3. THE GENERATION OF THOUGHT-FORMS
We, are now in a position to more clearly understand the Master’s words. The mind, working in its own region, in the subtle matter of the higher psychic plane, [9] generates images, thought-forms. Imagination has very accurately been called the creative faculty of the mind, and it is so in a more literal sense than many may suppose who use the phrase. This image-making capacity is the characteristic power of the mind, and a word is only a clumsy attempt to partially represent a mental picture. An idea, a mental image, is a complicated thing, and needs perhaps a whole sentence to describe it accurately, so a salient[1] incident[2] in it is seized, and the word naming this incident imperfectly represents the whole; we say triangle, and the word calls up in the hearer’s mind a picture, which would need a long description if fully conveyed in words; we do our best thinking in symbols, and then laboriously and imperfectly summarize our symbols into words. In regions where mind speaks to mind there is perfect expression, far beyond anything words may convey; even in thought-transference of a limited kind it is not words that are sent, but ideas. A speaker puts into words such part of his mental pictures as he can, and these words call up in the hearer’s mind pictures corresponding to those in the mind of the speaker; the mind deals with the pictures, the images, not with the words, and half the controversies and misunderstandings that arise come about because [10] people attach different images to the same words, or use different words to represent the same images. | Chúng ta hiện đang ở trong một vị thế cho phép hiểu rõ hơn lời dạy của Chân sư. Thể trí, khi hoạt động trong cõi riêng của nó, tức là trong chất liệu vi tế của cõi cảm dục cao, [9] tạo ra các hình ảnh, tức các hình tư tưởng. Trí tưởng tượng đã rất chính xác khi được gọi là năng lực sáng tạo của thể trí, và điều đó đúng theo nghĩa đen hơn nhiều so với cách hiểu của phần đông những người sử dụng cụm từ này. Khả năng tạo ảnh ấy là năng lực đặc trưng của thể trí, và một từ ngữ chỉ là một nỗ lực vụng về nhằm biểu thị một phần của hình ảnh trong tâm trí. Một ý tưởng, một hình ảnh trong tâm trí, là một điều phức tạp, có thể cần đến cả một câu đầy đủ để diễn tả chính xác nó, nên người ta nắm lấy một tình tiết nổi bật trong đó, và từ ngữ gọi tên tình tiết này chỉ biểu thị không trọn vẹn toàn thể hình ảnh; ta nói “tam giác”, và từ ngữ ấy khơi dậy trong tâm trí người nghe một hình ảnh, vốn sẽ cần đến một đoạn mô tả dài nếu muốn truyền đạt đầy đủ bằng lời; chúng ta tư duy tốt nhất thông qua các biểu tượng, rồi sau đó cố gắng diễn đạt các biểu tượng ấy thành lời một cách nhọc nhằn và không hoàn hảo. Trong các cõi nơi thể trí giao tiếp với thể trí thì sự biểu đạt là hoàn hảo, vượt xa bất kỳ điều gì mà ngôn từ có thể truyền tải; ngay cả trong sự chuyển tư tưởng có giới hạn thì điều được truyền đi không phải là lời nói mà là các ý tưởng. Người nói diễn đạt thành lời một phần nào đó của các hình ảnh trong tâm trí mà họ có thể biểu đạt, và các từ ngữ ấy khơi dậy trong tâm trí người nghe các hình ảnh tương ứng với những gì có trong tâm trí người nói; thể trí xử lý các hình ảnh, các biểu tượng, chứ không xử lý từ ngữ, và một nửa các cuộc tranh luận và hiểu lầm phát sinh là do [10] con người gán các hình ảnh khác nhau cho cùng một từ, hoặc dùng những từ khác nhau để diễn đạt cùng một hình ảnh. |
A thought-form, then, is a mental image, created or moulded by the mind out of the subtle matter of the higher psychic plane, in which, as above said, it works. This form, composed of the rapidly vibrating atoms of the matter of that region, set up vibrations all around it; these vibrations will give rise to sensations of sound and colour in any entities adapted to translate them thus, and as the thought-form passes-outward or sinks downward, whichever expression may be preferred to express the transition into the denser matter of the lower psychic regions, these vibrations thrill out as a singing-colour in every direction, and call to the thought-form whence they proceed the Elementals belonging to that colour. | Một hình tư tưởng, như vậy, là một hình ảnh trong tâm trí, được tạo ra hoặc nắn khuôn bởi thể trí từ chất liệu vi tế của cõi cảm dục cao, nơi như đã nói ở trên, thể trí hoạt động. Hình thức này, được cấu thành bởi các nguyên tử rung động nhanh của chất liệu thuộc cõi đó, phát ra các rung động xung quanh; các rung động này sẽ tạo ra các cảm giác về âm thanh và màu sắc nơi bất kỳ thực thể nào có khả năng diễn dịch chúng như vậy, và khi hình tư tưởng này chuyển ra ngoài hay lắng xuống—dù dùng cách diễn đạt nào để chỉ sự chuyển tiếp vào chất liệu đậm đặc hơn của các vùng cảm dục thấp—thì các rung động ấy ngân vang như một âm sắc-màu sắc theo mọi hướng, và gọi đến với hình tư tưởng phát ra từ chúng những Hành khí thuộc về màu sắc đó. |
Elementals | Các Hành khí |
All Elementals, like all things else in the universe belong to one or other of the seven primary Rays, the seven primeval Sons of Light. The white light breaks forth from the Third LOGOS, the manifested Divine Mind, in the seven Rays, the “Seven Spirits, that are before the Throne”, and each of these Rays has its seven sub-rays, and so onwards in sequential sub-divisions. Hence, amid the endless differentiations that make up a universe, there are Elementals [11] belonging to the various, sub-divisions, and they are communicated with in a colour-language, grounded on the colour to which they belong. This is why the real knowledge of sounds and colours and numbers—number underlying both sound and colour—has ever been so carefully guarded, for the will speaks to the Elementals by these, and knowledge gives power to control. | Tất cả các Hành khí, cũng như mọi sự vật khác trong vũ trụ, đều thuộc về một trong bảy Cung nguyên thủy, tức là bảy Vị Con của Ánh sáng nguyên sơ. Ánh sáng trắng phát lộ từ Thái dương Thượng đế thứ ba, tức là Thể trí Thiêng liêng được biểu lộ, thành bảy Cung, tức “Bảy Thánh Linh trước Thánh Ngai”, và mỗi Cung trong số đó lại có bảy cung phụ, và tiếp tục phân chia theo trình tự như vậy. Do đó, giữa vô số sự biệt hóa tạo thành một vũ trụ, có các Hành khí [11] thuộc về các phân nhóm khác nhau, và chúng được giao tiếp bằng một ngôn ngữ màu sắc, dựa trên màu sắc mà chúng thuộc về. Đây là lý do vì sao tri thức thực sự về âm thanh, màu sắc và con số—mà con số là nền tảng của cả âm thanh lẫn màu sắc—luôn được canh giữ cẩn mật, bởi ý chí giao tiếp với các Hành khí thông qua những yếu tố này, và tri thức mang lại quyền năng kiểm soát. |
Master K. H. speaks very plainly on this colour language. He says: | Chân sư K.H. nói rất rõ ràng về ngôn ngữ màu sắc này. Ngài nói: |
How could you make yourself understood, command in fact, those semi-intelligent Forces, whose means of communicating with us are not through spoken words, but through sounds and colours, in correlations between the vibrations of the two? For sound, light and colour are the main factors in forming those grades of intelligences, those beings of whose very existence you have no conception, nor are you allowed to believe in them—Atheists and Christians, Materialists and Spiritualists, all bringing forward their respective arguments against such a belief—Science objecting stronger than either of these to such a degrading superstition. [The Occult World, p.100] | Làm sao các bạn có thể làm cho bản thân mình được hiểu, trên thực tế là ra lệnh cho những Mãnh lực bán thông minh đó, vốn không giao tiếp với chúng ta bằng lời nói, mà bằng âm thanh và màu sắc, trong sự tương quan giữa các rung động của hai yếu tố ấy? Bởi vì âm thanh, ánh sáng và màu sắc là những yếu tố chính trong việc hình thành những cấp độ trí thông minh ấy, những hữu thể mà các bạn thậm chí không thể hình dung rằng chúng hiện hữu, và các bạn cũng không được phép tin vào chúng—kẻ vô thần và người theo Cơ đốc giáo, nhà duy vật và nhà thần linh học, tất cả đều đưa ra những lập luận của riêng họ để chống lại niềm tin như vậy—khoa học còn phản đối mạnh mẽ hơn cả hai nhóm kia đối với một sự mê tín bị xem là hạ cấp như thế. [The Occult World, tr.100] |
Students of the past may remember obscure allusions now and again made to a language of colours; they may recall the fact that in ancient Egypt sacred [12] manuscripts were written in colours, and that mistakes made in the copying were punished with death. But I must not run down this fascinating by-way. We are only concerned with the fact that Elementals are addressed by colours, and that colour-words are as intelligible to them as spoken words are to men. | Các đạo sinh trong quá khứ có thể nhớ lại những ám chỉ mơ hồ đôi khi được nhắc đến về một ngôn ngữ của màu sắc; họ có thể hồi tưởng đến thực tế rằng ở Ai Cập cổ đại các bản thảo thiêng liêng [12] được viết bằng màu sắc, và những lỗi lầm trong việc sao chép sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Nhưng tôi không nên đi quá xa vào con đường phụ hấp dẫn này. Điều chúng ta cần quan tâm chỉ là các Hành khí được giao tiếp bằng màu sắc, và rằng những từ-ngữ-màu sắc cũng dễ hiểu với chúng như từ ngữ nói đối với con người vậy. |
Creation of a artificial elemental in astral world | Sự tạo ra một hành khí nhân tạo trong thế giới cảm dục |
The hue of the singing[3]-colour depends on the nature of the motive inspiring the generator of the thought-form. If the motive be pure, loving, beneficent in its character, the colour produced will summon to the thought-form an Elemental, which will take on the characteristics impressed on the form by the motive, and act along the line thus traced; this Elemental enters into the thought-form, playing to it the part of a Soul, and thus an independent entity is made in the astral world, an entity of a beneficent character. If the motive, on the other hand, be impure, revengeful, maleficent in its character, the colour produced will summon to the thought-form an Elemental which will equally take on the characteristics impressed on the form by the motive and act along the line thus traced; in this case also the Elemental enters into the thought-form, playing to it the part of a Soul, and thus making an independent entity in the astral world, an entity of a maleficent character. For example, an angry thought will cause a flash of red, the thought-form vibrating so as to produce red; that flash of red is a summons to the Elementals and they sweep in the direction of the summoner, and one of them enters into the thought-form, which gives it an independent activity of a destructive, disintegrating type. Men are continually talking in this colour-language quite unconsciously, and thus calling round them these swarms of Elementals, who take up their abodes in the various thought-forms provided; thus it is that a man peoples his current in space with a world of his own, crowded with the offspring of his fancies, desires, impulses and, passions. Angels and demons of our own creating throng round us on every side, makers of weal and woe[4] to others, bringers of weal and woe to ourselves verily, a karmic host. | Sắc độ của màu hát phụ thuộc vào bản chất của động cơ thúc đẩy người tạo ra hình tư tưởng. Nếu động cơ đó thuần khiết, yêu thương, mang tính lợi lạc, thì màu sắc được tạo ra sẽ triệu hồi đến hình tư tưởng một Hành khí, vốn sẽ mang lấy các đặc tính được in khắc lên hình tư tưởng bởi động cơ đó và hành động theo chiều hướng như vậy; Hành khí này đi vào trong hình tư tưởng, đóng vai trò như một Linh hồn đối với nó, và như thế, một thực thể độc lập được tạo ra trong cõi cảm dục, một thực thể mang đặc tính lợi lạc. Ngược lại, nếu động cơ ô uế, đầy thù hận, có hại, thì màu sắc phát ra sẽ triệu hồi đến hình tư tưởng một Hành khí vốn cũng sẽ tiếp nhận các đặc điểm được in dấu bởi động cơ và hành động theo chiều hướng đó; trong trường hợp này, Hành khí cũng đi vào trong hình tư tưởng, đóng vai trò như một Linh hồn, và như vậy tạo nên một thực thể độc lập trong cõi cảm dục, một thực thể mang bản chất có hại. Ví dụ, một tư tưởng giận dữ sẽ tạo nên một luồng chớp màu đỏ, hình tư tưởng rung động để tạo ra màu đỏ; luồng chớp màu đỏ đó là một lời triệu tập gửi đến các Hành khí và chúng sẽ lao tới theo hướng của kẻ triệu hồi, và một trong số chúng sẽ nhập vào hình tư tưởng, điều này trao cho nó một hoạt động độc lập mang tính phá hoại và phân rã. Con người liên tục nói trong ngôn ngữ màu sắc này một cách hoàn toàn vô thức, và vì vậy triệu hồi quanh mình những bầy Hành khí, vốn cư ngụ trong các hình tư tưởng được tạo ra; do đó, con người đã tạo nên dòng lưu chuyển riêng của mình trong không gian, đầy những thực thể được sinh ra bởi các ảo tưởng, dục vọng, xung động và đam mê của chính mình. Các thiên thần và ác quỷ do chính chúng ta tạo nên vây quanh chúng ta từ mọi phía, là kẻ tạo nên niềm vui và nỗi khổ cho kẻ khác, đồng thời cũng là kẻ mang lại niềm vui và nỗi khổ cho chính bản thân ta—thật vậy, một đạo quân nghiệp quả. |
Clairvoyants can see flashes of colour, constantly changing, in the aura that surrounds every person: each thought, each feeling, thus translating itself in the astral world, visible to the astral sight. Persons somewhat more developed than the ordinary clairvoyant can also see the thought-forms, and can see the effects produced by the flashes of colour among the hordes[5] of Elemental [14] | Người thông nhãn có thể thấy những luồng màu sắc loé lên, thay đổi liên tục, trong hào quang bao quanh mỗi người: mỗi tư tưởng, mỗi cảm xúc đều được chuyển dịch như thế trong cõi cảm dục, hiện rõ đối với nhãn thông cảm dục. Những người có phát triển cao hơn so với người thông nhãn bình thường cũng có thể thấy được các hình tư tưởng, và có thể thấy được các hiệu ứng được tạo ra bởi những luồng chớp màu giữa các đám Hành khí [14]. |