chia sẻ các số thứ tự hệ—hoặc hai hoặc sáu.

It depends upon whether we reason from the circumference to the centre or the reverse.

Điều đó tuỳ thuộc vào việc chúng ta lập luận từ chu vi vào trung tâm hay ngược lại.

297. To reason from the circumference to the center is a centripetal motion and correlates with the centering, ingathering magnetic energy of Venus.

297. Lập luận từ chu vi vào trung tâm là một chuyển động hướng tâm và tương ứng với năng lượng từ tính gom tụ, quy tâm của Kim Tinh.

298. If we reason from the center to the periphery, we are following a centrifugal motion more Martian in nature and more exoteric.

298. Nếu chúng ta lập luận từ trung tâm ra chu vi, chúng ta đang theo một chuyển động ly tâm mang tính Hỏa tinh hơn và ngoại hiện hơn.

299. Centrifugality is equivalent to the out-breathing; centripetality is equivalent to in-breathing.

299. Tính ly tâm tương đương với hơi thở ra; tính hướng tâm tương đương với hơi thở vào.

It is the home of the planetary Logos of the sixth Ray.  

Đó là “nhà” của Hành Tinh Thượng đế thuộc Cung sáu.

300. Here is one of the most important statements in the book regarding Venus. We are being told that it has a sixth ray Monad. Whenever the “home” of a planet is discussed, the discussion is focussing on the monadic ray of the planet.

300. Đây là một trong những mệnh đề quan trọng nhất trong sách liên quan đến Kim Tinh. Chúng ta được cho biết rằng nó có một chân thần cung sáu. Bất cứ khi nào nói đến “nhà” của một hành tinh, là đang tập trung vào cung chân thần của hành tinh ấy.

301. We know from EP I 420 that Uranus has a Monad on the first ray, and we also know that “Uranus is the home of electric fire” (TCF 1154)

301. Chúng ta biết từ EP I 420 rằng Thiên Vương Tinh có một chân thần cung một, và chúng ta cũng biết rằng “Thiên Vương Tinh là nhà của Lửa điện” (TCF 1154)

302. When thinking of Venus, from yet another perspective, the number two is more occult than the number six. Six is a number which often (under Martian impulse) leads to the periphery. Two is the number of ingathering representing the deep spiritual intimacy which is only achieve through Divine Love.

302. Khi nghĩ về Kim Tinh, từ một phối cảnh khác nữa, con số hai mang tính huyền bí hơn số sáu. Sáu là con số thường (dưới xung lực Hỏa tinh) dẫn ra chu vi. Hai là con số của sự quy tụ, biểu trưng cho sự thân mật tinh thần sâu xa chỉ đạt được qua Tình thương Thiêng liêng.

303. When Venus relates to the solar logoic solar plexus center, it does so through its sixth ray; when it relates to the solar logoic heart center it does so through its second ray.

303. Khi Kim Tinh liên hệ với luân xa tùng thái dương của Thái dương Thượng đế, nó làm thế qua cung sáu của mình; khi nó liên hệ với trung tâm tim của Thái dương Thượng đế, nó làm thế qua cung hai của mình.

304. The monadic ray for Venus is, thus, hypothesized as TWOSIX

304. Vì vậy, cung chân thần của Kim Tinh được giả thuyết là HAI-SÁU

This may sound like a contradiction, but it is not so really; we must remember the interlocking, the gradual shifting and changing, that takes place in time on all [596] the Rays.

Điều này có thể nghe như một mâu thuẫn, nhưng thật ra không phải vậy; chúng ta phải nhớ đến sự cài khóa vào nhau, sự chuyển dịch dần dần và sự thay đổi xảy ra theo thời gian trên tất [596] cả các Cung.

305. Why is Master DK speaking of “shifting and changing”? May it be that at different times in development of a particular Planetary Logos different rays are emphasized: For instance:

305. Tại sao Chân sư DK nói về “sự chuyển dịch và thay đổi”? Có thể chăng là vào những thời kỳ khác nhau trong sự phát triển của một Hành Tinh Thượng đế nào đó, các cung khác nhau được nhấn mạnh: Chẳng hạn:

a. At a high stage of development the fifth ray soul of Venus is emphasized

a. Ở một giai đoạn phát triển cao, linh hồn cung năm của Kim Tinh được nhấn mạnh

b. At a still higher stage of development its sixth ray Monad is emphasized—this is a Spirit-stage of development

b. Ở một giai đoạn còn cao hơn nữa, chân thần cung sáu của nó được nhấn mạnh—đây là giai đoạn của Thần Linh

c. At the very highest stage of development its major monadic ray, the second, is emphasized. We may recall that Venus is hypothesized as possessing a second ray personality as well as second ray Monad.

c. Ở giai đoạn tối cao, cung chân thần chính của nó, cung hai, được nhấn mạnh. Chúng ta có thể nhớ rằng Kim Tinh được giả thuyết là sở hữu một phàm ngã cung hai cũng như một chân thần cung hai.

306. If we pause to reflection upon the relationship of Venus and Earth—a Being with a major second ray Monad and one with a major first ray Monad, something of interest and significance may be revealed concerning this relationship.

306. Nếu chúng ta dừng lại chiêm nghiệm về mối liên hệ giữa Kim Tinh và Địa Cầu—một Vị có chân thần chính cung hai và một Vị có chân thần chính cung một—có thể điều gì đó thú vị và đầy thâm nghĩa sẽ được hé lộ về mối liên hệ này.

In the same way the Earth chain is the third if viewed from one aspect and the fifth viewed from another.

Theo cùng cách ấy, Dãy Địa Cầu là thứ ba nếu nhìn từ một phương diện và là thứ năm nếu nhìn từ phương diện khác.

307. Why is DK suddenly speaking of “chains” rather than “schemes”? All the foregoing about Venus related to the scheme level. Now we are speaking of the Earth-chain.

307. Tại sao Chân sư DK bỗng nói về “dãy” thay vì “hệ hành tinh”? Mọi điều vừa qua về Kim Tinh là ở cấp độ hệ. Giờ chúng ta đang nói về dãy Địa Cầu.

308. We do remember, however, that theosophically, the term “chain” sometimes stood for “scheme”, probably because the idea of a planetary scheme did not exist (or if it did, was not brought forth in a straightforward manner).

308. Tuy vậy, chúng ta nhớ rằng, theo lối nói Thông Thiên Học, thuật ngữ “dãy” đôi khi được dùng thay cho “hệ”, có lẽ vì ý niệm về một hệ hành tinh chưa hiện hữu (hoặc nếu có, thì chưa được đưa ra một cách minh bạch).

309. When we count planetary schemes in Chart VI of TCF we find that Venus is either the second scheme or the sixth.

309. Khi chúng ta đếm các hệ hành tinh trong Biểu đồ VI của TCF, chúng ta thấy rằng Kim Tinh hoặc là hệ thứ hai hoặc thứ sáu.

310. When we count planetary schemes in the attempt to find the number of the Earth, we find that, beginning with Vulcan, whichever way we go it is always the fourth.

310. Khi chúng ta đếm các hệ hành tinh nhằm tìm số thứ tự của Địa Cầu, chúng ta thấy rằng, bắt đầu với Vulcan, theo hướng nào thì nó luôn luôn là thứ tư.

311. If we consider the Earth-chain rather than the Earth-scheme, it also turns out to be the fourth if we count from the starting point.

311. Nếu chúng ta xét Dãy Địa Cầu thay vì Hệ Địa Cầu, nó cũng hoá ra là thứ tư nếu chúng ta đếm từ điểm khởi đầu.

312. If we think about chains rather than schemes, we can eliminate the two subjective chains (Neptune, the first, and Jupiter the seventh). Then counting backwards, or clockwise (though a strictly clockwise counting is difficult to imagine in the diagrams we are given) we find that Mars and Mercury are counted before the Earth chain which is the third.

312. Nếu chúng ta nghĩ về các dãy thay vì các hệ, chúng ta có thể loại trừ hai dãy chủ quan (Hải Vương Tinh, dãy thứ nhất, và Mộc Tinh, dãy thứ bảy). Rồi đếm lùi, hoặc theo chiều kim đồng hồ (dù một việc đếm thuần theo chiều kim đồng hồ là khó hình dung trên các sơ đồ được cung cấp) chúng ta thấy rằng Hỏa Tinh và Thuỷ Tinh được tính trước Dãy Địa Cầu, vốn là dãy thứ ba.

313. Only when we count schemes rather than chains, and add the two intra-mercurial planets Adonis (hypothesized) and Vulcan is it possible to arrive at the number five in relation to the Earth-scheme—Adonis, Vulcan, Mercury, Venus, Earth—and in doing so we are changing the order of Mercury from its position as the fifth scheme.

313. Chỉ khi chúng ta đếm các hệ thay vì các dãy, và cộng thêm hai hành tinh nội Thuỷ là Adonis (giả thuyết) và Vulcan thì mới có thể đi tới con số năm liên hệ với Hệ Địa Cầu—Adonis, Vulcan, Thuỷ Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu—và làm như vậy là chúng ta đã đổi vị trí của Thuỷ Tinh khỏi chỗ của nó như hệ thứ năm.

314. Counting chains, from the Neptune chain forward—we have the Venus-chain, the Saturn-chain, then the Earth-chain—and that is only four. But if we were to insert the Moon-chain, we would have five.

314. Khi đếm các dãy, từ Dãy Hải Vương Tinh tiến tới—chúng ta có Dãy Kim Tinh, Dãy Thổ Tinh, rồi Dãy Địa Cầu—và đó chỉ là bốn. Nhưng nếu chúng ta chèn thêm Dãy Nguyệt Cầu, chúng ta sẽ có năm.

315. When the Earth-chain is responding to the personality ray of the Earth, then the three applies. When the response is to the Fifth Creative Hierarchy (under the regime of the second ray), then the five applies.

315. Khi Dãy Địa Cầu đáp ứng với cung phàm ngã của Địa Cầu, thì số ba áp dụng. Khi sự đáp ứng là với Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm (dưới chế độ của cung hai), thì số năm áp dụng.

316. In any case the numbers three and five given by the Tibetan in relation to the Earth-chain or Earth-scheme are challenging and there is no immediate resolution.

316. Dù sao thì các con số ba và năm do Chân sư Tây Tạng đưa ra liên hệ với Dãy Địa Cầu hay Hệ Địa Cầu đều gây thách thức và chưa có lời giải tức thì.

In the sixth chain of each scheme, this sixth law and the sixth Ray have a very important significance, whilst the seventh chain of each scheme is always synthetic—Love and Activity in a perfect balance.

Trong dãy thứ sáu của mỗi hệ, định luật thứ sáu và Cung sáu có một ý nghĩa rất quan trọng, trong khi dãy thứ bảy của mỗi hệ luôn mang tính tổng hợp—Tình thương và Hoạt động ở thế quân bình hoàn hảo.

317. It seems clear that the chains exist simultaneously. The sixth chain will be correlated with the sixth principle, the buddhic principle, which is synthetic, but not completely so.

317. Dường như rõ ràng rằng các dãy hiện hữu đồng thời. Dãy thứ sáu sẽ tương ứng với nguyên khí thứ sáu, nguyên khí Bồ đề, vốn mang tính tổng hợp, nhưng chưa hoàn toàn.

318. The sixth chain of our scheme is the Mars-chain. We can see how Mars might be related to the “Law of Love” and the sixth ray. Mars is not, however, related to the higher form of buddhic love.

318. Dãy thứ sáu của hệ chúng ta là Dãy Hỏa Tinh. Chúng ta có thể thấy Hỏa Tinh liên hệ thế nào với “Định luật Tình thương” và cung sáu. Tuy nhiên Hỏa Tinh không liên hệ với hình thái cao hơn của tình thương Bồ đề.

319. The seventh chain synthesizes the hard and soft line rays. We are speaking of developments within this second solar system. How it will be in future solar systems we do not know.

319. Dãy thứ bảy tổng hợp các cung đường cứng và mềm. Chúng ta đang nói về các khai triển trong hệ mặt trời thứ hai này. Trong các hệ tương lai sẽ ra sao thì chúng ta không biết.

The same effect can be demonstrated in the sixth Round.  In the sixth Round of the present chain of the Earth scheme, the sixth law will demonstrate with great clarity and force, as love shown in brotherhood, love translated or transmuted from the astral to the buddhic.

Hiệu quả tương tự có thể được biểu lộ trong Vòng thứ sáu. Trong Vòng thứ sáu của dãy hiện tại thuộc Hệ Địa Cầu, định luật thứ sáu sẽ biểu hiện với sự rõ ràng và mãnh lực lớn, như tình thương được biểu hiện trong tình huynh đệ, tình thương được chuyển dịch hay chuyển hoá từ cõi cảm dục lên cõi Bồ đề.

320. Here again we see the relationship between Venus, the sixth ray, the sixth round and the demonstration of brotherhood. There can be no demonstration of brotherhood unless the buddhic energy expresses; it cannot be demonstrated through the unredeemed astral vehicle.

320. Một lần nữa, chúng ta thấy mối liên hệ giữa Kim Tinh, cung sáu, vòng thứ sáu và sự biểu hiện của tình huynh đệ. Không thể có sự biểu hiện tình huynh đệ trừ khi năng lượng Bồ đề được biểu hiện; nó không thể được biểu hiện thông qua hiện thể cảm dục chưa được cứu chuộc.

321. We must view the six from three ‘directions’ for given its high destiny, it cannot be entirely astral. We view it:

321. Chúng ta phải nhìn con số sáu từ ba ‘phương’ vì với định mệnh cao cả của nó, nó không thể hoàn toàn là cảm dục. Chúng ta nhìn nó:

a. As it demonstrates in relation to the astral plane (the sixth from ‘above’)( and the astral body

a. Khi nó biểu lộ liên quan tới cõi cảm dục (cõi thứ sáu từ ‘trên xuống’) và thể cảm dục

b. As it demonstrates in relation to the monadic plane (the sixth from ‘bellow’) and the monadic vehicle.

b. Khi nó biểu lộ liên quan tới cõi chân thần (cõi thứ sáu từ ‘dưới lên’) và vận cụ chân thần.

c. As it demonstrates in relation to the buddhic plane upon which the sixth principle is found in expression.

c. Khi nó biểu lộ liên quan tới cõi Bồ đề, nơi nguyên khí thứ sáu được biểu hiện.

So in the sixth rootrace and the sixth subrace a similar analogy will be seen.  Out of the shattered form of the fifth subrace of the fifth root race, built up under the fifth Ray of Concrete Knowledge, with the aid of the fifth Law of Fixation, will emerge the sixth subrace of brotherly love—love shown in the realisation of the one life latent in each Son of God.

Vì vậy, trong giống dân gốc thứ sáu và giống dân phụ thứ sáu một tương đồng tương tự sẽ được thấy. Từ hình tướng tan vỡ của giống dân phụ thứ năm của Giống dân gốc thứ năm , được xây dựng dưới Cung năm của Tri thức Cụ thể, với sự trợ giúp của Định luật năm của Định Trụ, sẽ xuất hiện giống dân phụ thứ sáu của tình huynh đệ—tình thương được biểu hiện trong sự nhận ra một Sự sống duy nhất tiềm ẩn trong mỗi Con của Thượng đế.

322. This is important—even the sixth subrace is to be a race of brotherly love. May it be that the last decanate of the Age of Aquarius will see the flourishing of this sixth subrace?

322. Điều này quan trọng—ngay cả giống dân phụ thứ sáu cũng sẽ là một giống dân của tình huynh đệ. Có thể chăng phần thập độ cuối của Thời Đại Bảo Bình sẽ chứng kiến sự hưng thịnh của giống dân phụ thứ sáu?

323. Of course, the duration of a subrace is a much longer period than simply the few hundred years required to pass through the last decanate of a sign during a precessional age.

323. Dĩ nhiên, thời lượng của một giống dân phụ dài hơn rất nhiều so với chỉ vài trăm năm cần để đi qua thập độ cuối của một dấu hiệu trong một thời đại tiến dần.

324. We have gathered quite a few sixes together and can do the same with each of the other six numbers. Some examples of sixes are:

324. Chúng ta đã tập hợp khá nhiều số sáu lại và có thể làm điều tương tự với mỗi trong sáu con số còn lại. Một vài ví dụ về số sáu là:

a. The sixth systemic law

a. Định luật hệ thống thứ sáu

b. The sixth plane from ‘above’

b. Cõi thứ sáu từ ‘trên xuống’

c. The sixth place from ‘below’

c. Vị trí thứ sáu từ ‘dưới lên’

d. The sixth scheme

d. Hệ thứ sáu

e. The sixth scheme round

e. Vòng hệ thứ sáu

f. The sixth chain

f. Dãy thứ sáu

g. The sixth chain round

g. Vòng dãy thứ sáu

h. The sixth globe

h. Bầu thứ sáu

i. The sixth root race on our globe

i. Giống dân gốc thứ sáu trên bầu của chúng ta

j. The sixth subrace of the fifth root race on our globe

j. Giống dân phụ thứ sáu của giống dân gốc thứ năm trên bầu của chúng ta

k. The sixth branch-races of the fifth and sixth subraces of the fifth root race on our globe

k. Các chi chủng thứ sáu của giống dân phụ thứ năm và thứ sáu của giống dân gốc thứ năm trên bầu của chúng ta

l. Etc.

l. V.v.

325. One thing stands out and will significant for our historical period: the fifth subrace of the fifth root race will be shattered as the sixth subrace of fifth root race emerges. Are we even now at this time of shattering?

325. Một điều nổi bật và sẽ có ý nghĩa cho thời kỳ lịch sử của chúng ta: giống dân phụ thứ năm của giống dân gốc thứ năm sẽ bị tan vỡ khi giống dân phụ thứ sáu của giống dân gốc thứ năm xuất hiện. Phải chăng ngay bây giờ chúng ta đang ở vào thời điểm tan vỡ đó?

7. The Law of Sacrifice and Death.  This law links itself to the third law, that of Disintegration following the connection that always exists between the atmic and the physical plane.

7. Định luật Hy sinh và Cái chết. Định luật này liên kết với định luật thứ ba, tức Định luật Phân rã, theo sau sự liên hệ vốn luôn tồn tại giữa cõi atma và cõi hồng trần.

326. The atmic is the most material of the first three systemic planes and, hence, its connection with the most material of the seven systemic planes—the etheric-physical plane.

326. Cõi atma là cõi vật chất nhất trong ba cõi hệ thống đầu và, do đó, có liên hệ với cõi vật chất nhất trong bảy cõi hệ thống—cõi dĩ thái-thể xác.

The Law of Disintegration controls the fivefold destruction of forms in the five lower worlds, and the Law of Death controls similarly in the three worlds.

Định luật Phân rã cai quản sự hủy hoại ngũ phân của các hình tướng trong năm thế giới thấp, và Định luật Cái chết tương tự cai quản trong ba cõi giới.

327. The “Law of Disintegration” rules the death process on the atmic plane and on all the four planes which the atmic plane surmounts.

327. “Định luật Phân rã” chi phối tiến trình tử vong trên cõi atma và trên tất cả bốn cõi mà cõi atma ở bên trên.

328. The “Law of Sacrifice and Death” (here called simply the “Law of Death”), although correlated with the lowest or seven systemic plane, seems to pertain to the lower two and a half systemic planes.

328. “Định luật Hy sinh và Cái chết” (ở đây chỉ gọi đơn giản là “Định luật Cái chết”), mặc dù tương ứng với cõi thấp nhất hay cõi thứ bảy của hệ thống, dường như thuộc về hai cõi rưỡi thấp của hệ thống.

329. We must ask: “Is each destruction of forms in each of the lower five lower worlds fivefold process?” “Or is the term ‘fivefold’ used because there are five types of forms to be destroyed—one for each of the five planes from the atmic to the systemic etheric-physical?”

329. Chúng ta phải hỏi: “Mỗi sự hủy hoại các hình tướng trong mỗi của năm thế giới thấp có phải là một tiến trình ngũ phân chăng?” “Hay thuật ngữ ‘ngũ phân’ được dùng vì có năm loại hình tướng cần bị phá huỷ—mỗi loại cho một trong năm cõi từ cõi atma đến cõi dĩ thái-thể xác hệ thống?”

330. Certain forms found in the five lower worlds can be understood as fivefold and, when destruction comes, all five aspects of such forms would be destroyed. The causal body is one form which can be interpreted as fivefold, depending on the perspective.

330. Những hình tướng nhất định trong năm thế giới thấp có thể được hiểu là ngũ phân và, khi sự hủy diệt đến, cả năm phương diện của các hình tướng như thế sẽ bị tiêu hủy. Thể nguyên nhân là một hình tướng có thể được diễn giải như ngũ phân, tuỳ theo phối cảnh.

331. The fivefold five-pointed star may be considered the symbol of forms which are found within the Brahmic worlds—from the atmic plane to the physical.

331. Ngôi sao năm cánh ngũ phân có thể được xem là biểu tượng của các hình tướng nằm trong các thế giới Brahma—từ cõi atma đến cõi hồng trần.

It is subsidiary to the third law.  The Law of Sacrifice is the Law of Death in the subtle bodies, whilst what we call death is the analogous thing in the physical body.

Nó là thứ yếu so với định luật thứ ba. Định luật Hy sinh là Định luật Cái chết trong các thể vi tế, trong khi cái mà chúng ta gọi là chết là điều tương ứng trong thể xác.

332. This is an extremely illuminating statement. This seventh law with which we are concerned has two nouns associated with it (“sacrifice” and “death”) whereas the other laws have only one—vibration, cohesion, disintegration, magnetic control, fixation and love.

332. Đây là một mệnh đề cực kỳ soi sáng. Định luật thứ bảy mà chúng ta đang xét có hai danh từ gắn với nó (“hy sinh” và “cái chết”) trong khi các định luật khác chỉ có một—rung động, kết dính, phân rã, kiểm soát từ tính, định trụ và tình thương.

333. Death and sacrifice are to be considered synonymous terms. The term “death” has peculiar relation to the outer physical plane. Sacrifice involves the psychology of relinquishment and naturally pertains to the subtle bodies as the indweller learns to detach from them.

333. Cái chết và hy sinh cần được xem như các thuật ngữ đồng nghĩa. Thuật ngữ “cái chết” có liên hệ đặc thù với cõi hồng trần bên ngoài. Hy sinh bao hàm tâm lý của sự xả ly và tự nhiên thuộc về các thể vi tế khi người cư ngụ học cách tách rời khỏi chúng.

This law governs the gradual disintegration of concrete forms and their sacrifice to the evolving life, and is closely linked in its manifestation with the seventh Ray.

Định luật này cai quản sự phân rã dần dần của các hình tướng cụ thể và sự hy sinh của chúng cho sự sống đang tiến hoá, và trong biểu hiện của mình nó liên hệ mật thiết với Cung bảy.

334. It would appear that the concrete forms which are disintegrated and sacrificed belong to the three lower worlds. The lunar life must be at the disposal of the inner, evolving solar life—the inner consciousness/being.

334. Có vẻ như các hình tướng cụ thể bị phân rã và hy sinh thuộc về ba cõi thấp. Sự sống thái âm phải được đặt dưới sự sử dụng của sự sống thái dương bên trong đang tiến hoá—tức tâm thức/bản thể nội tại.

335. From one perspective, the seventh ray rules all that is ‘outer’ and ‘lower’; it rules especially the form and all formulated relationships which must be sacrificed.

335. Từ một phối cảnh, Cung bảy cai quản mọi cái ‘bên ngoài’ và ‘thấp’; đặc biệt nó cai quản hình tướng và mọi tương quan có công thức vốn phải được hy sinh.

This Ray is the one that largely controls, that manipulates, that geometrises and that holds sway over the form side, governing the elemental forces of nature.

Cung này là cung phần lớn kiểm soát, thao tác, kiến tạo hình học và nắm quyền trên mặt hình tướng, cai quản các lực hành khí của tự nhiên.

336. Let us tabulate the manner in which the seventh ray functions:

336. Chúng ta hãy liệt kê cách thức cung bảy vận hành:

a. It controls the form side

a. Nó kiểm soát mặt hình tướng

b. It manipulates the form side

b. Nó thao tác mặt hình tướng

c. It geometrizes the form side

c. Nó kiến trúc hóa-hình học mặt hình tướng

d. It holds sway over the form side

d. Nó nắm quyền trên mặt hình tướng

e. In general, it governs the elemental forces of nature.

e. Nói chung, nó cai quản các lực hành khí của tự nhiên.

337. The elementals ‘have no wings’. The seventh ray rules both the lower lives who have no wings and those higher devas who do. Saturn may be associated with the elementals and Uranus with the winged devas.

337. Các hành khí ‘không có cánh’. Cung bảy cai quản cả những sự sống thấp không có cánh lẫn những vị deva cao hơn có cánh. Thổ Tinh có thể được liên kết với các hành khí và Thiên Vương Tinh với các deva có cánh.

338. In its aspect of control the seventh ray is much like the first. In its power to manipulate it is like the third ray (and to a degree) the fifth ray. In its ability to geometrize it is similar to the second ray.

338. Trong phương diện kiểm soát của mình, cung bảy rất giống cung một. Trong sức mạnh để thao tác, nó giống cung ba (và ở một mức độ nào đó) cung năm. Trong khả năng kiến tạo hình học, nó tương tự cung hai.

339. From one perspective, the seventh ray is the synthesis of all the rays as they work towards manifestation

339. Từ một phối cảnh, cung bảy là sự tổng hợp của mọi cung khi chúng hướng tới sự hiện lộ

The physical plane is the most concrete exemplification of the form side;

Cõi hồng trần là biểu hiện cụ thể nhất của mặt hình tướng;

340. Forms, however, exist on subtler planes as well. Physical plane forms are simply the most concrete exemplifications of form.

340. Tuy nhiên, các hình tướng hiện hữu cả trên những cõi vi tế hơn. Các hình tướng cõi hồng trần chỉ là những biểu hiện cụ thể nhất của hình tướng.

it holds the divine life imprisoned or [597] enmeshed at its densest point, and it works at this time in line with the seventh law.

nó giữ Sự sống thiêng liêng trong ngục tù hoặc [597] bị vướng mắc tại điểm đậm đặc nhất của nó, và vào lúc này nó vận hành phù hợp với định luật thứ bảy.

341. Physical plane processes contribute to the death and sacrifice of the inner life-consciousness, enveloping it.

341. Các tiến trình ở cõi hồng trần góp phần vào cái chết và sự hy sinh của sự sống-tâm thức bên trong bằng cách bao bọc nó.

342. In one way the seventh ray is a ‘ray of imprisonment’. In another way, through alchemical processes, it is a ray of ‘transmutative release’.

342. Theo một nghĩa, cung bảy là ‘cung của giam hãm’. Ở nghĩa khác, qua các tiến trình luyện kim, nó là cung của ‘phóng thích chuyển hoá’.

343. The word “enmeshed” presents an important image of ‘energy entanglement’. We are bound to the physical plane by many threads of energy and force.

343. Từ “vướng mắc” đưa ra một hình ảnh quan trọng về ‘sự rối kết năng lượng’. Chúng ta bị ràng buộc với cõi hồng trần bởi nhiều sợi dây năng lượng và lực.

344. Regarding ‘enmeshment’ the following is significant:

344. Về ‘sự rối kết’, điều sau đây là có ý nghĩa:

There is no such thing as concretion in reality; there is only force of different kinds, and the effect produced on con­scious­ness by their interplay TCF 528-529)

“Trong thực tại không có cái gọi là sự kết đặc; chỉ có các loại mãnh lực khác nhau, và hiệu ứng do sự tương tác của chúng tạo ra đối với tâm thức” (TCF 528-529)

In a mysterious way this law is the reverse side of the first, or the Law of Vibration.  It is Vulcan and Neptune in opposition, which is as yet an almost incomprehensible thing for us.

Một cách huyền bí, định luật này là mặt đối nghịch của định luật thứ nhất, tức Định luật Rung động. Đó là Vulcan và Hải Vương Tinh ở thế đối xứng, điều mà đối với chúng ta vẫn còn gần như bất khả thấu hiểu.

345. This is one of the more occult references in the book. Vulcan is clearly the planet associated with the “Law of Vibration”. We do see how the Tibetan constantly invokes astrology to explain various ideas and laws presented in TCF.

345. Đây là một trong những ám chỉ huyền bí hơn trong sách. Vulcan rõ ràng là hành tinh liên kết với “Định luật Rung động”. Chúng ta thấy Chân sư thường xuyên vận dụng chiêm tinh để giải minh các ý tưởng và định luật trong TCF.

346. It is, however, difficult to associate Neptune with the physical plane, though its associations with death and sacrifice are clear. Death signals an escape from a confining environment; sacrifice signals selfless renunciation. Both escape and renunciation are ruled by Neptune.

346. Tuy nhiên, thật khó liên hệ Hải Vương Tinh với cõi hồng trần, dù các liên hệ của nó với cái chết và hy sinh là rõ ràng. Cái chết báo hiệu sự thoát ra khỏi môi trường giam cầm; hy sinh báo hiệu sự xả kỷ vô ngã. Cả sự thoát ly lẫn xả ly đều do Hải Vương Tinh cai quản.

347. Interestingly, the fifth of the liberated Creative Hierarchies (which has a relationship to the lowest level of the cosmic astral plane—its intended field of expression—is ruled by Neptune. Cancer is closely associated with the seventh ray, and this Cancerian Hierarchy will form the seventh ray foundation of the cosmic astral plane.

347. Thú vị là, Huyền Giai Sáng Tạo được giải thoát thứ năm (vốn có liên hệ với cảnh giới thấp nhất của cõi cảm dục vũ trụ—lĩnh vực biểu lộ dự định của nó) được Hải Vương Tinh cai quản. Cự Giải liên kết chặt chẽ với cung bảy, và Huyền Giai Cự Giải này sẽ tạo nền cung bảy cho cõi cảm dục vũ trụ.

348. We can consider the relationship as the relinquishment of confining form (Neptune) in order to more fully respond to the measure and frequency required by the “Law of Vibration”.

348. Chúng ta có thể xem mối liên hệ như sự xả bỏ hình tướng giam hãm (Hải Vương Tinh) để đáp ứng đầy đủ hơn với nhịp điệu và tần số được yêu cầu bởi “Định luật Rung động”.

349. Vulcan, in one respect, is a planet of density and concretion; Neptune a planet of refined ethereality. There is a natural qualitative opposition between the two of them.

349. Vulcan, ở một phương diện, là hành tinh của sự đậm đặc và kết đặc; Hải Vương Tinh là hành tinh của tính linh vi diệu tinh tế. Có một đối lập phẩm tính tự nhiên giữa hai vị này.

350. From another perspective, Vulcan is close to the reality of the Solar Logos and the outer expression of Neptune represents illusion.

350. Từ phối cảnh khác, Vulcan gần với thực tại của Thái dương Thượng đế còn biểu hiện ngoại tại của Hải Vương Tinh đại diện cho ảo tưởng.

351. These two planets, however, have something quite in common—their relationship to the Heart of the Sun. Neptune has a second ray Monad and Vulcan is hypothesized as expressing a fourth ray Monad, with a still more essential second ray Monad. The major monadic rays of all B/beings must be either one, two or three.

351. Tuy nhiên, hai hành tinh này có điều khá chung—mối liên hệ của chúng với Tim của Mặt Trời. Hải Vương Tinh có chân thần cung hai và Vulcan được giả thuyết biểu hiện một chân thần cung bốn, với một chân thần cốt tủy cung hai hơn nữa. Các cung chân thần chính của mọi Sự Sống đều phải là một, hai hoặc ba.

The densest form of expression on the physical plane is after all but a form of synthesis; just as the rarest form of expression on the highest plane is but unity or synthesis of a finer kind.

Hình thức biểu hiện đậm đặc nhất trên cõi hồng trần rốt cuộc cũng chỉ là một hình thức của tổng hợp; cũng như hình thức biểu hiện tinh tế nhất trên cõi cao nhất chỉ là hợp nhất hay tổng hợp ở dạng tinh tế hơn.

352. With respect to synthesis on the highest plane, we might call it a ‘disassociated’ unity or synthesis of a fiery kind, for we are dealing there with the “Sea of Fire”.

352. Đối với tổng hợp trên cõi cao nhất, chúng ta có thể gọi đó là hợp nhất ‘phi liên kết’ hay tổng hợp hỏa , vì ở đó chúng ta đang xử lý với “Biển Lửa”.

353. In every synthesis, obstructive separations which prevent all contained units from fusion are eliminated.

353. Trong mọi tổng hợp, các phân cách cản trở vốn ngăn mọi đơn vị được dung hợp đều bị loại bỏ.

354. Neptune functions in the relationship between desire and form. It is the magnetic property of desire which holds forms together. Thus, desire substands density.

354. Hải Vương Tinh hoạt động trong mối liên hệ giữa dục vọng và hình tướng. Chính tính chất từ tính của dục vọng giữ các hình tướng kết lại với nhau. Do đó, dục vọng làm nền cho tính đậm đặc.

355. We must remember that the number six has often been associated with the form. What seven provides is almost the automatic result of the magnetic holding power of the six.

355. Chúng ta phải nhớ rằng con số sáu thường được liên hệ với hình tướng. Cái mà bảy cung cấp gần như là kết quả tự động của sức giữ từ tính của số sáu.

One is the synthesis of matter, and the other the synthesis of life.

Một bên là tổng hợp của chất liệu, và bên kia là tổng hợp của sự sống.

356. Thus, are the seven and the one related. The Word of Power for the seventh ray is apt in this context: “The Highest and the Lowest Meet”.

356. Như thế, bảy và một liên hệ nhau. Quyền năng từ cho cung bảy rất thích hợp trong ngữ cảnh này: “Cao Nhất và Thấp Nhất Gặp Nhau”.

This law governs the seventh chain in each scheme;

Định luật này cai quản dãy thứ bảy trong mỗi hệ;

357. Once the ‘turn’ is made (of which the fourth chain is the pivotal point), the higher the chain number, the more refined should be its expression.

357. Một khi ‘bước ngoặt’ đã được thực hiện (mà dãy thứ tư là điểm then chốt), dãy có số càng cao thì biểu hiện càng tinh luyện.

358. When the seventh chain of the scheme is fully developed by the time has come for the death and sacrifice of the lower forms.

358. Khi dãy thứ bảy của hệ được phát triển đầy đủ thì đã đến lúc cái chết và sự hy sinh của các hình tướng thấp hơn.

each chain having achieved the fullest expression possible in the scheme, comes under the Law of Death, and obscuration and disintegration supervenes.

mỗi dãy, sau khi đạt biểu hiện đầy đủ nhất có thể trong hệ, sẽ chịu sự chi phối của Định luật Cái chết, và sự ám muội cùng phân rã tiếp diễn.

359. We see that this seventh law applies not only to the seventh chain, but to the seventh phase of development in any chain, after which the Law of Death supervenes.

359. Chúng ta thấy rằng định luật thứ bảy này không chỉ áp dụng cho dãy thứ bảy, mà cho giai đoạn thứ bảy của phát triển trong bất kỳ dãy nào, sau đó Định luật Cái chết tiếp quản.

360. Under the Law of Economy it is not permitted to perpetuate that which has achieved its full development. If not further progress is possible through a form, Nature degrees the death of that form.

360. Theo Định luật Tiết Kiệm, không được phép kéo dài cái đã đạt phát triển viên mãn. Nếu không còn tiến bộ nào có thể qua một hình tướng, Tự Nhiên ấn định cái chết cho hình tướng đó.

361. We can understand that although a particular law may apply most to a particular scheme or chain, all laws apply in some measure to all schemes and chains.

361. Chúng ta có thể hiểu rằng mặc dù một định luật nào đó có thể áp dụng nhiều nhất cho một hệ hay dãy đặc thù, thì mọi định luật đều áp dụng ở mức độ nào đó cho tất cả các hệ và dãy.

In a cosmic sense and analogy, it is the law that governs the coming in of pralaya at the end of a system.

Theo nghĩa và tương đồng vũ trụ, đó là định luật cai quản sự khởi phát của Giai kỳ qui nguyên vào cuối một hệ thống.

362. The final form is dies and is, in a sense, sacrificed to ensure the further development of the life which expresses through that form.

362. Hình tướng cuối cùng chết đi và, theo một nghĩa nào đó, được hy sinh để đảm bảo sự phát triển tiếp theo của sự sống biểu hiện qua hình tướng ấy.

363. The seventh phrase represents the end leading to pralaya, and Neptune (a ruler in a special sense, of Pisces) is the planet most associated with pralaya. Thus are the seven, the seventh law and Neptune associated.

363. Giai đoạn thứ bảy đại diện cho đoạn cuối dẫn tới Giai kỳ qui nguyên, và Hải Vương Tinh (một chủ tinh trong nghĩa đặc biệt của Song Ngư) là hành tinh liên hợp nhất với Giai kỳ qui nguyên. Như vậy bảy, định luật thứ bảy và Hải Vương Tinh được kết nối.

It is the law that shatters the cross of the cosmic Christ, and places the form of the Christ within the tomb for a period of time.

Đó là định luật đập vỡ thập giá của Đấng Christ vũ trụ, và đặt hình tướng của Đấng Christ vào trong mồ trong một khoảng thời gian.

364. The “cross” is the form. The life bound to the cross must be liberated and this “Law of Sacrifice and Death” sees to that liberation.

364. “Thập giá” là hình tướng. Sự sống bị đóng đinh trên thập giá phải được giải phóng và “Định luật Hy sinh và Cái chết” này đảm bảo sự giải phóng đó.

365. When the elements of the form return unto the “reservoir of life” the time period of the tomb is suggested.

365. Khi các yếu tố của hình tướng trở về “hồ chứa sự sống” thì khoảng thời gian trong mồ được gợi ý.

366. The time of resurrection will come and the constituents of form will be elevated under the galvanic impetus of the indwelling life.

366. Thời kỳ phục sinh sẽ đến và các thành tố của hình tướng sẽ được nâng lên dưới xung lực kích điện của sự sống nội tại.

367. In a strange reversal, Vulcan associated with the first ray and the highest law suggests the act of shattering, and Neptune, associated with the seventh plane and seventh law suggests the upward-rising process of resurrection. Neptune is very closely connected with attraction upwards.

367. Trong một sự đảo chiều lạ lùng, Vulcan liên hệ với cung một và định luật cao nhất gợi ý hành động đập vỡ , còn Hải Vương Tinh, liên hệ với cõi thứ bảy và định luật thứ bảy, gợi ý tiến trình phục sinh hướng thượng. Hải Vương Tinh rất liên hệ mật thiết với sự hấp dẫn hướng thượng.

The Principle of Mutation.  In concluding the above informa­tion about the laws, it is needful that we all recognise the extreme danger of dogmatising about these matters, and the risk of laying down hard and fast rules.  Much must remain unexplained and untouched, and much also will serve to raise only questions in our minds.  Comprehension is as yet impossible.

Nguyên tắc Biến dịch. Khi kết thúc phần thông tin trên về các định luật, điều cần thiết là tất cả chúng ta phải nhận ra sự nguy hiểm cùng cực của việc giáo điều hoá các vấn đề này, và rủi ro khi đặt ra những quy tắc cứng và bất biến. Nhiều điều phải còn chưa được giải thích và đụng tới, và cũng nhiều điều chỉ làm dấy lên những câu hỏi trong tâm trí chúng ta. Sự thấu triệt hiện vẫn chưa thể.

368. DK is sounding a note of caution to those who would reduce all that has been said into concrete mental formulations. In such a case the mind would be the “slayer of the real”.

368. Chân sư DK đang gióng lên một âm điệu cảnh báo cho những ai muốn quy gọn mọi điều đã nói vào những khuôn thức trí cụ thể. Trong trường hợp như vậy, thể trí sẽ là “kẻ giết chết Thực Tại”.

369. Fluidity of perspective depending upon changing context is ever required.

369. Tính linh động của phối cảnh tùy theo bối cảnh đổi thay luôn được đòi hỏi.

370. DK is but indicating a process, concerning which, much, very much, has yet to be learned by the average student of occultism.

370. Chân sư DK chỉ mới gợi chỉ một tiến trình mà về nó, còn rất, rất nhiều điều phải học đối với đạo sinh huyền bí học trung bình.

371. Great patience is required when studying these matters—the patience not just of a life-time but of many life-times.

371. Cần có đại nhẫn nại khi khảo cứu những vấn đề này—sự nhẫn nại không chỉ của một đời mà của nhiều đời.

Until fourth-dimensional sight is ours, it will scarcely be possible for us to do more than hint at, and get a passing vision of, the complexity and the interweaving in the system.

Cho đến khi thị kiến bốn chiều là của chúng ta, chúng ta hầu như chỉ có thể ám chỉ tới và bắt gặp thoáng qua về tính phức hợp và sự đan xen trong hệ thống.

372. The great principles of occultism are simple. The working out of these principles engages us in extreme complexity and intricacy unfathomable to the human mind.

372. Những nguyên lý vĩ đại của huyền bí học thì đơn giản. Sự triển khai của các nguyên lý này lôi cuốn chúng ta vào những phức hợp và rối rắm đến mức thể trí con người không dò thấu.

373. If we can catch but a glimpse of that which DK hints, it is at least something.

373. Nếu chúng ta nắm bắt được dù chỉ một thoáng điều mà Chân sư DK ám chỉ, thì đó đã là điều đáng kể.

374. This is why it is important to identify the ‘energy threads’ which are used in the process of ‘Divine Weaving’. If we can identify the threads from the first, we can later see how they are woven into complex ‘fabrics-of-creation’.

374. Đây là lý do tại sao quan trọng việc nhận diện các ‘sợi năng lượng’ được dùng trong tiến trình ‘Dệt Thiêng’. Nếu chúng ta có thể nhận diện các sợi ngay từ đầu, chúng ta có thể về sau thấy được cách chúng được dệt thành những ‘tấm vải-sáng tạo’ phức tạp.

375. Fourth dimensional sight is connected with buddhi; the energy of the intuition will clarify much that the mind finds inextricably complex.

375. Thị kiến bốn chiều liên kết với Bồ đề; năng lượng của trực giác sẽ làm sáng tỏ nhiều điều mà thể trí thấy rối rắm không gỡ nổi.

It is not easy for us to do more than grip as a mental concept the fact that the rays, schemes, planets, chains, rounds, races and laws form a unit;

Không dễ cho chúng ta làm gì hơn ngoài việc nắm như một khái niệm trí tuệ rằng các cung, các hệ, các hành tinh, các dãy, các vòng, các giống dân và các định luật cấu thành một thể nhất quán;

376. The mind wishes to distinguish these factors, one from another. In fact the lesser of these are nested in the greater, and a great Unity pervades them all.

376. Thể trí muốn phân biệt các yếu tố này, yếu tố kia. Thực ra, cái nhỏ hơn được lồng trong cái lớn hơn, và một Đại Nhất Thể thấm nhuần tất cả.

377. All the factors presented are interwoven. To the degree that we can, using Mercury, move from one to the other with ease, to that degree we can behold their interwoven relationship.

377. Mọi yếu tố được trình bày đều đan xen. Ở mức độ mà chúng ta có thể, nhờ Sao Thủy, di chuyển từ yếu tố này sang yếu tố khác một cách nhẹ nhàng, ở mức độ đó chúng ta có thể nhìn thấy mối quan hệ đan xen của chúng.

378. A completely different state of mind characterized by “pure reason” is required to fathom their intricate interdependency.

378. Một trạng thái tâm trí hoàn toàn khác, được đặc trưng bởi “lý trí bao gồm”, là cần thiết để thấu suốt sự tương thuộc phức tạp của chúng.

379. We need the capacities offered by Mercury—whether as the planet of reasoning or the planet of “pure reason”.

379. Chúng ta cần các năng lực mà Sao Thủy hiến tặng—dù như hành tinh của lý tính hay hành tinh của “lý trí bao gồm”.

seen from the angle of human vision the confusion seems unimaginable, and the key of its solution to be so hidden as to be useless;

nhìn từ góc độ thị kiến nhân loại, sự rối loạn dường như khó hình dung, và chìa khóa giải của nó dường như ẩn kín đến mức vô dụng;

380. Thus, very great patience is required of us as we pull upon the threads of life seeking to disentangle the confusion of concepts which probably characterizes the contents of our mind.

380. Do đó, đại nhẫn nại được đòi hỏi nơi chúng ta khi chúng ta kéo những sợi dây sự sống, tìm cách gỡ rối mớ hỗn độn các khái niệm vốn có lẽ đặc trưng cho nội dung của tâm trí ta.

381. We are obliged to change our human angle of vision into something much higher—the angle of vision of (minimally) the soul.

381. Chúng ta buộc phải đổi góc nhìn nhân loại thành điều gì đó cao hơn nhiều—tối thiểu là góc nhìn của linh hồn.

yet, seen from the angle of logoic sight, [598] the whole moves in unison, and is geometrically accurate.

Thế nhưng, nhìn từ góc độ thị kiến logoic, [598] toàn thể vận hành đồng bộ và chính xác về hình học.

382. One way of defining “logoic sight” is the perspective seen from the logoic plane. We are speaking (at least in part) of the perspective of the seventh degree initiate, for whom the logoic plane is ‘home’.

382. Một cách định nghĩa “thị kiến logoic” là phối cảnh thấy từ cõi logoic. Chúng ta đang nói (ít nhất một phần) về phối cảnh của điểm đạo đồ bậc bảy, đối với người ấy cõi logoic là ‘nhà’.

383. If we elevate our perspective, the geometrical movement foundational to the interplay of rays, laws, planes, and aspects of our systemic and planetary constitution will gradually clarify.

383. Nếu chúng ta nâng phối cảnh của mình lên, sự vận động hình học nền tảng cho sự tương tác của các cung, các định luật, các cõi, và các phương diện trong cấu trúc hệ thống và hành tinh của chúng ta sẽ dần sáng rõ.

In order to give some idea of the complexity of the arrange­ment, I would like here to point out that the Rays themselves circulate, the Law of Karma controlling the interweaving.

Để gợi một ý niệm nào đó về sự phức hợp của an bài, Tôi muốn chỉ ra rằng chính các Cung cũng luân lưu, Định luật Nghiệp quả kiểm soát sự đan xen.

384. DK is hinting at the idea of ray cycles and how these cycles are determined by the Intermediary Law of Karma.

384. Chân sư DK ám chỉ đến ý niệm về các chu kỳ cung và cách Định luật Trung gian là Nghiệp quả kiểm soát sự đan xen đó.

385. Since, for us, this Law of Karma has a Sirian origin, He seems to be telling us that Sirius controls the circulation of the rays.

385. Vì, đối với chúng ta, Định luật Nghiệp quả này có nguồn Sirius, dường như Ngài đang nói rằng Sirius kiểm soát sự lưu thông của các Cung.

386. We remember that the rays rotate from “north to south” and the planes from “east to west”.

386. Chúng ta nhớ rằng các Cung quay từ “bắc xuống nam” và các cõi quay từ “đông sang tây”.

For instance, Ray I may pass around a scheme (if it is the para­mount Ray of the scheme) with its first subray manifesting in a chain, its second in a round, its third in a world period, its fourth in a root race, its fifth in a subrace, and its sixth in a branch race.

Chẳng hạn, Cung một có thể đi vòng quanh một hệ hành tinh (nếu đó là cung tối thượng của hệ hành tinh), với cung phụ thứ nhất của nó biểu hiện trong một Dãy, cung phụ thứ hai trong một cuộc tuần hoàn, cung phụ thứ ba trong một thời kỳ thế giới, cung phụ thứ tư trong một giống dân gốc, cung phụ thứ năm trong một giống dân phụ, và cung phụ thứ sáu trong một giống dân chi.

387. Here is an example of the ordered complexity by means of which a ray may manifest in a scheme.

387. Đây là một ví dụ về tính phức hợp có trật tự, nhờ đó một cung có thể biểu hiện trong một hệ hành tinh.

388. We note that a ray will pass around a scheme—this definitely suggests what we have called a ‘scheme round’.

388. Chúng ta lưu ý rằng một cung sẽ đi vòng quanh một hệ hành tinh—điều này rõ ràng gợi ý điều mà chúng ta gọi là một ‘cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh’.

389. What do we mean by the “paramount ray of the scheme”? May we think of this as the principal ray of the Planetary Logos Who is manifesting through that scheme? This may or may not be His monadic ray. Much will depend upon the point in evolution He has reached. The “paramount ray” of our Planetary Logos is not yet His first ray Monad. At least the first ray is not His most effective ray at this time.

389. Chúng ta muốn nói gì bởi “cung tối thượng của hệ hành tinh”? Chúng ta có thể xem đó như là cung chủ đạo của Hành Tinh Thượng đế Đấng đang biểu hiện qua hệ hành tinh ấy chăng? Điều này có thể là hoặc không phải là cung chân thần của Ngài. Nhiều điều sẽ tùy thuộc vào điểm tiến hoá mà Ngài đã đạt đến. “Cung tối thượng” của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta vẫn chưa phải là Chân thần cung một của Ngài. Ít nhất thì cung một không phải là cung hữu hiệu nhất của Ngài vào lúc này.

390. We see the possibility of an amazing subdivision. It seems that all subrays of the Planetary Logos can be manifesting simultaneously in a given chain, but manifesting in very different ways. When we take into consideration the diversity of chains and the diversity of possible modes of manifestation, we are presented with a picture of unfathomable complexity (at least for us at our particular stage of understanding).

390. Chúng ta thấy khả năng của một sự phân chia kỳ diệu. Dường như mọi cung phụ của Hành Tinh Thượng đế đều có thể đồng thời biểu hiện trong một Dãy nhất định, nhưng biểu hiện theo những cách rất khác nhau. Khi chúng ta xét đến sự đa dạng của các Dãy và sự đa dạng của những chế độ biểu hiện có thể có, trước mắt chúng ta hiện ra một bức tranh về sự phức tạp khó dò (ít nhất là đối với chúng ta ở giai đoạn thấu hiểu đặc thù này).

391. DK does not speak of a seventh sub-ray, and yet we may presume that all rays have seven sub-rays.

391. Chân sư DK không nói về cung phụ thứ bảy, tuy vậy chúng ta có thể suy đoán rằng mọi cung đều có bảy cung phụ.

392. What smaller structure follows a branch-race? Perhaps it is that structure to which the seven subray can apply.

392. Sau một giống dân chi thì có cấu trúc nhỏ hơn nào? Có lẽ đó là cấu trúc mà bảy cung phụ có thể áp dụng.

I give this in illustration, and not as the state­ment of a fact in present manifestation.

Tôi đưa điều này như một sự minh hoạ, chứ không như một phát biểu về một sự kiện trong biểu hiện hiện tại.

393. The illustration that DK presents may or may not be a possible arrangement at some point in the manifestation of a planetary scheme. What we are being told that it is, apparently, not an arrangement which is operative at this present time in manifestation.

393. Minh hoạ mà Chân sư DK đưa ra có thể là, hoặc không phải là, một sự sắp đặt có thể có vào một thời điểm nào đó trong biểu hiện của một hệ hành tinh. Điều đang được nói ra là, rõ ràng, không phải là một sắp đặt đang vận hành trong thời điểm biểu hiện hiện nay.

This gives us some idea of the vastness of the process, and of its wonderful beauty.  It is impossible for us, sweeping through on some one Ray, to visualise or in any way to apprehend this beauty;

Điều này cho chúng ta đôi điều về sự mênh mông của tiến trình, và về vẻ đẹp kỳ diệu của nó. Chúng ta, đang lướt đi trên một cung nào đó, không thể hình dung hay nắm bắt được bằng bất kỳ cách nào vẻ đẹp này;

394. Who is sweeping through on some one ray? Is it we as a planetary manifestation? Or is DK speaking of our individual condition as we sweep through on some soul ray or monadic ray?

394. Ai đang lướt đi trên một cung nào đó? Có phải chúng ta như một biểu hiện hành tinh? Hay Chân sư DK đang nói về tình trạng cá nhân của chúng ta khi chúng ta lướt đi trên một cung linh hồn hay cung chân thần?

395. We realize that our ray identification and conditioning imposes limitation on the scope and depth of our perception.

395. Chúng ta nhận ra rằng sự đồng nhất và điều kiện hoá bởi cung của mình áp đặt giới hạn lên bề rộng và chiều sâu tri nhận của chúng ta.

396. We are simply to apprehend the possibility of an ordered beauty of great intricacy—all factors working together for completeness of expression.

396. Chúng ta chỉ nên nắm bắt khả thể về một vẻ đẹp có trật tự vô cùng tinh xảo—mọi yếu tố cùng phối hợp để đạt sự trọn vẹn của biểu lộ.

yet, to those on higher levels and with a wider range of vision, the gorgeousness of the design is apparent.

tuy nhiên, đối với những ai ở các cõi cao hơn và có tầm nhìn rộng lớn hơn, vẻ huy hoàng của thiết kế là điều hiển nhiên.

397. Gradually, this is what we seek to achieve—a vision of that incredible beauty as seen from higher planes. Step by step, as we correlate the functions of the various energies, we work towards this vision.

397. Dần dần, đó là điều chúng ta tìm cách đạt tới—một thị kiến về vẻ đẹp không thể tin nổi ấy như được thấy từ các cõi cao. Từng bước, khi chúng ta tương liên các chức năng của các loại năng lượng khác nhau, chúng ta tiến về phía thị kiến ấy.

This complexity is for us very much increased because we do not yet understand the principle governing this mutation. 

Sự phức hợp này đối với chúng ta còn tăng lên rất nhiều vì chúng ta vẫn chưa hiểu nguyên tắc chi phối sự biến dịch này.

398. Here we find DK identifying with “us”. Perhaps He, however, understands a great deal more of the “principle governing this mutation” than we do.

398. Ở đây chúng ta thấy Chân sư DK đồng hoá với “chúng ta”. Tuy vậy, có lẽ Ngài hiểu rất nhiều về “nguyên tắc chi phối sự biến dịch” hơn chúng ta.

399. For us, at this time, it is simply important for us to realize that it is an ordering principle. There is no randomness or happenstance in this beautiful process.

399. Đối với chúng ta, vào lúc này, điều quan trọng đơn giản là nhận ra rằng đó là một nguyên tắc sắp đặt . Không có sự ngẫu nhiên hay may rủi trong tiến trình tuyệt mỹ này.

Nor is it possible for even the highest human mind in the three worlds to do more than sense and approximate that principle.

Cũng không thể, ngay cả đối với thể trí nhân loại cao nhất trong ba cõi, làm được gì hơn ngoài việc cảm nhận và xấp xỉ nguyên tắc ấy.

400. Since a Master is still a human being, we may judge that even a Master cannot do more than sense this principle governing mutation.

400. Vì một Chân sư vẫn là một con người, chúng ta có thể xét rằng ngay cả một Chân sư cũng không thể làm gì hơn ngoài việc cảm nhận nguyên tắc chi phối sự biến dịch này.

401. We note that DK speaks not of the “highest human mind” but of the “highest human mind in the three worlds”. This is a significant qualifier and points to the thought that the human mind liberated from the illusions of the three worlds may understand much more of the principle of mutation.

401. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK không nói “thể trí nhân loại cao nhất” mà nói “thể trí nhân loại cao nhất trong ba cõi ”. Đây là một định tính quan trọng và gợi ý rằng thể trí con người đã giải phóng khỏi các ảo tưởng của ba cõi có thể hiểu nhiều hơn về nguyên tắc biến dịch.

By mutation I mean the fact that there is a constant changing and shifting, an endless interweaving and interlocking, and a ceaseless ebb and flow, in the dramatic interplay of the forces that stand for the dual synthesis of Spirit and matter.

Với biến dịch , tôi muốn nói đến thực tế rằng có một sự đổi thay và dịch chuyển liên tục, một sự đan xen và lồng ghép bất tận, và một thuỷ triều lên xuống không ngừng, trong sự tương giao kịch tính của các mãnh lực đại diện cho sự tổng hợp nhị nguyên của Tinh thần và vật chất.

402. So that we do not pass over these words descriptive of mutation in too casual a manner, let us list them:

402. Để chúng ta không lướt nhanh qua những từ mô tả biến dịch này một cách quá hời hợt, hãy liệt kê chúng:

a. Constant changing

a. Đổi thay thường hằng

b. Constant shifting

b. Dịch chuyển thường hằng

c. Endless weaving

c. Đan dệt bất tận

d. Endless interlocking

d. Lồng ghép bất tận

e. Ceaseless ebb and flow

e. Triều lên và triều xuống không ngơi

f. Dramatic interplay of forces

f. Sự tương giao kịch tính của các mãnh lực

403. All of these ‘motions’ pertain to the manner in which Spirit and matter constantly engage.

403. Tất cả những ‘chuyển động’ này thuộc về cách thức mà Tinh thần và vật chất liên tục tương tác.

There is constant rotation in the Rays and planes, in their relative importance from the standpoint of time which is the standpoint most closely associated with us.

Có sự luân chuyển liên tục nơi các cung và các cõi, trong tầm quan trọng tương đối của chúng xét từ quan điểm thời gian—vốn là quan điểm gắn chặt nhất với chúng ta.

404. We recall in an earlier section of text that the rays rotate from north to south and the planes from east to west.

404. Chúng ta nhớ rằng ở phần trước, các cung quay từ bắc xuống nam và các cõi từ đông sang tây.

405. Since we are still very much bound to time-space conceptions, the motion in time/space of rays and planes is still very important to us.

405. Vì chúng ta vẫn còn bị ràng buộc rất nhiều vào khái niệm thời-gian-không-gian, nên chuyển động trong thời-gian/không-gian của các cung và các cõi vẫn còn rất quan trọng đối với chúng ta.

406. Because we are conditioned by time, certain rays and planes will be more important to us at certain times than other rays and planes.

406. Bởi vì chúng ta bị điều kiện hoá bởi thời gian, nên vào những thời điểm nhất định, một số cung và cõi sẽ quan trọng hơn đối với chúng ta so với những cung và cõi khác.

407. From a much higher perspective—a perspective unconditioned by time—particular ray and plane cycles would not carry the same emphasis as they do for the one of limited vision.

407. Từ một viễn kiến cao hơn nhiều—một viễn kiến không bị điều kiện hoá bởi thời gian—những chu kỳ của cung và cõi riêng biệt sẽ không mang cùng mức nhấn mạnh như đối với người có tầm nhìn hạn chế.

But we can rest assured that there is some fundamental principle directing all the activities of the Logos in His system, and by wrestling to discover the basic principle on which our microcosmic lives rest, we may discover aspects of this inherent logoic principle.

Tuy vậy, chúng ta có thể yên tâm rằng có một nguyên tắc căn bản nào đó đang chỉ đạo mọi hoạt động của Thái dương Thượng đế trong hệ của Ngài, và bằng cách gắng công khám phá nguyên tắc nền tảng mà đời sống tiểu thiên địa của chúng ta nương tựa, chúng ta có thể phát hiện những khía cạnh của nguyên tắc logoic vốn hữu tại này.

408. The practical approach is given. If we can discover “the basic principle on which our microcosmic lives rest” we can discover factors fundamental to the expression of our Planetary Logos and even of the greater Logos.

408. Cách tiếp cận thực tiễn đã được nêu. Nếu chúng ta có thể khám phá “nguyên tắc căn bản mà đời sống tiểu thiên địa của chúng ta nương tựa”, chúng ta có thể phát hiện những yếu tố nền tảng cho sự biểu lộ của Hành Tinh Thượng đế chúng ta và thậm chí của vị Thượng đế lớn lao hơn.

409. To the initiate who discovers the key to the changing, shifting, weaving, interlocking, ebb and flow and interplay of energies and forces in his own energy system, something of significance may be disclosed about the same on a much broader scale.

409. Đối với điểm đạo đồ khám phá được chìa khoá của sự đổi thay, dịch chuyển, đan dệt, lồng ghép, thuỷ triều lên xuống và sự tương giao của các năng lượng và mãnh lực trong hệ năng lượng riêng của y, thì điều gì đó có ý nghĩa có thể được hé lộ về cùng những điều ấy trên một bình diện rộng lớn hơn nhiều.

410. Practically, then, we have to study the cycles of our own life and the interplay between our various vehicles. Much remains if we are to fulfil the injunction “know thyself”. This is the proper road to a greater understanding of the macrocosm.

410. Vậy nên, về mặt thực hành, chúng ta phải nghiên cứu các chu kỳ của chính đời sống mình và sự tương tác giữa các vận cụ khác nhau của chúng ta. Còn lại rất nhiều việc phải làm nếu chúng ta muốn thực hiện lời huấn thị “tự tri”. Đây là con đường đúng đắn để đi tới một sự hiểu biết lớn hơn về đại thiên địa.

This opens to our consideration a wide range of vision, and [599] though it emphasises the complexity of the subject, it also demonstrates the divine magnitude of the scheme, with its magnificent intricacies.

Điều này mở ra trước sự xem xét của chúng ta một tầm nhìn rộng lớn, và [599] dù nó nhấn mạnh sự phức tạp của đề tài, nó cũng phô bày tầm vóc thiêng liêng của hệ hành tinh, với những tinh vi tráng lệ của nó.

411. As we contemplate these matters, what emerges in our consciousness:

411. Khi chúng ta chiêm ngưỡng những điều này, điều gì nảy sinh trong tâm thức chúng ta:

a. A wide range of vision

a. Một tầm nhìn rộng lớn

b. The disclosure of a subject of great complexity

b. Sự hé lộ của một đề tài hết sức phức tạp

c. A realization of the “divine magnitude of the scheme”, and by this is not necessarily meant only the planetary scheme.

c. Nhận thức về “tầm vóc thiêng liêng của hệ hành tinh”, và điều này không nhất thiết chỉ có nghĩa là hệ hành tinh hành tinh .

d. A disclosure of the “magnificent intricacies” of the enveloping macrocosm.

d. Sự hé lộ “những tinh vi tráng lệ” của đại thiên địa bao trùm.

412. Something about the nature of Master DK’s mind is revealed by the words “magnificent intricacies”. As students at our stage of development, we have very little realization of magnificent intricacy. Perhaps we are only beginning to realize that it exists. Often we wonder why we must study material of such apparent complexity, only gradually to realize that what we are studying is not at all complex when compared with the real complexity and intricacy of God’s Great Design.

412. Một điều gì đó về bản chất của trí tuệ Chân sư DK được bộc lộ qua cụm từ “những tinh vi tráng lệ”. Là những đạo sinh ở giai đoạn phát triển của chúng ta, chúng ta rất ít có nhận thức về sự tinh vi huy hoàng. Có lẽ chúng ta chỉ mới bắt đầu nhận ra rằng nó hiện hữu. Nhiều khi chúng ta tự hỏi vì sao phải học một chất liệu xem ra quá phức tạp như vậy, để rồi chỉ dần dần nhận ra rằng điều chúng ta đang học chẳng hề phức tạp gì khi đem so với sự phức tạp và tinh vi thực sự của Đại Thiết Kế của Thượng đế.

413. This calls for much patience on our part and a suspension of judgment concerning what is practical and what is not. Our limited minds (when presented with daunting material) often protect themselves by the judgment that the material is really impractical or not useful in this day and age. This is a serious mistake and is based upon the determination to preserve our mental comfort-zone.

413. Điều này đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều nhẫn nại và một sự đình hoãn phán đoán về cái gì là thực tiễn và cái gì không. Các thể trí hạn hẹp của chúng ta (khi đối diện với chất liệu gây sợ ngợp) thường tự vệ bằng cách phán rằng chất liệu ấy thực sự không thực dụng hoặc không hữu ích trong thời đại này. Đây là một sai lầm nghiêm trọng và dựa trên quyết tâm bảo tồn vùng thoải mái của thể trí.

The reason the fourth is a major round is because in this round two things happened—the spark of mind was implanted and the door was opened from the animal kingdom into the human; and later, another door opened, on to the Path leading from the human kingdom into the spiritual—again a dual reason.

Lý do thứ tư là một cuộc tuần hoàn chính yếu là bởi vì trong cuộc tuần hoàn này hai điều đã xảy ra— tia lửa trí tuệ đã được gieo và cánh cửa đã mở từ giới động vật vào giới nhân loại; và về sau, một cánh cửa khác mở ra, dẫn vào Thánh Đạo từ giới nhân loại đi vào giới tinh thần—lại một lý do nhị nguyên.

414. There are major and minor rounds in the life of the Planetary Logos. Reasons are here given why the fourth round of our particular scheme or chain (we are not told which) is so important. Even if we are considering a scheme round, it was within the fourth chain-round period of that scheme round that the developments above were accomplished.

414. Có những cuộc tuần hoàn chính và phụ trong đời sống của Hành Tinh Thượng đế. Những lý do được đưa ra ở đây giải thích vì sao cuộc tuần hoàn thứ tư của hệ hay Dãy đặc thù của chúng ta (chúng ta không được cho biết là cái nào) lại quan trọng như vậy. Dù chúng ta xét một cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh, thì chính trong thời kỳ cuộc tuần hoàn-Dãy thứ tư của cuộc tuần hoàn hệ hành tinh ấy mà các diễn tiến nói trên đã được hoàn tất.

a. The spark of mind was implanted in animal man and the door was opened from the animal kingdom into the nascent human kingdom (which had not existed in our chain before that point).

a. Tia lửa trí tuệ đã được gieo vào người thú, và cánh cửa đã mở từ giới động vật vào giới nhân loại sơ sinh (giới này trước đó chưa hề hiện hữu trong Dãy của chúng ta).

b. The door to initiation was opened allowing the passage of human beings into the “Kingdom of Souls”, the spiritual kingdom.

b. Cánh cửa điểm đạo đã mở, cho phép những con người đi vào “Vương quốc của Linh hồn”, tức giới tinh thần.

415. We could look at these developments in terms of their value to present day humanity if we wish, but they have deep implications for the life of the Planetary Logos, Himself.

415. Chúng ta có thể nhìn các diễn tiến này theo giá trị của chúng đối với nhân loại ngày nay nếu muốn, nhưng chúng có những hàm ý sâu xa đối với đời sống của chính Hành Tinh Thượng đế.

The fifth round is a major round because it marks a point in evolution where those who will achieve the goal, and those who will not, are sharply differentiated into two groups;

Cuộc tuần hoàn thứ năm là một cuộc tuần hoàn chính vì nó đánh dấu một điểm trong tiến hoá nơi những ai sẽ đạt mục tiêu, và những ai sẽ không đạt, được phân biệt rạch ròi thành hai nhóm;

416. This differentiation occurs under the Law of Cleavages ruled by the fifth ray (the ray which primarily conditions the fifth round).

416. Sự phân biệt này diễn ra dưới Định luật Phân ly do cung năm cai quản (cung chủ yếu điều kiện hoá cuộc tuần hoàn thứ năm).

417. We are speaking here of the classic division between the “sheep” and the “goats”.

417. Ở đây chúng ta đang nói về sự phân chia cổ điển giữa “chiên” và “dê”.

418. The fifth round is the round of the “Judgment Day” and, for this reason (among others) is “major”. Here, we seem to be speaking of a chain round. As far as is presently realized, the “Judgment Day” is to occur in the fifth chain-round of our chain—the fourth.

418. Cuộc tuần hoàn thứ năm là cuộc tuần hoàn của “Ngày Phán Xét” và vì lý do này (trong số những lý do khác) nó là “chính”. Ở đây, dường như chúng ta đang nói về một cuộc tuần hoàn của Dãy. Theo như hiện nay được biết, “Ngày Phán Xét” sẽ diễn ra trong cuộc tuần hoàn-Dãy thứ năm của Dãy chúng ta—tức Dãy thứ tư.

the seventh is a major round because it will mark the merging of the two evolutions, the human and the deva.

Cuộc tuần hoàn thứ bảy là một cuộc tuần hoàn chính vì nó sẽ đánh dấu sự hợp nhất của hai tiến hoá, nhân loại và thiên thần.

419. Merging of the deva and human evolution occurs on the monadic plane, as we have been studying, so we see that in this later round monadic ‘altitude’ will have been achieved.

419. Sự hợp nhất của tiến hoá thiên thần và nhân loại diễn ra trên cõi chân thần, như chúng ta đã nghiên cứu, vì vậy chúng ta thấy rằng trong cuộc tuần hoàn muộn hơn này, “cao độ” chân thần sẽ được đạt.

420. Again, we are not certain of whether we are speaking of a scheme round or chain round. It is possible for the deva and human evolutions to merge on our chain and yet not entirely throughout out scheme.

420. Một lần nữa, chúng ta không chắc là đang nói về một cuộc tuần hoàn của hệ hay của Dãy. Việc hai tiến hoá thiên thần và nhân loại có thể hợp nhất trên Dãy của chúng ta nhưng chưa hoàn toàn khắp toàn hệ là điều khả hữu.

The major root races are chosen under the Law of Corres­pond­ence.

Các giống dân gốc chính được lựa chọn theo Định luật Tương ứng.

421. The word “chosen” is interesting. Does the word mean “indicated”? In other words, when we seek to understand which of the root races are major, is our choice to be indicated according to the Law of Correspondences?

421. Từ “lựa chọn” thật thú vị. Từ ấy có nghĩa là “chỉ định” chăng? Nói cách khác, khi chúng ta tìm hiểu xem những giống dân gốc nào là chính yếu, thì sự chọn lựa của chúng ta sẽ được chỉ định theo Định luật Tương ứng?

In the third root race came the third Outpouring, the merging and the point of contact between the Spiritual Triad and the Lower Quaternary.

Trong giống dân gốc thứ ba đã có Lần Tuôn Đổ thứ ba, tức sự dung hợp và điểm tiếp xúc giữa Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ bốn hạ.

422. The first two Outpourings came much earlier. Some of the earlier Theosophical books have gone into these intricacies, but we have no complete confidence that the progression they have presented is truly accurate. It is much conditioned by the regularity of the concrete mind and does not take into consideration factors which the authors were in no position to detect. For instance, the Moon-chain evolution was disrupted, we are told, by the intervention of the Solar Logos, but early Theosophical authors had no cognizance of this and discussed the progress and closure of the Moon-chain as if it occurred with complete and predictable regularity, when it fact no such orderly completion ever occurred.

422. Hai Lần Tuôn Đổ đầu đã đến sớm hơn nhiều. Vài sách Thông Thiên Học trước đây đã bàn về những tinh vi này, nhưng chúng ta không thể hoàn toàn tin rằng trình tự mà họ trình bày thật sự chính xác. Nó bị điều kiện hoá nhiều bởi tính đều đặn của trí cụ thể và không xét đến những yếu tố mà các tác giả không ở vị thế nào để nhận ra. Chẳng hạn, tiến hoá Dãy Mặt Trăng, như chúng ta được cho biết, đã bị can thiệp bởi Thái dương Thượng đế, nhưng các tác giả Thông Thiên Học sơ kỳ không hề biết điều này và đã bàn về tiến trình và sự kết thúc của Dãy Mặt Trăng như thể nó diễn ra một cách hoàn toàn đều đặn và có thể dự đoán, trong khi thực tế không có sự hoàn tất có trật tự nào như vậy diễn ra cả.

423. The coming of the Solar Angels as providing the method of contact between the “Spiritual Triad and the Lower Quaternary” contributes to the importance of the third root race.

423. Sự đến của các Thái dương Thiên Thần như là phương tiện tạo tiếp xúc giữa “Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ bốn hạ” góp phần làm nổi bật tầm quan trọng của giống dân gốc thứ ba.

424. Let us tabulate the twofold reason which makes the third root race a major root race:

424. Chúng ta hãy bảng hóa lý do hai mặt khiến giống dân gốc thứ ba là một giống dân gốc chính :

a. The Third Outpouring

a. Lần Tuôn Đổ thứ ba

b. “The merging and point of contact between the Spiritual Triad and the Lower Quaternary”.

b. “Sự dung hợp và điểm tiếp xúc giữa Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ bốn hạ”.

The fifth root race marks a point where higher and lower manas approximate, and where the concrete mind, meeting its highest development of this round, gives place to the intuition from above.

Giống dân gốc thứ năm đánh dấu một điểm nơi thượng trí và hạ trí tiệm cận, và nơi trí cụ thể, khi đạt đến mức phát triển cao nhất trong cuộc tuần hoàn này, sẽ nhường chỗ cho trực giác từ trên.

425. In the fifth root race the antahkarana is built and utilized. Humanity is able to reach the point of development at which the intercessory influence of the Solar Angels is no longer needed.

425. Trong giống dân gốc thứ năm, antahkarana được xây dựng và sử dụng. Nhân loại có thể đạt đến điểm phát triển mà ở đó ảnh hưởng trung gian của các Thái dương Thiên Thần không còn cần thiết nữa.

426. Again, let us tabulate the twofold reason why the fifth root race is a major root race:

426. Một lần nữa, chúng ta hãy bảng hóa lý do hai mặt khiến giống dân gốc thứ năm là một giống dân gốc chính :

a. Higher and lower manas approximate

a. Thượng trí và hạ trí tiệm cận

b. Concrete mind, having reached its highest development in this round, ‘gives place to the intuition from above”.

b. Trí cụ thể, sau khi đạt mức phát triển cao nhất trong cuộc tuần hoàn này, ‘nhường chỗ cho trực giác từ trên’.

427. Are we to think that manas will not develop further in later rounds under the impress of higher faculties? Probably, there will be further development, but the development of manas, in this round, reaches its apotheosis in the fifth root race of this fourth round.

427. Chúng ta có nên nghĩ rằng manas sẽ không phát triển thêm trong các cuộc tuần hoàn sau này dưới ấn tượng của các năng lực cao hơn? Có lẽ sẽ có sự phát triển thêm, nhưng sự phát triển của manas, trong cuộc tuần hoàn này, đạt đến tột đỉnh của nó trong giống dân gốc thứ năm của cuộc tuần hoàn thứ tư này.

428. It would seem important (from the planetary perspective) to consider this development as occurring in a scheme round, as surely the development of manas in the fifth (highly manasic) chain will be of greater moment that such development in the fourth chain.

428. Có vẻ quan trọng (từ quan điểm hành tinh) là xem diễn tiến này như diễn ra trong một cuộc tuần hoàn hệ hành tinh , vì chắc chắn sự phát triển của manas trong Dãy thứ năm (rất manasic) sẽ có ý nghĩa lớn lao hơn sự phát triển như thế ở Dãy thứ tư.

429. Yet, as concerns development within our chain, manas, per se, will reach its highest point of development in the fifth chain round, which will certainly occur before the fourth scheme round is complete and the fifth scheme round has begun.

429. Tuy nhiên, xét về phát triển trong Dãy của chúng ta, manas, tự thân nó, sẽ đạt điểm phát triển cao nhất trong cuộc tuần hoàn Dãy thứ năm, điều này chắc chắn sẽ xảy ra trước khi cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ tư hoàn tất và cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ năm bắt đầu.

430. There exists the possibility of overlapping rounds (both in the chain and scheme processes), and limited speculation has been offered in earlier commentaries regarding how this might occur. A model of strict linearity is not probable.

430. Có khả năng các cuộc tuần hoàn chồng lấp (cả trong tiến trình Dãy lẫn hệ hành tinh), và trước đó đã có ít nhiều suy đoán về cách điều này có thể xảy ra. Một mô hình tuyến tính nghiêm ngặt là điều không có khả năng.

Here again we have a twofold reason.  The seventh root race again demonstrates dual attainment, love in activity, the basis of the third system of Will or Power.

Ở đây một lần nữa, chúng ta có một lý do hai mặt. Giống dân gốc thứ bảy một lần nữa minh chứng sự thành tựu nhị nguyên: Tình thương trong hoạt động, nền tảng của hệ thống thứ ba của Ý Chí hay Quyền Lực.

431. The achievement of the seventh root race is the full development of love on our chain and also of activity. The two are blended.

431. Thành tựu của giống dân gốc thứ bảy là sự phát triển trọn vẹn của Tình thương trong Dãy của chúng ta và đồng thời của Hoạt động. Hai điều được dung hợp.

432. But this type of blending must also occur on other chains in our scheme if full preparation of the “basis of the third system of Will or Power” is to be completed. Other globes in other chains also have root races.

432. Nhưng kiểu dung hợp này cũng phải diễn ra trên những Dãy khác trong hệ của chúng ta nếu việc chuẩn bị toàn triệt cho “nền tảng của hệ thống thứ ba của Ý Chí hay Quyền Lực” được hoàn tất. Các bầu ở những Dãy khác cũng có những giống dân gốc.

The three major Rays, being dual, are their own sufficient explanation.

Ba cung chính, vốn mang tính nhị nguyên, là tự thân đã đủ để giải thích.

433. These rays must be dual in a particular way. Really, all the rays have seven sub-rays. So then, what is the nature of this duality as contrasted with the threefold and sevenfold divisions which pertain to all rays?

433. Những cung này hẳn là nhị nguyên theo một cách đặc thù. Thực ra, mọi cung đều có bảy cung phụ. Vậy thì, bản tính của nhị nguyên này là gì khi so với các phân chia tam phân và thất phân vốn thuộc về tất cả các cung?

434. When thinking of the three major rays and their duality we might suggest in all simplicity and with the need of extensive elaboration (such as can be found in Tapestry of the Gods, Vols. I and II):

434. Khi nghĩ về ba cung chính và tính nhị nguyên của chúng, chúng ta có thể gợi ý một cách rất giản lược và cần được triển khai rộng (như có thể thấy trong Tapestry of the Gods, Vols. I and II ):

a. Ray One—constructive (forging) and destructive

a. Cung Một—kiến tạo (rèn đúc) và hủy hoại

b. Ray Two—love and wisdom

b. Cung Hai—tình thương và minh triết

c. Ray Three—mental activity and material activity

c. Cung Ba—hoạt động trí tuệ và hoạt động vật chất

They are at present the mode of expression of the three aspects, and demonstrate under their appropriate Logoi,

Chúng hiện nay là phương thức biểu hiện của ba Phương diện, và biểu hiện dưới các vị Thượng đế thích đáng của chúng,

435. The Three Logoi, therefore, have, in sum, a sixfold expression.

435. Vì vậy, Ba Thượng đế (Logoi) có, tổng cộng, một biểu hiện lục phân .

Who manipulate world affairs through the three depart­ments, of which the rulers on our planet are the Lord Maitreya, the Manu, and the Mahachohan.

Đấng thao túng các công việc thế gian thông qua ba bộ phận, mà những vị cai quản trên hành tinh của chúng ta là Đức Maitreya, Đức Manu và Đức Mahachohan.

436. It is important to realize that the Three Departments are not unique on our planet. The Three Logoi (cosmic Beings Who express systemically) stand behind these three departments.

436. Điều quan trọng là nhận ra rằng Ba Bộ Phận không phải là độc nhất trên hành tinh của chúng ta. Ba Vị Thượng đế (những Đấng vũ trụ biểu hiện một cách hệ thống) đứng đằng sau ba bộ phận này.

437. We assume that when DK speaks of the three major rays, He means rays one, two and three, but the tabulation offered below modifies this assumption, substituting ray seven for ray three.

437. Chúng ta giả định rằng khi Chân sư DK nói về ba cung chính, Ngài muốn nói các cung một, hai và ba, nhưng bảng liệt kê đưa ra dưới đây điều chỉnh giả định này, thay thế cung bảy cho cung ba.

438. We note that the Lord Maitreya is mentioned first, indicating the primacy of the second ray on our planet and in this solar system.

438. Chúng ta lưu ý rằng Đức Maitreya được nêu trước tiên, cho thấy tính ưu thắng của cung hai trên hành tinh chúng ta và trong thái dương hệ này.

The three major planes demonstrate easily their unique position—on plane two we have the home of the Monads of Love, on plane five we find the habitat of their reflections, the reincarnating Egos, and [600] on the physical plane we find the working out at its densest point of the life of the Spirit.

Ba cõi chính dễ dàng minh chứng vị trí độc đáo của chúng—trên cõi hai chúng ta có nơi cư ngụ của các Chân thần của Bác Ái, trên cõi năm chúng ta thấy chỗ cư ngụ của những phản ảnh của các Ngài, tức các Chân ngã tái sinh, và [600] trên cõi hồng trần chúng ta thấy sự triển khai ở điểm đậm đặc nhất của sự sống Tinh thần.

439. The three major planes here given are planes two, five and seven. The reasons are as follows:

439. Ba cõi chính ở đây là cõi hai, năm và bảy. Lý do như sau:

a. Plane two—the Monads (“of Love”) find their habitat there, yet all Monads (from one perspective) are, due to their second plane ‘location’, “Monads of Love”.

a. Cõi hai—các Chân thần (“của Bác Ái”) tìm nơi cư ngụ ở đó, tuy nhìn từ một quan điểm, tất cả Chân thần, do ‘vị trí’ cõi hai của mình, đều là “Chân thần của Bác Ái”.

b. Plane five—the egoic reflections of the Monads express on the higher mental plane

b. Cõi năm—các phản ảnh chân ngã của các Chân thần biểu lộ trên cõi thượng trí

c. Plane seven—Spirit works out in densest matter, “The Highest and the Lowest Meet” and God’s plan is fully manifested on His lowest plane of expression.

c. Cõi bảy—Tinh thần triển khai trong chất liệu đậm đặc nhất, “Cao Nhất và Thấp Nhất Gặp Nhau” và Thiên Cơ của Thượng đế được hiển lộ trọn vẹn trên cõi biểu lộ thấp nhất của Ngài.

440. We find DK ‘weighting’ the various energies and their fields of expression. Though all things may be equal “in the Eyes of God”, they are not equal in time and space and from the perspective of those whose consciousness is conditioned by time and space.

440. Chúng ta thấy Chân sư DK ‘lượng định’ các loại năng lượng và các trường biểu hiện khác nhau. Dù mọi sự có thể bình đẳng “trong Mắt Thượng đế”, nhưng chúng không bình đẳng trong thời gian và không gian và từ quan điểm của những ai có tâm thức bị điều kiện hoá bởi thời gian và không gian.

This principle of mutation governs every department in the Law of Correspondences, and certain things can be stated as regards the system, and its component parts which will be found illuminating if we remember that they are facts for the present.

Nguyên tắc biến dịch này chi phối mọi lĩnh vực trong định luật tương ứng, và có thể phát biểu vài điều về hệ thống và các bộ phận cấu thành của nó, sẽ được thấy là soi rọi nếu chúng ta nhớ rằng chúng là những sự kiện của hiện tại.

441. When we try to work with the Law of Correspondences we had best be cautioned to remember the Principle of Mutation. The correspondences which we deem accurate may only be so for a time and from a certain perspective. All is shifting and changing and changing “according to law”.

441. Khi chúng ta cố gắng làm việc với Định luật Tương ứng, tốt nhất là nên được cảnh báo để nhớ đến Nguyên tắc Biến dịch. Những tương ứng mà chúng ta cho là chính xác có thể chỉ đúng trong một thời gian và từ một góc nhìn nào đó. Mọi sự đều đổi thay và dịch chuyển, và dịch chuyển “theo định luật”.

442. We are going to view the principle of mutation on a solar systemic level.

442. Chúng ta sẽ nhìn nguyên tắc biến dịch ở cấp thái dương hệ.

443. Perhaps it comes as a surprise to us that the Law of Correspondences has different “departments”. May we say that in Creation, and on various levels of vibration, there are different groupings which correspond to other groupings? As these groupings are related to each other, the Law of Correspondences holds good.

443. Có lẽ điều này khiến chúng ta ngạc nhiên khi Định luật Tương ứng có những “lĩnh vực” khác nhau. Chúng ta có thể nói rằng trong Sáng tạo, và trên các mức độ rung động khác nhau, có những nhóm khác nhau tương ứng với những nhóm khác? Khi các nhóm này tương liên với nhau, Định luật Tương ứng vẫn đúng.

444. For instance, the Seven Rays are one grouping, and the seven planes, another. The seven principles are yet another, the seven chakras another, and so forth.

444. Chẳng hạn, Bảy Cung là một nhóm, và bảy cõi là một nhóm khác. Bảy nguyên khí là một nhóm nữa, bảy luân xa là nhóm khác nữa, v.v.

Let me again illustrate:  we have been told that the three major Rays at this time are the first, the second, and the seventh.  

Hãy để tôi một lần nữa minh hoạ: chúng ta đã được cho biết rằng ba cung chính vào thời điểm này là cung một, cung hai và cung bảy.

445. Probably, this information is scattered throughout the books. The seventh ray seems, temporarily, to take the place of the third ray as major, because the seventh ray is coming in so strongly during the Aquarian Age.

445. Có lẽ, thông tin này rải rác khắp các sách. Cung bảy dường như, tạm thời, thay chỗ của cung ba như là cung chính, bởi vì cung bảy đang đến rất mạnh trong Kỷ Bảo Bình.

446. Yet, we must remember how closely related are the seventh and third rays. This is particularly so in relation to the present Mahachohan and the initiates in His Ashram.

446. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ cung bảy và cung ba liên hệ mật thiết với nhau. Điều này đặc biệt đúng liên quan đến vị Mahachohan hiện tại và các điểm đạo đồ trong Đẳng đường của Ngài.

But later, the Rays now major may become subsidiary, and others take their place, though for this solar system the second Ray, being the synthetic Ray, will always be a major Ray.

Nhưng về sau, các cung hiện đang là chính có thể trở thành phụ, và những cung khác thay vào vị trí đó, tuy đối với thái dương hệ này, Cung hai, vốn là cung tổng hợp, sẽ luôn luôn là một cung chính.

447. The designation of major and minor will depend upon the portion of the Divine Plan which is in process of unfolding.

447. Việc gọi là chính hay phụ sẽ tùy thuộc vào phần của Thiên Cơ đang được khai triển.

448. Probably, within the realm of Purpose (which is ‘above’ time and space as usually considered) all rays are closer to equal, but in relation to the time-sensitive Divine Plan, some rays are more important at some times in order to express the ‘purpose of the hour’.

448. Có lẽ, trong lĩnh vực của Mục Đích (vốn ‘vượt’ ngoài thời gian và không gian như thường được xét) mọi cung gần như bình đẳng hơn, nhưng liên quan đến Thiên Cơ nhạy cảm với thời gian, thì một số cung quan trọng hơn vào những thời điểm nhất định để biểu hiện ‘mục đích của thời khắc’.

449. To be practical, we must know what is important now. To be knowledgeable, we must know the workings of the Principle of Mutation, and what rays have been important and will be important at different periods of planetary history.

449. Để thực tiễn, chúng ta phải biết điều gì quan trọng ngay bây giờ. Để có hiểu biết, chúng ta phải biết sự vận hành của Nguyên tắc Biến dịch, và các cung đã, đang và sẽ quan trọng vào các thời kỳ khác nhau trong lịch sử hành tinh như thế nào.

Perhaps we can here get a hint on this great principle, though we must be careful not to draw it out to too fine a conclusion.

Có lẽ ở đây chúng ta có thể nhận được một ám chỉ về nguyên tắc vĩ đại này, tuy chúng ta phải cẩn trọng để không kéo dài nó tới những kết luận quá tinh vi.

450. Premature formulations (while temporarily satisfying to the impatient mind seeking closure) are very likely to be erroneous. Patience is required in these wide and intricate studies.

450. Những công thức vội vàng (trong khi tạm thời làm thỏa mãn thể trí nôn nóng muốn khép lại vấn đề) rất có khả năng là sai lầm. Sự nhẫn nại là điều cần có trong những khảo cứu rộng lớn và tinh vi này.

451. When we study what is given below, we cannot presume that it refers only to our planet. That is may not, increases the difficulty of interpreting what is given.

451. Khi chúng ta nghiên cứu điều được đưa ra dưới đây, chúng ta không thể giả định rằng nó chỉ liên quan đến hành tinh của chúng ta. Việc nó có thể không như vậy khiến việc diễn giải những gì được cho càng thêm khó.

For this system the major Rays will always be the dual Rays—the negative-positive Rays, the masculine-feminine Rays—this being the dual system.

Đối với hệ thống này, các cung chính sẽ luôn luôn là các cung nhị nguyên—các cung âm-dương, các cung nam-nữ—bởi đây là hệ thống nhị nguyên.

452. We live in a dual solar system—a system of Love and Wisdom.

452. Chúng ta đang sống trong một thái dương hệ nhị nguyên—một hệ của Bác Ái và Minh Triết.

453. We note that DK speaks of the “negative-positive Rays” and then (reversing the order) of the “masculine-feminine Rays”.

453. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK nói về “các cung tiêu cực-tích cực” rồi (đảo thứ tự) “các cung nam-nữ”.

454. Sometimes the order in which He presents words is a hint; sometimes, it is not.

454. Đôi khi thứ tự Ngài dùng là một ám chỉ; đôi khi không phải vậy.

The major Rays for system three will be those in triple manifestation.

Các cung chính cho hệ thứ ba sẽ là những cung biểu hiện theo dạng tam phân.

455. There are places in the Teaching where the first three rays are said to be in triple manifestation. If we reference DINA II 518, we will see how the dual second ray becomes triple; this method is, I think, applicable to the three Rays of Aspect.

455. Có những nơi trong Giáo huấn nói rằng ba cung đầu biểu hiện theo dạng tam phân. Nếu đối chiếu DINA II 518, chúng ta sẽ thấy cung Hai nhị phân trở thành tam phân như thế nào; phương thức này, tôi nghĩ, có thể áp dụng cho ba Cung Trạng Thái.

456. Were the “major Rays” for major System I unitary in manifestation?

456. Vậy các “cung chính” cho Hệ Chính yếu I có phải đã biểu hiện theo dạng nhất nguyên ?

457. Even when dealing with human psychology, we cannot ignore the duality of the major rays, or we will fail to identify different types of human beings who share the same ray.

457. Ngay cả khi làm việc với tâm lý học con người, chúng ta cũng không thể bỏ qua tính nhị nguyên của các cung chính, nếu không chúng ta sẽ không nhận ra được những kiểu loại khác nhau của con người tuy cùng chung một cung.

The following table may be found of interest, if regarded as relative, and as holding information for the present time, but also as being subject to change and circulation:

Bảng sau đây có thể được thấy là thú vị, nếu được xem như tương đối, và như mang thông tin cho thời điểm hiện tại, nhưng cũng tùy thuộc vào sự thay đổi và lưu chuyển:

458. While we cannot be sure, often, when DK discusses the “present time”, He means from the time of individualization until the “Judgment Day” in the middle of the fifth round of our chain and presumably on our fourth globe.

458. Dù chúng ta không thể chắc chắn, nhiều khi khi Chân sư DK nói về “thời điểm hiện tại”, Ngài muốn nói từ thời kỳ biệt ngã hóa cho đến “Ngày Phán Xét” vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm của Dãy chúng ta và có lẽ trên bầu thứ tư của chúng ta.

7 Rays Major 1-2-7 : Four subsidiary converging on the fifth.

7 Cung Chính 1-2-7: Bốn cung phụ hội tụ vào cung thứ năm.

459. By this, does He mean the fifth ray? Or does He mean that the seventh ray is the fifth ‘Ray of Brahma’, as has been earlier shown? Or can He also mean that rays four, five, six and seven converge upon ray three, which is, archetypally, the preeminent Brahmic ray (and the fifth when numbering from below)?

459. Với điều này, Ngài muốn nói cung thứ năm chăng? Hay Ngài muốn nói rằng cung bảy là ‘Cung thứ năm của Brahma’, như trước đó đã được nêu? Hoặc Ngài cũng có thể muốn nói rằng các cung bốn, năm, sáu và bảy hội tụ vào cung ba, vốn, về nguyên hình, là cung Brahma ưu thắng (và là cung thứ năm nếu đếm từ dưới lên)?

460. During the coming Age of Aquarius, the seventh ray will, as it were, represent the third, carrying out the Plan (foreseen by the third ray) in a manner concrete and physically accurate.

460. Trong Kỷ Bảo Bình sắp đến, cung bảy sẽ, như thể, đại diện cho cung ba, thi hành Thiên Cơ (được cung ba dự kiến) theo một cách cụ thể và chính xác trên cõi hồng trần.

7 Principles 3 Major Monad, Ego and Personality, synthesising at various stages the four subsidiary.

7 Nguyên khí 3 Chính: Chân thần, Chân ngã và Phàm ngã, tổng hợp ở các giai đoạn khác nhau bốn nguyên khí phụ.

461. Here we are speaking of the three “Periodical Vehicles”. In the various ways of enumerating principles (discussed from TCF 260-269), sometimes the vehicles listed here are considered principles and sometimes not.

461. Ở đây chúng ta đang nói về ba “Vận cụ Chu kỳ”. Trong các cách liệt kê nguyên khí khác nhau (được bàn từ TCF 260-269), đôi khi các vận cụ liệt kê ở đây được xem là nguyên khí và đôi khi không.

462. We find that atma, buddhi and manas (almost invariably listed as principles elsewhere) are not listed. Perhaps the term “Ego” (if we consider Ego as triadal) includes atma-buddhi-manas.

462. Chúng ta thấy rằng atma, bồ đề và manas (hầu như luôn được liệt là nguyên khí ở nơi khác) không được liệt kê. Có lẽ thuật ngữ “Chân ngã” (nếu chúng ta xét Chân ngã như thuộc Tam nguyên ) bao gồm atma-bồ đề-manas.

463. The “four subsidiary” would seem to be those which are included in the personality: lower manas, kama-manas, prana and etheric body (though there are several ways to number the principles included in the personality).

463. “Bốn nguyên khí phụ” dường như là những gì bao hàm trong phàm ngã: hạ trí, trí-cảm (kama-manas), prana và thể dĩ thái (dù có vài cách để đếm các nguyên khí nằm trong phàm ngã).

7 Chains Major 1-4-7

7 Dãy Chính 1-4-7

464. Reasons for considering these as major are not given. We note that these are the ‘Masonic’ numbers and pertain much to the work of Vulcan.

464. Lý do xem chúng là chính không được nêu. Chúng ta lưu ý rằng đây là những con số ‘Masonic’ và liên hệ nhiều với công việc của Vulcan.

465. From a structural point of view, they represent beginning, middle and end.

465. Xét về cấu trúc, chúng biểu trưng cho khởi đầu, giữa và kết.

466. We know that through our fourth chain, our Planetary Logos is presently taking a significant initiation—the fourth. But is this not true of all chains? If the Planetary Logos is taking a series of seven initiations (cf. TCF 384), does He not take one through or upon each chain?

466. Chúng ta biết rằng qua Dãy thứ tư của chúng ta, Hành Tinh Thượng đế hiện đang trải qua một cuộc điểm đạo quan trọng—lần thứ tư. Nhưng điều này chẳng phải đúng cho mọi Dãy sao? Nếu Hành Tinh Thượng đế trải qua một loạt bảy cuộc điểm đạo (x. TCF 384), há Ngài lại không trải qua một lần qua hay trên mỗi Dãy?

467. We can imagine the seventh chain (by the present enumeration, and in relation to our Planetary Logos—the Jupiter-chain) as being climactic for the development of our Planetary Logos in this Mahamanvantara.

467. Chúng ta có thể hình dung Dãy thứ bảy (theo cách đánh số hiện tại, và liên hệ với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta—tức Dãy Jupiter) như là đỉnh điểm cho sự phát triển của Hành Tinh Thượng đế chúng ta trong Đại giai kỳ sinh hóa này.

468. Our Planetary Logos is not really developing His monadic expression in this solar system, but rather His soul expression. Interestingly, Jupiter has the same soul ray as our Planetary Logos—namely, the second.

468. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta thực sự không phát triển biểu hiện chân thần của Ngài trong thái dương hệ này, mà là biểu hiện linh hồn của Ngài. Thú vị thay, Sao Mộc có cùng cung linh hồn với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta—tức cung hai.

7 Planes Major 2-5-7

7 Cõi Chính 2-5-7

469. The reasons are given above and related to the habitat of the Monad, the habitat of the Ego, and the field of expression for both, as Spirit/soul works its way to the densest plane, thus ensuring that the “Highest and the Lowest Meet”.

469. Lý do đã được nêu ở trên và liên hệ đến nơi cư ngụ của Chân thần, nơi cư ngụ của Chân ngã, và trường biểu hiện cho cả hai, khi Tinh thần/linh hồn dấn bước tới cõi đậm đặc nhất, nhờ đó bảo đảm rằng “Cao Nhất và Thấp Nhất Gặp Nhau”.

7 Manvantaras   Major 3-4-7

7 Manvantara Chính 3-4-7

470. Usually manvantaras are considered as rounds, so there is a hint here. The rounds discussed immediately below can well be chain rounds, for (at least in the case of rounds four and five) they concern developments occurring or to occur in our fourth and fifth chain rounds.

470. Thông thường manvantara được xem là các cuộc tuần hoàn, vì vậy ở đây có một ám chỉ. Các cuộc tuần hoàn được bàn ngay dưới đây có thể là các cuộc tuần hoàn-Dãy, vì (ít nhất trong trường hợp cuộc tuần hoàn bốn và năm) chúng liên quan đến những diễn tiến đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra trong các cuộc tuần hoàn Dãy thứ tư và thứ năm của chúng ta.

471. Then is it possible that the “manvantaras” here referenced are, in fact, ‘scheme rounds’? If so, then we are in the midst of a major manvantara or scheme round. It is pretty well established that Venus is in its fifth scheme round and (by inference) that the Earth-scheme in its fourth scheme round.

471. Vậy có khả năng rằng các “manvantara” được nêu ở đây thực ra là các ‘cuộc tuần hoàn hệ hành tinh ’? Nếu vậy, thì chúng ta đang ở giữa một manvantara hay cuộc tuần hoàn hệ hành tinh chính yếu. Khá vững chắc là Sao Kim đang trong cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ năm của nó và (suy ra) Địa cầu—hệ đang trong cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ tư .

472. The term “manvantara” is so variable that we must be very careful in assigning meaning to it. Sometimes it definitely means a chain round, but we see that DK has here discriminated it from a chain round—apparently.

472. Thuật ngữ “manvantara” biến hoá đến mức chúng ta phải rất cẩn trọng khi gán nghĩa cho nó. Đôi khi nó chắc chắn có nghĩa là cuộc tuần hoàn-Dãy, nhưng ở đây chúng ta thấy Chân sư DK dường như đã phân biệt nó với cuộc tuần hoàn-Dãy.

473. Also, there are solar manvantaras and planetary manvantaras. Sometimes the duration of an entire planetary scheme is called a manvantara. Sometimes the span of a lesser part a planetary scheme is a manvantara. Sometimes a “year of Brahma” is a manvantara.

473. Cũng có những manvantara thái dương và manvantara hành tinh. Đôi khi thời gian tồn tại của toàn bộ một hệ hành tinh được gọi là một manvantara. Đôi khi quãng đời của một phần nhỏ hơn trong một hệ hành tinh cũng là một manvantara. Đôi khi một “năm của Brahma” là một manvantara.

474. We must pause before drawing conclusions. Too little is yet known.

474. Chúng ta phải tạm ngưng trước khi kết luận. Còn biết quá ít.

7 Rounds Major 4-5-7

7 Cuộc tuần hoàn Chính 4-5-7

475. These are as listed above and the reasons are there given.

475. Những điều này đã được liệt ở trên và lý do đã được nêu.

7 Root races Major 3-5-7

7 Giống dân gốc Chính 3-5-7

476. These are also given above. There are two reasons applying to each root race for designating it as a major root race. When speaking of root races we cannot forget that they exist on more than one globe and perhaps simultaneously. In this context, however, DK seems to be speaking of our particular globe, the Earth-globe.

476. Những điều này cũng được nêu trên. Có hai lý do áp dụng cho mỗi giống dân gốc để gọi nó là giống dân gốc chính. Khi nói về các giống dân gốc, chúng ta không thể quên rằng chúng tồn tại trên nhiều bầu và có thể đồng thời. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, Chân sư DK dường như đang nói về bầu đặc thù của chúng ta, bầu Địa cầu.

477. It is, however, interesting to note that the three major globes in the Earth-chain (gathering that the larger globes depicted in Chart VII are the major ones) are globes three, five and seven. In this case the Chart confirms what is here given.

477. Tuy vậy, điều thú vị là ba bầu chính trong Dãy Địa cầu (suy rằng các bầu lớn hơn mô tả trong Biểu đồ VII là các bầu chính) là bầu ba, năm và bảy. Trong trường hợp này, Biểu đồ xác nhận điều được nêu ở đây.

7 Sub races Major 1-5-6

7 Giống dân phụ Chính 1-5-6

478. We need to know whether we are speaking of sub-races of the third, fourth or fifth root race. Probably, it will be a good bet to think in terms of the fifth root race (of which we know a little something).

478. Chúng ta cần biết rằng đang nói về các giống dân phụ của giống dân gốc thứ ba, thứ tư hay thứ năm. Có lẽ, một phỏng đoán tốt là nghĩ đến giống dân gốc thứ năm (về nó chúng ta biết được đôi điều).

a. The first subrace is the Aryan. The principles guiding the fifth root race were laid down in this first subrace. The link between Spirit and mind was strongly cultivated.

a. Giống dân phụ thứ nhất là Arya. Những nguyên tắc dẫn dắt giống dân gốc thứ năm được đặt ra trong giống dân phụ thứ nhất này. Mối liên hệ giữa Tinh thần và trí được bồi dưỡng mạnh mẽ.

b. The fifth subrace is the Teutonic. In this subrace the development of manas, per se, reaches it apotheosis.

b. Giống dân phụ thứ năm là Teutonic. Trong giống dân phụ này, sự phát triển của manas, tự thân nó, đạt đến tột đỉnh.

c. The sixth subrace has no immediate name, but will be developing the abstract mind, we are told.

c. Giống dân phụ thứ sáu chưa có tên gọi tức thời, nhưng sẽ phát triển trí trừu tượng, như chúng ta được cho biết.

7 Initiations Major 1 4 5 if viewed from the angle of human attainment, and 1-5-7 if viewed from a higher.

7 Điểm đạo Chính 1 4 5 nếu nhìn từ góc độ thành tựu của nhân loại, và 1-5-7 nếu nhìn từ một góc độ cao hơn.

479. From the human perspective:

479. Từ viễn kiến nhân loại:

a. The first initiation admits into the “Kingdom of Souls”. It signifies as major step—a change of Kingdom

a. Điểm đạo thứ nhất cho nhập vào “Vương quốc của Linh hồn”. Nó biểu thị một bước chuyển lớn—một sự đổi Giới.

b. The fourth initiation detaches from all further need for incarnation in the three worlds.

b. Điểm đạo thứ tư tách rời khỏi mọi nhu cầu tái sinh trong ba cõi.

c. The fifth initiation sees the consummation of human development and prepares for entry into the Kingdom of Planetary Lives.

c. Điểm đạo thứ năm thấy sự viên mãn của phát triển nhân loại và chuẩn bị cho việc bước vào Vương quốc của các Sự sống Hành tinh.

480. Which perspective is the “higher” one of which DK speaks? Is it a planetary perspective?

480. Viễn kiến “cao hơn” mà Chân sư DK nói tới là viễn kiến nào? Đó có phải là viễn kiến hành tinh ?

481. We note that initiations one and five are still included in this higher perspective. They represent the entry into the “Kingdom of Souls” and the consummation of participation in this Kingdom—Mastership.

481. Chúng ta lưu ý rằng các điểm đạo một và năm vẫn được bao gồm trong viễn kiến cao hơn này. Chúng tượng trưng cho sự nhập vào “Vương quốc của Linh hồn” và sự hoàn mãn của sự tham dự trong Vương quốc này—Bậc Thầy.

482. From another perspective, the fifth initiation represents the beginning of participation as a first degree initiate in the Lodge of Sirius. From the perspective of the Planetary Logos, the fifth initiation of a human being is a planetary event.

482. Từ một viễn kiến khác, điểm đạo thứ năm tượng trưng cho khởi đầu sự tham dự như một đệ tử nhất bậc trong Thánh đoàn Sirius. Từ viễn kiến của Hành Tinh Thượng đế, điểm đạo thứ năm của một con người là một biến cố hành tinh .

483. The seventh initiation is a kind of transfiguration with respect to the Sirian Lodge. It may also admit a developing Chohan into contact with the Logos of the Seven Solar Systems of Which Ours is One. Certainly, it increases his degree of spiritual intimacy with our own Solar Logos.

483. Điểm đạo thứ bảy là một dạng biến hình đối với Thánh đoàn Sirius. Nó cũng có thể cho một vị Chohan đang phát triển được tiếp xúc với vị Thượng đế của Bảy Thái dương Hệ mà hệ của chúng ta là một. Chắc chắn, nó tăng mức độ thân mật tinh thần của y với chính Thái dương Thượng đế của chúng ta.

484. We could say that with the seventh initiation, the Planetary Logos has one more point of expression for conducting solar purpose into Shamballa and the planet. The seventh initiation is a solar Love-Wisdom initiation.

484. Chúng ta có thể nói rằng với điểm đạo thứ bảy, Hành Tinh Thượng đế có thêm một điểm biểu lộ nữa để dẫn thái dương mục đích vào Shamballa và hành tinh. Điểm đạo thứ bảy là một điểm đạo về Bác Ái–Minh Triết thái dương.

485. Still, we do not know what the term “higher” means? Is it from the perspective of the globe, or chain, or scheme, or it is a solar perspective.

485. Dẫu vậy, chúng ta vẫn không biết thuật ngữ “cao hơn” có nghĩa gì? Đó là từ viễn kiến của bầu, hay của Dãy, hay của hệ hành tinh, hay là một viễn kiến thái dương.

TCF 586 – 600: S6S3

26 October – 10 November 2007

26 Tháng Mười – 10 Tháng Mười Một 2007

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Hầu hết văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi chiếu trong lớp học. Chú thích và tham chiếu từ các sách AAB khác và từ các trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Phần bình giảng xuất hiện ở cỡ chữ 12. Phần Gạch dưới, In đậm và Tô sáng do MDR thực hiện)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph.

Có gợi ý rằng Bản Bình giảng này nên được đọc cùng với cuốn TCF trong tay, nhằm đảm bảo tính liên tục. Khi việc phân tích văn bản được tiến hành, nhiều đoạn văn được phân chia, và phần trình bày cô đọng trong chính cuốn sách sẽ truyền đạt ý nghĩa tổng thể của đoạn văn.

The Laws in the Three Worlds.—We will now take up and briefly study the three most important laws affecting the evolving human being, as he lives his life in the three worlds.  These laws are:

Các Định Luật trong Ba Cõi .—Giờ đây chúng ta sẽ bắt đầu và khảo cứu vắn tắt ba định luật quan trọng nhất ảnh hưởng đến con người đang tiến hóa, khi y sống đời mình trong ba cõi. Các định luật ấy là:

1. The Law of Fixation.

1. Định luật Cố định.

2. The Law of Love.

2. Định luật Bác ái.

3. The Law of Sacrifice and Death.

3. Định luật Hiến tế và Tử vong.

1. We are to gather that the first four laws studied in the previous section—

1. Chúng ta hiểu rằng bốn định luật đầu đã khảo cứu trong phần trước—

a. The “Law of Vibration”

a. “Định luật Rung động”

b. The “Law of Cohesion”

b. “Định luật Kết dính”

c. The “Law of Disintegration”

c. “Định luật Phân rã”

d. The “Law of Magnetic Control”

d. “Định luật Kiểm soát Từ tính”

relating primarily to the logoic, monadic, atmic and buddhic planes respectively, do not affect the human being as he lives his life in the three worlds.

chủ yếu liên hệ với các cõi logoic, chân thần, atma và Bồ đề tương ứng, không ảnh hưởng đến con người khi y sống trong ba cõi.

2. The systemic laws now under discussion relate to the three lower planes of the lower three worlds whereon the average human being is focussed.

2. Các định luật hệ thống hiện đang được bàn liên hệ đến ba cõi thấp của ba cõi giới thấp, nơi người trung bình tập trung.

These laws are all dominated and controlled eventually by the three higher laws in the system—the Laws of Magnetic Control, of Disintegration, and of Cohesion.

Những định luật này rồi sẽ bị chi phối và điều khiển bởi ba định luật cao hơn trong hệ thống—các Định luật Kiểm soát Từ tính, Phân rã và Kết dính.

3. We note that the “Law of Vibration” is not mentioned as a law controlling one of the lower three laws. even though it is the highest of the laws of the solar system.

3. Chúng ta ghi nhận rằng “Định luật Rung động” không được nêu như một định luật chi phối một trong ba định luật thấp, mặc dù nó là định luật cao nhất của hệ mặt trời.

4. It is evident that the laws mentioned (Magnetic Control, Disintegration and Cohesion) are not all of the three higher laws in the system. The “Law of Vibration” is missing and it is the highest of the laws of the solar system.

4. Hiển nhiên các định luật vừa nêu (Kiểm soát Từ tính, Phân rã và Kết dính) không phải là toàn bộ ba định luật cao hơn trong hệ thống. “Định luật Rung động” bị thiếu và nó là định luật cao nhất của hệ mặt trời.

5. Can we compare the three lower with the three higher laws here mentioned?

5. Chúng ta có thể so sánh ba định luật thấp với ba định luật cao được nêu ở đây chăng?

6. The “Law of Magnetic Control”, we were told, directly affects the Ego functioning through the causal body. Will this mean that it will control the “Law of Fixation”?

6. Như chúng ta được dạy, “Định luật Kiểm soát Từ tính” trực tiếp ảnh hưởng đến Chân ngã hoạt động qua thể nguyên nhân. Điều này có nghĩa là nó sẽ kiểm soát “Định luật Cố định” chăng?

On the plane of buddhi, as the law of magnetic control.  It shows itself as the love-wisdom aspect, irradiating the ego, and eventually gathering to itself the essence of all experience, garnered, via the Ego, through the personality lives, and controlled throughout from the plane of buddhi. (TCF 576)

Trên cõi Bồ đề, như định luật kiểm soát từ tính. Nó tự hiển như phương diện Bác Ái – Minh Triết, chiếu rọi vào Chân ngã, và rốt cuộc thu hút về mình tinh túy của mọi kinh nghiệm, thu hoạch được, qua Chân ngã, thông qua các đời phàm ngã, và được điều khiển suốt dọc từ cõi Bồ đề. (TCF 576)

7. We have already, seen, however that along the 2-4-6 line, the “Law of Magnetic Control” could be linked to the “Law of Love”.

7. Tuy vậy, chúng ta đã thấy rằng trên trục 2-4-6, “Định luật Kiểm soát Từ tính” có thể liên hệ với “Định luật Bác ái”.

8. We have also seen that there is a direct connection between the “Law of Disintegration” and the “Law of Sacrifice and Death”.

8. Chúng ta cũng đã thấy rằng có một mối liên hệ trực tiếp giữa “Định luật Phân rã” và “Định luật Hiến tế và Tử vong”.

We can trace the connection between the atmic and the physical plane (demonstrating on the lower plane as the law of sacrifice and death)… (TCF 581)

Chúng ta có thể lần theo mối liên hệ giữa cõi atma và cõi hồng trần (biểu hiện trên cõi thấp như định luật hiến tế và tử vong)… (TCF 581)

This law links itself to the third law, that of Disintegration following the connection that always exists between the atmic and the physical plane. (TCF 596)

Định luật này nối mình với định luật thứ ba, tức Phân rã, theo sau mối liên hệ luôn luôn tồn tại giữa cõi atma và cõi hồng trần. (TCF 596)

9. This might leave the “Law of Cohesion” to be paired with the “Law of Love”.

9. Điều này có thể để “Định luật Kết dính” ghép đôi với “Định luật Bác ái”.

10. If what is here suggested is true, the method of pairing is not symmetrical.

10. Nếu điều gợi ý ở đây là đúng, thì phương pháp ghép đôi là không đối xứng.

There is a direct connection between these seven laws and the seven Rays or Vibrations, and if we study the corres­pondence we shall recognise the fact that the first law, that of Vibration, is the controlling law of the six, demonstrat­ing through the second law, that of Cohesion, just as the solar Logos is at this time manifesting Himself through His second aspect in this the second solar system.

Có một mối liên hệ trực tiếp giữa bảy định luật này và bảy Cung hay Rung động, và nếu chúng ta khảo sát sự tương ứng, chúng ta sẽ nhận ra rằng định luật thứ nhất, tức Rung động, là định luật kiểm soát sáu định luật kia, biểu hiện qua định luật thứ hai, tức Kết dính , cũng như Thái dương Thượng đế hiện đang tự biểu lộ qua phương diện thứ hai của Ngài trong hệ mặt trời thứ hai này.

11. It is obvious that the seven laws and the seven rays are correlated.

11. Hiển nhiên bảy định luật và bảy cung được tương liên.

12. It is significant that the “seven Rays” are called “Vibrations”. This links the seven rays to the seven fundamental vibrations or frequencies on the atomic sub-plane of each systemic plane.

12. Đáng chú ý là “bảy Cung” được gọi là “Rung động”. Điều này nối bảy cung với bảy rung động hay tần số căn bản trên cõi nguyên tử của mỗi cõi hệ thống.

13. DK makes an analogy which connects the Solar Logos with the “Law of Vibration” and the second aspect of the solar system (through which the Solar Logos demonstrates) with the “Law of Cohesion”.

13. Chân sư DK làm một phép liên tưởng kết nối Thái dương Thượng đế với “Định luật Rung động” và phương diện thứ hai của hệ mặt trời (qua đó Thái dương Thượng đế biểu lộ) với “Định luật Kết dính”.

14. We have seen that the Solar Logos manifests particularly in relation to the first systemic plane (just as the Planetary Logoi manifest primarily through the second systemic plane). Since the “Law of Vibration” correlates with the first systemic plane, a relation exists between it and the power of the Solar Logos.

14. Chúng ta đã thấy rằng Thái dương Thượng đế biểu lộ đặc biệt liên hệ với cõi hệ thống thứ nhất (cũng như các Hành Tinh Thượng đế chủ yếu biểu lộ qua cõi hệ thống thứ hai). Vì “Định luật Rung động” tương liên với cõi hệ thống thứ nhất, nên tồn tại mối liên hệ giữa định luật này và quyền năng của Thái dương Thượng đế.

15. There is a fundamental simplicity operating through the “Law of Vibration”; all other laws are based upon the tempo or frequency of vibration. Both attraction and separation are based on difference in frequency.

15. Có một tính đơn giản căn để vận hành xuyên suốt “Định luật Rung động”; mọi định luật khác đều dựa trên nhịp điệu hay tần số rung động. Cả hấp dẫn lẫn phân ly đều dựa trên sai khác tần số.

The first Ray of Will or Power is the first aspect of the All-self,

Phương diện thứ nhất của Ý Chí hay Quyền Lực là phương diện thứ nhất của Đại Ngã,

16. In this context the “All-self” seems to be the Solar Logos, the God of the immediate ‘universe’ in which we live and move and have our being.

16. Trong ngữ cảnh này, “Đại Ngã” có vẻ là Thái dương Thượng đế, Thượng đế của “vũ trụ” cận kề mà trong đó chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu.

and in the third outpouring, 83 came [587] down to the fifth plane, along with the other monads.

và trong lần tuôn đổ thứ ba, 83 đã đi [587] xuống cõi thứ năm, cùng với các Chân Thần khác.

17. There is a close connection between the first and fifth rays. This is seen in the Tetraktys. It is also understood by the fact that fifth ray egos when refocussing on one of the Rays of Aspect, merge along the first ray line of force and become first ray egos.

17. Có một mối liên hệ mật thiết giữa cung một và cung năm. Điều này được thấy trong Tetraktys. Nó cũng được hiểu qua sự kiện rằng các Chân ngã cung năm khi tái tập trung trên một trong các Cung Trạng Thái, thì hòa nhập theo đường lực cung một và trở thành các Chân ngã cung một.

18. The first Ray of Will or Power ‘descended’ to the fifth plane, the mental plane. DK seems to be calling this first ray a ‘Monad’ because He says the Ray “came down to the fifth plane, along with the other monads”. Of course, every E/entity is essentially a Monad.

18. Phương diện thứ nhất của Ý Chí hay Quyền Lực “giáng xuống” cõi thứ năm, cõi trí. Chân sư DK dường như gọi phương diện thứ nhất này là một “Chân Thần” bởi vì Ngài nói Cung ấy “đi xuống cõi thứ năm, cùng với các Chân Thần khác”. Dĩ nhiên, mọi Hữu thể đều cốt yếu là một Chân Thần.

19. Below is the diagram of “The Three Outpourings”

19. Dưới đây là sơ đồ “Ba Lần Tuôn Đổ”

FOOTNOTE 83:

CHÚ THÍCH 83:

The Three Outpourings. “In the diagram the symbols of the three Aspects (of the Logos) are placed outside of time and space, and only the streams of influence from them descend into our system of planes….

Ba Lần Tuôn Đổ. “Trong sơ đồ, các biểu tượng của ba Phương diện (của Thượng đế) được đặt bên ngoài thời gian và không gian, và chỉ các dòng ảnh hưởng từ các Ngài giáng vào hệ thống các cõi của chúng ta….

20. Our “system of planes” is considered the seven solar planes of the cosmic physical plane.

20. “Hệ thống các cõi” của chúng ta được xem là bảy cõi thái dương thuộc cõi hồng trần vũ trụ.

21. It is as if DK considers the worlds of time and space to be all that transpires upon the cosmic physical plane.

21. Cứ như thể Chân sư DK xem các thế giới của thời gian và không gian là tất cả những gì diễn ra trên cõi hồng trần vũ trụ.

22. The “Kosmic” planes in this diagram are the planes we name as the cosmic physical plane, the cosmic astral plane, the cosmic mental plane, etc.

22. Các “cõi Vũ trụ” trong sơ đồ này là các cõi mà chúng ta gọi là cõi hồng trần vũ trụ, cõi cảm dục vũ trụ, cõi trí vũ trụ, v.v.

23. The three symbols for the Three Logoi are “placed outside of time and space” but ‘where’? Probably it is possible to trace the origin of these streams of influence to the cosmic monadic plane. This would be a cosmic ‘location’ far ‘above’ anything illustrated in the early Theosophical literature.

23. Cần lưu ý rằng ba biểu tượng cho Ba Ngôi được “đặt bên ngoài thời gian và không gian” nhưng “ở đâu”? Có lẽ có thể lần ngược nguồn của các dòng ảnh hưởng này lên đến cõi chân thần vũ trụ. Đó sẽ là một “vị trí” vũ trụ cao “hơn” bất cứ điều gì được minh họa trong văn liệu Thông Thiên Học thời kỳ đầu.

They represent in due order what are commonly called the three Persons of the Trinity….

Chúng biểu thị theo trình tự lần lượt những gì thường được gọi là ba Ngôi của Tam Vị….

24. These Three Persons are diagramed in Chart XIII (TCF 1238-1239). There They are seen as subsidiary to the Solar Logos (the “All-self” in this context).

24. Ba Ngôi này được minh họa trong Biểu đồ XIII (TCF 1238-1239). Ở đó, Các Ngài được thấy là phụ thuộc Thái dương Thượng đế (trong ngữ cảnh này là “Đại Ngã”).

It will be seen that from each of them an outpouring of life or force is projected into the planes below.

Sẽ thấy rằng từ mỗi Ngôi có một dòng tuôn đổ sự sống hay lực được phóng chiếu xuống các cõi bên dưới.

25. We are speaking of developments which occur strictly in relation to the lowest of the “Kosmic” planes, the cosmic physical plane. Upon these seven solar planes all of humanity’s presently conceivable development occurs. Humanity’s inconceivable development will take place on planes ‘above’ the cosmic physical but, then, humanity will not be “humanity”, per se.

25. Chúng ta đang nói về những diễn tiến diễn ra nghiêm ngặt trong tương quan với cõi thấp nhất của các “cõi Vũ trụ”, tức cõi hồng trần vũ trụ. Trên bảy cõi thái dương này, toàn bộ phát triển hiện có thể quan niệm của nhân loại diễn ra. Sự phát triển không thể quan niệm của nhân loại sẽ diễn ra trên các cõi “cao hơn” cõi hồng trần vũ trụ, nhưng khi ấy, nhân loại sẽ không còn là “nhân loại” theo nghĩa thông thường nữa.

The first of these in order is the straight line which descends from the third Aspect;

Lần thứ nhất theo thứ tự là đường thẳng đi xuống từ Phương diện thứ ba;

26. This is the descent of Fohat in seven streams of force creating the diversified matter of the atomic sub-planes of the seven solar planes.

26. Đây là sự giáng hạ của Fohat trong bảy dòng lực tạo ra vật chất sai biệt của các cõi nguyên tử thuộc bảy cõi thái dương.

the second is that part of the large oval which lies on our left hand—the stream which descends from the second Aspect until it has touched the lowest point in matter, and then rises again up the side on our right hand until it reaches the lower mental level.

lần thứ hai là phần của hình bầu dục lớn nằm phía tay trái của chúng ta—dòng tuôn đổ giáng xuống từ Phương diện thứ hai cho đến khi chạm đáy thấp nhất của vật chất, rồi lại dâng lên phía tay phải của chúng ta cho đến khi đạt đến cõi trí hạ phân.

27. This is the outgoing and incoming journey of the Vishnu or form-building aspect. The returning or evolutionary part of the oval is, in a way, incomplete. It does not rise beyond the lower mental plane.

27. Đây là hành trình xuất ly và hoàn nguyên của phương diện Vishnu hay xây dựng hình tướng. Phần trở lên hay tiến hóa của hình bầu dục, theo một nghĩa nào đó, là chưa hoàn tất. Nó không dâng lên vượt quá cõi trí hạ phân.

It will be noted that in both of these outpourings the divine life becomes darker and more veiled as it descends into matter, until at the lowest point we might almost fail to recognise it as divine life at all; but as it rises again when it has passed its nadir it shows itself somewhat more clearly.

Cần lưu ý rằng trong cả hai lần tuôn đổ này, sự sống thiêng liêng trở nên tối tăm hơn và bị che mờ nhiều hơn khi giáng vào vật chất, cho đến ở điểm thấp nhất chúng ta hầu như không còn nhận ra đó là sự sống thiêng liêng nữa; nhưng khi nó lại thăng dần sau khi đã vượt qua điểm đáy, nó tỏ hiện phần nào rõ hơn.

28. This darkening and subsequent lightening after the returning arc is begun is apparently not depicted on this diagram. The assertion, however, makes sense and is commonly credited as true. Perhaps as this diagram appears in The Christian Creed the darkening and lightening are depicted.

28. Sự tối đi và rồi sáng lại sau khi bắt đầu cung trở về này dường như không được minh họa trên sơ đồ. Tuy vậy, khẳng định ấy có lý và nói chung được thừa nhận là đúng. Có lẽ vì sơ đồ này xuất hiện trong Tín Điều Kitô giáo nên sự tối đi và sáng lại được minh họa.

The third outpouring which descends from the highest aspect of the Logos differs from the others in that it is in no way clouded by the matter through which it passes, but retains its virgin purity and splendour untarnished.

Lần tuôn đổ thứ ba giáng xuống từ phương diện cao nhất của Thượng đế khác với hai lần kia ở chỗ nó không hề bị vẩn đục bởi vật chất mà nó đi qua, nhưng giữ nguyên sự tinh khiết trinh nguyên và hào quang không hề hoen ố .

29. Another way of saying this is, that in its descent, the splendor of the Monad is uncompromised by the lowering frequencies of the dimensions through which it passes.

29. Nói cách khác, trong sự giáng hạ, quang huy của Chân Thần không bị hạ tần số của các chiều kích mà nó đi qua làm tổn hại.

It will be noted that this outpouring descends only to the level of the buddhic plane (the fourth plane) and that the link between the two is formed by a triangle in a circle, representing the individual soul of man—the reincarnating ego.

Cần lưu ý rằng lần tuôn đổ này chỉ giáng xuống đến cấp độ cõi Bồ đề (cõi thứ tư) và mối liên kết giữa hai phần được hình thành bởi một tam giác trong vòng tròn, tượng trưng cho linh hồn cá nhân của con người—chân ngã tái sinh.

30. It now becomes evident that the diagram of the Three Outpourings available in the text, A Treatise on Cosmic Fire is not the same as the one being reference from The Christian Creed. No triangle and circle are to be found. However the symbol mentioned suggests the Ego within the causal body and is found on another TCF diagram.

30. Giờ đây trở nên hiển nhiên rằng sơ đồ Ba Lần Tuôn Đổ có trong văn bản Luận về Lửa Vũ Trụ không giống với sơ đồ đang được dẫn từ Tín Điều Kitô giáo . Không có tam giác và vòng tròn. Tuy nhiên, biểu tượng vừa nêu gợi ra Chân ngã trong thể nguyên nhân và được tìm thấy trong một sơ đồ TCF khác.

31. The Monad is a solar being. It is “that which finds its home within the sun”. The lower three solar planes do not contain any principles of the Solar Logos and are considered dense, unprincipled matter. This may be the reason why the third outpouring descends no lower than the buddhic plane.

31. Chân Thần là một hữu thể thái dương . Nó là “cái tìm được nhà của mình trong mặt trời”. Ba cõi thái dương hạ không chứa bất kỳ nguyên khí nào của Thái dương Thượng đế và được xem là vật chất đậm đặc, vô nguyên khí. Đây có thể là lý do vì sao lần tuôn đổ thứ ba không giáng thấp hơn cõi Bồ đề.

Here the triangle is contributed by the third outpouring and the circle by the second….”—The Christian Creed, by C. W. Leadbeater, pp. 3

Ở đây tam giác do lần tuôn đổ thứ ba góp phần, còn vòng tròn là do lần tuôn đổ thứ hai….”—Tín Điều Kitô giáo, của Ông C. W. Leadbeater, tr. 3

32. The circle is the causal body which is built by the form-building second aspect of divinity. The triangle can be thought of as the triple Monad represented by the three aspects of the spiritual triad—atma, buddhi and manas. What we call the atmic, buddhic and manasic ‘extensions’ of the Monad were appropriated during the second outpouring.

32. Vòng tròn là thể nguyên nhân do phương diện thứ hai xây dựng hình tướng kiến tạo. Tam giác có thể được xem như Tam vị của Chân Thần được biểu hiện bởi ba phương diện của tam nguyên tinh thần—atma, Bồ đề và manas. Những “phần mở rộng” atmic, Bồ đề và manasic của Chân Thần mà chúng ta gọi như vậy đã được tiếp nhận trong lần tuôn đổ thứ hai.

It was at the time of the second outpouring that each of the divine centres of consciousness put forth a thread of being into an atom of the highest sub-planes of the atmic, the buddhic, and the manasic planes,—atoms destined to be the nuclei of the future bodies, each on its respective plane, the three forming the upper triad so often referred to. (EP I 168)

Chính vào thời điểm của lần tuôn đổ thứ hai mà mỗi trung tâm thần linh của tâm thức đã phóng ra một sợi chỉ sự sống vào một nguyên tử của các cõi phụ cao nhất của cõi atma, cõi Bồ đề và cõi manas,—các nguyên tử vốn được định làm hạch nhân của các thể tương lai, mỗi thể ở cõi tương ứng của nó, ba nguyên tử ấy hình thành tam nguyên thượng của con người vốn thường được nhắc đến. (EP I 168)

33. If the triangle represents the Will, Wisdom and Activity inherent in the Monad, then the triangle is related directly to the third outpouring and not to the second.

33. Nếu tam giác tượng trưng cho Ý Chí, Minh triết và Hoạt động vốn nội tại trong Chân Thần, thì tam giác được liên hệ trực tiếp với lần tuôn đổ thứ ba chứ không phải lần tuôn đổ thứ hai.

34. Not only the causal body but the entire egoic lotus can be related to the form-building second outpouring. Yet it would not have been created in the way it was unless the third outpouring had occurred.

34. Không chỉ thể nguyên nhân mà toàn bộ hoa sen chân ngã đều có thể liên hệ với lần tuôn đổ thứ hai xây dựng hình tướng. Tuy nhiên, nó sẽ không được kiến tạo theo cách đã có nếu lần tuôn đổ thứ ba không diễn ra.

A subtle correspondence exists between the monads of Will on the fifth plane, the fifth law, and the fifth Ray.

Tồn tại một sự tương ứng vi tế giữa các Chân Thần của Ý Chí trên cõi thứ năm, định luật thứ năm, và Cung thứ năm.

35. The Monads of Will are usually discussed in relation to the first sub-plane of the monadic plane. But since there is a close connection between the first and fifth rays (with fifth ray souls refocussing upon the first ray) the fifth ray, fifth law and fifth plane are all reasonably related to the expression of first ray Monads.

35. Các Chân Thần của Ý Chí thường được bàn trong liên hệ với cõi phụ thứ nhất của cõi chân thần . Nhưng vì có mối liên hệ mật thiết giữa cung một và cung năm (khi các linh hồn cung năm tái tập trung trên các Cung Trạng Thái, họ hòa nhập theo đường cung một), nên cung năm, định luật thứ năm và cõi thứ năm đều tương đối liên hệ với sự biểu hiện của các Chân Thần cung một.

36. The relationship here stated suggests much about the nature of Master Hilarion (once St. Paul), Who is the Chohan upon the fifth ray but Who has, we hypothesize, a powerful first ray behind that fifth ray. We hypothesize that He is a first ray Monad.

36. Mối liên hệ được nêu ở đây gợi mở nhiều điều về bản chất của Chân sư Hilarion (xưa là Thánh Phao-lô), Đấng là Chohan của cung năm nhưng theo phỏng đoán của chúng ta, có một cung một hùng hậu đứng phía sau cung năm ấy. Chúng ta giả định Ngài là một Chân Thần cung một.

37. It has yet to be established: “What are these Monads of Will on the fifth plane?” There was a monadic descent to the ‘edge’ of the fifth plane via the third outpouring, but it seems that all types of Monads were involved in that descent and not only Monads of Will or Power.

37. Còn chưa được xác quyết: “Các Chân Thần của Ý Chí trên cõi thứ năm là gì?” Đã có sự giáng hạ của các Chân Thần đến “ranh” của cõi thứ năm qua lần tuôn đổ thứ ba, nhưng dường như mọi loại Chân Thần đều dính dự vào sự giáng ấy chứ không chỉ các Chân Thần của Ý Chí hay Quyền Lực.

38. While DK seems to be indicating a relationship between Monads of Power and the fifth law, the “Law of Fixation”, He is not necessarily indicating a relationship between the law of the monadic plane (the “Law of Cohesion”) and the Law of Fixation. Yet, we must remember that a distinct and important relationship exists between the two and the five (seen, for instance, in Sirian and Venusian expression). We could say that fixation promotes cohesion, and that the tendency towards cohesion makes fixation possible.

38. Trong khi Chân sư DK có vẻ đang chỉ ra một mối liên hệ giữa các Chân Thần của Quyền Lực và định luật thứ năm, “Định luật Cố định”, Ngài không nhất thiết chỉ ra mối liên hệ giữa định luật thuộc cõi chân thần (“Định luật Kết dính”) và Định luật Cố định. Tuy vậy, chúng ta phải nhớ rằng tồn tại một mối liên hệ minh định và quan trọng giữa số hai và số năm (thấy, chẳng hạn, trong biểu hiện Sirius và Kim Tinh). Chúng ta có thể nói rằng sự cố định thúc đẩy sự kết dính , và khuynh hướng hướng đến kết dính khiến cố định khả hữu.

39. The relationship between the first and fifth rays is not always used in a benevolent manner. These two rays are particularly representative of the Black Lodge and in a more mundane sense, condition the “industrial-military complex”.

39. Mối quan hệ giữa cung một và cung năm không phải lúc nào cũng được sử dụng theo cách lành thiện. Hai cung này đặc biệt đại diện cho Hắc Đoàn và, ở bình diện thế tục hơn, quy định “tổ hợp công nghiệp – quân sự”.

V. The materialistic forces Planetary sacral centre Fifth Ray aspect Mind

V. Các lực vật chất Trung tâm xương cùng hành tinh Phương diện Cung Năm Thể trí

The Matter aspect. Conditioning substance. of First Ray Generation (EXH 89)

Phương diện Vật chất. Điều kiện hoá chất liệu. của Cung Một Sinh sản (EXH 89)

The second Ray or the Love-Wisdom aspect wields a control on the fourth and sixth planes, and dominates the Laws of Cohesion and Magnetic Control, and the astral Law of Love.

Phương diện Cung Hai hay Bác Ái – Minh Triết nắm quyền kiểm soát trên các cõi thứ tư và thứ sáu, và chi phối các Định luật Kết dính và Kiểm soát Từ tính, cùng Định luật Bác ái của cõi cảm dục.

40. This is, of course, clear and numerologically necessary.

40. Điều này, dĩ nhiên, rõ ràng và cần thiết về mặt số học.

41. We note here that the “Law of Love” is called the “astral Law of Love”. This law, expressing on the astral plane, indicates the possibility and goal that buddhic energy will suffuse that plane changing its character entirely.

41. Ở đây chúng ta lưu ý rằng “Định luật Bác ái” được gọi là “Định luật Bác ái cảm dục”. Định luật này, biểu hiện trên cõi cảm dục, chỉ ra khả tính và mục tiêu rằng năng lượng Bồ đề sẽ thấm nhuần cõi đó và chuyển đổi toàn bộ đặc tính của nó.

42. Perhaps DK characterizes this law in this way as the idea of the “Law of Love” is much greater than an astral plane expression.

42. Có lẽ Chân sư DK đặc trưng định luật này như vậy vì ý niệm “Định luật Bác ái” rộng lớn hơn nhiều so với một biểu hiện trên cõi cảm dục.

There is a direct interlinking between the abstract Rays and the laws of the planes where they specially control.

Tồn tại một sự liên kết trực tiếp giữa các Cung trừu tượng và các định luật của những cõi nơi chúng đặc biệt chi phối.

43. Although ray one is the principal ‘Ray of Abstraction’ and ray three is called the “Ray of Abstract Intelligence”, it is clear (in this context) that DK is naming rays two, four and six as the “abstract Rays”. At least ray six is called the “Ray of Abstract Idealism”.

43. Dẫu cung một là “Cung Trừu xuất” chủ yếu và cung ba được gọi là “Cung Trí tuệ Trừu tượng”, rõ ràng (trong ngữ cảnh này) Chân sư DK đang gọi các cung hai, bốn và sáu là “các Cung trừu tượng”. Ít nhất cung sáu được gọi là “Cung Lý tưởng Trừu tượng”.

44. The justification for calling these rays “abstract” is that they are most closely related to subjectivity rather than to the structure and condition of the form.

44. Cơ sở để gọi các cung này là “trừu tượng” là vì chúng liên hệ mật thiết nhất với tính chủ quan thay vì với cấu trúc và tình trạng của hình tướng.

The third Ray which is the Activity aspect, controls the Laws of Disintegration and of Death, on the third and seventh planes.

Cung Ba, vốn là phương diện Hoạt động, chi phối các Định luật Phân rã và Tử vong, trên các cõi thứ ba và thứ bảy.

45. DK makes the link between the three and the seven—the third law and the seventh law, just as suggested above. Death is a disintegration (at least of the form even though not of the consciousness).

45. Chân sư DK nối số ba với số bảy—định luật thứ ba và định luật thứ bảy—như đã gợi ý bên trên. Cái chết là một sự phân rã (ít nhất của hình tướng, cho dù không phải của tâm thức).

46. Although the seventh ray is directly related to the first, we see that there is an important relationship between the seventh ray and the third. We could wonder why seventh ray egos do not refocus upon the third ray on occasion. Perhaps they do. It was so in Master R.’s Ashram recently (when He moved to the position of Mahachohan (though “by special dispensation”).

46. Dẫu cung bảy liên hệ trực tiếp với cung một, chúng ta thấy tồn tại một mối liên hệ quan trọng giữa cung bảy và cung ba. Chúng ta có thể tự hỏi vì sao các Chân ngã cung bảy không tái tập trung trên cung ba đôi khi. Có lẽ họ có. Điều đó đã diễn ra trong Đạo viện của Chân sư R. gần đây (khi Ngài chuyển đến vị trí Mahachohan, dù là “do sự chuẩn thuận đặc biệt”).

Therefore, it will be apparent to the careful student of the wisdom that:

Vì vậy, điều này sẽ hiển nhiên đối với đạo sinh thận trọng của Minh triết rằng:

47. Are we that—”careful” students of the wisdom?”

47. Chúng ta có phải là những “đạo sinh” thận trọng của Minh triết chăng?

1. The Power Aspect—Ray 1, Planes 1 and 5, and the Laws of Fixation and Vibration, form one interlocking whole.

1. Phương diện Quyền Lực —Cung 1, các Cõi 1 và 5, và các Định luật Cố định và Rung động, hình thành một chỉnh thể ăn khớp.

48. This is certainly clear. However, when DK said the following, He did not include the “Law of Vibration” in the enumeration:

48. Điều này chắc chắn rõ ràng. Tuy nhiên, khi Chân sư DK nói như sau, Ngài đã không đưa “Định luật Rung động” vào liệt kê:

These laws [i.e., the three laws relating to the three lower planes] are all dominated and controlled eventually by the three higher laws in the system—the Laws of Magnetic Control, of Disintegration, and of Cohesion.

Những định luật này [tức ba định luật liên hệ với ba cõi thấp] rốt cuộc đều bị chi phối và điều khiển bởi ba định luật cao hơn trong hệ thống—các Định luật Kiểm soát Từ tính, Phân rã và Kết dính.

49. Why was the “Law of Vibration” left out of this enumeration? By doing so a very evident symmetry was apparently distorted.

49. Vì sao “Định luật Rung động” bị bỏ ra khỏi liệt kê này? Khi làm vậy, một tính đối xứng hiển nhiên dường như bị phá vỡ.

50. Yet, the fact that DK left it out, caused us to think about the relationships between the three mentioned higher laws and the three lower laws of Fixation, Love, and Disintegration and Death.

50. Tuy vậy, chính việc Chân sư DK bỏ nó ra đã khiến chúng ta suy nghĩ về mối liên hệ giữa ba định luật cao hơn được nêu và ba định luật thấp hơn là Cố định, Bác ái, và Phân rã và Tử vong.

2. The Love Aspect—Ray 2, Planes 2, 4, 6, and the Laws of Cohesion, Magnetic Control, and of Love, form another unit.

2. Phương diện Bác ái —Cung 2, các Cõi 2, 4, 6, và các Định luật Kết dính, Kiểm soát Từ tính, và Bác ái, hình thành một đơn vị khác.

51. Again, this is clear and logical.

51. Một lần nữa, điều này rõ ràng và hợp lẽ.

3.  The Activity Aspect—Ray 3, Planes 3 and 7, and the Laws of Disintegration, Sacrifice and Death, make still another group.

3. Phương diện Hoạt động —cung ba, các cõi 3 và 7, và các Định luật Phân rã, Hy sinh và Chết, tạo thành thêm một nhóm khác.

52. This, too, is logical and was just discussed.

52. Điều này cũng hợp lẽ và vừa được bàn.

53. When one thinks about how those upon the minor soul rays resolve onto major one, the pattern just offered comes very close to the method of resolution, except that those on ray seven resolve primarily onto ray one and not ray three.

53. Khi người ta nghĩ về cách những ai ở trên các cung linh hồn phụ quy về cung chính, mô hình vừa nêu rất gần với phương pháp quy hợp, trừ việc những ai thuộc cung bảy quy chủ yếu về cung một chứ không phải cung ba.

54. So DK has given us a grouping of the laws—grouping higher laws with the lower laws. In the earlier reference, He mentioned the “Law of Magnetic Control” as a higher law of the system and excluded the “Law of Vibration”. In the grouping immediately above He speaks largely in terms of the three aspects and groups the laws according to the aspects to which they are most related. The “Law of Magnetic Control” is no longer mentioned as a higher law and the “Law of Vibration” is reintroduced.

54. Vì vậy, Chân sư DK đã đưa cho chúng ta một sự nhóm các định luật—ghép các định luật cao với các định luật thấp. Trong dẫn chiếu trước đó, Ngài nêu “Định luật Kiểm soát Từ lực” như một định luật cao của hệ và loại trừ “Định luật Rung động”. Trong sắp nhóm ngay trên, Ngài nói phần lớn theo các phương diện ba ngôi và nhóm các định luật theo những phương diện mà chúng liên hệ mật thiết nhất. “Định luật Kiểm soát Từ lực” không còn được nhắc như một định luật cao và “Định luật Rung động” được đưa trở lại.

It is logical for the first Ray only to have control, as yet, on two planes, for the Power Aspect waits for another system in order to demonstrate in full development.

Hợp lẽ rằng chỉ Cung một hiện thời có sự kiểm soát trên hai cõi, vì Phương diện Quyền lực chờ một hệ khác để biểu lộ trọn vẹn.

55. The planes on which the first ray has control appear to be the first or logoic plane and the fifth or mental plane. Yet, let us remember, as stated above, that the “Law of Vibration” demonstrate through the “Law of Cohesion”, and thus, through the second plane to which the “Law of Cohesion” is most closely related.

55. Những cõi mà cung một có sự kiểm soát dường như là cõi thứ nhất hay cõi logoic và cõi thứ năm hay cõi trí. Tuy vậy, hãy nhớ, như đã nói ở trên, rằng “Định luật Rung động” biểu hiện qua “Định luật Kết dính”, và do đó, qua cõi thứ hai mà “Định luật Kết dính” liên hệ gần gũi nhất.

56. Between the first ray and the fifth ray there is a direct conduit, but we cannot think why it should be considered more direct than the conduit between rays one and seven.

56. Giữa cung một và cung năm có một kênh dẫn trực tiếp, nhưng chúng ta không thấy vì sao nó lại được xem là trực tiếp hơn kênh dẫn giữa cung một và cung bảy.

Ray two, the synthetic Ray for our system, controls [588] on three planes; it has the preponderance, for paramountly we are the Monads of Love, and Love is our synthesis.

Cung hai, Cung tổng hợp cho hệ của chúng ta, kiểm soát [ 588] trên ba cõi; nó chiếm ưu thế, vì trước hết và trên hết chúng ta là các Chân thần của Tình thương, và Tình thương là sự tổng hợp của chúng ta.

57. Just the vegetable kingdom supports the expression of three rays, whereas the animal and mineral kingdom are only associated with two rays, so the ray most closely associated with the vegetable kingdom (the second ray) “controls on three planes”—the second, fourth and sixth. The rays associated with the second, fourth and sixth planes are the second, fourth and sixth rays—the very ones which express through the vegetable kingdom. Since Venus rules the vegetable kingdom, it must have a close association with these three rays.

57. Chính giới thực vật nâng đỡ sự biểu lộ của ba cung, trong khi giới động vật và giới khoáng vật chỉ liên hệ với hai cung, do đó, cung liên hệ mật thiết nhất với giới thực vật (cung hai) “kiểm soát trên ba cõi”—cõi thứ hai, thứ tư và thứ sáu. Các cung liên quan với các cõi thứ hai, thứ tư và thứ sáu là các cung hai, bốn và sáu—chính là những cung biểu hiện qua giới thực vật. Vì Sao Kim cai quản giới thực vật, nó hẳn có liên hệ gần gũi với ba cung này.

58. How is Master DK identifying when He makes the statement above: “for paramountly we are the Monads of Love…” Is He identifying with humanity in general, or does the term “we” give a hint concerning His own monadic nature?

58. Chân sư DK đang đồng hóa với ai khi Ngài phát biểu ở trên: “vì trước hết và trên hết chúng ta là các Chân thần của Tình thương…”? Ngài đang đồng hóa với nhân loại nói chung, hay từ “chúng ta” gợi ý gì về bản tánh chân thần riêng của Ngài?

59. If the Buddha can be a third ray Monad (and this is established by the fact that He is one of nine who can have three separate, simultaneous appearances), then Master DK can certainly be so.

59. Nếu Đức Phật có thể là một Chân thần cung ba (và điều này được xác lập bởi thực tế rằng Ngài là một trong chín Vị có thể có ba lần xuất hiện riêng biệt, đồng thời), thì Chân sư DK hẳn nhiên cũng có thể như vậy.

60. Yet, in another important reference when He uses the term “we” He seems to be hinting that He is not from the first solar system. Through the use of the word “we” in this context is He also hinting something about his own nature?

60. Tuy nhiên, trong một dẫn chiếu quan trọng khác, khi Ngài dùng từ “chúng ta” Ngài dường như ám chỉ rằng Ngài không đến từ hệ mặt trời thứ nhất. Qua việc dùng từ “chúng ta” trong ngữ cảnh này, liệu Ngài cũng đang gợi mở điều gì về bản tánh riêng của Ngài?

Our earth humanity and the group of human beings who are far more ancient in their origin than we are, will form one humanity and then there will be peace on earth. (EXH 77)

Nhân loại địa cầu của chúng ta và nhóm những con người vốn cổ xưa hơn chúng ta rất nhiều về nguồn gốc hơn chúng ta , sẽ hợp thành một nhân loại và rồi sẽ có hòa bình trên Trái Đất. (EXH 77)

61. In this context DK is definitely speaking of “the previous system” and is stating that He is not from it.

61. Trong ngữ cảnh này, DK rõ ràng đang nói về “hệ trước” và khẳng định rằng Ngài không từ đó.

62. Yet, the Monads of Love are found in the majority in this solar system, and (in using the word “we” in relation to the Monads of Love) DK may be identifying Himself as a entity from this solar system, and not as an entity from the past solar system, thus, reinforcing the message of the text reference above.

62. Tuy vậy, các Chân thần của Tình thương chiếm đa số trong hệ mặt trời này, và (khi dùng từ “chúng ta” liên hệ đến các Chân thần của Tình thương) DK có thể đang đồng hóa chính Ngài như một thực thể thuộc hệ mặt trời này, chứ không phải một thực thể từ hệ mặt trời quá khứ, nhờ đó, củng cố thông điệp của dẫn chiếu văn bản trên.

63. This seems likely, because if His identification was with the Monads who pass through the Earth-scheme, He would have to say, ‘we are primarily Monads of Intelligence’ for the majority of Monads which pass through the Earth-scheme are Monads of Intelligence. (cf. EP II 101) So, He appears to be thinking in terms of the second solar system and of the preponderance of Monads in that second system. Nevertheless, there is good reason to believe that His Monad is upon the third ray, identifying Him with Mercury, just as the Buddha is identified with Mercury.

63. Điều này có vẻ khả tín, vì nếu sự đồng hóa của Ngài là với các Chân thần đi qua Hệ-Địa Cầu, Ngài hẳn phải nói, ‘chúng ta chủ yếu là các Chân thần của Trí tuệ’ bởi đa số các Chân thần đi qua Hệ-Địa Cầu là các Chân thần của Trí tuệ. (x. EP II 101) Vậy, Ngài dường như đang nghĩ theo hạn từ của hệ mặt trời thứ hai và về tính áp đảo của các Chân thần trong hệ thứ hai ấy. Dù vậy, có lý do chính đáng để tin rằng Chân thần của Ngài ở trên cung ba, gắn Ngài với Sao Thủy, y như Đức Phật được gắn với Sao Thủy.

Ray three, the dominant Ray of the system which is past, its synthetic Ray, controls on two planes, and on one that is little under­stood, for, just as the physical body is not con­sid­ered a principle, so there is a sphere of activity that is not included in our enumeration, it is past and gone.  Some expla­nation of this lies hid in the occult words, “The Eighth Sphere.”

Cung ba, Cung trội của hệ đã qua, Cung tổng hợp của nó, kiểm soát trên hai cõi, và trên một cõi ít được hiểu, vì, cũng như thể xác không được xem là một nguyên khí, nên có một khu vực hoạt động không được kể vào trong sự liệt kê của chúng ta, nó đã thuộc về quá khứ và đã đi qua. Một phần giải minh về điều này ẩn giấu trong những từ huyền bí, “Quả cầu thứ Tám.”

64. We have here a very amazing reference. Planes three and seven are allied, but a kind of ‘plane eight’ should also be included. If we are discussing the “Eighth Sphere” we have an association with a sphere of activity which existed in the previous solar system but no longer exists in any manner integrated with our own system. Its presence existence is as a ‘sphere of retrogression’—a negatively magnetic sub-tone of the tones sounding in our present solar system.

64. Ở đây chúng ta có một dẫn chiếu hết sức kỳ lạ. Các cõi ba và bảy liên kết, nhưng một loại ‘cõi tám’ cũng nên được kể đến. Nếu chúng ta đang bàn về “Quả cầu thứ Tám” thì chúng ta có một liên hệ với một khu vực hoạt động từng hiện hữu trong hệ mặt trời trước nhưng không còn hiện hữu theo bất kỳ cách nào được tích hợp với hệ của chúng ta. Sự hiện tồn của nó là như một ‘quả cầu thoái hóa’—một âm phụ mang tính từ tính âm của các chủ âm đang ngân vang trong hệ mặt trời hiện tại của chúng ta.

65. Perhaps the dense physical plane (in its three states of solid, liquid and gas) counts as a kind of eighth sphere. It has been stated that the physical matter is directly associated with the third ray rather than the seventh (which is associated with the etheric body).

65. Có lẽ cõi hồng trần đậm đặc (trong ba trạng thái đặc, lỏng và khí) được kể như một loại quả cầu thứ tám. Người ta đã nói rằng chất vật lý liên hệ trực tiếp với cung ba hơn là với cung bảy (cung liên hệ với thể dĩ thái).

66. Of these three lower systemic sub-planes, the very dense and the liquid are the two sub-planes definitely not to be included in the physical nature of man. The gaseous sub-plane has a higher function and can be considered the lowest of the physical sub-planes appropriated by man in the creation of his physical-etheric body.

66. Trong ba cõi phụ hồng trần hệ thống thấp này, cõi phụ rất đậm đặc và cõi phụ lỏng là hai cõi phụ chắc chắn không được tính vào bản tánh thể xác của con người. Cõi phụ khí có một chức năng cao hơn và có thể được xem là thấp nhất trong các cõi phụ hồng trần được con người chiếm dụng khi tạo nên thể hồng trần–dĩ thái của y.

67. The numbers three and eight are otherwise associated as well. The third Creative Hierarchy (third of the manifested Creative Hierarchies) is also the eighth (counting from the highest of the liberated Creative Hierarchies on the cosmic astral plane). We are told that it is the rejection of the Triads (the name for the Third/Eighth Creative Hierarchy, which precipitates a man into the “eighth sphere”. The connection is unmistakable.

67. Các con số ba và tám cũng liên hệ theo cách khác nữa. Huyền Giai Sáng Tạo thứ ba (thứ ba trong các Huyền Giai Sáng Tạo đã biểu hiện) cũng là thứ tám (đếm từ cao nhất của các Huyền Giai Sáng Tạo được giải thoát trên cõi cảm dục vũ trụ). Chúng ta được cho biết rằng chính sự bị loại bỏ của các Tam nguyên (tên gọi của Huyền Giai Sáng Tạo Thứ Ba/Thứ Tám) là điều khiến một người rơi vào “quả cầu thứ tám”. Mối liên kết này là không thể lầm lẫn.

68. There is also a sense in which the lower mental planes can become a sphere unto themselves, and that this isolation of the concrete mind into a self-contained, soul-resistant sphere is the worst disaster that can befall a human being. Perhaps, an isolated lower mental vehicle can be called an eighth sphere, of a kind. It could be ruled by the third ray, but one cannot see why it should not be more ruled by the lower fifth ray.

68. Cũng có một nghĩa theo đó các cõi hạ trí có thể trở thành một quả cầu cho riêng chúng, và sự cô lập của trí cụ thể thành một quả cầu khép kín, kháng-cự linh hồn là tai ương tệ hại nhất có thể giáng lên một con người. Có lẽ, một vận cụ hạ trí cô lập có thể được gọi là một quả cầu thứ tám, theo một nghĩa nào đó. Nó có thể do cung ba cai quản, nhưng người ta khó thấy vì sao nó lại không chịu sự cai quản nhiều hơn bởi cung năm hạ.

69. When looking for the “eighth sphere” we simply must remember that there is a plane ‘lower’ than what we call the physical and it is ‘here’. This plane is a kind of sub-tone of the seven systemic planes.

69. Khi tìm “quả cầu thứ tám” chúng ta đơn giản phải nhớ rằng có một cõi ‘thấp hơn’ cái mà chúng ta gọi là cõi hồng trần và nó ‘ở đây’. Cõi này là một loại âm phụ của bảy cõi hệ thống.

70. It would seem that two conduits to this ‘undertone-plane’ are the hardened concrete mind and the lower two sub-planes of the systemic physical plane.

70. Có vẻ như hai kênh dẫn tới ‘cõi âm-phụ’ ấy là cái trí cụ thể bị hóa cứng và hai cõi phụ thấp của cõi hồng trần hệ thống.

In regard to the four minor Rays of Harmony, Concrete Science, Devotion and Ceremonial Order, their control exists in degrees on all the planes, but they have their particular emphasis in the evolution of the reincarnating ego in the three worlds at this time.

Liên quan đến bốn Cung phụ là Hài hòa, Khoa học Cụ thể, Sùng tín và Nghi lễ Trật tự, sự kiểm soát của chúng hiện hữu theo cấp độ trên tất cả các cõi, nhưng chúng nhấn mạnh đặc thù vào diễn trình tiến hóa của chân ngã luân hồi trong ba cõi thấp vào thời điểm này.

71. DK is telling us that each of these rays exerts some degree of control on all the solar planes—at least in relation to sub-planes.

71. DK đang cho chúng ta biết rằng mỗi cung trong số này tác động một mức độ kiểm soát nào đó trên tất cả các cõi thái dương—ít nhất là liên quan đến các cõi phụ.

72. The reincarnating ego works through the lower quaternary at this time and the four Rays of Attribute are particularly associated with this quaternary.

72. Chân ngã luân hồi vận hành qua bộ tứ hạ vào thời điểm này và bốn Cung Thuộc Tính đặc biệt liên hệ với bộ tứ này.

73. Is the personality threefold or fourfold? If the fourth elemental is counted (the elemental which is the occult sum of the lower three elementals) then the lower personality is fourfold.

73. Phàm ngã là tam phân hay tứ phân? Nếu kể cả hành khí thứ tư (hành khí là tổng số huyền bí của ba hành khí thấp) thì phàm ngã thấp là tứ phân.

74. We can understand that the fifth, sixth and seventh rays have a natural affinity with the three lower worlds. The fourth ray has a natural affinity with the fourth or buddhic plane, but not with any planes in the three lower worlds—only with sub-planes and with fourfold structures like the personality which is found in the three lower worlds.

74. Chúng ta có thể hiểu rằng các cung năm, sáu và bảy có một đồng cảm tự nhiên với ba cõi thấp. Cung bốn có một đồng cảm tự nhiên với cõi thứ tư hay cõi Bồ đề, nhưng không với bất kỳ cõi nào trong ba cõi thấp—chỉ với các cõi phụ và với những cấu trúc tứ phân như phàm ngã vốn được tìm thấy trong ba cõi thấp.

These four Rays control, in a subtle and peculiar manner, the four kingdoms of nature—mineral, vegetable, animal and human—

Bốn Cung này kiểm soát, theo một cách vi tế và đặc dị, bốn giới trong thiên nhiên—kim thạch, thực vật, động vật và nhân loại—

75. We can look at this control in various ways, but let us offer one assignment:

75. Chúng ta có thể nhìn sự kiểm soát này theo nhiều cách, nhưng hãy đưa ra một sự phân bổ như sau:

a. Ray four—the human kingdom

a. Cung bốn—giới nhân loại

b. Ray five—the animal kingdom (as it strives towards knowledge and individualization)

b. Cung năm—giới động vật (khi nó nỗ lực hướng tới tri thức và biệt ngã hóa)

c. Ray six—the vegetable kingdom (as it aspires upward towards the sun)

c. Cung sáu—giới thực vật (khi nó hướng vọng đi lên về phía mặt trời)

d. Ray seven—the mineral kingdom (in its ‘frozen’, crystalline aspect).

d. Cung bảy—giới kim thạch (trong phương diện ‘đông cứng’, kết tinh của nó).

and at their merging into the three Rays of Aspect (the Activity Ray of the Maha­chohan being the synthesiser of the lower four in our planetary scheme) have a correspondence with the merging of man (the product of the three kingdoms and the fourth) into the superman kingdom, the spiritual.

và trong sự nhập vào ba Cung Trạng Thái (Cung Hoạt động của MahaChohan là đấng tổng hợp của bốn cung thấp trong hệ hành tinh của chúng ta) có một tương ứng với sự nhập của con người (sản phẩm của ba giới và giới thứ tư) vào giới siêu nhân, tức giới tinh thần.

76. As man (the fourth kingdom) merges into the fifth kingdom (the “Kingdom of Souls”—the “superhuman kingdom”) so the four Rays of Attribute merge into the third ray, the “Ray of Brahma” or the “Ray of the Mahachohan”.

76. Như con người (giới thứ tư) nhập vào giới thứ năm (“Giới Linh hồn”—“giới siêu nhân”) thì bốn Cung Thuộc Tính cũng nhập vào cung ba, “Cung của Brahma” hay “Cung của MahaChohan”.

The fourth Ray and the fourth Kingdom form a point of harmony for the lower three, and all four then pass into the major or upper three.

Cung bốn và Giới thứ tư tạo nên một điểm hài hòa cho ba giới thấp, và cả bốn rồi đi vào ba cung chính yếu hay ba thượng.

77. It is significant that humanity is meant to harmonize the lower three kingdoms. Due attention will be given to this task during the Aquarian Age as the seventh ray (the ‘ray of ecology’) gains in strength.

77. Thật đáng kể rằng nhân loại được định là để hài hòa ba giới thấp. Sẽ dành sự quan tâm thích đáng cho công tác này trong Kỷ nguyên Bảo Bình khi cung bảy (cung ‘sinh thái’) gia tăng sức mạnh.

a. We can understand humanity’s responsibility in this regard—a responsibility far from fulfilled.

a. Chúng ta có thể hiểu trách nhiệm của nhân loại trong phương diện này—một trách nhiệm còn xa mới được hoàn thành.

78. Eventually, all the four lower rays pass into the “upper three”. They arose from the “upper three” and, thence, they return.

78. Rốt cuộc, cả bốn cung thấp sẽ đi vào “ba thượng”. Chúng khởi sinh từ “ba thượng” và, từ đó, chúng trở về.

This is worthy of our serious thought, and the analogy of the fourth plane will also be apparent.

Điều này đáng để chúng ta suy tư nghiêm cẩn, và phép tương đồng của cõi thứ tư cũng sẽ hiển lộ.

79. The fourth plane is the “Plane of Harmony”.

79. Cõi thứ tư là “Cõi của Hài hòa”.

80. The implication is that the fourth plane will one day absorb the lower three planes.

80. Hàm ý là cõi thứ tư một ngày nào đó sẽ hấp thụ ba cõi thấp.

For this system, the buddhic plane, the human kingdom, and the fourth Ray of Harmony or Beauty or Synthesis, have a point of corres­pondence,

Đối với hệ này, cõi Bồ đề, giới nhân loại, và Cung bốn của Hài hòa hay Mỹ lệ hay Tổng hợp, có một điểm tương ứng,

81. We note a special name for the fourth ray as a ‘Ray of Synthesis’.

81. Chúng ta ghi nhận một tên gọi đặc biệt cho cung bốn như một ‘Cung của Tổng hợp’.

82. In different respects, the first ray, second ray, third ray, fourth ray and seventh ray are all ‘Rays of Synthesis’. The fifth ray is a ‘Ray of Union’, which we can see from the Word of Power, “Three Minds Unite”.

82. Ở những phương diện khác nhau, các cung một, hai, ba, bốn và bảy đều là ‘Các Cung của Tổng hợp’. Cung năm là ‘Cung của Hiệp nhất’, điều mà chúng ta có thể thấy từ Quyền năng từ, “ba trí hợp nhất”.

just as the fourth rootrace is the one in which the synthesis is first observed—the door into the fifth kingdom of Spirit being then opened;

như giống dân gốc thứ tư là giống dân trong đó sự tổng hợp lần đầu tiên được quan sát—cánh cửa vào giới thứ năm của Tinh thần khi ấy được mở;

83. If synthesis is first observed in the fourth root race, then analogously, it can be said that synthesis is first observed on the fourth sub-plane (let us say, of the mental plane). We realize rays three, two and one to be synthetic rays and ray four the antechamber to the acknowledged synthesis of the three major rays.

83. Nếu tổng hợp được quan sát trước hết ở giống dân gốc thứ tư, thì theo phép tương ứng, có thể nói rằng tổng hợp được quan sát trước hết trên cõi phụ thứ tư (chúng ta hãy nói, của cõi trí). Chúng ta nhận ra các cung ba, hai và một là những cung tổng hợp và cung bốn là tiền sảnh dẫn vào sự tổng hợp được thừa nhận của ba cung chính.

84. In many respects, synthesis begins with the etheric part of any sevenfold plane—yet the lowest level ruled by the seventh ray is also a field of synthesis.

84. Ở nhiều phương diện, tổng hợp khởi đầu với phần dĩ thái của bất kỳ cõi thất phân nào—tuy nhiên mức thấp nhất do cung bảy cai quản cũng là một trường tổng hợp.

85. On the lower mental plane a kind of synthesis exists which opens the door into the fifth kingdom.

85. Trên cõi hạ trí tồn tại một loại tổng hợp mở cửa vào giới thứ năm.

86. We note here that the fifth kingdom is not called the “Kingdom of Souls” but rather the “fifth kingdom of Spirit”. This is unusual, however, when the fifth kingdom is entered, the Spirit/Monad does actively engage with the soul on its own plane.

86. Ở đây chúng ta lưu ý rằng giới thứ năm không được gọi là “Giới của các Linh hồn” mà là “giới thứ năm của Tinh thần”. Điều này là bất thường; tuy nhiên, khi giới thứ năm được nhập vào, Tinh thần/Chân thần quả thật tham dự tích cực với linh hồn trên chính cõi của nó.

The first faint tremor of the impact of monadic “destiny” (I know not how else to express this concept) makes itself felt, but is registered only by the soul of the initiate and on the level of soul consciousness; it is never registered by the man on the physical plane who is taking the first initiation; his brain cannot respond to this high vibration.   (R&I 312-313)

Rung động mơ hồ đầu tiên của tác động của “định mệnh” chân thần (Tôi không biết diễn đạt khái niệm này cách nào khác) tự làm mình được cảm nhận, nhưng chỉ được ghi nhận bởi linh hồn của vị điểm đạo đồ và trên cấp độ tâm thức linh hồn; nó không bao giờ được ghi nhận bởi người đang ở trên cõi hồng trần mà thọ lần điểm đạo thứ nhất; bộ não của y không thể đáp ứng với rung động cao như vậy. (R&I 312-313)

87. Usually, it would be the sixth kingdom which would be called the “kingdom of Spirit”.

87. Thông thường, đáng lẽ giới thứ sáu mới được gọi là “giới của Tinh thần”.

the fourth rootrace also developed the astral capacity that made contact with the fourth or buddhic level possible.

giống dân gốc thứ tư cũng đã phát triển năng lực cảm dục khiến cho việc tiếp xúc với cấp bốn hay cõi Bồ đề trở nên khả hữu.

88. The buddhic plane is definitely synthetic compared to the lower planes. There is a channel from the astral plane to the buddhic and, in this astral buddhic solar system, and upon our second ray planet, man developed and cultivated this astral-buddhic link.

88. Cõi Bồ đề chắc chắn mang tính tổng hợp so với các cõi thấp. Có một kênh từ cõi cảm dục đến cõi Bồ đề và, trong hệ mặt trời cảm dục–Bồ đề này, và trên hành tinh cung hai của chúng ta, con người đã phát triển và bồi dưỡng mối nối cảm dục–Bồ đề ấy.

89. The upshot of this discussion is the acknowledgment that the number four indicates synthesis and that the fourth ray is a synthetic ray and the fourth plane a synthetic plane (as are the sub-planes corresponding to the number four).

89. Kết cục của cuộc bàn này là sự thừa nhận rằng số bốn chỉ tổng hợp và rằng cung bốn là một cung tổng hợp và cõi thứ tư là một cõi tổng hợp (cũng như các cõi phụ ứng với số bốn).

In a subtle way too (I use the word subtle for lack of a better, meaning a statement of actuality that seems an [589] illusion),

Theo một cách vi tế nữa (tôi dùng từ vi tế vì không có từ hay hơn, chỉ một lời khẳng định về thực tại mà có vẻ như một [589] ảo tưởng),

90. “Subtle” means that which is true but not easily detected.

90. “Vi tế” có nghĩa là cái đúng nhưng không dễ được phát hiện.

the three minor Rays, Concrete Science, Devotion and Ceremonial Law, have each a connection with the three kingdoms of nature below the human, and with the three laws of the three lower worlds.

ba Cung phụ, Khoa học Cụ thể, Sùng tín và Luật Nghi lễ, mỗi cung đều có một mối liên hệ với ba giới của thiên nhiên bên dưới nhân loại, và với ba định luật của ba cõi thấp.

91. This again, stands to reason. We have suggested a connection of the three minor rays with the three lower kingdoms and three lower laws.

91. Điều này, một lần nữa, là hợp lẽ. Chúng ta đã gợi một liên hệ của ba Cung phụ với ba giới thấp và ba định luật thấp.

92. There is a definite connection between the mineral kingdom and the physical nature (ruled by the seventh ray), the vegetable kingdom and the astral nature (ruled by the sixth ray) and the mental nature (ruled by the fifth ray—the ray of mind) and the animal kingdom. The deeper objectives of each of these three kingdoms must be understood if the ray connection is to be understood.

92. Có một liên hệ xác quyết giữa giới kim thạch và bản tánh hồng trần (do cung bảy cai quản), giữa giới thực vật và bản tánh cảm dục (do cung sáu cai quản) và giữa bản tánh trí tuệ (do cung năm—cung của thể trí—cai quản) và giới động vật. Các mục tiêu sâu xa của từng giới trong ba giới này cần được hiểu nếu muốn hiểu liên hệ theo cung.

The Ray of Ceremonial Order has special significance at this time; it controls life in the mineral world, and in the final stages of involutionary life at the point where the upward turn of evolution is made.

Cung Nghi lễ Trật tự  có ý nghĩa đặc biệt vào lúc này; nó kiểm soát sự sống trong giới kim thạch, và trong các giai đoạn cuối của sự sống giáng hạ ở điểm mà bước ngoặt đi lên của tiến hóa được thực hiện.

93. DK raises an important point. The ‘turn’ from involutionary life to evolutionary is mysterious. We understand little if anything of the forms through which involutionary life progresses ‘downward’.

93. DK nêu lên một điểm quan trọng. ‘Bước ngoặt’ từ sự sống giáng hạ sang thăng thượng là điều huyền bí. Chúng ta hiểu rất ít, nếu có, về các hình tướng qua đó sự sống giáng hạ tiến bước ‘xuống dưới’.

94. One wonders here if the turn can be described symbolically in the relationship between Saturn and Uranus.

94. Ở đây người ta tự hỏi liệu bước ngoặt ấy có thể được mô tả biểu tượng qua mối liên hệ giữa Sao Thổ và Sao Thiên Vương hay không.

95. The seventh ray is involved in significant transitions; certainly the ‘moment of the turn’ is highly significant in the progress of the Second Logos through the second outpouring.

95. Cung bảy liên can đến các chuyển tiếp trọng yếu; hẳn nhiên ‘khoảnh khắc chuyển hướng’ là rất trọng yếu trong tiến trình của Ngôi Hai qua lần tuôn đổ thứ hai.

96. We would imagine that at the “turn” there is a definite ‘setting into form’ over which the seventh ray would preside.

96. Chúng ta có thể hình dung rằng tại “bước ngoặt” có một ‘sự định hình’ xác quyết mà cung bảy sẽ chủ trì.

Through Ceremonial Order comes the control of the lesser builders, the elemental forces, the point of synthesis in the lowest plane of all, the period of transition.

Qua Nghi lễ Trật tự đến việc kiểm soát các người kiến tạo nhỏ, các lực hành khí, điểm tổng hợp nơi cõi thấp nhất trong tất cả, giai đoạn chuyển tiếp.

97. We gather that the elemental forces are to be controlled through ceremonial order. This is also true of higher devas.

97. Chúng ta hiểu rằng các lực hành khí sẽ được kiểm soát qua nghi lễ trật tự. Điều này cũng đúng đối với các thiên thần cao.

98. May we say that a point of synthesis uniting the elemental forces of the involutionary arc with the devic forces of the evolutionary arc is reached on the seventh plane at the period of the ‘turn’?

98. Chúng ta có thể nói rằng một điểm tổng hợp, hợp nhất các lực hành khí của vòng giáng hạ với các lực thiên thần của vòng thăng thượng, được đạt tới trên cõi thứ bảy vào thời kỳ ‘bước ngoặt’ chăng?

99. We remember the relationship between the seventh ray and all transitions.

99. Chúng ta nhớ mối liên hệ giữa cung bảy và mọi chuyển tiếp .

100. We live in a time of great transition right now and the seventh ray is increasingly potent. One wonders whether it is the ray ruling the greater and impending 25,000 year Age of Aquarius as well as the lesser Age of some 2500 years.

100. Hiện nay chúng ta đang sống trong một thời kỳ chuyển tiếp lớn lao và cung bảy ngày càng thêm hùng mạnh. Người ta tự hỏi liệu nó có phải là cung cai quản Kỷ nguyên Bảo Bình lớn 25.000 năm sắp tới cũng như Kỷ nguyên nhỏ chừng 2.500 năm hay không.

In all such periods the seventh Ray comes in (as now) the Ray of Law and Order, of accurate arrangement and formation.  It is the reflection on the physical plane of the Power and Activity Aspects working in synthesis.

Trong mọi thời kỳ như vậy cung bảy nhập cuộc (như hiện nay)—Cung của Luật và Trật tự, của sắp đặt và hình thành chính xác. Nó là phản ảnh trên cõi hồng trần của các Phương diện Quyền lực và Hoạt động đang làm việc trong tổng hợp.

101. We have here important names for the seven ray:

101. Ở đây chúng ta có các tên gọi quan trọng cho cung bảy:

a. The “Ray of Law and Order”

a. “Cung của Luật và Trật tự”

b. The ray of accurate arrangement

b. cung của sắp đặt chính xác

c. The ray of accurate formation

c. cung của hình thành chính xác

102. If we combine rays one and three (and they work in synthesis), then ray seven reflects this combination. Does this suggest that the seventh ray can be derived from the combination of the first and third rays? Usually, the thought has been advanced that the seventh ray is derived from the combination of the first, second and third rays.

102. Nếu chúng ta kết hợp các cung một và ba (và chúng làm việc trong tổng hợp), thì cung bảy phản chiếu sự kết hợp này. Điều đó có gợi ý rằng cung bảy có thể được dẫn xuất từ sự kết hợp của cung một và cung ba không? Thông thường, ý tưởng đã được nêu là cung bảy được dẫn xuất từ sự kết hợp của các cung một, hai và ba.

Rays 1, 3, 7, have an interplay, as we know.  Ray seven is the appearance in combination of the forces of evolution.  It is the manifestation of Power and Activity on the lowest plane of all.

Các cung 1, 3, 7, có một sự giao thoa, như chúng ta biết. Cung bảy là sự xuất hiện trong kết hợp của các lực của tiến hóa. Đó là sự biểu lộ của Quyền lực và Hoạt động trên cõi thấp nhất của tất cả.

103. We have here further confirmation of the seventh ray as a combination of the first and third.

103. Ở đây chúng ta có thêm một xác nhận nữa về cung bảy như là một sự kết hợp của cung một và ba.

104. What rays represent the “forces of evolution”? The “Will-to-Evolve” is the third ray aspect of Will. Shall the driving force of the first ray be included in the “forces of evolution”? It would seem so. But then, are there any ray energies which do not make their contribution to evolution?

104. Những cung nào biểu hiện “các lực của tiến hóa”? “Ý Chí-tiến hóa” là phương diện cung ba của Ý Chí. Liệu sức thúc đẩy của cung một có được kể vào “các lực của tiến hóa” không? Có vẻ là có. Nhưng rồi, có năng lượng cung nào mà không góp phần vào tiến hóa chăng?

105. The relation of the seven ray to both the first and third suggests lines of refocus and resolution. We know that seventh ray individuals often refocus on the first ray. Why should they not also refocus upon the third ray? Certain members of Master R.’s Ashram have (with Him) done exactly that.

105. Mối liên hệ của cung bảy với cả cung một lẫn cung ba gợi ý các đường tái hướng và quy hợp. Chúng ta biết rằng những người cung bảy thường tái hướng về cung một. Vì sao họ không cũng tái hướng về cung ba? Một số thành viên của Trường phái của Chân sư R. đã (cùng với Ngài) làm đúng như vậy.

It is allied to the laws of the third and seventh planes, Disintegration and Death,

Nó liên đới với các định luật của cõi thứ ba và thứ bảy, Phân rã và Chết,

106. We are being told that the seventh ray is allied to not only the law of the seventh plane (the “Law of Sacrifice and Death”) but to the law of the third plane (the “Law of Disintegration”).

106. Chúng ta được cho biết rằng cung bảy liên kết không chỉ với định luật của cõi thứ bảy (“Định luật Hy sinh và Chết”) mà còn với định luật của cõi thứ ba (“Định luật Phân rã”).

for all periods of transition are periods of the destruction and building of forms, and the shattering of the old in order that newer and better chalices of life may be constructed.

vì mọi thời kỳ chuyển tiếp đều là những thời kỳ phá hủy và kiến tạo hình tướng, và đập vỡ cái cũ để những bình chứa của sự sống mới mẻ và tốt đẹp hơn có thể được kiến tạo.

107. DK is linking transition (during which the seventh ray is always present) with the factor of destruction and disintegration. Transition (seventh ray activity) He says, involves destruction and disintegration (hence the relation of the seventh law to the third–the “Law of Disintegration”).

107. DK đang liên kết chuyển tiếp (trong đó cung bảy luôn hiện diện) với yếu tố hủy hoại và phân rã. Ngài nói rằng chuyển tiếp (hoạt động cung bảy) bao hàm hủy hoại và phân rã (do đó mối liên hệ của định luật thứ bảy với định luật thứ ba—“Định luật Phân rã”).

108. When the Ray of the Destroyer brings about human death in the three worlds we sometimes call the process “making one’s transition”.

108. Khi Cung của Kẻ Hủy Diệt gây nên cái chết của con người trong ba cõi, chúng ta đôi khi gọi tiến trình ấy là “làm cuộc chuyển tiếp”.

109. Perhaps later there will be methods of making transition without the necessity of disintegration and destruction. Perhaps the dynamic of ‘harmonious metamorphosis’ will appear, and the alterations necessary for successful transition will be smoothly accomplished.

109. Có lẽ về sau sẽ có những phương pháp thực hiện chuyển tiếp mà không cần đến phân rã và hủy hoại. Có lẽ động lực của ‘chuyển hóa hài hòa’ sẽ xuất hiện, và các biến cải cần thiết cho chuyển tiếp thành công sẽ được thực hiện cách êm thuận.

The Ray of Devotion has a definite though little known connection with the vegetable kingdom.

Cung Sùng tín có một liên hệ xác quyết tuy ít được biết tới với giới thực vật.

110. If we examine the relationship between the vegetable kingdom, the sixth ray and Venus, light may come on this connection.

110. Nếu chúng ta xét mối liên hệ giữa giới thực vật, cung sáu và Sao Kim, có thể ánh sáng sẽ đến cho mối liên hệ này.

We must remember that it is linked to a subsidiary law of the cosmic Law of Attraction.

Chúng ta phải nhớ rằng nó được liên kết với một định luật phụ của Định luật Hấp dẫn vũ trụ.

111. Just as the second and sixth rays are linked, so the second ray Law of Attraction and the sixth ray “Law of Love” are linked—we remember that it is called the “astral Law of Love”.

111. Cũng như cung hai và cung sáu được liên kết, thì Định luật Hút của cung hai và “Định luật Tình thương” của cung sáu cũng được liên kết—chúng ta hãy nhớ rằng nó được gọi là “Định luật Tình thương cảm dục”.

It is in the vegetable kingdom that we find one of the first and temporary approximations between the evolving human Monad, and the evolving deva Monad.

Chính trong giới thực vật mà chúng ta tìm thấy một trong những sự tiệm cận đầu tiên và tạm thời giữa Chân thần nhân loại đang tiến hóa và Chân thần thiên thần đang tiến hóa.

112. It is interesting that DK view these approximations as approximations between Monads. It is as if the one Monad of the human kingdom approximates with the one Monad of the deva kingdom and that this happens through many encounters between the representatives of those kingdoms.

112. Điều thú vị là Chân sư DK xem những sự tiếp cận này như là sự tiếp cận giữa các Chân Thần. Cứ như thể Chân Thần của giới nhân loại tiếp cận với Chân Thần của giới thiên thần, và điều này xảy ra thông qua nhiều cuộc gặp gỡ giữa các đại diện của những giới đó.

The two parallel evolutions touch in that kingdom, and then again follow their own paths, finding their next point of contact on the fourth or buddhic level, and a final merging on the second.

Hai dòng tiến hóa song song chạm nhau trong giới ấy , rồi lại theo các lộ trình riêng , tìm điểm tiếp xúc kế tiếp của họ trên cấp bốn hay cõi Bồ đề, và sự nhập chung sau cùng trên cõi thứ hai.

113. This is a most important reference concerning the merging of the human and deva kingdoms:

113. Đây là một dẫn chiếu hết sức quan trọng về sự nhập của nhân loại và chư thiên:

a. They temporarily approximate on the astral plane

a. Họ tiệm cận tạm thời trên cõi cảm dục

b. They have a point of contact on the buddhic level

b. Họ có một điểm tiếp xúc trên bình diện Bồ đề

c. They have a final merging on the monadic level

c. Họ có sự nhập chung sau cùng trên bình diện chân thần

114. The contact here referenced between deva and human units is called an “alliance” in other references:

114. Sự tiếp xúc được nói tới ở đây giữa các đơn vị thiên thần và nhân loại được gọi là một “liên minh” trong các dẫn chiếu khác:

Further, the two great evolutions (human and deva) find their group unity on the buddhic plane, and portions of both hierarchies blend and merge so as to form the body of the divine Hermaphrodite.24,25  Earlier, at certain fixed points, they may temporarily approximate each [329] other.  On the buddhic plane definite and permanent alliance may be seen. (TCF 328-329)

Hơn nữa, hai đại tiến hóa (nhân loại và thiên thần) tìm thấy sự hợp nhất tập thể của họ trên cõi Bồ đề , và những phần của cả hai hệ cấp hòa trộn và nhập chung để hình thành thân thể của Đấng Lưỡng tính thiêng liêng.24,25 Trước đó, tại những điểm cố định nào đó, họ có thể tiệm cận nhau tạm thời [329]. Trên cõi Bồ đề có thể thấy một liên minh minh định và vĩnh cửu. (TCF 328-329)

115. This contact on the buddhic plane is also called a “group unity”.

115. Sự tiếp xúc trên cõi Bồ đề này cũng được gọi là một “hợp nhất tập thể”.

116. Taken together these references supply very important facts about the relationship between humans and devas. As we can see, the two-four-six line is definitely involves in this gradual, merging process.

116. Gộp lại, các dẫn chiếu này cung cấp những sự kiện rất quan trọng về mối liên hệ giữa con người và chư thiên. Như chúng ta có thể thấy, tuyến hai–bốn–sáu chắc chắn có liên quan trong tiến trình nhập dần dần này.

The concrete Rays have an especial effect on the negative evolution of the devas, who form the feminine aspect of the divine hermaphroditic Man, working along [590] the lines of more positive development.  The abstract Rays do a similar work on the positive human hierarchy, tending towards a more receptive attitude.  This hierarchy forms the masculine aspect of the divine Hermaphrodite.

Các Cung cụ thể có một ảnh hưởng đặc biệt trên tiến hóa âm tính của chư thiên, những vị tạo nên phương diện nữ tính của Đấng Lưỡng tính thiêng liêng, làm việc theo [590] các đường lối phát triển dương tính hơn. Các Cung trừu tượng làm một công việc tương tự trên hệ cấp nhân loại dương tính, hướng tới một thái độ tiếp nhận hơn. Hệ cấp này tạo nên phương diện nam tính của Đấng Lưỡng tính thiêng liêng.

117. Here we find an interesting and important contrast. The devas are a feminine evolution and so the concrete (masculine) rays contribute to their positive development. The human hierarchy is already “positive” and so the abstract or feminine rays build in them a more receptive attitude.

117. Ở đây chúng ta thấy một tương phản thú vị và quan trọng. Chư thiên là một tiến hóa nữ tính nên các Cung cụ thể (nam tính) góp phần vào phát triển dương tính của họ. Hệ cấp nhân loại vốn đã “dương tính” nên các Cung trừu tượng hay nữ tính xây dựng trong họ một thái độ tiếp nhận hơn.

118. By “concrete Rays” it is probable that the Tibetan means rays one—three—five–seven. He could of course mean rays five—six—seven, which are “concrete” when compared to the Rays of Aspect.

118. Bằng cụm “Các Cung cụ thể” rất có thể Chân sư muốn nói các cung một—ba—năm—bảy. Dĩ nhiên Ngài cũng có thể muốn nói các cung năm—sáu—bảy, là những cung “cụ thể” khi so với Các Cung Trạng Thái.

119. By “abstract Rays” He probably means rays two—four—six rather than rays one—two—three (which are Rays of Aspect and, therefore, abstract when compared to the Rays of Attribute).

119. Bằng cụm “Các Cung trừu tượng” Ngài có lẽ muốn nói các cung hai—bốn—sáu hơn là các cung một—hai—ba (vốn là Các Cung Trạng Thái và, do đó, là trừu tượng khi so với Các Cung Thuộc Tính).

But at three points on the path of evolution the Monads of Love, working on the abstract qualities, touch the devas of activity working on concrete faculty.

Nhưng tại ba điểm trên con đường tiến hóa, các Chân thần của Tình thương, làm việc trên các phẩm tính trừu tượng, chạm tới các thiên thần của hoạt động vốn làm việc trên năng lực cụ thể.

120. Is DK speaking specifically of the “Monads of Love”, i.e., of second ray Monads? Or are all Monads, because they focus especially on the second systemic plane, to be considered “Monads of Love”?

120. DK đang nói riêng về “các Chân thần của Tình thương”, tức là các Chân thần cung hai? Hay mọi Chân thần, vì chú trọng đặc biệt vào cõi thứ hai của hệ, đều được xem là “các Chân thần của Tình thương”?

121. We may gather that all devas are “devas of activity”. Devas are to be found on all the rays, but DK seems to be speaking of something that is common to them all—i.e., their association with the activity aspect of divinity (an aspect that is at once feminine and masculine).

121. Chúng ta có thể hiểu rằng mọi thiên thần đều là “thiên thần của hoạt động”. Thiên thần có mặt trên tất cả các cung, nhưng DK dường như đang nói về điều gì đó chung cho tất cả họ—tức là sự liên kết của họ với phương diện hoạt động của thần tính (một phương diện vừa nữ tính vừa nam tính).

122. We can see there is much devas and humans have in common and much that differentiates them.

122. Chúng ta có thể thấy có nhiều điều chư thiên và con người có chung và nhiều điều phân biệt họ.

The perfection of the two evolutions marks the point of attainment of the divine Heavenly Man;

Sự viên mãn của hai tiến hóa đánh dấu điểm đạt thành của Đấng Thiên Nhân thiêng liêng;

123. Since the merging of humans and devas occurs on the monadic plane (and since, consequently, their relationship is not complete until their monadic merging), the “attainment of the divine Heavenly Man” is achieved when both evolutions fuse on the monadic plane—the plane upon which the Heavenly Men focus particularly as various charts in TCF reveal.

123. Vì sự nhập của con người và chư thiên diễn ra trên cõi chân thần (và vì, do đó, mối liên hệ của họ chưa hoàn tất cho đến khi họ nhập chân thần), “điểm đạt thành của Đấng Thiên Nhân thiêng liêng” được thành tựu khi cả hai tiến hóa dung hợp trên cõi chân thần—cõi mà các Đấng Thiên Nhân chú trọng đặc biệt, như nhiều biểu đồ trong TCF cho thấy.

124. In short, monadic attainment for both humans and devas signals the attainment of the “divine Heavenly Man”.

124. Nói ngắn, thành tựu chân thần cho cả con người lẫn chư thiên báo hiệu thành tựu của “Đấng Thiên Nhân thiêng liêng”.

it is the perfecting of the two major centres, creative activity and love, of the Logos.

đó là sự làm viên mãn hai đại luân xa—hoạt động sáng tạo và tình thương—của Logos.

125. These two major centers suggest the throat and heart centers of the Heavenly Man. The throat is the center of “creative activity” and the heart is the center of love.

125. Hai đại luân xa này gợi về luân xa cổ họng và luân xa tim của Đấng Thiên Nhân. Cổ họng là luân xa của “hoạt động sáng tạo” và tim là luân xa của tình thương.

126. Devas can reasonably be associate with the sacral center which must be raised to the throat. Humans are associated not only with the throat center point of the Heavenly Man, but with the solar plexus center of the Grand Heavenly Man—a center which must be raised to the heart.

126. Chư thiên một cách hợp lý có thể được liên kết với luân xa xương cùng vốn phải được nâng lên cổ họng. Nhân loại được liên hệ không chỉ với điểm luân xa cổ họng của Đấng Thiên Nhân, mà còn với luân xa tùng thái dương của Đấng Đại Thiên Nhân—một luân xa phải được nâng lên tim.

127. Another way of looking at this is that humanity is meant to become the Spiritual Hierarchy of the planet.

127. Một cách nhìn khác là nhân loại được định trở thành Huyền Giai Tinh Thần của hành tinh.

128. We note that in one breath DK speaks of the Heavenly Man and in the next of the “Logos”. We have to be careful. When He speaks of the “Logos” He generally means Solar Logos. Thus, if so, He has switched His frame of reference from one sentence to the next.

128. Chúng ta lưu ý rằng trong cùng một mạch, DK nói về Đấng Thiên Nhân rồi ngay sau đó về “Logos”. Chúng ta phải cẩn trọng. Khi Ngài nói “Logos” Ngài thường có ý đến Thái dương Thượng đế. Như vậy, nếu đúng thế, Ngài đã chuyển khung tham chiếu của mình từ câu này sang câu khác.

129. Whereas humanity represents the throat center of the Heavenly Man, it represents the solar plexus center of the Grand Heavenly Man.

129. Trong khi nhân loại biểu hiện luân xa cổ họng của Đấng Thiên Nhân, thì nhân loại biểu hiện luân xa tùng thái dương của Đấng Đại Thiên Nhân.

In their lower aspect these centres are known as the centres of generation and the solar plexus, but are transmuted, as evolution proceeds, into the throat and heart centres.

Ở phương diện thấp của chúng, các luân xa này được biết như các trung tâm sinh sản và tùng thái dương, nhưng, khi tiến hóa tiếp diễn, chúng được chuyển hóa thành luân xa cổ họng và luân xa tim.

130. We seem to be looking at where humans and devas begin, and the point to which they must arrive.

130. Có vẻ như chúng ta đang xem xét nơi con người và các thiên thần khởi đầu, và điểm mà họ phải đạt đến.

Then, in a dual synthesis, they will pass on into the third system, that in which the Power aspect is developed, and the head centres will be complete.

Rồi, trong một tổng hợp lưỡng phân , họ sẽ đi vào hệ thống thứ ba, hệ mà trong đó phương diện Quyền lực được phát triển, và các luân xa đầu sẽ được hoàn tất.

131. This seems to suggest that humans and devas will merge in a synthesis. It will be a dual synthesis: sacral center and solar plexus; throat center and heart.

131. Điều này dường như gợi rằng con người và chư thiên sẽ nhập trong một tổng hợp. Đó sẽ là một tổng hợp song : xương cùng và tùng thái dương; cổ họng và tim.

132. Both kingdoms (in a synthesized stated) will pass into the next solar system, which will be based on synthesis and not on duality.

132. Cả hai giới (trong trạng thái đã tổng hợp) sẽ đi vào hệ mặt trời kế tiếp, hệ sẽ dựa trên tổng hợp chứ không trên nhị nguyên.

133. There was but one dominant evolution in the first major solar system. Major evolutions were divided in the second solar system. Will there be one dominant evolution in the third major system and will that dominant group arise from the dual synthesis here discussed, or will there be a triple evolution? It is too early to tell.

133. Trong hệ thái dương lớn thứ nhất chỉ có một tiến hóa trội. Các tiến hóa chính đã được phân đôi trong hệ thứ hai. Liệu sẽ có một tiến hóa trội trong hệ lớn thứ ba và liệu nhóm trội ấy sẽ phát sinh từ tổng hợp lưỡng phân đang bàn này, hay sẽ có một tiến hóa tam phân? Còn quá sớm để biết.

This achieved, our Logos has triumphed, and measured up to the sixth cosmic Initiation, just as He should measure up in this system to the fourth.

Khi điều này hoàn tất, Logos của chúng ta đã khải hoàn, và vươn tới lần Điểm đạo vũ trụ thứ sáu, cũng như Ngài nên vươn tới trong hệ này lần thứ tư.

134. When the power aspect will be developed and the head centers will be complete, the triumph of our Solar Logos will be indicated. This triumph is the “sixth cosmic initiation”. It is important that DK specify the word “cosmic” as the Solar Logos is also engaged in taking a series of lesser initiations (nine in all) which are intra-systemic rather than cosmic. (cf. TCF 384)

134. Khi phương diện Quyền lực được phát triển và các luân xa đầu được hoàn tất, chiến thắng của Thái dương Thượng đế của chúng ta sẽ được biểu thị. Chiến thắng này là “lần điểm đạo vũ trụ thứ sáu”. Điều quan trọng là DK xác định từ “vũ trụ” vì Thái dương Thượng đế cũng đang tiến hành một chuỗi các lần điểm đạo nhỏ hơn (tổng cộng chín) mang tính nội hệ thay vì vũ trụ. (x. TCF 384)

135. We see that the sixth cosmic initiation of our Solar Logos looms ahead and cannot be taken in this solar system. The case for the fifth cosmic initiation is ambiguous. Other references indicate that the Logos will take it in this solar system, while the present reference tells us that He will “measure up in this system to the fourth”. Is it possible that the initiatory possibilities of the Logos are not completely determined? During any one human incarnation, for instance, specified initiatory possibilities may be attained or deferred, depending on the exertions of the human being. May it also be so for the Logos?

135. Chúng ta thấy rằng lần điểm đạo vũ trụ thứ sáu của Thái dương Thượng đế chúng ta còn ở phía trước và không thể được thọ lãnh trong hệ mặt trời này. Trường hợp lần điểm đạo vũ trụ thứ năm thì mơ hồ. Những dẫn chiếu khác chỉ ra rằng Logos sẽ thọ nó trong hệ này, trong khi dẫn chiếu hiện tại cho biết Ngài sẽ “vươn tới trong hệ này đến lần thứ tư”. Có thể chăng rằng các khả tính điểm đạo của Logos không được định đoạt hoàn toàn ? Trong bất kỳ một lần nhập thế của con người, chẳng hạn, những khả tính điểm đạo nhất định có thể được đạt tới hay hoãn lại, tùy vào nỗ lực của con người ấy. Có thể chăng điều đó cũng đúng với Logos?

The Ray of Concrete Science has a peculiar relationship to the animal kingdom, in that it is the Ray that governs the merging of that kingdom into the human.

Cung Khoa học Cụ thể có một mối liên hệ đặc thù với giới động vật, ở chỗ đó là Cung cai quản sự nhập của giới ấy vào nhân loại.

136. This merging occurs at individualization which is strongly conditioned by the fifth ray—the Fifth Creative Hierarchy is intimately concerned in the process as is the fifth sign, Leo.

136. Sự nhập này xảy ra tại biệt ngã hóa vốn chịu điều kiện mạnh mẽ bởi cung năm —Huyền Giai Sáng Tạo Thứ Năm liên hệ mật thiết với tiến trình này cũng như dấu hiệu thứ năm , Sư Tử.

The planet, Venus, in her fifth round, gave the impetus which produced the spark of mind in animal man—a fact well known. 

Hành tinh, Sao Kim, trong chu kỳ thứ năm của nó, đã trao xung lực tạo nên tia lửa trí trong người thú —một sự kiện ai cũng biết.

137. Whether or not Sanat Kumara and His Kumaras originated on Venus (in fact, DK says They did not), it was Venus which gave an important stimulation to the process of individualization which necessitated the coming of Sanat Kumara and His Co-Workers.

137. Dù Sanat Kumara và chư Kumaras của Ngài có khởi nguyên từ Sao Kim hay không (thực tế, DK nói Các Ngài không phải vậy), thì chính Sao Kim đã trao một kích thích quan trọng cho tiến trình biệt ngã hóa vốn đòi hỏi sự quang lâm của Sanat Kumara và các Đồng Công của Ngài.

138. Venus must have affected certain lives related to the cosmic mental plane, for we are given to understand that the spark of mind is essentially cosmic mental in origin.

138. Sao Kim hẳn đã tác động đến những sự sống nhất định liên hệ đến cõi trí vũ trụ, vì chúng ta được hiểu rằng tia lửa trí, về bản chất, có nguồn gốc trí vũ trụ.

It is also the fifth Ray, and has an interesting connection with the fifth Law of Fixation.

Đó cũng là cung năm, và có một liên hệ thú vị với Định luật thứ năm, Định luật Cố định.

139. By numerical resonance or affinity we might expect this.

139. Theo cộng hưởng hay tương ứng số học, chúng ta có thể chờ đợi điều này.

We might study, too, with profit, the analogy that can be seen between these factors and the fifth root-race, the race of peculiarly strong development of the concrete mind.

Chúng ta cũng có thể khảo sát, với nhiều ích lợi, phép tương đồng có thể thấy giữa các yếu tố này và giống dân gốc thứ năm, giống dân có sự phát triển đặc biệt mạnh của trí cụ thể.

140. We are to look at the development of the spark of mind, the expression of the fifth ray and the unfolding of the Law of Fixation especially in relation to the fifth root race.

140. Chúng ta cần xét sự phát triển của tia lửa trí, sự biểu lộ của cung năm và sự khai mở của Định luật Cố định, đặc biệt trong mối liên hệ với giống dân gốc thứ năm.

141. Nature proceeds in gradual steps. Simultaneity and synthesis indicate climactic developments.

141. Tự nhiên vận hành bằng những bước tiệm tiến. Tính đồng thời và tổng hợp chỉ những phát triển đến cao trào.

The Law of Analogy always holds good.

Định luật Tương đồng luôn đúng.

With this as a basis, the three laws of the personality become replete with life, and can be summed up in the well-known term, “The Law of Rebirth and Death in the three worlds.”

Với điều này làm nền tảng, ba định luật của phàm ngã trở nên tràn đầy sự sống, và có thể được tóm lại trong thuật ngữ quen thuộc, “Định luật Luân hồi và Chết trong ba cõi.”

142. DK is telling us that the three lower laws are to be considered “laws of the personality”. When they work together they result in “The Law of Rebirth and Death in the three worlds”.

142. DK đang cho chúng ta biết rằng ba định luật thấp nên được xem là “các định luật của phàm ngã”. Khi chúng phối hợp với nhau chúng tạo thành “Định luật Luân hồi và Chết trong ba cõi”.

143. If desire (six) turns towards physical form (seven) rather than towards the higher mind (five), then a return to the lowest world (seven) via reincarnation is mandated. This return is impulsed from the plane of mind (five).

143. Nếu dục vọng (sáu) quay về hình tướng hồng trần (bảy) thay vì hướng lên thượng trí (năm), thì việc trở lại thế giới thấp nhất (bảy) qua tái sinh là điều tất định. Sự trở lại này được xung lực từ cõi trí (năm).

The fifth law governs a fixed point in the person­ality, that of the fifth principle.

Định luật thứ năm chi phối một điểm cố định trong phàm ngã, tức điểm của nguyên khí thứ năm.

144. The mind can be used as a stabilizing factor to sustain a necessary point of tension.

144. Thể trí có thể được dùng như một yếu tố ổn định để duy trì một điểm nhất tâm cần thiết.

145. When one thinks of a fixed point in the personality which is related to the fifth law and the fifth ray, one thinks of the mental unit (as that unit is stimulated by the fifth principle).

145. Khi người ta nghĩ đến một điểm cố định trong phàm ngã liên hệ với định luật thứ năm và cung năm, người ta nghĩ đến đơn vị hạ trí (khi đơn vị đó được kích hoạt bởi nguyên khí thứ năm).

146. In considering the relationship between the first and fifth rays, we realize that the first ray is a ‘ray of fixity’. It destroys through crystallization. We are well acquainted with the crystallized thoughtforms of the lower concrete mind and how these thoughtforms must be destroyed if they are not to become destructive themselves.

146. Khi xét mối liên hệ giữa các cung một và năm, chúng ta nhận ra rằng cung một là một ‘cung của tính cố định’. Nó hủy diệt qua sự kết tinh. Chúng ta quá quen với những hình tư tưởng kết tinh của trí cụ thể thấp và với việc các hình tư tưởng ấy phải bị phá hủy nếu không chúng sẽ trở nên hủy diệt chính mình.

[591]

[591]

The Law of Love in the astral body also has its points for con­sideration.  There is a direct link between the astral body (love in the personality), the buddhic vehicle (love in the Triad), and the Monads of Love.

Định luật Tình thương trong thể cảm dục cũng có những điểm cần xem xét. Có một mối nối trực tiếp giữa thể cảm dục (tình thương trong phàm ngã), vận cụ Bồ đề (tình thương trong Tam nguyên tinh thần), và các Chân thần của Tình thương.

147. By now this is a familiar idea:

147. Đến nay đây là một ý niệm quen thuộc:

a. The astral body—love in the personality

a. Thể cảm dục—tình thương trong phàm ngã

b. The buddhic vehicle—love in the Triad

b. Vận cụ Bồ đề—tình thương trong Tam nguyên

c. The monadic vehicle—love upon the plane of Sprit (universal love). From this we can see that Aquarius, the sign of “universal love” must, in its own way, be related to the Monad (a solar factor even as Aquarius is directly related to the Sun and Leo because it is the sign opposite Leo).

c. Vận cụ chân thần—tình thương trên bình diện Tinh thần (tình thương phổ quát). Từ đây chúng ta có thể thấy rằng Bảo Bình, dấu hiệu của “tình thương phổ quát”, tất theo cách riêng của nó liên hệ với Chân thần (một yếu tố thái dương ngay cả khi Bảo Bình liên hệ trực tiếp với Mặt Trời và Sư Tử vì nó là dấu hiệu đối nghịch với Sư Tử).

Later on, this will be under­stood more fully, but it is the main channel for the basic law of the system, Love.

Về sau, điều này sẽ được hiểu đầy đủ hơn, nhưng đây là kênh chính cho định luật căn bản của hệ, Tình thương.

148. We are learning about many lines of transmission, but here is the one which is most important for us at this time:

148. Chúng ta đang học về nhiều tuyến truyền dẫn, nhưng đây là tuyến quan trọng nhất đối với chúng ta lúc này:

a. The Monads of Love

a. Các Chân thần của Tình thương

b. Working through the buddhic plane and producing “love in the Triad” which is unitive love

b. Làm việc qua cõi Bồ đề và tạo nên “tình thương trong Tam nguyên” vốn là tình thương hợp nhất

c. Working through the astral plane producing “love in the personality” which is love of the form for other forms.

c. Làm việc qua cõi cảm dục tạo nên “tình thương trong phàm ngã” là tình thương của hình tướng đối với các hình tướng khác.

These three points mark periods of completion, and likewise starting-points for fresh endeavour in the life of the evolving Monad—from the personality to the Triad, from the Triad to the Monad, from the Monad back again to its source.

Ba điểm này đánh dấu những kỳ viên mãn, và cũng là những điểm khởi phát cho nỗ lực mới trong đời sống của Chân thần đang tiến hóa—từ phàm ngã đến Tam nguyên, từ Tam nguyên đến Chân thần, từ Chân thần trở lại nguồn của nó.

149. Consummated personality love awakens a realization of the need for triadal love (a wider love which we can call the “love of God”—really a reflection of the “Love of God”).

149. Tình thương phàm ngã được viên mãn đánh thức nhận thức về nhu cầu tình thương của Tam nguyên (tình thương rộng hơn mà chúng ta có thể gọi là “tình thương của Thượng đế”—thật ra là một phản ảnh của “Tình thương của Thượng đế”).

150. Consummated triadal love awakens a realization of the need for the ‘love of the Spirit’—universal love, the true love of the ‘Solar God’, our Solar Logos.

150. Tình thương Tam nguyên được viên mãn đánh thức nhận thức về nhu cầu ‘tình thương của Tinh thần’—tình thương phổ quát, tình thương chân chính của ‘Thần Thái dương’, Thái dương Thượng đế của chúng ta.

151. We are reminded that the Monad has a “source” and that source is not to be found upon the monadic plane.

151. Chúng ta được nhắc rằng Chân thần có một “nguồn” và nguồn đó không được tìm thấy trên cõi chân thần.

152. If the Monad is “that which finds its home within the sun”, then we must consider the Sun (in one of its aspects) as the “source” of the Monad—at least for practical purposes and within this particular solar system. The real “Source” of the Monad is a profound mystery to be traced back to the fathomless beginning of Cosmos on planes far higher than we can even imagine.

152. Nếu Chân thần là “cái tìm thấy nhà mình trong mặt trời”, thì chúng ta phải xem Mặt Trời (trong một phương diện của nó) là “nguồn” của Chân thần—ít nhất cho các mục đích thực tiễn và trong hệ mặt trời này. “Nguồn” thật sự của Chân thần là một bí nhiệm sâu xa phải lần dò về khởi nguyên bất khả đáy của Vũ trụ trên những cõi cao xa hơn cả điều chúng ta có thể tưởng tượng.

5. The Law of Fixation.—This is the governing law of the mental plane, finding its greater correspondence in the Law of Karma on cosmic mental levels.

5. Định luật  Cố định .—Đây là định luật cai quản của cõi trí, tìm thấy sự tương ứng cao hơn của nó nơi Định luật Nghiệp trên các cấp trí vũ trụ.

153. If the Law of Karma arises from cosmic mental levels; if it is a Sirian law; and if Sirius is focussed in many respects upon the cosmic mental plane, then the “Law of Fixation” must have a higher cosmic correspondence which relates to Sirius.

153. Nếu Định luật Nghiệp khởi lên từ các cấp trí vũ trụ; nếu đó là một định luật thuộc Sirius; và nếu Sirius tập trung, ở nhiều phương diện, trên cõi trí vũ trụ, thì “Định luật Cố định” hẳn có một tương ứng vũ trụ cao hơn liên hệ tới Sirius.

154. The karma for human beings, for instance, is, in any one cycle, largely fixed and determined. This may be one of the effects of the “Law of Fixation”.

154. Nghiệp của con người, chẳng hạn, trong bất kỳ một chu kỳ nào, phần lớn là cố định và được định đoạt. Đây có thể là một trong những hiệu ứng của “Định luật Cố định”.

“As a man thinks, so is he;” according to his thoughts are his desires and acts, and so results the future.

“Con người nghĩ sao, thì là vậy;” theo tư tưởng thế nào thì dục vọng và hành vi thế ấy, và như thế mà tương lai được tạo thành.

155. We might also say that “as a man thinks”, ‘so he becomes’. He becomes objectively what he is subjectively.

155. Chúng ta cũng có thể nói rằng “con người nghĩ sao”, “thì y trở thành như thế”. Y trở thành khách quan đúng như y vốn là chủ quan.

He fixes for himself the resultant karma.

Y tự ấn định cho mình nghiệp quả hệ lụy.

156. By the persistent fixity of his thoughts he creates a resultant karma. Thought fixates karma.

156. Bằng sự kiên định bền bỉ của tư tưởng, y tạo ra một nghiệp quả hệ lụy. Tư tưởng định trụ nghiệp quả.

157. Thoughtforms are structured under the influence of Saturn and Saturn is the most powerful of our systemic Lords of Karma.

157. Các hình tư tưởng được cấu trúc dưới ảnh hưởng của Sao Thổ, và Sao Thổ là quyền năng nhất trong các Đấng Chúa Tể Nghiệp Quả của hệ mặt trời chúng ta.

158. A passing thought will not generate that which we call karma, but when one persists in a line of thought, it becomes a ‘fixed actuality’ and results in outer developments which are correlated to the thought.

158. Một ý tưởng thoáng qua sẽ không tạo ra điều mà chúng ta gọi là nghiệp quả, nhưng khi một người kiên trì theo một tuyến tư tưởng, nó trở thành một “thực tại cố định” và dẫn đến những phát triển bên ngoài tương ứng với tư tưởng ấy.

The word “Fixation” is chosen for two purposes:  First, because the word implies the capacity of the thinker to shape his own destiny,

Từ “Định trụ” được chọn vì hai mục đích: Thứ nhất, vì từ này hàm ý năng lực của người tư duy có thể nắn lấy số phận của chính mình ,

159. “Fixation” is a Saturnian and Vulcanian word. These are two planets which, indeed, shape or formulate destiny.

159. “Định trụ” là một thuật ngữ mang tính Sao Thổ và tính Vulcan. Đây là hai hành tinh quả thực nắn hay định hình số phận.

160. A future intended pattern is held through all vicissitudes and the one within insists that it be. By insistence is meant the deflection of all other possibilities. Fixing/fixating and holding are, in this case, identical.

160. Một mô hình tương lai được chủ định sẽ được giữ xuyên qua mọi thăng trầm, và đấng bên trong khăng khăng rằng nó phải là như thế.  Ở đây “khăng khăng” có nghĩa là bẻ lệch/loại trừ mọi khả năng khác. Cố định/định trụ và giữ vững, trong trường hợp này, là đồng nhất.

161. Fixed thought shapes destiny.

161. Tư tưởng cố định nắn số phận.

and secondly because the word implies a stabilising idea, for as evolution progresses, the Ego evolves the faculty of forming definite concrete thought-forms, and, through these stable products, of subduing the fluctuations of the astral body.

và thứ hai vì từ này hàm ý một ý tưởng làm ổn định, vì khi tiến hoá tiến triển, chân ngã phát triển năng lực hình thành các hình tư tưởng cụ thể xác định, và, thông qua những sản phẩm ổn định này, khuất phục những dao động của thể cảm dục.

162. Fixation subdues fluctuation. This is another way of saying, symbolically, that the stable ‘Sun’/Vulcan subdues the fluctuating ‘Moon’.

162. Định trụ khuất phục dao động. Đây là cách nói khác, mang tính biểu tượng, rằng “Mặt trời”/Vulcan ổn định khuất phục “Mặt trăng” dao động.

163. We have, in sum:

163. Tóm lại, chúng ta có:

a. The shaping of destiny through fixation

a. Nắn số phận thông qua định trụ

b. Through fixation, the holding of stabilized thoughts which subdue astral fluctuations and thus lead to intended accomplishment.

b. Thông qua định trụ, giữ vững các tư tưởng đã ổn định, những tư tưởng này khuất phục các dao động cảm dục và do đó dẫn tới thành tựu đã định.

This law of the fifth, or mental plane is one of the most important laws with which we have to do at any time, and it will find its most complete demonstration in the next, or fifth round.

Định luật trên cõi thứ năm, hay cõi trí, là một trong những định luật quan trọng nhất mà chúng ta phải đụng tới vào bất kỳ thời điểm nào , và định luật này sẽ có màn thị hiện đầy đủ nhất trong cuộc tuần hoàn tới, hay tuần hoàn thứ năm.

164. This is a statement with great implications. Not only is this “Law of Fixation” important now but it is one of the most important laws to consider “at any time”.

164. Đây là một tuyên bố hàm ý rất nhiều. Không chỉ “Định luật Định trụ” quan trọng hiện nay mà nó còn là một trong những định luật quan trọng nhất để xét đến “vào bất kỳ thời điểm nào”.

165. It would appear that we are still in very early days of understanding the full significance of the law. The next round is the fifth round and, numerically, will be the one in which a much fuller understanding and demonstration of the “Law of Fixation” will be achieved.

165. Có vẻ như chúng ta vẫn đang ở những ngày rất sớm trong việc thấu hiểu đầy đủ thâm nghĩa của định luật này. Vòng tới là vòng thứ năm và, theo số học, sẽ là vòng mà ở đó sự thấu hiểu và thị hiện đầy đủ hơn nhiều về “Định luật Định trụ” sẽ đạt được.

166. What kind of ‘fixation’ will occur in the middle of the fifth round at the “Judgment Day”? May we say that some will be ‘fixed’ upon the Earth to pursue their further evolution; others will be dispatched elsewhere.

166. Sẽ có kiểu “định trụ” nào xảy ra vào giữa vòng thứ năm, vào “Ngày Phán Xét”? Chúng ta có thể nói rằng một số sẽ được “định trụ” trên Trái Đất để tiếp tục cuộc tiến hoá của họ; những người khác sẽ được phái sang nơi khác.

167. We might say that the polarization-in-consciousness of humanity (and, by extension, of the Planetary Logos) will be fixed in relation to the second aspect of divinity. Those who have no orientation to that aspect will be ‘expelled’ for progress elsewhere.

167. Chúng ta có thể nói rằng sự phân cực-trong-tâm thức của nhân loại (và, mở rộng ra, của Hành Tinh Thượng đế) sẽ được cố định liên hệ với Phương diện thứ hai của thiên tính. Những ai không có định hướng về phương diện đó sẽ bị “trục xuất” để tiến triển ở nơi khác.

In relation to this fourth round the following facts may be gathered about its working:

Liên hệ với vòng thứ tư này, có thể rút ra các sự kiện sau về sự vận hành của nó:

It is the law under which the evolving personality builds up, during the course of many lives, the causal body;

Đây là định luật theo đó phàm ngã đang tiến hoá xây dựng, qua nhiều kiếp sống, thể nguyên nhân;

168. The causal body is upon the higher levels of the fifth plane. As the light of mind grows within the personality it becomes possible to act in such a manner that value may be extracted from personality experience and fixed as content within the causal body.

168. Thể nguyên nhân nằm trên các cõi phụ cao của cõi thứ năm. Khi ánh sáng của thể trí lớn dần trong phàm ngã, lúc ấy có thể hành động theo cách sao cho giá trị được trích xuất từ kinh nghiệm phàm ngã và được cố định như là nội dung trong thể nguyên nhân.

it fixes the matter inhering in that body, placed there by the man as the ages slip away, and crystallises it.

nó cố định chất liệu hàm chứa trong thể ấy, do con người đặt vào theo dòng thời đại trôi qua, và kết tinh nó.

169. The “matter…placed there” is the substance which embodies faculty. Fixation is, in this case, an act of construction.

169. “Chất liệu…được đặt vào đó” là chất liệu bao hàm các năng lực. Ở đây, định trụ là một hành động kiến tạo.

170. Considering the relative size of a newly made causal body and a causal body possessed by an experienced unit of consciousness, there is a great contrast, the latter having, in fact, much more “matter” within it.

170. Nếu xét kích cỡ tương đối của một thể nguyên nhân mới tạo với một thể nguyên nhân của một đơn vị tâm thức từng trải, thì có một sự tương phản lớn; ở thể sau thực sự có nhiều “chất liệu” hơn ở bên trong.

Before the fourth Initia­tion the crystallisation is complete, and the inevitable shat­tering that is the result of crystallisation in all forms, takes place,

Trước lần Điểm đạo thứ tư, sự kết tinh được hoàn tất, và sự vỡ vụn tất yếu vốn là kết quả của quá trình kết tinh nơi mọi hình tướng xảy ra,

171. Shall we relate “fixation” and “crystallisation”?

171. Chúng ta có nên liên hệ “định trụ” và “kết tinh” không?

172. Crystallization is a Vulcanian process, relating fixation to this planet of unbendable will.

172. Kết tinh là một tiến trình mang tính Vulcan, liên hệ định trụ với hành tinh của ý chí bất khuất này.

setting the [592] indwelling life free for further progress.  All forms are but hindrances and limita­tions, and ultimately must go, but they have their needed place in the development of the race.  Eventually the causal body of the entire race itself disintegrates.

giải phóng [592] sự sống cư trụ bên trong cho tiến bộ xa hơn. Mọi hình tướng chỉ là chướng ngại và giới hạn, và rốt cuộc phải ra đi, nhưng chúng có chỗ đứng cần thiết trong sự phát triển của nhân loại. Rốt cuộc thể nguyên nhân của toàn thể nhân loại tự nó phân rã.

173. The disintegration of the causal body of the race will mark the period in which the race reaches the point of tension at the fourth great cycle of attainment. The race itself will be an Arhat. Will we be closer to this eventuality when the personality ray of humanity becomes the fourth and its soul ray, the second?

173. Sự phân rã thể nguyên nhân của nhân loại sẽ đánh dấu thời kỳ trong đó nhân loại đạt đến điểm nhất tâm ở chu kỳ đại thành tựu thứ tư. Bản thân giống dân sẽ là một A-la-hán. Chúng ta có tiến gần hơn đến điều tất yếu này khi cung phàm ngã của nhân loại trở thành cung bốn và cung linh hồn của nó là cung hai?

This law governs the crystallisation of all forms prior to their shattering in the process of evolution.

Định luật này chi phối sự kết tinh của mọi hình tướng trước khi chúng bị vỡ vụn trong tiến trình tiến hoá.

174. So far, of the “Law of Fixation” in relation to man, we may say:

174. Cho đến nay, về “Định luật Định trụ” liên hệ đến con người, chúng ta có thể nói:

a. It builds up the causal body

a. Nó xây dựng thể nguyên nhân

b. It fixes matter inhering in the causal body

b. Nó cố định chất liệu hàm chứa trong thể nguyên nhân

c. It crystallizes the ‘forms of faculty’ built into the causal body. When human experience has no more to teach the Arhat, the form of the causal body arrives at a crystallized state ripe for shattering.

c. Nó kết tinh các “hình thức của năng lực” được xây vào thể nguyên nhân. Khi kinh nghiệm nhân gian không còn gì để dạy vị A-la-hán nữa, hình tướng của thể nguyên nhân đạt đến trạng thái kết tinh và chín muồi để bị đập vỡ.

175. In governing the crystallizing of all forms prior to shattering, the fifth law works in tandem with the first ray of the destroyer. The fifth ray prepares the way for the act of destruction which comes through the application of the first ray.

175. Khi chi phối sự kết tinh của mọi hình tướng trước khi vỡ vụn, định luật thứ năm vận hành song đôi với cung một của sự hủy diệt. Cung năm dọn đường cho hành vi hủy diệt đến qua việc ứng dụng cung một.

It governs the time of rebirth, being one of the subsidiary branches of the Law of Karma.

Nó chi phối thời điểm tái sinh, vì là một trong những ngành phụ của Định luật Nghiệp quả.

176. We remember that the Law of Karma is an “Intermediary Law”, positioned between the three cosmic laws and the seven systemic laws.

176. Chúng ta nhớ rằng Định luật Nghiệp quả là một “Định luật Trung gian”, đặt giữa ba định luật vũ trụ và bảy định luật hệ thống.

177. The fifth ray is a highly mathematical ray. The “time of rebirth” is calculated with mathematical precision by the Lords of Karma. All manner of cycles have to be taken into consideration.

177. Cung năm là một cung rất “toán học”. “Thời điểm tái sinh” được các Đấng Chúa Tể Nghiệp Quả tính toán với độ chính xác toán học. Mọi loại chu kỳ đều phải được xét đến.

178. DK is telling us that the “Law of Fixation” is “one of the subsidiary branches of the Law of Karma”.

178. Chân sư DK đang nói với chúng ta rằng “Định luật Định trụ” là “một trong các ngành phụ của Định luật Nghiệp quả”.

179. Those who are upon the fifth ray take a cosmic Path which leads to “Absolute Sonship” and the possibility of becoming a Lipika Lord. It is, among many other things, a mathematical Path.

179. Những ai thuộc cung năm đi theo một Con Đường vũ trụ dẫn đến “Địa vị Con tuyệt đối” và khả năng trở thành một Đấng Lipika. Đó là một Con Đường tính toán giữa muôn điều khác nữa.

180. Sirius is the source of the Law of Karma as far as our solar system is concerned. The faculty of manas is highly developed on Sirius; it is great manasic star and thus expresses the fifth ray, just as does the “Law of Fixation”.

180. Sirius là nguồn của Định luật Nghiệp quả xét trong phạm vi hệ mặt trời chúng ta. Nguyên khí manas được phát triển cao trên Sirius; đó là một ngôi sao manas vĩ đại và vì thế biểu lộ cung năm, y hệt như “Định luật Định trụ”.

Each of the seven subsidiary laws is linked to one of the cosmic laws, or with the Sirian Law of Karma.

Mỗi định luật phụ trong bảy định luật phụ đều được liên kết với một trong các định luật vũ trụ, hoặc với Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius.

181. This is an important point. Earlier it seemed that each of the seven systemic laws must be linked with one or other of the three cosmic laws. This is true in a way, but here DK offers another option—”or within the Sirian Law of Karma”.

181. Đây là một điểm quan trọng. Trước đó dường như mỗi định luật hệ thống trong bảy định luật phải được liên kết với một trong ba định luật vũ trụ. Điều này, theo một nghĩa nào đó, là đúng, nhưng ở đây Chân sư DK đưa ra một lựa chọn khác—“hoặc với Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius”.

182. The “Law of Fixation” is definitely linked with the Sirian Law of Karma. I would not be surprised of the “Law of Magnetic Control” is also linked.

182. “Định luật Định trụ” chắc chắn được liên kết với Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu “Định luật Kiểm soát Từ tính” cũng được liên kết.

We need always to remember that the consciousness of the cosmic mental plane is the logoic goal of attainment,

Chúng ta luôn cần nhớ rằng tâm thức của cõi trí vũ trụ là cứu cánh đắc thành của vị Thái dương Thượng đế,

183. Our Solar Logos is not yet mentally polarized and is seeking to become so.

183. Thái dương Thượng đế của chúng ta chưa phân cực trí tuệ và đang tìm cách trở nên như thế.

and that the Sirian Logos is to our solar Logos what the human Ego is to the personality.

và rằng Sirius đối với Thái dương Thượng đế của chúng ta cũng như chân ngã đối với phàm ngã nơi nhân loại vậy.

184. The Sirian Logos (the Logos of the star Sirius, and perhaps of the small companion star, Sirius B) is mentally polarized.

184. Vị Logos của Sirius (Logos của ngôi sao Sirius, và có lẽ của ngôi sao bạn đồng hành nhỏ Sirius B) phân cực trí tuệ .

185. We have the division—when the polarization is astral, the focus is still personal. When the polarization is mental, the polarization can be egoic.

185. Chúng ta có sự phân chia—khi phân cực là cảm dục, trọng tâm vẫn là cá nhân. Khi phân cực là trí tuệ, sự phân cực có thể là chân ngã.

The Law of Karma, or cosmic Fixation, is the law of the cosmic mental plane, and controls the corresponding law in our system.

Định luật Nghiệp quả, hay định trụ vũ trụ , là định luật của cõi trí vũ trụ, và chi phối định luật tương ứng trong hệ của chúng ta.

186. Here we have a direct statement confirming what was earlier suggested. Not only is the “Law of Fixation” an aspect of the Sirian Law of Karma but the Sirian Law of Karma is a “Law of Fixation”—a cosmic “Law of Fixation”.

186. Ở đây có một khẳng định trực tiếp xác nhận điều đã gợi ý trước đó. Không chỉ “Định luật Định trụ” là một khía cạnh của Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius mà chính Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius một “Định luật Định trụ”—một “Định luật Định trụ” vũ trụ .

187. The idea is that each cosmic law has lower correspondences within the system. The systemic “Law of Fixation” is the systemic correspondence to the cosmic “Law of Fixation”—the Sirian Law of Karma.

187. Ý tưởng là: mỗi định luật vũ trụ đều có các tương ứng thấp hơn trong hệ. “Định luật Định trụ” hệ thống là tương ứng hệ thống với “Định luật Định trụ” vũ trụ—tức Định luật Nghiệp quả thuộc Sirius.

188. The Solar Angels which attend the human race must have much to do with the systemic “Law of Fixation”. There are logoic Solar Angels on the cosmic mental plane, and they probably have much to do with the cosmic “Law of Fixation”.

188. Các Thái dương Thiên Thần vốn chăm lo cho nhân loại hẳn có liên hệ sâu xa với “Định luật Định trụ” hệ thống. Có các Thái dương Thiên Thần cấp logoic trên cõi trí vũ trụ, và rất có thể Các Ngài có liên hệ mật thiết với “Định luật Định trụ” vũ trụ.

A solar Logos uses for His energy centres the planetary schemes, each of which embodies a peculiar type of energy, and each of which, therefore, vibrates to the key of the logoic solar Angel, of which the human solar Angel is a dim reflection. (TCF 1161)

Một Thái dương Thượng đế dùng các hệ hành tinh như là các trung tâm năng lượng của Ngài; mỗi hệ hành tinh đều bao hàm một kiểu năng lượng đặc thù, và do đó mỗi hệ hành tinh rung lên theo chủ âm của Thái dương Thiên Thần của vị Logos, mà Thái dương Thiên Thần của con người chỉ là một phản ảnh mờ nhạt. (TCF 1161)

In the fifth round this law will act as the divider, temporarily crystallising and fixing into two great classes the human Monads, as they evolve.

Trong vòng thứ năm, định luật này sẽ hành xử như kẻ phân chia, tạm thời kết tinh và cố định các Chân thần nhân loại, khi các Ngài tiến hóa, thành hai đại giai tầng.

189. The fifth ray expresses itself through the “Law of Cleavages” or of division.

189. Cung năm biểu lộ qua “Định luật Phân hóa” hay của sự phân chia.

190. Initiation itself is an ‘act of fiery fixation’. Electrical Uranus, associated with the Hierophant, and with the first and fifth rays, carries the power of ‘electrical fixation’. Perhaps this is what the Rod of Power provides during the initiation ceremony.

190. Bản thân điểm đạo là một “hành vi định trụ bằng điện lửa”. Sao Thiên Vương điện lực, liên hệ với vị Chủ lễ Điểm đạo, và với cung một và cung năm, mang năng quyền “định trụ điện lực”. Có lẽ đó chính là điều Thần Trượng Quyền năng ban phát trong nghi lễ điểm đạo.

191. The classes which are divided one from another are really classes of human monads. Some of these Monads work through personalities which are “on the Path” and some through personalities which are not—yet.

191. Những giai tầng bị phân chia khỏi nhau thực ra là các giai tầng của các chân thần nhân loại. Một số Chân thần này tác động qua các phàm ngã “ở trên Thánh Đạo” và một số thì qua các phàm ngã chưa—ở—đó.

192. We see that all such division is only temporary, and we may infer that after the period of division, greater unities lie ahead.

192. Chúng ta thấy rằng mọi sự phân chia như vậy chỉ là tạm thời, và chúng ta có thể suy ra rằng sau thời kỳ phân chia, những hợp nhất lớn lao hơn sẽ ở phía trước.

193. When fixation occurs a law is in progress. A ring-pass-not is created and one cannot violate the law (first ray) by moving outside the ring-pass-not.

193. Khi định trụ xảy ra, một định luật đang tác động. Một vòng-giới-hạn được tạo ra và người ta không thể vi phạm định luật (cung một) bằng cách vượt ra ngoài vòng-giới-hạn.

194. That which is crystallized cannot move. The fifth ray fixes the consciousness of certain entities within a certain field of experience. The field is set and cannot be breached.

194. Cái gì đã kết tinh thì không thể chuyển động. Cung năm cố định tâm thức của những thực thể nhất định trong một trường kinh nghiệm nhất định. Trường ấy đã được thiết lập và không thể bị xuyên phá.

One group then (containing those who will reach the goal), will pass gradually out from under the domination of this law, and will come under the Law of Magnetic Control.

Một nhóm khi ấy (bao gồm những người sẽ đạt tới mục tiêu) sẽ từ từ thoát ra khỏi sự chi phối của định luật này, và sẽ đi vào dưới Định luật Kiểm soát Từ tính.

195. These are those who are on their way into the realm of the spiritual triad. They are transferring from the auspices of the fifth law to the auspices of the fourth. They are the five becoming the four. From manas they pass to buddhi via buddhi-manas.

195. Đây là những người đang đi vào cảnh giới của Tam Nguyên Tinh Thần. Họ đang chuyển từ sự bảo trợ của định luật thứ năm sang sự bảo trợ của định luật thứ tư. Họ là năm trở thành bốn. Từ manas, họ chuyển qua bồ đề, qua trung gian bồ đề-manas.

196. Earlier in the text we studied how many fifths or tenths would reach the sixth, fifth or third initiations, or would be in earlier stages of the Path. (cf. TCF 422)

196. Trước đó trong bản văn chúng ta đã khảo sát có bao nhiêu phần năm hay phần mười sẽ đạt lần điểm đạo thứ sáu, thứ năm hoặc thứ ba, hoặc sẽ ở những giai đoạn sớm hơn của Thánh Đạo. (x. TCF 422)

The other will remain under the law in a static condition,

Nhóm kia sẽ vẫn ở dưới định luật trong một tình trạng tĩnh tại,

197. Fixation produces stasis.

197. Định trụ tạo nên tĩnh tại.

until in a later period a fresh opportunity will come;

cho đến khi về sau một cơ hội mới đến;

198. Will this opportunity come upon the Earth or on another sphere, such as the planet Mars? Or on both at different times?

198. Liệu cơ hội này sẽ đến trên Địa cầu hay ở một thiên cầu khác, như Sao Hỏa? Hoặc ở cả hai, vào những thời điểm khác nhau?

199. When this second group goes into temporary pralaya, will the condition be one of stasis? This seems to be the implication.

199. Khi nhóm thứ hai này đi vào Giai kỳ qui nguyên tạm thời, tình trạng ấy có phải là tĩnh tại không? Có vẻ như đó là hàm ý.

old forms will break, and in another mahamanvantara, and in its fifth period, will come the chance for which they will have waited, when they can again swing into the current of evolution and the imprisoned spirits may mount again towards their source.

các hình tướng cũ sẽ vỡ, và trong một Đại giai kỳ sinh hóa khác, và trong thời kỳ thứ năm của nó, sẽ đến cơ hội mà họ đã chờ đợi, khi họ có thể lại hòa nhập vào dòng tiến hoá và các linh nguyên bị giam cầm  có thể lại thăng lên nguồn của mình.

200. Little has been said of those who at the “Judgment Day” will be sent into pralaya and, thence, transferred to another sphere for development suitable to them.

200. Ít điều đã được nói về những người, vào “Ngày Phán Xét”, sẽ bị đưa vào giai kỳ qui nguyên và, từ đó, chuyển sang một thiên cầu khác để phát triển phù hợp với họ.

201. Will these segregated Monads (two-fifths) have to wait until another solar system to resume their progressive activity, or is the word “mahamanvantara” variously used, sometimes meaning an entire occult century and sometimes a rather shorter span of time.

201. Liệu các Chân thần bị biệt lập này (hai phần năm) phải chờ đến một hệ mặt trời khác mới tiếp tục hoạt động tiến bộ, hay từ “Đại giai kỳ sinh hóa” được dùng theo nhiều cách, đôi khi có nghĩa là một “thế kỷ huyền linh” trọn vẹn và đôi khi là một khoảng thời gian ngắn hơn?

202. Is it being suggested that the transference of the two-fifths into pralaya and thence, into another sphere, is a retardation and imprisonment, or that opportunity is offered in this transference? When transferred are they somehow removed “from the current of evolution”, having only later to return.

202. Có phải đang được gợi ý rằng việc chuyển hai phần năm vào giai kỳ qui nguyên rồi sang một thiên cầu khác là một sự chậm trễ và giam hãm, hay là cơ hội được trao trong sự chuyển dịch này? Khi được chuyển đi, họ có bị “ra khỏi dòng tiến hoá” nào đó, để rồi chỉ có thể quay lại sau này?

203. We note the following suggesting that the two-fifths may not go into a condition of stasis. It seems to be suggested that the place to which they are transferred will be a place of nurture.

203. Chúng ta lưu ý điều sau, gợi rằng hai phần năm có thể không đi vào một tình trạng tĩnh tại. Có vẻ như đang được gợi rằng nơi mà họ được chuyển đến sẽ là một nơi nuôi dưỡng.

These two fifths will pass into temporary pralaya, preparatory to their transference to another scheme, as the Earth scheme will no longer provide for them an adequate place of nurture. (TCF 391)

Hai phần năm này sẽ đi vào Giai kỳ qui nguyên tạm thời, chuẩn bị cho việc chuyển họ sang một hệ hành tinh khác, vì hệ Địa cầu sẽ không còn cung cấp cho họ một nơi nuôi dưỡng thích đáng nữa. (TCF 391)

204. It is interesting that only when a designated fifth cycle returns can then again reach the point of opportunity which was presented to them at the “Judgment Day”.

204. Điều đáng chú ý là chỉ khi một chu kỳ năm được ấn định quay trở lại, họ mới có thể lại đạt đến điểm cơ hội đã được trình ra cho họ tại “Ngày Phán Xét”.

205. That fifth period in another “mahamanvantara” is a kind of fifth round. Will it be a scheme-round (in which case the term “mahamanvantara” will mean a span much less than an occult century) or will it be a ‘systemic-round’ through a solar system and its various planets, in which case the term “mahamanvantara” will mean, exactly, an occult century.

205. Thời kỳ thứ năm đó trong một “Đại giai kỳ sinh hóa” khác là một dạng vòng thứ năm. Liệu đó sẽ là một vòng—hệ (trong trường hợp này, thuật ngữ “Đại giai kỳ sinh hóa” sẽ chỉ một khoảng ít hơn “thế kỷ huyền linh”) hay sẽ là một “vòng—hệ mặt trời” xuyên qua một hệ mặt trời và các hành tinh của nó, trong trường hợp đó thuật ngữ “Đại giai kỳ sinh hóa” sẽ có nghĩa chính xác là một “thế kỷ huyền linh”.

In an occult sense this law is for us the one with which we are the most intimately concerned.

Theo nghĩa huyền linh, đây là định luật mà đối với chúng ta là định luật gắn bó mật thiết nhất.

206. This is so because we are in process of transferring from the fourth kingdom of nature into the fifth.

206. Điều này đúng vì chúng ta đang trong tiến trình chuyển từ giới thứ tư của thiên nhiên sang giới thứ năm.

207. The “Law of Fixation” touches on our very humanity and its possible spiritualization.

207. “Định luật Định trụ” chạm đến chính nhân tính của chúng ta và khả năng được tinh thần hoá của nó.

It plays an important part in the hands of the Lords of Flame, and is one of Their main factors in controlling the three worlds.

Nó đóng một vai trò quan trọng trong tay các Đấng Lửa, và là một trong những yếu tố chính của Các Ngài khi kiểm soát ba cõi.

208. The Solar Angels are really karmic Agents. Since the “Law of Fixation” is really a lesser Law of Karma (which is a greater “Law of Fixation”), we can understand that the Solar Angels would wield it.

208. Thái dương Thiên Thần thật sự là các Tác nhân nghiệp quả. Vì “Định luật Định trụ” thực ra là một Định luật Nghiệp quả nhỏ hơn (vốn là một “Định luật Định trụ” lớn hơn), chúng ta có thể hiểu rằng các Thái dương Thiên Thần sẽ vận dụng nó.

209. We remember also that the “Law of Magnetic Control” is another law by means of which the personality and even the ego in the causal body are controlled—presumably by the Solar Angel (and also by the Monad).

209. Chúng ta cũng nhớ rằng “Định luật Kiểm soát Từ tính” là một định luật khác nhờ đó phàm ngã và ngay cả chân ngã trong thể nguyên nhân được kiểm soát—nhiều khả năng là bởi Thái dương Thiên Thần (và cũng bởi Chân thần).

Note here an interest­ing fact, that Venus is the sixth planet (esoterically the second), and is in her [593] fifth round, and hence is ahead of us along every line.

Lưu ý ở đây một sự kiện thú vị, rằng Kim Tinh là hành tinh thứ sáu (về mặt nội môn là thứ hai), và đang ở trong [593] vòng thứ năm , và do đó vượt trước chúng ta trên mọi phương diện.

210. Venus has a sixth ray Monad (but this is not her “major” monadic ray). To say that Venus is the “sixth planet” correlates with this sixth ray Monad.

210. Kim Tinh có một Chân thần cung sáu (nhưng đây không phải là cung chân thần “chính” của “nàng”). Nói rằng Kim Tinh là “hành tinh thứ sáu” tương hợp với Chân thần cung sáu này.

211. To say that Venus is “esoterically the second” correlates with ‘her’ major monadic ray, the second.

211. Nói rằng Kim Tinh “về mặt nội môn là thứ hai” tương hợp với cung chân thần chính của “nàng”, là cung hai.

212. We remember that in Chart VI of TCF, Venus is shown as the second planetary scheme, and in Chart VII as the second chain. This is the more occult representation and correlates with ‘her’ deeply esoteric second ray Monad.

212. Chúng ta nhớ rằng trong Biểu đồ VI của TCF, Kim Tinh được trình bày là hệ hành tinh thứ hai , và trong Biểu đồ VII là dãy thứ hai . Đây là trình bày huyền nhiệm hơn và tương hợp với Chân thần cung hai thâm sâu, nội bí của “nàng”.

213. Notice that the term “her” is used in relation to Venus, indicating ‘her’ temporarily feminine nature, for ‘she’ is in a feminine incarnation.

213. Lưu ý thuật ngữ “nàng” được dùng liên hệ với Kim Tinh, chỉ ra “bản tánh” nữ tính tạm thời của “nàng”, vì “nàng” đang ở trong một lâm phàm nữ tính.

214. The round in which Venus finds herself is a ‘planetary round’ or a ‘scheme round’. It is a round which concerns the entire planetary scheme and not just a chain within the scheme.

214. Vòng mà Kim Tinh đang ở là một “vòng—hệ” hay “vòng—hệ hành tinh”. Đó là một vòng liên quan đến toàn bộ hệ hành tinh chứ không chỉ một dãy trong hệ.

215. We, on the other hand, are the fourth planet and are in our fourth scheme-round as well as the fourth chain round of the fourth chain. On Earth we have not yet made the transition from the four to the five. And still, in another way, we are preoccupied with the five and have not entered the synthesis which the four makes possible.

215. Còn chúng ta, mặt khác, là hành tinh thứ tư và đang ở vòng—hệ thứ tư cũng như vòng dãy thứ tư của dãy thứ tư. Trên Địa cầu, chúng ta vẫn chưa thực hiện được chuyển tiếp từ bốn sang năm. Và rồi, theo một cách khác, chúng ta đang bận bịu với con số năm và chưa bước vào tổng hợp mà con số bốn làm khả hữu.

This law demonstrates the static quality of love, static tempo­rarily, but necessarily so when viewed from the standpoint of time, the great deluder.

Định luật này biểu lộ phẩm tính tĩnh tại của tình thương , tĩnh tại tạm thời, nhưng tất yếu như thế khi nhìn từ quan điểm của thời gian, kẻ đánh lừa vĩ đại .

216. We must relate the “Law of Fixation” to experience upon the Fixed Cross—the Cross of the Soul.

216. Chúng ta phải liên hệ “Định luật Định trụ” với kinh nghiệm trên Thập Giá Cố Định —Thập Giá của Linh hồn.

217. Through the soul we experience ‘fixed love’ or ‘static love’—a type of love which is non-fluctuating.

217. Qua linh hồn, chúng ta kinh nghiệm “tình thương cố định” hay “tình thương tĩnh tại”—một loại tình thương không dao động.

218. Upon the higher mental plane where the “Law of Fixation” also applies, there is experienced one phase of the overcoming of the illusion of time. A more complete overcoming occurs in relation to the buddhic plane at and after the fourth degree.

218. Trên cõi thượng trí nơi “Định luật Định trụ” cũng áp dụng, có một pha vượt thắng ảo tưởng về thời gian. Một sự vượt thắng đầy đủ hơn xảy ra liên hệ với cõi Bồ đề tại và sau bậc thứ tư.

219. Why is time called “the great deluder”? “Time then and form agree. Being and Time do not agree.” Time veils Being. Saturn veils Uranus (Space, the Heavenly One, and the ‘God of Simultaneity’).

219. Vì sao thời gian được gọi là “kẻ đánh lừa vĩ đại”? “Thời gian và hình tướng hòa hiệp. Hữu Thể và Thời gian không hòa hiệp.” Thời gian che phủ Hữu Thể. Sao Thổ che màn Sao Thiên Vương (Không gian, Đấng Thiên Nhân, và “Thần của Tính Đồng Thời”).

On the path of involution this law again works with the permanent atoms in the three worlds, with the building in of material around those atoms, in con­nection with the building devas and the reincarnating Egos.

Trên con đường giáng hạ tiến hoá, định luật này lại tác động với các nguyên tử trường tồn trong ba cõi, với việc bồi đắp chất liệu chung quanh các nguyên tử ấy, liên hệ với các thiên thần kiến tạo và các Chân ngã tái lâm.

220. We see that the “Law of Fixation” is also a constructive law. It contributes to the building process before contributing to the process of destruction

220. Chúng ta thấy rằng “Định luật Định trụ” cũng là một định luật kiến tạo . Nó góp phần vào tiến trình xây dựng trước khi góp phần vào tiến trình hủy diệt.

221. Along this line, the fifth ray is not only related to the first but also to the second. In fact, it is closely related to the third. This threefold relationship must be closely examined when we study the Word of Power, “Three Minds Unite”.

221. Theo hướng này, cung năm không chỉ liên hệ với cung một mà còn với cung hai. Thực ra, nó liên hệ mật thiết với cung ba. Mối liên hệ tam phân này phải được khảo sát kỹ khi chúng ta học Quyền năng từ “Ba trí hợp nhất”.

222. Presumably the “building in of material around those atoms” means the building of the vehicles through which the Ego is to function.

222. Có thể “bồi đắp chất liệu quanh các nguyên tử ấy” có nghĩa là xây dựng các vận cụ qua đó chân ngã sẽ hoạt động.

223. This building-in and the building, in general, must be a highly technical and ‘karmically mathematical’ process, for which the fifth ray is needed.

223. Việc bồi đắp này và việc xây dựng nói chung hẳn là một tiến trình rất kỹ thuật và “toán nghiệp” cao độ, mà cung năm là cần thiết.

224. There is much scientific knowledge required for work with the permanent atoms. The members so the Fifth Creative Hierarchy (the Solar Angels) have this type of knowledge.

224. Cần có nhiều tri thức khoa học cho công tác với các nguyên tử trường tồn. Các thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ Năm (các Thái dương Thiên Thần) có loại tri thức này.

The devas are the mother aspect, the builders of the body, and the reincarnating Jivas are the son aspect; yet the two are but one, and the result is the divine hermaphroditic man. [See page 512.]

Các thiên thần là phương diện Mẹ, các đấng kiến tạo thể, và các Jiva tái lâm là phương diện Con; tuy vậy hai phương diện chỉ là một, và kết quả là con người lưỡng tính thiêng liêng. [Xem trang 512.]

225. The Planetary Logos is a Divine Hermaphrodite; so is man on a lesser scale.

225. Hành Tinh Thượng đế là một Đấng Lưỡng tính Thiêng liêng; con người cũng vậy ở một cấp độ nhỏ hơn.

226. We are dealing with the mystery of the Mother and the Son. The Jiva is the Son—the solar aspect in man. The Jiva is emanative extension of the monadic “spark”. It is sun-like.

226. Chúng ta đang xử lý huyền cơ của Mẹ và Con. Jiva là Con—phương diện thái dương trong con người. Jiva là xuất lộ phát xạ của “tia lửa” chân thần. Nó mang tính thái dương.

227. If any relationship is to be stable, some degree of fixity is required. Fixation leads to stabilization and stabilization leads to the perpetuation of relationship. Perpetuated relationships can be equated with perpetuated forms through which man can manifest. Without the “Law of Fixation”, man would have no stable vehicles through which to manifest.

227. Nếu bất kỳ mối quan hệ nào muốn bền vững, cần có một mức độ cố định . Định trụ dẫn đến ổn định, và ổn định dẫn đến duy trì mối quan hệ. Các mối quan hệ được duy trì có thể được xem như các hình tướng được duy trì, qua đó con người có thể biểu lộ. Không có “Định luật Định trụ”, con người sẽ không có các vận cụ ổn định để biểu lộ.

6. The Law of Love.—It is not easy, in this brief digest, to approach the tremendous problem of the place love plays in the evolving scheme of things as understood by three-dimensional man.

6. Định luật  Tình thương. —Trong bản tóm yếu ngắn này, không dễ để tiếp cận vấn đề khôn cùng về vai trò của tình thương trong mô thức tiến hoá như con người ba chiều thấu hiểu.

228. In the higher reaches of our identity we are more than “three dimensional man”, and perhaps must repair to those heights in order to understand the true nature of Love.

228. Ở những tầng cao hơn của căn tính chúng ta, chúng ta vượt lên khỏi “con người ba chiều”, và có lẽ phải trở về những đỉnh cao đó để hiểu bản chất chân thật của Tình thương.

A treatise could be written on the subject, and yet leave it unexhausted.

Một bộ luận có thể được viết về chủ đề này, thế mà vẫn chưa thể vắt kiệt nó.

229. When DK says this, He means exactly what He says.

229. Khi Chân sư DK nói vậy, Ngài muốn nói đúng như thế.

230. He can foresee how a subject could be elaborated. His task, in giving us all these writings, is to essentialize His voluminous vision and understanding. It must have been a great act of discrimination to decide what to write about and in what length. Obviously, our capacity to assimilate and the time available to us to assimilate, must have presented Him with a very great challenge.

230. Ngài thấy trước được một đề tài có thể khai triển thế nào. Sứ mệnh của Ngài, khi ban cho chúng ta tất cả những trước tác này, là tinh luyện lại tầm nhìn và sự thấu hiểu mênh mông của Ngài. Hẳn đó là một đại công trình phân biện để quyết định viết về gì và dài ngắn ra sao. Hiển nhiên, khả năng tiếp thu của chúng ta và thời gian sẵn có để tiếp thu hẳn là một thách thức rất lớn đối với Ngài.

Much light comes if we can ponder deeply on the three expressions of Love:  Love in the Personality, Love in the Ego, and Love in the Monad

Nhiều soi sáng sẽ đến nếu chúng ta có thể suy niệm sâu về ba biểu hiện của Tình thương: Tình thương nơi Phàm ngã, Tình thương nơi Chân ngã, và Tình thương nơi Chân thần.

231. These three, and the laws with which they correlate are constantly repeated in the sections of text we have been studying during this and the preceding commentary.

231. Ba điều này, và các định luật tương ứng, được nhắc đi nhắc lại trong những đoạn văn mà chúng ta đã học trong bài và chú giải trước.

Love in the Personality gradually develops through the stages of love of self, pure and simple and entirely selfish, to love of family and friends, to love of men and women, until it arrives at the stage of love of humanity or group love consciousness which is the predominant characteristic of the Ego. 

Tình thương nơi Phàm ngã dần dần phát triển từ giai đoạn yêu bản thân, thuần túy và hoàn toàn ích kỷ, đến yêu gia đình và bè bạn, đến yêu những người nam và nữ, cho đến khi đạt đến giai đoạn yêu nhân loại hay tâm thức tình thương tập thể, vốn là đặc trưng trội của Chân ngã.

232. DK has given us an important developmental sequence. Let us try to fix it in mind through tabulation:

232. Chân sư DK đã cho chúng ta một trình tự phát triển quan trọng. Hãy cố định nó vào trí bằng sự liệt kê:

233. Love in the Personality develops in the following sequence:

233. Tình thương nơi Phàm ngã phát triển theo trình tự sau:

a. Love of self, pure and simple, and entirely selfish

a. Yêu bản thân, thuần túy và hoàn toàn ích kỷ

b. Love of family and friends

b. Yêu gia đình và bè bạn

c. Love of men and women who are not necessarily family and friends

c. Yêu những người nam và nữ không nhất thiết là gia đình hay bạn bè

d. Love of humanity in general—group love. This is the kind of love which expresses itself through the Ego.

d. Yêu nhân loại nói chung—tình thương tập thể. Đây là loại tình thương biểu lộ qua Chân ngã.

A Master of Compassion loves, suffers with, and remains with His kind and with His kin.

Một Chân sư của Bi mẫn yêu thương, đồng khổ, và ở lại với đồng loại và quyến thuộc của Ngài.

234. DK is telling us about the motivation and life process of a Master of Compassion. Perhaps this type of Master is distinguished somewhat from a Master of the Wisdom.

234. Chân sư DK đang nói với chúng ta về động cơ và lối sống của một Chân sư của Bi mẫn. Có lẽ kiểu Chân sư này khác đôi chút với một “Chân sư của Minh triết”.

In the hierarchy of our planet the “Lords of Compassion” are numerically greater than the “Masters of the Wisdom.”  The former must therefore all pass to the sun Sirius there to undergo a tremendous manasic stimulation, for Sirius is the emanating source of manas.  There the mystic must go and become what is called “a spark of mahatic electricity.” (TCF 1243)

Trong Thánh đoàn của hành tinh chúng ta, “các Đấng của Bi mẫn” đông hơn “các Chân sư của Minh triết.” Vì vậy nhóm thứ nhất tất cả đều phải đi đến mặt trời Sirius để chịu một kích thích manas vô cùng mạnh mẽ, vì Sirius là nguồn xuất lộ của manas. Ở đó người huyền nhiệm phải đi và trở thành điều được gọi là “một tia lửa điện mahatic.” (TCF 1243)

235. Let us think of the Christ:

235. Hãy nghĩ về Đức Christ:

a. He loved human beings

a. Ngài thương yêu con người

b. He suffered and suffers with human beings

b. Ngài đã và đang đồng khổ với con người

c. He remained and remains with human being, to all of whom He feels related.

c. Ngài đã và đang ở lại với con người, với tất cả những ai Ngài cảm thấy gắn thuộc.

236. The Christ is both a “Master of the Wisdom” and a “Lord of Compassion”.

236. Đức Christ vừa là một “Chân sư của Minh triết” vừa là một “Đấng của Bi mẫn”.

Love in the Ego gradually develops from love of humanity into love universal—a love that expresses not only love of humanity, but also love of the deva evolutions in their totality, and of all forms of divine manifestation.

Tình thương nơi Chân ngã dần dần phát triển từ yêu nhân loại thành tình thương phổ quát—một tình thương không chỉ biểu lộ yêu nhân loại, mà còn yêu toàn bộ các tiến hóa thiên thần, và mọi hình thái biểu lộ thiêng liêng.

237. We now continue with the development of love. When tracing the development of Love in the Personality, we arrived finally at group love. When discussing Love in the Ego, we now begin with group love or love of humanity—a wider form of group love.

237. Giờ đây chúng ta tiếp tục với sự phát triển của Tình thương. Khi lần theo sự phát triển của Tình thương nơi Phàm ngã, chúng ta rốt cuộc đến tình thương tập thể. Khi bàn về Tình thương nơi Chân ngã, chúng ta bắt đầu với tình thương tập thể hay yêu nhân loại—một dạng tình thương tập thể rộng hơn.

238. Love in the Ego develops through the following stages:

238. Tình thương nơi Chân ngã phát triển qua các giai đoạn sau:

a. Love of the group

a. Yêu nhóm

b. Love of humanity

b. Yêu nhân loại

c. Love universal—including with a love of humanity, the love of the deva evolutions and of all forms of divine manifestation.

c. Tình thương phổ quát—bao gồm, cùng với tình thương nhân loại, tình thương dành cho các tiến hóa thiên thần và mọi hình thái biểu lộ thiêng liêng.

239. Ever the love becomes more and more inclusive.

239. Tình thương càng lúc càng bao gồm nhiều hơn.

Love in the Personality is love in the three worlds; love in the Ego is love in the solar system, and all that it contains; whilst love in the Monad demonstrates a measure of cosmic love, and embraces much that is outside the solar system altogether.

Tình thương nơi Phàm ngã là tình thương trong ba cõi; tình thương nơi Chân ngã là tình thương trong hệ mặt trời, và tất cả những gì nó bao hàm; trong khi tình thương nơi Chân thần biểu lộ một mức độ của tình thương vũ trụ , và ôm trọn nhiều điều vượt ra ngoài hệ mặt trời.

240. Here is an excellent comparison:

240. Đây là một so sánh tuyệt hảo:

241. The three vibratory domains compared are:

241. Ba miền rung động được so sánh là:

a. The three worlds wherein Love in the Personality prevails

a. Ba cõi nơi Tình thương nơi Phàm ngã ngự trị

b. The seven world or seven solar planes wherein Love in the solar system prevails

b. Bảy cõi giới hay bảy cõi thái dương nơi Tình thương trong hệ mặt trời ngự trị

c. Extra-systemic or Cosmic Love wherein “love in the Monad” prevails.

c. Tình thương Ngoại-hệ hay Tình thương vũ trụ, nơi “tình thương nơi Chân thần” ngự trị.

242. The consciousness and love of the Monad reaches beyond even our solar system. Does the Monad begin to relate in love to the Seven Solar Systems of Which Ours is One? Is such love at least Sirian in nature?

242. Tâm thức và tình thương của Chân thần vươn tới vượt hẳn hệ mặt trời của chúng ta. Liệu Chân thần có bắt đầu liên hệ trong tình thương với “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của Chúng ta là Một” chăng? Ít nhất, tình thương ấy có mang tính Sirian không?

243. Or does “love in the Monad” embrace that part of our Solar Logos which lies ‘above’ our cosmic physical plane—such as the astral nature of the Logos and His mental nature, leading eventually to the Heart of the Sun—His causal nature on the cosmic mental plane.

243. Hoặc liệu “tình thương nơi Chân thần” có ôm choàng phần của Thái dương Thượng đế chúng ta nằm “trên” cõi hồng trần vũ trụ—như là thể cảm dục của Ngài và thể trí của Ngài, rốt cuộc dẫn tới “Tim Mặt trời”—thể nguyên nhân của Ngài trên cõi trí vũ trụ?

[594]

[594]

This term “The Law of Love,” is after all too generic a term to apply to one law governing one plane, but will have to suffice for the present, as it conveys the type of idea that is needed, to our minds.

Thuật ngữ “Định luật Tình thương” rốt cuộc quá khái quát để áp dụng cho một định luật chi phối một cõi, nhưng tạm thời sẽ phải chấp nhận, vì nó chuyển đạt kiểu ý tưởng cần thiết cho tâm trí chúng ta.

244. DK realizes that one cannot confine the great “Law of Love” to one plane alone. It pervades the entire cosmic physical plane and cosmic planes beyond. So it is being used for want of a better term.

244. Chân sư DK hiểu rằng không thể gói gọn “Định luật Tình thương” vĩ đại vào một cõi duy nhất. Nó thấm nhuần toàn bộ cõi hồng trần vũ trụ và các cõi vũ trụ cao hơn. Vì thế ở đây dùng thuật ngữ này do chưa có thuật ngữ thích hợp hơn.

245. This is why He called it earlier the “astral Law of Love”.

245. Đây là lý do vì sao Ngài gọi nó trước đó là “Định luật Tình thương cảm dục”.

The Law of Love is in reality but the law of the system in demonstration on all the planes.

Định luật Tình thương thực ra chỉ là định luật của toàn hệ đang được biểu lộ trên mọi cõi.

246. Here DK gives a wider definition of the “Law of Love”

246. Ở đây Chân sư DK đưa ra một định nghĩa rộng hơn về “Định luật Tình thương”.

247. When we call it the law of the system, we should not confine ourselves to the etheric-physical nature of the Solar Logos, but to other and higher cosmic aspects. Our Logos is a “God of Love” in his astral, mental and higher mental nature as well as in His etheric-physical nature.

247. Khi chúng ta gọi nó là định luật của hệ, chúng ta không nên chỉ giới hạn ở bản chất dĩ thái–hồng trần của Thái dương Thượng đế, mà còn bao gồm các phương diện vũ trụ cao hơn. Vị Logos của chúng ta là “Thượng đế của Tình thương” trong bản chất cảm dục, trí tuệ và thượng trí của Ngài cũng như trong bản chất dĩ thái–hồng trần của Ngài.

Love was the impelling motive for manifestation, and love it is that keeps all in ordered sequence; love bears all on the path of return to the Father’s bosom, and love eventually perfects all that is.  It is love that builds the forms that cradle temporarily the inner hidden life, and love is the cause of the disruption of those forms, and their utter shattering, so that the life may further progress.  Love manifests on each plane as the urge that drives the evolving Monad onwards to its goal, and love is the key to the deva kingdom, and the reason of the blending of the two kingdoms eventually into the divine Hermaphrodite.

Tình thương là động lực thúc đẩy cho sự biểu lộ, và chính tình thương giữ vạn hữu theo trình tự trật tự; tình thương cõng mang tất cả trên Con Đường Trở Về vào Lòng Cha, và rốt cuộc tình thương hoàn thiện tất cả những gì hiện hữu. Chính tình thương xây nên các hình tướng cưu mang tạm thời sự sống ẩn giấu bên trong, và chính tình thương là nguyên nhân khiến các hình tướng ấy bị phá vỡ, và hoàn toàn đập nát, để sự sống có thể tiến xa hơn. Tình thương biểu lộ trên mỗi cõi như là xung lực thúc đẩy Chân thần đang tiến hoá hướng đến cứu cánh của mình, và tình thương là chìa khóa của giới thiên thần, và là lý do khiến hai giới cuối cùng hòa quyện thành Vị Lưỡng tính Thiêng liêng.

248. Here is a magnificent paragraph defining the nature of Love.

248. Đây là một đoạn tuyệt diệu định nghĩa bản tính của Tình thương.

249. The Solar Logos is Love and so Love must be defined broadly and inclusively:

249. Vị Thái dương Thượng đế Tình thương và vì thế Tình thương phải được định nghĩa một cách rộng rãi và bao gồm:

250. Let us tabulate what we are learning about the nature of Love, for the sake of greater impression:

250. Hãy liệt kê những gì chúng ta đang học về bản tính của Tình thương, để tạo ấn tượng sâu sắc hơn:

a. Love is the impelling motive for manifestation. Love is archetypal relationship. The Divine Archetype expresses this relationship. That Archetype is magnetic and draws all units towards such relationship.

a. Tình thương là động lực thúc đẩy sự biểu lộ. Tình thương là quan hệ nguyên mẫu. Mẫu Mực Thiêng Liêng biểu lộ quan hệ này. Mẫu Mực ấy có tính từ lực và lôi kéo mọi đơn vị hướng tới mối quan hệ như thế.

b. Love keeps all in ordered sequence. Those who belong to each other (through Love) find each other and come and go in ordered cycles. They do not break their magnetic affinity with each other and cycle in and out accordingly.

b. Tình thương giữ vạn hữu trong trình tự trật tự. Những ai thuộc về nhau (qua Tình thương) sẽ tìm thấy nhau và đến–đi theo các chu kỳ có trật tự. Họ không phá vỡ sự tương ứng từ lực với nhau và tuần hoàn ra–vào tương ứng.

c. Love bears all on the Path of Return to the Father’s Bosom. The Monad in the Father’s Bosom is a great Magnet.

c. Tình thương cõng mang tất cả trên Con Đường Trở Về vào Lòng Cha. Chân thần trong Lòng Cha là một Đại Nam Châm.

d. Love eventually perfects all that is. Love orders all into archetypal relationship. Such an ordering leads to perfection.

d. Rốt cuộc tình thương hoàn thiện tất cả những gì hiện hữu. Tình thương sắp đặt tất cả vào quan hệ nguyên mẫu. Sự sắp đặt như thế dẫn đến hoàn thiện.

e. Love builds the forms that temporarily cradle the inner life. Love provides vehicles for the expression of the inner life. Life invites the inner life into expression through form and protects that inner life as it expresses through form.

e. Tình thương xây các hình tướng tạm thời cưu mang sự sống nội tại. Tình thương cung cấp vận cụ cho sự biểu lộ của sự sống nội tại. Tình thương mời gọi sự sống nội tại biểu lộ qua hình tướng và che chở sự sống nội tại ấy khi nó biểu lộ qua hình tướng.

f. Love is the cause of the disruption of such forms so that the inner hidden life may progress. A greater Love attracts the inner life beyond the form created (which, then, must be destroyed). This attraction and destruction recur until the forms created are the Archetypal Forms.

f. Tình thương là nguyên nhân phá vỡ các hình tướng như vậy để sự sống ẩn giấu bên trong có thể tiến triển. Một Tình thương lớn hơn hấp dẫn sự sống nội tại vượt lên khỏi hình tướng đã tạo (vốn rồi phải bị phá hủy). Sự hấp dẫn và hủy phá này tái diễn cho đến khi các hình tướng được tạo những Hình tướng Nguyên mẫu.

g. Love manifests as the urge that drives the evolving Monad on to its goal. Does Love drive or does it attract? The Monad longs for the return to perfected relationship.

g. Tình thương biểu lộ như xung lực thúc đẩy Chân thần đang tiến hoá đến cứu cánh. Tình thương đẩy hay hấp dẫn? Chân thần khao khát trở về mối quan hệ hoàn hảo.

h. Love is the key to the deva kingdom. This kingdom is the great feminine aspect and lovingly offers itself as a vehicle for the expression for the consciousness aspect. When in the “Love”, one summons the devas wisely and builds with them wisely. An ordered and beautiful life is the result.

h. Tình thương là chìa khóa cho giới thiên thần. Giới này là phương diện nữ lớn lao và yêu thương tự hiến làm vận cụ cho biểu lộ của phương diện tâm thức. Khi ở trong “Tình thương”, người ta triệu thỉnh các thiên thần một cách khôn ngoan và kiến tạo với họ một cách khôn ngoan. Kết quả là một đời sống có trật tự và mỹ lệ.

i. Love is the reason for the blending of the two kingdoms eventually into the Divine Hermaphrodite. Love insists on completeness and inclusion. The two poles must come together to make the whole. Love brings these poles together—man and deva.

i. Tình thương là lý do cho sự hòa quyện cuối cùng của hai giới thành Vị Lưỡng tính Thiêng liêng. Tình thương đòi hỏi sự trọn vẹn và bao gồm. Hai cực phải quy tụ để thành toàn thể. Tình thương mang hai cực ấy lại gần nhau—con người và thiên thần.

Love works through the concrete rays in the building of the system, and in the rearing of the structure that shelters the Spirit,

Tình thương hoạt động qua các cung cụ thể trong việc kiến tạo hệ thống, và trong việc dựng lên kiến trúc che chở Thần Linh,

251. How shall we look at the terms “concrete” and “abstract” in this context?

251. Chúng ta nên nhìn các thuật ngữ “cụ thể” và “trừu tượng” trong ngữ cảnh này như thế nào?

252. Earlier we considered one—three—five—seven concrete, and especially rays five and seven.

252. Trước đó, chúng ta xem 1—3—5—7 là cụ thể, đặc biệt là cung năm và bảy.

253. We considered that the ‘mystic line’ of two—four—six held the “abstract rays”.

253. Chúng ta từng xem “tuyến huyền nhiệm” 2—4—6 là những cung “trừu tượng”.

254. We recall, however, that it is also possible to consider rays five, six and seven the “concrete rays” and rays one, two and three the “abstract rays”.

254. Tuy nhiên, cũng có thể xem các cung năm, sáu và bảy là “các cung cụ thể” và các cung một, hai và ba là “các cung trừu tượng”.

and love works through the abstract rays for the full and potent development of that inherent divinity.

và tình thương hoạt động qua các cung trừu tượng để phát triển đầy đủ và mạnh mẽ thiên tính tiềm tàng ấy.

255. Perhaps in this context it would be wise to consider abstract and concrete differently than before, for it is the Rays of Attribute which build the persona and the Rays of Aspect which develop the Attributes of divinity so that they can express the Aspect.

255. Có lẽ trong ngữ cảnh này khôn ngoan hơn khi xét “trừu tượng” và “cụ thể” khác trước, vì chính các Cung Thuộc Tính xây dựng phàm ngã và các Cung Trạng Thái phát triển các Thuộc Tính của thiên tính để chúng có thể biểu lộ Phương diện.

Love demonstrates, through the concrete rays, the aspects of divinity, forming the persona that hides the one Self; love demonstrates through the abstract rays in developing the attributes of divinity, in evolving to fullest measure the kingdom of God within.

Tình thương biểu lộ, qua các cung cụ thể, các phương diện của thiên tính, hình thành cái mặt nạ che giấu Một Tự Ngã; tình thương biểu lộ qua các cung trừu tượng trong việc phát triển các thuộc tính của thiên tính, trong việc tiến hoá đến mức viên mãn “Thiên Giới” bên trong.

256. This is beautifully stated. The “aspects of divinity” are definitely expressed by the Rays of Aspect—rays one, two and three. These abstract qualities expressed through the Rays of Aspect develop the “Attributes” of divinity as the “Aspects” express through the “Attributes”.

256. Điều này được trình bày thật mỹ lệ. “Các phương diện của thiên tính” chắc chắn được biểu lộ bởi Các Cung Trạng Thái—cung một, hai và ba. Những phẩm tính trừu tượng này khi biểu lộ qua Các Cung Trạng Thái sẽ phát triển các “Thuộc tính” của thiên tính khi “Phương diện” biểu lộ qua “Thuộc tính”.

257. But in all fairness, DK has been turning these words “aspects” and “attributes” in various ways, so there is no entirely clear delineation. It seems very likely that there are at least two different ways of understanding the words “abstract rays” and “concrete rays”.

257. Nhưng công bằng mà nói, Chân sư DK đã xoay trở các từ “phương diện” và “thuộc tính” theo những cách khác nhau, nên không có một ranh giới hoàn toàn rõ rệt. Có vẻ rất có khả năng rằng có ít nhất hai cách khác nhau để hiểu các từ “các cung trừu tượng” và “các cung cụ thể”.

258. If one studies the section of text above, one could come to the conclusion that the term “attributes” indicates something more subjective than the term “aspects”, but clearly Rays of Aspect are the more general, inclusive rays and Rays of Attribute are more specific and more concrete.

258. Nếu người đọc khảo sát đoạn văn trên, có thể đi đến kết luận rằng thuật ngữ “thuộc tính” chỉ điều gì đó chủ quan hơn so với thuật ngữ “phương diện”, nhưng rõ ràng Các Cung Trạng Thái là những cung tổng quát, bao quát hơn, còn Các Cung Thuộc Tính thì cụ thể và cụ thể hơn.

259. We have to follow every sentence closely to see exactly what may evolution meant.

259. Chúng ta phải theo sát từng câu để thấy chính xác điều tiến hoá có thể muốn nói.

Love in the concrete rays leads to the path of occultism; love in the abstract rays leads to that of the mystic.

Tình thương nơi các cung cụ thể dẫn đến con đường huyền bí học; tình thương nơi các cung trừu tượng dẫn đến con đường của nhà thần bí.

260. But now we have the other point of view. The rays on the one—three—five—seven line are definitely the rays which lead to the “path of occultism”. They are not the rays of the mystic. So if this is what DK means by concrete, then the concrete rays are one, three, five and seven.

260. Nhưng giờ đây chúng ta có quan điểm kia. Các cung trên tuyến 1—3—5—7 chắc chắn là những cung dẫn đến “con đường huyền bí học”. Chúng không phải là các cung của nhà thần bí. Vậy nếu đây là điều Chân sư DK muốn nói về “cụ thể”, thì các cung cụ thể là 1, 3, 5 và 7.

261. AND, the rays of the mystic are definitely the two—four—six line. So even though the Rays of Aspect are abstract when compared to the Rays of Attribute, in the context of this particular section of text, we must relate the abstract rays to the mystical line—rays two, four and six.

261. VÀ, các cung của nhà thần bí chắc chắn là tuyến 2—4—6. Vậy dẫu cho Các Cung Trạng Thái là “trừu tượng” khi so với Các Cung Thuộc Tính, trong ngữ cảnh của đoạn văn đặc thù này, chúng ta phải liên hệ các cung trừu tượng với tuyến huyền nhiệm—các cung hai, bốn và sáu.

Love forms the sheath and inspires the life; love causes the logoic vibration to surge forward, carrying all on its way, and bringing all to perfected manifestation.

Tình thương hình thành cái bao thể và truyền cảm hứng cho sự sống; tình thương khiến rung động logoic dâng trào tiến tới, mang tất cả theo đường lối của nó, và đưa tất cả đến biểu lộ hoàn hảo.

262. Behind all these rays is the Great Indigo Ray of Love-Wisdom. It is Solar Love which uses all the rays and all the divine aspects.

262. Ẩn sau tất cả các cung là Đại Cung Chàm của Bác Ái – Minh Triết. Chính Tình thương Thái dương dùng mọi cung và mọi phương diện thiêng liêng.

263. Love uses the occult rays and the mystical rays. Love uses the abstract rays and the concrete rays. Love uses the Rays of Aspect and the Rays of Attribute.

263. Tình thương dùng các cung huyền bí học và các cung thần bí. Tình thương dùng các cung trừu tượng và các cung cụ thể. Tình thương dùng Các Cung Trạng Thái và Các Cung Thuộc Tính.

264. We have two different ways of view ing the concept of concrete and abstract, but whichever is correct (and also if both are correct) it is Love that uses these lines of expression.

264. Chúng ta có hai cách nhìn khác nhau về khái niệm “cụ thể” và “trừu tượng”, nhưng dù cách nào (và ngay cả khi cả hai đều đúng) thì chính Tình thương dùng các tuyến biểu lộ này.

In System I, Activity, Desire for Expression, and the Impulse to Move was the basic note.

Trong Hệ I, Hoạt động, Khát vọng Biểu lộ, và Xung lực để Chuyển động là chủ âm căn bản.

265. Even now those upon the third ray express this “Impulse to Move”. Stillness and centeredness, on the other hand, are the natural expression of many upon the second ray.

265. Ngay cả hiện nay những ai thuộc cung ba biểu lộ “Xung lực để Chuyển động” này. Mặt khác, tĩnh tại và quy tâm là biểu lộ tự nhiên của nhiều người thuộc cung hai.

266. The “Desire for Expression” is related to the seventh ray “Will-to-Express”. The seventh ray, so closely related to the third, was strong in the previous solar system. (cf. EA 605)

266. “Khát vọng Biểu lộ” có liên hệ với “Ý Chí- Biểu lộ” của cung bảy. Cung bảy, vốn liên hệ rất chặt với cung ba, đã mạnh mẽ trong hệ mặt trời trước. (x. EA 605)

267. Virgo, the sign of the zodiac which was powerful in the second half of the previous solar system is hypothesized as having expressed at that time through the third and seventh rays, whereas now it expresses through the second and sixth.

267. Xử Nữ, dấu hiệu hoàng đạo vốn mạnh mẽ trong nửa sau của hệ mặt trời trước, được giả thuyết là khi ấy đã biểu lộ qua cung ba và bảy, trong khi nay biểu lộ qua cung hai và sáu.

268. Or shall we say that at that time the third and seventh rays expressed through Virgo and now the second and sixth rays express through it?

268. Hay chúng ta hãy nói rằng khi ấy cung ba và bảy đã biểu lộ qua Xử Nữ và nay cung hai và sáu biểu lộ qua dấu hiệu này?

269. There are various sources of rays; some may express through a constellation and some may be expressed by a constellations (emitted rather than transmitted as in the first case).

269. Có nhiều nguồn của các cung; có nguồn biểu lộ qua một chòm sao và có nguồn được biểu lộ bởi một chòm sao (phát xạ hơn là truyền dẫn như trong trường hợp thứ nhất).

That activity produced certain results, certain permanent effects, and thus formed the nucleus for the present system.

Hoạt động đó tạo ra những kết quả nhất định, những hiệu ứng trường tồn nhất định, và như vậy hình thành hạch nhân cho hệ thống hiện tại.

270. These “results” became the basic, “primordial” patterns upon which our present solar system was founded.

270. Những “kết quả” này trở thành những mô hình cơ bản, “nguyên sơ” mà trên đó hệ mặt trời hiện tại của chúng ta được dựng lập.

Ordered Activity is the foundation of this system of ordered [595] Love,

Hoạt động có trật tự là nền tảng của hệ thống của [595] Tình thương có trật tự,

271. The third and seventh rays combine. It is as if Virgo (the sign so prominent during the later part of the previous system) gave birth to our system, the second major system.

271. Cung ba và cung bảy kết hợp. Như thể Xử Nữ (dấu hiệu nổi bật trong phần sau của hệ thống trước) sinh ra hệ thống của chúng ta, hệ thống lớn thứ hai.

272. We are also reminded of the nature of a certain One About Whom Naught May Be Said which can be studied in EP I 150, wherein the “active impulse towards organization” is a major quality.

272. Chúng ta cũng được nhắc nhớ về bản chất của một Đấng Bất Khả Tư Nghị nào đó vốn có thể được khảo cứu trong EP I 150, trong đó “xung lực năng động hướng tới tổ chức” là một phẩm tính chủ đạo.

273. A system of “ordered Love” suggests the union of the seventh and second rays. The Monads on the second or seventh plane are an expression of “ordered Love”.

273. Một hệ thống của “Tình thương có trật tự” gợi ý sự kết hợp của cung bảy và cung hai. Các chân thần trên cõi thứ hai hoặc thứ bảy là một biểu lộ của “Tình thương có trật tự”.

and leads to system three, wherein ordered Activity, with ordered Love for its impulse, results in ordered loving Power.

và dẫn tới hệ thống ba, trong đó Hoạt động có trật tự, với Tình thương có trật tự làm xung lực, đưa đến Quyền lực yêu thương có trật tự.

274. We must not dismiss ray three as a ray of order. We sometimes think of it as a ray of chaos, but when highly developed all proceeds cyclically and intelligently—at the right time and in the right place. In other words, ray three contributes significantly to the establishing of order. Ray seven is a more concrete expression of ray three just as it is a more concrete expression of ray one. Ray seven is especially related to these two rays.

274. Chúng ta không được gạt bỏ cung ba như một cung của trật tự. Đôi khi chúng ta nghĩ về nó như một cung của hỗn loạn, nhưng khi phát triển cao, mọi sự tiến hành theo chu kỳ và thông tuệ—đúng thời và đúng chỗ. Nói cách khác, cung ba đóng góp đáng kể vào việc thiết lập trật tự. Cung bảy là biểu lộ cụ thể hơn của cung ba cũng như nó là biểu lộ cụ thể hơn của cung một. Cung bảy liên hệ đặc biệt với hai cung này.

275. So in the third system there is ordered, loving power—rays three/seven—two—one.

275. Vì vậy, trong hệ thống thứ ba có quyền lực yêu thương có trật tự—các cung ba/bảy—hai—một.

276. Each system is built upon the accomplishments of the system preceding.

276. Mỗi hệ thống được xây dựng trên những thành tựu của hệ thống đi trước.

The sixth Ray of devotion and the sixth law of love have a close alliance, and on the sixth plane comes the powerful working out in the lower Triad, the Personality, of the Law of Love.

Cung sáu của sùng tín và định luật sáu của tình thương có liên minh mật thiết, và trên cõi thứ sáu xảy ra sự triển khai mạnh mẽ trong Tam nguyên thấp, tức Phàm ngã, của Định luật Tình thương.

277. If we learn how to think in terms of ‘numerical affinity’ we shall begin to understand the “Science of Relations”

277. Nếu chúng ta học cách tư duy theo các ‘tương ứng số học’ chúng ta sẽ bắt đầu thấu hiểu “Khoa học về các Mối Quan Hệ”

On the astral plane, the home of the desires, originate those feelings which we call personal love;

Trên cõi cảm dục, nơi cư trú của các ham muốn, phát sinh những cảm xúc mà chúng ta gọi là tình thương cá nhân;

278. Personal love is based on “feelings”. It is occultly lunar and is not really an expression of the love of the soul—a solar form of love.

278. Tình thương cá nhân dựa trên “cảm xúc”. Về mặt huyền môn, nó mang tính thái âm và thật ra không phải là biểu lộ của tình thương của linh hồn—một hình thức thái dương của tình thương.

in the lowest type of human being this shows itself as animal passion;

Ở loại người thấp kém nhất điều này bộc lộ thành dục tính thú vật;

279. In this respect the planet Mars, the sign Libra (“unbalanced fiery passion”—EA 333) and personal love under the “astral Law of Love” go together.

279. Ở phương diện này, hành tinh Sao Hỏa, dấu hiệu Thiên Bình (“dục hỏa bất cân bằng”—EA 333) và tình thương cá nhân dưới “Định luật Tình thương cảm dục” đi đôi với nhau.

as evolution proceeds it shows itself as a gradual expansion of the love faculty, passing through the stages of love of mate, love of family, love of surrounding associates, to love of one’s entire environment; patriotism gives place later to love of humanity, often humanity as exemplified in one of the Great Ones.

Khi tiến hoá tiếp diễn, nó biểu lộ như sự mở rộng dần dần của năng lực thương yêu, đi qua các giai đoạn yêu bạn đời, yêu gia đình, yêu những người chung quanh, đến yêu toàn thể môi trường của mình; lòng ái quốc về sau nhường chỗ cho tình thương nhân loại, thường là nhân loại được thể hiện nơi một trong các Đấng Cao Cả.

280. A low grade, strictly personal love can develop into something higher.

280. Một dạng tình thương thấp kém, thuần cá nhân có thể phát triển thành điều cao hơn.

281. Let us trace that development in a tabulation: Passionate personal love can become:

281. Chúng ta hãy lần theo sự phát triển đó trong một bảng liệt kê: Tình thương cá nhân say đắm có thể trở thành:

a. The gradual expansion of the love faculty

a. Sự mở rộng dần dần của năng lực thương yêu

b. Love of mate and family

b. Tình thương đối với bạn đời và gia đình

c. Love of surrounding associates

c. Tình thương đối với những người chung quanh

d. Love of one’s entire environment

d. Tình thương đối với toàn bộ môi trường của mình

e. Love of one’s country—patriotism

e. Tình thương đối với đất nước—lòng ái quốc

f. Love of humanity

f. Tình thương đối với nhân loại

g. Perhaps we should add love of the Divine Plan and the planet

g. Có lẽ chúng ta nên thêm tình thương đối với Thiên Cơ và hành tinh

The astral plane is, at the present time, the most important for us, for in desire—not corrected or transmuted—lies the difference between the personal consciousness and that of the Ego.

Cõi cảm dục hiện tại là quan trọng nhất đối với chúng ta, vì trong dục vọng—chưa được điều chỉnh hay chuyển hoá—có sự khác biệt giữa tâm thức cá nhân và tâm thức của Chân ngã.

282. If we wish to understand the difference between personal consciousness and egoic consciousness, it is in the difference between uncorrected, untransmuted desire and soul-illumined mentality.

282. Nếu chúng ta muốn thấu hiểu sự khác biệt giữa tâm thức cá nhân và tâm thức chân ngã, nó nằm ở sự khác biệt giữa dục vọng chưa được điều chỉnh, chưa được chuyển hoá và tính trí được linh hồn soi sáng.

283. Does desire ‘look up’ or does it ‘look down’? This is a fundamental question:

283. Dục vọng ‘nhìn lên’ hay ‘nhìn xuống’? Đây là một câu hỏi căn bản:

a. In the strictly personal human being, desire looks downward or outward, horizontally

a. Ở con người thuần cá nhân, dục vọng nhìn xuống hay nhìn ra ngoài, theo phương ngang

b. In the disciple desire looks ‘up’.

b. Ở người đệ tử, dục vọng nhìn ‘lên’.

c. In the initiate, desire is transmuted into loving-desire and eventually into pure love.

c. Ở điểm đạo đồ, dục vọng được chuyển hoá thành dục vọng-đầy-tình-thương và rốt cuộc thành tình thương thuần khiết.

FOOTNOTE 85:

CHÚ THÍCH 85:

Why do we consider this matter of the devas of the middle system (as we might call those connected with this system and with buddhi and kamamanas) in our consideration of thought forms?  For two reasons:  One is that all that is in the solar system is but substance energised from the cosmic mental and astral planes, and built into form through the power of electrical law;

Tại sao chúng ta xét đến vấn đề các deva của hệ thống giữa (như chúng ta có thể gọi những vị liên hệ với hệ thống này và với Bồ đề và trí-cảm) trong khi chúng ta khảo cứu về hình tư tưởng? Vì hai lý do: Một là rằng mọi cái hiện hữu trong hệ mặt trời chỉ là chất liệu được tiếp sinh lực từ các cõi trí vũ trụ và cảm dục vũ trụ, và được kết cấu thành hình tướng nhờ quyền năng của định luật điện;

284. We have here the important idea that the solar system is energized from both the cosmic mental plane and the cosmic astral plane.

284. Ở đây chúng ta có ý niệm quan trọng rằng hệ mặt trời được tiếp sinh lực từ cả cõi trí vũ trụ lẫn cõi cảm dục vũ trụ.

285. Form is built through “electrical law”. “Electrical law” is that which pertains to the cosmic physical plane and is impulsed from the Pleiades.

285. Hình tướng được kiến tạo qua “định luật điện”. “Định luật điện” là điều thuộc về cõi hồng trần vũ trụ và được thôi thúc từ Pleiades.

286. The devas are built into thoughtforms; thus they are considered in this section on thoughtforms.

286. Các deva được kết vào các hình tư tưởng; do đó chúng được xét đến trong phần này về hình tư tưởng.

all that can be known is but forms ensouled by ideas.

mọi điều có thể được biết chỉ là các hình tướng được phú linh bởi các ý niệm.

287. This statement simplifies things considerably. Let us think of that which we think we know. Is there anything in this collection of contents of consciousness other than forms ensouled by ideas? Or do we, perhaps, think we contact ideas directly?

287. Mệnh đề này làm đơn giản hoá sự việc đáng kể. Chúng ta hãy nghĩ về cái mà chúng ta tưởng rằng mình biết. Có gì trong tập hợp nội dung của tâm thức ngoài những hình tướng được phú linh bởi các ý niệm? Hay có lẽ chúng ta nghĩ rằng mình tiếp xúc trực tiếp với các ý niệm?

Secondly, that in the knowledge of the creative processes of the system, man learns for himself how in time to become a creator.  

Thứ hai, rằng nhờ hiểu biết các tiến trình sáng tạo của hệ thống, con người tự học cách theo thời gian trở nên một đấng sáng tạo.

288. When we study thoughtforms we are studying creativity. Our objective is to become co-creators with the Divine Life. By the study of how forms have been created we will learn how to create forms—presumably those which accord with the Divine Plan.

288. Khi chúng ta nghiên cứu hình tư tưởng là chúng ta nghiên cứu tính sáng tạo. Mục tiêu của chúng ta là trở thành đồng-sáng tạo với Sự sống Thiêng liêng. Qua việc khảo cứu cách thức các hình tướng đã được tạo lập, chúng ta sẽ học cách kiến tạo các hình tướng—giả định là những hình tướng phù hợp với Thiên Cơ.

We might illustrate this by remarking that one of the main functions of the Theosophical movement in all its many branches is to build a form which can be ensouled, in due time, by the idea of Brotherhood.

Chúng ta có thể minh hoạ điều này bằng nhận xét rằng một trong những chức năng chính của phong trào Thông Thiên Học, qua mọi ngành nhánh của nó, là kiến tạo một hình tướng có thể, đúng thời, được phú linh bởi ý niệm về Tình Huynh Đệ.

289. We students of AAB are still members of the Theosophical movement even if not of the Theosophical Society.

289. Chúng ta, những đạo sinh của AAB, vẫn là thành viên của phong trào Thông Thiên Học dù không thuộc Hội Thông Thiên Học.

290. The Tibetan is saying something really important here. Has the failure been complete, or it is still possible to salvage something of the Theosophical thoughtform?

290. Chân sư Tây Tạng đang nói điều thực sự quan trọng ở đây. Sự thất bại đã hoàn toàn chăng, hay vẫn còn có thể cứu vãn đôi điều của hình tư tưởng Thông Thiên Học?

291. Perhaps we in the AAB movement are beginning to respond to this note of Brotherhood more than hitherto. There is a great “idea of Brotherhood”. It is a living Being. We can build utilizing the energy of love and the form will be resonant to the great idea.

291. Có lẽ chúng ta trong phong trào AAB đang bắt đầu đáp ứng với âm điệu của Tình Huynh Đệ này nhiều hơn trước. Có một “ý niệm về Tình Huynh Đệ” vĩ đại. Đó là một Đấng Sống. Chúng ta có thể kiến tạo bằng cách vận dụng năng lượng tình thương và hình tướng sẽ cộng hưởng với ý niệm vĩ đại ấy.

292. It is not by accident that the Tibetan begins speaking of Venus in this context, for the true era of Brotherhood will enter during the last third of the Aquarian Age when the planet Venus becomes the decanate ruler that period.

292. Không phải ngẫu nhiên mà Chân sư Tây Tạng bắt đầu nói về Kim Tinh trong mạch văn này, vì kỷ nguyên đích thực của Tình Huynh Đệ sẽ bước vào trong phần ba cuối của Thời Đại Bảo Bình khi hành tinh Kim Tinh trở thành chủ tinh thập độ cho giai đoạn đó.

In the sixth Scheme, that of Venus, this can be seen clearly; it is the scheme of love.

Trong Hệ hành tinh thứ sáu, tức của Kim Tinh, điều này có thể thấy rõ; đó là hệ của tình thương.

293. Here DK simply uses the number six. Six is the number of the Venusian Monad, though not of its major monadic ray.

293. Ở đây Chân sư DK đơn giản dùng con số sáu. Sáu là con số của chân thần Kim Tinh, dù không phải là cung chân thần chính của nó.

294. In occultism we read so much of the fifth ray in relation to Venus, and yet it is a scheme of love. The fifth ray (though related to the second ray) is not exclusively or even (at this time) principally a ray of love. So the love emanating from the Venus-scheme must come from other levels of the Venusian ray nature.

294. Trong huyền bí học, chúng ta đọc rất nhiều về cung năm liên hệ với Kim Tinh, vậy mà đó lại là một hệ của tình thương . Cung năm (dẫu có liên hệ với cung hai) không phải là một cung độc nhất hay thậm chí (vào thời điểm này) chủ yếu của tình thương. Vậy nên tình thương tuôn phát từ hệ Kim Tinh hẳn phải đến từ các cấp độ khác trong bản tính cung của Kim Tinh.

Viewed from one angle, the Venusian Scheme is the second, and from another it is the sixth.

Nếu nhìn từ một góc độ, Hệ Kim Tinh là thứ hai, và từ góc độ khác, nó là thứ sáu.

295. We have been reviewing this idea. We hypothesize that by travelling in a counter clockwise direction, Venus is encountered as the second scheme and is ruled by its second ray Monad—its hypothesized major monadic ray. Traveling in the clockwise direction, Venus is encountered as sixth in order. This it presumably the ‘mystical’ way of travel.

295. Chúng ta đã ôn duyệt ý tưởng này. Chúng ta giả thuyết rằng khi đi theo chiều ngược kim đồng hồ, Kim Tinh được gặp như hệ thứ hai và được cai quản bởi chân thần cung hai của nó—cung chân thần chính được giả thuyết. Khi đi theo chiều cùng kim đồng hồ, Kim Tinh được gặp như thứ sáu theo thứ tự. Đây có lẽ là lối di chuyển ‘huyền nhiệm’.

296. The close connection to Jupiter is understood by the fact that they both share the same scheme numbers—either two or six.

296. Sự liên hệ gần gũi với Mộc Tinh được hiểu bởi thực tế là cả hai cùng chia sẻ các số thứ tự hệ—hoặc hai hoặc sáu.

It depends upon whether we reason from the circumference to the centre or the reverse.

Điều đó tuỳ thuộc vào việc chúng ta lập luận từ chu vi vào trung tâm hay ngược lại.

297. To reason from the circumference to the center is a centripetal motion and correlates with the centering, ingathering magnetic energy of Venus.

297. Lập luận từ chu vi vào trung tâm là một chuyển động hướng tâm và tương ứng với năng lượng từ tính gom tụ, quy tâm của Kim Tinh.

298. If we reason from the center to the periphery, we are following a centrifugal motion more Martian in nature and more exoteric.

298. Nếu chúng ta lập luận từ trung tâm ra chu vi, chúng ta đang theo một chuyển động ly tâm mang tính Hỏa tinh hơn và ngoại hiện hơn.

299. Centrifugality is equivalent to the out-breathing; centripetality is equivalent to in-breathing.

299. Tính ly tâm tương đương với hơi thở ra; tính hướng tâm tương đương với hơi thở vào.

It is the home of the planetary Logos of the sixth Ray.  

Đó là “nhà” của Hành Tinh Thượng đế thuộc Cung sáu.

300. Here is one of the most important statements in the book regarding Venus. We are being told that it has a sixth ray Monad. Whenever the “home” of a planet is discussed, the discussion is focussing on the monadic ray of the planet.

300. Đây là một trong những mệnh đề quan trọng nhất trong sách liên quan đến Kim Tinh. Chúng ta được cho biết rằng nó có một chân thần cung sáu. Bất cứ khi nào nói đến “nhà” của một hành tinh, là đang tập trung vào cung chân thần của hành tinh ấy.

301. We know from EP I 420 that Uranus has a Monad on the first ray, and we also know that “Uranus is the home of electric fire” (TCF 1154)

301. Chúng ta biết từ EP I 420 rằng Thiên Vương Tinh có một chân thần cung một, và chúng ta cũng biết rằng “Thiên Vương Tinh là nhà của Lửa điện” (TCF 1154)

302. When thinking of Venus, from yet another perspective, the number two is more occult than the number six. Six is a number which often (under Martian impulse) leads to the periphery. Two is the number of ingathering representing the deep spiritual intimacy which is only achieve through Divine Love.

302. Khi nghĩ về Kim Tinh, từ một phối cảnh khác nữa, con số hai mang tính huyền bí hơn số sáu. Sáu là con số thường (dưới xung lực Hỏa tinh) dẫn ra chu vi. Hai là con số của sự quy tụ, biểu trưng cho sự thân mật tinh thần sâu xa chỉ đạt được qua Tình thương Thiêng liêng.

303. When Venus relates to the solar logoic solar plexus center, it does so through its sixth ray; when it relates to the solar logoic heart center it does so through its second ray.

303. Khi Kim Tinh liên hệ với luân xa tùng thái dương của Thái dương Thượng đế, nó làm thế qua cung sáu của mình; khi nó liên hệ với trung tâm tim của Thái dương Thượng đế, nó làm thế qua cung hai của mình.

304. The monadic ray for Venus is, thus, hypothesized as TWOSIX

304. Vì vậy, cung chân thần của Kim Tinh được giả thuyết là HAI-SÁU

This may sound like a contradiction, but it is not so really; we must remember the interlocking, the gradual shifting and changing, that takes place in time on all [596] the Rays.

Điều này có thể nghe như một mâu thuẫn, nhưng thật ra không phải vậy; chúng ta phải nhớ đến sự cài khóa vào nhau, sự chuyển dịch dần dần và sự thay đổi xảy ra theo thời gian trên tất [596] cả các Cung.

305. Why is Master DK speaking of “shifting and changing”? May it be that at different times in development of a particular Planetary Logos different rays are emphasized: For instance:

305. Tại sao Chân sư DK nói về “sự chuyển dịch và thay đổi”? Có thể chăng là vào những thời kỳ khác nhau trong sự phát triển của một Hành Tinh Thượng đế nào đó, các cung khác nhau được nhấn mạnh: Chẳng hạn:

a. At a high stage of development the fifth ray soul of Venus is emphasized

a. Ở một giai đoạn phát triển cao, linh hồn cung năm của Kim Tinh được nhấn mạnh

b. At a still higher stage of development its sixth ray Monad is emphasized—this is a Spirit-stage of development

b. Ở một giai đoạn còn cao hơn nữa, chân thần cung sáu của nó được nhấn mạnh—đây là giai đoạn của Thần Linh

c. At the very highest stage of development its major monadic ray, the second, is emphasized. We may recall that Venus is hypothesized as possessing a second ray personality as well as second ray Monad.

c. Ở giai đoạn tối cao, cung chân thần chính của nó, cung hai, được nhấn mạnh. Chúng ta có thể nhớ rằng Kim Tinh được giả thuyết là sở hữu một phàm ngã cung hai cũng như một chân thần cung hai.

306. If we pause to reflection upon the relationship of Venus and Earth—a Being with a major second ray Monad and one with a major first ray Monad, something of interest and significance may be revealed concerning this relationship.

306. Nếu chúng ta dừng lại chiêm nghiệm về mối liên hệ giữa Kim Tinh và Địa Cầu—một Vị có chân thần chính cung hai và một Vị có chân thần chính cung một—có thể điều gì đó thú vị và đầy thâm nghĩa sẽ được hé lộ về mối liên hệ này.

In the same way the Earth chain is the third if viewed from one aspect and the fifth viewed from another.

Theo cùng cách ấy, Dãy Địa Cầu là thứ ba nếu nhìn từ một phương diện và là thứ năm nếu nhìn từ phương diện khác.

307. Why is DK suddenly speaking of “chains” rather than “schemes”? All the foregoing about Venus related to the scheme level. Now we are speaking of the Earth-chain.

307. Tại sao Chân sư DK bỗng nói về “dãy” thay vì “hệ hành tinh”? Mọi điều vừa qua về Kim Tinh là ở cấp độ hệ. Giờ chúng ta đang nói về dãy Địa Cầu.

308. We do remember, however, that theosophically, the term “chain” sometimes stood for “scheme”, probably because the idea of a planetary scheme did not exist (or if it did, was not brought forth in a straightforward manner).

308. Tuy vậy, chúng ta nhớ rằng, theo lối nói Thông Thiên Học, thuật ngữ “dãy” đôi khi được dùng thay cho “hệ”, có lẽ vì ý niệm về một hệ hành tinh chưa hiện hữu (hoặc nếu có, thì chưa được đưa ra một cách minh bạch).

309. When we count planetary schemes in Chart VI of TCF we find that Venus is either the second scheme or the sixth.

309. Khi chúng ta đếm các hệ hành tinh trong Biểu đồ VI của TCF, chúng ta thấy rằng Kim Tinh hoặc là hệ thứ hai hoặc thứ sáu.

310. When we count planetary schemes in the attempt to find the number of the Earth, we find that, beginning with Vulcan, whichever way we go it is always the fourth.

310. Khi chúng ta đếm các hệ hành tinh nhằm tìm số thứ tự của Địa Cầu, chúng ta thấy rằng, bắt đầu với Vulcan, theo hướng nào thì nó luôn luôn là thứ tư.

311. If we consider the Earth-chain rather than the Earth-scheme, it also turns out to be the fourth if we count from the starting point.

311. Nếu chúng ta xét Dãy Địa Cầu thay vì Hệ Địa Cầu, nó cũng hoá ra là thứ tư nếu chúng ta đếm từ điểm khởi đầu.

312. If we think about chains rather than schemes, we can eliminate the two subjective chains (Neptune, the first, and Jupiter the seventh). Then counting backwards, or clockwise (though a strictly clockwise counting is difficult to imagine in the diagrams we are given) we find that Mars and Mercury are counted before the Earth chain which is the third.

312. Nếu chúng ta nghĩ về các dãy thay vì các hệ, chúng ta có thể loại trừ hai dãy chủ quan (Hải Vương Tinh, dãy thứ nhất, và Mộc Tinh, dãy thứ bảy). Rồi đếm lùi, hoặc theo chiều kim đồng hồ (dù một việc đếm thuần theo chiều kim đồng hồ là khó hình dung trên các sơ đồ được cung cấp) chúng ta thấy rằng Hỏa Tinh và Thuỷ Tinh được tính trước Dãy Địa Cầu, vốn là dãy thứ ba.

313. Only when we count schemes rather than chains, and add the two intra-mercurial planets Adonis (hypothesized) and Vulcan is it possible to arrive at the number five in relation to the Earth-scheme—Adonis, Vulcan, Mercury, Venus, Earth—and in doing so we are changing the order of Mercury from its position as the fifth scheme.

313. Chỉ khi chúng ta đếm các hệ thay vì các dãy, và cộng thêm hai hành tinh nội Thuỷ là Adonis (giả thuyết) và Vulcan thì mới có thể đi tới con số năm liên hệ với Hệ Địa Cầu—Adonis, Vulcan, Thuỷ Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu—và làm như vậy là chúng ta đã đổi vị trí của Thuỷ Tinh khỏi chỗ của nó như hệ thứ năm.

314. Counting chains, from the Neptune chain forward—we have the Venus-chain, the Saturn-chain, then the Earth-chain—and that is only four. But if we were to insert the Moon-chain, we would have five.

314. Khi đếm các dãy, từ Dãy Hải Vương Tinh tiến tới—chúng ta có Dãy Kim Tinh, Dãy Thổ Tinh, rồi Dãy Địa Cầu—và đó chỉ là bốn. Nhưng nếu chúng ta chèn thêm Dãy Nguyệt Cầu, chúng ta sẽ có năm.

315. When the Earth-chain is responding to the personality ray of the Earth, then the three applies. When the response is to the Fifth Creative Hierarchy (under the regime of the second ray), then the five applies.

315. Khi Dãy Địa Cầu đáp ứng với cung phàm ngã của Địa Cầu, thì số ba áp dụng. Khi sự đáp ứng là với Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm (dưới chế độ của cung hai), thì số năm áp dụng.

316. In any case the numbers three and five given by the Tibetan in relation to the Earth-chain or Earth-scheme are challenging and there is no immediate resolution.

316. Dù sao thì các con số ba và năm do Chân sư Tây Tạng đưa ra liên hệ với Dãy Địa Cầu hay Hệ Địa Cầu đều gây thách thức và chưa có lời giải tức thì.

In the sixth chain of each scheme, this sixth law and the sixth Ray have a very important significance, whilst the seventh chain of each scheme is always synthetic—Love and Activity in a perfect balance.

Trong dãy thứ sáu của mỗi hệ, định luật thứ sáu và Cung sáu có một ý nghĩa rất quan trọng, trong khi dãy thứ bảy của mỗi hệ luôn mang tính tổng hợp—Tình thương và Hoạt động ở thế quân bình hoàn hảo.

317. It seems clear that the chains exist simultaneously. The sixth chain will be correlated with the sixth principle, the buddhic principle, which is synthetic, but not completely so.

317. Dường như rõ ràng rằng các dãy hiện hữu đồng thời. Dãy thứ sáu sẽ tương ứng với nguyên khí thứ sáu, nguyên khí Bồ đề, vốn mang tính tổng hợp, nhưng chưa hoàn toàn.

318. The sixth chain of our scheme is the Mars-chain. We can see how Mars might be related to the “Law of Love” and the sixth ray. Mars is not, however, related to the higher form of buddhic love.

318. Dãy thứ sáu của hệ chúng ta là Dãy Hỏa Tinh. Chúng ta có thể thấy Hỏa Tinh liên hệ thế nào với “Định luật Tình thương” và cung sáu. Tuy nhiên Hỏa Tinh không liên hệ với hình thái cao hơn của tình thương Bồ đề.

319. The seventh chain synthesizes the hard and soft line rays. We are speaking of developments within this second solar system. How it will be in future solar systems we do not know.

319. Dãy thứ bảy tổng hợp các cung đường cứng và mềm. Chúng ta đang nói về các khai triển trong hệ mặt trời thứ hai này. Trong các hệ tương lai sẽ ra sao thì chúng ta không biết.

The same effect can be demonstrated in the sixth Round.  In the sixth Round of the present chain of the Earth scheme, the sixth law will demonstrate with great clarity and force, as love shown in brotherhood, love translated or transmuted from the astral to the buddhic.

Hiệu quả tương tự có thể được biểu lộ trong Vòng thứ sáu. Trong Vòng thứ sáu của dãy hiện tại thuộc Hệ Địa Cầu, định luật thứ sáu sẽ biểu hiện với sự rõ ràng và mãnh lực lớn, như tình thương được biểu hiện trong tình huynh đệ, tình thương được chuyển dịch hay chuyển hoá từ cõi cảm dục lên cõi Bồ đề.

320. Here again we see the relationship between Venus, the sixth ray, the sixth round and the demonstration of brotherhood. There can be no demonstration of brotherhood unless the buddhic energy expresses; it cannot be demonstrated through the unredeemed astral vehicle.

320. Một lần nữa, chúng ta thấy mối liên hệ giữa Kim Tinh, cung sáu, vòng thứ sáu và sự biểu hiện của tình huynh đệ. Không thể có sự biểu hiện tình huynh đệ trừ khi năng lượng Bồ đề được biểu hiện; nó không thể được biểu hiện thông qua hiện thể cảm dục chưa được cứu chuộc.

321. We must view the six from three ‘directions’ for given its high destiny, it cannot be entirely astral. We view it:

321. Chúng ta phải nhìn con số sáu từ ba ‘phương’ vì với định mệnh cao cả của nó, nó không thể hoàn toàn là cảm dục. Chúng ta nhìn nó:

a. As it demonstrates in relation to the astral plane (the sixth from ‘above’)( and the astral body

a. Khi nó biểu lộ liên quan tới cõi cảm dục (cõi thứ sáu từ ‘trên xuống’) và thể cảm dục

b. As it demonstrates in relation to the monadic plane (the sixth from ‘bellow’) and the monadic vehicle.

b. Khi nó biểu lộ liên quan tới cõi chân thần (cõi thứ sáu từ ‘dưới lên’) và vận cụ chân thần.

c. As it demonstrates in relation to the buddhic plane upon which the sixth principle is found in expression.

c. Khi nó biểu lộ liên quan tới cõi Bồ đề, nơi nguyên khí thứ sáu được biểu hiện.

So in the sixth rootrace and the sixth subrace a similar analogy will be seen.  Out of the shattered form of the fifth subrace of the fifth root race, built up under the fifth Ray of Concrete Knowledge, with the aid of the fifth Law of Fixation, will emerge the sixth subrace of brotherly love—love shown in the realisation of the one life latent in each Son of God.

Vì vậy, trong giống dân gốc thứ sáu và giống dân phụ thứ sáu một tương đồng tương tự sẽ được thấy. Từ hình tướng tan vỡ của giống dân phụ thứ năm của Giống dân gốc thứ năm , được xây dựng dưới Cung năm của Tri thức Cụ thể, với sự trợ giúp của Định luật năm của Định Trụ, sẽ xuất hiện giống dân phụ thứ sáu của tình huynh đệ—tình thương được biểu hiện trong sự nhận ra một Sự sống duy nhất tiềm ẩn trong mỗi Con của Thượng đế.

322. This is important—even the sixth subrace is to be a race of brotherly love. May it be that the last decanate of the Age of Aquarius will see the flourishing of this sixth subrace?

322. Điều này quan trọng—ngay cả giống dân phụ thứ sáu cũng sẽ là một giống dân của tình huynh đệ. Có thể chăng phần thập độ cuối của Thời Đại Bảo Bình sẽ chứng kiến sự hưng thịnh của giống dân phụ thứ sáu?

323. Of course, the duration of a subrace is a much longer period than simply the few hundred years required to pass through the last decanate of a sign during a precessional age.

323. Dĩ nhiên, thời lượng của một giống dân phụ dài hơn rất nhiều so với chỉ vài trăm năm cần để đi qua thập độ cuối của một dấu hiệu trong một thời đại tiến dần.

324. We have gathered quite a few sixes together and can do the same with each of the other six numbers. Some examples of sixes are:

324. Chúng ta đã tập hợp khá nhiều số sáu lại và có thể làm điều tương tự với mỗi trong sáu con số còn lại. Một vài ví dụ về số sáu là:

a. The sixth systemic law

a. Định luật hệ thống thứ sáu

b. The sixth plane from ‘above’

b. Cõi thứ sáu từ ‘trên xuống’

c. The sixth place from ‘below’

c. Vị trí thứ sáu từ ‘dưới lên’

d. The sixth scheme

d. Hệ thứ sáu

e. The sixth scheme round

e. Vòng hệ thứ sáu

f. The sixth chain

f. Dãy thứ sáu

g. The sixth chain round

g. Vòng dãy thứ sáu

h. The sixth globe

h. Bầu thứ sáu

i. The sixth root race on our globe

i. Giống dân gốc thứ sáu trên bầu của chúng ta

j. The sixth subrace of the fifth root race on our globe

j. Giống dân phụ thứ sáu của giống dân gốc thứ năm trên bầu của chúng ta

k. The sixth branch-races of the fifth and sixth subraces of the fifth root race on our globe

k. Các chi chủng thứ sáu của giống dân phụ thứ năm và thứ sáu của giống dân gốc thứ năm trên bầu của chúng ta

l. Etc.

l. V.v.

325. One thing stands out and will significant for our historical period: the fifth subrace of the fifth root race will be shattered as the sixth subrace of fifth root race emerges. Are we even now at this time of shattering?

325. Một điều nổi bật và sẽ có ý nghĩa cho thời kỳ lịch sử của chúng ta: giống dân phụ thứ năm của giống dân gốc thứ năm sẽ bị tan vỡ khi giống dân phụ thứ sáu của giống dân gốc thứ năm xuất hiện. Phải chăng ngay bây giờ chúng ta đang ở vào thời điểm tan vỡ đó?

7. The Law of Sacrifice and Death.  This law links itself to the third law, that of Disintegration following the connection that always exists between the atmic and the physical plane.

7. Định luật Hy sinh và Cái chết. Định luật này liên kết với định luật thứ ba, tức Định luật Phân rã, theo sau sự liên hệ vốn luôn tồn tại giữa cõi atma và cõi hồng trần.

326. The atmic is the most material of the first three systemic planes and, hence, its connection with the most material of the seven systemic planes—the etheric-physical plane.

326. Cõi atma là cõi vật chất nhất trong ba cõi hệ thống đầu và, do đó, có liên hệ với cõi vật chất nhất trong bảy cõi hệ thống—cõi dĩ thái-thể xác.

The Law of Disintegration controls the fivefold destruction of forms in the five lower worlds, and the Law of Death controls similarly in the three worlds.

Định luật Phân rã cai quản sự hủy hoại ngũ phân của các hình tướng trong năm thế giới thấp, và Định luật Cái chết tương tự cai quản trong ba cõi giới.

327. The “Law of Disintegration” rules the death process on the atmic plane and on all the four planes which the atmic plane surmounts.

327. “Định luật Phân rã” chi phối tiến trình tử vong trên cõi atma và trên tất cả bốn cõi mà cõi atma ở bên trên.

328. The “Law of Sacrifice and Death” (here called simply the “Law of Death”), although correlated with the lowest or seven systemic plane, seems to pertain to the lower two and a half systemic planes.

328. “Định luật Hy sinh và Cái chết” (ở đây chỉ gọi đơn giản là “Định luật Cái chết”), mặc dù tương ứng với cõi thấp nhất hay cõi thứ bảy của hệ thống, dường như thuộc về hai cõi rưỡi thấp của hệ thống.

329. We must ask: “Is each destruction of forms in each of the lower five lower worlds fivefold process?” “Or is the term ‘fivefold’ used because there are five types of forms to be destroyed—one for each of the five planes from the atmic to the systemic etheric-physical?”

329. Chúng ta phải hỏi: “Mỗi sự hủy hoại các hình tướng trong mỗi của năm thế giới thấp có phải là một tiến trình ngũ phân chăng?” “Hay thuật ngữ ‘ngũ phân’ được dùng vì có năm loại hình tướng cần bị phá huỷ—mỗi loại cho một trong năm cõi từ cõi atma đến cõi dĩ thái-thể xác hệ thống?”

330. Certain forms found in the five lower worlds can be understood as fivefold and, when destruction comes, all five aspects of such forms would be destroyed. The causal body is one form which can be interpreted as fivefold, depending on the perspective.

330. Những hình tướng nhất định trong năm thế giới thấp có thể được hiểu là ngũ phân và, khi sự hủy diệt đến, cả năm phương diện của các hình tướng như thế sẽ bị tiêu hủy. Thể nguyên nhân là một hình tướng có thể được diễn giải như ngũ phân, tuỳ theo phối cảnh.

331. The fivefold five-pointed star may be considered the symbol of forms which are found within the Brahmic worlds—from the atmic plane to the physical.

331. Ngôi sao năm cánh ngũ phân có thể được xem là biểu tượng của các hình tướng nằm trong các thế giới Brahma—từ cõi atma đến cõi hồng trần.

It is subsidiary to the third law.  The Law of Sacrifice is the Law of Death in the subtle bodies, whilst what we call death is the analogous thing in the physical body.

Nó là thứ yếu so với định luật thứ ba. Định luật Hy sinh là Định luật Cái chết trong các thể vi tế, trong khi cái mà chúng ta gọi là chết là điều tương ứng trong thể xác.

332. This is an extremely illuminating statement. This seventh law with which we are concerned has two nouns associated with it (“sacrifice” and “death”) whereas the other laws have only one—vibration, cohesion, disintegration, magnetic control, fixation and love.

332. Đây là một mệnh đề cực kỳ soi sáng. Định luật thứ bảy mà chúng ta đang xét có hai danh từ gắn với nó (“hy sinh” và “cái chết”) trong khi các định luật khác chỉ có một—rung động, kết dính, phân rã, kiểm soát từ tính, định trụ và tình thương.

333. Death and sacrifice are to be considered synonymous terms. The term “death” has peculiar relation to the outer physical plane. Sacrifice involves the psychology of relinquishment and naturally pertains to the subtle bodies as the indweller learns to detach from them.

333. Cái chết và hy sinh cần được xem như các thuật ngữ đồng nghĩa. Thuật ngữ “cái chết” có liên hệ đặc thù với cõi hồng trần bên ngoài. Hy sinh bao hàm tâm lý của sự xả ly và tự nhiên thuộc về các thể vi tế khi người cư ngụ học cách tách rời khỏi chúng.

This law governs the gradual disintegration of concrete forms and their sacrifice to the evolving life, and is closely linked in its manifestation with the seventh Ray.

Định luật này cai quản sự phân rã dần dần của các hình tướng cụ thể và sự hy sinh của chúng cho sự sống đang tiến hoá, và trong biểu hiện của mình nó liên hệ mật thiết với Cung bảy.

334. It would appear that the concrete forms which are disintegrated and sacrificed belong to the three lower worlds. The lunar life must be at the disposal of the inner, evolving solar life—the inner consciousness/being.

334. Có vẻ như các hình tướng cụ thể bị phân rã và hy sinh thuộc về ba cõi thấp. Sự sống thái âm phải được đặt dưới sự sử dụng của sự sống thái dương bên trong đang tiến hoá—tức tâm thức/bản thể nội tại.

335. From one perspective, the seventh ray rules all that is ‘outer’ and ‘lower’; it rules especially the form and all formulated relationships which must be sacrificed.

335. Từ một phối cảnh, Cung bảy cai quản mọi cái ‘bên ngoài’ và ‘thấp’; đặc biệt nó cai quản hình tướng và mọi tương quan có công thức vốn phải được hy sinh.

This Ray is the one that largely controls, that manipulates, that geometrises and that holds sway over the form side, governing the elemental forces of nature.

Cung này là cung phần lớn kiểm soát, thao tác, kiến tạo hình học và nắm quyền trên mặt hình tướng, cai quản các lực hành khí của tự nhiên.

336. Let us tabulate the manner in which the seventh ray functions:

336. Chúng ta hãy liệt kê cách thức cung bảy vận hành:

a. It controls the form side

a. Nó kiểm soát mặt hình tướng

b. It manipulates the form side

b. Nó thao tác mặt hình tướng

c. It geometrizes the form side

c. Nó kiến trúc hóa-hình học mặt hình tướng

d. It holds sway over the form side

d. Nó nắm quyền trên mặt hình tướng

e. In general, it governs the elemental forces of nature.

e. Nói chung, nó cai quản các lực hành khí của tự nhiên.

337. The elementals ‘have no wings’. The seventh ray rules both the lower lives who have no wings and those higher devas who do. Saturn may be associated with the elementals and Uranus with the winged devas.

337. Các hành khí ‘không có cánh’. Cung bảy cai quản cả những sự sống thấp không có cánh lẫn những vị deva cao hơn có cánh. Thổ Tinh có thể được liên kết với các hành khí và Thiên Vương Tinh với các deva có cánh.

338. In its aspect of control the seventh ray is much like the first. In its power to manipulate it is like the third ray (and to a degree) the fifth ray. In its ability to geometrize it is similar to the second ray.

338. Trong phương diện kiểm soát của mình, cung bảy rất giống cung một. Trong sức mạnh để thao tác, nó giống cung ba (và ở một mức độ nào đó) cung năm. Trong khả năng kiến tạo hình học, nó tương tự cung hai.

339. From one perspective, the seventh ray is the synthesis of all the rays as they work towards manifestation

339. Từ một phối cảnh, cung bảy là sự tổng hợp của mọi cung khi chúng hướng tới sự hiện lộ

The physical plane is the most concrete exemplification of the form side;

Cõi hồng trần là biểu hiện cụ thể nhất của mặt hình tướng;

340. Forms, however, exist on subtler planes as well. Physical plane forms are simply the most concrete exemplifications of form.

340. Tuy nhiên, các hình tướng hiện hữu cả trên những cõi vi tế hơn. Các hình tướng cõi hồng trần chỉ là những biểu hiện cụ thể nhất của hình tướng.

it holds the divine life imprisoned or [597] enmeshed at its densest point, and it works at this time in line with the seventh law.

nó giữ Sự sống thiêng liêng trong ngục tù hoặc [597] bị vướng mắc tại điểm đậm đặc nhất của nó, và vào lúc này nó vận hành phù hợp với định luật thứ bảy.

341. Physical plane processes contribute to the death and sacrifice of the inner life-consciousness, enveloping it.

341. Các tiến trình ở cõi hồng trần góp phần vào cái chết và sự hy sinh của sự sống-tâm thức bên trong bằng cách bao bọc nó.

342. In one way the seventh ray is a ‘ray of imprisonment’. In another way, through alchemical processes, it is a ray of ‘transmutative release’.

342. Theo một nghĩa, cung bảy là ‘cung của giam hãm’. Ở nghĩa khác, qua các tiến trình luyện kim, nó là cung của ‘phóng thích chuyển hoá’.

343. The word “enmeshed” presents an important image of ‘energy entanglement’. We are bound to the physical plane by many threads of energy and force.

343. Từ “vướng mắc” đưa ra một hình ảnh quan trọng về ‘sự rối kết năng lượng’. Chúng ta bị ràng buộc với cõi hồng trần bởi nhiều sợi dây năng lượng và lực.

344. Regarding ‘enmeshment’ the following is significant:

344. Về ‘sự rối kết’, điều sau đây là có ý nghĩa:

There is no such thing as concretion in reality; there is only force of different kinds, and the effect produced on con­scious­ness by their interplay TCF 528-529)

“Trong thực tại không có cái gọi là sự kết đặc; chỉ có các loại mãnh lực khác nhau, và hiệu ứng do sự tương tác của chúng tạo ra đối với tâm thức” (TCF 528-529)

In a mysterious way this law is the reverse side of the first, or the Law of Vibration.  It is Vulcan and Neptune in opposition, which is as yet an almost incomprehensible thing for us.

Một cách huyền bí, định luật này là mặt đối nghịch của định luật thứ nhất, tức Định luật Rung động. Đó là Vulcan và Hải Vương Tinh ở thế đối xứng, điều mà đối với chúng ta vẫn còn gần như bất khả thấu hiểu.

345. This is one of the more occult references in the book. Vulcan is clearly the planet associated with the “Law of Vibration”. We do see how the Tibetan constantly invokes astrology to explain various ideas and laws presented in TCF.

345. Đây là một trong những ám chỉ huyền bí hơn trong sách. Vulcan rõ ràng là hành tinh liên kết với “Định luật Rung động”. Chúng ta thấy Chân sư thường xuyên vận dụng chiêm tinh để giải minh các ý tưởng và định luật trong TCF.

346. It is, however, difficult to associate Neptune with the physical plane, though its associations with death and sacrifice are clear. Death signals an escape from a confining environment; sacrifice signals selfless renunciation. Both escape and renunciation are ruled by Neptune.

346. Tuy nhiên, thật khó liên hệ Hải Vương Tinh với cõi hồng trần, dù các liên hệ của nó với cái chết và hy sinh là rõ ràng. Cái chết báo hiệu sự thoát ra khỏi môi trường giam cầm; hy sinh báo hiệu sự xả kỷ vô ngã. Cả sự thoát ly lẫn xả ly đều do Hải Vương Tinh cai quản.

347. Interestingly, the fifth of the liberated Creative Hierarchies (which has a relationship to the lowest level of the cosmic astral plane—its intended field of expression—is ruled by Neptune. Cancer is closely associated with the seventh ray, and this Cancerian Hierarchy will form the seventh ray foundation of the cosmic astral plane.

347. Thú vị là, Huyền Giai Sáng Tạo được giải thoát thứ năm (vốn có liên hệ với cảnh giới thấp nhất của cõi cảm dục vũ trụ—lĩnh vực biểu lộ dự định của nó) được Hải Vương Tinh cai quản. Cự Giải liên kết chặt chẽ với cung bảy, và Huyền Giai Cự Giải này sẽ tạo nền cung bảy cho cõi cảm dục vũ trụ.

348. We can consider the relationship as the relinquishment of confining form (Neptune) in order to more fully respond to the measure and frequency required by the “Law of Vibration”.

348. Chúng ta có thể xem mối liên hệ như sự xả bỏ hình tướng giam hãm (Hải Vương Tinh) để đáp ứng đầy đủ hơn với nhịp điệu và tần số được yêu cầu bởi “Định luật Rung động”.

349. Vulcan, in one respect, is a planet of density and concretion; Neptune a planet of refined ethereality. There is a natural qualitative opposition between the two of them.

349. Vulcan, ở một phương diện, là hành tinh của sự đậm đặc và kết đặc; Hải Vương Tinh là hành tinh của tính linh vi diệu tinh tế. Có một đối lập phẩm tính tự nhiên giữa hai vị này.

350. From another perspective, Vulcan is close to the reality of the Solar Logos and the outer expression of Neptune represents illusion.

350. Từ phối cảnh khác, Vulcan gần với thực tại của Thái dương Thượng đế còn biểu hiện ngoại tại của Hải Vương Tinh đại diện cho ảo tưởng.

351. These two planets, however, have something quite in common—their relationship to the Heart of the Sun. Neptune has a second ray Monad and Vulcan is hypothesized as expressing a fourth ray Monad, with a still more essential second ray Monad. The major monadic rays of all B/beings must be either one, two or three.

351. Tuy nhiên, hai hành tinh này có điều khá chung—mối liên hệ của chúng với Tim của Mặt Trời. Hải Vương Tinh có chân thần cung hai và Vulcan được giả thuyết biểu hiện một chân thần cung bốn, với một chân thần cốt tủy cung hai hơn nữa. Các cung chân thần chính của mọi Sự Sống đều phải là một, hai hoặc ba.

The densest form of expression on the physical plane is after all but a form of synthesis; just as the rarest form of expression on the highest plane is but unity or synthesis of a finer kind.

Hình thức biểu hiện đậm đặc nhất trên cõi hồng trần rốt cuộc cũng chỉ là một hình thức của tổng hợp; cũng như hình thức biểu hiện tinh tế nhất trên cõi cao nhất chỉ là hợp nhất hay tổng hợp ở dạng tinh tế hơn.

352. With respect to synthesis on the highest plane, we might call it a ‘disassociated’ unity or synthesis of a fiery kind, for we are dealing there with the “Sea of Fire”.

352. Đối với tổng hợp trên cõi cao nhất, chúng ta có thể gọi đó là hợp nhất ‘phi liên kết’ hay tổng hợp hỏa , vì ở đó chúng ta đang xử lý với “Biển Lửa”.

353. In every synthesis, obstructive separations which prevent all contained units from fusion are eliminated.

353. Trong mọi tổng hợp, các phân cách cản trở vốn ngăn mọi đơn vị được dung hợp đều bị loại bỏ.

354. Neptune functions in the relationship between desire and form. It is the magnetic property of desire which holds forms together. Thus, desire substands density.

354. Hải Vương Tinh hoạt động trong mối liên hệ giữa dục vọng và hình tướng. Chính tính chất từ tính của dục vọng giữ các hình tướng kết lại với nhau. Do đó, dục vọng làm nền cho tính đậm đặc.

355. We must remember that the number six has often been associated with the form. What seven provides is almost the automatic result of the magnetic holding power of the six.

355. Chúng ta phải nhớ rằng con số sáu thường được liên hệ với hình tướng. Cái mà bảy cung cấp gần như là kết quả tự động của sức giữ từ tính của số sáu.

One is the synthesis of matter, and the other the synthesis of life.

Một bên là tổng hợp của chất liệu, và bên kia là tổng hợp của sự sống.

356. Thus, are the seven and the one related. The Word of Power for the seventh ray is apt in this context: “The Highest and the Lowest Meet”.

356. Như thế, bảy và một liên hệ nhau. Quyền năng từ cho cung bảy rất thích hợp trong ngữ cảnh này: “Cao Nhất và Thấp Nhất Gặp Nhau”.

This law governs the seventh chain in each scheme;

Định luật này cai quản dãy thứ bảy trong mỗi hệ;

357. Once the ‘turn’ is made (of which the fourth chain is the pivotal point), the higher the chain number, the more refined should be its expression.

357. Một khi ‘bước ngoặt’ đã được thực hiện (mà dãy thứ tư là điểm then chốt), dãy có số càng cao thì biểu hiện càng tinh luyện.

358. When the seventh chain of the scheme is fully developed by the time has come for the death and sacrifice of the lower forms.

358. Khi dãy thứ bảy của hệ được phát triển đầy đủ thì đã đến lúc cái chết và sự hy sinh của các hình tướng thấp hơn.

each chain having achieved the fullest expression possible in the scheme, comes under the Law of Death, and obscuration and disintegration supervenes.

mỗi dãy, sau khi đạt biểu hiện đầy đủ nhất có thể trong hệ, sẽ chịu sự chi phối của Định luật Cái chết, và sự ám muội cùng phân rã tiếp diễn.

359. We see that this seventh law applies not only to the seventh chain, but to the seventh phase of development in any chain, after which the Law of Death supervenes.

359. Chúng ta thấy rằng định luật thứ bảy này không chỉ áp dụng cho dãy thứ bảy, mà cho giai đoạn thứ bảy của phát triển trong bất kỳ dãy nào, sau đó Định luật Cái chết tiếp quản.

360. Under the Law of Economy it is not permitted to perpetuate that which has achieved its full development. If not further progress is possible through a form, Nature degrees the death of that form.

360. Theo Định luật Tiết Kiệm, không được phép kéo dài cái đã đạt phát triển viên mãn. Nếu không còn tiến bộ nào có thể qua một hình tướng, Tự Nhiên ấn định cái chết cho hình tướng đó.

361. We can understand that although a particular law may apply most to a particular scheme or chain, all laws apply in some measure to all schemes and chains.

361. Chúng ta có thể hiểu rằng mặc dù một định luật nào đó có thể áp dụng nhiều nhất cho một hệ hay dãy đặc thù, thì mọi định luật đều áp dụng ở mức độ nào đó cho tất cả các hệ và dãy.

In a cosmic sense and analogy, it is the law that governs the coming in of pralaya at the end of a system.

Theo nghĩa và tương đồng vũ trụ, đó là định luật cai quản sự khởi phát của Giai kỳ qui nguyên vào cuối một hệ thống.

362. The final form is dies and is, in a sense, sacrificed to ensure the further development of the life which expresses through that form.

362. Hình tướng cuối cùng chết đi và, theo một nghĩa nào đó, được hy sinh để đảm bảo sự phát triển tiếp theo của sự sống biểu hiện qua hình tướng ấy.

363. The seventh phrase represents the end leading to pralaya, and Neptune (a ruler in a special sense, of Pisces) is the planet most associated with pralaya. Thus are the seven, the seventh law and Neptune associated.

363. Giai đoạn thứ bảy đại diện cho đoạn cuối dẫn tới Giai kỳ qui nguyên, và Hải Vương Tinh (một chủ tinh trong nghĩa đặc biệt của Song Ngư) là hành tinh liên hợp nhất với Giai kỳ qui nguyên. Như vậy bảy, định luật thứ bảy và Hải Vương Tinh được kết nối.

It is the law that shatters the cross of the cosmic Christ, and places the form of the Christ within the tomb for a period of time.

Đó là định luật đập vỡ thập giá của Đấng Christ vũ trụ, và đặt hình tướng của Đấng Christ vào trong mồ trong một khoảng thời gian.

364. The “cross” is the form. The life bound to the cross must be liberated and this “Law of Sacrifice and Death” sees to that liberation.

364. “Thập giá” là hình tướng. Sự sống bị đóng đinh trên thập giá phải được giải phóng và “Định luật Hy sinh và Cái chết” này đảm bảo sự giải phóng đó.

365. When the elements of the form return unto the “reservoir of life” the time period of the tomb is suggested.

365. Khi các yếu tố của hình tướng trở về “hồ chứa sự sống” thì khoảng thời gian trong mồ được gợi ý.

366. The time of resurrection will come and the constituents of form will be elevated under the galvanic impetus of the indwelling life.

366. Thời kỳ phục sinh sẽ đến và các thành tố của hình tướng sẽ được nâng lên dưới xung lực kích điện của sự sống nội tại.

367. In a strange reversal, Vulcan associated with the first ray and the highest law suggests the act of shattering, and Neptune, associated with the seventh plane and seventh law suggests the upward-rising process of resurrection. Neptune is very closely connected with attraction upwards.

367. Trong một sự đảo chiều lạ lùng, Vulcan liên hệ với cung một và định luật cao nhất gợi ý hành động đập vỡ , còn Hải Vương Tinh, liên hệ với cõi thứ bảy và định luật thứ bảy, gợi ý tiến trình phục sinh hướng thượng. Hải Vương Tinh rất liên hệ mật thiết với sự hấp dẫn hướng thượng.

The Principle of Mutation.  In concluding the above informa­tion about the laws, it is needful that we all recognise the extreme danger of dogmatising about these matters, and the risk of laying down hard and fast rules.  Much must remain unexplained and untouched, and much also will serve to raise only questions in our minds.  Comprehension is as yet impossible.

Nguyên tắc Biến dịch. Khi kết thúc phần thông tin trên về các định luật, điều cần thiết là tất cả chúng ta phải nhận ra sự nguy hiểm cùng cực của việc giáo điều hoá các vấn đề này, và rủi ro khi đặt ra những quy tắc cứng và bất biến. Nhiều điều phải còn chưa được giải thích và đụng tới, và cũng nhiều điều chỉ làm dấy lên những câu hỏi trong tâm trí chúng ta. Sự thấu triệt hiện vẫn chưa thể.

368. DK is sounding a note of caution to those who would reduce all that has been said into concrete mental formulations. In such a case the mind would be the “slayer of the real”.

368. Chân sư DK đang gióng lên một âm điệu cảnh báo cho những ai muốn quy gọn mọi điều đã nói vào những khuôn thức trí cụ thể. Trong trường hợp như vậy, thể trí sẽ là “kẻ giết chết Thực Tại”.

369. Fluidity of perspective depending upon changing context is ever required.

369. Tính linh động của phối cảnh tùy theo bối cảnh đổi thay luôn được đòi hỏi.

370. DK is but indicating a process, concerning which, much, very much, has yet to be learned by the average student of occultism.

370. Chân sư DK chỉ mới gợi chỉ một tiến trình mà về nó, còn rất, rất nhiều điều phải học đối với đạo sinh huyền bí học trung bình.

371. Great patience is required when studying these matters—the patience not just of a life-time but of many life-times.

371. Cần có đại nhẫn nại khi khảo cứu những vấn đề này—sự nhẫn nại không chỉ của một đời mà của nhiều đời.

Until fourth-dimensional sight is ours, it will scarcely be possible for us to do more than hint at, and get a passing vision of, the complexity and the interweaving in the system.

Cho đến khi thị kiến bốn chiều là của chúng ta, chúng ta hầu như chỉ có thể ám chỉ tới và bắt gặp thoáng qua về tính phức hợp và sự đan xen trong hệ thống.

372. The great principles of occultism are simple. The working out of these principles engages us in extreme complexity and intricacy unfathomable to the human mind.

372. Những nguyên lý vĩ đại của huyền bí học thì đơn giản. Sự triển khai của các nguyên lý này lôi cuốn chúng ta vào những phức hợp và rối rắm đến mức thể trí con người không dò thấu.

373. If we can catch but a glimpse of that which DK hints, it is at least something.

373. Nếu chúng ta nắm bắt được dù chỉ một thoáng điều mà Chân sư DK ám chỉ, thì đó đã là điều đáng kể.

374. This is why it is important to identify the ‘energy threads’ which are used in the process of ‘Divine Weaving’. If we can identify the threads from the first, we can later see how they are woven into complex ‘fabrics-of-creation’.

374. Đây là lý do tại sao quan trọng việc nhận diện các ‘sợi năng lượng’ được dùng trong tiến trình ‘Dệt Thiêng’. Nếu chúng ta có thể nhận diện các sợi ngay từ đầu, chúng ta có thể về sau thấy được cách chúng được dệt thành những ‘tấm vải-sáng tạo’ phức tạp.

375. Fourth dimensional sight is connected with buddhi; the energy of the intuition will clarify much that the mind finds inextricably complex.

375. Thị kiến bốn chiều liên kết với Bồ đề; năng lượng của trực giác sẽ làm sáng tỏ nhiều điều mà thể trí thấy rối rắm không gỡ nổi.

It is not easy for us to do more than grip as a mental concept the fact that the rays, schemes, planets, chains, rounds, races and laws form a unit;

Không dễ cho chúng ta làm gì hơn ngoài việc nắm như một khái niệm trí tuệ rằng các cung, các hệ, các hành tinh, các dãy, các vòng, các giống dân và các định luật cấu thành một thể nhất quán;

376. The mind wishes to distinguish these factors, one from another. In fact the lesser of these are nested in the greater, and a great Unity pervades them all.

376. Thể trí muốn phân biệt các yếu tố này, yếu tố kia. Thực ra, cái nhỏ hơn được lồng trong cái lớn hơn, và một Đại Nhất Thể thấm nhuần tất cả.

377. All the factors presented are interwoven. To the degree that we can, using Mercury, move from one to the other with ease, to that degree we can behold their interwoven relationship.

377. Mọi yếu tố được trình bày đều đan xen. Ở mức độ mà chúng ta có thể, nhờ Sao Thủy, di chuyển từ yếu tố này sang yếu tố khác một cách nhẹ nhàng, ở mức độ đó chúng ta có thể nhìn thấy mối quan hệ đan xen của chúng.

378. A completely different state of mind characterized by “pure reason” is required to fathom their intricate interdependency.

378. Một trạng thái tâm trí hoàn toàn khác, được đặc trưng bởi “lý trí bao gồm”, là cần thiết để thấu suốt sự tương thuộc phức tạp của chúng.

379. We need the capacities offered by Mercury—whether as the planet of reasoning or the planet of “pure reason”.

379. Chúng ta cần các năng lực mà Sao Thủy hiến tặng—dù như hành tinh của lý tính hay hành tinh của “lý trí bao gồm”.

seen from the angle of human vision the confusion seems unimaginable, and the key of its solution to be so hidden as to be useless;

nhìn từ góc độ thị kiến nhân loại, sự rối loạn dường như khó hình dung, và chìa khóa giải của nó dường như ẩn kín đến mức vô dụng;

380. Thus, very great patience is required of us as we pull upon the threads of life seeking to disentangle the confusion of concepts which probably characterizes the contents of our mind.

380. Do đó, đại nhẫn nại được đòi hỏi nơi chúng ta khi chúng ta kéo những sợi dây sự sống, tìm cách gỡ rối mớ hỗn độn các khái niệm vốn có lẽ đặc trưng cho nội dung của tâm trí ta.

381. We are obliged to change our human angle of vision into something much higher—the angle of vision of (minimally) the soul.

381. Chúng ta buộc phải đổi góc nhìn nhân loại thành điều gì đó cao hơn nhiều—tối thiểu là góc nhìn của linh hồn.

yet, seen from the angle of logoic sight, [598] the whole moves in unison, and is geometrically accurate.

Thế nhưng, nhìn từ góc độ thị kiến logoic, [598] toàn thể vận hành đồng bộ và chính xác về hình học.

382. One way of defining “logoic sight” is the perspective seen from the logoic plane. We are speaking (at least in part) of the perspective of the seventh degree initiate, for whom the logoic plane is ‘home’.

382. Một cách định nghĩa “thị kiến logoic” là phối cảnh thấy từ cõi logoic. Chúng ta đang nói (ít nhất một phần) về phối cảnh của điểm đạo đồ bậc bảy, đối với người ấy cõi logoic là ‘nhà’.

383. If we elevate our perspective, the geometrical movement foundational to the interplay of rays, laws, planes, and aspects of our systemic and planetary constitution will gradually clarify.

383. Nếu chúng ta nâng phối cảnh của mình lên, sự vận động hình học nền tảng cho sự tương tác của các cung, các định luật, các cõi, và các phương diện trong cấu trúc hệ thống và hành tinh của chúng ta sẽ dần sáng rõ.

In order to give some idea of the complexity of the arrange­ment, I would like here to point out that the Rays themselves circulate, the Law of Karma controlling the interweaving.

Để gợi một ý niệm nào đó về sự phức hợp của an bài, Tôi muốn chỉ ra rằng chính các Cung cũng luân lưu, Định luật Nghiệp quả kiểm soát sự đan xen.

384. DK is hinting at the idea of ray cycles and how these cycles are determined by the Intermediary Law of Karma.

384. Chân sư DK ám chỉ đến ý niệm về các chu kỳ cung và cách Định luật Trung gian là Nghiệp quả kiểm soát sự đan xen đó.

385. Since, for us, this Law of Karma has a Sirian origin, He seems to be telling us that Sirius controls the circulation of the rays.

385. Vì, đối với chúng ta, Định luật Nghiệp quả này có nguồn Sirius, dường như Ngài đang nói rằng Sirius kiểm soát sự lưu thông của các Cung.

386. We remember that the rays rotate from “north to south” and the planes from “east to west”.

386. Chúng ta nhớ rằng các Cung quay từ “bắc xuống nam” và các cõi quay từ “đông sang tây”.

For instance, Ray I may pass around a scheme (if it is the para­mount Ray of the scheme) with its first subray manifesting in a chain, its second in a round, its third in a world period, its fourth in a root race, its fifth in a subrace, and its sixth in a branch race.

Chẳng hạn, Cung một có thể đi vòng quanh một hệ hành tinh (nếu đó là cung tối thượng của hệ hành tinh), với cung phụ thứ nhất của nó biểu hiện trong một Dãy, cung phụ thứ hai trong một cuộc tuần hoàn, cung phụ thứ ba trong một thời kỳ thế giới, cung phụ thứ tư trong một giống dân gốc, cung phụ thứ năm trong một giống dân phụ, và cung phụ thứ sáu trong một giống dân chi.

387. Here is an example of the ordered complexity by means of which a ray may manifest in a scheme.

387. Đây là một ví dụ về tính phức hợp có trật tự, nhờ đó một cung có thể biểu hiện trong một hệ hành tinh.

388. We note that a ray will pass around a scheme—this definitely suggests what we have called a ‘scheme round’.

388. Chúng ta lưu ý rằng một cung sẽ đi vòng quanh một hệ hành tinh—điều này rõ ràng gợi ý điều mà chúng ta gọi là một ‘cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh’.

389. What do we mean by the “paramount ray of the scheme”? May we think of this as the principal ray of the Planetary Logos Who is manifesting through that scheme? This may or may not be His monadic ray. Much will depend upon the point in evolution He has reached. The “paramount ray” of our Planetary Logos is not yet His first ray Monad. At least the first ray is not His most effective ray at this time.

389. Chúng ta muốn nói gì bởi “cung tối thượng của hệ hành tinh”? Chúng ta có thể xem đó như là cung chủ đạo của Hành Tinh Thượng đế Đấng đang biểu hiện qua hệ hành tinh ấy chăng? Điều này có thể là hoặc không phải là cung chân thần của Ngài. Nhiều điều sẽ tùy thuộc vào điểm tiến hoá mà Ngài đã đạt đến. “Cung tối thượng” của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta vẫn chưa phải là Chân thần cung một của Ngài. Ít nhất thì cung một không phải là cung hữu hiệu nhất của Ngài vào lúc này.

390. We see the possibility of an amazing subdivision. It seems that all subrays of the Planetary Logos can be manifesting simultaneously in a given chain, but manifesting in very different ways. When we take into consideration the diversity of chains and the diversity of possible modes of manifestation, we are presented with a picture of unfathomable complexity (at least for us at our particular stage of understanding).

390. Chúng ta thấy khả năng của một sự phân chia kỳ diệu. Dường như mọi cung phụ của Hành Tinh Thượng đế đều có thể đồng thời biểu hiện trong một Dãy nhất định, nhưng biểu hiện theo những cách rất khác nhau. Khi chúng ta xét đến sự đa dạng của các Dãy và sự đa dạng của những chế độ biểu hiện có thể có, trước mắt chúng ta hiện ra một bức tranh về sự phức tạp khó dò (ít nhất là đối với chúng ta ở giai đoạn thấu hiểu đặc thù này).

391. DK does not speak of a seventh sub-ray, and yet we may presume that all rays have seven sub-rays.

391. Chân sư DK không nói về cung phụ thứ bảy, tuy vậy chúng ta có thể suy đoán rằng mọi cung đều có bảy cung phụ.

392. What smaller structure follows a branch-race? Perhaps it is that structure to which the seven subray can apply.

392. Sau một giống dân chi thì có cấu trúc nhỏ hơn nào? Có lẽ đó là cấu trúc mà bảy cung phụ có thể áp dụng.

I give this in illustration, and not as the state­ment of a fact in present manifestation.

Tôi đưa điều này như một sự minh hoạ, chứ không như một phát biểu về một sự kiện trong biểu hiện hiện tại.

393. The illustration that DK presents may or may not be a possible arrangement at some point in the manifestation of a planetary scheme. What we are being told that it is, apparently, not an arrangement which is operative at this present time in manifestation.

393. Minh hoạ mà Chân sư DK đưa ra có thể là, hoặc không phải là, một sự sắp đặt có thể có vào một thời điểm nào đó trong biểu hiện của một hệ hành tinh. Điều đang được nói ra là, rõ ràng, không phải là một sắp đặt đang vận hành trong thời điểm biểu hiện hiện nay.

This gives us some idea of the vastness of the process, and of its wonderful beauty.  It is impossible for us, sweeping through on some one Ray, to visualise or in any way to apprehend this beauty;

Điều này cho chúng ta đôi điều về sự mênh mông của tiến trình, và về vẻ đẹp kỳ diệu của nó. Chúng ta, đang lướt đi trên một cung nào đó, không thể hình dung hay nắm bắt được bằng bất kỳ cách nào vẻ đẹp này;

394. Who is sweeping through on some one ray? Is it we as a planetary manifestation? Or is DK speaking of our individual condition as we sweep through on some soul ray or monadic ray?

394. Ai đang lướt đi trên một cung nào đó? Có phải chúng ta như một biểu hiện hành tinh? Hay Chân sư DK đang nói về tình trạng cá nhân của chúng ta khi chúng ta lướt đi trên một cung linh hồn hay cung chân thần?

395. We realize that our ray identification and conditioning imposes limitation on the scope and depth of our perception.

395. Chúng ta nhận ra rằng sự đồng nhất và điều kiện hoá bởi cung của mình áp đặt giới hạn lên bề rộng và chiều sâu tri nhận của chúng ta.

396. We are simply to apprehend the possibility of an ordered beauty of great intricacy—all factors working together for completeness of expression.

396. Chúng ta chỉ nên nắm bắt khả thể về một vẻ đẹp có trật tự vô cùng tinh xảo—mọi yếu tố cùng phối hợp để đạt sự trọn vẹn của biểu lộ.

yet, to those on higher levels and with a wider range of vision, the gorgeousness of the design is apparent.

tuy nhiên, đối với những ai ở các cõi cao hơn và có tầm nhìn rộng lớn hơn, vẻ huy hoàng của thiết kế là điều hiển nhiên.

397. Gradually, this is what we seek to achieve—a vision of that incredible beauty as seen from higher planes. Step by step, as we correlate the functions of the various energies, we work towards this vision.

397. Dần dần, đó là điều chúng ta tìm cách đạt tới—một thị kiến về vẻ đẹp không thể tin nổi ấy như được thấy từ các cõi cao. Từng bước, khi chúng ta tương liên các chức năng của các loại năng lượng khác nhau, chúng ta tiến về phía thị kiến ấy.

This complexity is for us very much increased because we do not yet understand the principle governing this mutation. 

Sự phức hợp này đối với chúng ta còn tăng lên rất nhiều vì chúng ta vẫn chưa hiểu nguyên tắc chi phối sự biến dịch này.

398. Here we find DK identifying with “us”. Perhaps He, however, understands a great deal more of the “principle governing this mutation” than we do.

398. Ở đây chúng ta thấy Chân sư DK đồng hoá với “chúng ta”. Tuy vậy, có lẽ Ngài hiểu rất nhiều về “nguyên tắc chi phối sự biến dịch” hơn chúng ta.

399. For us, at this time, it is simply important for us to realize that it is an ordering principle. There is no randomness or happenstance in this beautiful process.

399. Đối với chúng ta, vào lúc này, điều quan trọng đơn giản là nhận ra rằng đó là một nguyên tắc sắp đặt . Không có sự ngẫu nhiên hay may rủi trong tiến trình tuyệt mỹ này.

Nor is it possible for even the highest human mind in the three worlds to do more than sense and approximate that principle.

Cũng không thể, ngay cả đối với thể trí nhân loại cao nhất trong ba cõi, làm được gì hơn ngoài việc cảm nhận và xấp xỉ nguyên tắc ấy.

400. Since a Master is still a human being, we may judge that even a Master cannot do more than sense this principle governing mutation.

400. Vì một Chân sư vẫn là một con người, chúng ta có thể xét rằng ngay cả một Chân sư cũng không thể làm gì hơn ngoài việc cảm nhận nguyên tắc chi phối sự biến dịch này.

401. We note that DK speaks not of the “highest human mind” but of the “highest human mind in the three worlds”. This is a significant qualifier and points to the thought that the human mind liberated from the illusions of the three worlds may understand much more of the principle of mutation.

401. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK không nói “thể trí nhân loại cao nhất” mà nói “thể trí nhân loại cao nhất trong ba cõi ”. Đây là một định tính quan trọng và gợi ý rằng thể trí con người đã giải phóng khỏi các ảo tưởng của ba cõi có thể hiểu nhiều hơn về nguyên tắc biến dịch.

By mutation I mean the fact that there is a constant changing and shifting, an endless interweaving and interlocking, and a ceaseless ebb and flow, in the dramatic interplay of the forces that stand for the dual synthesis of Spirit and matter.

Với biến dịch , tôi muốn nói đến thực tế rằng có một sự đổi thay và dịch chuyển liên tục, một sự đan xen và lồng ghép bất tận, và một thuỷ triều lên xuống không ngừng, trong sự tương giao kịch tính của các mãnh lực đại diện cho sự tổng hợp nhị nguyên của Tinh thần và vật chất.

402. So that we do not pass over these words descriptive of mutation in too casual a manner, let us list them:

402. Để chúng ta không lướt nhanh qua những từ mô tả biến dịch này một cách quá hời hợt, hãy liệt kê chúng:

a. Constant changing

a. Đổi thay thường hằng

b. Constant shifting

b. Dịch chuyển thường hằng

c. Endless weaving

c. Đan dệt bất tận

d. Endless interlocking

d. Lồng ghép bất tận

e. Ceaseless ebb and flow

e. Triều lên và triều xuống không ngơi

f. Dramatic interplay of forces

f. Sự tương giao kịch tính của các mãnh lực

403. All of these ‘motions’ pertain to the manner in which Spirit and matter constantly engage.

403. Tất cả những ‘chuyển động’ này thuộc về cách thức mà Tinh thần và vật chất liên tục tương tác.

There is constant rotation in the Rays and planes, in their relative importance from the standpoint of time which is the standpoint most closely associated with us.

Có sự luân chuyển liên tục nơi các cung và các cõi, trong tầm quan trọng tương đối của chúng xét từ quan điểm thời gian—vốn là quan điểm gắn chặt nhất với chúng ta.

404. We recall in an earlier section of text that the rays rotate from north to south and the planes from east to west.

404. Chúng ta nhớ rằng ở phần trước, các cung quay từ bắc xuống nam và các cõi từ đông sang tây.

405. Since we are still very much bound to time-space conceptions, the motion in time/space of rays and planes is still very important to us.

405. Vì chúng ta vẫn còn bị ràng buộc rất nhiều vào khái niệm thời-gian-không-gian, nên chuyển động trong thời-gian/không-gian của các cung và các cõi vẫn còn rất quan trọng đối với chúng ta.

406. Because we are conditioned by time, certain rays and planes will be more important to us at certain times than other rays and planes.

406. Bởi vì chúng ta bị điều kiện hoá bởi thời gian, nên vào những thời điểm nhất định, một số cung và cõi sẽ quan trọng hơn đối với chúng ta so với những cung và cõi khác.

407. From a much higher perspective—a perspective unconditioned by time—particular ray and plane cycles would not carry the same emphasis as they do for the one of limited vision.

407. Từ một viễn kiến cao hơn nhiều—một viễn kiến không bị điều kiện hoá bởi thời gian—những chu kỳ của cung và cõi riêng biệt sẽ không mang cùng mức nhấn mạnh như đối với người có tầm nhìn hạn chế.

But we can rest assured that there is some fundamental principle directing all the activities of the Logos in His system, and by wrestling to discover the basic principle on which our microcosmic lives rest, we may discover aspects of this inherent logoic principle.

Tuy vậy, chúng ta có thể yên tâm rằng có một nguyên tắc căn bản nào đó đang chỉ đạo mọi hoạt động của Thái dương Thượng đế trong hệ của Ngài, và bằng cách gắng công khám phá nguyên tắc nền tảng mà đời sống tiểu thiên địa của chúng ta nương tựa, chúng ta có thể phát hiện những khía cạnh của nguyên tắc logoic vốn hữu tại này.

408. The practical approach is given. If we can discover “the basic principle on which our microcosmic lives rest” we can discover factors fundamental to the expression of our Planetary Logos and even of the greater Logos.

408. Cách tiếp cận thực tiễn đã được nêu. Nếu chúng ta có thể khám phá “nguyên tắc căn bản mà đời sống tiểu thiên địa của chúng ta nương tựa”, chúng ta có thể phát hiện những yếu tố nền tảng cho sự biểu lộ của Hành Tinh Thượng đế chúng ta và thậm chí của vị Thượng đế lớn lao hơn.

409. To the initiate who discovers the key to the changing, shifting, weaving, interlocking, ebb and flow and interplay of energies and forces in his own energy system, something of significance may be disclosed about the same on a much broader scale.

409. Đối với điểm đạo đồ khám phá được chìa khoá của sự đổi thay, dịch chuyển, đan dệt, lồng ghép, thuỷ triều lên xuống và sự tương giao của các năng lượng và mãnh lực trong hệ năng lượng riêng của y, thì điều gì đó có ý nghĩa có thể được hé lộ về cùng những điều ấy trên một bình diện rộng lớn hơn nhiều.

410. Practically, then, we have to study the cycles of our own life and the interplay between our various vehicles. Much remains if we are to fulfil the injunction “know thyself”. This is the proper road to a greater understanding of the macrocosm.

410. Vậy nên, về mặt thực hành, chúng ta phải nghiên cứu các chu kỳ của chính đời sống mình và sự tương tác giữa các vận cụ khác nhau của chúng ta. Còn lại rất nhiều việc phải làm nếu chúng ta muốn thực hiện lời huấn thị “tự tri”. Đây là con đường đúng đắn để đi tới một sự hiểu biết lớn hơn về đại thiên địa.

This opens to our consideration a wide range of vision, and [599] though it emphasises the complexity of the subject, it also demonstrates the divine magnitude of the scheme, with its magnificent intricacies.

Điều này mở ra trước sự xem xét của chúng ta một tầm nhìn rộng lớn, và [599] dù nó nhấn mạnh sự phức tạp của đề tài, nó cũng phô bày tầm vóc thiêng liêng của hệ hành tinh, với những tinh vi tráng lệ của nó.

411. As we contemplate these matters, what emerges in our consciousness:

411. Khi chúng ta chiêm ngưỡng những điều này, điều gì nảy sinh trong tâm thức chúng ta:

a. A wide range of vision

a. Một tầm nhìn rộng lớn

b. The disclosure of a subject of great complexity

b. Sự hé lộ của một đề tài hết sức phức tạp

c. A realization of the “divine magnitude of the scheme”, and by this is not necessarily meant only the planetary scheme.

c. Nhận thức về “tầm vóc thiêng liêng của hệ hành tinh”, và điều này không nhất thiết chỉ có nghĩa là hệ hành tinh hành tinh .

d. A disclosure of the “magnificent intricacies” of the enveloping macrocosm.

d. Sự hé lộ “những tinh vi tráng lệ” của đại thiên địa bao trùm.

412. Something about the nature of Master DK’s mind is revealed by the words “magnificent intricacies”. As students at our stage of development, we have very little realization of magnificent intricacy. Perhaps we are only beginning to realize that it exists. Often we wonder why we must study material of such apparent complexity, only gradually to realize that what we are studying is not at all complex when compared with the real complexity and intricacy of God’s Great Design.

412. Một điều gì đó về bản chất của trí tuệ Chân sư DK được bộc lộ qua cụm từ “những tinh vi tráng lệ”. Là những đạo sinh ở giai đoạn phát triển của chúng ta, chúng ta rất ít có nhận thức về sự tinh vi huy hoàng. Có lẽ chúng ta chỉ mới bắt đầu nhận ra rằng nó hiện hữu. Nhiều khi chúng ta tự hỏi vì sao phải học một chất liệu xem ra quá phức tạp như vậy, để rồi chỉ dần dần nhận ra rằng điều chúng ta đang học chẳng hề phức tạp gì khi đem so với sự phức tạp và tinh vi thực sự của Đại Thiết Kế của Thượng đế.

413. This calls for much patience on our part and a suspension of judgment concerning what is practical and what is not. Our limited minds (when presented with daunting material) often protect themselves by the judgment that the material is really impractical or not useful in this day and age. This is a serious mistake and is based upon the determination to preserve our mental comfort-zone.

413. Điều này đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều nhẫn nại và một sự đình hoãn phán đoán về cái gì là thực tiễn và cái gì không. Các thể trí hạn hẹp của chúng ta (khi đối diện với chất liệu gây sợ ngợp) thường tự vệ bằng cách phán rằng chất liệu ấy thực sự không thực dụng hoặc không hữu ích trong thời đại này. Đây là một sai lầm nghiêm trọng và dựa trên quyết tâm bảo tồn vùng thoải mái của thể trí.

The reason the fourth is a major round is because in this round two things happened—the spark of mind was implanted and the door was opened from the animal kingdom into the human; and later, another door opened, on to the Path leading from the human kingdom into the spiritual—again a dual reason.

Lý do thứ tư là một cuộc tuần hoàn chính yếu là bởi vì trong cuộc tuần hoàn này hai điều đã xảy ra— tia lửa trí tuệ đã được gieo và cánh cửa đã mở từ giới động vật vào giới nhân loại; và về sau, một cánh cửa khác mở ra, dẫn vào Thánh Đạo từ giới nhân loại đi vào giới tinh thần—lại một lý do nhị nguyên.

414. There are major and minor rounds in the life of the Planetary Logos. Reasons are here given why the fourth round of our particular scheme or chain (we are not told which) is so important. Even if we are considering a scheme round, it was within the fourth chain-round period of that scheme round that the developments above were accomplished.

414. Có những cuộc tuần hoàn chính và phụ trong đời sống của Hành Tinh Thượng đế. Những lý do được đưa ra ở đây giải thích vì sao cuộc tuần hoàn thứ tư của hệ hay Dãy đặc thù của chúng ta (chúng ta không được cho biết là cái nào) lại quan trọng như vậy. Dù chúng ta xét một cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh, thì chính trong thời kỳ cuộc tuần hoàn-Dãy thứ tư của cuộc tuần hoàn hệ hành tinh ấy mà các diễn tiến nói trên đã được hoàn tất.

a. The spark of mind was implanted in animal man and the door was opened from the animal kingdom into the nascent human kingdom (which had not existed in our chain before that point).

a. Tia lửa trí tuệ đã được gieo vào người thú, và cánh cửa đã mở từ giới động vật vào giới nhân loại sơ sinh (giới này trước đó chưa hề hiện hữu trong Dãy của chúng ta).

b. The door to initiation was opened allowing the passage of human beings into the “Kingdom of Souls”, the spiritual kingdom.

b. Cánh cửa điểm đạo đã mở, cho phép những con người đi vào “Vương quốc của Linh hồn”, tức giới tinh thần.

415. We could look at these developments in terms of their value to present day humanity if we wish, but they have deep implications for the life of the Planetary Logos, Himself.

415. Chúng ta có thể nhìn các diễn tiến này theo giá trị của chúng đối với nhân loại ngày nay nếu muốn, nhưng chúng có những hàm ý sâu xa đối với đời sống của chính Hành Tinh Thượng đế.

The fifth round is a major round because it marks a point in evolution where those who will achieve the goal, and those who will not, are sharply differentiated into two groups;

Cuộc tuần hoàn thứ năm là một cuộc tuần hoàn chính vì nó đánh dấu một điểm trong tiến hoá nơi những ai sẽ đạt mục tiêu, và những ai sẽ không đạt, được phân biệt rạch ròi thành hai nhóm;

416. This differentiation occurs under the Law of Cleavages ruled by the fifth ray (the ray which primarily conditions the fifth round).

416. Sự phân biệt này diễn ra dưới Định luật Phân ly do cung năm cai quản (cung chủ yếu điều kiện hoá cuộc tuần hoàn thứ năm).

417. We are speaking here of the classic division between the “sheep” and the “goats”.

417. Ở đây chúng ta đang nói về sự phân chia cổ điển giữa “chiên” và “dê”.

418. The fifth round is the round of the “Judgment Day” and, for this reason (among others) is “major”. Here, we seem to be speaking of a chain round. As far as is presently realized, the “Judgment Day” is to occur in the fifth chain-round of our chain—the fourth.

418. Cuộc tuần hoàn thứ năm là cuộc tuần hoàn của “Ngày Phán Xét” và vì lý do này (trong số những lý do khác) nó là “chính”. Ở đây, dường như chúng ta đang nói về một cuộc tuần hoàn của Dãy. Theo như hiện nay được biết, “Ngày Phán Xét” sẽ diễn ra trong cuộc tuần hoàn-Dãy thứ năm của Dãy chúng ta—tức Dãy thứ tư.

the seventh is a major round because it will mark the merging of the two evolutions, the human and the deva.

Cuộc tuần hoàn thứ bảy là một cuộc tuần hoàn chính vì nó sẽ đánh dấu sự hợp nhất của hai tiến hoá, nhân loại và thiên thần.

419. Merging of the deva and human evolution occurs on the monadic plane, as we have been studying, so we see that in this later round monadic ‘altitude’ will have been achieved.

419. Sự hợp nhất của tiến hoá thiên thần và nhân loại diễn ra trên cõi chân thần, như chúng ta đã nghiên cứu, vì vậy chúng ta thấy rằng trong cuộc tuần hoàn muộn hơn này, “cao độ” chân thần sẽ được đạt.

420. Again, we are not certain of whether we are speaking of a scheme round or chain round. It is possible for the deva and human evolutions to merge on our chain and yet not entirely throughout out scheme.

420. Một lần nữa, chúng ta không chắc là đang nói về một cuộc tuần hoàn của hệ hay của Dãy. Việc hai tiến hoá thiên thần và nhân loại có thể hợp nhất trên Dãy của chúng ta nhưng chưa hoàn toàn khắp toàn hệ là điều khả hữu.

The major root races are chosen under the Law of Corres­pond­ence.

Các giống dân gốc chính được lựa chọn theo Định luật Tương ứng.

421. The word “chosen” is interesting. Does the word mean “indicated”? In other words, when we seek to understand which of the root races are major, is our choice to be indicated according to the Law of Correspondences?

421. Từ “lựa chọn” thật thú vị. Từ ấy có nghĩa là “chỉ định” chăng? Nói cách khác, khi chúng ta tìm hiểu xem những giống dân gốc nào là chính yếu, thì sự chọn lựa của chúng ta sẽ được chỉ định theo Định luật Tương ứng?

In the third root race came the third Outpouring, the merging and the point of contact between the Spiritual Triad and the Lower Quaternary.

Trong giống dân gốc thứ ba đã có Lần Tuôn Đổ thứ ba, tức sự dung hợp và điểm tiếp xúc giữa Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ bốn hạ.

422. The first two Outpourings came much earlier. Some of the earlier Theosophical books have gone into these intricacies, but we have no complete confidence that the progression they have presented is truly accurate. It is much conditioned by the regularity of the concrete mind and does not take into consideration factors which the authors were in no position to detect. For instance, the Moon-chain evolution was disrupted, we are told, by the intervention of the Solar Logos, but early Theosophical authors had no cognizance of this and discussed the progress and closure of the Moon-chain as if it occurred with complete and predictable regularity, when it fact no such orderly completion ever occurred.

422. Hai Lần Tuôn Đổ đầu đã đến sớm hơn nhiều. Vài sách Thông Thiên Học trước đây đã bàn về những tinh vi này, nhưng chúng ta không thể hoàn toàn tin rằng trình tự mà họ trình bày thật sự chính xác. Nó bị điều kiện hoá nhiều bởi tính đều đặn của trí cụ thể và không xét đến những yếu tố mà các tác giả không ở vị thế nào để nhận ra. Chẳng hạn, tiến hoá Dãy Mặt Trăng, như chúng ta được cho biết, đã bị can thiệp bởi Thái dương Thượng đế, nhưng các tác giả Thông Thiên Học sơ kỳ không hề biết điều này và đã bàn về tiến trình và sự kết thúc của Dãy Mặt Trăng như thể nó diễn ra một cách hoàn toàn đều đặn và có thể dự đoán, trong khi thực tế không có sự hoàn tất có trật tự nào như vậy diễn ra cả.

423. The coming of the Solar Angels as providing the method of contact between the “Spiritual Triad and the Lower Quaternary” contributes to the importance of the third root race.

423. Sự đến của các Thái dương Thiên Thần như là phương tiện tạo tiếp xúc giữa “Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ bốn hạ” góp phần làm nổi bật tầm quan trọng của giống dân gốc thứ ba.

424. Let us tabulate the twofold reason which makes the third root race a major root race:

424. Chúng ta hãy bảng hóa lý do hai mặt khiến giống dân gốc thứ ba là một giống dân gốc chính :

a. The Third Outpouring

a. Lần Tuôn Đổ thứ ba

b. “The merging and point of contact between the Spiritual Triad and the Lower Quaternary”.

b. “Sự dung hợp và điểm tiếp xúc giữa Tam Nguyên Tinh Thần và Bộ bốn hạ”.

The fifth root race marks a point where higher and lower manas approximate, and where the concrete mind, meeting its highest development of this round, gives place to the intuition from above.

Giống dân gốc thứ năm đánh dấu một điểm nơi thượng trí và hạ trí tiệm cận, và nơi trí cụ thể, khi đạt đến mức phát triển cao nhất trong cuộc tuần hoàn này, sẽ nhường chỗ cho trực giác từ trên.

425. In the fifth root race the antahkarana is built and utilized. Humanity is able to reach the point of development at which the intercessory influence of the Solar Angels is no longer needed.

425. Trong giống dân gốc thứ năm, antahkarana được xây dựng và sử dụng. Nhân loại có thể đạt đến điểm phát triển mà ở đó ảnh hưởng trung gian của các Thái dương Thiên Thần không còn cần thiết nữa.

426. Again, let us tabulate the twofold reason why the fifth root race is a major root race:

426. Một lần nữa, chúng ta hãy bảng hóa lý do hai mặt khiến giống dân gốc thứ năm là một giống dân gốc chính :

a. Higher and lower manas approximate

a. Thượng trí và hạ trí tiệm cận

b. Concrete mind, having reached its highest development in this round, ‘gives place to the intuition from above”.

b. Trí cụ thể, sau khi đạt mức phát triển cao nhất trong cuộc tuần hoàn này, ‘nhường chỗ cho trực giác từ trên’.

427. Are we to think that manas will not develop further in later rounds under the impress of higher faculties? Probably, there will be further development, but the development of manas, in this round, reaches its apotheosis in the fifth root race of this fourth round.

427. Chúng ta có nên nghĩ rằng manas sẽ không phát triển thêm trong các cuộc tuần hoàn sau này dưới ấn tượng của các năng lực cao hơn? Có lẽ sẽ có sự phát triển thêm, nhưng sự phát triển của manas, trong cuộc tuần hoàn này, đạt đến tột đỉnh của nó trong giống dân gốc thứ năm của cuộc tuần hoàn thứ tư này.

428. It would seem important (from the planetary perspective) to consider this development as occurring in a scheme round, as surely the development of manas in the fifth (highly manasic) chain will be of greater moment that such development in the fourth chain.

428. Có vẻ quan trọng (từ quan điểm hành tinh) là xem diễn tiến này như diễn ra trong một cuộc tuần hoàn hệ hành tinh , vì chắc chắn sự phát triển của manas trong Dãy thứ năm (rất manasic) sẽ có ý nghĩa lớn lao hơn sự phát triển như thế ở Dãy thứ tư.

429. Yet, as concerns development within our chain, manas, per se, will reach its highest point of development in the fifth chain round, which will certainly occur before the fourth scheme round is complete and the fifth scheme round has begun.

429. Tuy nhiên, xét về phát triển trong Dãy của chúng ta, manas, tự thân nó, sẽ đạt điểm phát triển cao nhất trong cuộc tuần hoàn Dãy thứ năm, điều này chắc chắn sẽ xảy ra trước khi cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ tư hoàn tất và cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ năm bắt đầu.

430. There exists the possibility of overlapping rounds (both in the chain and scheme processes), and limited speculation has been offered in earlier commentaries regarding how this might occur. A model of strict linearity is not probable.

430. Có khả năng các cuộc tuần hoàn chồng lấp (cả trong tiến trình Dãy lẫn hệ hành tinh), và trước đó đã có ít nhiều suy đoán về cách điều này có thể xảy ra. Một mô hình tuyến tính nghiêm ngặt là điều không có khả năng.

Here again we have a twofold reason.  The seventh root race again demonstrates dual attainment, love in activity, the basis of the third system of Will or Power.

Ở đây một lần nữa, chúng ta có một lý do hai mặt. Giống dân gốc thứ bảy một lần nữa minh chứng sự thành tựu nhị nguyên: Tình thương trong hoạt động, nền tảng của hệ thống thứ ba của Ý Chí hay Quyền Lực.

431. The achievement of the seventh root race is the full development of love on our chain and also of activity. The two are blended.

431. Thành tựu của giống dân gốc thứ bảy là sự phát triển trọn vẹn của Tình thương trong Dãy của chúng ta và đồng thời của Hoạt động. Hai điều được dung hợp.

432. But this type of blending must also occur on other chains in our scheme if full preparation of the “basis of the third system of Will or Power” is to be completed. Other globes in other chains also have root races.

432. Nhưng kiểu dung hợp này cũng phải diễn ra trên những Dãy khác trong hệ của chúng ta nếu việc chuẩn bị toàn triệt cho “nền tảng của hệ thống thứ ba của Ý Chí hay Quyền Lực” được hoàn tất. Các bầu ở những Dãy khác cũng có những giống dân gốc.

The three major Rays, being dual, are their own sufficient explanation.

Ba cung chính, vốn mang tính nhị nguyên, là tự thân đã đủ để giải thích.

433. These rays must be dual in a particular way. Really, all the rays have seven sub-rays. So then, what is the nature of this duality as contrasted with the threefold and sevenfold divisions which pertain to all rays?

433. Những cung này hẳn là nhị nguyên theo một cách đặc thù. Thực ra, mọi cung đều có bảy cung phụ. Vậy thì, bản tính của nhị nguyên này là gì khi so với các phân chia tam phân và thất phân vốn thuộc về tất cả các cung?

434. When thinking of the three major rays and their duality we might suggest in all simplicity and with the need of extensive elaboration (such as can be found in Tapestry of the Gods, Vols. I and II):

434. Khi nghĩ về ba cung chính và tính nhị nguyên của chúng, chúng ta có thể gợi ý một cách rất giản lược và cần được triển khai rộng (như có thể thấy trong Tapestry of the Gods, Vols. I and II ):

a. Ray One—constructive (forging) and destructive

a. Cung Một—kiến tạo (rèn đúc) và hủy hoại

b. Ray Two—love and wisdom

b. Cung Hai—tình thương và minh triết

c. Ray Three—mental activity and material activity

c. Cung Ba—hoạt động trí tuệ và hoạt động vật chất

They are at present the mode of expression of the three aspects, and demonstrate under their appropriate Logoi,

Chúng hiện nay là phương thức biểu hiện của ba Phương diện, và biểu hiện dưới các vị Thượng đế thích đáng của chúng,

435. The Three Logoi, therefore, have, in sum, a sixfold expression.

435. Vì vậy, Ba Thượng đế (Logoi) có, tổng cộng, một biểu hiện lục phân .

Who manipulate world affairs through the three depart­ments, of which the rulers on our planet are the Lord Maitreya, the Manu, and the Mahachohan.

Đấng thao túng các công việc thế gian thông qua ba bộ phận, mà những vị cai quản trên hành tinh của chúng ta là Đức Maitreya, Đức Manu và Đức Mahachohan.

436. It is important to realize that the Three Departments are not unique on our planet. The Three Logoi (cosmic Beings Who express systemically) stand behind these three departments.

436. Điều quan trọng là nhận ra rằng Ba Bộ Phận không phải là độc nhất trên hành tinh của chúng ta. Ba Vị Thượng đế (những Đấng vũ trụ biểu hiện một cách hệ thống) đứng đằng sau ba bộ phận này.

437. We assume that when DK speaks of the three major rays, He means rays one, two and three, but the tabulation offered below modifies this assumption, substituting ray seven for ray three.

437. Chúng ta giả định rằng khi Chân sư DK nói về ba cung chính, Ngài muốn nói các cung một, hai và ba, nhưng bảng liệt kê đưa ra dưới đây điều chỉnh giả định này, thay thế cung bảy cho cung ba.

438. We note that the Lord Maitreya is mentioned first, indicating the primacy of the second ray on our planet and in this solar system.

438. Chúng ta lưu ý rằng Đức Maitreya được nêu trước tiên, cho thấy tính ưu thắng của cung hai trên hành tinh chúng ta và trong thái dương hệ này.

The three major planes demonstrate easily their unique position—on plane two we have the home of the Monads of Love, on plane five we find the habitat of their reflections, the reincarnating Egos, and [600] on the physical plane we find the working out at its densest point of the life of the Spirit.

Ba cõi chính dễ dàng minh chứng vị trí độc đáo của chúng—trên cõi hai chúng ta có nơi cư ngụ của các Chân thần của Bác Ái, trên cõi năm chúng ta thấy chỗ cư ngụ của những phản ảnh của các Ngài, tức các Chân ngã tái sinh, và [600] trên cõi hồng trần chúng ta thấy sự triển khai ở điểm đậm đặc nhất của sự sống Tinh thần.

439. The three major planes here given are planes two, five and seven. The reasons are as follows:

439. Ba cõi chính ở đây là cõi hai, năm và bảy. Lý do như sau:

a. Plane two—the Monads (“of Love”) find their habitat there, yet all Monads (from one perspective) are, due to their second plane ‘location’, “Monads of Love”.

a. Cõi hai—các Chân thần (“của Bác Ái”) tìm nơi cư ngụ ở đó, tuy nhìn từ một quan điểm, tất cả Chân thần, do ‘vị trí’ cõi hai của mình, đều là “Chân thần của Bác Ái”.

b. Plane five—the egoic reflections of the Monads express on the higher mental plane

b. Cõi năm—các phản ảnh chân ngã của các Chân thần biểu lộ trên cõi thượng trí

c. Plane seven—Spirit works out in densest matter, “The Highest and the Lowest Meet” and God’s plan is fully manifested on His lowest plane of expression.

c. Cõi bảy—Tinh thần triển khai trong chất liệu đậm đặc nhất, “Cao Nhất và Thấp Nhất Gặp Nhau” và Thiên Cơ của Thượng đế được hiển lộ trọn vẹn trên cõi biểu lộ thấp nhất của Ngài.

440. We find DK ‘weighting’ the various energies and their fields of expression. Though all things may be equal “in the Eyes of God”, they are not equal in time and space and from the perspective of those whose consciousness is conditioned by time and space.

440. Chúng ta thấy Chân sư DK ‘lượng định’ các loại năng lượng và các trường biểu hiện khác nhau. Dù mọi sự có thể bình đẳng “trong Mắt Thượng đế”, nhưng chúng không bình đẳng trong thời gian và không gian và từ quan điểm của những ai có tâm thức bị điều kiện hoá bởi thời gian và không gian.

This principle of mutation governs every department in the Law of Correspondences, and certain things can be stated as regards the system, and its component parts which will be found illuminating if we remember that they are facts for the present.

Nguyên tắc biến dịch này chi phối mọi lĩnh vực trong định luật tương ứng, và có thể phát biểu vài điều về hệ thống và các bộ phận cấu thành của nó, sẽ được thấy là soi rọi nếu chúng ta nhớ rằng chúng là những sự kiện của hiện tại.

441. When we try to work with the Law of Correspondences we had best be cautioned to remember the Principle of Mutation. The correspondences which we deem accurate may only be so for a time and from a certain perspective. All is shifting and changing and changing “according to law”.

441. Khi chúng ta cố gắng làm việc với Định luật Tương ứng, tốt nhất là nên được cảnh báo để nhớ đến Nguyên tắc Biến dịch. Những tương ứng mà chúng ta cho là chính xác có thể chỉ đúng trong một thời gian và từ một góc nhìn nào đó. Mọi sự đều đổi thay và dịch chuyển, và dịch chuyển “theo định luật”.

442. We are going to view the principle of mutation on a solar systemic level.

442. Chúng ta sẽ nhìn nguyên tắc biến dịch ở cấp thái dương hệ.

443. Perhaps it comes as a surprise to us that the Law of Correspondences has different “departments”. May we say that in Creation, and on various levels of vibration, there are different groupings which correspond to other groupings? As these groupings are related to each other, the Law of Correspondences holds good.

443. Có lẽ điều này khiến chúng ta ngạc nhiên khi Định luật Tương ứng có những “lĩnh vực” khác nhau. Chúng ta có thể nói rằng trong Sáng tạo, và trên các mức độ rung động khác nhau, có những nhóm khác nhau tương ứng với những nhóm khác? Khi các nhóm này tương liên với nhau, Định luật Tương ứng vẫn đúng.

444. For instance, the Seven Rays are one grouping, and the seven planes, another. The seven principles are yet another, the seven chakras another, and so forth.

444. Chẳng hạn, Bảy Cung là một nhóm, và bảy cõi là một nhóm khác. Bảy nguyên khí là một nhóm nữa, bảy luân xa là nhóm khác nữa, v.v.

Let me again illustrate:  we have been told that the three major Rays at this time are the first, the second, and the seventh.  

Hãy để tôi một lần nữa minh hoạ: chúng ta đã được cho biết rằng ba cung chính vào thời điểm này là cung một, cung hai và cung bảy.

445. Probably, this information is scattered throughout the books. The seventh ray seems, temporarily, to take the place of the third ray as major, because the seventh ray is coming in so strongly during the Aquarian Age.

445. Có lẽ, thông tin này rải rác khắp các sách. Cung bảy dường như, tạm thời, thay chỗ của cung ba như là cung chính, bởi vì cung bảy đang đến rất mạnh trong Kỷ Bảo Bình.

446. Yet, we must remember how closely related are the seventh and third rays. This is particularly so in relation to the present Mahachohan and the initiates in His Ashram.

446. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ cung bảy và cung ba liên hệ mật thiết với nhau. Điều này đặc biệt đúng liên quan đến vị Mahachohan hiện tại và các điểm đạo đồ trong Đẳng đường của Ngài.

But later, the Rays now major may become subsidiary, and others take their place, though for this solar system the second Ray, being the synthetic Ray, will always be a major Ray.

Nhưng về sau, các cung hiện đang là chính có thể trở thành phụ, và những cung khác thay vào vị trí đó, tuy đối với thái dương hệ này, Cung hai, vốn là cung tổng hợp, sẽ luôn luôn là một cung chính.

447. The designation of major and minor will depend upon the portion of the Divine Plan which is in process of unfolding.

447. Việc gọi là chính hay phụ sẽ tùy thuộc vào phần của Thiên Cơ đang được khai triển.

448. Probably, within the realm of Purpose (which is ‘above’ time and space as usually considered) all rays are closer to equal, but in relation to the time-sensitive Divine Plan, some rays are more important at some times in order to express the ‘purpose of the hour’.

448. Có lẽ, trong lĩnh vực của Mục Đích (vốn ‘vượt’ ngoài thời gian và không gian như thường được xét) mọi cung gần như bình đẳng hơn, nhưng liên quan đến Thiên Cơ nhạy cảm với thời gian, thì một số cung quan trọng hơn vào những thời điểm nhất định để biểu hiện ‘mục đích của thời khắc’.

449. To be practical, we must know what is important now. To be knowledgeable, we must know the workings of the Principle of Mutation, and what rays have been important and will be important at different periods of planetary history.

449. Để thực tiễn, chúng ta phải biết điều gì quan trọng ngay bây giờ. Để có hiểu biết, chúng ta phải biết sự vận hành của Nguyên tắc Biến dịch, và các cung đã, đang và sẽ quan trọng vào các thời kỳ khác nhau trong lịch sử hành tinh như thế nào.

Perhaps we can here get a hint on this great principle, though we must be careful not to draw it out to too fine a conclusion.

Có lẽ ở đây chúng ta có thể nhận được một ám chỉ về nguyên tắc vĩ đại này, tuy chúng ta phải cẩn trọng để không kéo dài nó tới những kết luận quá tinh vi.

450. Premature formulations (while temporarily satisfying to the impatient mind seeking closure) are very likely to be erroneous. Patience is required in these wide and intricate studies.

450. Những công thức vội vàng (trong khi tạm thời làm thỏa mãn thể trí nôn nóng muốn khép lại vấn đề) rất có khả năng là sai lầm. Sự nhẫn nại là điều cần có trong những khảo cứu rộng lớn và tinh vi này.

451. When we study what is given below, we cannot presume that it refers only to our planet. That is may not, increases the difficulty of interpreting what is given.

451. Khi chúng ta nghiên cứu điều được đưa ra dưới đây, chúng ta không thể giả định rằng nó chỉ liên quan đến hành tinh của chúng ta. Việc nó có thể không như vậy khiến việc diễn giải những gì được cho càng thêm khó.

For this system the major Rays will always be the dual Rays—the negative-positive Rays, the masculine-feminine Rays—this being the dual system.

Đối với hệ thống này, các cung chính sẽ luôn luôn là các cung nhị nguyên—các cung âm-dương, các cung nam-nữ—bởi đây là hệ thống nhị nguyên.

452. We live in a dual solar system—a system of Love and Wisdom.

452. Chúng ta đang sống trong một thái dương hệ nhị nguyên—một hệ của Bác Ái và Minh Triết.

453. We note that DK speaks of the “negative-positive Rays” and then (reversing the order) of the “masculine-feminine Rays”.

453. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK nói về “các cung tiêu cực-tích cực” rồi (đảo thứ tự) “các cung nam-nữ”.

454. Sometimes the order in which He presents words is a hint; sometimes, it is not.

454. Đôi khi thứ tự Ngài dùng là một ám chỉ; đôi khi không phải vậy.

The major Rays for system three will be those in triple manifestation.

Các cung chính cho hệ thứ ba sẽ là những cung biểu hiện theo dạng tam phân.

455. There are places in the Teaching where the first three rays are said to be in triple manifestation. If we reference DINA II 518, we will see how the dual second ray becomes triple; this method is, I think, applicable to the three Rays of Aspect.

455. Có những nơi trong Giáo huấn nói rằng ba cung đầu biểu hiện theo dạng tam phân. Nếu đối chiếu DINA II 518, chúng ta sẽ thấy cung Hai nhị phân trở thành tam phân như thế nào; phương thức này, tôi nghĩ, có thể áp dụng cho ba Cung Trạng Thái.

456. Were the “major Rays” for major System I unitary in manifestation?

456. Vậy các “cung chính” cho Hệ Chính yếu I có phải đã biểu hiện theo dạng nhất nguyên ?

457. Even when dealing with human psychology, we cannot ignore the duality of the major rays, or we will fail to identify different types of human beings who share the same ray.

457. Ngay cả khi làm việc với tâm lý học con người, chúng ta cũng không thể bỏ qua tính nhị nguyên của các cung chính, nếu không chúng ta sẽ không nhận ra được những kiểu loại khác nhau của con người tuy cùng chung một cung.

The following table may be found of interest, if regarded as relative, and as holding information for the present time, but also as being subject to change and circulation:

Bảng sau đây có thể được thấy là thú vị, nếu được xem như tương đối, và như mang thông tin cho thời điểm hiện tại, nhưng cũng tùy thuộc vào sự thay đổi và lưu chuyển:

458. While we cannot be sure, often, when DK discusses the “present time”, He means from the time of individualization until the “Judgment Day” in the middle of the fifth round of our chain and presumably on our fourth globe.

458. Dù chúng ta không thể chắc chắn, nhiều khi khi Chân sư DK nói về “thời điểm hiện tại”, Ngài muốn nói từ thời kỳ biệt ngã hóa cho đến “Ngày Phán Xét” vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm của Dãy chúng ta và có lẽ trên bầu thứ tư của chúng ta.

7 Rays Major 1-2-7 : Four subsidiary converging on the fifth.

7 Cung Chính 1-2-7: Bốn cung phụ hội tụ vào cung thứ năm.

459. By this, does He mean the fifth ray? Or does He mean that the seventh ray is the fifth ‘Ray of Brahma’, as has been earlier shown? Or can He also mean that rays four, five, six and seven converge upon ray three, which is, archetypally, the preeminent Brahmic ray (and the fifth when numbering from below)?

459. Với điều này, Ngài muốn nói cung thứ năm chăng? Hay Ngài muốn nói rằng cung bảy là ‘Cung thứ năm của Brahma’, như trước đó đã được nêu? Hoặc Ngài cũng có thể muốn nói rằng các cung bốn, năm, sáu và bảy hội tụ vào cung ba, vốn, về nguyên hình, là cung Brahma ưu thắng (và là cung thứ năm nếu đếm từ dưới lên)?

460. During the coming Age of Aquarius, the seventh ray will, as it were, represent the third, carrying out the Plan (foreseen by the third ray) in a manner concrete and physically accurate.

460. Trong Kỷ Bảo Bình sắp đến, cung bảy sẽ, như thể, đại diện cho cung ba, thi hành Thiên Cơ (được cung ba dự kiến) theo một cách cụ thể và chính xác trên cõi hồng trần.

7 Principles 3 Major Monad, Ego and Personality, synthesising at various stages the four subsidiary.

7 Nguyên khí 3 Chính: Chân thần, Chân ngã và Phàm ngã, tổng hợp ở các giai đoạn khác nhau bốn nguyên khí phụ.

461. Here we are speaking of the three “Periodical Vehicles”. In the various ways of enumerating principles (discussed from TCF 260-269), sometimes the vehicles listed here are considered principles and sometimes not.

461. Ở đây chúng ta đang nói về ba “Vận cụ Chu kỳ”. Trong các cách liệt kê nguyên khí khác nhau (được bàn từ TCF 260-269), đôi khi các vận cụ liệt kê ở đây được xem là nguyên khí và đôi khi không.

462. We find that atma, buddhi and manas (almost invariably listed as principles elsewhere) are not listed. Perhaps the term “Ego” (if we consider Ego as triadal) includes atma-buddhi-manas.

462. Chúng ta thấy rằng atma, bồ đề và manas (hầu như luôn được liệt là nguyên khí ở nơi khác) không được liệt kê. Có lẽ thuật ngữ “Chân ngã” (nếu chúng ta xét Chân ngã như thuộc Tam nguyên ) bao gồm atma-bồ đề-manas.

463. The “four subsidiary” would seem to be those which are included in the personality: lower manas, kama-manas, prana and etheric body (though there are several ways to number the principles included in the personality).

463. “Bốn nguyên khí phụ” dường như là những gì bao hàm trong phàm ngã: hạ trí, trí-cảm (kama-manas), prana và thể dĩ thái (dù có vài cách để đếm các nguyên khí nằm trong phàm ngã).

7 Chains Major 1-4-7

7 Dãy Chính 1-4-7

464. Reasons for considering these as major are not given. We note that these are the ‘Masonic’ numbers and pertain much to the work of Vulcan.

464. Lý do xem chúng là chính không được nêu. Chúng ta lưu ý rằng đây là những con số ‘Masonic’ và liên hệ nhiều với công việc của Vulcan.

465. From a structural point of view, they represent beginning, middle and end.

465. Xét về cấu trúc, chúng biểu trưng cho khởi đầu, giữa và kết.

466. We know that through our fourth chain, our Planetary Logos is presently taking a significant initiation—the fourth. But is this not true of all chains? If the Planetary Logos is taking a series of seven initiations (cf. TCF 384), does He not take one through or upon each chain?

466. Chúng ta biết rằng qua Dãy thứ tư của chúng ta, Hành Tinh Thượng đế hiện đang trải qua một cuộc điểm đạo quan trọng—lần thứ tư. Nhưng điều này chẳng phải đúng cho mọi Dãy sao? Nếu Hành Tinh Thượng đế trải qua một loạt bảy cuộc điểm đạo (x. TCF 384), há Ngài lại không trải qua một lần qua hay trên mỗi Dãy?

467. We can imagine the seventh chain (by the present enumeration, and in relation to our Planetary Logos—the Jupiter-chain) as being climactic for the development of our Planetary Logos in this Mahamanvantara.

467. Chúng ta có thể hình dung Dãy thứ bảy (theo cách đánh số hiện tại, và liên hệ với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta—tức Dãy Jupiter) như là đỉnh điểm cho sự phát triển của Hành Tinh Thượng đế chúng ta trong Đại giai kỳ sinh hóa này.

468. Our Planetary Logos is not really developing His monadic expression in this solar system, but rather His soul expression. Interestingly, Jupiter has the same soul ray as our Planetary Logos—namely, the second.

468. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta thực sự không phát triển biểu hiện chân thần của Ngài trong thái dương hệ này, mà là biểu hiện linh hồn của Ngài. Thú vị thay, Sao Mộc có cùng cung linh hồn với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta—tức cung hai.

7 Planes Major 2-5-7

7 Cõi Chính 2-5-7

469. The reasons are given above and related to the habitat of the Monad, the habitat of the Ego, and the field of expression for both, as Spirit/soul works its way to the densest plane, thus ensuring that the “Highest and the Lowest Meet”.

469. Lý do đã được nêu ở trên và liên hệ đến nơi cư ngụ của Chân thần, nơi cư ngụ của Chân ngã, và trường biểu hiện cho cả hai, khi Tinh thần/linh hồn dấn bước tới cõi đậm đặc nhất, nhờ đó bảo đảm rằng “Cao Nhất và Thấp Nhất Gặp Nhau”.

7 Manvantaras   Major 3-4-7

7 Manvantara Chính 3-4-7

470. Usually manvantaras are considered as rounds, so there is a hint here. The rounds discussed immediately below can well be chain rounds, for (at least in the case of rounds four and five) they concern developments occurring or to occur in our fourth and fifth chain rounds.

470. Thông thường manvantara được xem là các cuộc tuần hoàn, vì vậy ở đây có một ám chỉ. Các cuộc tuần hoàn được bàn ngay dưới đây có thể là các cuộc tuần hoàn-Dãy, vì (ít nhất trong trường hợp cuộc tuần hoàn bốn và năm) chúng liên quan đến những diễn tiến đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra trong các cuộc tuần hoàn Dãy thứ tư và thứ năm của chúng ta.

471. Then is it possible that the “manvantaras” here referenced are, in fact, ‘scheme rounds’? If so, then we are in the midst of a major manvantara or scheme round. It is pretty well established that Venus is in its fifth scheme round and (by inference) that the Earth-scheme in its fourth scheme round.

471. Vậy có khả năng rằng các “manvantara” được nêu ở đây thực ra là các ‘cuộc tuần hoàn hệ hành tinh ’? Nếu vậy, thì chúng ta đang ở giữa một manvantara hay cuộc tuần hoàn hệ hành tinh chính yếu. Khá vững chắc là Sao Kim đang trong cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ năm của nó và (suy ra) Địa cầu—hệ đang trong cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ tư .

472. The term “manvantara” is so variable that we must be very careful in assigning meaning to it. Sometimes it definitely means a chain round, but we see that DK has here discriminated it from a chain round—apparently.

472. Thuật ngữ “manvantara” biến hoá đến mức chúng ta phải rất cẩn trọng khi gán nghĩa cho nó. Đôi khi nó chắc chắn có nghĩa là cuộc tuần hoàn-Dãy, nhưng ở đây chúng ta thấy Chân sư DK dường như đã phân biệt nó với cuộc tuần hoàn-Dãy.

473. Also, there are solar manvantaras and planetary manvantaras. Sometimes the duration of an entire planetary scheme is called a manvantara. Sometimes the span of a lesser part a planetary scheme is a manvantara. Sometimes a “year of Brahma” is a manvantara.

473. Cũng có những manvantara thái dương và manvantara hành tinh. Đôi khi thời gian tồn tại của toàn bộ một hệ hành tinh được gọi là một manvantara. Đôi khi quãng đời của một phần nhỏ hơn trong một hệ hành tinh cũng là một manvantara. Đôi khi một “năm của Brahma” là một manvantara.

474. We must pause before drawing conclusions. Too little is yet known.

474. Chúng ta phải tạm ngưng trước khi kết luận. Còn biết quá ít.

7 Rounds Major 4-5-7

7 Cuộc tuần hoàn Chính 4-5-7

475. These are as listed above and the reasons are there given.

475. Những điều này đã được liệt ở trên và lý do đã được nêu.

7 Root races Major 3-5-7

7 Giống dân gốc Chính 3-5-7

476. These are also given above. There are two reasons applying to each root race for designating it as a major root race. When speaking of root races we cannot forget that they exist on more than one globe and perhaps simultaneously. In this context, however, DK seems to be speaking of our particular globe, the Earth-globe.

476. Những điều này cũng được nêu trên. Có hai lý do áp dụng cho mỗi giống dân gốc để gọi nó là giống dân gốc chính. Khi nói về các giống dân gốc, chúng ta không thể quên rằng chúng tồn tại trên nhiều bầu và có thể đồng thời. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, Chân sư DK dường như đang nói về bầu đặc thù của chúng ta, bầu Địa cầu.

477. It is, however, interesting to note that the three major globes in the Earth-chain (gathering that the larger globes depicted in Chart VII are the major ones) are globes three, five and seven. In this case the Chart confirms what is here given.

477. Tuy vậy, điều thú vị là ba bầu chính trong Dãy Địa cầu (suy rằng các bầu lớn hơn mô tả trong Biểu đồ VII là các bầu chính) là bầu ba, năm và bảy. Trong trường hợp này, Biểu đồ xác nhận điều được nêu ở đây.

7 Sub races Major 1-5-6

7 Giống dân phụ Chính 1-5-6

478. We need to know whether we are speaking of sub-races of the third, fourth or fifth root race. Probably, it will be a good bet to think in terms of the fifth root race (of which we know a little something).

478. Chúng ta cần biết rằng đang nói về các giống dân phụ của giống dân gốc thứ ba, thứ tư hay thứ năm. Có lẽ, một phỏng đoán tốt là nghĩ đến giống dân gốc thứ năm (về nó chúng ta biết được đôi điều).

a. The first subrace is the Aryan. The principles guiding the fifth root race were laid down in this first subrace. The link between Spirit and mind was strongly cultivated.

a. Giống dân phụ thứ nhất là Arya. Những nguyên tắc dẫn dắt giống dân gốc thứ năm được đặt ra trong giống dân phụ thứ nhất này. Mối liên hệ giữa Tinh thần và trí được bồi dưỡng mạnh mẽ.

b. The fifth subrace is the Teutonic. In this subrace the development of manas, per se, reaches it apotheosis.

b. Giống dân phụ thứ năm là Teutonic. Trong giống dân phụ này, sự phát triển của manas, tự thân nó, đạt đến tột đỉnh.

c. The sixth subrace has no immediate name, but will be developing the abstract mind, we are told.

c. Giống dân phụ thứ sáu chưa có tên gọi tức thời, nhưng sẽ phát triển trí trừu tượng, như chúng ta được cho biết.

7 Initiations Major 1 4 5 if viewed from the angle of human attainment, and 1-5-7 if viewed from a higher.

7 Điểm đạo Chính 1 4 5 nếu nhìn từ góc độ thành tựu của nhân loại, và 1-5-7 nếu nhìn từ một góc độ cao hơn.

479. From the human perspective:

479. Từ viễn kiến nhân loại:

a. The first initiation admits into the “Kingdom of Souls”. It signifies as major step—a change of Kingdom

a. Điểm đạo thứ nhất cho nhập vào “Vương quốc của Linh hồn”. Nó biểu thị một bước chuyển lớn—một sự đổi Giới.

b. The fourth initiation detaches from all further need for incarnation in the three worlds.

b. Điểm đạo thứ tư tách rời khỏi mọi nhu cầu tái sinh trong ba cõi.

c. The fifth initiation sees the consummation of human development and prepares for entry into the Kingdom of Planetary Lives.

c. Điểm đạo thứ năm thấy sự viên mãn của phát triển nhân loại và chuẩn bị cho việc bước vào Vương quốc của các Sự sống Hành tinh.

480. Which perspective is the “higher” one of which DK speaks? Is it a planetary perspective?

480. Viễn kiến “cao hơn” mà Chân sư DK nói tới là viễn kiến nào? Đó có phải là viễn kiến hành tinh ?

481. We note that initiations one and five are still included in this higher perspective. They represent the entry into the “Kingdom of Souls” and the consummation of participation in this Kingdom—Mastership.

481. Chúng ta lưu ý rằng các điểm đạo một và năm vẫn được bao gồm trong viễn kiến cao hơn này. Chúng tượng trưng cho sự nhập vào “Vương quốc của Linh hồn” và sự hoàn mãn của sự tham dự trong Vương quốc này—Bậc Thầy.

482. From another perspective, the fifth initiation represents the beginning of participation as a first degree initiate in the Lodge of Sirius. From the perspective of the Planetary Logos, the fifth initiation of a human being is a planetary event.

482. Từ một viễn kiến khác, điểm đạo thứ năm tượng trưng cho khởi đầu sự tham dự như một đệ tử nhất bậc trong Thánh đoàn Sirius. Từ viễn kiến của Hành Tinh Thượng đế, điểm đạo thứ năm của một con người là một biến cố hành tinh .

483. The seventh initiation is a kind of transfiguration with respect to the Sirian Lodge. It may also admit a developing Chohan into contact with the Logos of the Seven Solar Systems of Which Ours is One. Certainly, it increases his degree of spiritual intimacy with our own Solar Logos.

483. Điểm đạo thứ bảy là một dạng biến hình đối với Thánh đoàn Sirius. Nó cũng có thể cho một vị Chohan đang phát triển được tiếp xúc với vị Thượng đế của Bảy Thái dương Hệ mà hệ của chúng ta là một. Chắc chắn, nó tăng mức độ thân mật tinh thần của y với chính Thái dương Thượng đế của chúng ta.

484. We could say that with the seventh initiation, the Planetary Logos has one more point of expression for conducting solar purpose into Shamballa and the planet. The seventh initiation is a solar Love-Wisdom initiation.

484. Chúng ta có thể nói rằng với điểm đạo thứ bảy, Hành Tinh Thượng đế có thêm một điểm biểu lộ nữa để dẫn thái dương mục đích vào Shamballa và hành tinh. Điểm đạo thứ bảy là một điểm đạo về Bác Ái–Minh Triết thái dương.

485. Still, we do not know what the term “higher” means? Is it from the perspective of the globe, or chain, or scheme, or it is a solar perspective.

485. Dẫu vậy, chúng ta vẫn không biết thuật ngữ “cao hơn” có nghĩa gì? Đó là từ viễn kiến của bầu, hay của Dãy, hay của hệ hành tinh, hay là một viễn kiến thái dương.

Scroll to Top