Bình giảng về Lửa Vũ Trụ S6S12 (721-732)

Đọc các trang Cosmic Fire liên quan ở đây

TCF 721-732 : S6S12

08 March–22 March 2008

08 Tháng Ba–22 Tháng Ba 2008

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16 để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong lớp. Chú thích và tham chiếu từ các Sách AAB khác và từ các trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Lời bình xuất hiện ở cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph. So please read an entire paragraph and then study the analysis.

Đề nghị đọc Bản Bình Giải này kèm theo sách TCF ở ngay bên cạnh, vì lợi ích của tính liên tục. Khi phân tích văn bản được triển khai, nhiều đoạn văn được chia nhỏ, và cách trình bày chặt trong chính cuốn sách sẽ truyền đạt ý nghĩa tổng quát của đoạn văn. Vì vậy, xin hãy đọc trọn một đoạn rồi mới nghiên cứu phần phân tích .

1. We begin work upon a subject of great interest—a study of higher Beings Who have descended into lower energy fields with the sole purpose of aiding those energy fields and those whose life is localized in such fields.

1. Chúng ta bắt đầu công việc trên một đề tài đầy hứng thú—một khảo cứu về các Đấng Cao Cả đã giáng vào các trường năng lượng thấp hơn với mục đích duy nhất là trợ giúp các trường năng lượng ấy và những ai có sự sống được định vị trong các trường đó.

              (d.) Avatars, Their nature and Their Work.  We have, in our discussion above, connected the phenomenon of indivi­dualisation with the appropriation by the Logos, or by a planet­­­ary Logos, of Their dense physical vehicles, [722] and Their self-conscious existence through the medium of the physical body. 

(d.) Các Đấng Hoá Thân, bản tính và Công trình của Các Ngài. Trong thảo luận ở trên, chúng ta đã liên kết hiện tượng biệt ngã hóa với sự tiếp nhận bởi Thượng đế, hay bởi một Hành Tinh Thượng đế, các vận cụ thể xác đậm đặc của Các Ngài, [722] và sự hiện hữu tự tâm thức của Các Ngài thông qua vận cụ thể xác.

2. DK speaks of a definite connection which we should have noticed as a result of our studies of the previous section. There is a close connection between individualization and appropriation.

2. DK nói về một nối kết xác định mà chúng ta lẽ ra phải chú ý như kết quả của các nghiên cứu ở phần trước. Có một liên kết mật thiết giữa biệt ngã hóa và sự tiếp nhận.

3. Through the process of individualization, the individualizing being appropriates a physical body and achieves self-conscious existence through the medium of that physical body.

3. Thông qua tiến trình biệt ngã hóa, thực thể đang biệt ngã hóa tiếp nhận một thể xác hồng trần và đạt hiện hữu tự tâm thức thông qua vận cụ thể xác ấy.

A very difficult and mysterious subject might be touched upon here,—that of AVATARS, and though it will not be possible for us to expound it fully, as it is one of the most occult and secret of the mysteries, perhaps a little light may be thrown upon this profound subject.

Một chủ đề rất khó và huyền bí có thể được chạm đến ở đây,—đó là về CÁC ĐẤNG HOÁ THÂN, và tuy sẽ không thể trình bày đầy đủ, vì đây là một trong những huyền nhiệm bí ẩn và kín nhiệm nhất, có lẽ chút ít ánh sáng có thể được chiếu rọi lên đề tài thâm sâu này.

4. The process of what we might call ‘descent from above’ appears to be shrouded in mystery. Perhaps, in general, the whole process of descent or ascent is thus shrouded.

4. Tiến trình mà chúng ta có thể gọi là “giáng lâm từ thượng giới” dường như được che phủ bởi huyền nhiệm. Có lẽ, nói chung, toàn bộ tiến trình hạ giáng hay thăng thượng đều như vậy.

For purposes of clarity and in order to elucidate a matter of extreme difficulty to the occidental mind

Để cho rõ ràng và nhằm minh giải một vấn đề cực kỳ khó đối với tâm thức Tây phương

5. The occidental mind is simply not used to think with sufficient subtlety to grasp the true nature of such a doctrine.

5. Tâm thức Tây phương đơn giản là chưa quen tư duy đủ tinh tế để nắm bắt đúng bản chất của một giáo lý như thế.

above all (on ac­count of the fact that it has not yet grasped the rationale of the process of reincarnation),

trước hết (vì lý do là nó vẫn chưa nắm được nền tảng hợp lý của tiến trình tái sinh),

6. It is not sufficient to believe in reincarnation (which is now the case with an increasing number of individuals in the West). One must grasp why it is a reasonable and probable doctrine.

6. Chỉ tin vào tái sinh (điều hiện nay ngày càng có nhiều người ở phương Tây chấp nhận) là chưa đủ. Cần phải nắm được vì sao đó là một giáo lý hợp lý và có xác suất.

7. We can understand that the Doctrine of Avatars has much to do with coming into the “flesh” and departing, at will, therefrom.

7. Chúng ta có thể hiểu rằng Giáo lý về các Đấng Hoá Thân có liên hệ mật thiết với việc “nhập vào xác phàm” và rời khỏi đó theo ý chí.

it would be wise to divide the differing types of avatars into five groups, bearing in mind that every avatar is a Ray, emanated from a pure spiritual source,

sẽ khôn ngoan nếu phân chia các loại hoá thân khác nhau thành năm nhóm, ghi nhớ rằng mọi hoá thân đều là một Cung, được xuất lộ từ một nguồn tinh thần thuần khiết,

8. This is an important conception—that “every avatar is a Ray”. In essence we are all Rays of the ONE RAY of the ABSOLUTE which ‘FLASHED FORTH’ at Manvantaric Dawn.

8. Đây là một quan niệm quan trọng—rằng “mọi hoá thân đều là một Cung”. Về bản thể, tất cả chúng ta đều là những Cung của CUNG DUY NHẤT của Đấng Tuyệt Đối vốn đã “LOÉ PHÁT” vào lúc bình minh của Giai kỳ sinh hóa.

9. A Ray goes forth from a Hierarchy. A Ray (as the term is here used) is an extension of the presence and influence of a particular Hierarchy within a particular vibratory sphere ‘lower’ than the vibratory sphere from which the presence or influence emanated.

9. Một cung phóng xuất từ một Huyền Giai. Một cung (theo nghĩa dùng ở đây) là sự mở rộng của hiện diện và ảnh hưởng của một Huyền Giai nào đó vào trong một trường rung động “thấp” hơn trường rung động từ đó hiện diện hay ảnh hưởng ấy xuất lộ.

10. In short and in other language, a Ray is an emanation.

10. Nói gọn, theo ngôn ngữ khác, một cung là một sự xuất lộ.

11. DK tells us that the Avatar/Ray emanates from a “pure spiritual source”. The word “pure” is related to “fire” and “fire” to “being”. When considering the archetype of the avatar, we are speaking of the emanation of an existential essence—a ray of pure being.

11. DK cho biết Đấng Hoá Thân/Cung xuất lộ từ một “nguồn tinh thần thuần khiết”. Từ “thuần khiết” liên hệ với “lửa” và “lửa” liên hệ với “bản thể”. Khi xét đến mẫu nguyên của một Đấng Hoá Thân, chúng ta đang nói về sự xuất lộ của một bản tính hiện hữu —một tia của bản thể thuần khiết.

and that a self-conscious entity only earns the right to this peculiar form of work through a previous series of lives of achievement.

và rằng chỉ một thực thể tự tâm thức mới đạt được quyền thi hành hình thức công việc đặc biệt này sau một loạt đời sống thành tựu trước đó.

12. All avatars are self-conscious entities. Their emanation or descent is purposeful.

12. Mọi hoá thân đều là những thực thể tự tâm thức. Sự xuất lộ hay giáng nhập của Các Ngài là có mục đích.

13. In a way, every Jiva who has achieved self-consciousness is an avatar to the lower worlds through which it expresses. The Jiva went forth as an emanation from the Monad.

13. Ở một nghĩa nào đó, mỗi jiva đã đạt tự tâm thức đều là một hoá thân đối với các cõi thấp mà nó biểu lộ qua. Jiva đã phóng đi như một xuất lộ từ Chân Thần.

1. Cosmic Avatars.

1. Các Đấng Hoá Thân Vũ trụ.

2. Solar Avatars.

2. Các Đấng Hoá Thân Thái dương.

3. Inter-planetary Avatars.

3. Các Đấng Hoá Thân Liên hành tinh.

4. Planetary Avatars.

4. Các Đấng Hoá Thân Hành tinh.

5. Human Avatars.

5. Các Đấng Hoá Thân Nhân loại.

14. We can see that the scope of ‘avataric raying-forth’ is immense and we are touching only the fringe of this great subject.

14. Chúng ta có thể thấy tầm mức của “tia hoá thân” là vô cùng lớn và chúng ta mới chỉ chạm đến viền rìa của đề tài vĩ đại này.

As just said, an avatar is a Ray of effulgent and perfected glory, clothing itself in matter for the purpose of service.

Như vừa nói, một hoá thân là một Cung của vinh quang rực rỡ và đã viên mãn, tự khoác lấy chất liệu để phụng sự.

15. This is a beautiful definition. It suggests that avatars descend from a realm of glorious light.

15. Đây là một định nghĩa tuyệt đẹp. Nó gợi rằng các Đấng Hoá Thân giáng từ một cảnh giới của quang huy rạng rỡ.

16. We wonder whether it would apply to all avatars or only to those of the most exalted rank. Could, for instance, a human avatar be defined in such a manner?

16. Chúng ta tự hỏi liệu định nghĩa này có áp dụng cho mọi hoá thân hay chỉ cho những vị có cấp bậc tối tôn. Thí dụ, một hoá thân nhân loại có thể được định nghĩa theo cách ấy chăng?

17. We may say this, however: that compared to the light value of the realm into which the avatar descends, the realm from which the avatar descends is one of effulgence and glory. The avatar/ray carries that glory and, actually, is that glory.

17. Tuy nhiên, ta có thể nói điều này: so với giá trị quang minh của cảnh giới mà hoá thân giáng vào, thì cảnh giới từ đó hoá thân giáng xuống là cảnh giới của rực rỡ và vinh quang. Đấng hoá thân/cung mang theo vinh quang ấy và, thực sự, chính là vinh quang ấy.

18. A “Ray” is a bridge between worlds—in this context, a higher and lower world.

18. Một “Cung” là chiếc cầu giữa các thế giới—trong ngữ cảnh này, một thế giới cao và một thế giới thấp.

All avatars in the strict sense of the word are liberated souls, but the cosmic and solar avatars are liberated from the two lower planes of the cosmic planes.

Mọi hoá thân theo nghĩa nghiêm ngặt đều là những linh hồn giải thoát, nhưng các hoá thân vũ trụ và Thái dương thì được giải thoát khỏi hai cõi thấp của các cõi vũ trụ.

19. We are given the minimum requirement if one is to be an avatar; one must be, minimally, a “liberated soul”. From this perspective, Abraham Lincoln as a racial avatar was a “liberated soul”.

19. Chúng ta được cho biết tiêu chuẩn tối thiểu nếu muốn là một hoá thân; người ta phải, tối thiểu, là một “linh hồn giải thoát”. Từ góc độ này, Abraham Lincoln như một hoá thân chủng tộc là một “linh hồn giải thoát”.

20. The highest ranking avatars listed above are cosmic and solar avatars. They are of so exalted rank that they have been liberated from both the cosmic physical plane and cosmic astral plane.

20. Các hoá thân có cấp bậc cao nhất được liệt kê ở trên là các hoá thân vũ trụ và Thái dương. Các Ngài có cấp bậc siêu tôn đến mức đã được giải thoát khỏi cả cõi hồng trần vũ trụ và cõi cảm dục vũ trụ.

21. One can wonder whether our Planetary Logos has been liberated from the cosmic astral plane since, apparently, He still has much to master on that exalted level.

21. Ta có thể tự hỏi liệu Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đã được giải thoát khỏi cõi cảm dục vũ trụ hay chưa, vì hiển nhiên Ngài vẫn còn nhiều điều phải lĩnh hội ở cảnh giới tôn diệu đó.

22. Can we think that cosmic and solar avatars are of higher rank than even Solar Logoi, or at least than our Solar Logos, as our Solar Logos is still polarized on the cosmic astral plane.

22. Liệu chúng ta có thể nghĩ rằng các hoá thân vũ trụ và Thái dương có cấp bậc cao hơn cả các Thái dương Thượng đế, hay ít ra là cao hơn Thái dương Thượng đế của chúng ta , bởi Thái dương Thượng đế của chúng ta vẫn đang phân cực ở cõi cảm dục vũ trụ.

While the planetary and the interplanetary avatars are liber­ated from the cosmic physical plane, our systemic planes, the human avatar has achieved freedom from the five planes of human endeavour.

Trong khi các hoá thân hành tinh và liên hành tinh thì được giải thoát khỏi cõi hồng trần vũ trụ , tức các cõi hệ thống của chúng ta, thì hoá thân nhân loại đã đạt tự do khỏi năm cõi của nỗ lực nhân loại.

23. We see that interplanetary and planetary avatars are of a higher rank than human avatars, which stands to reason.

23. Ta thấy rằng các hoá thân liên hành tinh và hành tinh có cấp bậc cao hơn hoá thân nhân loại, điều đó là hợp lý.

24. We note that the members of the  Fifth Creative Hierarchy (on the verge of liberation from the cosmic physical plane) is not yet liberated. This gives us some appreciation for the rank of planetary and inter-planetary avatars.

24. Chúng ta ghi nhận rằng các thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm (đang trên ngưỡng cửa giải thoát khỏi cõi hồng trần vũ trụ) vẫn chưa được giải thoát. Điều này giúp ta phần nào ước lượng phẩm cấp của các hoá thân hành tinh và liên hành tinh.

25. The five planes of human endeavor extend to and through the atmic plane. Although, for instance, Abraham Lincoln has been designated in our Teaching as a “racial avatar” (and was certainly a human being), it would not be warranted to say that he had “achieved freedom from the five planes of human endeavour” and was thus a “human avatar” in the sense specified above.

25. Năm cõi của nỗ lực nhân loại trải lên đến tận cõi atma. Mặc dù, thí dụ, Abraham Lincoln đã được giáo huấn gọi là “hoá thân chủng tộc” (và chắc chắn là một con người), thì cũng không thể khẳng quyết rằng ông đã “đạt tự do khỏi năm cõi của nỗ lực nhân loại” và do đó là một “hoá thân nhân loại” theo nghĩa xác định ở trên.

26. Perhaps a “human avatar” is, strictly speaking, in a category above that of “racial avatar”.

26. Có lẽ “hoá thân nhân loại”, nói nghiêm ngặt, thuộc một loại cao hơn “hoá thân chủng tộc”.

27. From this perspective, all Chohans are avatars in as much as They have achieved liberation from the five lower worlds.

27. Từ góc độ này, mọi Chohan đều là hoá thân bởi Các Ngài đã đạt giải thoát khỏi năm cõi thấp.

In a strictly technical and lower sense, a Master in physical plane incarnation is a type of avatar, for He is a “freed soul” and therefore only chooses to incarnate for specific purpose, but we [723] will not deal with Them.

Theo nghĩa kỹ thuật và hạ tầng nghiêm ngặt, một Chân sư trong lâm phàm hồng trần cũng là một loại hoá thân, vì Ngài là một “linh hồn tự do” và do đó chỉ chọn lâm phàm vì mục đích riêng, nhưng chúng ta [723] sẽ không đề cập đến Các Ngài.

28. Master DK “lowers the bar” somewhat when naming a Master of the Wisdom as an avatar. While a Master is a “freed soul”, He focuses His consciousness on the atmic plane and not, specifically, on the monadic plane (although He certainly has considerable access to monadic energy). Only a Chohan focuses or polarizes His consciousness ‘above’ the atmic plane.

28. Chân sư DK “hạ nhẹ tiêu chuẩn” đôi chút khi gọi một Chân sư Minh triết là một hoá thân. Dẫu một Chân sư là “linh hồn tự do”, Ngài tập trung tâm thức trên cõi atma chứ không, một cách đặc thù, trên cõi chân thần (dù hẳn Ngài có sự tiếp cận đáng kể với năng lượng chân thần). Chỉ có một Chohan mới tập trung hay phân cực tâm thức “trên” cõi atma.

29. Of course, it must be remembered that the atmic plane is still involved in the initiation process of sixth and seventh degree initiates

29. Tất nhiên, cần nhớ rằng cõi atma vẫn còn liên hệ với tiến trình điểm đạo của các vị điểm đạo đồ bậc sáu và bảy.

30. We are leaning that a Master may definitely incarnate. Will that incarnation be only through a mayavirupa or can the natural processes of incarnation be pursued by one so elevated as a Master? The latter type of manifestation would seem a waste of time.

30. Chúng ta đang hiểu rằng một Chân sư chắc chắn có thể lâm phàm. Liệu lần lâm phàm ấy chỉ thông qua một mayavirupa hay một vị cao như Chân sư vẫn có thể theo các tiến trình lâm phàm tự nhiên? Kiểu biểu lộ sau có vẻ lãng phí thời gian.

31. In any case, for a Master, incarnation is a matter of choice and not of compulsion.

31. Dù thế nào, đối với một Chân sư, lâm phàm là vấn đề chọn lựa chứ không phải cưỡng bức.

Let us again subdivide these groups so as still further to clarify our ideas:

Chúng ta hãy một lần nữa phân chia các nhóm này để tiếp tục làm sáng tỏ hơn các ý niệm của chúng ta:

32. This, of course, is the fifth ray method.

32. Đây, tất nhiên, là phương pháp cung năm.

1. Cosmic Avatars:  They represent embodied force from the following cosmic centres among others:

1 . Các Đấng Hoá Thân Vũ trụ : Các Ngài đại diện cho lực được hiện thân từ những trung tâm vũ trụ sau, trong số các trung tâm khác:

33. The sources of such Avatars are great stars and starry systems.

33. Nguồn của những Hoá thân như thế là các ngôi sao và các hệ sao vĩ đại.

a. Sirius.

a. Sirius.

34. We have been told that a Being from Sirius has visited our solar system once.

34. Chúng ta đã được cho biết rằng một Vị từ Sirius đã ghé thăm hệ Thái dương của chúng ta một lần.

b. That one of the seven stars of the Great Bear which is ensouled by the prototype of the Lord of our third major Ray.

b. Ngôi sao trong bảy ngôi của Đại Hùng Tinh vốn được “phú linh” bởi nguyên mẫu của Đấng Chúa Tể Cung chính thứ ba của chúng ta.

35. This would be the star, Alioth—a star involved in some form of misalignment which is a doorway for the entry of cosmic evil into our solar system.

35. Đây hẳn là sao Alioth—một ngôi sao liên can đến một hình thức “lệch chỉnh hợp” nào đó, vốn là cánh cửa cho sự xâm nhập của ác tính vũ trụ vào hệ Thái dương của chúng ta.

36. The stars of the Great Bear are sources even more mighty than Sirius, though, physically, farther away from our system and, thus, perhaps, less immediately influential.

36. Các sao của Đại Hùng Tinh còn là những nguồn lực hùng mạnh hơn cả Sirius, dù về mặt vật lý ở xa hệ của chúng ta hơn và vì thế có lẽ ít ảnh hưởng tức thời hơn.

c. Our cosmic centre.

c. Trung tâm vũ trụ của chúng ta.

37. This is a vague term. It can mean Alcyone around which our solar system revolves. Or it can mean the Pleiades as a whole. In any case, the Pleiades are the ‘Hub of the Wheel’, and very reasonably the starry system which physically represents the “One About Whom Naught May Be Said”—our Super-Cosmic Logos.

37. Đây là một thuật ngữ mơ hồ. Nó có thể là Alcyone quanh đó hệ Thái dương của chúng ta quay. Hoặc nó có thể là toàn bộ Thất Nữ. Dù sao, Thất Nữ là “Trục của Bánh Xe”, và rất có lý là hệ sao tượng trưng cho “Đấng Bất Khả Tư Nghị”—Thượng đế Siêu vũ trụ của chúng ta.

They represent entities as far removed from the conscious­ness of Man, as man is from the consciousness of the atom of substance.

Các Ngài đại diện cho các thực thể cách xa tâm thức của Con Người như con người cách xa tâm thức của nguyên tử chất liệu vậy.

38. All of them?

38. Tất cả Các Ngài ư?

39. If our “cosmic center” is the star, Alcyone, then the scale is preserved. If our cosmic center is the Pleiades as a whole, then there would be a vast difference in scale between Sirius and Alioth (on the one hand) and the entirety of the Pleiades on the other.

39. Nếu “trung tâm vũ trụ” của chúng ta là sao Alcyone, thì tỷ lệ được giữ. Nếu “trung tâm vũ trụ” của chúng ta là toàn bộ Thất Nữ, thì sẽ có một khác biệt mênh mông về tỷ lệ giữa Sirius và Alioth (một bên) và toàn thể Thất Nữ (bên kia).

40. We should pause and consider the scale suggested. The consciousness of man is as minute when compared to the consciousness of Sirius or Alioth as the consciousness of an atom is minute when compared with the consciousness of man.

40. Chúng ta nên dừng lại và suy xét tỷ lệ được gợi ra. Tâm thức của con người nhỏ bé đến mức khi so với tâm thức của Sirius hay Alioth thì cũng nhỏ như tâm thức của một nguyên tử khi so với tâm thức con người vậy.

41. The analogy can remain a generality, or we can begin counting intervening kingdoms to become more specific about the ‘distance’ between these E/entities.

41. Phép loại suy có thể được giữ ở mức tổng quát, hoặc chúng ta có thể bắt đầu đếm các giới trung gian để cụ thể hóa hơn nữa “khoảng cách” giữa các Vị/Thực thể này.

Thousands of those great cycles which we call “a hundred years of Brahma” have passed since They approximated the human stage, and They embody force and consciousness which is concerned with the intelligent co-ord­ination of the starry Heavens.

Hàng ngàn những đại chu kỳ mà chúng ta gọi là “trăm năm của Brahma” đã trôi qua kể từ khi Các Ngài xấp xỉ giai đoạn nhân loại, và Các Ngài hiện thân cho mãnh lực và tâm thức liên quan đến sự phối hợp thông minh của những Tinh không.

42. As great as these Beings may be, we are speaking only of the local starry heavens.

42. Dù Các Ngài vĩ đại đến đâu, chúng ta đang nói chỉ về các tinh không địa phương .

43. How much greater than are Solar Logos are the Logoi of Sirius, Alioth and perhaps, Alcyone? Are they many times greater?

43. Liệu các Thượng đế của Sirius, Alioth và có lẽ Alcyone lớn lao hơn Thái dương Thượng đế của chúng ta đến mức nào? Có phải là nhiều lần lớn hơn?

44. Are these Beings composite-Beings or are They unitary? Is but One Monad involved in Their Identity, or are They an amalgam of ‘many Monads-as-One’? These are very difficult metaphysical questions. There is much to recommend that latter option.

44. Các Ngài là Nhất thể hay Hợp thể ? Bản Ngã của Các Ngài là chỉ một Chân Ngã hay là một tổng hợp “nhiều Chân Ngã-trong-Một”? Đây là những câu hỏi siêu hình rất khó. Có nhiều điều ủng hộ khả năng sau.

45. We usually do not think that thousands of mahamanvantaras have past since our Solar Logos approximated the human stage of development. Why should Solar Logois working through stars (such as Sirius and Alioth, for instance) which are, at least, somewhat comparable to our Sun be so much greater or older than the Solar Logos Who works through our Sun?

45. Chúng ta thường không nghĩ rằng hàng ngàn Đại giai kỳ sinh hóa đã trôi qua kể từ khi Thái dương Thượng đế của chúng ta xấp xỉ giai đoạn nhân loại. Vì sao các Thượng đế Thái dương vận dụng qua những ngôi sao (như Sirius và Alioth, chẳng hạn) vốn ít nhất cũng phần nào tương đương với Mặt Trời của chúng ta, lại lớn lao hoặc cổ xưa hơn vị Thượng đế Thái dương vận dụng qua Mặt Trời của chúng ta đến thế?

46. Of course, if we are speaking about the “One About Whom Naught May Be Said”, Who may be working through all the Pleiades, then the comparison involving thousands of mahamanvantaras or occult centuries makes more sense.

46. Tất nhiên, nếu chúng ta đang nói về “Đấng Bất Khả Tư Nghị”, Đấng có thể vận dụng qua toàn thể Thất Nữ, thì so sánh liên quan đến hàng ngàn Đại giai kỳ sinh hóa hay “thế kỷ huyền môn” mới có ý nghĩa.

47. Presumably these many mahamanvantaras have all taken place within our present universe, for there is no reason to suspect that the specific B/beings found in the entirety of our universe would survive in similar forms from universe to universe.

47. Có lẽ nhiều Đại giai kỳ sinh hóa ấy đã diễn ra trong vũ trụ hiện tại của chúng ta, vì không có lý do gì nghi ngờ rằng các B/Thực thể đặc thù trong toàn thể vũ trụ hiện tại của chúng ta sẽ tồn tại với các hình thức tương tự từ vũ trụ này sang vũ trụ khác.

48. Therefore, we are also being told something about the age of the universe. A mahamanvantara is an occult century or hundred years of Brahma—311,040,000,000,000 Earth years—so the ancient chronology informs us. If we add three more zeros (a minimal figure considering that the word “thousands”—a plural—was used) we get not 311 trillion (plus) but 311 quintillion (plus). And we are, relatively speaking, focusing on very minor Deities!

48. Do đó, chúng ta cũng được cho biết điều gì đó về tuổi của vũ trụ. Một Đại giai kỳ sinh hóa là một “thế kỷ huyền môn” hay “trăm năm của Brahma”—311.040.000.000.000 năm Trái Đất—theo niên biểu cổ truyền. Nếu chúng ta thêm ba chữ số không (con số tối thiểu vì từ “hàng ngàn”—dạng số nhiều—đã được dùng) thì chúng ta có không phải 311 nghìn tỷ (cộng) mà là 311 tỷ tỷ (cộng). Và, tương đối mà nói, chúng ta đang tập trung vào những Thần Linh “nhỏ”!

49. We can see that these durations suggest an immense age for our present universe—an age which dwarfs all present scientific estimates. Modern science considers the universe to be about fifteen billion years old. The estimates suggested here are, minimally, hundreds of millions times greater.

49. Chúng ta có thể thấy rằng những khoảng thời gian này gợi ra một độ tuổi khổng lồ cho vũ trụ hiện tiền của chúng ta—một tuổi tác làm lu mờ mọi ước lượng khoa học hiện đại. Khoa học hiện đại xem vũ trụ khoảng mười lăm tỷ năm tuổi. Những ước lượng được gợi ở đây, tối thiểu, lớn hơn hàng trăm triệu lần.

50. DK is quite specific about the duration of which He is speaking. He does not simply speak of “manvantaras” (which appear to be variable periods) or “mahamanvantaras” (which could, from certain points of view, be considered smaller than occult centuries). No—He speaks of the cycle known as “a hundred years of Brahma”, and the duration of that period is definitely specified in the Teaching.

50. DK nói rất cụ thể về chu kỳ mà Ngài đề cập. Ngài không chỉ nói về “giai kỳ sinh hóa” (dường như có độ dài biến thiên) hay “Đại giai kỳ sinh hóa” (từ một góc nhìn nào đó có thể được xem là nhỏ hơn “thế kỷ huyền môn”). Không—Ngài nói đến chu kỳ được biết là “trăm năm của Brahma”, và độ dài của chu kỳ đó được giảng huấn xác định rõ.

51. Obviously, a tremendous adjustment of ideas about time-scale will soon become necessary.

51. Hiển nhiên, một sự hiệu chỉnh khổng lồ về tỷ lệ thời gian sắp cần thiết.

They have achieved all that man can conceive of as the tran­s­cendence of will, of love and of intelligence,

Các Ngài đã thành tựu tất cả những gì con người có thể quan niệm như là sự siêu việt của ý chí, của tình thương và của trí tuệ,

52. Given Their age and experience, this would be a foregone conclusion.

52. Với tuổi đời và kinh nghiệm của Các Ngài, điều này là tất yếu.

and in the syn­the­sis of those three have added qualities and vibrations for which we have no terms, and which cannot be visioned by even our highest adepts.

và trong sự tổng hợp của ba điều ấy Các Ngài đã gia thêm những phẩm tính và tần số mà chúng ta không có thuật ngữ nào để gọi tên, và điều mà ngay cả các chân sư cao nhất của chúng ta cũng không thể hình dung.

53. Through synthesis, new qualities appear.

53. Thông qua tổng hợp, các phẩm tính mới xuất hiện.

54. There are possible qualities and vibrations which, to man, are literally inconceivable. DK has noted this fact at several points in the Teaching.

54. Có những phẩm tính và những tần số mà đối với con người, quả thực là bất khả tư nghị . DK đã ghi nhận thực tế này ở nhiều chỗ trong Giáo huấn.

Their appearance in a solar sys­tem is very unusual, and is only recognised on the highest two planes.

Sự xuất hiện của Các Ngài trong một hệ Thái dương là điều rất hy hữu, và chỉ được nhận biết trên hai cõi cao nhất.

55. Our two highest planes are the systemic logoic and monadic planes.

55. Hai cõi cao nhất của chúng ta là cõi logoic hệ thống và cõi chân thần hệ thống.

56. DK is telling us that cosmic and solar avatars will not be recognized on the five planes of Brahma, which include the planes on which a Master functions.

56. DK cho biết rằng các hoá thân vũ trụ và Thái dương sẽ không được nhận biết trên năm cõi của Brahma, vốn bao gồm cả các cõi mà một Chân sư vận hành.

Yet, owing to the material nature of our solar system, Their advent is literally the appearance in a physical form of a spiritual Being Who is fully conscious.

Tuy nhiên, do bản chất vật chất của hệ Thái dương của chúng ta, Sự giáng lâm của Các Ngài là thực sự sự xuất hiện trong một hình thể vật chất của một Đấng Tinh thần hoàn toàn tỉnh giác.

57. On what levels will such physical forms be found, if these avatars are only recognized on our two highest systemic planes?

57. Ở những bình diện nào các hình thể “vật chất” như thế sẽ được tìm thấy, nếu các hoá thân này chỉ được nhận biết trên hai cõi hệ thống cao nhất của chúng ta?

58. From one perspective, any appearance within our solar system (on any of the seven planes of that solar system) would be a material appearance.

58. Từ một góc nhìn, bất kỳ sự xuất hiện nào trong hệ Thái dương của chúng ta (trên bất kỳ cõi nào của hệ ấy) cũng là một sự xuất hiện vật chất .

Such entities from Sirius appear at the occasion of the ini­tiation of the solar Logos,

Những Thực thể như thế từ Sirius xuất hiện vào dịp điểm đạo của Thái dương Thượng đế,

59. It appears that more than one such entity is concerned.

59. Có vẻ như hơn một Thực thể như thế có liên quan.

60. Of course, our Solar Logos has undergone and will undergo more than one initiation.

60. Dĩ nhiên, Thái dương Thượng đế của chúng ta đã và sẽ trải qua hơn một cuộc điểm đạo.

61. Yet, from what we read below, it is not certain that more than one of such Entities has ever visited our system.

61. Tuy vậy, theo điều chúng ta đọc bên dưới, không chắc là đã có hơn một Thực thể như thế từng viếng thăm hệ của chúng ta.

and They have a peculiar con­nection with the five Kumaras and through Them (using Them as focal points for force) with the Mahachohan’s department in all the occult Hierarchies of the system.

và Các Ngài có liên hệ đặc biệt với năm Kumara và qua Các Ngài (dùng Các Ngài làm các điểm hội tụ lực) với ban MahaChohan trong mọi Thánh Đoàn huyền bí của toàn hệ.

62. The “five Kumaras” here referenced would be Planetary Logoi. We are speaking now in terms of the solar system and not only in relation to our planet.

62. “Năm vị Kumara” được nhắc đến ở đây chính là các Hành Tinh Thượng đế. Chúng ta đang nói theo ngữ cảnh của hệ mặt trời chứ không chỉ liên quan đến hành tinh của chúng ta.

63. All occult Hierarchies within our solar system have a Mahachohan’s apartment and all planets, apparently, have occult Hierarchies.

63. Mọi Thánh Đoàn huyền bí trong hệ Thái dương của chúng ta đều có một ban MahaChohan, và xem ra mọi hành tinh đều có Thánh Đoàn huyền bí.

64. We see that the five Kumaras representing the four Rays of Attribute and their synthesis, the third Ray, are related to the Mahachohan’s department in all occult Hierarchies. They are five Rays of Intelligence and the Mahachohan’s department deals with the intelligence aspect of divinity.

64. Ta thấy rằng năm Kumara đại diện cho bốn Cung Thuộc Tính và cung tổng hợp của chúng, cung ba, có liên hệ với ban MahaChohan trong mọi Thánh Đoàn. Đó là năm Cung của Trí tuệ, và ban MahaChohan xử lý phương diện trí tuệ của Thiên tính.

Only once has such a Being visited our system,

Chỉ một lần duy nhất một Đấng như thế đã viếng thăm hệ của chúng ta,

65. DK is speaking of a cosmic avatar.

65. DK đang nói về một hoá thân vũ trụ.

66. If we are speaking of an Avatar from Sirius which appears at the initiation of the Solar Logos, is it being suggested that our Solar Logos has only had one cosmic initiation? If so, this would contradict the information on TCF, 384, which tells us that our Solar Logos has the “third cosmic initiation” for His goal.

66. Nếu chúng ta đang nói về một Hoá thân từ Sirius vốn xuất hiện vào lúc điểm đạo của Thái dương Thượng đế, thì điều ấy có gợi rằng Thái dương Thượng đế của chúng ta chỉ có một cuộc điểm đạo vũ trụ chăng? Nếu vậy, điều này sẽ mâu thuẫn với thông tin ở TCF, 384, cho biết mục tiêu của Thái dương Thượng đế của chúng ta là “cuộc điểm đạo vũ trụ thứ ba”.

in connect­ion with the appearance in time and space of the five mind-born Sons of Brahma.

liên quan đến sự xuất hiện trong thời gian và không gian của năm Vị Con do Tư tưởng sinh của Brahma.

67. We are speaking of the appearance of Planetary Logoi—the five major Planetary Logoi Who are directly connected with the five Rays of Brahma.

67. Chúng ta đang nói về sự xuất hiện của các Hành Tinh Thượng đế—năm Hành Tinh Thượng đế chính liên hệ trực tiếp với năm Cung của Brahma.

The effect of such a visit as that of the Avatar from Sirius is seen [724] as the sumtotal of civilisation and culture, viewing these from the standpoint of the entire system and in one flash of time.

Tác động của một chuyến viếng thăm như của vị Hoá thân từ Sirius được thấy [724] như là tổng-thể của văn minh và văn hoá, xét từ lập trường của toàn hệ và trong một chớp thời gian.

68. We note that DK does not speak of “an” Avatar from Sirius but of “the” Avatar from Sirius. Is there more than one? Or having mentioned one that visited at the time of the appearance in time and space of the five mind-born Sons of Brahma, is He simply calling that Avatar, “the” Avatar?

68. Chúng ta ghi nhận rằng DK không nói “một” Hoá thân từ Sirius mà nói “ vị ” Hoá thân từ Sirius. Có nhiều hơn một vị chăng? Hay vì trước đó Ngài vừa nhắc đến một vị đã viếng thăm vào lúc năm Vị Con do Tư tưởng sinh của Brahma xuất hiện trong thời gian và không gian, nên Ngài đơn giản gọi Hoá thân ấy là “vị” Hoá thân?

69. We know that the Mahachohan’s department is responsible for the development of civilization and culture.

69. Chúng ta biết rằng ban MahaChohan chịu trách nhiệm cho sự phát triển của văn minh và văn hoá.

70. Of what stupendous nature was this stimulation that all civilization and culture in the entire solar system was ‘bestowed’ through the agency of that “visit”? We cannot simply say that civilization and culture was impulsed or impelled by the visit. Rather, its entirety (at least in seed) was conferred or given.

70. Sự kích thích ấy vĩ đại đến mức nào để mà toàn bộ văn minh và văn hoá trong toàn hệ Thái dương được “ban cho” qua sự “viếng thăm” đó? Chúng ta không thể chỉ nói rằng văn minh và văn hoá được thúc đẩy hay kích động bởi chuyến viếng thăm. Đúng hơn, toàn thể (ít nhất ở dạng hạt giống) được truyền tặng hay trao ban.

An avatar from the cosmic centre will appear as pralaya is nearing and will produce in the body of the Logos that which we call “Death.”

Một hoá thân từ trung tâm vũ trụ sẽ xuất hiện khi Giai kỳ qui nguyên đến gần và sẽ tạo ra trong thể của Thượng đế điều mà chúng ta gọi là “Cái Chết.”

71. Again, we do not know the nature of this “cosmic center”, but we may infer that it is one of three sources:

71. Một lần nữa, chúng ta không biết “trung tâm vũ trụ” này là gì, nhưng có thể suy rằng đó là một trong ba nguồn sau:

a. The Central Spiritual Sun or Alcyone

a. Mặt trời Tinh thần Trung Ương hay Alcyone

b. The Seven Pleiades considered as a group

b. Thất Nữ được xét như một toàn khối

c. The entirety of all Pleiades

c. Toàn bộ mọi cụm sao Thất Nữ

72. Since in listing the sources of Avatars two sources were given as stars, it may be that the source known as the “cosmic centre” is also a star—namely Alcyone.

72. Vì khi liệt kê nguồn của các Hoá thân, hai nguồn được nêu là các ngôi sao, nên có thể “trung tâm vũ trụ” cũng là một ngôi sao—tức Alcyone.

73. If Alcyone carries a first ray function with respect to our Solar Logos, this would make sense. The Pleiades, however, seem to carry more third ray than first (and some second). Yet, if they are central to all that transpires in our solar system, then, by that very fact, they will have a first ray function.

73. Nếu Alcyone đảm trách một chức năng cung một đối với Thái dương Thượng đế của chúng ta, điều này sẽ hợp lý. Thất Nữ, tuy nhiên, dường như mang cung ba nhiều hơn cung một (và một phần cung hai). Dẫu vậy, nếu các Ngài là trung tâm đối với mọi gì diễn ra trong hệ Thái dương của chúng ta, thì bởi chính sự kiện đó, các Ngài sẽ có một chức năng cung một.

74. We see that Sirius (as a source) is being distinguished from the “cosmic centre”. From another perspective, Sirius could be sees as the cosmic center of the “Seven Solar Systems of Which Ours is One”. But we seem to be considering a larger picture.

74. Chúng ta thấy Sirius (như một nguồn) được phân biệt với “trung tâm vũ trụ”. Từ một góc nhìn khác, Sirius có thể được xem là trung tâm vũ trụ của “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của chúng ta là Một”. Nhưng dường như chúng ta đang xét một bức tranh lớn hơn.

75. We have to suspect that the “cosmic center” (whatever it may be) has a head center function associated with the first ray.

75. Chúng ta có cơ sở để nghi rằng “trung tâm vũ trụ” (bất kể nó là gì) có một chức năng trung tâm đầu liên kết với cung một.

76. We are probably looking for that center in relation to which the “Seven Solar Systems of Which Ours is One” are as a chakra. Such a Being would be the “One About Whom Naught May Be Said”, but would be represented by a constellation or aggregation of stars rather than by only one star.

76. Có lẽ chúng ta đang tìm kiếm vị trí mà “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của chúng ta là Một” như một luân xa đối với vị ấy. Một Đấng như thế sẽ là “Đấng Bất Khả Tư Nghị”, nhưng được biểu trưng bởi một chòm sao hay một tập hợp sao chứ không chỉ một ngôi sao.

77. It must be noted, however, that there may be more than one “One About Whom Naught May Be Said”, and the Logos of the “Seven Solar Systems of Which Ours is One” may also be called by this name.

77. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng có thể có hơn một “Đấng Bất Khả Tư Nghị”, và Thượng đế của “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của chúng ta là Một” cũng có thể được gọi bằng danh xưng này.

78. It is only through the cosmic ‘authority’ of the “One About Whom Naught May Be Said” that the chakra expressed by the “Seven Solar Systems of Which Ours is One” will be abstracted.’

78. Chỉ nhờ “thẩm quyền” vũ trụ của “Đấng Bất Khả Tư Nghị” đó mà luân xa được biểu lộ bởi “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của chúng ta là Một” sẽ được trừu xuất.

79. Within the “Seven Solar Systems of Which Ours is One” (if Sirius is not the first ray center of that constellation) another star will necessarily be so. Perhaps it is Vega, towards which our solar system is tending. If Vega (or some other star about which we do not know) represents the head center within the “Seven Solar Systems of Which Ours is One”, then our solar system (as a heart center within the seven solar systems) would be abstracted towards that head center, just as in the case of a human being).

79. Bên trong “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của chúng ta là Một” (nếu Sirius không là trung tâm đầu của chòm sao ấy) hẳn phải có một ngôi sao khác giữ vị trí đó. Có lẽ đó là Vega, hướng đến đó hệ Thái dương của chúng ta đang chuyển dịch. Nếu Vega (hay một ngôi sao khác mà chúng ta chưa biết) là trung tâm đầu trong “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của chúng ta là Một”, thì hệ Thái dương của chúng ta (vốn là một trung tâm tim trong bảy hệ Thái dương) sẽ được trừu xuất về trung tâm đầu đó, như trường hợp một con người.

80. In any case, “Death” comes to our solar system through the agency of a great Cosmic Avatar associated with our “cosmic centre”.

80. Dù sao, “Cái Chết” đến với hệ Thái dương của chúng ta thông qua một Đại Hoá thân Vũ trụ liên đới với “trung tâm vũ trụ” của chúng ta.

He is the cosmic Reaper, and (to reduce the above to words of an understandable nature) He belongs to a group which represents the abstracting energy of the cosmos,

Ngài là “Người Gặt vũ trụ”, và (nói theo những từ ngữ có thể hiểu) Ngài thuộc một nhóm đại diện cho năng lượng trừu xuất của càn khôn vũ trụ,

81. We are dealing with a first ray Avatar, Who one day will be instrumental in withdrawing the life of our Solar Logos from our present solar system.

81. Chúng ta đang xử lý một Hoá thân cung một, Đấng một ngày kia sẽ là khí cụ rút sự sống của Thái dương Thượng đế của chúng ta ra khỏi hệ Thái dương hiện tiền.

82. What is the scope of the word “cosmos” as here used? We do not know. We only know that this particular Avatar represents the great, first ray abstracting energy.

82. Từ “càn khôn vũ trụ” ở đây được dùng với tầm mức nào? Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ biết rằng Hoá thân đặc thù này đại diện cho năng lượng trừu xuất vĩ đại, cung một.

83. Are we suggesting that the star or source from which this “Reaper” comes is a first ray star or source?

83. Điều chúng ta đang gợi là ngôi sao hay nguồn từ đó “Người Gặt” này đến là một ngôi sao hay nguồn cung một ?

84. It is also clear that within that lower order “One About Whom Naught May Be Said” we call the Logos of our “Seven Solar Systems of Which Ours is One”, our Sun, Sol or Helios, is not  a synthesizing Sun. The “cosmic Reaper” which we are discussing may be just such a synthesizing Sun, just as when the time comes for the death of our planet, a planet within our solar system—a planet with a synthesizing function—will absorb it.

84. Cũng rõ ràng là trong “Đấng Bất Khả Tư Nghị” bậc thấp hơn mà chúng ta gọi là Thượng đế của “Bảy Hệ Thái dương mà Hệ của chúng ta là Một”, thì Mặt Trời của chúng ta, Sol hay Helios, không phải là một Thái dương tổng hợp . “Người Gặt vũ trụ” mà chúng ta đang bàn có thể là một Thái dương tổng hợp như thế, cũng như khi đến giờ phút một hành tinh của chúng ta “chết”, một hành tinh khác trong hệ—một hành tinh có chức năng tổng hợp—sẽ hấp thụ nó.

of which we find faint correspondences in the work of the “destroyer” aspect of the Logos, and in the forces which produce physical death, and the disintegration of the physical body of man.

về điều này chúng ta tìm thấy những tương ứng mờ nhạt trong công cuộc của phương diện “tiêu huỷ” của Thượng đế, và trong các mãnh lực tạo nên cái chết thể xác, và sự tan rã của thể xác con người.

85. Let us tabulate these energies and entities related to the power of abstraction:

85. Chúng ta hãy lập bảng các năng lượng và các thực thể liên quan đến quyền năng trừu xuất:

a. The abstracting energies of the cosmos

a. Các năng lượng trừu xuất của vũ trụ

b. A group representing those abstracting energies

b. Một nhóm đại diện cho các năng lượng trừu xuất ấy

c. The “Reaper”

c. “Kẻ Gặt”

d. The “destroyer” aspect of our Solar Logos

d. Phương diện “hủy diệt” của Thái dương Thượng đế của chúng ta

e. The forces which produce physical death

e. Các lực gây ra cái chết hồng trần

86. There are important relationships between all of these and many interim beings and sources have necessarily been omitted.

86. Có những liên hệ quan trọng giữa tất cả những điều này và nhiều sự sống cũng như nguồn lực trung gian tất yếu đã bị lược bỏ.

87. We are dealing with very large matters:

87. Chúng ta đang đề cập đến những vấn đề rất lớn:

a. The initiation of our Solar Logos and the appearance of five mind-born Sons of Brahma

a. Cuộc điểm đạo của Thái dương Thượng đế của chúng ta và sự xuất hiện của năm Con của Brahma sinh bởi trí

b. The death of our Solar Logos

b. Cái chết của Thái dương Thượng đế của chúng ta

It is not possible to say more on these fundamentally esoteric matters, and the value of what is said lies largely in the bringing to the mind of the student the reality of our cosmic interrelation.

Không thể nói thêm về những vấn đề căn để mang tính huyền bí này, và giá trị của những điều đã nói phần lớn nằm ở việc đem đến cho thể trí của môn sinh thực tại của tương liên vũ trụ của chúng ta.

88. DK always tries to present the “big picture” and to expand our consciousness so that we can appreciate many interrelations of which we would, otherwise, have no notion.

88. Chân sư DK luôn cố gắng trình bày “bức tranh lớn” và mở rộng tâm thức của chúng ta để chúng ta có thể thấu triệt nhiều tương liên mà nếu không, chúng ta sẽ hoàn toàn không có khái niệm gì.

89. There is a vast “cosmic interrelation” and DK asserts that it is real.

89. Có một “tương liên vũ trụ” mênh mông và Chân sư DK khẳng định rằng nó là thực tại.

              2. Solar Avatars:  These avatars are of three types though there are really many more.

2. Các Đấng Hoá Thân thái dương : Các hóa thân này có ba loại dù thực ra có rất nhiều.

90. This is almost always the case. DK tells us that He has chosen the path of brevity in dealing with these subjects which we feel to be both enormous and complex.

90. Điều này hầu như luôn đúng. Chân sư DK cho chúng ta biết rằng Ngài đã chọn con đường ngắn gọn khi đề cập đến những chủ đề mà chúng ta cảm thấy vừa bao la vừa phức tạp này.

They are also extra-sys­temic visitors,

Các Ngài cũng là ngoài-hệ khách viếng ,

91. The term “visitors” and the verb “visits” have now been used. When these avatars come to our solar system or our planet, they are, so to speak, “far from home”.

91. Thuật ngữ “khách viếng” và động từ “viếng thăm” giờ đã được dùng. Khi các hóa thân này đến hệ mặt trời của chúng ta hay hành tinh của chúng ta, nói cách khác, Các Ngài ở “rất xa quê nhà”.

92. Even though these Avatars are called “solar”, they still come from without the system.

92. Dẫu những Đấng Hoá Thân này được gọi là “thái dương”, Các Ngài vẫn đến từ bên ngoài hệ.

and are mainly concerned with certain proces­s­es in the system, among others the administration of the law of cause and effect, or of karma.

và chủ yếu liên thuộc đến một số tiến trình trong hệ , trong số đó có việc quản trị định luật nhân quả, hay nghiệp quả.

93. The function of these Solar Avatars is intra-systemic even though They are extra-systemic in origin.

93. Chức năng của các Đấng Hoá Thân Thái dương này là nội hệ, dù nguồn gốc của Các Ngài là ngoại hệ.

94. They seem to be especially related to the administration of the Law of Karma. We remember that the Law of Karma, as far as we are concerned, is especially directed from the star Sirius and its informing Logos.

94. Có vẻ như Các Ngài liên hệ đặc biệt với sự quản trị Định luật Nghiệp Quả. Chúng ta nhớ rằng Định luật Nghiệp Quả, xét theo chúng ta, đặc biệt được chỉ đạo từ sao Sirius và Thượng đế linh ngự của sao ấy.

They embody the karma of the past kalpas as far as our Logos is concerned,

Các Ngài bao hàm nghiệp quả của các kalpa đã qua, xét riêng đối với Thượng đế của chúng ta,

95. Are we here speaking of “mahakalpas” or of mahamanvantaras?

95. Ở đây chúng ta đang nói về “mahakalpa” hay về Đại giai kỳ sinh hóa?

96. It may be that such Beings are now active as our Solar Logos seems to be facing karma related to the tendencies of the immediately previous solar system.

96. Có thể là những Đấng như thế hiện đang hoạt động vì Thái dương Thượng đế của chúng ta dường như đang đối diện với nghiệp quả liên quan đến các xu hướng của hệ mặt trời ngay trước đó.

and give the initiatory impulse to the processes of adjust­ment, of expiation and of recognition as it concerns the present system as a whole.

và trao xung lực điểm đạo cho các tiến trình điều chỉnh, chuộc tội và nhận biết xét đối với toàn thể hệ hiện tại.

97. If we are dealing with the “present system” and its need for adjustment, expiation and recognition , we may indeed be suggesting that such  Solar Avatars embody the karma of past mahamanvantaras.

97. Nếu chúng ta đang đề cập đến “hệ hiện tại” và nhu cầu điều chỉnh, chuộc tội và nhận biết của nó, thì thực vậy, chúng ta có thể ngụ ý rằng những Đấng Hoá Thân Thái dương như thế bao hàm nghiệp quả của các Đại giai kỳ sinh hóa đã qua.

98. We can think of these three terms as related to karmic processes:

98. Chúng ta có thể nghĩ ba thuật ngữ này là liên hệ với các tiến trình nghiệp quả:

a. Adjustment

a. Điều chỉnh

b. Expiation

b. Chuộc tội

c. Recognition

c. Nhận biết

99. Perhaps there would be value of thinking of these three processes in the following order:

99. Có lẽ sẽ có ích nếu nghĩ ba tiến trình này theo thứ tự sau:

a. Recognition

a. Nhận biết

b. Adjustment

b. Điều chỉnh

c. Expiation

c. Chuộc tội

One such Entity, the “Karmic Avatar” appeared upon the second logoic vibration, being swept in on the second Breath; He has stayed until now:

Một Thực Thể như thế, “Đấng Hoá Thân Nghiệp Quả” đã xuất hiện trên rung động logoic thứ hai, được cuốn vào theo Hơi thở thứ hai; Ngài đã lưu lại cho đến nay:

100. We remind ourselves that the “Karmic Avatar” is a Solar  Avatar.

100. Chúng ta tự nhắc mình rằng “Đấng Hoá Thân Nghiệp Quả” là một Đấng Hoá Thân Thái dương .

101. We are not given the source of this great Entity but Sirius is always associated with the karma of our solar system and is the source of the Intermediate Law of Karma.

101. Nguồn của Thực Thể vĩ đại này không được cho biết, nhưng Sirius luôn gắn liền với nghiệp quả của hệ mặt trời chúng ta và là nguồn của Định luật Nghiệp Quả Trung Gian.

The Intermediate Law of Karma.—There is also an intermediate law, which is the synthetic law of the system of Sirius.  This law is called by the generic term, the Law of Karma, and really predicates the effect the Sirian system has on our solar system.  Each of the two systems, as regards its internal economy, is independent in time and space, or (in other words), in manifestation. (TCF 569-570)

Định luật Nghiệp Quả Trung Gian.—Cũng có một định luật trung gian, vốn là định luật tổng hợp của hệ Sirius. Định luật này được gọi bằng thuật ngữ chung là Định luật Nghiệp Quả, và thực sự khẳng định hiệu quả mà hệ Sirius có đối với hệ mặt trời chúng ta. Mỗi trong hai hệ, xét về kinh tế nội tại của nó, là độc lập trong thời gian và không gian, hay (nói cách khác), trong sự biểu lộ. (TCF 569-570)

102. As to the nature of the “second logoic vibration” or “second Breath”, we cannot be sure, but it may be equivalent to the Second Outpouring—the coming forth of the Second Logos in the role of ‘Builder of Forms’.

102. Về bản chất của “rung động logoic thứ hai” hay “Hơi thở thứ hai”, chúng ta không thể chắc, nhưng có thể nó tương đương với Lần Tuôn Đổ thứ hai—sự xuất lộ của Đấng Thứ Hai trong vai trò ‘Nhà Kiến Tạo các Hình Tướng’.

He will remain with us until all the schemes have entered upon their fifth round, and are nearing their “Judgment Day.”

Ngài sẽ ở lại với chúng ta cho đến khi mọi hệ hành tinh đã bước vào cuộc tuần hoàn thứ năm của chúng, và đang tiến gần “Ngày Phán Xét” của chúng.

103. It is important to note that all schemes have their own “Judgment Day”. Sometimes, we become Earth-centered thinking that the peculiar conditions which prevail upon our planet are responsible for that decisive moment called the “Judgment Day”.

103. Cần lưu ý rằng mọi hệ hành tinh đều có “Ngày Phán Xét” riêng. Đôi khi, chúng ta trở nên trọng tâm vào Địa Cầu và nghĩ rằng các điều kiện đặc thù đang chi phối hành tinh của chúng ta chịu trách nhiệm cho thời khắc quyết định được gọi là “Ngày Phán Xét”.

104. It is for the sake of some of the larger planets which are not as advanced in their ‘Round Process’, that this “Karmic Avatar” must remain long after such planets as Venus, Mercury and the Earth have passed through their fifth round.

104. Vì lợi ích của một số hành tinh lớn hơn vốn không tiến bộ bằng trong ‘Quá trình Cuộc Tuần Hoàn’, “Đấng Hoá Thân Nghiệp Quả” này phải lưu lại rất lâu sau khi những hành tinh như Kim Tinh, Thủy Tinh và Địa Cầu đã đi qua cuộc tuần hoàn thứ năm của chúng.

105. Again, it should be noted that we are probably talking about scheme rounds and not chain rounds.

105. Một lần nữa, cần lưu ý rằng chúng ta có lẽ đang nói về các cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh , chứ không phải các cuộc tuần hoàn của dãy (chain).

106. The Earth-chain is still far from its “Judgment Day” and, we remember, that the fifth chain within our scheme will also have its “Judgment Day” of a kind.

106. Dãy Địa Cầu vẫn còn xa “Ngày Phán Xét” và, chúng ta nhớ, rằng dãy thứ năm trong hệ hành tinh của chúng ta cũng sẽ có “Ngày Phán Xét” theo cách riêng của nó.

Something similar again [a “Judgment Day” period] will take place on the fifth chain but as it concerns a centre in the planetary Logos of which we know but little, we need not here enlarge upon it (TCF 706)

Một điều tương tự nữa [một giai kỳ “Ngày Phán Xét”] sẽ diễn ra trên dãy thứ năm, nhưng vì nó liên hệ đến một trung tâm trong Hành Tinh Thượng đế mà chúng ta biết rất ít, nên ở đây chúng ta không cần bàn rộng (TCF 706)

107. As for the fifth scheme round of our Planetary Logos, one would expect it in the future as our Planetary Logos is probably in its fourth scheme round.

107. Còn về cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ năm của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, người ta sẽ kỳ vọng nó ở tương lai vì Hành Tinh Thượng đế của chúng ta có lẽ đang ở cuộc tuần hoàn hệ hành tinh thứ tư .

108. It is to be noted that the number two is closely related to the number five. Cycles on the second ray are characterized by the number five—5, 50, 500, 5000, etc.

108. Cần ghi nhận rằng con số hai liên hệ chặt chẽ với con số năm. Các chu kỳ trên cung hai được đặc trưng bởi con số năm—5, 50, 500, 5000, v.v.

At that time, He can with­draw, leaving the planetary Logoi concerned to fulfil the karmic purpose unwatched.

Vào lúc ấy, Ngài có thể rút lui, để các Hành Tinh Thượng đế liên hệ tự hoàn thành mục đích nghiệp quả mà không cần giám thị.

109. It is amazing to consider how supervision over the development of Planetary Logoi is exerted by still higher Beings.

109. Thật kinh ngạc khi nghĩ về việc sự giám thị trên sự phát triển của các Hành Tinh Thượng đế được thực thi bởi các Đấng còn cao hơn nữa.

110. Supervision is a universal principle. The One Universal Logos is, from this perspective, the greatest Supervisor.

110. Giám thị là một nguyên lý phổ quát. Từ góc nhìn này, Thượng đế Vũ Trụ Duy Nhất là Đấng Giám Thị vĩ đại nhất.

111. The withdrawal of the Solar Angels at the time of the fourth initiation may bear an analogy. From that time forward, the human personality, per se, is no longer in need of karmic supervision.

111. Sự rút lui của các Thái dương Thiên Thần vào thời điểm lần điểm đạo thứ tư có thể mang một sự tương đồng. Kể từ lúc ấy trở đi, phàm ngã con người, tự thân, không còn cần sự giám thị nghiệp quả nữa.

The vibratory impulse will then be so strong and the realisation of the buddhic principle so consciously vivid that nothing can then arrest the onward march of affairs.

Xung động rung động khi đó sẽ mạnh đến mức, và sự thể nhập nguyên khí Bồ đề sẽ sinh động đến mức không gì có thể ngăn chặn bước tiến của sự việc.

112. The emergence and stabilization of the buddhic principle is the main objective of this solar system. Every “Judgment Day” eliminates those in whom the buddhic principle has not be sufficiently established and offers less obstructed development for those who are not ejected.

112. Sự hiển lộ và sự ổn định của nguyên khí Bồ đề là mục tiêu chính của hệ mặt trời này. Mỗi “Ngày Phán Xét” loại trừ những ai mà nguyên khí Bồ đề chưa được thiết lập đủ và mở ra con đường phát triển ít chướng ngại hơn cho những ai không bị loại bỏ.

Under Him work a number of cosmic entities who, as stated in the [725] Secret Doctrine, [41: These are the Lipika Lords. See SD, I, 157]  have the privilege of “passing the ring-pass-not”;

Dưới Ngài có một số thực thể vũ trụ làm việc, như được nói trong [725] Giáo Lý Bí Nhiệm, [41: Đây là các Đấng Lipika. Xem SD, I, 157] có đặc ân “vượt qua vòng-giới-hạn”;

113. We note that these Solar Avatars are called “cosmic entities”.

113. Chúng ta ghi nhận rằng các Đấng Hoá Thân Thái dương này được gọi là “các thực thể vũ trụ”.

114. The great “Karmic Avatar” of which we are speaking is superior to the Lipika Lords, Who are, in Themselves, Beings of tremendous development.

114. “Đấng Hoá Thân Nghiệp Quả” vĩ đại mà chúng ta đang nói đến trổi vượt hơn các Đấng Lipika, Vốn Tự Thân là những Đấng có trình độ phát triển vô cùng to lớn.

115. There are Lipika Lords on Sirius and those Who work within the boundaries of our solar system.

115. Có các Đấng Lipika trên Sirius và có những Đấng làm việc trong phạm vi hệ mặt trời của chúng ta.

116. The reference above seems to refer to Intra-Systemic Lipika Lords:

116. Tham chiếu trên dường như nói đến các Đấng Lipika Nội Hệ:

All these are governed by karma, and just as the true Man himself applies the law of karma to his vehicles, [we seem to be speaking of the Ego within the causal body as applying the law of karma to the personality vehicles] and in his tiny system is the correspondence to that fourth group of karmic entities whom we call the Lipika Lords; He applies the law to his threefold lower nature.  The fourth group of extra-cosmic Entities Who have Their place subsidiary to the three cosmic Logoi Who are the threefold sumtotal of the logoic nature, can pass the bounds of the solar ring-pass-not in Their stated cycles.  This is a profound mystery and its complexity is increased by the recollection that the fourth Creative Hierarchy of human Monads, and the Lipika Lords in Their three groups (the first [112] group, the second, and the four Maharajahs, making the totality of the threefold karmic rulers who stand between the solar Logos and the seven planetary Logoi), are more closely allied than the other Hierarchies, and their destinies are intimately interwoven. (TCF 111-112)

Tất cả những vị này đều được nghiệp quả cai quản, và cũng như Chân Nhân thực sự tự mình áp dụng định luật nghiệp quả lên các vận cụ của y, [ở đây dường như chúng ta đang nói về Chân ngã trong thể nguyên nhân áp dụng định luật nghiệp quả lên các vận cụ phàm ngã] và trong tiểu hệ của y là sự tương ứng với nhóm thứ tư các thực thể nghiệp quả mà chúng ta gọi là các Đấng Lipika; y áp dụng định luật lên bản chất tam phân thấp của mình. Nhóm thứ tư các Thực Thể ngoại vũ trụ, Những Đấng có vị trí phụ thuộc vào ba Thượng đế vũ trụ Vốn là tổng thể tam phân của bản tính logoic, có thể vượt qua các giới hạn của vòng-giới-hạn thái dương trong các chu kỳ đã ấn định của Các Ngài. Đây là một huyền bí sâu xa và độ phức tạp của nó tăng thêm khi nhớ rằng Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của các Chân Thần nhân loại, và các Đấng Lipika trong ba nhóm của Các Ngài (nhóm thứ nhất [112], nhóm thứ hai, và bốn Đại Vương, tạo thành toàn thể ba ngôi các vị cai quản nghiệp quả đứng giữa Thái dương Thượng đế và bảy Hành Tinh Thượng đế), liên kết mật thiết với nhau hơn các Huyền Giai khác, và số mệnh của họ đan xen mật thiết. (TCF 111-112)

117. This passing-through (we see) is only done in “stated cycles”.

117. Sự “vượt qua” này (chúng ta thấy) chỉ được thực hiện trong “các chu kỳ đã ấn định”.

118. The incorporated paragraph makes it evident that we are not speaking of Lipika Lords Who remain on or in the star Sirius.

118. Đoạn trích lồng ghép làm rõ rằng chúng ta không nói về các Đấng Lipika lưu lại trên hay trong sao Sirius.

these are, nevertheless, not avatars for They are Themselves evolving through the administration of karma.  It is Their work, and opportunity to progress.

Tuy nhiên, những vị này không phải là các hóa thân, vì Các Ngài tự thân đang tiến hoá thông qua công cuộc quản trị nghiệp quả . Đó là công việc của Các Ngài, và là cơ hội để tiến bộ.

119. In stating that these “cosmic entities” (presumably Lipika Lords Who work within our solar system) are not avatars, we again have confirmed for us that an avatar descends to its sphere of service with no motive of progress for itself.

119. Khi nói rằng các “thực thể vũ trụ” này (có lẽ là các Đấng Lipika làm việc trong hệ mặt trời của chúng ta) không phải là các hóa thân, chúng ta lại được xác nhận rằng một hóa thân giáng lâm vào cảnh vực phụng sự của mình mà không có động cơ tiến bộ cho bản thân.

120. Here we learn that the Lipika Lords evolve and progress through the administration of karma—that this is their work. The descent of an avatar is for other purposes.

120. Ở đây chúng ta học rằng các Đấng Lipika tiến hoá và tiến bộ thông qua việc quản trị nghiệp quả—đó là công việc của Các Ngài. Sự giáng lâm của một hóa thân là vì các mục đích khác.

An avatar can learn nothing from the place of His appear­ance. 

Một Đấng Hoá Thân không thể học được gì từ nơi Ngài xuất hiện.

121. DK states it succinctly and it is the main point. The Lipika Lords within the boundaries of our solar system are still learning from what they do.

121. Chân sư DK nói một cách cô đọng và đó là điểm chính. Các Đấng Lipika trong phạm vi hệ mặt trời của chúng ta vẫn đang học hỏi từ những gì Các Ngài làm.

122. May we say that entirely altruistic service without any thought of gain is the seed of ‘avatarship’?

122. Chúng ta có thể nói rằng phụng sự hoàn toàn vị tha mà không chút nghĩ đến lợi lộc là hạt giống của ‘tư cách hóa thân’ chăng?

His work is to apply the force of some type of electri­cal energy to substance in one of its many grades, and thus bring about anticipated results.

Công việc của Ngài là áp dụng lực của một loại năng lượng điện nào đó lên chất liệu ở một trong nhiều cấp độ của nó, và nhờ thế đem lại những kết quả đã được trông đợi.

123. Here we have a more technical description of the work of an avatar. It is, in a way, electrical work. Perhaps this is why so many on the Path of Absolute Sonship (leading to the possibility of becoming a Lipika Lord) are found upon the fifth ray—even fifth ray Monads. We know the relationship of the fifth ray to the study of electricity (probably through association with the electrical planet Uranus in which the fifth ray is strong).

123. Ở đây chúng ta có một mô tả kỹ thuật hơn về công việc của một hóa thân. Theo một cách nào đó, đó là công việc điện . Có lẽ vì vậy mà nhiều vị đi theo Con Đường của Tư Cách Con Tuyệt Đối (dẫn đến khả tính trở thành một Đấng Lipika) được thấy ở cung năm—thậm chí là các Chân thần cung năm. Chúng ta biết mối liên hệ của cung năm với việc khảo cứu điện học (có lẽ qua sự liên hệ với hành tinh điện là Sao Thiên Vương, nơi cung năm mạnh).

124. We note that DK differentiates “electrical energy” from “substance” (though substance also has its electrical nature).

124. Chúng ta ghi nhận rằng Chân sư DK phân biệt “năng lượng điện” với “chất liệu” (dù chất liệu cũng có bản chất điện của nó).

125. Thus far, we have been discussing a “Karmic Avatar” as one kind of Solar Avatar.

125. Đến đây, chúng ta đã bàn về một “Đấng Hoá Thân Nghiệp Quả” như một loại Đấng Hoá Thân Thái dương.

126. Now we are prepared to discuss another.

126. Giờ chúng ta sẵn sàng bàn về một loại khác.

Another type of solar avatar, Who can be seen appearing in the schemes, has relation to the heart centre of a planetary Logos, and appears on the higher planes (never on the lower) when the heart activity is making itself felt,

Một loại Đấng Hoá Thân Thái dương khác, Đấng có thể thấy xuất hiện trong các hệ hành tinh, có liên quan đến trung tâm tim của một Hành Tinh Thượng đế , và xuất hiện trên các cõi cao (không bao giờ trên cõi thấp) khi hoạt động của trung tâm tim đang tự biểu lộ,

127. We note that this type of solar avatar is mentioned as related to a Planetary Logos—not a Solar Logos in this instance.

127. Chúng ta ghi nhận rằng loại Đấng Hoá Thân Thái dương này được nêu là liên hệ với một Hành Tinh Thượng đế—trong trường hợp này không phải với một Thái dương Thượng đế.

128. We do not know the meaning of “higher planes”, but may suppose that the cosmic ethers are indicated.

128. Chúng ta không biết “các cõi cao” có nghĩa gì, nhưng có thể giả định rằng các dĩ thái vũ trụ được ngụ ý.

129. From what we have been taught, the appearance of such a solar avatar  seems related to the process of individualization, though other more advanced processes seem to be involved and are suggested below.

129. Từ những gì đã được dạy, sự xuất hiện của một Đấng Hoá Thân Thái dương như thế dường như liên hệ với tiến trình biệt ngã hóa, dù các tiến trình cao hơn nữa cũng dường như được hàm ý và sẽ được gợi mở dưới đây.

130. The heart center activity of a Planetary Logos may be seen as relating to both the individualization and initiation processes.

130. Hoạt động trung tâm tim của một Hành Tinh Thượng đế có thể được xem là liên hệ đến cả tiến trình biệt ngã hóa và tiến trình điểm đạo.

131. As regards the individualization process, when the heart center of our Planetary Logos was on the point of greater awakening, the Logos of Venus drew into closer relationship with our Planetary Logos, the Lords of the Flame appeared and individualization took place. Was such a solar avatar also involved in the process?

131. Về tiến trình biệt ngã hóa, khi trung tâm tim của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta ở ngưỡng thức tỉnh lớn hơn, Hành Tinh Thượng đế của Kim Tinh đã kéo đến mối liên hệ gần gũi hơn với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, các Chúa Tể của Ngọn Lửa xuất hiện và biệt ngã hóa đã diễn ra. Liệu một Đấng Hoá Thân Thái dương như thế cũng can dự vào tiến trình này?

and when the energising process is seen to bring about three things:

và khi tiến trình tiếp sinh lực được thấy là đem lại ba điều:

132. The following processes are occurring when the work of this type of solar avatar is being applied to the planetary process:

132. Các tiến trình sau đây đang diễn ra khi công việc của loại Đấng Hoá Thân Thái dương này được áp dụng vào tiến trình hành tinh:

a. An expansion of consciousness.

a. Một sự mở rộng tâm thức.

133. This, of course, goes along with heart development

133. Điều này, dĩ nhiên, đi kèm với sự phát triển của tim

b. An increase of spiritual light and brilliancy.

b. Một sự gia tăng ánh sáng và độ rực rỡ tinh thần.

134. Movement into a second ray phase indicates the growth of the light. The Forces of Enlightenment are correlated with the second ray.

134. Chuyển vào một giai đoạn cung hai chỉ thị sự tăng trưởng của ánh sáng. Các Lực Soi Sáng tương liên với cung hai.

135. The Second Ray Lord is:

135. Đấng Chúa Tể Cung hai là:

a. The Displayer of Glory’

a. “Đấng Phô Bày Vinh Quang”

b. The Radiance within the Form

b. “Hào quang rực rỡ bên trong Hình Tướng”

c. Planetary radioactivity.

c. Tính phóng xạ hành tinh.

136. To become initiate is to become radioactive.

136. Trở thành một điểm đạo đồ là trở nên phóng xạ.

It is this planetary phenomenon which produces (in connect­ion with the fourth kingdom in nature) the throwing open of the door of initiation to man.

Hiện tượng hành tinh này (trong tương quan với giới thứ tư trong thiên nhiên) tạo ra việc mở toang cánh cửa điểm đạo cho con người .

137. We are speaking of developments within a Planetary Logos which correlate with the coming of a particular solar avatar:

137. Chúng ta đang nói về các phát triển trong một Hành Tinh Thượng đế vốn tương hợp với sự quang lâm của một Đấng Hoá Thân Thái dương đặc thù:

138. Such developments are:

138. Những phát triển như vậy là:

a. The emergence of heart center activity within the Planetary Logos

a. Sự trỗi dậy của hoạt động trung tâm tim trong Hành Tinh Thượng đế

b. The expanding of planetary logoic consciousness

b. Sự mở rộng tâm thức của Hành Tinh Thượng đế

c. An increase of light and brilliancy within the energy system of the Planetary Logos

c. Sự gia tăng ánh sáng và độ rực rỡ trong hệ năng lượng của Hành Tinh Thượng đế

d. The emergence of planetary radioactivity

d. Sự xuất lộ tính phóng xạ hành tinh

139. When these things occur, the door of initiation is thrown open to man.

139. Khi những điều này xảy ra, cánh cửa điểm đạo được mở toang cho con người.

140. That door was thrown open, particularly, during the Atlantean Rootrace.

140. Cánh cửa ấy đã được mở toang, đặc biệt, trong Giống dân gốc Atlantis.

141. Heart center developments within the Planetary Logos also occurred, we realize, with the coming of the Lords of the Flame and the process we call individualization—a process which obviously preceded the throwing open to man of the door to initiation.

141. Các phát triển ở trung tâm tim trong Hành Tinh Thượng đế cũng đã xảy ra, chúng ta nhận ra, khi có sự quang lâm của các Chúa Tể của Ngọn Lửa và tiến trình mà chúng ta gọi là biệt ngã hóa—một tiến trình hiển nhiên là có trước việc mở toang cánh cửa điểm đạo cho con người.

142. The Lords of the Flame are active, of course, in the individualization process but also in assisting the personalities over which they have supervision to take initiation.

142. Dĩ nhiên, các Chúa Tể của Ngọn Lửa hoạt động trong tiến trình biệt ngã hóa nhưng cũng trợ giúp các phàm ngã mà các Ngài giám hộ để đắc điểm đạo.

143. Both individualization and initiation are, in a sense, heart processes.

143. Cả biệt ngã hóa lẫn điểm đạo, theo một nghĩa nào đó, đều là các tiến trình của tim .

Such avatars do not come in connection with any particular Hierarchy but only in relation to the total system.

Những Đấng Hoá Thân như vậy không đến trong liên hệ với bất kỳ Huyền Giai nào riêng rẽ mà chỉ trong tương quan với toàn thể hệ.

144. By the term “Hierarchy”, we mean, perhaps, Creative Hierarchy or the Spiritual Hierarchy of a planet.

144. Bởi thuật ngữ “Huyền Giai”, có lẽ chúng ta hiểu Huyền Giai Sáng Tạo hay Huyền Giai Tinh Thần của một hành tinh.

145. While these avatars seem active on a planetary level, apparently their arrival is a great solar systemic event.

145. Dù những hóa thân này dường như hoạt động ở cấp hành tinh, rõ ràng sự quang lâm của Các Ngài là một biến cố có tầm mức thái dương .

They produce the blending of the colours, and the synthesis of the units in their groups.

Các Ngài tạo ra sự pha trộn các màu sắc, và sự tổng hợp các đơn vị trong các nhóm của chúng.

146. The activities of these avatars, blending and synthesizing, suggest the second ray particularly. They are apparently a cohesive factor. We realize that the Path of Initiation is trodden by those who participate increasingly in group consciousness. Initiation produces cohesion.

146. Hoạt động của các hóa thân này—pha trộn và tổng hợp—đặc biệt gợi lên cung hai. Rõ ràng Các Ngài là một nhân tố kết dính. Chúng ta nhận ra rằng Con Đường Điểm Đạo được bước đi bởi những ai ngày càng tham dự vào tâm thức nhóm. Điểm đạo tạo ra tính cố kết.

At the initiation of a planetary Logos, an avatar may appear in His scheme on the seventh globe from that cosmic centre or star which is ensouled by the particular Rishi Who (in the constellation of the Great Bear) is His cosmic prototype.

Vào lúc điểm đạo của một Hành Tinh Thượng đế, một hóa thân có thể xuất hiện trong hệ hành tinh của Ngài, trên bầu thứ bảy tính từ trung tâm vũ trụ hay vì sao vốn được một Rishi đặc thù (trong chòm sao Đại Hùng) phú linh—Đấng là nguyên mẫu vũ trụ của Ngài.

147. We now seem to be speaking of yet another kind of solar avatar.

147. Giờ đây dường như chúng ta đang nói đến một loại Đấng Hoá Thân Thái dương khác nữa.

148. Thus far we have spoken of:

148. Tới đây, chúng ta đã nói về:

a. A “Karmic Avatar” Who supervises the karmic processes of all Planetary Logoi

a. Một “Đấng Hoá Thân Nghiệp Quả” Đấng giám sát các tiến trình nghiệp quả của mọi Hành Tinh Thượng đế

b. A solar avatar whose appearance coincides with the activation of the planetary heart in any particular planet

b. Một Đấng Hoá Thân Thái dương mà sự xuất hiện của Ngài trùng hợp với sự hoạt hóa tim hành tinh ở bất kỳ hành tinh đặc thù nào

149. We are now told of the appearance of an apparently solar avatar at the initiation of a Planetary Logos.

149. Giờ chúng ta được cho biết về sự xuất hiện của một Đấng Hoá Thân dường như là thái dương vào lúc điểm đạo của một Hành Tinh Thượng đế.

150. This avatar appears on the seventh globe, but this will depend upon the chain in which the Planetary Logos is taking initiation. It is ambiguous to speak of the seventh globe of a scheme.

150. Hóa thân này xuất hiện trên bầu thứ bảy, nhưng điều này sẽ tùy thuộc vào dãy mà Hành Tinh Thượng đế đang thọ điểm đạo trong đó. Nói “bầu thứ bảy của một hệ hành tinh ” là mơ hồ.

151. For instance, because our Planetary Logos is taking initiation in His fourth chain, such an avatar would appear on the seventh globe of the fourth chain.

151. Chẳng hạn, vì Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang thọ điểm đạo trong dãy thứ tư của Ngài, một hóa thân như vậy sẽ xuất hiện trên bầu thứ bảy của dãy thứ tư.

152. This type of avatar comes from one of the Rishis of the Great Bear Who is the cosmic prototype of the Planetary Logos in question.

152. Loại hóa thân này đến từ một trong các Rishi của Đại Hùng—Đấng là nguyên mẫu vũ trụ của Hành Tinh Thượng đế liên hệ.

153. There are seven Rishis of the Great Bear and many more Planetary Logoi in our solar system. Our Planetary Logos is found upon the third, second and first rays respectively—considering, in sequence, the personality, soul and Monad.

153. Có bảy Rishi của Đại Hùng và còn nhiều Hành Tinh Thượng đế trong hệ mặt trời của chúng ta. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta lần lượt thuộc các cung ba, hai và một—xét theo thứ tự phàm ngã, linh hồn và Chân thần.

154. Which Rishi of the Great Bear, then, is the cosmic prototype of our Planetary Logos. Is it ultimately the first Rishi because our Planetary Logos has a first ray Monad (which is, however, at this time, non-effective); or is it the Rishi of the second star Mizar, because our Planetary Logos is attempting now to express His second ray soul? Or is the Rishi the third ray Logos, Alioth, simply because still the most powerful ray upon our planet at this time is the third ray? These questions demand deep pondering and, even so, a definitely correct answer may not be available to such as we are.

154. Vậy Rishi nào của Đại Hùng là nguyên mẫu vũ trụ của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta ? Rốt cuộc có phải là Rishi thứ nhất vì Hành Tinh Thượng đế của chúng ta có Chân thần cung một (tuy hiện thời chưa hiệu lực); hay là Rishi của ngôi sao thứ hai, Mizar, vì Hành Tinh Thượng đế của chúng ta hiện đang cố gắng biểu lộ linh hồn cung hai của Ngài? Hay Rishi là Thượng đế cung ba, Alioth, đơn giản vì cung mạnh nhất trên hành tinh chúng ta lúc này vẫn là cung ba? Những câu hỏi này đòi hỏi phải nghiền ngẫm sâu và, dù vậy, một câu trả lời hoàn toàn chính xác có thể vẫn không có đối với những kẻ như chúng ta.

This is, for the Entity concerned, the taking of a physical form, for our higher planes are but matter from Their stand­point.

Đối với Thực Thể liên hệ, đây là việc thọ nhận một hiện thể hồng trần, vì các cõi cao của chúng ta chỉ là chất liệu theo quan điểm của Các Ngài.

155. We are still speaking of the coming of a third type of solar avatar who appears at the initiation of a Planetary Logos.

155. Chúng ta vẫn đang nói về sự quang lâm của loại Đấng Hoá Thân Thái dương thứ ba—Đấng xuất hiện vào lúc điểm đạo của một Hành Tinh Thượng đế.

156. It is suggested that the seventh globe is composed of matter of “our higher planes”.

156. Gợi ý rằng bầu thứ bảy được cấu thành bởi chất liệu của “các cõi cao của chúng ta”.

157. We are seeing that these first two types of avatars (cosmic and solar) are of so high a nature that when they come to express themselves (even on the highest or higher levels of the cosmic physical plane) it is for them the “taking of a physical form”. Perhaps our sense of scale needs adjusting. We are so preoccupied with the dense worlds.

157. Chúng ta đang thấy rằng hai loại hóa thân đầu tiên (vũ trụ và thái dương) cao đến mức khi Các Ngài đến biểu lộ (dẫu trên các cấp cao nhất hay cao hơn của cõi hồng trần vũ trụ) thì đối với Các Ngài đó là “thọ nhận một hiện thể hồng trần”. Có lẽ cảm thức về tỉ lệ của chúng ta cần được điều chỉnh. Chúng ta quá bận tâm với các thế giới đậm đặc.

This has been emphasised frequently, as its signifi­cance is not yet sufficiently grasped.

Điểm này đã được nhấn mạnh nhiều lần, vì ý nghĩa của nó vẫn chưa được nắm bắt đủ.

158. Exactly the point. We hear words and then nod our heads. We do not know what those words really mean.

158. Chính là điều này. Chúng ta nghe các lời và rồi gật đầu. Chúng ta không thực biết những lời ấy thật sự có nghĩa gì.

By means of the appearance of this Avatar on the seventh globe, the planetary Logos is [726] enabled to preserve continuity of cosmic consciousness even when in physical incarnation;

Nhờ sự xuất hiện của Hóa Thân này trên bầu thứ bảy, Hành Tinh Thượng đế được [726] cho phép bảo toàn tính liên tục của tâm thức vũ trụ ngay cả khi đang lâm phàm hồng trần;

159. This is quite an amazing thought. Perhaps we have not yet thought that, from the cosmic perspective, a Planetary Logos may not have achieved continuity of consciousness with respect to His physical incarnation.

159. Đây là một ý tưởng thực sự đáng kinh ngạc. Có lẽ chúng ta chưa từng nghĩ rằng, từ viễn cảnh vũ trụ, một Hành Tinh Thượng đế có thể chưa đạt tính liên tục của tâm thức đối với sự lâm phàm hồng trần của Ngài.

160. Continuity of cosmic consciousness would involve consciousness of that which was transpiring upon, for instance, the cosmic astral and cosmic mental planes, even while in incarnation upon the cosmic physical plane.

160. Tính liên tục của tâm thức vũ trụ sẽ bao hàm tâm thức về những gì đang diễn ra, chẳng hạn, trên các cõi cảm dục vũ trụ và trí tuệ vũ trụ, ngay cả trong khi đang lâm phàm trên cõi hồng trần vũ trụ.

161. Can it be then that (paralleling the state of affairs existing in relation to man) a Planetary Logos Who does not have such continuity of consciousness does not realize, while in physical incarnation, just what may be happening in His astral body and mental body or on the cosmic planes on which those bodies are found?

161. Vậy có thể chăng (song hành với tình trạng của con người) một Hành Tinh Thượng đế chưa có được tính liên tục tâm thức thì khi lâm phàm hồng trần, Ngài không nhận biết, ngay lúc ấy, điều gì có thể đang xảy ra trong thể cảm dục và thể trí của Ngài hay trên các cõi vũ trụ nơi các thể ấy an trụ?

162. We have to understand the significance of the “seventh globe” and why the globe numbered seven should have particular relevance in this process. It is apparently a globe formed of cosmic ethers and it may be this fact which allows the link to the cosmic planes higher than the cosmic physical plane.

162. Chúng ta phải thấu hiểu ý nghĩa của “bầu thứ bảy” và vì sao bầu đánh số bảy lại có liên hệ đặc thù trong tiến trình này. Hiển nhiên đó là một bầu được hình thành bởi dĩ thái vũ trụ và có lẽ chính thực tế này cho phép mối nối đến các cõi vũ trụ cao hơn cõi hồng trần vũ trụ.

163. DK still speaks in terms of a Logos and a “globe”. He does not speak in terms of a chain in which that seventh globe will be found, as would seem to be necessary. Why is this?

163. Chân sư DK vẫn nói theo thuật ngữ một Thượng đế và một “bầu”. Ngài không nói theo thuật ngữ một dãy trong đó bầu thứ bảy sẽ được thấy, như lẽ ra là cần thiết. Vì sao vậy?

this solar avatar performs the same function for the planetary Logos as the Guru does for His disciple.

Đấng Hoá Thân Thái dương này làm cùng chức năng đối với Hành Tinh Thượng đế như Đạo sư làm đối với đệ tử của Ngài.

164. Here we have the microcosmic analogy. And what, then, is the seventh “globe” of man? Is it his seventh chakra and, thus, his head center? Is it his seventh or atmic vehicle?

164. Ở đây chúng ta có phép tương đồng vi quan. Vậy, “bầu thứ bảy” của con người là gì? Nó có phải là luân xa thứ bảy và, như thế, là trung tâm đầu? Hay đó là hiện thể thứ bảy, tức thể atma?

165. It becomes clear that we disciples need our gurus! At least this is so if certain occult processes are to be inaugurated and successfully sustained.

165. Rõ ràng rằng chúng ta—những đệ tử—cần các Đạo sư của mình! Ít nhất là như vậy nếu một số tiến trình huyền linh nào đó phải được khai mở và duy trì thành công.

166. A disciple’s guru facilitates the disciple’s awareness of that which transpires on planes higher than the systemic etheric-physical plane.

166. Đạo sư của một đệ tử tạo thuận lợi cho nhận thức của đệ tử về những gì diễn ra trên các cõi cao hơn cõi dĩ thái-hồng trần hệ thống.

He makes certain events possible by means of the stimulation and protection of His aura, and He acts as a transmitter of electrical energy from the cosmic centre.  We must be careful to hold this analogy very lightly, for the real work accomplished cannot be grasped by man.

Ngài khiến những biến cố nhất định có thể xảy ra nhờ sự kích thích và bảo hộ của hào quang Ngài, và Ngài hành động như một bộ phận truyền dẫn năng lượng điện từ trung tâm vũ trụ. Chúng ta phải cẩn trọng nắm giữ phép tương đồng này một cách rất nhẹ nhàng, vì công việc thực sự được hoàn tất là điều vượt ngoài tầm nắm bắt của con người.

167. The words “cosmic centre” have now been used a few times.

167. Từ “trung tâm vũ trụ” giờ đã được dùng vài lần.

a. When discussing cosmic avatars the words “our cosmic centre” was used and can reasonably be supposed to suggest the Pleiades.

a. Khi bàn về các Đấng Hoá Thân vũ trụ, từ “trung tâm vũ trụ của chúng ta” đã được dùng và có thể được suy là gợi đến chòm Thất Nữ.

b. Here one of the Rishis of the Great Bear (the Rishi which is prototypical to any particular Planetary Logos) is called a “cosmic centre” and that which comes forth from it is a solar avatar and not a cosmic avatar. We remember that the third star in the Great Bear was given as the source of a cosmic avatar.

b. Ở đây một trong các Rishi của Đại Hùng (Rishi vốn là nguyên mẫu vũ trụ của bất kỳ Hành Tinh Thượng đế nào) được gọi là “trung tâm vũ trụ” và cái xuất phát từ đó là một Đấng Hoá Thân thái dương chứ không phải một Đấng Hoá Thân vũ trụ . Chúng ta nhớ rằng ngôi sao thứ ba trong Đại Hùng đã được nêu như nguồn của một Đấng Hoá Thân vũ trụ .

168. This type of solar avatar conveys “electrical energy” from the particular Rishi in question.

168. Loại Đấng Hoá Thân Thái dương này truyền dẫn “năng lượng điện” từ Rishi đặc thù đang xét.

169. Note the Tibetan’s suggestion that we hold an analogy “lightly”. This is very sound advice. There are loose analogies and tight ones. When we know very little of the higher member an analogical dyad, it is wise to hold the analogy lightly or loosely.

169. Ghi nhận gợi ý của vị Tây Tạng rằng chúng ta nên nắm giữ một phép tương đồng “nhẹ nhàng”. Đây là lời khuyên rất xác đáng. Có những tương đồng lỏng và chặt. Khi chúng ta biết rất ít về thành phần bậc cao hơn trong một cặp tương đồng, khôn ngoan là giữ phép tương đồng một cách nhẹ nhàng hay lỏng lẻo.

170. When a disciple’s guru focuses upon or within a seventh point within the disciple’s energy system, with what source or energy system is the guru allowing the disciple to be connected?

170. Khi Đạo sư của một đệ tử tập trung vào hay trong một điểm thứ bảy nào đó trong hệ năng lượng của đệ tử, Đạo sư đang cho phép đệ tử nối với nguồn hay hệ năng lượng nào?

This avatar has naturally a direct effect upon the centres of the Heavenly Man and therefore upon the units or human Monads, but only indirectly and upon the Monad on its own plane.

Hóa thân này dĩ nhiên có tác động trực tiếp lên các trung tâm của Đấng Thiên Nhân và do đó lên các đơn vị hay các Chân thần nhân loại, nhưng chỉ gián tiếp lên Chân thần trên chính cõi của mình.

171. Here we speak of the effect of this type of avatar—

171. Ở đây chúng ta nói về tác động của loại hóa thân này—

a. Upon the centres of a Heavenly Man

a. Lên các trung tâm của một Đấng Thiên Nhân

b. Upon the units or human Monads who comprise such centers (including, we may presume, certain deva Monads who also go to the constitution of the centers of a Heavenly Man)

b. Lên các đơn vị hay các Chân thần nhân loại cấu thành các trung tâm như thế (bao gồm, chúng ta có thể giả định, cả các Chân thần thiên thần cũng góp phần cấu thành các trung tâm của một Đấng Thiên Nhân)

172. DK says something very interesting here. Usually He tells us that the centers of a Heavenly Man are found on the fourth ether. To suppose this is the case is not analogically rigorous, because man has some of His centers on the third, second and first ethers.

172. Chân sư DK nói điều rất thú vị ở đây. Thông thường Ngài cho chúng ta biết rằng các trung tâm của một Đấng Thiên Nhân được tìm thấy trên dĩ thái bậc bốn. Giả định như vậy là không nghiêm ngặt theo phép tương đồng, vì con người có một số trung tâm của mình ở các dĩ thái bậc ba, hai và một.

173. Nevertheless, the Monad on its own plane is expressing though the second cosmic ether. DK seems to be telling us that this type of solar avatar does not have an effect upon the second cosmic ether where the Monads are focussed, but only on lower ethers (for instance the fourth) whereon the centers of the Heavenly Man may be found—according to the way DK usually describes their location).

173. Tuy nhiên, Chân thần trên chính cõi của mình biểu lộ qua dĩ thái vũ trụ bậc hai. Chân sư DK dường như cho biết rằng loại Đấng Hoá Thân Thái dương này không tác động lên dĩ thái vũ trụ bậc hai nơi các Chân thần tập trung, mà chỉ lên các dĩ thái thấp hơn (chẳng hạn dĩ thái bậc bốn) nơi các trung tâm của Đấng Thiên Nhân có thể được tìm thấy—theo cách mô tả thường thấy của DK.

174. We do know that human Monads (as the members of the Fourth Creative Hierarchy) tend to express themselves upon the fourth cosmic ether (as the Tabulation in Esoteric Astrology, 35, shows). Thus, these Monads are units within the centers of the Heavenly Man which express on the buddhic plane. There are also, however, higher centers upon the monadic plane, where man in his true monadic nature is focussed. What are these centers? Are we justified in calling them centers in a Planetary Logos? Or are they centers in a Solar Logos?

174. Chúng ta biết rằng các Chân thần nhân loại (với tư cách là Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư) có xu hướng biểu lộ trên dĩ thái vũ trụ bậc bốn (như Bảng ở Chiêm Tinh Học Nội Môn, tr. 35 cho thấy). Vậy, các Chân thần này là những đơn vị trong các trung tâm của Đấng Thiên Nhân vốn biểu lộ trên cõi Bồ đề. Tuy nhiên, cũng có các trung tâm cao hơn trên cõi Chân thần, nơi con người trong bản tính chân thần thật sự của mình tập trung. Các trung tâm này là gì? Chúng ta có hợp lý khi gọi chúng là các trung tâm trong một Hành Tinh Thượng đế? Hay đó là các trung tâm trong một Thái dương Thượng đế?

175. When we look at Chart VIII, TCF 823, and see that man has chakras on all four systemic ethers, are we justified in thinking that both Planetary Logoi and Solar Logoi have chakras on more cosmic ethers than only the fourth, or that only Solar Logoi have chakras on more than the fourth cosmic ether?

175. Khi nhìn Biểu Đồ VIII, TCF 823, và thấy rằng con người có các luân xa trên cả bốn dĩ thái hệ thống, liệu chúng ta có hợp lý khi nghĩ rằng cả Hành Tinh Thượng đế lẫn Thái dương Thượng đế đều có các luân xa trên nhiều dĩ thái vũ trụ hơn chỉ riêng dĩ thái bậc bốn, hay rằng chỉ các Thái dương Thượng đế mới có các luân xa trên nhiều dĩ thái vũ trụ hơn dĩ thái bậc bốn?

176. These are deep questions not easily resolved. We seek an answer which preserves analogical symmetry. In some ways, it simply does not make sense that a Planetary Logos or Solar Logos would have chakras only on the fourth cosmic ether and not on at least some of the other cosmic ethers. Man has chakras on all the systemic ethers.

176. Đây là những câu hỏi sâu xa khó giải. Chúng ta tìm một câu trả lời bảo tồn được tính đối xứng tương đồng. Theo một số cách, thật đơn giản là vô lý khi cho rằng một Hành Tinh Thượng đế hay Thái dương Thượng đế sẽ chỉ có các luân xa duy trên dĩ thái vũ trụ thứ tư mà không có ở ít nhất một vài dĩ thái vũ trụ khác. Con người có các luân xa trên tất cả các dĩ thái hệ thống .

177. When, in other section of text, DK tells us that human and deva Monads go to the constitution of the centers of a Planetary Logos, He may not only be referencing those centers which are found on the monadic plane, but, rather, on lower planes such as the buddhic plane.

177. Khi, ở các phần văn bản khác, Chân sư DK cho biết rằng các Chân thần nhân loại và thiên thần góp phần cấu thành các trung tâm của một Hành Tinh Thượng đế, Ngài có thể không chỉ ám chỉ những trung tâm được tìm thấy trên cõi Chân thần, mà đúng hơn, là trên các cõi thấp hơn như cõi Bồ đề.

178. The human Monad has its extensions and it may also be these extensions which are said to go to the constitution of the centers of a Planetary Logos.

178. Chân thần nhân loại có các sự phóng chiếu của mình và cũng có thể chính các phóng chiếu này được nói là góp phần cấu thành các trung tâm của một Hành Tinh Thượng đế.

This influence meets with little response from the Monad until after the third Initiation when its conscious life becomes so strong that it grips afresh its egoic expression in one direction, and awakens to planetary realisation in another.

Ảnh hưởng này gặp rất ít đáp ứng từ Chân thần cho đến sau lần Điểm đạo thứ ba khi đời sống có ý thức của nó trở nên mạnh đến nỗi nó nắm bắt lại biểu lộ chân ngã của mình theo một hướng, và thức tỉnh đến nhận biết tính hành tinh theo một hướng khác.

179. Now, are we talking about the Monad in expression on lower planes or about the Monad on its own plane? In this context, it would seem that we are speaking of the Monad on its own plane, the second, acting (through the spiritual triad and perhaps directly) in relation to its egoic expression on the higher mental plane. This means that at the third initiation of man, this type of solar avatar has a more direct effect upon the Monad on its own plane.

179. Giờ đây, chúng ta đang nói về Chân thần trong biểu lộ trên các cõi thấp hay về Chân thần trên chính cõi của nó? Trong bối cảnh này, có vẻ chúng ta đang nói về Chân thần trên chính cõi của nó, tức cõi thứ hai, hành động (thông qua Tam nguyên tinh thần và có lẽ trực tiếp) liên hệ với biểu lộ chân ngã của nó trên cõi hạ trí cao. Điều này có nghĩa là, vào lần điểm đạo thứ ba của con người, loại Đấng Hoá Thân Thái dương này có tác động trực tiếp hơn lên Chân thần trên chính cõi của nó.

180. We note that the Monad has “conscious life” and that this conscious life can change, become stronger. This hardly fits with the thought that the Monad is a kind of ‘passive essence’.

180. Chúng ta ghi nhận rằng Chân thần có “đời sống có ý thức” và đời sống có ý thức này có thể thay đổi, trở nên mạnh hơn. Điều này khó phù hợp với ý nghĩ cho rằng Chân thần là một thứ ‘tinh túy thụ động’.

181. Something definitely happens to the Monad at the third initiation. In one respect, it simply becomes more conscious.

181. Có một điều chắc chắn xảy ra với Chân thần ở lần điểm đạo thứ ba. Ở một phương diện, nó đơn giản trở nên có ý thức hơn.

182. It grips its egoic vehicle (which itself, has gripped the personality vehicles) and also reaches towards greater identification with the planetary life. It looks in two directions simultaneously. The Monad becomes, metaphorically, “Janus”, the two-headed god.

182. Nó nắm lấy vận cụ chân ngã của mình (vốn tự nó đã nắm lấy các vận cụ phàm ngã) và cũng vươn tới sự đồng nhất lớn hơn với sự sống hành tinh. Nó nhìn theo hai hướng đồng thời. Chân thần trở thành, theo ẩn dụ, “Janus”, vị thần hai đầu.

183. In any case, at the third initiation, this type of solar avatar has a stronger influence on the Monad (whether the Monad in expression on triadal planes or the Monad on its own plane).

183. Dù sao, ở lần điểm đạo thứ ba, loại Đấng Hoá Thân Thái dương này có ảnh hưởng mạnh hơn lên Chân thần (dù là Chân thần trong biểu lộ trên các cõi Tam nguyên tinh thần hay Chân thần trên chính cõi của nó).

184. Reviewing—Monads express upon the fourth cosmic ether and focus “on their own plane” on the second cosmic ether.

184. Nhắc lại—các Chân thần biểu lộ trên dĩ thái vũ trụ bậc bốn và tập trung “trên chính cõi của mình” là dĩ thái vũ trụ bậc hai.

This type of avatar appears only at the time of the initiation of a planetary Logos.

Loại hóa thân này chỉ xuất hiện vào lúc điểm đạo của một Hành Tinh Thượng đế.

185. DK reaffirms the point.

185. Chân sư DK xác quyết lại điểm này.

The number of initiations taken by a planetary Logos in this system vary from two to four.

Số lần điểm đạo được một Hành Tinh Thượng đế thọ lãnh trong hệ này dao động từ hai đến bốn.

186. This is a dynamite ‘sleeper sentence’ which holds the clue to a number of other mysteries.

186. Đây là một câu ‘âm thầm’ nhưng sức công phá dữ dội, vốn nắm chìa khóa cho một số huyền bí khác.

187. It does not mean that all Planetary Logoi have at this point taken from two to four initiations, but that, during the duration of the solar system, from two to four initiations will be taken by such Logoi.

187. Điều này không có nghĩa là tất cả các Hành Tinh Thượng đế vào thời điểm này đã thọ từ hai đến bốn lần điểm đạo, mà là, trong suốt thời kỳ của hệ mặt trời, các Ngài sẽ thọ từ hai đến bốn lần điểm đạo.

188. We co not know whether DK means cosmic initiations or initiations which are part of a series of seven (cf. TCF 384)

188. Chúng ta không biết liệu Chân sư DK muốn nói đến các cuộc điểm đạo vũ trụ hay các cuộc điểm đạo vốn là một phần của chuỗi bảy (x. TCF 384)

189. As discussed in earlier commentaries, our Planetary Logos has seven initiations for “objective” and the second cosmic initiation is His “goal”.

189. Như đã bàn ở các bình giảng trước, Hành Tinh Thượng đế của chúng ta có bảy lần điểm đạo làm “mục tiêu” và lần điểm đạo vũ trụ thứ hai là “đích” của Ngài.

190. Of our Solar Logos, it is said that He has nine initiations for “objective” and the third cosmic initiation for His “goal”.

190. Về Thái dương Thượng đế của chúng ta, có nói rằng Ngài có chín lần điểm đạo làm “mục tiêu” và lần điểm đạo vũ trụ thứ ba làm “đích”.

191. We have suggested that the series of seven or nine are not “cosmic” but, rather, intra-planetary or intra-solar initiations taking place through planetary chains and ‘solar chains’ (another way of referring to planetary schemes).

191. Chúng ta đã gợi ý rằng chuỗi bảy hay chín này không phải là “vũ trụ” mà đúng hơn, là các điểm đạo nội hành tinh hay nội thái dương diễn ra thông qua các dãy hành tinh và ‘các dãy thái dương’ (một cách khác để gọi các hệ hành tinh ).

192. We assume that DK is discussing objectives and goals for this solar system or this particular incarnation of our Planetary Logos and Solar Logos.

192. Chúng ta giả định rằng Chân sư DK đang bàn về các mục tiêu và đích cho hệ mặt trời này hay cho kiếp hiện tại này của Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế của chúng ta.

193. If the series designated as having seven or nine initiations extended into the next solar system we would have to interpret the matter entirely differently.

193. Nếu chuỗi được chỉ định là có bảy hay chín lần điểm đạo kéo dài sang hệ mặt trời kế tiếp, chúng ta sẽ phải diễn giải vấn đề hoàn toàn khác.

194. We have to be very careful about how we interpret the thought that the number of initiations to be taken by a Planetary Logos in this system vary from two to four. This may mean:

194. Chúng ta phải hết sức cẩn trọng về cách chúng ta diễn giải ý tưởng rằng số lần điểm đạo mà một Hành Tinh Thượng đế sẽ thọ lãnh trong hệ này dao động từ hai đến bốn. Điều này có thể có nghĩa là:

a. Two to four cosmic initiations

a. Từ hai đến bốn cuộc điểm đạo vũ trụ

b. Or between two and four of any of those initiations taken in a series of seven

b. Hoặc từ hai đến bốn trong số bất kỳ các cuộc điểm đạo thuộc chuỗi bảy

c. Or the second, third or fourth cosmic initiations

c. Hoặc các cuộc điểm đạo vũ trụ thứ hai, thứ ba hay thứ tư

d. Or only the second through fourth initiations in a series of seven

d. Hoặc chỉ các lần điểm đạo thứ hai đến thứ tư trong một chuỗi bảy

195. We will have to determine whether DK is speaking of:

195. Chúng ta sẽ phải xác định liệu Chân sư DK đang nói về:

a. Initiations designated by a certain number (i.e., the second initiation, the third initiation, the fourth initiation etc.)

a. Các cuộc điểm đạo được chỉ định bằng một số nhất định (tức lần điểm đạo thứ hai, lần điểm đạo thứ ba, lần điểm đạo thứ tư, v.v.)

b. A specific number of initiations—the taking of two initiation, the taking of three initiation, the taking of four initiation, etc.

b. Một số lượng cụ thể các cuộc điểm đạo —thọ lãnh hai lần điểm đạo, thọ lãnh ba lần điểm đạo, thọ lãnh bốn lần điểm đạo, v.v.

196. The second option seems far more reasonable and likely.

196. Lựa chọn thứ hai có vẻ hợp lý và khả tín hơn nhiều.

197. Our Planetary Logos is taking His fourth in a series of seven lesser initiations and has the second cosmic initiation as His goal. Applying this important sentence to our Planetary Logos, the following diverse thoughts emerge:

197. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang thọ lãnh lần thứ trong một chuỗi bảy lần điểm đạo nhỏ và có lần điểm đạo vũ trụ thứ hai làm đích. Áp dụng câu hệ trọng này vào Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, các ý tưởng đa dạng sau nổi lên:

a. Our Planetary Logos is taking His fourth initiation in a series of seven and therefore will not take any more initiations in this series during this system. This would suggest that He had taken the first initiation in this series of seven in this solar system. This option (listed under point “a.” is highly unlikely. It is reasonable that more initiations in the series of seven lie ahead.

a. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang thọ lần điểm đạo thứ tư trong chuỗi bảy và do đó sẽ không thọ thêm lần điểm đạo nào trong chuỗi này trong hệ này. Điều này sẽ gợi rằng Ngài đã thọ lần điểm đạo thứ nhất trong chuỗi bảy trong hệ mặt trời này . Phương án này (được liệt kê dưới “a.”) rất khó xảy ra. Hợp lý là còn nhiều lần điểm đạo trong chuỗi bảy đang ở phía trước.

b. Our Planetary Logos may take from two to four initiations in the series of seven in this solar system. We do not know whether the fourth initiation He is on the verge of taking is the first one He is taking in this system (doubtful) but, in any case, He can only take from two to four initiations. (This is possible as long as the requisite number of cosmic initiations can be taken and we do not know what that requisite number is. We also do not know the formula relating the lesser initiations to the cosmic initiations, or whether these two types of initiations are taken in a simultaneous, interleaved or sequential manner:

b. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta có thể thọ từ hai đến bốn lần điểm đạo trong chuỗi bảy trong hệ mặt trời này. Chúng ta không biết liệu lần điểm đạo thứ tư mà Ngài sắp thọ có phải là lần đầu tiên Ngài thọ trong hệ này (điều này đáng ngờ) nhưng, dù sao, Ngài chỉ có thể thọ từ hai đến bốn lần điểm đạo. (Điều này khả hữu miễn là có thể thọ số lần điểm đạo vũ trụ tương ứng và chúng ta không biết con số tương ứng đó là bao nhiêu. Chúng ta cũng không biết công thức liên hệ các lần điểm đạo nhỏ với các lần điểm đạo vũ trụ, hay liệu hai loại điểm đạo này được thọ theo cách đồng thời, xen kẽ hay tuần tự:

i. Simultaneous manner: for instance, the fifth lesser initiation and second cosmic initiation be taken simultaneously

i. Cách đồng thời: chẳng hạn, lần điểm đạo nhỏ thứ năm và lần điểm đạo vũ trụ thứ hai được thọ đồng thời

ii. Interleaved manner: for instance, the fifth lesser initiation is taken either before or after the second cosmic initiation. Both the second cosmic and fifth cosmic initiations are impending.

ii. Cách xen kẽ: chẳng hạn, lần điểm đạo nhỏ thứ năm được thọ hoặc trước hoặc sau lần điểm đạo vũ trụ thứ hai. Cả lần điểm đạo vũ trụ thứ hai và lần điểm đạo vũ trụ thứ năm đều cận kề.

iii. Sequential manner: all seven lesser initiations be taken before the second cosmic initiation can be taken

iii. Cách tuần tự: toàn bộ bảy lần điểm đạo nhỏ được thọ trước khi lần điểm đạo vũ trụ thứ hai có thể được thọ

c. Our Planetary Logos has not yet taken His second cosmic initiation but it is possible for Him to take also the third and fourth cosmic initiation in this solar system, especially if His first cosmic initiation was also taken in this solar system.

c. Hành Tinh Thượng đế của chúng ta chưa thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ hai, nhưng cũng có thể Ngài sẽ thọ cả lần điểm đạo vũ trụ thứ ba và thứ tư trong hệ mặt trời này, đặc biệt nếu lần điểm đạo vũ trụ thứ nhất của Ngài cũng đã được thọ trong hệ mặt trời này.

d. If our Planetary Logos’ second cosmic initiation is the first cosmic initiation He will be taking in this solar system, then it is also possible that He could take His fifth cosmic initiation in this solar system. This would fit well if our Planetary Logos is to stand for the base of the spine center of our Solar Logos and our Solar Logos it to take His fifth cosmic initiation in this solar system (as is sometime suggested).

d. Nếu lần điểm đạo vũ trụ thứ hai của Hành Tinh Thượng đế chúng ta là lần điểm đạo vũ trụ đầu tiên Ngài thọ trong hệ mặt trời này, thì cũng có thể Ngài sẽ thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ năm trong hệ mặt trời này . Điều này sẽ rất ăn khớp nếu Hành Tinh Thượng đế của chúng ta là trung tâm đáy cột sống của Thái dương Thượng đế và Thái dương Thượng đế của chúng ta sẽ thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ năm trong hệ mặt trời này (như đôi khi được gợi ý).

198. As we see, much depends on whether, when we read of two to four initiations we think:

198. Như chúng ta thấy, rất nhiều điều tùy thuộc vào việc khi đọc rằng có từ hai đến bốn lần điểm đạo, chúng ta nghĩ:

a. This number applies to the second, third and fourth initiations (far less likely)

a. Con số này áp dụng cho các lần điểm đạo thứ hai, thứ ba và thứ tư (khả năng thấp hơn nhiều)

b. This number simply tells how many initiations a Planetary Logos may take in a particular solar system (more likely)

b. Con số này đơn giản cho biết bao nhiêu lần điểm đạo mà một Hành Tinh Thượng đế có thể thọ trong một hệ mặt trời cụ thể (khả năng cao hơn)

199. If the second and more likely option is correct, it appears that a Planetary Logos, just as is the case for a man, may make more or less progress according to His efforts.

199. Nếu lựa chọn thứ hai và có khả năng hơn là đúng, thì có vẻ một Hành Tinh Thượng đế, cũng như con người, có thể tiến bộ nhiều hay ít tùy theo nỗ lực của Ngài.

200. If a Planetary Logos made less progress, however, it would seem to limit the possible progress of the Solar Logos. If our Solar Logos is actually to take His fifth major initiation (as is suggested on TCF 605)

200. Tuy nhiên, nếu một Hành Tinh Thượng đế tiến bộ ít hơn, thì dường như điều đó sẽ giới hạn khả năng tiến bộ của Thái dương Thượng đế. Nếu Thái dương Thượng đế của chúng ta thực sự sẽ thọ lần điểm đạo đại thứ năm (như được gợi trên TCF 605)

The 5th Mahamanvantara (or solar system) The solar Logos achieves His fifth major Initiation. (TCF 605)

Đại giai kỳ sinh hóa thứ 5 (hoặc hệ mặt trời) Thái dương Thượng đế đạt đến lần Điểm đạo chính yếu thứ năm của Ngài. (TCF 605)

then our planetary scheme (which is often designated as the solar logoic base of the spine center) would have to have developed sufficiently to serve in that function. Conceivably, this would require the fifth major initiation of the planetary scheme, and would mean that the number of initiations (from two to four) would refer to cosmic initiations.

khi đó hệ hành tinh của chúng ta (thường được gọi là trung tâm đáy cột sống mang tính thái dương-thượng đế) sẽ phải phát triển đầy đủ để phục vụ trong chức năng ấy. Khả dĩ, điều này sẽ đòi hỏi lần điểm đạo chính yếu thứ năm của hệ hành tinh, và sẽ có nghĩa là con số các lần điểm đạo (từ hai đến bốn) sẽ ám chỉ các lần điểm đạo mang tính vũ trụ .

201. The matter under consideration is intricate. While we can be sure that the sentence in question has great interpretive value, we cannot be exactly sure how to apply it.

201. Vấn đề đang xét rất rắc rối. Tuy chúng ta có thể chắc rằng câu văn đang bàn có giá trị diễn giải lớn, chúng ta không thể hoàn toàn chắc chắn cách áp dụng nó.

202. Since, for instance, our Planetary Logos has seven chains in His scheme, it is likely that in this system He will take an initiation on each of these chains. This probably accounts for the series of seven initiations which appear to be of a lesser kind.

202. Chẳng hạn, vì Hành Tinh Thượng đế của chúng ta có bảy dãy trong hệ của Ngài, có khả năng là trong hệ này Ngài sẽ thọ một lần điểm đạo trên mỗi dãy ấy. Điều này có lẽ giải thích cho chuỗi bảy lần điểm đạo dường như thuộc loại thấp hơn.

203. We are deducing that the words “from two to four initiations” probably refer to cosmic initiations.

203. Chúng ta suy luận rằng các chữ “từ hai đến bốn lần điểm đạo” nhiều khả năng ám chỉ các lần điểm đạo mang tính vũ trụ .

204. Our Solar Logos is due to take cosmic initiations three and four, and perhaps, five. We note that DK did not tell us how many initiations our Solar Logos could take in this solar system. The number, apparently, is variable, as one reference suggests that the fourth initiation is His goal and the other the fifth.

204. Thái dương Thượng đế của chúng ta sẽ thọ các lần điểm đạo vũ trụ thứ ba và thứ tư, và có lẽ cả thứ năm. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK đã không nói cho chúng ta biết Thái dương Thượng đế của chúng ta có thể thọ bao nhiêu lần điểm đạo trong hệ mặt trời này. Con số ấy, rõ ràng, là biến thiên, vì một dẫn liệu gợi rằng lần điểm đạo thứ tư là mục tiêu của Ngài, còn dẫn liệu khác lại gợi lần thứ năm.

Then, in a dual synthesis, they will pass on into the third system, that in which the Power aspect is developed, and the head centres will be complete.  This achieved, our Logos has triumphed, and measured up to the sixth cosmic Initiation, just as He should measure up in this system to the fourth. (TCF 590)

Rồi, trong một tổng hợp kép, Các Ngài sẽ chuyển sang hệ thứ ba, hệ trong đó Phương diện Quyền lực được phát triển, và các trung tâm đầu sẽ viên mãn. Khi đạt được điều này, Thượng đế của chúng ta đã khải hoàn, và vươn tới lần Điểm đạo vũ trụ thứ sáu, cũng như Ngài phải vươn tới lần thứ tư trong hệ này. (TCF 590)

205. It may be that the schemes of a Solar Logos are numbered as nine with the tenth scheme related to the first. As for the series of nine initiations which are the “objective” of a Solar Logos, it is likely that they have something to do with initiations through the schemes of His solar system—at least through the better known schemes.

205. Có thể các hệ của một Thái dương Thượng đế được đánh số là chín với hệ thứ mười liên hệ với hệ thứ nhất. Còn chuỗi chín lần điểm đạo là “mục tiêu” của một Thái dương Thượng đế, thì có khả năng chúng có liên hệ đến các lần điểm đạo thông qua các hệ của hệ mặt trời của Ngài—ít nhất là qua những hệ được biết đến nhiều hơn.

206. It may well be the case that the cosmic initiations which apply to a Planetary Logos are not the same kind of cosmic initiations which apply to a Solar Logos.

206. Cũng rất có thể các lần điểm đạo vũ trụ áp dụng cho một Hành Tinh Thượng đế không cùng loại với các lần điểm đạo vũ trụ áp dụng cho một Thái dương Thượng đế.

207. We can see how much questioning can arise from the simple sentence—

207. Chúng ta có thể thấy bao nhiêu câu hỏi có thể nảy sinh chỉ từ câu văn đơn giản—

The number of initiations taken by a planetary Logos in this system vary from two to four.

Số lần điểm đạo mà một Hành Tinh Thượng đế thọ trong hệ này biến thiên từ hai đến bốn.

              3. Interplanetary Avatars.  A very interesting group of avatars is here to be found.  They are mainly concerned with three things:  first with the superintendence of the transfer of force units or egoic groups from one scheme to another (not with individual units from chain to chain).

3. Các Đấng Hoá Thân Liên Hành Tinh. Một nhóm các Đấng Hoá Thân rất đáng chú ý được tìm thấy ở đây. Các Ngài chủ yếu liên hệ với ba việc: trước hết là giám trông sự chuyển dịch các đơn vị mãnh lực hoặc các nhóm chân ngã từ một hệ sang hệ khác (không phải các đơn vị cá biệt từ dãy sang dãy).

208. By their name, we infer that these avatars move between planets or promote processes which occur between planets.

208. Từ tên gọi, chúng ta suy ra rằng các Đấng Hoá Thân này di chuyển giữa các hành tinh hoặc xúc tiến những tiến trình xảy ra giữa các hành tinh.

209. DK begins to list their functions:

209. Chân sư DK bắt đầu liệt kê các chức năng của Các Ngài:

210. The first function is the “superintendence of the transfer of force units or egoic groups from one scheme to another”. This is a systemic function and not an internal or intra-planetary process.

210. Chức năng thứ nhất là “giám trông sự chuyển dịch các đơn vị mãnh lực hoặc các nhóm chân ngã từ một hệ sang hệ khác”. Đây là một chức năng mang tính hệ thống chứ không phải một tiến trình nội bộ hay nội -hành tinh.

211. We note that individual units of life can be transferred from chain to chain but that groups of force units are transferred from scheme to scheme—unless, by the term “force units” DK means individual units.

211. Chúng ta lưu ý rằng các đơn vị sự sống cá biệt có thể được chuyển từ dãy sang dãy nhưng các nhóm những đơn vị mãnh lực được chuyển từ hệ sang hệ—trừ khi, bằng thuật ngữ “đơn vị mãnh lực”, Chân sư DK muốn nói đến các đơn vị cá biệt .

212. We will list the functions as we proceed.

212. Chúng ta sẽ liệt kê các chức năng khi tiếp tục.

They appear usually twice in the history of a scheme, and though unable to take physical bodies of grosser material than those formed of atmic and the buddhic substance,

Các Ngài thường xuất hiện hai lần trong lịch sử của một hệ , và tuy không thể thọ nhận những thể xác bằng chất liệu thô trược hơn những thể được cấu thành từ chất liệu atma và Bồ đề,

213. We recall that some of the higher avatars (for instance, cosmic avatars) could descend no lower than the logoic and monadic systemic planes.

213. Chúng ta nhớ rằng một số các Đấng Hoá Thân cao hơn (ví dụ, các Đấng Hoá Thân vũ trụ) không thể giáng thấp hơn các cõi thượng đế hệ thống và cõi chân thần hệ thống.

214. As we are discussing avatars of lower calibre than cosmic or solar avatars (though still very great from our perspective), the planes on which they focus (and from which they form their base of the spine) are lower than the systemic logoic and monadic planes.

214. Vì chúng ta đang bàn đến các Đấng Hoá Thân có đẳng cấp thấp hơn các Đấng Hoá Thân vũ trụ hay thái dương (tuy vẫn vô cùng cao cả theo cái nhìn của chúng ta), nên các cõi mà Các Ngài tập trung (và từ đó Các Ngài thiết lập nền tảng “đáy cột sống”) thấp hơn các cõi thượng đế hệ thống và cõi chân thần hệ thống.

they work with impulse in mental matter and thus effect these group transfers.

Các Ngài tác động bằng xung lực trong chất liệu trí tuệ và nhờ đó thực hiện các cuộc chuyển dịch nhóm này.

215. These inter-planetary avatars, focussed atmically and buddhically, work in mental matter and thus with the egoic groups on mental levels.

215. Các Đấng Hoá Thân liên hành tinh này, vốn tập trung ở atma và Bồ đề, làm việc trong chất liệu trí tuệ và do đó làm việc với các nhóm chân ngã trên các cảnh trí.

216. DK indicates again that the transfers under consideration are group transfers.

216. Chân sư DK một lần nữa chỉ rõ rằng các chuyển dịch đang xét là các chuyển dịch mang tính nhóm .

217. We know that it is possible for human units to move from planet to planet (though, as indicated above, movement from chain to chain seems more probable—at least initially)

217. Chúng ta biết rằng các đơn vị nhân loại có thể di chuyển từ hành tinh này sang hành tinh khác (tuy, như đã nêu trên, sự di chuyển từ dãy sang dãy dường như có khả năng hơn—ít nhất là khởi thuỷ)

218. Those egoic lotuses we call “Primary Lotuses” have apparently come from the Vulcan scheme. (cf. TCF 841-842)

218. Những hoa sen chân ngã mà chúng ta gọi là “Hoa Sen Sơ Cấp” dường như đã đến từ hệ Vulcan. (x. TCF 841-842)

219. Those lotuses we call “Lotuses of Brahman” have, many of them, come in from Venus and Jupiter (cf. TCF 841)

219. Những hoa sen mà chúng ta gọi là “Hoa Sen của Brahman” thì, nhiều hoa sen trong số đó, đã đến từ Kim Tinh và Mộc Tinh (x. TCF 841)

220. Perhaps it is these kinds of inter-planetary avatars which are responsible this movement.

220. Có lẽ chính những loại Đấng Hoá Thân liên hành tinh như thế chịu trách nhiệm cho sự chuyển dịch này.

221. We see below that these inter-planetary avatars are divided into three groups.

221. Chúng ta thấy dưới đây rằng các Đấng Hoá Thân liên hành tinh này được phân thành ba nhóm.

222. We remember that we are still discussing the first function of the inter-planetary avatars.

222. Chúng ta nhớ rằng chúng ta vẫn đang bàn về chức năng thứ nhất của các Đấng Hoá Thân liên hành tinh.

They Themselves are subdivided into three groups:

Chính Các Ngài được chia thành ba nhóm:

a. Those effecting the transfer from the minor schemes or Ray manifestations on to the third Ray;

a. Những Đấng thực hiện việc chuyển dịch từ các hệ phụ hay các hiện lộ của Cung sang Cung ba;

223. The third ray must absorb all the minor rays. The third ray synthesizing planet must etherically absorb all the lesser planets (except, apparently, for Venus and Mercury which are neither minor nor major schemes).

223. Cung ba phải hấp thu tất cả các cung phụ. Hành tinh tổng hợp cung ba phải hấp thu về mặt dĩ thái tất cả các hành tinh nhỏ hơn (trừ, có vẻ như, Kim Tinh và Thuỷ Tinh—những hành tinh vốn không phải là hệ phụ hay hệ chính).

They concern Themselves with the result of the merging of the polar opposites in the four [727] lesser schemes until but one is left;

Các Ngài tự quan tâm đến kết quả của sự hoà nhập các cặp đối cực trong bốn [727] hệ phụ cho đến khi chỉ còn lại một;

224. This we discussed in Commentaries dealing with the planetary schemes, chains and globes.

224. Điều này chúng ta đã bàn trong các Bản Luận chú liên quan đến các hệ hành tinh, dãy và bầu.

225. Four schemes become two and two become one.

225. Bốn hệ trở thành hai và hai trở thành một.

226. That one is absorbed into the synthesizing scheme, Saturn, the principal third ray planet.

226. Hệ đơn này được hấp thu vào hệ tổng hợp, Thổ Tinh, hành tinh cung ba chính yếu.

and then with the transference of the life and quality of this remaining one on to the third Ray

và rồi đến sự chuyển dịch sự sống và phẩm tính của hệ còn lại này sang Cung ba

227. What is it really that is transferred in this merging process? We are not speaking of one physical planet being absorbed by anther physical planet.

227. Rốt cuộc điều gì thật sự được chuyển dịch trong tiến trình hợp nhất này? Chúng ta không nói về một hành tinh hồng trần bị một hành tinh hồng trần khác hấp thu.

228. Earlier, it was suggested that merging planets might be in an etheric condition. This is possible.

228. Trước đó, có gợi ý rằng các hành tinh sáp nhập có thể ở trong tình trạng dĩ thái . Điều này là khả hữu.

229. In this instance, however, we read of “life and quality” being transferred. The life aspect is Spirit. Presumably, there is a kind of merging in Spirit.

229. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chúng ta đọc thấy “sự sống và phẩm tính” được chuyển dịch. Phương diện sự sống là Thần Linh. Suy đoán rằng có một kiểu hợp nhất trong Thần Linh.

230. However, when quality merges, what merges? Is it soul quality, or is it quality as it may exist in the subtle bodies of the Planetary Logos involved?

230. Tuy vậy, khi phẩm tính hợp nhất, thì cái gì hợp nhất? Đó là phẩm tính của linh hồn , hay là phẩm tính như nó tồn tại trong các hiện thể vi tế của Hành Tinh Thượng đế liên quan?

231. We can presume a kind of ‘merging in soul’, but perhaps also the merging of lesser qualities.

231. Chúng ta có thể giả định một kiểu ‘hợp nhất trong linh hồn’, nhưng có lẽ cũng có sự hợp nhất của các phẩm tính nhỏ hơn.

232. When this merging occurs does one of the merging Logoi retain its outer form and the other give up its form? We cannot know this.

232. Khi sự hợp nhất này xảy ra, liệu một trong các Thượng đế đang hợp nhất giữ lại hình tướng bên ngoài của mình và vị kia từ bỏ hình tướng? Chúng ta không thể biết.

233. If this is the case, however, then the life and quality of the lesser merging Logos would be transferred into the greater, receiving Logos and this greater Logos would retain its form while the form of the lesser Logos would not be retained.

233. Tuy nhiên, nếu đúng như vậy, thì sự sống và phẩm tính của vị Thượng đế hợp nhất thấp hơn sẽ được chuyển dịch vào vị Thượng đế tiếp nhận vĩ đại hơn, và vị Thượng đế vĩ đại hơn này sẽ giữ lại hình tướng của mình, trong khi hình tướng của vị thấp hơn sẽ không được giữ lại.

234. As for where quality ‘resides’ before it is transferred, this must depend upon the stage of evolution of the lesser merging Logos. It may be that physical incarnation is over for the lesser merging Logos and that all quality resides in that Logos’ egoic lotus.

234. Còn nơi ‘trú’ của phẩm tính trước khi được chuyển dịch thì sao—điều này phải tuỳ thuộc vào giai đoạn tiến hoá của vị Thượng đế hợp nhất thấp hơn. Có thể rằng việc lâm phàm hồng trần đã kết thúc đối với vị Thượng đế hợp nhất thấp hơn và mọi phẩm tính đều an trụ trong hoa sen chân ngã của vị ấy.

235. We know that one great egoic lotus can contain many lesser egoic lotuses. This may be the way in which merging is accomplished accompanied by the preservation of the planetary integrity of the lesser or absorbed Planetary Logos.

235. Chúng ta biết rằng một hoa sen chân ngã vĩ đại có thể bao hàm nhiều hoa sen chân ngã nhỏ hơn. Đây có thể là cách mà sự hợp nhất được hoàn tất đồng thời bảo toàn tính toàn vẹn hành tinh của vị Hành Tinh Thượng đế thấp hơn hay bị hấp thu.

236. Of course, some merging may occur between Planetary Logoi who have destroyed by fire their egoic lotus (as would be the case of the Logos of a planetary scheme had taken the fourth scheme initiation). If this is the case, it is triadal principles and vehicles which would merge in the greater and receiving Logos.

236. Tất nhiên, một số sự hợp nhất có thể xảy ra giữa các Hành Tinh Thượng đế đã thiêu hủy bằng lửa hoa sen chân ngã của mình (như trường hợp của vị Thượng đế của một hệ hành tinh đã thọ lần điểm đạo hệ thứ tư). Nếu là thế, thì chính các nguyên khí và vận cụ thuộc Tam nguyên tinh thần sẽ hợp nhất trong vị Thượng đế vĩ đại hơn và tiếp nhận.

237. At the end of this solar system will the Logos of the Venus scheme have destroyed its causal body? Will this be so for the Planetary Logos of the Earth-scheme? If the Planetary Logos of the Earth-scheme had to fulfill a base of the spine center function (which would only be likely once its monadic ray had become not only effective but potent) then it is possible that the Planetary Logos of the Earth-scheme would have to have destroyed its causal body. On this we cannot speculate further.

237. Vào cuối hệ mặt trời này, liệu vị Thượng đế của hệ Kim Tinh sẽ đã huỷ diệt thể nhân của mình? Điều này có đúng cho vị Hành Tinh Thượng đế của hệ Địa Cầu không? Nếu vị Hành Tinh Thượng đế của hệ Địa Cầu phải hoàn tất chức năng trung tâm đáy cột sống (điều chỉ có khả năng khi cung chân thần của vị ấy không chỉ hiệu lực mà còn hùng mạnh), thì có thể vị Hành Tinh Thượng đế của hệ Địa Cầu sẽ phải huỷ diệt thể nhân. Về điều này chúng ta không thể suy đoán thêm.

238. We have already discussed the necessity, somehow, to maintain the integrity of the lesser merging Logos if there is to be re-incarnation of that Logos in the succeeding solar system.

238. Chúng ta đã bàn đến sự cần thiết, bằng cách nào đó, phải duy trì tính toàn vẹn của vị Thượng đế hợp nhất thấp hơn nếu muốn có sự tái lâm phàm của vị Thượng đế ấy trong hệ mặt trời kế tiếp.

239. These questions again force us to return to the matter of whether the seven initiations which are the “objective” of a Planetary Logos all occur in this solar system or whether some of them are to occur in the next solar system with the reincarnation of the Planetary Logos in that solar system.

239. Những câu hỏi này lại buộc chúng ta trở về vấn đề liệu bảy lần điểm đạo vốn là “mục tiêu” của một Hành Tinh Thượng đế có tất cả xảy ra trong hệ mặt trời này hay một số trong đó sẽ xảy ra trong hệ mặt trời kế tiếp khi vị Hành Tinh Thượng đế ấy tái lâm phàm trong hệ mặt trời kia .

240. And such questions would return us to the issues of whether minor or chain initiations and cosmic initiations are:

240. Và những câu hỏi như vậy sẽ đưa chúng ta trở lại các vấn đề về việc liệu các lần điểm đạo phụ hay điểm đạo dãy và các lần điểm đạo vũ trụ là:

a. Simultaneous

a. Đồng thời

b. Interleaved

b. Đan xen

c. Sequential (necessitating that all minor initiations in the series of seven be taken before the next and impending cosmic initiation can be taken). This option is beginning to look less likely. If a Solar Logos can take the fourth or fifth major initiation in this solar system, why cannot a Planetary Logos take the fourth or fifth major initiation (of the type of major or cosmic initiations it takes)?

c. Tuần tự (đòi hỏi tất cả các lần điểm đạo phụ trong chuỗi bảy phải được thọ trước khi lần điểm đạo vũ trụ tiếp theo và sắp tới có thể được thọ). Phương án này bắt đầu tỏ ra kém khả hữu. Nếu một Thái dương Thượng đế có thể thọ lần điểm đạo chính yếu thứ tư hay thứ năm trong hệ mặt trời này, thì tại sao một Hành Tinh Thượng đế lại không thể thọ lần điểm đạo chính yếu thứ tư hay thứ năm (thuộc loại các lần điểm đạo chính yếu hay vũ trụ mà vị ấy thọ)?

b. Those dealing with the transference and interaction of the life forces between the three major Rays.

b. Những Đấng xử lý sự chuyển dịch và tương tác của các sinh lực giữa ba Cung chính.

241. The synthesizing planets absorb the lesser planets, but at the end of the process of absorption, only one synthesizing planet is to remain.

241. Các hành tinh tổng hợp hấp thu các hành tinh nhỏ hơn, nhưng ở cuối tiến trình hấp thu, chỉ một hành tinh tổng hợp còn lại.

242. When dealing with this type of inter-planetary avatar, probably we are dealing with a Hierarchy. Those who work with the lesser planets must be higher in the Hierarchy than those who work with the synthesizing planets.

242. Khi bàn về loại Đấng Hoá Thân liên hành tinh này, rất có thể chúng ta đang bàn về một Thánh Đoàn. Những Đấng làm việc với các hành tinh nhỏ hơn hẳn phải ở địa vị cao hơn trong Thánh Đoàn so với những Đấng làm việc với các hành tinh tổng hợp.

c. Those producing the final systemic transfer at the end of the age.

c. Những Đấng tạo ra sự chuyển dịch hệ thống sau cùng vào cuối chu kỳ.

243. We may presume that the “final systemic transfer” has to do with the transfer of egoic groups from the last remaining synthesizing planet to the Sun. This would be effected by the highest type of these inter-planetary avatars.

243. Chúng ta có thể suy đoán rằng “cuộc chuyển dịch hệ thống sau cùng” liên quan đến việc chuyển các nhóm chân ngã từ hành tinh tổng hợp còn lại sau cùng về Thái Dương. Điều này sẽ được thực hiện bởi hạng cao nhất trong các Đấng Hoá Thân liên hành tinh này.

Secondly, certain avatars from the fourth Creative Hierarchy, for esoteric and for us inexplicable reasons, leave Their Own Hierarchy, and appear in one or other of the deva Hierarch­ies. 

Thứ hai, một số Đấng Hoá Thân từ Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư , vì những lý do huyền bí và—đối với chúng ta—bất khả giải, rời Huyền Giai Riêng của Các Ngài, và xuất hiện trong một hay một Huyền Giai thiên thần khác.

244. Thus to appear would indicate that they had to be transferred, which seems to be one of the specialized functions of inter-planetary avatars.

244. Việc xuất hiện như thế gợi rằng cần có sự chuyển dịch, điều này dường như là một trong những chức năng chuyên biệt của các Đấng Hoá Thân liên hành tinh.

245. We remember that the Fourth Creative Hierarchy is the Hierarchy of human Monads.

245. Chúng ta nhớ rằng Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư là Huyền Giai của các Chân Thần nhân loại.

246. Which are the comparable Hierarchies in which they could appear? We are not speaking of the Hierarchy of Solar Angels, nor of Hierarchies higher Fourth Creative Hierarchy. If these members of the Fourth Creative Hierarchy are to serve an avataric function, the transfer would have to be to a deva Hierarchy lower than the Fourth Creative Hierarchy.

246. Vậy những Huyền Giai tương ứng nào mà họ có thể xuất hiện? Chúng ta không nói về Huyền Giai của các Thái dương Thiên Thần, cũng không nói về các Huyền Giai cao hơn Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư. Nếu các thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư này phải phục vụ một chức năng hoá thân, sự chuyển dịch sẽ phải đến một Huyền Giai thiên thần thấp hơn Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư.

This happens only once in the history of each scheme and occurs at the time of its densest physical appearance, and has relation to the transference of deva impulse from one scheme to another.

Điều này chỉ xảy ra một lần trong lịch sử của mỗi hệ và xảy ra vào thời điểm có sự xuất lộ hồng trần đậm đặc nhất của hệ ấy, và có liên hệ đến sự chuyển dịch xung lực thiên thần từ một hệ sang hệ khác .

247. The first function of the inter-planetary avatars was to supervise transfer of egoic groups from scheme to scheme

247. Chức năng thứ nhất của các Đấng Hoá Thân liên hành tinh là giám trông việc chuyển dịch các nhóm chân ngã từ hệ này sang hệ khác.

248. Their second function appears to be to assist certain “avatars” from the Fourth Creative Hierarchy to appear in one or other of the deva Hierarchies—presumably a lower Creative Hierarchy.

248. Chức năng thứ hai của Các Ngài có vẻ là trợ giúp một số “Đấng Hoá Thân” từ Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư xuất hiện trong một hay Huyền Giai thiên thần khác—suy ra là một Huyền Giai Sáng Tạo thấp hơn.

249. We do still seem to be speaking of a superintending function which these inter-planetary avatars express.

249. Có vẻ như chúng ta vẫn đang nói về một chức năng giám trông mà các Đấng Hoá Thân liên hành tinh này thực hiện.

250. It is unlikely that we are speaking of avatars of the Fourth Creative Hierarchy as being inter-planetary avatars, but it is possible. Such avatars from the Fourth Creative Hierarchy would be, so it seems, of too low a status to be inter-planetary avatars.

250. Khó có khả năng chúng ta đang nói rằng các Đấng Hoá Thân của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư là các Đấng Hoá Thân liên hành tinh, dù điều đó không phải bất khả. Những Đấng Hoá Thân như vậy của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư dường như ở địa vị quá thấp để là các Đấng Hoá Thân liên hành tinh.

251. It appears, at least, that we are speaking of the transfer of “avatars” from the Fourth Creative Hierarchy and not about the transfer of egoic groups, as in the first instance.

251. Ít nhất, dường như chúng ta đang nói về sự chuyển dịch các “Đấng Hoá Thân” từ Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư chứ không phải về sự chuyển dịch các nhóm chân ngã như ở trường hợp thứ nhất.

252. The matter is obscure. We do not know whether this happens during the time that a planet has its densest physical appearance or exactly at the time that that densest physical appearance appears.

252. Vấn đề này tối tăm. Chúng ta không biết điều này xảy ra trong khi một hành tinh đang có sự xuất lộ hồng trần đậm đặc nhất hay chính xác vào lúc sự xuất lộ hồng trần đậm đặc nhất đó xuất hiện.

253. We are, however, in such a time. The densest physical appearance of our planetary scheme is now in process and so such a process may be occurring at this time.

253. Tuy nhiên, hiện chúng ta đang ở trong một thời như thế. Sự xuất lộ hồng trần đậm đặc nhất của hệ hành tinh chúng ta đang diễn tiến và vì vậy tiến trình như thế có thể đang xảy ra ngay lúc này.

They are connected in this way with the appearance of the self-conscious units, being the primal embodiment of the latent self-consciousness of the atom of deva substance.  They set the type for the devas of any particular scheme.

Các Ngài liên kết theo cách này với sự xuất hiện của các đơn vị tự ngã thức, vì Các Ngài là hiện thân nguyên thủy của tính tự-ngã-thức tiềm tàng nơi nguyên tử của chất liệu thiên thần. Các Ngài lập mẫu cho các thiên thần của bất cứ hệ nào.

254. Yes—extremely obscure.

254. Vâng—hết sức tối nghĩa.

255. What do these avatars do and with what are they concerned:

255. Các Đấng Hoá Thân này làm gì và bận tâm với điều gì:

a. They are connected with the appearance of self-conscious units

a. Các Ngài liên kết với sự xuất hiện của các đơn vị tự-ngã-thức

b. They are the primal embodiment of the latent self-consciousness of the atom of deva substance

b. Các Ngài là hiện thân nguyên thủy của tính tự-ngã-thức tiềm tàng nơi nguyên tử của chất liệu thiên thần

c. They set the type for the devas of any particular scheme

c. Các Ngài lập mẫu cho các thiên thần của bất cứ hệ nào

256. It would seem that such avatars serve the deva Hierarchy to which they come. It is as if they make possible self-consciousness in the deva Hierarchy to which they go. The members of the Fourth Creative Hierarchy are already possessed of self-consciousness and because of this they can interact with the atom of deva substance in such a way that atom (whether sooner or later) is able to achieve self-consciousness.

256. Có vẻ như các Đấng Hoá Thân này phục vụ Huyền Giai thiên thần mà Các Ngài đi đến. Như thể Các Ngài làm cho tự-ngã-thức trở nên khả hữu trong Huyền Giai thiên thần mà Các Ngài đi đến. Các thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư vốn đã sở hữu tự-ngã-thức, và vì vậy có thể tương tác với nguyên tử của chất liệu thiên thần theo một cách mà nguyên tử đó (sớm hay muộn) có thể đạt được tự-ngã-thức.

257. Perhaps these members of the Fourth Creative Hierarchy are inter-planetary in that they are transferred to other schemes to assist in this process.

257. Có lẽ các thành viên Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư này là liên hành tinh theo nghĩa họ được chuyển sang các hệ khác để trợ giúp tiến trình này.

Once in the history of each scheme, an avatar from the con­stellation Capricorn appears on mental levels. 

Một lần trong lịch sử của mỗi hệ, một Đấng Hoá Thân từ chòm sao Ma Kết xuất hiện trên các tầng trí.

258. Now we are speaking of a third type of inter-planetary avatar.

258. Giờ đây chúng ta đang nói về loại Đấng Hoá Thân liên hành tinh thứ ba .

259. It may be that each planetary scheme has its own inter-planetary avatar from Capricorn. This would necessarily be the case if the Planetary Logoi of certain planets go through similar stages of development simultaneously as, for instance, Mars and the Earth appear to be doing—both of them in their fourth chain, fourth round. The same avatar from Capricorn could not handle both assignments.

259. Có thể rằng mỗi hệ hành tinh có Đấng Hoá Thân liên hành tinh riêng của mình đến từ Ma Kết. Điều này ắt phải như vậy nếu các Hành Tinh Thượng đế của một số hành tinh đi qua những giai đoạn phát triển tương tự cùng lúc, như Hoả Tinh và Địa Cầu dường như đang làm—cả hai đều ở dãy thứ tư, vòng thứ tư. Cùng một Đấng Hoá Thân từ Ma Kết không thể đảm trách cả hai phận sự.

260. Each Planetary Logos has His own “Judgment Day” and, so it appears, each Planetary Logos is assigned a particular avatar from the constellation Capricorn.

260. Mỗi Hành Tinh Thượng đế có “Ngày Phán Xét” riêng của Ngài và, có vẻ như vậy, mỗi Hành Tinh Thượng đế được chỉ định một Đấng Hoá Thân đặc thù từ chòm sao Ma Kết.

261. Let us check closely to see whether this avatar in the Avatar of Synthesis or distinct.

261. Chúng ta hãy kiểm tra kỹ để xem liệu Đấng Hoá Thân này có phải là Đấng Hoá Thân Tổng Hợp hay biệt khác.

This level is the lowest one on which these interplanetary deities appear.

Cấp độ này là cấp thấp nhất mà trên đó các vị thần liên hành tinh này xuất hiện.

262. We notice that we have been descending through the planes. We began with avatars which could only be registered on the logoic and monadic planes.

262. Chúng ta lưu ý rằng chúng ta đã đi xuống qua các cõi. Chúng ta khởi đầu với các Đấng Hoá Thân chỉ có thể được tri nhận ở các cõi thượng đế hệ thống và cõi chân thần.

263. Next we deals with a type of avatar which could descend to the atmic and buddhic planes.

263. Kế đến chúng ta bàn về một loại Đấng Hoá Thân có thể giáng đến cõi atma và Bồ đề.

264. Now we are speaking of an avatar which can appear on mental levels.

264. Giờ đây chúng ta đang nói về một Đấng Hoá Thân có thể xuất hiện trên các tầng trí.

No more can be communicated on this matter.  “The mystery of the goat” lies hidden here.

Không thể truyền đạt thêm về vấn đề này. “Huyền bí của con dê” ẩn tàng tại đây.

265. There are a number of ways in which “the mystery of the goat” can be approached. This mystery is related to the ‘Secret of the Soul’, via Capricorn.

265. Có nhiều cách để tiếp cận “huyền bí của con dê”. Huyền bí này liên hệ với ‘Bí quyết của Linh hồn’, qua Ma Kết.

Capricorn—Guards the secret of the soul itself and this it reveals to the initiate at the time of the third initiation. This is sometimes called the “secret of the hidden glory.” (EA 165)

Ma Kết—Giữ bí quyết của chính linh hồn và điều này được ban cho vị điểm đạo đồ vào lúc của lần điểm đạo thứ ba. Đôi khi điều này được gọi là “bí quyết của vinh quang ẩn tàng”. (EA 165)

This avatar makes His appear­ance in the third round of the third chain, and disappears in the fifth round of the fourth chain.

Đấng Hoá Thân này xuất hiện vào vòng thứ ba của dãy thứ ba, và biến mất vào vòng thứ năm của dãy thứ tư.

266. We gather, then, that this avatar is still with us.

266. Vậy chúng ta hiểu rằng Đấng Hoá Thân này vẫn còn ở với chúng ta.

267. Individualization on the Moon-chain took place in the third round:

267. Sự biệt ngã hóa trên Dãy Mặt Trăng diễn ra ở vòng thứ ba:

On the moon chain individualisation took place during the fifth race of the third round, (TCF 459)

Trên dãy Mặt Trăng, sự biệt ngã hóa diễn ra trong giống dân thứ năm của vòng thứ ba, (TCF 459)

268. We certainly have not reached the fifth round of the fourth chain. We presently work, therefore, very much under the influence of this avatar.

268. Chắc chắn chúng ta chưa đạt đến vòng thứ năm của dãy thứ tư. Vì thế, hiện nay chúng ta đang làm việc rất nhiều dưới ảnh hưởng của Đấng Hoá Thân này.

269. When thinking about the possible identity of the Avatar of Synthesis with this interplanetary avatar, their identity is unlikely, because the Avatar of Synthesis has only recently (1945) linked up with our Planetary Logos:

269. Khi suy nghĩ về khả năng đồng nhất giữa Đấng Hoá Thân Tổng Hợp với Đấng Hoá Thân liên hành tinh này, sự đồng nhất ấy khó có khả năng, vì Đấng Hoá Thân Tổng Hợp chỉ mới gần đây (1945) liên kết với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta:

These interplanetary avatars come in, as the products of much earlier kalpas when systemic conditions are refined enough to permit of Their appearance.

Các Đấng Hoá Thân liên hành tinh này đi vào, như những sản phẩm của các kalpa rất xa xưa khi các điều kiện hệ thống đã đủ tinh luyện để cho phép Sự xuất hiện của Các Ngài.

270. We are leaning something about their high stage of development.

270. Chúng ta đang học được điều gì đó về trình độ rất cao của Các Ngài.

271. We cannot know whether maha-kalpas or shorter cycles are meant.

271. Chúng ta không thể biết liệu ở đây ám chỉ các đại kalpa hay các chu kỳ ngắn hơn.

They are the nirman­akayas of an earlier solar cycle Who now again take the oppor­tunity to effect (in an active sense and through physical manifestation) certain uncompleted work.

Các Ngài là các nirmanakaya của một chu kỳ mặt trời sớm hơn và nay lại nắm lấy cơ hội để hoàn tất (một cách chủ động và qua hiện hình hồng trần) một số công việc còn dang dở.

272. Nirmanakayas are linking agencies as are these particular Beings.

272. Nirmanakaya là các cơ quan nối kết cũng như chính Các Vị mà chúng ta đang nói tới.

273. When DK speaks of an earlier solar cycle, He means a kalpa, of course, but does He mean a “mahakalpa”? This remains to be seen.

273. Khi Chân sư DK nói về một chu kỳ mặt trời sớm hơn, tất nhiên Ngài muốn nói một kalpa, nhưng liệu Ngài muốn nói một “ đại kalpa” chăng? Điều này còn phải xét.

274. The previous solar system, for instance, was “an earlier solar cycle”, but of course there are lesser solar cycles as well.

274. Chẳng hạn, hệ mặt trời trước đây là “một chu kỳ mặt trời sớm hơn”, nhưng dĩ nhiên cũng có các chu kỳ mặt trời nhỏ hơn.

275. If Solar Angels can come in from a previous mahamanvantara it does not seem to stretch the imagination too far to think that inter-planetary avatars can also do the same.

275. Nếu các Thái dương Thiên Thần có thể đi vào từ một đại giai kỳ sinh hóa trước, thì tưởng tượng rằng các Đấng Hoá Thân liên hành tinh cũng có thể làm như vậy không phải là điều quá xa vời.

              4. Planetary Avatars.  These emanate from the central [728] planetary Logos of a scheme and embody His will and purpose.  They are of two different kinds.

4. Các Đấng Hoá Thân Hành Tinh . Các Ngài xuất lộ từ Hành Tinh Thượng đế [728] trung tâm của một hệ và hiện thân Ý chí và Mục đích của Ngài. Các Ngài có hai loại khác nhau.

276. We do not yet know from what aspect of a Planetary Logos these planetary avatars emanate.

276. Chúng ta chưa biết các Đấng Hoá Thân hành tinh này xuất lộ từ phương diện nào của một Hành Tinh Thượng đế.

277. Let us note the word “central Planetary Logos of a scheme”. The implication is that there may be other Planetary Logoi in a scheme Who are more peripheral. Such would be, in a sense, Chain-Lords, for instance.

277. Chúng ta hãy lưu ý từ “Hành Tinh Thượng đế trung tâm của một hệ”. Hàm ý là có thể có những Hành Tinh Thượng đế khác trong một hệ ở vị trí ngoại vi hơn. Chẳng hạn, đó có thể là các vị Chúa Tể Dãy.

The first type is a manifestation on etheric physical levels of the planetary Logos Himself for a specific length of time.

Loại thứ nhất là một hiện lộ trên các tầng dĩ thái-hồng trần của chính Hành Tinh Thượng đế trong một thời đoạn xác định.

278. We begin to speak of Sanat Kumara as a planetary avatar.

278. Chúng ta bắt đầu nói về Sanat Kumara như một Đấng Hoá Thân hành tinh.

279. We note that Sanat Kumara is in manifestation not only on the cosmic ethers but on the “etheric-physical levels”, systemically considered.

279. Chúng ta lưu ý rằng Sanat Kumara không chỉ hiện lộ trên các dĩ thái vũ trụ mà còn trên “các tầng dĩ thái-hồng trần”, xét theo hệ thống .

280. This means that in some manner, Sanat Kumara has descended to a point very close to humanity.

280. Điều này có nghĩa là bằng cách nào đó, Sanat Kumara đã giáng đến một điểm rất gần với nhân loại.

281. We know much about the arrival of Sanat Kumara on our planet and have the sense that He will depart following the “Judgment Day”. Perhaps the following gives an important hint:

281. Chúng ta biết nhiều về việc Ngự Lâm của Sanat Kumara trên hành tinh chúng ta và cảm nhận rằng Ngài sẽ khởi hồi sau “Ngày Phán Xét”. Có lẽ trích dẫn sau đây cho một gợi ý quan trọng:

The Logos of our scheme, Sanat Kumara, will take a major initiation in the middle of the fifth round, but is preparing for a minor one at this time. (TCF 374)

Vị Thượng đế của hệ chúng ta, Sanat Kumara, sẽ thọ một lần điểm đạo chính yếu vào giữa vòng thứ năm, nhưng hiện đang chuẩn bị cho một lần điểm đạo phụ. (TCF 374)

It involves the definite taking of a physical body by one of the Kumaras.

Điều đó bao hàm việc một trong các Kumaras đích thực thọ nhận một thể xác hồng trần.

282. We are probably speaking of the etheric aspect of a systemic physical body.      

282. Có lẽ chúng ta đang nói về phương diện dĩ thái của một thể hồng trần mang tính hệ thống.

283. We judge, then, that Sanat Kumara is that one of the four Kumaras Who, in particular, has taken a physical body. The physical body of a Planetary Logos includes the lower eighteen subplanes.

283. Vậy chúng ta suy đoán rằng Sanat Kumara là vị trong bốn Kumaras, mà đặc biệt, đã thọ nhận một thể xác. Thể xác của một Hành Tinh Thượng đế bao gồm mười tám cõi phụ thấp.

284. Later in the text, it seems that the Buddhas of Activity have also taken physical bodies.

284. Về sau trong văn bản, có vẻ rằng các Đức Phật Hoạt Dụng cũng đã thọ các thể hồng trần.

Such an avatar is to be seen in Sanat Kumara, Who, with the three other Kumaras, embodies the four planetary quaternic principles.

Một Đấng Hoá Thân như vậy được thấy nơi Sanat Kumara, Đấng mà, cùng với ba vị Kumaras khác , hiện thân bốn nguyên khí tứ hợp của hành tinh.

285. By “quaternic principles” we may be speaking of the principles of the lower quaternary, the personality of the Planetary Logos.

285. Bằng “các nguyên khí tứ hợp”, có thể chúng ta đang nói về các nguyên khí của bộ tứ thấp, tức phàm ngã của Hành Tinh Thượng đế.

The first or will energy is, as you know, focussed in Sanat Kumara, the Ancient of Days (as He is called in the Christian Bible), the Lord of Shamballa, Who is the embodiment of the Personality of the planetary Logos. (EXH 86)

Năng lượng thứ nhất hay Ý chí, như các bạn biết, được tập trung nơi Sanat Kumara, Đấng Thái Cổ (như Ngài được gọi trong Kinh Thánh Cơ Đốc), Chúa Tể của Shamballa, Đấng là hiện thân của Phàm ngã của Hành Tinh Thượng đế. (EXH 86)

As I have earlier said, Sanat Kumara is to the Planetary Logos what the personality, plus soul, is to the disciple. (R&I 205)

Như tôi đã nói trước, Sanat Kumara đối với Hành Tinh Thượng đế cũng như phàm ngã, cộng với linh hồn, đối với người đệ tử. (R&I 205)

They are in direct rapport with the Planetary Logos upon His own high plane, the cosmic mental plane; this great and Unknown Being uses Sanat Kumara as the soul uses a temporary personality when that personality is at an advanced stage of initiate consciousness. (R&I 206)

Các Ngài (các vị Kumaras) trực tiếp tương ứng với Hành Tinh Thượng đế trên cõi cao của Ngài, cõi trí vũ trụ; Đấng Vĩ Đại và Bất Khả Tri này dùng Sanat Kumara như linh hồn dùng một phàm ngã tạm thời khi phàm ngã ấy ở vào một giai đoạn cao của tâm thức điểm đạo đồ. (R&I 206)

286. And yet…

286. Ấy thế mà…

Ask me not how this can be; ponder on the relation of this dual and simultaneous appearance by attempting to grasp the nature of the manifested form of the planetary Logos in the Person of Sanat Kumara. Sanat Kumara is not the personality of the planetary Logos, for personality as you understand it is not existent in His case. It is not the soul of the planetary Logos, because that soul is the anima mundi and the soul of all forms in all kingdoms. Sanat Kumara, the Eternal Youth, can be seen by Those Who have the right, presiding, for instance, over the Council in Shamballa, yet at the same time He is present as the life and the informing intelligence upon and within our planet.(EXH 676)

Đừng hỏi tôi điều này có thể như thế nào; hãy suy niệm về mối liên hệ của sự xuất hiện kép và đồng thời này bằng cách cố gắng nắm lấy bản chất của hình hài hiện lộ của Hành Tinh Thượng đế trong Ngôi Vị Sanat Kumara. Sanat Kumara không phải là phàm ngã của Hành Tinh Thượng đế, vì phàm ngã như các bạn hiểu thì không hiện hữu trong trường hợp của Ngài. Ngài cũng không phải là linh hồn của Hành Tinh Thượng đế, vì linh hồn đó là anima mundi và là linh hồn của mọi hình tướng trong mọi giới. Sanat Kumara, Đấng Vĩnh Cửu Trẻ Trung, có thể được thấy bởi Những Đấng có quyền, chủ toạ, chẳng hạn, Hội Đồng tại Shamballa, nhưng đồng thời Ngài cũng hiện diện như sự sống và trí năng thấm nhuần ở trên và trong hành tinh chúng ta. (EXH 676)

In a very real sense, Sanat Kumara is the incarnation of the Lord of the Ray Himself; He is the Silent Watcher, the great Sacrifice for humanity. [42: S. D., I, 494; II, 112, 149, 333.]

Theo một nghĩa rất thực, Sanat Kumara là sự hoá thân của chính Chúa Tể của Cung ; Ngài là Đấng Tịch Mặc Giám Sát, Đại Hiến Sinh cho nhân loại. [42: S. D., I, 494; II, 112, 149, 333.]

287. We can judge the Lord of the Ray to be the Planetary Logos, Himself.

287. Chúng ta có thể phán đoán Chúa Tể của Cung chính là Hành Tinh Thượng đế.

288. This section is telling us that Sanat Kumara is really the incarnation of the Planetary Logos as that Logos descends into His etheric-physical body.

288. Đoạn này nói với chúng ta rằng thực ra Sanat Kumara là sự hoá thân của Hành Tinh Thượng đế khi vị này giáng xuống thể dĩ thái-hồng trần của Ngài.

289. This is a very important description of the true nature of Sanat Kumara though there are many other definitions of Him which do not seem to support each other.

289. Đây là một mô tả rất quan trọng về bản chất đích thực của Sanat Kumara, dù có nhiều định nghĩa khác về Ngài dường như không hoàn toàn tương hỗ nhau.

290. The Planetary Logos has three major rays—the third, second and first. Along what ray does Sanat Kumara descend?

290. Hành Tinh Thượng đế có ba cung chính—ba, hai và một. Sanat Kumara giáng xuống theo cung nào?

As noted in the above paragraph, there are secondly three Entities Who embody planetary principles.

Như đã nêu trong đoạn trên, thứ đến là ba Vị Hiện Thân các nguyên khí hành tinh.

291. These principles, it would seem relate to the lower quaternary of the Planetary Logos.

291. Có vẻ như các nguyên khí này liên hệ đến bộ tứ thấp của Hành Tinh Thượng đế.

292. We seem to be speaking of the three Buddhas of Activity.

292. Chúng ta dường như đang nói về ba Đức Phật Hoạt Dụng.

293. May we say that the Esoteric Kumaras relate to the three higher principles?

293. Chúng ta có thể nói rằng các Kumaras Ẩn Mật liên hệ với ba nguyên khí cao chăng?

294. We might do this, except it seems that the various Kumaras surrounding Sanat Kumara rotate. A Kumara who is, for instance, a Buddha of Activity can become an Esoteric Kumara and vice-versa.

294. Có thể nói như vậy, ngoại trừ việc dường như các Kumaras khác nhau quây quanh Sanat Kumara có sự xoay vòng. Một vị Kumara, thí dụ, là một Đức Phật Hoạt Dụng có thể trở thành một Kumaras Ẩn Mật và ngược lại.

They are (speak­ing from the present standpoint) the dynamic energy which holds together the three lower kingdoms, viewing these king­doms as units and not as differentiations.

Các Ngài (từ quan điểm hiện tại mà nói) là năng lượng năng động giữ kết dính ba giới thấp, xét các giới này như các đơn vị và không phải như các biệt phân.

295. DK seems to be speaking of the Buddhas of Activity Who are the three Kumaras surrounding Sanat Kumara.

295. Chân sư DK dường như đang nói về các Đức Phật Hoạt Dụng, là ba vị Kumara quây quanh Sanat Kumara.

296. He is relating the Buddhas of Activity to the three lower kingdoms of nature and Sanat Kumara, apparently, more to humanity.

296. Ngài liên hệ các Đức Phật Hoạt Dụng với ba giới thấp của tự nhiên, và Sanat Kumara, dường như, liên hệ nhiều hơn với nhân loại.

297. If we are speaking only “from the present standpoint”, the relationship of the Buddhas of Activity to the three lower kingdoms can and will change.

297. Nếu chúng ta chỉ nói “từ quan điểm hiện tại”, mối liên hệ giữa các Đức Phật Hoạt Dụng với ba giới thấp có thể và sẽ thay đổi.

298. What does it mean to view a kingdom as a “unit”? Perhaps as an integral part of the lower quaternary of the Planetary Logos and not in itself.

298. “Xem một giới như một ‘đơn vị’” nghĩa là gì? Có lẽ là như một bộ phận tích hợp của bộ tứ thấp của Hành Tinh Thượng đế chứ không như tự nó là một biệt thể.

They are closely connected with the energy aspect of the three earlier chains,

Các Ngài liên hệ mật thiết với phương diện năng lượng của ba dãy sơ kỳ,

299. DK is telling us of the connections of the Buddhas of Activity to earlier chains in our planetary scheme.

299. Chân sư DK đang cho biết các liên hệ của các Đức Phật Hoạt Dụng với các dãy trước đó trong hệ hành tinh của chúng ta.

300. Sanat Kumara, the “Fourth Kumara” is connected to the fourth chain.

300. Sanat Kumara, “Vị Kumara thứ tư”, liên hệ với dãy thứ tư.

301. The Three Buddhas of Activity, however, are presently focussed within our chain, the fourth.

301. Tuy vậy, Ba Đức Phật Hoạt Dụng hiện tập trung trong dãy của chúng ta, tức dãy thứ tư.

and it only needed the work of an inter­planetary avatar (at the formation of the triangle which result­ed in the individualisation period in Lemurian days)

và chỉ cần có công việc của một Đấng Hoá Thân liên hành tinh (vào lúc hình thành tam giác đưa đến thời kỳ biệt ngã hóa vào các ngày Lemuria)

302. Of this inter-planetary avatar, the text has already spoken. It appears to be an avatar associated with Capricorn, but, then, that inter-planetary avatar appeared in the third round of the third chain and not in Lemurian times. He was certainly present, however, at that time of individualization and can be understood to have been involved in the individualization process.

302. Về Đấng Hoá Thân liên hành tinh này, văn bản đã nói ở trên. Có vẻ như đó là một Đấng Hoá Thân liên hệ với Ma Kết, nhưng Đấng Hoá Thân ấy xuất hiện ở vòng thứ ba của dãy thứ ba chứ không ở thời Lemuria. Tuy nhiên, hẳn là Ngài đã hiện diện vào lúc biệt ngã hóa và có thể được hiểu là đã can dự vào tiến trình biệt ngã hóa.

303. Several triangles associated with individualization on our planet have been discussed. One such triangle relating to the descent of the Fifth Principle related Sirius, two stars of the Pleiades and a minor constellation.

303. Vài tam giác liên quan đến sự biệt ngã hóa trên hành tinh chúng ta đã được bàn luận. Một tam giác như thế, liên quan đến sự giáng của Nguyên khí Thứ Năm, bao hàm Sirius, hai sao của Pleiades và một chòm sao phụ.

to enable Them to take etheric bodies and incarnate among men.

để cho phép Các Ngài thọ nhận các thể dĩ thái và giáng trần giữa loài người.

304. It appears we are still speaking of the Buddhas of Activity and it is inferred that through etheric bodies, They have incarnated among men, just as has Sanat Kumara.

304. Dường như chúng ta vẫn đang nói về các Đức Phật Hoạt Dụng, và có thể suy rằng qua các thể dĩ thái, Các Ngài đã giáng hiện giữa loài người, cũng như Sanat Kumara đã làm.

305. It is sometimes questioned whether the etheric bodies taken are composed of systemic ether as well as of cosmic ether.

305. Đôi khi người ta đặt vấn đề liệu các thể dĩ thái được thọ nhận kia được cấu thành bởi dĩ thái hệ thống cũng như dĩ thái vũ trụ hay không.

They act as focal points for the energy of the planetary Logos on His own plane.

Các Ngài đóng vai trò các điểm tiêu tụ cho năng lượng của Hành Tinh Thượng đế trên chính cõi của Ngài.

306. These Kumaras are emanation of the Planetary Logos on His own plane. Sanat Kumara, too, is such an emanation. Therefore, He is the Planetary Logos and yet He is not the Planetary Logos “on His own plane”. He is the Planetary Logos in emanation, and is so more than are the Buddhas of Activity.

306. Các vị Kumara này là các xuất lộ của Hành Tinh Thượng đế trên chính cõi của Ngài. Sanat Kumara cũng là một xuất lộ như thế. Bởi vậy, Ngài Hành Tinh Thượng đế nhưng Ngài không phải là Hành Tinh Thượng đế “trên chính cõi của Ngài”. Ngài là Hành Tinh Thượng đế trong sự xuất lộ, và ở phương diện này Ngài là như thế nhiều hơn ba Đức Phật Hoạt Dụng.

The first Kumara is in a mysterious sense the energy which produces self-consciousness in the human family.

Vị Kumara thứ nhất theo một nghĩa mầu nhiệm là năng lượng sản sinh tự-ngã-thức trong nhân loại.

307. In this instance, Sanat Kumara is called the “first Kumara”. Sometimes He is called the “fourth Kumara”.

307. Trong trường hợp này, Sanat Kumara được gọi là “Vị Kumara thứ nhất”. Đôi khi Ngài được gọi là “Vị Kumara thứ tư”.

308. The function of Sanat Kumara is closely allied to that of the Solar Angels—producing self-consciousness in the human family.

308. Chức năng của Sanat Kumara liên đới chặt với chức năng của các Thái dương Thiên Thần—sản sinh tự-ngã-thức trong nhân loại.

309. We must gather that Sanat Kumara was necessarily involved in the individualization process upon our planet.

309. Chúng ta phải hiểu rằng Sanat Kumara nhất thiết có liên đới trong tiến trình biệt ngã hóa trên hành tinh chúng ta.

The three other kumaras, or the three Buddhas of Activity, act as sim­i­lar focal points for the energy which animates the three lower kingdoms, and which produces their differing grades of con­sciousness.

Ba vị kumara khác, tức ba Đức Phật Hoạt Dụng, đóng vai các điểm tiêu tụ tương tự cho năng lượng hoạt hoá ba giới thấp, và sản sinh các cấp độ tâm thức khác nhau của chúng.

310. The subject is presented with great clarity. Sanat Kumara relates mostly to human consciousness and the other three Buddhas of Activity to the respective consciousnesses of the three lower kingdoms.

310. Chủ đề được trình bày hết sức rõ. Sanat Kumara liên hệ chủ yếu với tâm thức nhân loại và ba Đức Phật Hoạt Dụng còn lại liên hệ với các tâm thức tương ứng của ba giới thấp.

It is not possible to express this great mystery more clearly but if the student couples these few hints with those earlier given in the Secret Doctrine, the mystery of the “Holy Four” may be somewhat clarified from the standpoint of energy and evolution.

Không thể diễn đạt sự huyền nhiệm lớn lao này rõ hơn nữa, nhưng nếu đạo sinh liên kết vài gợi ý ít ỏi này với những điều đã nêu trước trong Giáo Lý Bí Nhiệm, thì huyền nhiệm của “Bộ Tứ Thánh” có thể được phần nào minh giải từ lập trường của năng lượng và tiến hoá.

311. We wonder if the “Four Gates to Shamballa” can be related to these “Holy Four”.

311. Chúng ta tự hỏi liệu “Bốn Cửa vào Shamballa” có thể liên hệ với “Bộ Tứ Thánh” này không.

312. The true home of these “Holy Four” is upon the highest of the cosmic ethers, but it appears that They have established focal points of expression on the systemic ethers as well. This remains to be conclusively established.

312. Bản quán chân chính của “Bộ Tứ Thánh” này là trên đỉnh cao nhất của các dĩ thái vũ trụ, nhưng dường như Các Ngài cũng đã thiết lập các tiêu điểm biểu lộ trên các dĩ thái hệ thống . Điều này vẫn cần được xác lập dứt khoát.

The times and seasons of their appearing vary according [729] to the particular karma of the Lord of the Ray, and nothing in connection with these great cycles, and in­carnation periods, can be revealed to the unpledged and the profane.

Thời điểm và mùa kỳ xuất hiện của Các Ngài thay đổi [729] tuỳ theo nghiệp quả đặc thù của Chúa Tể của Cung, và không điều gì liên quan đến các đại chu kỳ này, và các kỳ hiện thân, có thể được tiết lộ cho người chưa thệ nguyện và phàm tục.

313. DK assumes that many of the “unpledged” will read this book; also many of those who stand outsider the gate of the Temple—the “profane”.

313. Chân sư DK giả định rằng nhiều người “chưa thệ nguyện” sẽ đọc cuốn sách này; đồng thời cũng nhiều người đang đứng ngoài cổng Đền—“phàm tục”.

314. Will DK reveal the nature of such cycles to pledged disciples? Or does He mean pledged initiates?

314. Liệu Chân sư DK có tiết lộ bản tính các chu kỳ như thế cho các đệ tử đã thệ nguyện không? Hay Ngài muốn nói các điểm đạo đồ đã thệ nguyện?

315. The “Lord of the Ray” is our Planetary Logos. The cyclic activities of Sanat Kumara and of the Three Kumaras are related to the karma of our Planetary Logos.

315. “Chúa Tể của Cung” là Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. Hoạt động chu kỳ của Sanat Kumara và của Ba vị Kumara liên quan đến nghiệp quả của Hành Tinh Thượng đế chúng ta.

316. When it came time for the individualization of animal man, such that the human race was created, it must have been a time of karmic significance for our Planetary Logos and thus for Sanat Kumara. In addition at least one of the Buddhas of Activity was particularly involved.

316. Khi đến lúc biệt ngã hóa của “người thú”, để nhân loại được khai sinh, hẳn đó là một thời khắc có ý nghĩa nghiệp quả đối với Hành Tinh Thượng đế chúng ta và do vậy đối với Sanat Kumara. Thêm nữa, ít nhất một trong các Đức Phật Hoạt Dụng đã đặc biệt can dự.

317. About these “times and seasons” we will learn when we are in a position to be trusted, and when the knowledge will be necessary to us, which is now far from the case.

317. Về những “thời điểm và mùa kỳ” này, chúng ta sẽ học khi chúng ta ở vị thế đáng tin cậy, và khi tri thức ấy cần thiết cho chúng ta—điều hiện nay còn rất xa vời.

              5. Human Avatars.  These are fully dealt with by H.P.B. and there is nothing further to add to her information, for the time is not ripe. [43: S D, III, Section 41; III, 345.]

5. Các Đấng Hoá Thân Thuộc Nhân Loại. Những vị này đã được H.P.B. trình bày trọn vẹn và không có gì để bổ sung thêm vào thông tin của Bà, vì thời gian chưa chín muồi. [43: S D, III, Section 41; III, 345.]

318. In the Reappearance of the Christ some of these avatars are mentioned—Beings like Krishna, the Buddha, Sankaracharya, the Christ. A rather full treatment of the subject is given.

318. Trong “Sự Tái Lâm của Đức Christ”, một số các Đấng Hoá Thân này được nêu—các Vị như Krishna, Đức Phật, Shankaracharya, Đức Christ. Chủ đề được trình bày khá đầy đủ.

All the above has its place here, as it concerns the mystery of force and consciousness, and the fullest manifestation of a planetary Logos and of a solar Logos in a dense physical body is hidden in the appearance of these various avatars and in their effect.

Tất cả những điều trên đều có chỗ đứng ở đây, vì chúng liên hệ với huyền nhiệm của mãnh lực và tâm thức, và sự hiện lộ đầy đủ nhất của một Hành Tinh Thượng đế và của một Thái dương Thượng đế trong một thể xác hồng trần đậm đặc được ẩn tàng trong sự xuất hiện của các Đấng Hoá Thân khác nhau này và trong ảnh hưởng của Các Ngài .

319. A Planetary Logos or a Solar Logos stream into full manifestation in a dense physical body via a “Ray” called an avatar. To study the Doctrine of the Avatars it is also necessary to study the Doctrine of Emanation.

319. Một Hành Tinh Thượng đế hay một Thái dương Thượng đế tuôn đổ vào hiện lộ đầy đủ trong một thể xác hồng trần đậm đặc qua một “Cung” được gọi là một Đấng Hoá Thân. Để học Thuyết về Các Đấng Hoá Thân cũng cần học Thuyết về Sự Xuất lộ.

320. The idea of altruism runs through this doctrine for the avatar descends for no karmic reason nor to gain anything. He descends only to give.

320. Ý niệm vị tha thấm suốt giáo thuyết này vì Đấng Hoá Thân giáng xuống không vì lý do nghiệp quả cũng chẳng để thu hoạch điều gì. Ngài chỉ giáng xuống để ban trao.

(e.) Individualisation, a form of Initiation.  There is but little more that can be said at this time anent individualisa­tion.  What has been said here and in the Secret Doctrine is but a manner of endeavouring to express profound and sig­nificant facts, concerning existence and manifestation, in terms of human thought, and through the limiting medium of language.

(e.) Biệt ngã hóa, một hình thái của Điểm đạo. Hiện chỉ có thể nói thêm rất ít về biệt ngã hóa. Những gì đã nói ở đây và trong Giáo Lý Bí Nhiệm chỉ là một cách nỗ lực diễn đạt những sự kiện sâu kín và trọng yếu, liên quan đến hiện hữu và hiện lộ, bằng các thuật ngữ của tư duy nhân loại, và qua môi giới hạn hẹp của ngôn ngữ.

321. DK seems to be telling us that the what has been said about individualization is only a very limited expression of the truth.

321. Chân sư DK có vẻ đang nói rằng những gì đã được nói về biệt ngã hóa chỉ là một biểu đạt rất giới hạn của chân lý.

322. Yet what little has been given helps us to understand a stupendous moment in planetary history—the moment of the birth of humanity on this chain and globe.

322. Thế nhưng chút ít được ban trao ấy giúp chúng ta hiểu một thời khắc vĩ đại trong lịch sử hành tinh—khoảnh khắc khai sinh nhân loại trên dãy và bầu này.

From the most esoteric standpoint “Man is a deva;” he is Spirit and deva substance, united through the work of conscious deva energy.  He unites within himself the three aspects of the Deity.

Từ quan điểm thâm áo nhất “Con người là một thiên thần”; con người là Thần Linh và chất liệu thiên thần, được hợp nhất thông qua công trình của năng lượng thiên thần có ý thức. Con người hợp nhất trong chính mình ba Phương diện của Thượng đế.

323. In a certain respect, there are only Spirit and Deva. “Deva” is all through which Spirit expresses itself. “Deva” is objectivity.

323. Ở một khía cạnh nào đó, chỉ có Thần Linh và Thiên thần. “Thiên thần” là tất cả những gì qua đó Thần Linh tự biểu hiện. “Thiên thần” là tính khách quan.

324. This statement is another way of saying that ‘man is a shining god’.

324. Mệnh đề này là một cách khác để nói rằng ‘con người là một vị thần sáng chói’.

325. Man, like deva, is ‘identity-in-energy’.

325. Con người, như thiên thần, là ‘đồng nhất-trong-năng lượng’.

326. If the home of man’s Monad is in the Sun, then, from a certain perspective, man can be considered a kind of Solar Angel.

326. Nếu quê hương của Chân Thần con người ở Thái Dương, thì từ một viễn kiến nào đó, con người có thể được xem như một loại Thái dương Thiên Thần.

He is, while in objectivity:

Khi đang ở trong khách quan, con người là:

1. The Self, the Not-Self, and the intelligent link in a very vital sense.

1. Tự Ngã, Phi-ngã, và mối nối thông minh theo một nghĩa hết sức sinh động.

327. This is man’s fundamental triplicity.

327. Đây là bộ ba căn bản của con người.

328. He is the Thinker, the thought and the thinking.

328. Con người là Kẻ Tư Duy, điều-được-tư-duy và tiến trình tư duy.

329. He is the Seer, the seen and the seeing, etc.

329. Con người là Bậc Kiến Kiến, cái-được-thấy và sự thấy, v.v.

2. He is Shiva, Vishnu, and Brahma, in synthetic manifestation.

2. Con người là Shiva, Vishnu và Brahma, trong một biểu lộ tổng hợp.

330. The three can never be separated. Each is within the other.

330. Ba vị ấy không bao giờ tách lìa. Mỗi vị ở trong mỗi vị kia.

331. Of course the same must be said of every deva as well.

331. Dĩ nhiên điều tương tự cũng phải được nói về mọi thiên thần.

3. He is the medium whereby the Will of God, the Love of God, and the Mind of God become intelligible and apparent.

3. Y là trung gian nhờ đó Ý Chí của Thượng Đế, Tình thương của Thượng Đế, và thể trí của Thượng đế trở nên khả tri và hiển lộ.

332. Thus it shall be when man is complete.

332. Sự việc sẽ như thế khi con người viên mãn.

4. He is positive electrical force, plus negative electrical force, plus the equilibrising medium.

4. Y là lực điện dương, cộng với lực điện âm, cộng với quân bình hóa môi chất .

333. If we are speaking of force in all three cases, then this “equilibrising medium” is “equilibrising electricity”.

333. Nếu chúng ta đang nói về lực trong cả ba trường hợp, thì “môi chất quân bình hóa” này là “điện lực quân bình hóa”.

5. He is the Flame, the Fire, and the Spark in essential manifestation.

5. Y là Ngọn Lửa, Lửa, và Tia Lửa trong sự biểu lộ bản thể.

334. Of these three, it would seem that Flame is the most essential. The undetached Spark hangs from the Flame by the finest thread of Fohat. Fire represents the lower energies through which the Spark expresses.

334. Trong ba thứ này, có vẻ Ngọn Lửa là bản thể nhất. Tia Lửa chưa tách lìa treo từ Ngọn Lửa bằng sợi chỉ tinh tế nhất của Fohat. Lửa đại diện cho các năng lượng thấp qua đó Tia Lửa biểu hiện.

6. He is electric fire, solar fire and fire by friction.

6. Y là Lửa điện, Lửa Thái dương và Lửa do ma sát.

335. This is the theme of the entire book A Treatise on Cosmic Fire

335. Đây là chủ đề của toàn bộ sách Luận về Lửa Vũ Trụ

[730]

[730]

But the point which it is necessary here to emphasise, is that man does not, in space and time and in the three worlds, dem­­onstrate all these aspects simultaneously, but only sim­ul­taneously towards the close of the process of evolution.

Nhưng điều cần nhấn mạnh ở đây là, trong không gian và thời gian và trong ba cõi giới, con người không biểu lộ tất cả các phương diện này đồng thời, nhưng chỉ đồng thời về phía cuối của tiến trình tiến hoá .

336. The sequentiality of man’s demonstration of his three aspects is emphasized.

336. Tính trình tự trong sự biểu lộ ba phương diện của con người được nhấn mạnh.

337. When man reaches the point of relative synthesis, he expresses the three major aspects of divinity simultaneously. At that point he is simultaneously and self-consciously Monad, soul and personality.

337. Khi con người đạt đến điểm dung hợp tương đối, y biểu lộ ba phương diện chính yếu của Thiêng Liêng đồng thời . Vào điểm ấy y đồng thời và tự ý thức là Chân thần, linh hồn và phàm ngã.

338. Synthesis always appears at the closing phase of any evolutionary process. We see this in the activation of the synthesis petals of the egoic lotus only once the process of initiation has begun.

338. Sự tổng hợp luôn xuất hiện ở pha kết thúc của bất kỳ tiến trình tiến hoá nào. Chúng ta thấy điều này nơi sự hoạt hoá các cánh hoa tổng hợp của Hoa Sen Chân Ngã chỉ sau khi tiến trình điểm đạo đã bắt đầu.

As in the Macrocosm, Brahma manifests activity first, then the second or middle aspect and finally the first or purposeful will makes itself seen, so with the microcosm.

Như trong Đại thiên địa, Brahma biểu lộ hoạt động trước hết, rồi đến phương diện thứ hai hay trung gian, và sau cùng phương diện thứ nhất hay Ý chí có mục đích tự làm cho mình được thấy, thì nơi Tiểu thiên địa cũng vậy.

339. The sequence of unfoldment is ever from the three to the two to the one; this sequence applies to man, the Planetary Logos, the Solar Logos and Cosmic Logoi and Super-Cosmic Logoi, etc.

339. Trình tự khai mở bao giờ cũng từ ba đến hai rồi đến một; trình tự này áp dụng cho con người, Hành Tinh Thượng đế, Thái dương Thượng đế và các Thượng đế vũ trụ cùng các Thượng đế Siêu-Vũ trụ, v.v.

The Brahma aspect, that in which the Not-Self or material aspect is apparent and predominant.  This covers the sub-human stages, and the first three cycles of the Personality Life:

Phương diện Brahma, tức phương diện trong đó Phi-Ngã hay phương diện vật chất là hiển nhiên và trội hơn. Điều này bao quát các giai đoạn tiền-nhân loại, và ba chu kỳ đầu tiên của Đời sống phàm ngã:

a. First cycle………….savage state.

a. Chu kỳ thứ nhất………….tình trạng man dã.

b. Second cycle……..average man.

b. Chu kỳ thứ hai……..người trung bình.

c. Third cycle…………intellectual successful man.

c. Chu kỳ thứ ba…………người trí thức thành đạt.

340. The stages listed here are not the stages of man’s full development but only the stages of his personality life.

340. Những giai đoạn liệt kê ở đây không phải là các giai đoạn phát triển trọn vẹn của con người mà chỉ là những giai đoạn của đời sống phàm ngã của y.

341. From the perspective of the egoic lotus, this stage covers the unfoldment the brahmic petals—the first five petals.

341. Từ viễn kiến của Hoa Sen Chân Ngã, giai đoạn này bao trùm sự khai mở các cánh hoa theo đường lối brahmic—năm cánh đầu tiên.

342. The savage state covers petal one and part of petal two; average man covers the unfoldment of the second and part of the third petal; intellectual successful man covers the unfoldment of the third petal, the fourth and part of the fifth.

342. Tình trạng man dã bao trùm cánh hoa thứ nhất và một phần của cánh hoa thứ hai; người trung bình bao trùm sự khai mở cánh thứ hai và một phần của cánh thứ ba; người trí thức thành đạt bao trùm sự khai mở cánh thứ ba, cánh thứ tư và một phần của cánh thứ năm.

343. It is important to not the distinction between these three states of man’s expression and that “average man” is not yet “intellectual successful man”.

343. Điều quan trọng là lưu ý sự phân biệt giữa ba trạng thái biểu lộ này của con người, và rằng “người trung bình” chưa phải là “người trí thức thành đạt”.

The Vishnu aspect, that in which the love-wisdom aspect gradually predominates and emerges through the medium of the Brahma aspect.

Phương diện Vishnu, tức phương diện trong đó phương diện Bác Ái – Minh Triết dần dần chiếm ưu thế và trồi lên qua trung gian của phương diện Brahma.

344. Vishnu expresses itself through Brahma.

344. Vishnu tự biểu lộ qua Brahma.

It covers the final two stages of the human personality life, and that period of egoic growth which embraces the final two Initiations:

Nó bao quát hai giai đoạn cuối cùng của đời sống phàm ngã nhân loại, và giai đoạn lớn mạnh của chân ngã vốn bao hàm hai lần điểm đạo sau cùng:

345. This is interesting. The Vishnu stage is also related to personality life.

345. Điều này đáng chú ý. Giai đoạn Vishnu cũng liên hệ tới đời sống phàm ngã.

a. First cycle………….The Path of Probation.

a. Chu kỳ thứ nhất………….Con Đường Dự Bị.

346. This is a high stage of personality life but personality life nonetheless.

346. Đây là một cấp độ cao của đời sống phàm ngã nhưng dẫu sao vẫn là đời sống phàm ngã.

b. Second cycle……..The Path of Initiation.

b. Chu kỳ thứ hai……..Con Đường Điểm Đạo.

347. To tread the Path of Initiation in the early stages still involves personality life, but also the infusing life of the Fifth Creative Hierarchy making a man a probationary member of the Kingdom of Souls.

347. Bước đi trên Con Đường Điểm Đạo ở những giai đoạn đầu vẫn bao hàm đời sống phàm ngã, nhưng cũng bao hàm sức sống thấm nhuần của Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm khiến con người trở thành một thành viên dự bị của Giới Linh hồn.

348. The Vishnu or Love aspect is growing throughout the cycle in which man is a probationary initiate.

348. Phương diện Vishnu hay Tình thương tăng trưởng xuyên suốt chu kỳ trong đó con người là một kẻ điểm đạo dự bị.

(till the third Initiation)

(cho đến lần điểm đạo thứ ba)

c. Third cycle…………That covering the fourth and

c. Chu kỳ thứ ba…………Chu kỳ bao trùm lần điểm đạo thứ tư và

fifth Initiations.

thứ năm.

349. The Vishnu aspect comes into full flower. At the third degree man begins his buddhic education in earnest and by the time the fourth initiation is taken, he is focussed on the buddhic plane. From another perspective, the fifth initiation is taken on the buddhic plane but is certainly related to the atmic. In any case, a Master is a Master of the Wisdom and buddhi is wisdom.

349. Phương diện Vishnu nở rộ toàn vẹn. Ở đẳng cấp thứ ba, con người khởi sự học vấn Bồ đề một cách nghiêm túc, và đến khi thụ nhận lần điểm đạo thứ tư, y tập trung trên cõi Bồ đề. Ở một góc nhìn khác, lần điểm đạo thứ năm được thụ lãnh trên cõi Bồ đề nhưng chắc chắn liên hệ tới cõi atma. Dù thế nào, một Chân sư là một Chân sư của Minh Triết và Bồ đề là minh triết.

At the final two initiations, which set a man free from the three worlds and enable him to function in the logoic body of vitality and to wield the force which animates that logoic [697] vehicle, the initiate becomes the five-pointed star, and it descends upon him, merges in him, and he is seen at its very centre.  This descent is brought about through the action of the Initiator, wielding the Rod of Power, and puts a man in touch with the centre in the Body of the planetary Logos of which he is a part; this is consciously effected.  The two initiations, called the sixth and seventh, take place on the atmic plane; the five-pointed star “blazes forth from within itself” as the esoteric phrase has it, and becomes the seven-pointed star; it descends upon the man and he enters into the Flame. (TCF 696-697)

Ở hai lần điểm đạo sau cùng, vốn giải phóng con người khỏi ba cõi giới và khiến y có thể hoạt động trong thể sinh lực của Logos và sử dụng được mãnh lực làm sinh động vận cụ [697] của Logos ấy, vị điểm đạo đồ trở thành ngôi sao năm cánh, và ngôi sao đó giáng xuống y, dung nhập trong y, và y được thấy ở ngay trung tâm của nó . Sự giáng lâm này được tạo nên bằng hành động của Đấng Điểm đạo, cầm Thần Trượng Quyền Năng, và đặt con người tiếp xúc với trung tâm trong Thể của Hành Tinh Thượng đế mà y là một bộ phận; điều này được thực hiện một cách tự ý thức. Hai lần điểm đạo, gọi là thứ sáu và thứ bảy, diễn ra trên cõi atma; ngôi sao năm cánh “bừng cháy từ trong chính nó” như ngữ ngôn nội môn nói, và trở thành ngôi sao bảy cánh; nó giáng xuống người ấy và y bước vào Ngọn Lửa. (TCF 696-697)

350. From the time there is concentration upon the second part of the fifth petal, the Vishnu aspect is emerging in consciousness.

350. Kể từ lúc có sự tập trung vào phần thứ hai của cánh hoa thứ năm, phương diện Vishnu đang trồi lên trong tâm thức.

351. In this respect, we are told the following of the involvement of the Ego/Solar Angel and the personality:

351. Về phương diện này, chúng ta được cho biết như sau về sự tham dự của Chân ngã/Thái dương Thiên Thần và phàm ngã:

The Ego takes no active interest in the development until the second petal in the second series is beginning to open.  (TCF 543)

Chân ngã không hề quan tâm tích cực đến sự phát triển cho đến khi cánh hoa thứ hai trong loạt thứ hai bắt đầu mở. (TCF 543)

352. When the Solar Angel becomes a “downward gazing soul”, the Vishnu aspect begins to emerge.

352. Khi Thái dương Thiên Thần trở thành “linh hồn nhìn xuống”, phương diện Vishnu bắt đầu xuất lộ.

This is the temporary consummation, but just as in the animal kingdom, the human mind was latent and instinctive, and just as in the human kingdom the buddhic aspect is latent and instinctive,

Đây là sự viên thành tạm thời, nhưng cũng như trong giới thú vật, thể trí con người còn tiềm ẩn và mang tính bản năng, và cũng như trong giới nhân loại phương diện Bồ đề là tiềm ẩn và mang tính bản năng ,

353. This makes sense as the human kingdom is the fourth kingdom and the buddhic plane is the fourth systemic plane.

353. Điều này hợp lý vì giới nhân loại là giới thứ tư và cõi Bồ đề là cõi hệ thống thứ tư .

354. During the development of each kingdom, an aspect which is instinctive in that kingdom unfolds and becomes expressive.

354. Trong quá trình phát triển của mỗi giới, một phương diện vốn mang tính bản năng trong giới ấy sẽ khai mở và trở nên biểu lộ.

355. The Fourth Creative Hierarchy of Monads is expressive upon the buddhic plane and is intended to express the buddhic principle.

355. Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của các Chân thần biểu lộ trên cõi Bồ đề và được định để biểu lộ nguyên khí Bồ đề.

356. The Solar Angels, themselves embodiments of the buddhic principle, promote the development of this type of expression in man.

356. Các Thái dương Thiên Thần, tự thân là những hiện thân của nguyên khí Bồ đề, thúc đẩy sự phát triển kiểu biểu lộ này nơi con người.

so during the final cycle of human endeavour, the Atma, or highest aspect of the Monad, is also latent and instinctive.  This must produce later stages of devel­opment.

vì vậy, trong chu kỳ cuối cùng của nỗ lực nhân loại, Atma , hay phương diện cao nhất của Chân thần , cũng là tiềm ẩn và bản năng. Điều này ắt phải sản sinh những giai đoạn phát triển về sau.

357. These later stages will be related to the final initiations. If the fifth initiation is still related largely to the buddhic aspect, then the first great initiation of the Monad (the sixth initiation) relates to the unfoldment of atma, and so for the following initiations.

357. Những giai đoạn về sau này sẽ liên hệ tới các lần điểm đạo cuối cùng. Nếu lần điểm đạo thứ năm vẫn còn liên hệ chủ yếu đến phương diện Bồ đề, thì cuộc điểm đạo vĩ đại đầu tiên của Chân thần (lần điểm đạo thứ sáu) liên quan đến sự khai mở atma, và các lần tiếp theo cũng vậy.

358. It is interesting to hear the Atma called “the highest aspect of the Monad”. Atma is usually associated with the spiritual triad and the factor of “Will” is listed as the highest aspect of the Monad (as that aspect is expressive upon the monadic plane). Yet, from another perspective, Atma and Will are virtually indistinguishable.

358. Thật thú vị khi nghe Atma được gọi là “phương diện cao nhất của Chân thần”. Atma thường được kết liên với Tam nguyên tinh thần, và yếu tố “Ý chí” được liệt kê như phương diện cao nhất của Chân thần (vì phương diện đó biểu lộ trên cõi chân thần). Tuy vậy, ở một viễn kiến khác, Atma và Ý chí hầu như bất khả phân.

359. The closer we come to the Atman (which is pure Spirit), the more intense the expression of the Atma.

359. Càng tiến gần Atman (tức Tinh thần thuần túy), sự biểu lộ của Atma càng mạnh mẽ.

360. We could say that the Atma is instinctual in the Spiritual Kingdom just as Vishnu is instinctive in the human kingdom and Brahma/Manas in the animal kingdom.. Vishnu is expressive in the Kingdom of Souls or Spiritual Kingdom ; analogously, perhaps the Shiva aspect, the Atma, is expressive in the Kingdom of Planetary Lives.

360. Chúng ta có thể nói rằng Atma là bản năng trong Giới Tinh Thần giống như Vishnu là bản năng trong giới nhân loại và Brahma/Manas trong giới thú vật. Vishnu thì biểu lộ trong Giới Linh hồn hay Giới Tinh Thần; theo phép tương ứng, có lẽ phương diện Shiva, tức Atma, là biểu lộ trong Giới các Sự sống Hành tinh.

361. The “final cycle of human endeavour” involves entry into the Kingdom of Planetary Lives.

361. “Chu kỳ cuối cùng của nỗ lực nhân loại” bao hàm sự gia nhập Giới các Sự sống Hành tinh.

There are no gaps in evolution, and no periods wherein there is total absence of any one aspect; all are ever present but they [731] “show forth” in alterna­tion.

Không hề có khoảng trống nào trong tiến hoá , và không có thời kỳ nào hoàn toàn vắng mặt bất kỳ phương diện nào; tất cả luôn hiện diện nhưng [731] “biểu lộ” thay phiên nhau.

362. This is an important idea: Brahma, Vishnu and Shiva are ever present but not equally strong in expression, and there is a natural developmental sequence in which Brahma is always the first to unfold and Shiva the last.

362. Đây là một ý tưởng quan trọng: Brahma, Vishnu và Shiva luôn hiện diện nhưng không đồng mức độ mạnh mẽ trong biểu lộ, và có một trình tự phát triển tự nhiên trong đó Brahma luôn là phương diện khai mở trước, và Shiva là sau cùng.

Only when the fires of matter are blazing brightly, and become radiatory, does it become possible for the fire of mind to show forth, even though ever inherently present.

Chỉ khi các lửa của vật chất bừng cháy rực rỡ và trở nên phóng xạ, thì lúc ấy lửa của trí mới có thể biểu lộ, dẫu vốn vẫn luôn tiềm tàng.

363. Each aspect which is lower than a succeeding aspect must reach a certain, foundational point of development before that succeeding aspect can emerge (using the preceding aspect as a vehicle).

363. Mỗi phương diện thấp hơn phương diện kế tiếp phải đạt đến một điểm phát triển nền tảng nhất định trước khi phương diện kế tiếp có thể trồi lên (dùng phương diện trước đó làm vận cụ).

364. While the fires of matter raged, the fires of mind were present though latent and unexpressed.

364. Trong khi các lửa của vật chất còn đang cuồn cuộn, lửa của trí vẫn hiện diện dẫu còn tiềm ẩn và chưa biểu lộ.

Only when these two fires of matter and of mind have reached a stage of energetic heat and light,

Chỉ khi hai loại lửa này—lửa của vật chất và lửa của trí—đã đạt đến một giai đoạn nhiệt và quang đầy sinh lực,

365. Heat is related to the fires of matter and light to the fires of mind.

365. Nhiệt liên hệ với các lửa của vật chất và quang liên hệ với các lửa của trí.

366. There is a certain specified state of combination of matter and mind which will become invocative of the fires of Spirit.

366. Có một trạng thái kết hợp xác định của vật chất và trí sẽ trở nên khẩn triệu lửa của Tinh thần.

can the electric fire of Spirit show forth in its glory.

thì Lửa điện của Tinh thần mới có thể hiển lộ trong vinh quang của mình.

367. The foundation must always be prepared. This takes time.

367. Nền tảng luôn phải được chuẩn bị. Điều này cần thời gian.

Only again when these three are unitedly burning does the fire of matter die down for lack of that which it may consume,

Chỉ khi ba loại lửa này cùng cháy hợp nhất thì lửa của vật chất mới lụi tàn vì thiếu cái để nó có thể tiêu thụ,

368. Fire by friction loses its fuel. There is little remaining within the lower nature to consume, as a great purification has occurred by the time the two fires of matter and mind are burning simultaneously with the electric fire of Spirit.

368. Lửa do ma sát mất nhiên liệu của nó. Hầu như không còn gì trong bản tính thấp để thiêu đốt, vì một cuộc thanh luyện lớn đã diễn ra vào lúc hai lửa của vật chất và của trí đang cháy đồng thời với Lửa điện của Tinh thần.

369. Matter is transmuted into mind, heat into light.

369. Vật chất được chuyển hoá thành trí, nhiệt thành quang.

370. The man becomes ethereal and prepares to refocus upon the cosmic ethers.

370. Con người trở nên nhẹ thoát và chuẩn bị tái tập trung trên các dĩ thái vũ trụ.

and only when that occurs is it possible for the fires of mind (on mental levels) to burn up that which it has hitherto animated.

và chỉ khi điều đó xảy ra thì lửa của trí (trên các cõi trí) mới có thể thiêu rụi cái mà từ trước đến nay nó đã làm cho sinh động.

371. First comes the retraction of the fires of matter (once the Spirit aspect has merged with the fires of mind), and only then can the fires of mind flare to fullest intensity and die out having consumed that which it has previously animated. The soul is the animating factor sometimes conceived as the anima.

371. Trước tiên là sự thu hồi các lửa của vật chất (khi phương diện Tinh thần đã dung hợp với lửa của trí), và chỉ sau đó lửa của trí mới có thể bùng lên đến cường độ tột bực và lụi tàn sau khi đã thiêu rụi cái mà trước đây nó từng làm sinh động. Linh hồn là yếu tố làm sinh động , đôi khi được quan niệm như anima.

372. What we usually call consciousness is transmuted into Spirit.

372. Điều mà chúng ta thường gọi là tâm thức được chuyển hoá thành Tinh thần.

When this is accomplished, the fire of pure Spirit (increased and intensi­fied by the gaseous essence of the fire of matter, or “fire by friction,” and coloured, and rendered radiatory by the fire of mind) blazes forth in perfected glory, so that naught is seen save one vibrant flame.

Khi điều này hoàn tất, lửa của Tinh thần thuần khiết (được gia tăng và tăng cường bởi tinh chất khí của lửa của vật chất , hay “lửa do ma sát”, và được nhuộm màu, được làm cho phóng xạ bởi lửa của trí) bừng cháy trong vinh quang hoàn mãn, đến nỗi chẳng còn thấy gì ngoài một ngọn lửa rung động duy nhất.

373. Man returns to the state of flame. He is, in essence the One Flame.

373. Con người trở về trạng thái của ngọn lửa. Về bản thể, y là Một Ngọn Lửa.

374. We are given a hint of the role to be played by the “gaseous essence of the fire of matter” in the intensification of Spirit Fire. It is significant to note that fire by friction has a “gaseous essence”.

374. Chúng ta được gợi ý về vai trò sẽ được “tinh chất khí của lửa vật chất” đóng trong việc tăng cường Lửa Tinh thần. Điều đáng chú ý là lửa do ma sát một “tinh chất khí”.

375. We have heard of the “Breath of Fire”. Perhaps we are reading about a deeply occult application of this breath.

375. Chúng ta đã từng nghe nói về “Hơi Thở của Lửa”. Có lẽ chúng ta đang đọc về một ứng dụng huyền vi sâu xa của hơi thở này.

376. Two things happen to Spirit as a result of the consummation of the two supportive fires:

376. Hai điều xảy đến với Tinh thần như là hệ quả của sự viên thành của hai loại lửa hỗ trợ:

a. It is intensified by the gaseous essence of the fire of matter

a. Nó được gia cường bởi tinh chất khí của lửa vật chất

b. It is colored and rendered radiatory by the fire of mind. (Both the second ray and first ray can be seen as radiatory in different contexts.)

b. Nó được nhuộm màu và khiến thành phóng xạ bởi lửa của trí. (Cả cung hai lẫn cung một có thể được xem là phóng xạ trong những bối cảnh khác nhau.)

377. This “blazing forth in perfected glory” may be a description of the fourth initiation. Is “one vibrant flame” to be seen at the fourth initiation? It would seem characteristic of a later initiation, except that the really dramatic and all-consuming moment comes at the fourth degree.

377. Sự “bừng cháy trong vinh quang hoàn mãn” này có thể là một miêu tả về lần điểm đạo thứ tư. Liệu “một ngọn lửa rung động duy nhất” được thấy ở lần điểm đạo thứ tư chăng? Có vẻ điều ấy đặc trưng cho một lần điểm đạo về sau, ngoại trừ khoảnh khắc thực sự kịch tính và thiêu rụi tất cả lại xảy ra ở bậc thứ tư.

378. The following reference to a flame which issues from the heart within the head center of the man who achieves liberation is complementary to the information here discussed:

378. Tham chiếu sau đây đến một ngọn lửa phát lộ từ quả tim bên trong trung tâm đầu của người đạt giải thoát là bổ sung cho thông tin đang được bàn luận:

Above all, at the top of the head will be seen a fiery display that seems to put all the other centres into insignificance; from the heart of this many-petalled lotus issues a flame of fire with the basic hue of a man’s ray.  This flame [171] mounts upward and seems to attract downward a sheet of electric light, which is the downflow from the spirit on the highest plane.  This marks the blending of the fires and the deliverance of man from the trammels of matter. (TCF 170-171)

Trên hết thảy, ở đỉnh đầu sẽ thấy một phô diễn rực lửa dường như khiến mọi trung tâm khác trở nên mờ nhạt; từ trái tim của đóa sen nhiều cánh này phát ra một ngọn lửa mang sắc cơ bản của cung của một người. Ngọn lửa [171] ấy bốc lên và dường như hút xuống một tấm ánh sáng điện, vốn là dòng giáng từ Tinh thần ở cõi cao nhất.  Điều này đánh dấu sự hòa trộn của các lửa và sự giải thoát con người khỏi những ràng buộc của vật chất. (TCF 170-171)

This idea can be extended away from Man to a Heavenly Man, and again to the Logos in His cosmic relationship.

Ý tưởng này có thể được mở rộng từ Con người sang một Đấng Thiên Nhân, và nữa là tới Thượng đế trong các mối liên hệ vũ trụ của Ngài.

379. For both the Planetary Logos and Solar Logos the blazing forth of Spirit will come. They are a long way from this possibility, though for the Solar Logos, there is a good chance it  be consummated by the close of this second ray solar system. Will our Planetary Logos blaze forth in this way in this solar system? This is also possible.

379. Đối với cả Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế, sự bừng rực của Tinh thần rồi sẽ đến. Các Ngài còn cách xa khả tính này, dẫu đối với Thái dương Thượng đế thì có cơ may điều ấy được viên thành vào cuối hệ mặt trời cung hai này. Liệu Hành Tinh Thượng đế của chúng ta sẽ bừng cháy theo lối này trong hệ mặt trời này chăng? Điều này cũng có thể.

380. We are now given three excellent descriptions of Individualization, Initiation, and Identification.

380. Giờ đây chúng ta được ban ba mô tả tuyệt hảo về Biệt ngã hóa, Điểm đạo, và Đồng Nhất hóa.

Individualisation marks one stage of the process in the inten­sification of “fire by friction.”  It has relation to the achieve­ment of Brahma, and marks a point in the energising of sub­stance.  Certain forms are ready for self-conscious­ness.  Two cosmic Rays of differing polarities are mutually attracted.

Biệt ngã hóa đánh dấu một giai đoạn của tiến trình tăng cường “lửa do ma sát”. Nó liên hệ với thành tựu của Brahma, và đánh dấu một điểm trong việc sinh động hoá chất liệu. Một số hình tướng đã sẵn sàng cho tự-ý thức. Hai cung vũ trụ có cực tính khác nhau tương hỗ hấp dẫn nhau.

381. These cosmic Rays are the third and the first. The result is the creation of a vehicle especially for the expression of the second ray.

381. Hai cung vũ trụ này là cung ba và cung một. Kết quả là sự kiến tạo một vận cụ đặc biệt cho biểu lộ của cung hai.

382. Fire by friction has intensified to the point that it has become invocative of the first aspect.

382. Lửa do ma sát đã được tăng cường đến mức trở nên khẩn triệu phương diện thứ nhất.

383. The attraction between the two opposing poles invokes the entry of Beings, Solar Angels, who embody the great second ray of Love-Wisdom and promote the development and expression of this aspect in man.

383. Sức hấp dẫn giữa hai cực đối nghịch khẩn triệu sự đi vào của các Đấng, tức các Thái dương Thiên Thần, những vị hiện thân đại cung hai của Bác Ái – Minh Triết và thúc đẩy sự phát triển cùng biểu lộ phương diện này nơi con người.

Initiation marks a stage in the intensification of “solar Fire.”

Điểm đạo đánh dấu một giai đoạn trong sự tăng cường “Lửa Thái dương.”

384. This fire has been growing since the Ego began to gaze downward at the partial opening of the fifth petal.

384. Ngọn lửa này đã lớn dần kể từ khi Chân ngã bắt đầu nhìn xuống lúc phần nào cánh hoa thứ năm hé mở.

It has relation to the achievement of Vishnu, and marks a point in the evolution of consciousness, through self-conscious­ness to group consciousness, or universal consciousness.

Nó liên hệ với thành tựu của Vishnu, và đánh dấu một điểm trong sự tiến hoá của tâm thức, từ tự-ý thức đến tâm thức nhóm, hay tâm thức phổ quát.

385. Individualization opened the door to self-consciousness.

385. Biệt ngã hóa đã mở cánh cửa dẫn vào tự-ý thức.

386. The energy of Vishnu promotes the evolution of self-consciousness until it becomes group consciousness and eventually universal consciousness. The higher initiations (the fourth and fifth) offer a glimmer of universal consciousness.

386. Năng lượng của Vishnu thúc đẩy sự tiến hoá của tự-ý thức cho đến khi nó trở thành tâm thức nhóm, và rốt cuộc là tâm thức phổ quát. Các lần điểm đạo cao (thứ tư và thứ năm) cho một tia lóe của tâm thức phổ quát.

387. The entire process of initiation occurs under the influence of Vishnu.

387. Trọn tiến trình điểm đạo diễn ra dưới ảnh hưởng của Vishnu.

Identification with the aggregate of all groups might be the term used to express the final stages of the evolutionary process;

Đồng Nhất hóa với tổng thể của mọi nhóm có thể là thuật ngữ dùng để chỉ các giai đoạn cuối cùng của tiến trình tiến hoá;

388. The final stage occurs under the Law of Synthesis. This stage must also be related to universal consciousness.

388. Giai đoạn chung cuộc diễn ra dưới Định luật Tổng Hợp. Giai đoạn này hẳn cũng liên hệ với tâm thức phổ quát.

it marks a period towards the close of the maha­man­vantara when all groups begin consciously to work out the eternal Will.

nó đánh dấu một thời kỳ vào cuối của đại giai kỳ sinh hóa khi mọi nhóm khởi sự một cách tự ý thức thực hiện Ý Chí vĩnh cửu.

389. We are speaking of Identification as it applies to a Solar Logos.

389. Chúng ta đang nói về Đồng Nhất hóa như nó áp dụng cho một Thái dương Thượng đế.

390. At such a time, and for this great second ray Being, the mantram “Naught is but Me” applies.

390. Vào thời điểm như thế, và đối với Đấng vĩ đại thuộc cung hai này, mantram “Chẳng có gì ngoài Ta” là thích đáng.

It involves a type of realisation, incred­ible to man now but which is conceivable [732] (though not yet practicable) to the Chohans of the Hierarchy now on Earth.

Điều đó bao hàm một kiểu thực chứng, hiện nay không thể tin nổi đối với nhân loại nhưng [732] có thể quan niệm được (dẫu chưa thể thực hành) với các Chohan của Thánh Đoàn hiện ở Địa cầu.

391. It is quite amazing that Chohans can conceive of the state of Identification which will characterize the Solar Logos at the close of this present mahamanvantara. Perhaps They can do this through the perceptual power of the Monad, with which They are identified and which They have ‘re-become’ in full consciousness.

391. Thật đáng kinh ngạc rằng các Chohan có thể quan niệm về trạng thái Đồng Nhất hóa sẽ đặc trưng cho Thái dương Thượng đế vào cuối đại giai kỳ sinh hóa hiện tại. Có lẽ Các Ngài có thể làm vậy qua năng lực tri giác của Chân thần, với cái mà Các Ngài đồng nhất và mà Các Ngài đã “trở thành lại” trong toàn thức.

392. Yet, though the state is conceivable, there is nothing they can contribute to it—at the present time.

392. Tuy vậy, dẫu trạng thái ấy có thể quan niệm được, hiện thời Các Ngài không thể đóng góp gì vào đó.

They work consciously carrying out the Will of the planetary Logos in the planet, but even They are as yet far from appreciating fully the Will and purpose of the Logos as He works through the system.

Các Ngài làm việc một cách tự ý thức để thi hành Ý Chí của Hành Tinh Thượng đế trong hành tinh, nhưng ngay cả Các Ngài cũng còn xa mới có thể thấu triệt đầy đủ Ý Chí và mục đích của Thượng đế khi Ngài vận hành thông qua hệ thống.

393. Chohans understand what we call the “Divine Will” as it applies to the Planetary Logos.

393. Các Chohan thấu hiểu điều mà chúng ta gọi là “Ý Chí thiêng liêng” như nó áp dụng cho Hành Tinh Thượng đế.

394. That which is the logoic Will is far beyond Their apprehension—at least in fulness.

394. Cái gọi là Ý Chí của Logos thì vượt xa sự lĩnh hội của Các Ngài—ít nhất là trong sự viên mãn.

Glimpses They may get, and an idea of the general plan, but the details are as yet unrecognisable.

Các Ngài có thể bắt được những tia lóe, và có một ý niệm về Thiên Cơ tổng quát, nhưng các chi tiết thì hiện vẫn chưa thể nhận biết.

395. DK may well be speaking of His own glimpses. Although apparently not yet a Chohan, it can be imagined that He can apprehend at least something of the direction in which the Solar Logos is tending and the purpose which actuates the solar systemic process.

395. Có thể Chân sư DK đang nói về chính những tia lóe của Ngài. Dẫu có vẻ chưa là một Chohan, chúng ta có thể hình dung rằng Ngài có thể lĩnh hội ít nhất đôi điều về phương hướng mà Thái dương Thượng đế đang hướng tới và về mục đích đang thúc động tiến trình của toàn hệ mặt trời.

Scroll to Top