Bình Giảng về Lửa Vũ Trụ S7S9 Part II (843-844)

TCF 843-844: S7S9 Part II

It might be of value here if we temporarily stopped our considera­tion of the egoic groups and briefly tabulated the evolutions, remembering that in this tabulation, the planes of differentiation alone are concerned; on the plane of the unmanifest or of the subjective, only unity is known.

Sẽ hữu ích nếu tại đây chúng ta tạm ngừng khảo cứu các nhóm chân ngã và lược kê các tiến hoá, ghi nhớ rằng trong bảng kê này, chỉ những cõi của sự biến phân được xem xét; còn trên cõi không biểu hiện hay cõi chủ quan, chỉ có nhất thể được nhận biết.

1. The consciousness of the occultist must ever be aware of the great unity, even on the “planes of differentiation”.

1. Tâm thức của nhà huyền bí học phải luôn ý thức về đại nhất thể, ngay cả trên “các cõi của biến phân”.

2. Tabulation VI will include some of the most significant evolutions, but certainly not all. Still, if these are borne in mind, the progression of evolutionary development on our planet and in our solar system will be better understood.

2. Bảng VI sẽ bao gồm một số tiến hoá quan trọng nhất, nhưng dĩ nhiên không phải tất cả. Tuy vậy, nếu ghi nhớ những điều này, tiến trình phát triển tiến hoá trên hành tinh của chúng ta và trong hệ mặt trời của chúng ta sẽ được thấu hiểu tốt hơn.

It must again be remembered that the term “unmanifest” is one of relative importance only, and concerns man’s apprehension of all that is. To the solar Logos the planes of the unmanifest are objective.

Cần nhớ lại rằng thuật ngữ “không biểu hiện” chỉ có ý nghĩa tương đối, và liên quan đến sự lĩnh hội của con người về tất cả những gì là. Đối với Thái dương Thượng đế, các cõi không biểu hiện là khách quan.

3. The Solar Logos, too, is limited in His perception. There are many areas within the Cosmic Whole which, to Him, are unmanifest (i.e., unperceivable), though objective to still greater Beings.

3. Thái dương Thượng đế cũng bị giới hạn trong nhận thức của Ngài. Có nhiều lĩnh vực trong Toàn Thể Vũ Trụ vốn, đối với Ngài, là không biểu hiện (tức không thể tri nhận), dù chúng khách quan đối với các Đấng còn Vĩ Đại hơn.

4. To the Ultimate Universal Logos, the SOURCE OF ALL is unmanifest.

4. Đối với Thượng đế Vũ Trụ Tối Hậu, NGUỒN CỦA MỌI SỰ là không biểu hiện.

Man has not as yet achieved etheric vision, and the etheric [844 Tabulation VI] [845] subplanes are to him as yet unmanifest.

Con người vẫn chưa đạt tới thị kiến dĩ thái, và các cõi phụ dĩ thái [844 Bảng VI] [845] đối với y vẫn chưa biểu hiện.

5. They exist but they are not perceived. We believe that they exist based upon the assertions of trusted sources.

5. Chúng tồn tại nhưng chưa được tri nhận. Chúng ta tin rằng chúng tồn tại dựa trên những xác quyết từ các nguồn đáng tin.

6. Sensitive human beings, however, are penetrating into areas of the cosmic physical plane which to the great majority remain apparently unmanifest.

6. Tuy nhiên, những con người nhạy cảm đang xuyên nhập vào các lĩnh vực của cõi hồng trần vũ trụ, vốn đối với đại đa số vẫn có vẻ không biểu hiện.

The solar Logos has cosmic etheric vision fully developed, and because He is on the cosmic Path all is known and fully revealed to Him within the solar System.

Thái dương Thượng đế đã phát triển trọn vẹn thị kiến dĩ thái vũ trụ, và bởi vì Ngài ở trên Con Đường vũ trụ nên mọi sự trong hệ mặt trời đều được Ngài biết và mặc khải trọn vẹn.

7. This means that the Solar Logos perceives easily and completely the happenings upon the systemic buddhic, atmic, monadic and logoic planes. Whether He perceives quite so consciously on the cosmic astral plane and the cosmic mental plane remains in question.

7. Điều này có nghĩa là Thái dương Thượng đế tri nhận một cách dễ dàng và trọn vẹn các hiện tượng trên các cõi hệ thống: Bồ đề, atma, chân thần và logoic. Liệu Ngài có tri nhận một cách ý thức như thế trên cõi cảm dục vũ trụ và cõi trí vũ trụ hay không vẫn là câu hỏi.

8. In this regard, we might base an analogy upon the life of a human being. The sensitive human being is beginning to be aware of the phenomena of the etheric plane. He also has some knowledge of the phenomena of the astral plane but few human beings are fully conscious on that plane or on the mental plane. Thus it may be for the Solar Logos on His own correspondingly higher levels.

8. Về điểm này, chúng ta có thể dựa trên một phép tương đồng nơi đời sống con người. Người nhạy cảm bắt đầu ý thức các hiện tượng của cõi dĩ thái. Y cũng có chút hiểu biết về các hiện tượng của cõi cảm dục nhưng ít người hoàn toàn ý thức trên cõi ấy hoặc trên cõi trí. Như thế, có thể cũng vậy đối với Thái dương Thượng đế trên các cấp độ tương ứng cao hơn của Ngài.

9. We note that the cosmic etheric planes are linked to the solar system. It is being suggested that the Logos’ knowledge of these planes is equivalent to His knowledge of the solar system. As has often been stated, that part of our Solar Logos’ energy system which lies beyond the cosmic ethers is not considered to be part of our system.

9. Chúng ta lưu ý rằng các cõi dĩ thái vũ trụ gắn kết với hệ mặt trời. Điều đang được gợi ý là tri kiến của Thượng đế về các cõi này tương đương với tri kiến của Ngài về hệ mặt trời. Như từng được nói, phần hệ thống năng lượng của Thái dương Thượng đế chúng ta nằm ngoài các cõi dĩ thái vũ trụ thì không được xem là thuộc hệ của chúng ta.

10. Below is a very important tabulation. It is at first presented without commentary so that its general structure can be taken in. Commentary follows.

10. Dưới đây là một bảng rất quan trọng. Trước hết, nó được trình bày không kèm chú giải để có thể tiếp nhận cấu trúc tổng quát. Chú giải sẽ theo sau.

TABULATION VI

Lives

Goal

1. Planetary Logoi; The major Three.

Cosmic liberation; the final cosmic Initiations.

2. The minor four planetary Logoi

Cosmic Initiation, or the first four Initiations.

3. The informing Lives of a planetary globe

Manus of a cosmic chain. Not a seed manu, but a periodical manu of lesser degree. This involves an unrevealable mystery, connected with certain Hierarchies of color.

4. The informing life of a kingdom in nature

Transference in one of three directions:

a. To the line of the solar Pitris.

b. To Sirius, as a karmic adjuster.

c. To the solar system of the next order to work in connection with the planetary Logos of his own line as ruler of a kingdom or life wave in the system, and not just in a scheme.

5. The solar Pitris.

The highest three groups will become major planetary Logoi; the lower four groups will become minor planetary Logoi.

6. The human evolution.

To become the solar Pitris of another cycle. To follow any of the paths earlier enumerated. Those who become solar Pitris, being the bulk of humanity, return to Sirius to be breathed out again into activity.

7. The lunar Pitris  

To become men. They will in their higher grades pass directly into the animal evolution of the next cycle and so eventually individualise. Their three higher grades will become animal-men, and the lower four will contribute to the quaternic forms of the men of the next creation.

8. The animal evolution       

Human kingdom.

9. The vegetable evolution       

The animal kingdom.

10. The mineral evolution       

The vegetable kingdom.

11. The four higher grades of lesser Builders on all planes

They will form the manifested double or form of that mysterious third evolution of the next system; that is, the etheric body of the planetary entity. This mysterious life is as yet an unfathomable mystery and one which will not be revealed till the final one of the triplicity of solar systems of our solar Logos.

12. The three lower grades of the lesser builders.

The physical body in its densest form of the planetary entity.

11. Below is the table above, with commentary included.

11. Dưới đây là bảng trên, kèm chú giải.

12. As we consider the goals of these many types of L/lives, it is important to determine the distinction between “goal” and “objective”, as these terms are used on TCF 384 when discussing the initiatory programs of the Solar Logos, our Planetary Logos and the human being.

12. Khi chúng ta xét đến các mục tiêu của những dạng S/sự sống đa dạng này, điều quan trọng là xác định sự khác nhau giữa “mục tiêu” (goal) và “mục đích” (objective), như các thuật ngữ này được dùng ở TCF 384 khi bàn về các chương trình điểm đạo của Thái dương Thượng đế, Hành Tinh Thượng đế của chúng ta và con người.

13. Is a “goal” an immediate “objective”? Perhaps.

13. “Mục tiêu” có phải là một “mục đích” tức thời không? Có lẽ vậy.

TABULATION VI

BẢNG VI

With Commentary

Kèm Chú giải

Lives                                       Goal

Các Sự sống Mục tiêu

1. Planetary Logoi; The major Three.                              Cosmic liberation; the final cosmic Initiations.

1. Các Hành Tinh Thượng đế; Ba vị chính yếu. Giải thoát vũ trụ; các lần Điểm đạo vũ trụ tối hậu.

14. The major three planetary Logoi are the Logoi of Saturn, Neptune, and Uranus.

14. Ba Hành Tinh Thượng đế chính yếu là các Thượng đế của Sao Thổ, Sao Hải Vương và Sao Thiên Vương.

15. Their monadic rays are the third, second and first respectively. (cf. EPI, 420)

15. Cung chân thần của Các Ngài lần lượt là cung ba, cung hai và cung một. (x. EPI, 420)

16. We note that this tabulation does not include our Solar Logos or any Beings of still greater scope. Thus, all L/lives mentioned below live and move and have their being with our Solar Logos.

16. Chúng ta lưu ý rằng bảng này không bao gồm Thái dương Thượng đế của chúng ta hay bất kỳ các Đấng có tầm mức còn lớn hơn. Do đó, tất cả các S/sự sống được nêu dưới đây sống, chuyển động và hiện hữu trong Thái dương Thượng đế của chúng ta.

17. The Planetary Logoi are undergoing a series of initiations which, from all evidence, are not identical with the series undergone by Solar Logoi.

17. Các Hành Tinh Thượng đế đang trải qua một loạt các lần điểm đạo mà theo mọi bằng chứng không đồng nhất với loạt điểm đạo mà các Thái dương Thượng đế trải qua.

18. The Solar Logos also has for His goal certain “final cosmic initiations” (if the fourth, fifth and sixth cosmic initiations can be called “final”), but we must not conclude that the major three Planetary Logoi are to undergo initiations identical with that of the Logos.

18. Thái dương Thượng đế cũng có “các lần điểm đạo vũ trụ tối hậu” là mục tiêu (nếu lần điểm đạo vũ trụ thứ tư, thứ năm và thứ sáu có thể gọi là “tối hậu”), nhưng chúng ta không nên kết luận rằng ba Hành Tinh Thượng đế chính yếu sẽ trải qua các lần điểm đạo đồng nhất với Thượng đế.

19. Our Planetary Logos (a non-sacred Planetary Logos) has before Him His second “cosmic initiation”. This is His “goal” (TCF 384).

19. Hành Tinh Thượng đế của Trái Đất chúng ta (một Hành Tinh Thượng đế không thiêng liêng) đang ở trước mặt Ngài lần “điểm đạo vũ trụ” thứ hai. Đây là “mục tiêu” của Ngài (TCF 384).

20. We might presume that the Logoi of the synthesizing planets have taken the third cosmic initiation and are preparing to take the fourth and fifth cosmic initiations—along the planetary logoic line. Probably, for them, the sixth cosmic initiation lies ahead in the next solar system, as is the case for the Solar Logos. Whether or not the Solar Logos will take the fifth cosmic initiation in this incarnation (i.e., solar system) remains to be seen and perhaps it is so for the Logoi of the synthesizing planets with respect to the fifth cosmic initiation in their particular series of cosmic initiations.

20. Chúng ta có thể đoán rằng Các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp đã thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ ba và đang chuẩn bị thọ các lần điểm đạo vũ trụ thứ tư và thứ năm—theo đường dọc hành tinh logoic. Có lẽ, đối với Các Ngài, lần điểm đạo vũ trụ thứ sáu ở phía trước trong hệ mặt trời kế tiếp, như trường hợp của Thái dương Thượng đế. Liệu Thái dương Thượng đế có thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ năm trong hóa thân (tức hệ mặt trời) này hay không, còn phải xem; và có lẽ cũng như thế đối với các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp liên quan đến lần điểm đạo vũ trụ thứ năm trong chuỗi điểm đạo vũ trụ riêng của Các Ngài.

21. A “goal” seems to be a major objective. When the term “liberation” is used in relation to a human being, it usually means the fourth initiation. We are presuming that the Logoi of the synthesizing planets have taken the third cosmic initiation (a feat which the Logoi of the normal sacred planets have probably not accomplished). Perhaps, then, it is the fourth cosmic initiation which lies immediately before them as their next goal.

21. “Mục tiêu” dường như là một mục đích chính yếu, Khi thuật ngữ “giải thoát” được dùng cho con người, nó thường chỉ lần điểm đạo thứ tư. Chúng ta đang giả định rằng các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp đã thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ ba (một kỳ công mà có lẽ các Thượng đế của các hành tinh thiêng liêng bình thường chưa đạt). Vậy thì, có lẽ lần điểm đạo vũ trụ thứ tư ở ngay trước mắt Các Ngài như là mục tiêu kế tiếp.

22. Had these Logoi already taken the fourth cosmic initiation, they would not be in the developmental stages in which they now find themselves. Their physical bodies would be in process of destruction or already destroyed. But, instead, if we may judge from the evolution of Saturn, they are earlier in Their developmental process than some of the lesser (though still sacred) planets. Though Jupiter is not a synthesizing planet, it is still a great planet and demonstrates how the more spiritually developed planets are passing through their earlier rather than later developmental phases. Thus, they have not yet taken their fourth initiation.

22. Nếu các Thượng đế này đã thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ tư, Các Ngài sẽ không ở trong những giai đoạn phát triển hiện thời. Các hiện thể hồng trần của Các Ngài sẽ đang trong quá trình hủy hoại hoặc đã bị hủy. Nhưng, thay vào đó, nếu chúng ta có thể phán đoán từ sự tiến hoá của Sao Thổ, thì Các Ngài ở sớm hơn trong tiến trình phát triển của mình so với một vài hành tinh bậc thấp hơn (dù vẫn thiêng liêng). Dù Sao Mộc không phải là hành tinh tổng hợp, nó vẫn là một hành tinh vĩ đại và cho thấy các hành tinh phát triển tinh thần hơn đang đi qua các pha phát triển sớm hơn chứ không phải muộn hơn. Như thế, Các Ngài vẫn chưa thọ lần điểm đạo thứ tư.

“The Dense Physical Planets:

“Các Hành Tinh Hồng Trần Đậm Đặc:

Earth                 4th Chain        4th Globe

Trái Đất Chuỗi thứ 4 Bầu thứ 4

Jupiter              3rd Chain        4th Globe

Mộc Tinh Chuỗi thứ 3 Bầu thứ 4

Saturn              3rd Chain        4th Globe

Thổ Tinh Chuỗi thứ 3 Bầu thứ 4

Mars                  4th Chain        4th Globe

Hỏa Tinh Chuỗi thứ 4 Bầu thứ 4

Vulcan              3rd Chain        4th Globe

Vulcan Chuỗi thứ 3 Bầu thứ 4

Venus                5th Chain        5th Globe

Kim Tinh Chuỗi thứ 5 Bầu thứ 5

Mercury           4th Chain        5th Globe”

Thủy Tinh Chuỗi thứ 4 Bầu thứ 5″

(Cosmic Fire, p. 373.)

(Luận về Lửa Vũ Trụ, tr. 373.)

23. Further, it would be unlikely that the Logoi of the synthesizing planets would be ahead of the Solar Logos in Their initiatory schedule, for He is, to them, a still greater God.

23. Hơn nữa, khó có khả năng các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp sẽ đi trước Thái dương Thượng đế trong lịch trình điểm đạo của Các Ngài, vì đối với Các Ngài, Ngài là một Thượng đế còn Vĩ Đại hơn.

24. The Planetary Logos of our Earth has for objective seven initiations which, on the basis of the evidence found on TCF 384, we are presuming to be lesser initiations than cosmic initiations, per se. The Logos of the Earth-scheme, for instance, is passing through a fourth initiation (of seven), but has as its goal the second cosmic initiation.

24. Hành Tinh Thượng đế của Địa Cầu chúng ta có mục đích là bảy lần điểm đạo mà, dựa trên bằng chứng ở TCF 384, chúng ta giả định là những lần điểm đạo thứ yếu hơn so với các lần điểm đạo vũ trụ tự thân. Thượng đế của hệ hành tinh Trái Đất, chẳng hạn, đang trải qua lần điểm đạo thứ tư (trong bảy lần), nhưng mục tiêu của Ngài là lần điểm đạo vũ trụ thứ hai.

25. We cannot be sure whether the Logoi of the synthesizing planets also have seven such lesser initiations, but it is not a bad supposition. For a Planetary Logos, such lesser initiations would be taken through planetary chains, whether manifest or unmanifest. Our Planetary Logos, for instance, is taking a type of fourth initiation through our fourth chain and particularly through that chain’s fourth globe.

25. Chúng ta không chắc liệu các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp cũng có bảy lần điểm đạo thứ yếu như thế hay không, nhưng đó không phải là giả thuyết tồi. Đối với một Hành Tinh Thượng đế, các lần điểm đạo thứ yếu như vậy sẽ được trải qua qua các dãy hành tinh, dù biểu hiện hay không biểu hiện. Chẳng hạn, Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang thọ một dạng điểm đạo thứ tư qua dãy thứ tư của chúng ta và đặc biệt qua bầu thứ tư của dãy ấy.

2. The minor four planetary Logoi                                                           Cosmic Initiation, or the first four Initiations.

2. Bốn Hành Tinh Thượng đế thứ yếu Điểm đạo vũ trụ, hay bốn Lần Điểm đạo đầu tiên.

26. The hypothesis now being advanced is that “four minor planetary Logoi” are the Logoi of those four sacred planets which are not synthesizing planets.

26. Giả thuyết hiện được nêu là “bốn Hành Tinh Thượng đế thứ yếu” là các Thượng đế của bốn hành tinh thiêng liêng không phải là các hành tinh tổng hợp.

27. The four minor Planetary Logoi are, therefore, being considered as the systemic Lords of the four Rays of Attribute—the fourth, fifth, sixth and seventh rays.

27. Do đó, bốn Hành Tinh Thượng đế thứ yếu được xem là các Vị Chủ của bốn Cung Thuộc Tính—cung bốn, cung năm, cung sáu và cung bảy.

28. When we consider the number of Planetary Logoi in our solar system, there are far more than seven—over 115 we are told. Even among the planets and their Logoi which we usually consider, there are more than seven. If we include Vulcan, we usually consider ten, and DK says there is evidence for considering twelve.

28. Khi xét số lượng các Hành Tinh Thượng đế trong hệ mặt trời của chúng ta, có nhiều hơn bảy—chúng ta được cho biết là hơn 115. Ngay cả giữa các hành tinh và các Thượng đế của chúng vốn chúng ta thường xét đến, cũng có nhiều hơn bảy. Nếu kể cả Vulcan, chúng ta thường xét mười, và Chân sư DK nói có bằng chứng để xét đến mười hai.

29. The Logoi of the non-sacred planets are also “minor” Planetary Logoi, but are probably not the ones included under point “2”.

29. Các Thượng đế của các hành tinh không thiêng liêng cũng là các Hành Tinh Thượng đế “thứ yếu”, nhưng có lẽ không phải là những vị được kể dưới mục “2”.

30. Even human beings undergo in their series of initiations what DK calls “cosmic initiations”.

30. Ngay cả con người, trong chuỗi điểm đạo của mình, cũng trải qua những gì Chân sư DK gọi là “điểm đạo vũ trụ”.

31. It is clear that the four minor Planetary Logoi (which are the Logoi of sacred planets) are already in process of undergoing cosmic initiation.

31. Rõ ràng rằng bốn Hành Tinh Thượng đế thứ yếu (vốn là các Thượng đế của các hành tinh thiêng liêng) đã đang ở trong tiến trình trải qua điểm đạo vũ trụ.

32. We can hypothesize that the non-sacred Planetary Logoi have not yet taken the second cosmic initiation. Such a one is our Earth. We further hypothesize that the sacred Planetary Logoi which are not synthesizing planets have taken the second cosmic initiation and are applying to take the third cosmic initiation; and that the Logoi of the synthesizing planets have already taken the third cosmic initiation and are applying to the liberation which the fourth cosmic initiation represents.

32. Chúng ta có thể giả thuyết rằng các Hành Tinh Thượng đế không thiêng liêng chưa thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ hai. Trái Đất của chúng ta là một trường hợp như vậy. Chúng ta còn giả thuyết rằng các Hành Tinh Thượng đế thiêng liêng không phải là hành tinh tổng hợp đã thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ hai và đang xin thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ ba; và các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp đã đã thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ ba và đang xin sự giải thoát mà lần điểm đạo vũ trụ thứ tư biểu trưng.

33. There is not way we can prove this conclusively, but it may be a good place to start.

33. Không có cách nào để chứng minh dứt khoát, nhưng đây có thể là điểm khởi đầu tốt.

34. If the only cosmic initiations which are possible for the Logoi of the four sacred non-synthesizing planets are the first through fourth, then, in this solar system at least, the fifth is not available to Them. This suggests that the fifth cosmic initiation is also not available to our Planetary Logos in this solar system. But our Planetary Logos is associated with the base of the spine center of our Solar Logos—a center which must be fully activated at the fifth initiation. In other words, if our Solar Logos is to take the fifth cosmic initiation in this solar system (which is sometimes offered as a possibility) it would seem that our Planetary Logos would also have to take the fifth in His series of cosmic initiations so that He could play the necessary role in the fifth initiation of the Solar Logos.

34. Nếu các lần điểm đạo vũ trụ duy nhất khả dĩ cho các Thượng đế của bốn hành tinh thiêng liêng không-tổng-hợp chỉ là từ lần thứ nhất đến lần thứ tư, thì, ít nhất trong hệ mặt trời này, lần thứ năm không dành cho Các Ngài. Điều này gợi rằng lần điểm đạo vũ trụ thứ năm cũng không dành cho Hành Tinh Thượng đế của chúng ta trong hệ mặt trời này. Nhưng Hành Tinh Thượng đế của chúng ta lại liên hệ với luân xa đáy cột sống của Thái dương Thượng đế—một trung tâm phải được hoạt hóa hoàn toàn ở lần điểm đạo thứ năm. Nói cách khác, nếu Thái dương Thượng đế của chúng ta sẽ thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ năm trong hệ mặt trời này (điều đôi khi được nêu như một khả thể) thì có vẻ Hành Tinh Thượng đế của chúng ta cũng sẽ phải thọ lần thứ năm trong chuỗi điểm đạo vũ trụ của Ngài để Ngài có thể đóng vai trò cần thiết trong lần điểm đạo thứ năm của Thái dương Thượng đế.

35. The solution of these matters lie beyond us. Obviously, the extent of the progress of our Solar Logos and the Planetary Logoi is not rigidly determined just as it is not in the life of tiny man. In any one incarnation in the life of man, a particular initiation may be possible but it may or may not be achieved. So we will have to leave this question of whether sacred and non-sacred Planetary Logoi can achieve anything more than the fourth cosmic initiation in this particular solar system. What they can achieve however will have a great effect upon what the Solar Logos can achieve.

35. Lời giải của những vấn đề này vượt quá chúng ta. Rõ ràng, mức độ tiến bộ của Thái dương Thượng đế và các Hành Tinh Thượng đế không bị ấn định cứng nhắc, giống như trong đời sống của con người nhỏ bé cũng vậy. Trong một hóa thân, một lần điểm đạo nào đó có thể khả thi nhưng có thể đạt hoặc không đạt. Vì vậy, chúng ta sẽ phải để ngỏ câu hỏi liệu các Hành Tinh Thượng đế thiêng liêng và không thiêng liêng có thể đạt hơn lần điểm đạo vũ trụ thứ tư trong hệ mặt trời đặc thù này hay không. Tuy nhiên, điều họ có thể đạt sẽ có ảnh hưởng lớn đến điều Thái dương Thượng đế có thể đạt.

3. The informing Lives of a planetary globe          Manus of a cosmic chain. Not a seed manu, but a periodical manu of lesser degree. This involves an unrevealable mystery, connected with certain Hierarchies of color.

3. Các Sự sống thấm nhuần một bầu hành tinh Các Mani của một dãy vũ trụ. Không phải một Mani hạt giống, mà là một Mani chu kỳ bậc thấp hơn. Điều này liên hệ đến một huyền bí bất khả tiết lộ , gắn với những Huyền Giai của sắc màu nhất định.

36. If we think carefully, we will see that DK has apparently skipped over discussing the informing Lives of a planetary chain! At least this appears to be the case.

36. Nếu suy nghĩ cẩn trọng, chúng ta sẽ thấy rằng dường như Chân sư DK đã lướt qua việc bàn đến các Sự sống thấm nhuần một dãy hành tinh! Ít nhất có vẻ là như vậy.

37. This also happened in a significant tabulation (TCF, 331). The planes to be associated with vibration, light, sound and color were given for a Solar Logos, a Planetary Logos, and man, but not for the Life or Lives positioned between the Planetary Logos and man.

37. Điều này cũng từng xảy ra trong một bảng quan trọng (TCF, 331). Các cõi được liên hệ với rung động, ánh sáng, âm thanh và màu sắc đã được nêu cho một Thái dương Thượng đế, một Hành Tinh Thượng đế, và con người, nhưng không cho Sự sống hay Các Sự sống được định vị ở giữa Hành Tinh Thượng đế và con người.

38. What becomes apparent is that not all L/lives which could be listed on this large and significant tabulation (844) are listed.

38. Điều rõ ra là không phải mọi S/sự sống có thể được liệt kê trong bảng lớn và quan trọng (844) này đều được liệt kê.

39. What is a “cosmic chain”? From a certain perspective, the planetary schemes are cosmic chains—at least they are solar systemic chains.

39. “Dãy vũ trụ” là gì? Từ một quan điểm nào đó, các hệ hành tinh là những dãy vũ trụ—ít nhất chúng là các dãy thuộc hệ mặt trời.

40. Maybe solar systems themselves are “cosmic chains”—at least this would fit analogically.

40. Biết đâu chính các hệ mặt trời là “những dãy vũ trụ”—ít nhất điều này phù hợp theo phép tương đồng.

41. If we are in the presence of “an unrevealable mystery” the matter is certainly impenetrable to us. We might ask, “Unrevealable to whom? To what types of Lives can this mystery revealed?” Apparently, we do not have the mental/intuitive equipment to grasp it.

41. Nếu chúng ta đang đối diện với “một huyền bí bất khả tiết lộ” thì vấn đề hẳn bất khả xuyên thấu đối với chúng ta. Chúng ta có thể hỏi, “Bất khả tiết lộ đối với ai? Huyền bí này có thể được tiết lộ cho những loại Sự sống nào?” Hiển nhiên, chúng ta chưa có khí cụ trí-huệ trực giác để nắm bắt.

42. Can a Planetary Logos be called a “Manu”? Perhaps in a cosmic sense, He can be. The term “Manu” must be relative. It essentially refers to one who is the Director of an organized energy-field of a certain scope.

42. Một Hành Tinh Thượng đế có thể được gọi là “Manu” chăng? Có lẽ theo nghĩa vũ trụ , có thể. Thuật ngữ “Manu” là tương đối. Nó chủ yếu chỉ vị Chỉ đạo một trường năng lượng tổ chức có phạm vi nhất định.

43. Perhaps a Planetary Logos is already the Manu of a systemic chain (i.e., of a planetary scheme). Perhaps, on the way to becoming a Solar Logos Who supervises a Planetary Logos must become something less, but still more than a Planetary Logos?

43. Có lẽ một Hành Tinh Thượng đế đã là Mani của một dãy hệ thống (tức là của một hệ hành tinh). Có lẽ, trên con đường trở thành một Thái dương Thượng đế Giám quản một Hành Tinh Thượng đế, Ngài phải trở thành một cái gì đó thấp hơn, nhưng vẫn cao hơn một Hành Tinh Thượng đế?

44. It would seem the normal goal of a “Globe-Lord” would be to become a “Chain-Lord”.

44. Có vẻ như mục tiêu bình thường của một “Chúa Tể Bầu” là trở thành một “Chúa Tể Dãy”.

45. Planetary Logoi, it seems, are to become Solar Logoi, so “Globe-Lords” must have more modest goals.

45. Các Hành Tinh Thượng đế, xem ra, sẽ trở thành các Thái dương Thượng đế, vậy các “Chúa Tể Bầu” hẳn có mục tiêu khiêm tốn hơn.

46. Just as there are certain types of Manus to be found within a planetary scheme, so there must be certain types of Manus to be found within a solar systemic scheme and solar systemic schemes are as chains to a Cosmic Logos.

46. Cũng như có những kiểu Mani nhất định trong một hệ hành tinh, thì phải có những kiểu Mani nhất định trong một hệ thống mặt trời và các hệ thống mặt trời đối với một Thượng đế Vũ trụ là như các dãy.

47. We cannot know whether planetary schemes are, in this context, being called “cosmic chains” (since the Solar Logos is often regarded by DK as a cosmic Being) or whether solar systems, themselves, are really “cosmic chains”. In this latter case, we would be reserving the term “cosmic” for Cosmic Logoi (Beings Who include Solar Logoi and Their systems as chakras).

47. Chúng ta không thể biết liệu các hệ hành tinh, trong ngữ cảnh này, đang được gọi là “dãy vũ trụ” (vì Thái dương Thượng đế thường được Chân sư DK xem là một Đấng vũ trụ ) hay các hệ mặt trời tự thân thật sự là những “dãy vũ trụ”. Trong trường hợp sau, chúng ta sẽ dành thuật ngữ “vũ trụ” cho các Thượng đế Vũ trụ (Các Đấng bao gồm các Thái dương Thượng đế và các hệ của Các Ngài như những luân xa).

48. If a “cosmic chain” is, in fact, a planetary scheme, then we can think that a Globe-Lord, Who is already a kind of Manu (or Ruler) within a planetary scheme will be attempting to become a higher type of Manu (a Chain-Lord) within a planetary scheme and, eventually, a Planetary Logos.

48. Nếu một “dãy vũ trụ” thực sự là một hệ hành tinh, thì chúng ta có thể nghĩ rằng một Chúa Tể Bầu, vốn đã là một loại Mani (hay Chủ) trong một hệ hành tinh, sẽ hướng tới trở thành một dạng Mani cao hơn (Chúa Tể Dãy) trong một hệ hành tinh và, sau cùng, một Hành Tinh Thượng đế.

49. But if a “cosmic chain” is actually a solar system, then a Globe-Lord has a more solar goal, and is attempting to become some sort of Manu within the solar system proper. Is such a Manu actually a Heavenly Man or Planetary Logos? Or are there Manus within a solar system which are still greater than Planetary Logoi?

49. Nhưng nếu một “dãy vũ trụ” thực sự là một hệ mặt trời, thì một Chúa Tể Bầu có mục tiêu mang tính Thái dương hơn, và tìm cách trở thành một dạng Mani trong chính hệ mặt trời. Một Mani như vậy có thực là một Đấng Thiên Nhân hay Hành Tinh Thượng đế? Hay có những Mani trong một hệ mặt trời còn lớn hơn các Hành Tinh Thượng đế?

50. About this it would be difficult to speculate and, really, speculation could be considered unwarranted. Lesser and more reasonable goals seem to lie before a “Globe-Lord”—i.e., to become, minimally, a Lord of a Chain, or a Planetary Logos.

50. Khó mà suy đoán về điều này, và thật ra, suy đoán có thể bị xem là không thích đáng. Những mục tiêu khiêm tốn hơn và hợp lý hơn dường như nằm trước một “Chúa Tể Bầu”—tức, tối thiểu là trở thành một Chúa Tể Dãy, hoặc một Hành Tinh Thượng đế.

51. Sometimes DK uses unexpected terminology to describe a Being with which we are familiar under a different name. For instance, let us suppose that the real goal of a Globe-Lord is to become a Chain-Lord. Is another name for a Chain-Lord “a periodical Manu of lesser degree”?

51. Đôi khi Chân sư DK dùng thuật ngữ bất ngờ để mô tả một Đấng mà chúng ta quen biết dưới tên khác. Chẳng hạn, giả sử mục tiêu thực sự của một Chúa Tể Bầu là trở thành Chúa Tể Dãy. Một tên gọi khác của Chúa Tể Dãy có phải là “một Mani chu kỳ bậc thấp hơn” chăng?

52. We know that each globe in a planetary scheme has its two kinds of major Manus—a “Root Manu” and a “Seed Manu” as well as lesser Manus for the various rootraces occurring upon and within that globe. We may infer that each Chain has a similar (though higher) grouping of Manus (for instance, a Root Man and Seed Man for the entire chain), and it would seem the natural objective of a Globe-Lord to become such a Manu in relation to a chain? Such a Manu might be something a little less than a Chain-Lord, per se?

52. Chúng ta biết rằng mỗi bầu trong một hệ hành tinh có hai loại Mani chính —một “Mani Căn” và một “Mani Hạt Giống”, cũng như các Mani thứ yếu cho các giống dân gốc khác nhau xảy ra trên và trong bầu ấy. Ta có thể suy ra rằng mỗi Dãy có một nhóm Mani tương tự (dù cao hơn) (chẳng hạn, một Mani Căn và một Mani Hạt Giống cho toàn dãy), và dường như khách quan tự nhiên của một Chúa Tể Bầu là trở thành một Mani như vậy trong tương quan với một dãy? Một Mani như thế có thể hơi thấp hơn một Chúa Tể Dãy tự thân?

53. We could extend that analogy in relation to a Planetary Logos. Perhaps such a Logos has a similar though still higher grouping of Manus, for a planetary scheme is as a chain to the Solar Logos. Could there be such Beings as the Root Manu and Seed Manu of an entire planetary scheme? Such a Being would be solar systemic in nature.

53. Chúng ta có thể mở rộng phép tương đồng ấy đối với một Hành Tinh Thượng đế. Có lẽ một Thượng đế như vậy có một nhóm Mani tương tự nhưng vẫn cao hơn, vì một hệ hành tinh đối với Thái dương Thượng đế là như một dãy. Liệu có những Đấng như Mani Căn và Mani Hạt Giống của cả một hệ hành tinh? Một Đấng như vậy mang bản chất hệ thống Thái dương.

54. Connected with every globe then, would be three Begins—the Globe-Lord and the Root and Seed Manus. Connected with every chain there would be three similar though higher Beings. And connected with every planetary scheme, there would also be three such Beings.

54. Vậy, gắn với mỗi bầu sẽ có ba Đấng—Chúa Tể Bầu và các Mani Căn cùng Mani Hạt Giống. Gắn với mỗi dãy cũng sẽ có ba Đấng tương tự nhưng cao hơn. Và gắn với mỗi hệ hành tinh, cũng sẽ có ba Đấng như thế.

55. The number of Beings involved in the functioning of higher structures and Their relationships with each other is unknown to us, but when some hints are revealed, we find the structuring to be far more complex and mathematically precise than we might have expected.

55. Số lượng các Đấng tham dự vào sự vận hành của những cấu trúc cao hơn và mối tương quan giữa Các Ngài là điều chúng ta không biết, nhưng khi vài ám chỉ được hé mở, ta thấy cấu trúc phức hợp và chính xác một cách toán học hơn nhiều so với kỳ vọng.

56. DK’s suggestion about “Hierarchies of colour” is impenetrable at this point. Perhaps all Hierarchies can be identified in terms of their colour. Color functions as a veil, so perhaps DK is telling us that there are certain unknown and intervening Hierarchies of Beings within a planetary or solar system (the identity of which is veiled) which, if Their colors were known and their ‘position’ within the planetary or solar Hierarchy of Lives understood, would reveal the type of Being which a Chain-Lord is seeking to become. This is another way of saying that if we know that meaning of the color, we will know the B/being with which it is associated.

56. Gợi ý của Chân sư DK về “các Huyền Giai của sắc màu” hiện bất khả thấu đạt. Có lẽ mọi Huyền Giai đều có thể được nhận diện theo sắc màu của mình. Màu sắc hoạt động như một tấm màn, vậy có lẽ Ngài đang nói với chúng ta rằng có những Huyền Giai trung gian và vô danh trong một hệ hành tinh hay hệ mặt trời (danh tính của Các Ngài được che màn ) mà, nếu sắc màu của Các Ngài được biết và ‘vị trí’ của Các Ngài trong Huyền Giai Sự sống của hành tinh hay Thái dương được hiểu, sẽ tiết lộ loại Đấng mà một Chúa Tể Dãy đang tìm cách trở thành. Nói cách khác, nếu chúng ta biết ý nghĩa của màu, chúng ta sẽ biết Đấng/Sự sống mà nó gắn liền.

57. There is one more point to consider. DK speaks of the “informing Lives” (plural) of a planetary globe. We have been thinking in terms of a Globe-Lord, but perhaps He is thinking of a Hierarchy of Lives upon and within a globe. It is simple to think in terms of one Globe-Lord, but not so simple to think of a number of lives which inform a planetary globe. Of course, a Globe-Lord would be a group Entity just as a Planetary Logos is. So perhaps DK is considering a Globe-Lord as both a unity and a multiplicity.

57. Còn một điểm nữa cần xét. Chân sư DK nói đến “các Sự sống thấm nhuần” (số nhiều) của một bầu hành tinh. Chúng ta vẫn nghĩ theo thuật ngữ một Chúa Tể Bầu, nhưng có lẽ Ngài đang nghĩ đến một Huyền Giai các Sự sống trên và trong một bầu. Dễ nghĩ theo thuật ngữ một Chúa Tể Bầu, nhưng không đơn giản khi nghĩ về một số Sự sống thấm nhuần một bầu hành tinh. Dĩ nhiên, một Chúa Tể Bầu sẽ là một Thực thể tập thể như một Hành Tinh Thượng đế vậy. Vậy có lẽ Chân sư DK đang xét đến một Chúa Tể Bầu như vừa là nhất thể vừa là đa thể.

58. There is also another problem. A Planetary Logos, also, is referred to frequently as a cosmic Being. So when we are speaking of a “cosmic chain”, the word “cosmic” remains ambiguous. This means that a “cosmic chain” could mean:

58. Cũng có một vấn đề khác. Một Hành Tinh Thượng đế, cũng vậy, thường được gọi là một Đấng vũ trụ. Vậy khi chúng ta nói đến một “dãy vũ trụ”, từ “vũ trụ” vẫn mơ hồ. Điều này có nghĩa là một “dãy vũ trụ” có thể là:

a. A solar system considered as a “cosmic chain” in the life of a Cosmic Logos

a. Một hệ mặt trời, được coi như một “dãy vũ trụ” trong đời sống một Thượng đế Vũ trụ

b. A planetary scheme, since a Solar Logos is a cosmic Being.

b. Một hệ hành tinh, vì Thái dương Thượng đế là một Đấng vũ trụ.

c. A normal planetary chain since a Planetary Logos is also a cosmic Being!

c. Một dãy hành tinh bình thường vì một Hành Tinh Thượng đế cũng là một Đấng vũ trụ!

59. The most rational solution is to consider that a Globe-Lord (or the composite lives which together constitute a Globe-Lord) have for an immediate goal a position which is still within a planetary scheme. In other words, the destiny of a Globe-Lord would lie within a planetary chain, and such a Lord might become a Root Chain Manu, a Seed Chain Manu or, eventually a Chain-Lord, per se.

59. Giải pháp hợp lý nhất là cho rằng một Chúa Tể Bầu (hoặc các sự sống hợp thành Ngài) có mục tiêu gần là một vị trí vẫn ở trong một hệ hành tinh. Nói cách khác, định mệnh của một Chúa Tể Bầu sẽ ở trong một dãy của một hệ hành tinh, và một Vị như vậy có thể trở thành một Mani Căn của Dãy, một Mani Hạt Giống của Dãy, hoặc rốt ráo là một Chúa Tể Dãy tự thân.

60. In the future, each of the entries in this tabulation will admit of extensive elaboration—when more is known. For the moment, reasoned speculation is all that is possible.

60. Trong tương lai, mỗi mục trong bảng này sẽ cho phép khai triển rộng— khi biết thêm nữa. Hiện thời, suy luận thận trọng là tất cả những gì khả hữu.

4.The informing life of a kingdom in nature: Transference in one of three directions:

4. Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên: Chuyển dịch theo một trong ba hướng:

a. To the line of the solar Pitris.

a. Theo dòng của các thái dương tổ phụ.

b. To Sirius, as a karmic adjuster.

b. Đến Sirius, như một vị điều chỉnh nghiệp quả.

c. To the solar system of the next order to work in connection with the planetary Logos of his own line as ruler of a kingdom or life wave in the system, and not just in a scheme.

c. Đến hệ mặt trời của thứ tự kế tiếp để làm việc phối hợp với Hành Tinh Thượng đế thuộc dòng riêng của mình như là vị cai quản một giới hay một làn sóng sự sống trong toàn hệ, chứ không chỉ trong một hệ hành tinh.

61. We are given seven kingdoms of nature:

61. Chúng ta được cho bảy giới trong thiên nhiên:

a. Mineral

a. Kim thạch

b. Vegetable

b. Thực vật

c. Animal

c. Động vật

d. Human

d. Nhân loại

e. Spiritual

e. Tinh thần

f. Planetary Lives

f. Các Sự sống hành tinh

g. Solar

g. Thái dương

62. Kingdoms of nature are found throughout the solar system (as we discover when considering the meaning of point “3.” Above). At first, however, we seem to be speaking of the Lives which inform kingdoms of nature as they are found within a planetary scheme.

62. Các giới trong thiên nhiên hiện diện khắp hệ mặt trời (như chúng ta khám phá khi xét ý nghĩa của mục “3.” bên trên). Tuy nhiên, trước hết, có vẻ chúng ta đang nói về các Sự sống thấm nhuần các giới trong thiên nhiên khi chúng được tìm thấy trong một hệ hành tinh.

63. Can we hierarchicalize the three goals listed above? This is not easy to do. The goals seem very different and may not admit of ranking. If anything, the third goal seems the highest.

63. Chúng ta có thể phân cấp ba mục tiêu liệt kê bên trên không? Không dễ. Các mục tiêu dường như rất khác nhau và có thể không thể xếp hạng. Nếu có, mục tiêu thứ ba có vẻ cao nhất.

64. The first goal is “transference to the line of the solar Pitris”. One could assume that “solar Pitris” are beings greater than the “informing lives of a kingdom of nature”, but we see that the order of lives (listed below in this tabulation as the fifth group of lives) is a lesser category. The tabulation we are working with seems to arrange the L/lives it describes in descending order of power and position.

64. Mục tiêu thứ nhất là “chuyển dịch sang dòng của các thái dương tổ phụ”. Người ta có thể giả định rằng “các thái dương tổ phụ” là những Đấng lớn hơn “các Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên”, nhưng ta thấy thứ tự các Sự sống (được liệt kê dưới đây trong bảng như nhóm thứ năm) là một loại thấp hơn. Bảng mà chúng ta đang làm việc dường như sắp xếp các S/sự sống được mô tả theo trật tự giảm dần về quyền lực và vị thế.

65. Of course, each of the groupings of L/lives examined is, itself, a Hierarchy and so, within itself, covers a vast range of power and consciousness.

65. Dĩ nhiên, mỗi nhóm S/sự sống được khảo sát tự thân là một Huyền Giai và, do đó, trong chính nó, bao trùm một dải rộng quyền lực và tâm thức.

66. For the time being, it seems best to regard with simplicity the tabulation structure with which we are presented. If we do this, we will assume that the “informing lives of a kingdom of nature” are greater Lives than the “solar Pitris” (though possible contradictions may appear to those who read with attention).

66. Trước mắt, dường như tốt nhất là giữ cách nhìn giản dị về cấu trúc bảng mà chúng ta có. Nếu làm vậy, chúng ta sẽ giả định rằng “các Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên” là những Sự sống lớn hơn “các thái dương tổ phụ” (dù người đọc kỹ lưỡng có thể thấy các mâu thuẫn khả dĩ).

67. If we wish to know the meaning of “the line of the solar Pitris”, we will have to know the spiritual destination of “solar Pitris”. At length they can become (in group formation) a Planetary Logos or even a Solar Logos. So, a Life (such as the Life informing a kingdom of nature) could also achieve such a destiny, but apparently it would be starting on such a path from a more advanced position than would a member of the Creative Hierarchy of Solar Pitris.

67. Nếu chúng ta muốn biết ý nghĩa của “dòng của các thái dương tổ phụ”, chúng ta sẽ phải biết điểm đến tinh thần của “các thái dương tổ phụ”. Sau cùng, Các Ngài có thể trở thành (theo đội nhóm) một Hành Tinh Thượng đế hoặc thậm chí một Thái dương Thượng đế. Vậy, một Sự sống (như Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên) cũng có thể đạt định mệnh như vậy, nhưng rõ ràng sẽ khởi hành trên con đường ấy từ một vị thế cao hơn so với một thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo gồm các thái dương tổ phụ.

68. The next goal offered to the “informing life of a kingdom in nature” is to be transferred to Sirius and there to become a “karmic adjuster”. This is interesting because “solar Pitris”, themselves, are, as it were, lesser “karmic adjusters”.

68. Mục tiêu kế tiếp dành cho “Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên” là được chuyển đến Sirius và ở đó trở thành một “vị điều chỉnh nghiệp quả”. Điều này thú vị vì bản thân “các thái dương tổ phụ” là, như thế, các “vị điều chỉnh nghiệp quả” thứ yếu.

69. Perhaps there are some “solar Pitris” who, originating from Sirius (or, at least trained there) might eventually become greater “karmic adjusters” (just as the “informing life of a kingdom in nature” can become).

69. Có lẽ có những “thái dương tổ phụ” vốn có xuất xứ từ Sirius (hoặc ít nhất được huấn luyện ở đó) có thể rồi sẽ trở thành những “vị điều chỉnh nghiệp quả” cao hơn (giống như Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên có thể trở thành).

70. What is apparent is that there is a connection between “solar Pitris”, the informing lives of the kingdoms in nature, and Sirius.

70. Điều hiển nhiên là có một liên hệ giữa “các thái dương tổ phụ”, các Sự sống thấm nhuần các giới trong thiên nhiên, và Sirius.

71. We know that the various kingdoms of nature have their own karma. Apparently the informing L/life of any such kingdom is not the Intelligence which administers the karma of that kingdom. Just as man, the human being, does not administer his own karma but finds it adjusted by a Solar Angel, so an informing L/life of a kingdom in nature does not administer the karma of the kingdom it informs, but finds that karma adjusted by the type of superior Life which it (the L/life of a kingdom) can become.

71. Chúng ta biết rằng các giới khác nhau trong thiên nhiên có nghiệp quả riêng. Rõ ràng Sự sống thấm nhuần bất kỳ giới nào như thế không phải là Trí tuệ quản trị nghiệp quả của giới ấy. Cũng như con người không tự quản trị nghiệp quả của mình mà thấy nghiệp quả ấy được điều chỉnh bởi một Thái dương Thiên Thần, thì Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên cũng không quản trị nghiệp quả của giới mà nó thấm nhuần, mà thấy nghiệp quả ấy được điều chỉnh bởi loại Sự sống thượng đẳng mà chính nó (Sự sống của một giới) có thể trở thành.

72. Would the responsibility of a “karmic adjuster” operate on a solar systemic level or a scheme level? We are not told, but the implication is that a “karmic adjuster” would first work in relation to a kingdom-L/life expressing within a planetary scheme.

72. Trách nhiệm của một “vị điều chỉnh nghiệp quả” sẽ vận hành ở cấp độ toàn hệ Thái dương hay ở cấp độ một hệ hành tinh? Chúng ta không được cho biết, nhưng hàm ý là một “vị điều chỉnh nghiệp quả” trước hết sẽ làm việc liên hệ đến một Sự sống của-giới biểu hiện trong một hệ hành tinh.

73. The third goal of an “informing life of a kingdom in nature” is to focus within the solar system of the next order to work in connection with the planetary Logos of his own line as Ruler of a kingdom or life wave in the system, and not just in a planetary scheme.

73. Mục tiêu thứ ba của một “Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên” là tập trung trong hệ mặt trời của thứ tự kế tiếp để làm việc phối hợp với Hành Tinh Thượng đế thuộc dòng riêng như là Chúa Tể một giới hay một làn sóng sự sống trong toàn hệ, chứ không chỉ trong một hệ hành tinh.

74. Here we find the scope of expression of such an evolving Life expanding beyond the scheme level. This seems to suggest that the earlier two goals were contained within the scheme level and, thus, offered less expansive possibilities.

74. Ở đây chúng ta thấy phạm vi biểu lộ của một Sự sống đang tiến hoá như vậy mở rộng vượt quá cấp hệ hành tinh. Điều này dường như gợi rằng hai mục tiêu trước đó nằm trong cấp hệ hành tinh và, do đó, đề nghị những khả thể kém bao quát hơn.

75. Two types of future rulership are offered in relation to a solar system of the next order. Given the position of our present solar system (the second major solar system of five), this would mean work within the coming third (or sixth) solar system. The present “informing life of a kingdom in nature” could work as the Ruler of a “life wave” or as the Ruler of kingdom in nature throughout the solar system. Kingdoms of nature are, we realize, expressing through all planetary schemes. For instance, the mineral kingdom is to be found expressing through all planetary schemes in a solar system, and thus for the remaining kingdoms.

75. Hai kiểu quyền cai quản tương lai được đề nghị liên hệ đến một hệ mặt trời của thứ tự kế tiếp. Xét vị thế của hệ mặt trời hiện tại của chúng ta (hệ lớn thứ hai trong năm), điều này sẽ có nghĩa là công tác trong hệ thứ ba (hoặc thứ sáu) đang tới. “Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên” hiện tại có thể làm việc như Chúa Tể của một “làn sóng sự sống” hoặc như Chúa Tể của một giới trong thiên nhiên xuyên suốt toàn hệ mặt trời. Các giới trong thiên nhiên, như chúng ta hiểu, biểu lộ qua tất cả các hệ hành tinh. Chẳng hạn, giới kim thạch được thấy biểu lộ trong mọi hệ hành tinh của một hệ mặt trời, và các giới còn lại cũng như vậy.

76. A “life wave” is a group of Monads passing cyclically through various kingdoms of nature. Life waves are of different orders. Some are operative at the scheme level and some, far greater, at the systemic level.

76. “Làn sóng sự sống” là một nhóm các Chân thần chuyển chu kỳ qua các giới khác nhau trong thiên nhiên. Các làn sóng sự sống có nhiều cấp. Có làn sóng vận hành ở cấp hệ hành tinh và có làn sóng vĩ đại hơn ở cấp toàn hệ Thái dương.

77. We are somewhat familiar with the function of life waves at a chain level, but how they would function at a scheme level or solar systemic level leaves much room for careful thought and speculation.

77. Chúng ta có phần quen với chức năng của các làn sóng sự sống ở cấp độ dãy, nhưng các làn sóng ấy vận hành ở cấp hệ hành tinh hay cấp Thái dương như thế nào còn để lại nhiều điều đáng suy ngẫm và suy luận.

78. From what is said, is would appear that an earlier option (for the type of life which informs a kingdom in nature at the scheme level) would have been to rule a life wave focussed within a scheme, but of this lesser possibility nothing is mentioned. If ruling a kingdom of nature and ruling a life wave are considered parallel possibilities at a systemic level, there is no reason why such possibilities should not exist at both the scheme level and systemic level (the wider level mentioned in the section of text under discussion).

78. Từ điều đã nói, dường như một chọn lựa trước đó (cho loại Sự sống thấm nhuần một giới ở cấp hệ hành tinh) sẽ là cai quản một làn sóng sự sống tập trung trong phạm vi một hệ hành tinh, nhưng về khả thể thấp hơn này không có gì được đề cập. Nếu việc cai quản một giới trong thiên nhiên và cai quản một làn sóng sự sống được xem là các khả thể song hành ở cấp toàn hệ, thì không có lý do gì các khả thể ấy lại không tồn tại ở cả cấp hệ hành tinh lẫn cấp toàn hệ (cấp độ rộng hơn được nhắc tới trong đoạn văn đang xét).

79. It becomes clear that an “informing life of a kingdom in nature”, working presently at the scheme level of expression is eventually given the opportunity (as a composite Being, no doubt) to work at the solar systemic level, with powers and with a consciousness which extends throughout the solar system and through all planetary schemes within that solar system.

79. Rõ ràng rằng một “Sự sống thấm nhuần một giới trong thiên nhiên”, hiện đang làm việc ở cấp độ biểu lộ của một hệ hành tinh, rốt cuộc sẽ được cơ hội (chắc chắn như một Thực thể kết hợp) để làm việc ở cấp toàn hệ Thái dương, với quyền năng và tâm thức trải rộng khắp hệ mặt trời và qua tất cả các hệ hành tinh trong hệ mặt trời ấy.

80. We also note that such a life is to work in conjunction with “a Planetary Logos of his own line” when ruling a systemic life wave or systemic kingdom. Presumably, the “line” involved is a ray line, and the “informing life” concerned has a ray structure just as all E/entities do.

80. Chúng ta cũng lưu ý rằng một Sự sống như vậy sẽ làm việc phối hợp với “một Hành Tinh Thượng đế thuộc dòng riêng” khi cai quản một làn sóng sự sống toàn hệ hoặc một giới toàn hệ. Rõ ràng, “dòng” ở đây là dòng cung, và “Sự sống thấm nhuần” có cấu trúc cung giống như mọi Thực thể.

81. When thinking of planetary or systemic life waves, we are thinking of groups of Monads. Large aggregations of Monads are, in fact, Creative Hierarchies, and Creative Hierarchies are qualified by certain rays and astrological factors.

81. Khi nghĩ về các làn sóng sự sống cấp hệ hành tinh hay toàn hệ, chúng ta đang nghĩ về các nhóm Chân thần. Những tập hợp Chân thần lớn thực ra là các Huyền Giai Sáng Tạo, và các Huyền Giai Sáng Tạo được định tính bởi các cung và các yếu tố chiêm tinh nhất định.

82. The Creative Hierarchy of Human Monads can be considered a system-wide life wave and is qualified by the energies of the fourth ray (among others) and by the energy of Scorpio. The Planetary Logos concerned could be Mercury (in its soul aspect) or some hidden planet veiled by the Moon. Vulcan (as, hypothetically, a fourth ray Monad) could also be involved.

82. Huyền Giai Sáng Tạo của các Chân thần Nhân loại có thể được xem là một làn sóng sự sống cấp toàn hệ và được định tính bởi năng lượng của cung bốn (trong số các cung khác) và bởi năng lượng của Hổ Cáp. Hành Tinh Thượng đế liên quan có thể là Sao Thủy (ở phương diện linh hồn) hoặc một hành tinh ẩn được Mặt Trăng che giấu. Vulcan (giả thuyết là một Chân thần cung bốn) cũng có thể liên quan.

5. The solar Pitris.            The highest three groups will become major planetary Logoi; the lower four groups will become minor planetary Logoi.

5. Các thái dương tổ phụ. Ba nhóm cao nhất sẽ trở thành các Hành Tinh Thượng đế chính; bốn nhóm thấp sẽ trở thành các Hành Tinh Thượng đế thứ yếu.

83. Now we are entering more familiar ‘territory’, but it is useful to think of the continuum of Lives which is found between “solar Pitris”, for instance, and Planetary Logoi of different kinds. The informing Lives of the various kingdoms in nature could be considered such intervening Lives.

83. Giờ đây chúng ta bước vào “địa hạt” quen thuộc hơn, nhưng hữu ích là nghĩ về chuỗi liên tục các Sự sống trải dài giữa, chẳng hạn, “các thái dương tổ phụ” và các Hành Tinh Thượng đế các loại khác nhau. Các Sự sống thấm nhuần những giới trong thiên nhiên có thể được xem như các Sự sống trung gian như vậy.

84. From the division into three and four, we learn that there are seven groups of “solar Pitris”. This is a considerable number—more than have been discussed in any detail.

84. Từ sự phân đôi thành ba và bốn, chúng ta biết rằng có bảy nhóm “thái dương tổ phụ”. Đây là một con số đáng kể—nhiều hơn số đã được bàn kỹ.

85. We have been told of Solar Angels which are related to the manasic permanent atom; of those which are related to each tier of petals of the egoic lotus and, as well, to every petal; of those which are related to the units in the atomic triangle; and of those who incarnated and moulded the human type long ago in ancient Lemuria. We have also been told of a differentiation between those which implanted the spark of mind in animal man and those who simply “fanned the flame” of the mental unit. From these different categories of solar angelic function, however, it would not be easy to discern seven distinct categories. Rather, there are both more and less.

85. Chúng ta được cho biết về các Thái dương Thiên Thần liên hệ với nguyên tử trường tồn manas; về những vị liên hệ với mỗi tầng cánh của hoa sen chân ngã và, cũng thế, với mỗi cánh; về những vị liên hệ với các đơn vị trong tam giác nguyên tử; và về những vị đã giáng trần và khuôn đúc loại hình nhân loại từ xa xưa trong thời Lemuria cổ. Chúng ta cũng được nói về sự biệt phân giữa những vị đã gieo tia lửa trí tuệ vào người thú và những vị chỉ “phổi lửa” của đơn vị hạ trí. Tuy nhiên, từ các phân loại chức năng thiên thần Thái dương khác nhau này, không dễ để phân biệt ra bảy hạng mục riêng biệt. Thay vào đó, có khi nhiều hơn, có khi ít hơn.

86. The “solar Pitris” do not, themselves, become Planetary Logoi. They do so in groups.

86. “Các thái dương tổ phụ” không, tự Các Ngài, trở thành các Hành Tinh Thượng đế. Các Ngài trở thành như vậy theo nhóm.

The student must bear in mind that [879] in thinking of the Pitris, he must ever think in group terms. The Pitris who formed the egoic body of a human being do not—alone and isolated—form planetary Logoi. The forty-nine groups of solar fires concerned in the great work are those spoken of, and they become the forty-nine planetary Logoi in connexion with seven solar systems. (TCF 878-879)

Đạo sinh phải ghi nhớ rằng [879] khi suy nghĩ về các Tổ phụ, y phải luôn nghĩ theo thuật ngữ đoàn nhóm. Các Tổ phụ đã kiến tạo thể nguyên nhân của một con người không—một mình và tách biệt—trở thành các Hành Tinh Thượng đế. Bốn mươi chín nhóm lửa Thái dương liên hệ trong đại công cuộc là những nhóm được nói đến, và họ trở thành bốn mươi chín Hành Tinh Thượng đế trong liên hệ với bảy hệ mặt trời. (TCF 878-879)

87. The same idea is expressed in this tabulation. The three higher groups will become major Planetary Logoi. The four lower groups will become minor Planetary Logoi.

87. Cùng một ý được nói trong bảng này. Ba nhóm cao sẽ trở thành các Hành Tinh Thượng đế chính. Bốn nhóm thấp sẽ trở thành các Hành Tinh Thượng đế thứ yếu.

88. This is not necessarily to say that “major Planetary Logoi” are Logoi of synthesizing planets. Perhaps the Logoi of synthesizing, sacred and non-sacred planets are all “major” Planetary Logoi.

88. Điều này không nhất thiết có nghĩa “các Hành Tinh Thượng đế chính” là các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp. Có lẽ các Thượng đế của các hành tinh tổng hợp, thiêng liêng và không thiêng liêng đều là “chính”.

89. In our solar system, there are many minor planets and planetoids. Chain-Lords and Globe-Lords may also be considered “minor” Planetary Logoi. There are also, so it seems, the Logoi are asteroids.

89. Trong hệ mặt trời của chúng ta, có nhiều hành tinh nhỏ và tiểu hành tinh. Các Chúa Tể Dãy và Chúa Tể Bầu cũng có thể được xem là các “Hành Tinh Thượng đế” thứ yếu. Có vẻ cũng có các Thượng đế của các tiểu hành tinh.

90. We will know more when we understand the exact planetary constitution of our solar system. For now, the number of planets (dense, etheric, astral or otherwise unmanifested) is not known by humanity (but is by those Masters Who specialize in such information). Further the, number of planetoids (manifested and unmanifested) is also unknown and, thus, for the asteroids.

90. Chúng ta sẽ biết hơn khi hiểu rõ cấu tạo hành tinh chính xác của hệ mặt trời chúng ta. Hiện tại, số hành tinh (đậm đặc, dĩ thái, cảm dục hay không biểu hiện theo cách khác) chưa được nhân loại biết (nhưng được biết bởi các Chân sư chuyên về thông tin này). Hơn nữa, số lượng tiểu hành tinh (biểu hiện và không biểu hiện) cũng chưa được biết, và các thiên thạch cũng vậy.

91. When the number of such Entities is known, the destination of the different types of Solar Angels or “solar Pitris” will be better understood.

91. Khi số lượng các Thực thể như vậy được biết, đích đến của các loại Thái dương Thiên Thần hay “các thái dương tổ phụ” khác nhau sẽ được thấu hiểu hơn.

92. “Solar Pitris”, we are told, are also destined to become Solar Logoi. This will obviously be accomplished in groups. This is, perhaps, another way of saying that Planetary Logoi are destined to become Solar Logoi, for Solar Angels/“solar Pitris” are destined to become Planetary Logoi Who are, subsequently, destined to become Solar Logoi.

92. Chúng ta được nói rằng “các thái dương tổ phụ” cũng được định mệnh để trở thành các Thái dương Thượng đế. Rõ ràng điều này sẽ được thành tựu theo nhóm. Đây có lẽ là một cách khác để nói rằng các Hành Tinh Thượng đế được định mệnh để trở thành các Thái dương Thượng đế, vì các Thái dương Thiên Thần/“các thái dương tổ phụ” được định mệnh để trở thành các Hành Tinh Thượng đế, và sau đó, được định mệnh để trở thành các Thái dương Thượng đế.

Perfected men are in the councils of the planetary Logos of their particular ray; the solar Pitris are in the council of the solar Logos.69 [All these will become solar Logoi of varying grades.] (TCF 843)

Những con người đã viên mãn ở trong các hội đồng của Hành Tinh Thượng đế thuộc cung riêng của họ; các thái dương tổ phụ ở trong hội đồng của Thái dương Thượng đế.69 [ Tất cả những vị này sẽ trở thành các Thái dương Thượng đế với những đẳng cấp khác nhau,] (TCF 843)

93. It is clear that in this tabulation we are presented with destined transformations. Some transformations represent the next immediate developmental step forward for the E/entity concerned. Some transformations indicate a goal several developmental steps ahead.

93. Rõ ràng là trong bảng liệt kê này, chúng ta được trình bày những chuyển hoá đã định sẵn. Một số chuyển hoá biểu hiện bước phát triển kế tiếp, tức thời, cho T/thực thể liên hệ. Một số chuyển hoá chỉ ra một mục tiêu còn ở cách đó vài bước phát triển.

94. If Solar Angels/“solar Pitris” are to become “solar Logoi of varying grades”, the goal presented is several developmental steps ahead and indicates will very long developmental period.

94. Nếu các Thái dương Thiên Thần/“thái dương tổ phụ” sẽ trở thành “Các Thái dương Thượng đế với những cấp bậc sai biệt”, thì mục tiêu nêu ra còn ở cách đó nhiều bước phát triển và hàm ý một chu kỳ phát triển rất, rất dài.

95. Now let us reflect upon the developmental step or steps ahead of “an informing life of a kingdom in nature”. The goal for such a Life was to transfer to the line of Solar Pitris (which could seem a backward step) or to go to Sirius to become a “karmic adjuster”, or to direct a life-wave or systemic kingdom in cooperation with a Planetary Logos “along his line” (i.e., the line of the “informing life”). These goals do not seem as exalted as the goal of becoming a Planetary Logos or Solar Logos (goals held out to “solar Pitris”).

95. Giờ đây, chúng ta hãy suy ngẫm về bước hay các bước phát triển trước mắt của “một Sự sống thấm nhuần của một giới trong thiên nhiên”. Mục tiêu cho Sự Sống như thế là chuyển sang dòng Thái dương Tổ phụ (điều này có thể dường như là một bước lùi) hoặc đi đến Sirius để trở thành một “điều chỉnh viên nghiệp quả”, hoặc dẫn dắt một làn sóng sự sống hay một giới hệ thống trong sự hợp tác với một Hành Tinh Thượng đế “theo đường tuyến của y” (tức là, đường tuyến của “sự sống thấm nhuần”). Những mục tiêu này dường như không siêu việt bằng mục tiêu trở thành một Hành Tinh Thượng đế hay một Thái dương Thượng đế (những mục tiêu dành cho “thái dương tổ phụ”).

96. Also, the goal held out to a Globe-Lord is to become the Manu of a “cosmic chain” which, depending upon how we interpret the rank of such a Manu, may be less exalted than a Planetary Logos or Solar Logos.

96. Cũng vậy, mục tiêu dành cho một Chúa Tể của Bầu Hành tinh là trở thành một Manu của một “Dãy vũ trụ” và điều này, tuỳ theo cách chúng ta diễn giải đẳng cấp của một Manu như thế, có thể kém siêu việt hơn một Hành Tinh Thượng đế hay một Thái dương Thượng đế.

97. We have in this tabulation, therefore, some possible ‘status discrepancies’ which have to be clarified.

97. Vì vậy, trong bảng liệt kê này, chúng ta có một số ‘sai biệt về địa vị’ có thể có, cần phải được làm sáng tỏ.

98. Of one thing we can be certain—the destiny lying before “solar Pitris” is a high one. Perhaps this is why it is said that the Path to Sirius offers those who tread it unusual opportunity, for when the human being (once He becomes a Chohan) treads the Path to Sirius, He is destined to become a Solar Angel after sufficient training within the “sunshine of the major Sun”.

98. Có một điều chúng ta có thể chắc chắn—định mệnh trước mắt “thái dương tổ phụ” là rất cao cả. Có lẽ vì thế mới nói Con Đường đến Sirius ban cho những ai bước lên đó một cơ hội khác thường, bởi khi con người (khi Ngài đã trở thành một Chohan) bước trên Con Đường đến Sirius, Ngài được an bài trở thành một Thái dương Thiên Thần sau khi đã được huấn luyện đầy đủ trong “ánh dương của Mặt Trời lớn”.

6. The human evolution…  To become the solar Pitris of another cycle. To follow any of the paths earlier enumerated. Those who become solar Pitris, being the bulk of humanity, return to Sirius to be breathed out again into activity.

6. Tiến hoá nhân loại… Trở thành các thái dương tổ phụ của một chu kỳ khác. Theo bất kỳ con đường nào đã liệt kê trước đó. Những ai trở thành thái dương tổ phụ, vốn chiếm đa số nhân loại, trở về Sirius để lại được “thở ra” vào hoạt động.

99. The bulk of humanity will become Solar Angels, and eventually, either minor or major Planetary Logoi, though there are other Paths open to them, as we have been told.

99. Đa số nhân loại sẽ trở thành các Thái dương Thiên Thần, và rốt cuộc, sẽ trở thành Hành Tinh Thượng đế bậc nhỏ hay bậc lớn, dù rằng còn có những Con Đường khác mở ra cho họ, như chúng ta đã được cho biết.

100. Since Solar Angels become Planetary Logos in groups we might wonder whether human beings become Solar Angels in groups.

100. Vì các Thái dương Thiên Thần trở thành Hành Tinh Thượng đế theo nhóm nên chúng ta có thể tự hỏi liệu con người có trở thành Thái dương Thiên Thần theo nhóm hay không.

101. Each ascent along the line of the Creative Hierarchies may be a group ascent. Let us ponder on this for it may indicate the manner in which the ‘Universal Pyramid’ may be ascended.

101. Mỗi sự thăng vượt dọc theo đường tuyến của các Huyền Giai Sáng Tạo có thể là một sự thăng vượt có tính nhóm, Hãy suy ngẫm về điều này vì nó có thể chỉ ra cung cách mà “Kim Tự Tháp Vũ Trụ” được leo lên.

102. The “cycle” concerned is probably a subsequent mahamanvantara or occult century. Since we are only half way through our present mahamanvantara, we can understand that it may be a very long while before those who are presently the bulk of humanity are ”breathed out again into activity” from Sirius.

102. “Chu kỳ” được nói đến có lẽ là một đại giai kỳ sinh hóa kế tiếp hoặc một “thế kỷ huyền môn”. Vì chúng ta mới đi được nửa đường của đại giai kỳ sinh hóa hiện tại, chúng ta có thể hiểu rằng sẽ còn rất lâu trước khi những ai hiện là phần đông nhân loại được “thở ra lại vào hoạt động” từ Sirius.

103. The bulk of humanity is not mentally polarized and needs the manasic development which experience on Sirius will offer.

103. Phần đông nhân loại chưa phân cực trí tuệ và cần sự phát triển manas mà kinh nghiệm trên Sirius sẽ mang lại.

104. As for the human beings not contained in the majority, the six other (now, in fact, eight other) cosmic paths offer the possibility for further training.

104. Còn đối với những con người không thuộc về đa số nói trên, sáu (thực ra nay là tám) Con Đường vũ trụ khác mở ra khả năng huấn luyện thêm.

105. Just as there are many possible cosmic Paths which can be followed by a human being, we should not suppose that a variety of Paths do not confront other types of Beings, such as Globe-Lords, the informing lives of kingdoms in nature and Solar Angels. Each Creative Hierarchy is sevenfold and the lines of possible improvement offered to each Hierarchy should give scope for the different types within that Hierarchy.

105. Cũng như có nhiều Con Đường vũ trụ khả dĩ mà một con người có thể theo, chúng ta không nên cho rằng những Con Đường đa dạng không hiện ra trước các loại Đấng Sống khác, như các Chúa Tể Bầu Hành tinh, những sự sống thấm nhuần các giới trong thiên nhiên, và các Thái dương Thiên Thần. Mỗi Huyền Giai Sáng Tạo là thất phân và các đường tuyến cải thiện khả dĩ được ban cho mỗi Huyền Giai phải tạo không gian cho những kiểu loại khác nhau trong Huyền Giai ấy.

7. The lunar Pitris…      To become men. They will in their higher grades pass directly into the animal evolution of the next cycle and so eventually individualise. Their three higher grades will become animal-men, and the lower four will con­tribute to the quaternic forms of the men of the next creation.

7. Các thái âm tổ phụ… Trở thành người. Ở các cấp bậc cao hơn, họ sẽ đi thẳng vào tiến hoá thú vật của chu kỳ tới và như thế rốt cuộc sẽ biệt ngã hóa. Ba cấp bậc cao sẽ trở thành người-thú, và bốn cấp bậc thấp hơn sẽ góp phần vào các hình tứ phân của con người trong cuộc sáng tạo tới.

106. Again, we are faced with a sevenfold division. Each Creative Hierarchy is sevenfold.

106. Một lần nữa, chúng ta đối mặt với một sự phân chia thất phân. Mỗi Huyền Giai Sáng Tạo là thất phân.

107. When examining such septenates, we find that they are divided into a three and a four—the three (in this instance) being higher.

107. Khi khảo sát các bộ bảy như thế, chúng ta nhận thấy chúng được chia thành một bộ ba và một bộ bốn—bộ ba (trong trường hợp này) là cao hơn.

108. We must ask about the meaning of “the next cycle”. Is the next mahamanvantara meant?

108. Chúng ta phải hỏi về ý nghĩa của “chu kỳ tới”. Ý nói đại giai kỳ sinh hóa kế tiếp chăng?

109. If the higher groups of lunar lords enter directly into the animal evolution of the next mahamanvantara, they should not have to wait until a succeeding mahamanvantara to become human beings. Animals on our chain became human beings within the chain and certainly do not have to wait until the onset of another occult century to make the necessary transition into a higher kingdom.

109. Nếu các nhóm cao hơn của các nguyệt tinh quân đi thẳng vào tiến hoá thú vật của đại giai kỳ sinh hóa kế tiếp, họ sẽ không phải đợi tới một đại giai kỳ sinh hóa nối tiếp nữa mới trở thành con người. Loài vật trên Dãy của chúng ta trở thành con người ngay trong Dãy và chắc chắn không phải đợi đến khi một “thế kỷ huyền môn” khác khởi phát mới thực hiện sự chuyển tiếp cần thiết vào một giới cao hơn.

110. We see, when comparing the status of those lunar lords who comprise the quaternic forms of men and those entities who are animals, that the animals are higher in evolutionary development. We are not sure what kinds of animals are meant. All kinds? Or only the higher forms of animals?

110. Chúng ta thấy, khi so sánh địa vị của những nguyệt tinh quân cấu thành các hình tứ phân của con người và những T/thực thể là thú vật, rằng thú vật ở mức phát triển tiến hoá cao hơn. Chúng ta không chắc đang nói đến các loại thú vật nào. Tất cả các loài? Hay chỉ những hình thức thú vật cao hơn?

111. In any case, we see that the higher forms of lunar lords are already quite close to the animal kingdom. The animal kingdom is ruled by Mars and so are the lunar lords (EA, 35, Creative Hierarchy VI).

111. Dù thế nào, chúng ta thấy rằng các dạng cao hơn của nguyệt tinh quân đã khá gần với giới động vật. Giới động vật do Sao Hỏa cai quản và các nguyệt tinh quân cũng vậy (EA, 35, Huyền Giai Sáng Tạo VI).

112. Interestingly, the lunar lords, apparently, do not enter the plant kingdom. This is probably the case because their origin is lunar—the third chain, correlating with the third kingdom, the animal kingdom.

112. Điều đáng chú ý là, các nguyệt tinh quân, xem ra, không đi vào giới thực vật. Có lẽ là vì nguồn gốc của họ là “nguyệt”—Dãy thứ ba, tương ứng với giới thứ ba, tức giới động vật.

113. Lunar lives are transplants from the Moon-chain and, in a way, do not belong to the evolution of the fourth chain at all. They are currently in process of redemption and are being integrated into (grafted into or upon) the life expression of the Earth-chain.

113. Các sự sống nguyệt tính là những “cây ghép” từ Dãy Mặt Trăng và, theo một nghĩa nào đó, vốn không thuộc về tiến hoá của Dãy thứ tư chút nào. Hiện nay chúng đang trong tiến trình được cứu chuộc và được hội nhập vào (được ghép vào hay ghép lên) biểu lộ sự sống của Dãy Địa Cầu.

114. Perhaps we can form an analogy between:

114. Có lẽ chúng ta có thể lập một phép tương đồng giữa:

a. The destiny of the three synthesizing planets and that of the other four sacred planets.

a. Định mệnh của ba hành tinh tổng hợp và của bốn hành tinh thiêng liêng còn lại.

b. The destiny of the three Lives informing the three highest kingdoms and the four Lives informing the four lowest.

b. Định mệnh của ba Sự Sống thấm nhuần ba giới cao nhất và bốn Sự Sống thấm nhuần bốn giới thấp nhất.

c. The three higher types of Solar Angels and the four lower

c. Ba kiểu loại cao của Thái dương Thiên Thần và bốn kiểu loại thấp.

d. The three higher types of lunar lords and the four lower

d. Ba kiểu loại cao của nguyệt tinh quân và bốn kiểu loại thấp.

115. Perhaps, there is even a division in the types of human beings, such that there are three higher and four lower. This, however, is not so easy to see.

115. Có lẽ, còn có một sự phân chia trong các kiểu loại con người, sao cho có ba cao và bốn thấp. Tuy nhiên, điều này không dễ thấy.

8. The animal evolution…                                                  Human kingdom.

8. Tiến hoá giới động vật… Giới nhân loại.

116. We are assuming that Tabulation VI is organized such that the higher the number, the lower the B/being represented.

116. Chúng ta giả định rằng Bảng VI được sắp xếp sao cho số càng cao thì H/hữu thể được biểu thị càng thấp.

117. In this case, however, we can question such an arrangement, as above we have read that the higher types of lunar lords were destined to enter the animal evolution, and here, the animal evolution is listed below the “lunar Pitris”.

117. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chúng ta có thể chất vấn một cách sắp xếp như thế, vì bên trên chúng ta đã đọc rằng các kiểu loại cao hơn của nguyệt tinh quân được định sẵn để đi vào tiến hoá giới động vật, và ở đây, tiến hoá giới động vật lại được liệt kê dưới “các thái âm tổ phụ”.

118. Again, we must question whether the advanced lunar lords enter only certain types of animal forms or whether they will express themselves through all types of animal forms.

118. Một lần nữa, chúng ta phải hỏi xem các nguyệt tinh quân thượng đẳng chỉ đi vào những loại hình thú vật nhất định, hay họ sẽ biểu lộ mình qua mọi loại hình thú vật.

119. In any case, animals are destined to enter the human kingdom. This is their natural line of evolution. The lunar lords, on the other hand, are, as it were, being grafted onto the evolution proceeding through the Earth-chain.

119. Dù thế nào, thú vật được an bài để bước vào giới nhân loại. Đây là đường tuyến tiến hoá tự nhiên của chúng. Còn các nguyệt tinh quân, theo một cách nói, đang được ghép vào tiến hoá đang diễn ra qua Dãy Địa Cầu.

120. Do distinct animal units become separate human beings or do more than one animal enter into the formation of the individual human being? This is not as strange a question as may at first appear. There is a pyramidal structure to the Creative Hierarchies, there being far more distinct units lower in the structure of the pyramid and far fewer as we rise. Thus, the phenomenon of ‘group coalescence’ is to be seen as lesser forms of life aggregate to constitute greater forms. An example of this is the manner in which groups of Solar Angels become Planetary Logoi and, eventually, Solar Logoi.

120. Các đơn vị thú vật riêng biệt có trở thành các con người riêng biệt không, hay có hơn một thú vật tham dự vào việc hình thành một con người cá thể? Câu hỏi này không hề kỳ lạ như thoạt đầu có vẻ. Có một cấu trúc hình tháp đối với các Huyền Giai Sáng Tạo; càng thấp trong cấu trúc kim tự tháp thì số đơn vị riêng biệt càng nhiều và càng ít đi khi chúng ta đi lên. Do đó, hiện tượng ‘kết tụ nhóm’ được nhìn thấy khi các hình thức sự sống thấp hơn kết tập để cấu thành các hình thức lớn hơn. Một ví dụ về điều này là cách mà các nhóm Thái dương Thiên Thần trở thành Hành Tinh Thượng đế và, rốt cuộc, Thái dương Thượng đế.

121. VSK inquires: “What is the difference in point “7”, “to become men”, and point “8”, the goal being the “human kingdom”? Same, or what is the difference?

121. VSK hỏi: “Sự khác nhau giữa điểm “7”, ‘trở thành người’, và điểm ‘8’ với mục tiêu là ‘giới nhân loại’ là gì? Có giống nhau không, hay khác ở chỗ nào?”

122. May it be suggested that there is no difference? The higher types of lunar lords will eventually become human beings as will animals. It is simply that animals will achieve before the lunar lords.

122. Xin đề nghị rằng không có khác biệt. Các kiểu loại cao hơn của nguyệt tinh quân rồi cũng sẽ trở thành con người như loài thú sẽ trở thành con người. Chỉ là loài thú sẽ đạt được điều đó trước các nguyệt tinh quân.

9. The vegetable evolution…                                           The animal kingdom.

9. Tiến hoá giới thực vật… Giới động vật.

123. VSK states: “This somehow seems odd, since we hear that the vegetable kingdom is more advanced than the animal. Somehow it must seem like a backwards step”.

123. VSK nói: “Điều này thoạt nhìn có vẻ lạ, vì chúng ta từng nghe rằng giới thực vật tiến bộ hơn giới động vật. Dường như phải là một bước lùi.”

124. May it be suggested that the animal kingdom is, indeed, more advanced than the vegetable kingdom, but that the vegetable kingdom (in its place and given its spiritual status) is relatively more advanced than the animal kingdom (in its place and given its particular spiritual status).

124. Xin gợi ý rằng giới động vật, quả thật, tiến bộ hơn giới thực vật, nhưng giới thực vật (xét ở vị trí và địa vị tinh thần của nó) lại tương đối tiến bộ hơn giới động vật (xét ở vị trí và địa vị tinh thần riêng của nó).

125. Another way of saying this is that the vegetable kingdom (given its intended schedule of spiritual evolution) has kept pace with expectations and (like Venus, which ruled the vegetable kingdom) has even outstripped expectation. When it comes to the animal kingdom (associated as it is with the Moon-chain failure) it has not kept pace with its intended schedule of spiritual evolution. It is still, relatively, more advanced that its progressive younger Brother, the vegetable kingdom.

125. Cách nói khác là giới thực vật (xét theo lịch trình tiến hoá tinh thần dự định của nó) đã theo kịp kỳ vọng và (như Sao Kim, vị chủ tinh của giới thực vật) thậm chí đã vượt dự liệu. Còn khi nói đến giới động vật (vì có liên hệ với sự thất bại của Dãy Mặt Trăng) thì nó đã không theo kịp lịch trình tiến hoá tinh thần dự định. Xét tương đối, nó vẫn tiến bộ hơn người Em trẻ đang thăng tiến là giới thực vật.

126. Does DK have a reason for differentiating between the term “evolution” as in “the animal evolution” and the word “kingdom”, as in the “animal kingdom”? It would seem that they are the same, but some important distinction may here be hidden.

126. Liệu Chân sư DK có lý do để phân biệt giữa thuật ngữ “tiến hoá” như trong “tiến hoá giới động vật” và từ “giới” như trong “giới động vật” chăng? Có vẻ như chúng là một, nhưng có thể ở đây ẩn giấu một phân biệt quan trọng.

10. The mineral evolution…                                           The vegetable kingdom.

10. Tiến hoá giới kim thạch… Giới thực vật.

127. We continue to deal with forms of life with which we feel more familiar. Our supposed familiarity does not compensate for the great mystery that lies at the heart of each of these kingdoms.

127. Chúng ta tiếp tục đề cập đến những hình thức sự sống mà chúng ta tưởng là quen thuộc hơn. Sự quen thuộc giả định của chúng ta không thể bù đắp cho đại huyền bí nằm ở tâm điểm mỗi giới này.

128. In TCF DK has discussed the manner in which the members of one kingdom transition to the next higher. The process is (for us) mysterious in the extreme. There are, we are told, transitional forms of life which belong neither to one kingdom or the next. Clearly a mystery is present.

128. Trong TCF, Chân sư DK đã bàn về cách mà các thành viên của một giới chuyển tiếp sang giới cao hơn kế tiếp. Tiến trình này (đối với chúng ta) cực kỳ huyền bí. Chúng ta được cho biết rằng có những hình thức sự sống chuyển tiếp vốn không thuộc hẳn về một giới nào cả. Hiển nhiên, có một huyền bí hiện diện.

11. The four higher grades of lesser Builders on all planes                                                  They will form the manifested double or form of that mysterious third evolution of the next system; that is, the etheric body of the planetary entity. This mysterious life is as yet an unfathomable mystery and one which will not be revealed till the final one of the triplicity of solar systems of our solar Logos.

11. Bốn cấp bậc cao hơn của các Tiểu Kiến Tạo trên tất cả các cõi… Họ sẽ hình thành đôi phần hiện ra hay hình tướng của cuộc tiến hoá thứ ba bí ẩn của hệ tới; tức là, thể dĩ thái của Thực thể hành tinh. Sự sống bí ẩn này hiện vẫn là một huyền bí không dò thấu và sẽ không được tiết lộ cho đến khi hệ mặt trời cuối cùng trong bộ ba hệ mặt trời của Thái dương Thượng đế của chúng ta đạt thành.

129. Here we find a most interesting reversal. In most of the life groupings above there were a superior three and an inferior four. Here the opposite is the case.

129. Ở đây chúng ta gặp một sự đảo chiều hết sức thú vị. Trong hầu hết các nhóm sự sống bên trên đều có một bộ ba cao và một bộ bốn thấp. Ở đây thì ngược lại.

130. May it be so that when dealing with “M/men”, we find a superior three and that, when dealing with devic lives, we find a superior four.

130. Có thể là khi xử lý “con người”, chúng ta thấy một bộ ba cao, còn khi xử lý các sự sống deva thì chúng ta thấy một bộ bốn cao.

131. A term like “lesser Builders” is very protean. The eighth (third) Creative Hierarchy is the Hierarchy of Lesser Builders (cf. EA, 35). Lesser Builders, however, are also unconscious lives which are directed rather than directing.

131. Một thuật ngữ như “Tiểu Kiến Tạo” là rất biến hoá. Huyền Giai Sáng Tạo thứ tám (thứ ba) là Huyền Giai của các Tiểu Kiến Tạo (x. EA, 35). Tuy nhiên, các Tiểu Kiến Tạo cũng là những sự sống vô thức, vốn bị dẫn dắt hơn là tự dẫn dắt.

132. DK speaks of a destiny within the forthcoming solar system for the four higher grades of lesser Builders. Their four grades will form the four ‘layers’ of the etheric body of the “Planetary Entity”.

132. Chân sư DK nói đến một định mệnh trong hệ mặt trời sắp tới dành cho bốn cấp bậc cao của các Tiểu Kiến Tạo. Bốn cấp này sẽ hình thành bốn ‘tầng’ của thể dĩ thái của “Thực thể Hành tinh”.

133. The lesser builders may be involutionary (in fact, mostly so) and, sometimes, evolutionary lives—at least certain evolutionary devas are referred to as “lesser builders”. The “Planetary Entity” is, presently, a great involutionary Life, but all this may change in the next solar system and it may a probably will step upon the evolutionary path.

133. Các tiểu kiến tạo có thể là những sự sống giáng hạ tiến hoá (thực tế, phần lớn là như vậy) và, đôi khi, là những sự sống thăng thượng tiến hoá—ít nhất một số deva tiến hoá được gọi là “tiểu kiến tạo”. “Thực thể Hành tinh” hiện giờ là một Sự Sống giáng hạ tiến hoá vĩ đại, nhưng tất cả điều này có thể thay đổi trong hệ mặt trời tới và có lẽ sẽ bước lên Con Đường tiến hoá.

12. The three lower grades of the lesser builders….            The physical body in its densest form of the planetary entity.

12. Ba cấp bậc thấp hơn của các tiểu kiến tạo… Thể hồng trần ở dạng đậm đặc nhất của Thực thể Hành tinh.

134. Such lesser builders must definitely be involutionary at the present time in the process of our second solar system.

134. Các tiểu kiến tạo như vậy ở thời điểm hệ mặt trời thứ hai của chúng ta, hẳn nhiên là giáng hạ tiến hoá.

135. One might think that a body of dense physical matter might not be necessary or even possible in the next solar system. DK does not tell us what type of dense matter will exist at that time or whether it will be comparable to the dense matter of our present, second major, solar system.

135. Người ta có thể nghĩ rằng một thể bằng vật chất hồng trần đậm đặc có thể không cần thiết hoặc thậm chí không thể có trong hệ mặt trời tới. Chân sư DK không nói cho chúng ta biết loại vật chất đậm đặc nào sẽ tồn tại khi đó, hoặc liệu nó có thể so sánh với vật chất đậm đặc của hệ mặt trời chính yếu thứ hai hiện thời của chúng ta hay không.

136. Whatever the density of the lowest form of matter at that time, the three lower grades of lesser builders will go to its constitution.

136. Dẫu ở thời điểm đó, độ đậm đặc của dạng vật chất thấp nhất là gì đi nữa, ba cấp bậc thấp hơn của các tiểu kiến tạo sẽ góp phần vào cấu tạo của nó.

137. Of course, in point “12” we may be speaking of the physical body of the Solar Logos and, above, in point “11”, of the etheric body of that Logos. If this is the case, then the physical body under discussion will include matter of the astral and mental planes and the logoic etheric body will include matter of the four cosmic ethers.

137. Tất nhiên, ở điểm “12” chúng ta có thể đang nói về thể hồng trần của Thái dương Thượng đế và, ở trên, trong điểm “11”, là thể dĩ thái của vị Thượng đế ấy. Nếu đúng như vậy, thì thể hồng trần đang bàn sẽ bao gồm vật chất của các cõi cảm dục và trí tuệ, còn thể dĩ thái logoic sẽ bao gồm vật chất của bốn dĩ thái vũ trụ.

138. Much depends on the ‘reach’ of the “Planetary Entity”. How ‘high’ in the cosmic physical plane does it extend? If it is an Entity confined to the lower three subplanes of the cosmic physical plane, then the etheric body and physical body under discussion will be systemic in nature rather than cosmic.

138. Nhiều điều tuỳ thuộc vào ‘tầm với’ của “Thực thể Hành tinh”. Nó mở rộng ‘cao’ đến đâu trong cõi hồng trần vũ trụ? Nếu đó là một Thực thể bị giới hạn trong ba cõi phụ thấp của cõi hồng trần vũ trụ, thì thể dĩ thái và thể hồng trần đang bàn sẽ có tính hệ mặt trời thay vì mang tính vũ trụ.

139. Devic substance is spread throughout the our present cosmic physical plane, and we have to question whether the “lesser builders” are found on all of the seven subplanes of the cosmic physical plane. From one perspective, it seems as if they are. In this regard it will be necessary to study both “monadic essence” and “elemental essence”—both composed of different categories of “lesser builders”.

139. Chất liệu deva trải khắp cõi hồng trần vũ trụ hiện tại của chúng ta, và chúng ta phải đặt câu hỏi liệu “các tiểu kiến tạo” có hiện diện trên tất cả bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ hay không. Ở một góc nhìn, dường như là có. Về điểm này, sẽ cần nghiên cứu cả “tinh chất chân thần” và “Tinh chất hành khí”—cả hai đều cấu thành từ những loại “tiểu kiến tạo” khác nhau.

Scroll to Top