5. The Making of Karma in Principle
Having thus realized the relation between man and the elemental kingdom, and the moulding energies of the mind—verily, creative energies, in that they call into being these living forms that have been described—we are in a position to at least partially understand something of the generation and working out of karma during a single life-period. A “life-period”, [20] I say, rather than a “life”, because a life means too little if it be used in the ordinary sense of a single incarnation, and it means too much if it be used for the whole life, made up of many stages in the physical body, and of many stages without it. By life-period I mean a little cycle of human existence, with its physical, astral and devachanic experiences, including its return to the threshold of the physical—the four distinct stages through which the soul passes, in order to complete its cycle. These stages are retrodden over and over again during the journey of the eternal pilgrim through our present humanity, and however much the experiences in each such period may vary, both as to quantity and quality, the period will include these four stages for the average human being, and none others. | Sau khi đã nhận thức được mối liên hệ giữa con người và giới Hành khí, cũng như các năng lượng nắn khuôn của thể trí—quả thực là các năng lượng sáng tạo, bởi vì chúng gọi ra đời những hình thể sống động đã được mô tả—chúng ta đang ở trong một vị thế có thể ít nhất phần nào hiểu được điều gì đó về sự tạo sinh và tiến trình tác động của nghiệp quả trong một chu kỳ sống đơn lẻ. Tôi dùng từ “chu kỳ sống” [20] thay vì “một đời sống”, bởi vì “một đời sống” nghĩa là quá ít nếu được dùng theo nghĩa thông thường của một lần đầu thai, và lại có nghĩa là quá nhiều nếu được dùng cho toàn bộ đời sống, bao gồm nhiều giai đoạn trong thân xác và nhiều giai đoạn bên ngoài nó. Với từ “chu kỳ sống”, tôi muốn nói đến một chu kỳ nhỏ của sự tồn tại nhân loại, với các kinh nghiệm hồng trần, cảm dục và devachan, bao gồm cả sự trở lại ngưỡng cửa của cõi hồng trần—bốn giai đoạn rõ rệt mà linh hồn phải kinh qua để hoàn tất chu kỳ của mình. Những giai đoạn này được trải qua lặp đi lặp lại trong cuộc hành trình của người hành hương vĩnh cửu qua nhân loại hiện tại, và dù cho các kinh nghiệm trong mỗi chu kỳ như vậy có thể khác biệt đến đâu, cả về số lượng lẫn chất lượng, thì chu kỳ ấy vẫn bao gồm bốn giai đoạn này đối với người trung bình, và không có thêm giai đoạn nào khác. |
It is important to realize that the residence outside the physical body is far more prolonged than the residence in it; and the workings of karmic law will be but poorly understood unless the activity of the soul in the non-physical condition be studied. Let us recall the words of a Master, pointing out that the life out of the body is the real one. | Điều quan trọng là phải nhận ra rằng thời gian cư trú bên ngoài thân xác lâu dài hơn nhiều so với thời gian trong thân xác; và luật nghiệp quả sẽ chỉ được hiểu một cách nghèo nàn nếu không nghiên cứu hoạt động của linh hồn trong trạng thái phi vật chất. Hãy nhớ lại lời của một Chân sư, Ngài chỉ ra rằng đời sống ngoài thân xác mới là đời sống đích thực. |
The Vedantins, acknowledging two kinds of conscious existence, the terrestrial and the spiritual, point only to the latter as [21] an undoubted actuality. As to the terrestrial life, owing to its changeability and shortness, it is nothing but an illusion of our senses. Our life in the spiritual spheres must be thought an actuality, because it is there that lives our endless, never-changing, immortal I, the Sutratma,… This is why we call the posthumous life the only reality, and the terrestrial one, including the personality itself, only imaginary.[1] | Phái Vedanta, công nhận hai hình thái tồn tại có tâm thức: phàm trần và tinh thần, thì chỉ xem đời sống tinh thần là một thực tại không thể nghi ngờ. Còn đối với đời sống phàm trần, do tính thay đổi và ngắn ngủi của nó, thì nó chỉ là một ảo ảnh của các giác quan chúng ta. Đời sống của chúng ta trong các cõi giới tinh thần phải được xem là thực tại, vì chính tại đó mà “Ta” bất diệt, không bao giờ thay đổi, sống mãi—chính là Sutratma,… Đây là lý do tại sao chúng ta gọi đời sống sau khi chết là thực tại duy nhất, còn đời sống trần gian, bao gồm cả phàm ngã, chỉ là điều tưởng tượng. [21] |
During earth life, the activity of the soul is most directly manifested in the creation of the thought-forms already described. But in order to follow out with any approach to exactitude the workings of karma, we must now analyse further the term “thought-form”, and add some considerations necessarily omitted in the general conception first presented. The soul, working as mind, creates a mental image, the primary “thought-form”[2] 2; let us take the term mental image to mean exclusively this immediate creation of the mind, and henceforth restrict this term to this initial stage of what is generally and broadly spoken of as a thought-form. This mental image remains attached to its creator, part of the content of his consciousness: it is a living, vibrating form of subtle matter, the Word thought but not yet [22] spoken, conceived but not yet made flesh. Let the reader concentrate his mind for a few moments on this mental image, and obtain a distinct notion of it, isolated from all else, apart from all the results it is going to produce on other planes than its own. It forms, as just said, part of the content of the consciousness of its creator, part of his inalienable property; it cannot be separated from him; he carries it with him during his earthly life, carries it with him through the gateway of death, carries it with him in the regions beyond death; and if, during his upward travelling through those regions, he himself passes into air too rarefied for it to endure, he leaves behind the denser matter built into it, carrying on the mental matrix, the essential form; on his return to the grosser region the matter of that plane is again built into the mental matrix, and the appropriate denser form is reproduced. This mental image may remain sleeping, as it were, for long periods, but it may be re-awakened and revivified, every fresh impulse—from its creator, from its progeny (dealt with below), from entities of the same type as its progeny—increases its life-energy, and modifies its form. | Trong cuộc sống trên trần thế, hoạt động của linh hồn biểu hiện rõ ràng nhất trong việc tạo ra các hình tư tưởng như đã mô tả. Nhưng để có thể theo dõi tiến trình của nghiệp quả một cách gần như chính xác, chúng ta cần phân tích thêm khái niệm “hình tư tưởng”, và bổ sung một số yếu tố bắt buộc phải lược bỏ trong phần định nghĩa khái quát đầu tiên. Linh hồn, khi hoạt động như thể trí, tạo ra một ảnh tượng trí tuệ, tức là “hình tư tưởng” nguyên thủy; ta hãy hiểu cụm từ “ảnh tượng trí tuệ” như chỉ riêng sự sáng tạo tức thời này của thể trí, và từ nay trở đi chỉ sử dụng thuật ngữ này cho giai đoạn đầu tiên trong toàn bộ khái niệm rộng rãi gọi là hình tư tưởng. Ảnh tượng trí tuệ này vẫn gắn liền với người tạo ra nó, là một phần trong nội dung tâm thức của y: nó là một hình thể sống động, rung động, làm từ chất liệu vi tế, là Linh từ được tư tưởng nhưng chưa được [22] thốt ra, là ý tưởng được thụ thai nhưng chưa được “làm thành xác thịt”. Hãy để người đọc tập trung tâm trí mình vài phút vào ảnh tượng trí tuệ này, và có một khái niệm rõ ràng về nó, tách biệt khỏi mọi thứ khác, không xét đến bất kỳ kết quả nào mà nó có thể tạo ra trên các cõi khác ngoài cõi của nó. Nó, như vừa nói, là một phần của nội dung tâm thức của người tạo ra nó, là tài sản không thể tách lìa của y; nó không thể bị tách khỏi y; y mang nó theo trong đời sống trên Trái đất, mang nó qua cánh cửa của cái chết, mang nó trong các cõi giới bên kia cái chết; và nếu, trong tiến trình thăng thượng xuyên qua các cõi ấy, y tiến vào những tầng khí quá tinh vi khiến nó không thể tồn tại, thì y để lại chất liệu đậm đặc đã được xây dựng trong nó, nhưng vẫn giữ lại khuôn mẫu thể trí, hình thể tinh yếu; khi y trở lại các cõi giới thô đặc hơn thì chất liệu của cõi đó lại được xây dựng vào khuôn mẫu thể trí ấy, và hình thể đậm đặc phù hợp sẽ được tái tạo. Ảnh tượng trí tuệ này có thể nằm im, như thể đang ngủ, trong thời gian dài, nhưng nó có thể được đánh thức và hồi sinh trở lại; mỗi xung lực mới—đến từ người tạo ra nó, từ các hậu thân của nó (sẽ được bàn bên dưới), hoặc từ các thực thể cùng loại với hậu thân của nó—sẽ gia tăng năng lượng sống của nó và biến đổi hình thể của nó. |
It evolves, as we shall see, according to definite laws, and the aggregation of these mental images [23] makes the character; the outer mirrors the inner, and as cells aggregate into the tissues of the body and are often much modified in the process, so do these mental images aggregate into the characteristics of the mind, and often undergo much modification. The study of the working out of karma will throw much light on these changes. Many materials may enter into the making of these mental images by the creative powers of the soul; it may be stimulated into activity by desire (kama), and may shape the image according to the prompting of passion or of appetite; it may be Self-motivated to a noble ideal, and mould the image accordingly; it may be led by purely intellectual concepts, and form the image thereafter. But lofty or base, intellectual or passional, serviceable or mischievous, divine or bestial, it is always in man a mental image, the product of the creative soul, and on its existence individual karma depends. Without this mental image there can be no individual karma linking life-period to life-period: the manasic quality must be present to afford the permanent element in which individual karma can inhere. The non-presence of manas in the mineral, vegetable, and animal kingdoms has as its corollary the non-generation of individual karma, stretching through death to rebirth. [24] | Nó tiến hóa, như chúng ta sẽ thấy, theo những định luật xác định, và sự kết hợp của các ảnh tượng trí tuệ này [23] tạo nên đặc điểm tính cách; cái bên ngoài phản chiếu cái bên trong, và cũng như các tế bào kết hợp thành mô của thể xác và thường được biến đổi đáng kể trong tiến trình đó, thì các ảnh tượng trí tuệ cũng kết hợp thành các đặc điểm của thể trí, và thường trải qua nhiều biến đổi. Việc nghiên cứu tiến trình của nghiệp quả sẽ làm sáng tỏ nhiều điều về các biến đổi này. Rất nhiều yếu tố có thể tham gia vào quá trình hình thành các ảnh tượng trí tuệ thông qua quyền năng sáng tạo của linh hồn; nó có thể được kích thích hoạt động bởi dục vọng (kama), và có thể tạo ra ảnh tượng phù hợp với sự thúc đẩy của đam mê hay ham muốn; nó có thể được tự thúc đẩy bởi một lý tưởng cao thượng, và nắn hình ảnh tượng theo lý tưởng đó; nó có thể được dẫn dắt bởi những quan niệm thuần lý, và hình thành ảnh tượng tương ứng. Nhưng dù cao thượng hay thấp hèn, lý trí hay đầy đam mê, hữu ích hay phá hoại, thiêng liêng hay thú tính, nó vẫn luôn là ảnh tượng trí tuệ trong con người, là sản phẩm của linh hồn sáng tạo, và sự tồn tại của nghiệp quả cá nhân phụ thuộc vào nó. Không có ảnh tượng trí tuệ này thì không thể có nghiệp quả cá nhân nối kết từ chu kỳ sống này đến chu kỳ sống khác: phẩm tính manas phải hiện diện để cung cấp yếu tố trường tồn mà nghiệp quả cá nhân có thể gắn kết. Sự vắng mặt của manas trong các giới khoáng vật, thực vật và động vật kéo theo hệ quả là không có sự phát sinh của nghiệp quả cá nhân kéo dài xuyên suốt từ cái chết đến tái sinh. [24] |
Let us now consider the primary thought-form in relation to the secondary thought-form, the thought-form pure and simple in relation to the ensouled thought-form, the mental image in relation to the astro-mental image, or the thought-form in the lower astral plane. How is this produced and what is it? To use the symbol employed above, it is produced by the Word-thought becoming the Word-outspoken; the soul breathes out the thought, and the sound makes form in astral matter; as the Ideas in the Universal Mind become the manifested universe when they are outbreathed, so do these mental images in the human mind, when outbreathed, become the manifested universe of their creator. He peoples his current in space with a world of his own. The vibrations of the mental image set up similar vibrations in the denser astral matter, and these cause the secondary thought-form, what I have called the astro-mental image; the mental image itself remains, as has been already said, in the consciousness of its creator, but its vibrations passing outside that consciousness reproduce its form in the denser matter of the lower astral plane. This is the form that affords the casing for a portion of elemental energy, specializing it for the time that the form persists, since the manasic element in the [25] form gives a touch of individuality to that which ensouls it. [How marvellous and how illuminating are the correspondences in Nature!] This is the active entity, spoken of in the Master’s description, and it is this astro-mental image that ranges over the astral plane, keeping up with its progenitor[3] the magnetic tie spoken of, reacting on its parent, the mental image, and acting also on others. The life-period of an astro-mental image may be long or short, according to circumstances, and its perishing does not affect the persistence of its parent; any fresh impulse given to the latter will cause it to generate afresh its astral counterpart as each repetition of a word produces a new form. | Giờ đây, chúng ta hãy xét đến hình tư tưởng nguyên thủy trong mối liên hệ với hình tư tưởng thứ cấp, tức là hình tư tưởng thuần tuý so với hình tư tưởng được phú linh, ảnh tượng trí tuệ so với ảnh tượng cảm dục-thể trí, hay hình tư tưởng trong cõi cảm dục thấp. Nó được tạo ra như thế nào và thực chất là gì? Dùng lại biểu tượng đã trình bày ở trên, nó được tạo ra khi Linh từ-tư tưởng trở thành Linh từ-thốt ra; linh hồn thở ra tư tưởng, và âm thanh tạo thành hình thể trong chất liệu cảm dục; cũng như các Ý tưởng trong Thể trí Vũ trụ trở thành vũ trụ biểu hiện khi được thở ra, thì các ảnh tượng trí tuệ trong thể trí con người, khi được thở ra, cũng trở thành vũ trụ biểu hiện của người tạo ra nó. Y đã tạo ra thế giới riêng của mình trong dòng lưu chuyển không gian. Các rung động của ảnh tượng trí tuệ tạo ra các rung động tương tự trong chất liệu cảm dục đậm đặc hơn, và những rung động này tạo ra hình tư tưởng thứ cấp, điều mà tôi gọi là ảnh tượng cảm dục-thể trí; bản thân ảnh tượng trí tuệ vẫn như đã nói, ở trong tâm thức của người tạo ra nó, nhưng các rung động của nó vượt ra khỏi tâm thức ấy và tái tạo hình dạng của nó trong chất liệu đậm đặc hơn của cõi cảm dục thấp. Đây là hình thể cung cấp lớp vỏ cho một phần năng lượng hành khí, làm cho nó trở nên chuyên biệt trong khoảng thời gian mà hình thể đó còn tồn tại, bởi vì yếu tố manas trong [25] hình thể mang đến một dấu ấn cá biệt cho cái phú linh nó. [Thật kỳ diệu và khai sáng biết bao là những sự tương đồng trong Thiên nhiên!] Đây chính là thực thể đang hoạt động, được nhắc đến trong mô tả của Chân sư, và chính ảnh tượng cảm dục-thể trí này là thứ dạo bước trên cõi cảm dục, duy trì với người sinh ra nó mối dây từ tính đã nói đến, phản hồi lại cha mẹ của nó—ảnh tượng trí tuệ—và cũng ảnh hưởng đến người khác. Chu kỳ sống của một ảnh tượng cảm dục-thể trí có thể dài hoặc ngắn, tùy theo hoàn cảnh, và việc nó tiêu tan không ảnh hưởng đến sự tồn tại của mẫu nguyên của nó; bất kỳ xung lực mới nào được truyền vào ảnh tượng trí tuệ nguyên thủy cũng sẽ khiến nó tái tạo lại hình ảnh cảm dục tương ứng, giống như mỗi lần lặp lại một từ thì lại sinh ra một hình thể mới. |
The vibrations of the mental image do not only pass downwards to the lower astral plane, but they pass upwards also into the spiritual plane above it.[4] And as the vibrations cause a denser form on the lower plane, so do they generate a far subtler form—dare I call it form? it is no form to us—on the higher, in the akasha, the world-stuff emanated from the LOGOS Itself. The akasha is the storehouse of all forms, the treasure house [26] whereinto are poured—from the infinite wealth of the Universal Mind—the rich stores of all the Ideas that are to be bodied forth in a given cosmos; thereinto also enter the vibrations from the cosmos—from all the thoughts of all intelligences, from all the desires of all kamic entities, from all the actions performed on every plane by all forms. All these make their respective impressions, the to us formless, but to lofty spiritual intelligences the formed, images of all happenings, and these akashic images—as we will henceforth call them—abide for evermore, and are the true karmic records, the Book of the Lipika,[5] that may be read by any who possess the “opened eye of Dangma.” [6] It is the reflection of these akashic images that may be thrown upon the screen of astral matter by the action of the trained attention—as a picture may be thrown on a screen from a slide in a magic-lantern—so that a scene from the past may be reproduced in all its living reality, correct in every detail of its far-off happening; for in the akashic records it exists, imprinted there once for all, and a fleeting living picture of any page of these records can be made at pleasure, dramatized on the astral [27] plane, and lived in by the trained Seer. If this imperfect description be followed by the reader, he will be able to form for himself some faint idea of karma in its aspect as cause. In the akasha will be pictured the mental image created by a soul, inseparable from it; then the astro-mental image produced by it, the active ensouled creature, ranging the astral plane and producing innumerable effects, all accurately pictured in connection with it, and, therefore, traceable to it and through it to its parent, each such thread—spun as it were out of its own substance by the astro-mental image, as a spider spins its web—being recognizable by its own shade of colour; and however many such threads may be woven into an effect, each thread is distinguishable and is traceable to its original forth-giver, the soul that generated the mental image. Thus, for our clumsy earth-bound intelligences, in miserably inadequate language, we may figure forth the way in which individual responsibility is seen at a glance by the great Lords of karma, the administrators of karmic law; the full responsibility of the soul for the mental image it creates, and the partial responsibility for its far-reaching effects, greater or less as each effect has other karmic threads entering into its causation. Thus also may we understand why [28] motive plays a part so predominant in the working out of karma, and why actions are so relatively subordinate in their generative energy; why karma works out on each plane according to its constituents, and yet links the planes together by the continuity of its thread. | Các rung động của ảnh tượng trí tuệ không chỉ đi xuống cõi cảm dục thấp hơn, mà chúng còn đi lên vào cõi tinh thần phía trên nó. Và khi các rung động tạo ra một hình dạng đậm đặc hơn trên cõi thấp hơn, chúng cũng tạo ra một hình dạng tinh tế hơn nhiều—tôi dám gọi nó là hình dạng không? nó không phải là hình dạng đối với chúng ta—trên cõi cao hơn, trong akasha, vật chất thế giới được xuất lộ từ Thượng đế. Akasha là kho lưu trữ của tất cả các hình dạng, kho báu [26] nơi mà từ sự giàu có vô hạn của Trí tuệ Vũ trụ—các kho báu phong phú của tất cả các Ý tưởng sẽ được thể hiện trong một vũ trụ nhất định; nơi đó cũng đi vào các rung động từ vũ trụ—từ tất cả các ý nghĩ của tất cả các trí tuệ, từ tất cả các dục vọng của tất cả các thực thể kamic, từ tất cả các hành động được thực hiện trên mọi cõi bởi tất cả các hình dạng. Tất cả những điều này tạo ra các ấn tượng tương ứng của chúng, đối với chúng ta là vô hình, nhưng đối với các trí tuệ tinh thần cao cả là các hình dạng, hình ảnh của tất cả các sự kiện, và những hình ảnh akashic này—như chúng ta sẽ gọi chúng từ nay trở đi—tồn tại mãi mãi, và là các bản ghi nghiệp quả thực sự, Sách của Lipika, có thể được đọc bởi bất kỳ ai sở hữu “con mắt mở của Dangma.” Đó là sự phản chiếu của những hình ảnh akashic này có thể được chiếu lên màn hình của vật chất cảm dục bằng hành động của sự chú ý được huấn luyện—như một bức tranh có thể được chiếu lên màn hình từ một slide trong một đèn lồng ma thuật—để một cảnh từ quá khứ có thể được tái hiện trong tất cả sự sống động của nó, chính xác trong mọi chi tiết của sự kiện xa xưa của nó; vì trong các bản ghi akashic nó tồn tại, được in vào đó một lần cho tất cả, và một bức tranh sống động thoáng qua của bất kỳ trang nào trong những bản ghi này có thể được tạo ra theo ý muốn, được kịch hóa trên cõi cảm dục [27] và sống trong đó bởi nhà Tiên tri được huấn luyện. Nếu mô tả không hoàn hảo này được người đọc theo dõi, y sẽ có thể tự mình hình thành một ý tưởng mờ nhạt về nghiệp quả trong khía cạnh của nó như là nguyên nhân. Trong akasha sẽ được hình ảnh hóa ảnh tượng trí tuệ được tạo ra bởi một linh hồn, không thể tách rời khỏi nó; sau đó là hình ảnh cảm dục-trí tuệ được tạo ra bởi nó, sinh vật phú linh hoạt động, di chuyển trên cõi cảm dục và tạo ra vô số hiệu ứng, tất cả đều được hình ảnh hóa chính xác liên quan đến nó, và do đó, có thể truy nguyên đến nó và thông qua nó đến cha mẹ của nó, mỗi sợi chỉ như vậy—như thể được quay ra từ chính chất liệu của nó bởi hình ảnh cảm dục-trí tuệ, như một con nhện quay tơ—có thể nhận biết được bằng sắc thái màu sắc riêng của nó; và dù có bao nhiêu sợi chỉ như vậy được dệt thành một hiệu ứng, mỗi sợi chỉ đều có thể phân biệt được và có thể truy nguyên đến người ban đầu của nó, linh hồn đã tạo ra ảnh tượng trí tuệ. Do đó, đối với trí tuệ bị ràng buộc bởi trái đất của chúng ta, trong ngôn ngữ vô cùng không đầy đủ, chúng ta có thể hình dung cách mà trách nhiệm cá nhân được nhìn thấy ngay lập tức bởi các Chúa tể vĩ đại của nghiệp quả, những người quản lý định luật nghiệp quả; trách nhiệm đầy đủ của linh hồn đối với ảnh tượng trí tuệ mà nó tạo ra, và trách nhiệm một phần đối với các hiệu ứng lan rộng của nó, lớn hơn hoặc nhỏ hơn khi mỗi hiệu ứng có các sợi chỉ nghiệp quả khác tham gia vào nguyên nhân của nó. Do đó, chúng ta cũng có thể hiểu tại sao [28] động cơ đóng vai trò quan trọng như vậy trong việc thực hiện nghiệp quả, và tại sao các hành động lại tương đối phụ thuộc trong năng lượng tạo ra của chúng; tại sao nghiệp quả hoạt động trên mỗi cõi theo các thành phần của nó, và vẫn liên kết các cõi với nhau bằng sự liên tục của sợi chỉ của nó. |
When the illuminating concepts of the wisdom-religion shed their flood of light over the world, dispersing its obscurity and revealing the absolute justice which is working under all the apparent incongruities, inequalities and accidents of life, is it any wonder that our hearts should go out in gratitude unspeakable to the Great Ones—blessed be they!—who hold up the torch of truth in the murky darkness, and free us from the tension that was straining us to breaking point, the helpless agony of witnessing wrongs that seemed irremediable, the hopelessness of justice, the despair of love? | Khi các khái niệm chiếu sáng của tôn giáo minh triết chiếu sáng dòng ánh sáng của chúng trên thế giới, xua tan sự mờ mịt của nó và tiết lộ sự công bằng tuyệt đối đang hoạt động dưới tất cả những điều không phù hợp, bất bình đẳng và tai nạn của cuộc sống, có phải là điều kỳ diệu khi trái tim của chúng ta nên tràn ngập lòng biết ơn không thể diễn tả đối với Các Đấng Cao Cả—phúc lành cho họ!—những người giữ ngọn đuốc của sự thật trong bóng tối mờ mịt, và giải phóng chúng ta khỏi sự căng thẳng đang làm chúng ta căng thẳng đến mức đứt gãy, sự đau khổ bất lực khi chứng kiến những sai trái dường như không thể khắc phục, sự tuyệt vọng của công lý, sự tuyệt vọng của tình yêu? |
Ye are not bound! the Soul of Things is sweet, | Các bạn không bị ràng buộc! Linh hồn của Vạn Vật là ngọt ngào, |
The Heart of Being is celestial rest; Stronger than Woe is will: that which was Good | Trái tim của Sự Sống là sự nghỉ ngơi thiên đàng; Mạnh mẽ hơn Khổ đau là ý chí: điều đã là Tốt |
Doth pass to Better—Best. | Sẽ chuyển sang Tốt hơn—Tốt nhất. |
Such is the Law which moves to righteousness, Which none at last can turn aside or stay; | Đó là Định luật di chuyển đến sự công chính, Mà không ai cuối cùng có thể quay đi hoặc ngăn chặn; |
The heart of it is Love, the end of it | Trái tim của nó là Tình yêu, kết thúc của nó |
Is Peace and Consummation sweet. Obey. [29] | Là Hòa bình và Hoàn thành ngọt ngào. Hãy vâng lời. [29] |
We may perhaps gain in clearness if we tabulate the threefold results of the activity of the Soul that go to the making up of karma as cause, regarded in principle rather than in detail. Thus we have during a life-period: | Chúng ta có thể có lẽ đạt được sự rõ ràng hơn nếu chúng ta liệt kê các kết quả ba mặt của hoạt động của Linh hồn tạo nên nghiệp quả như là nguyên nhân, được xem xét theo nguyên tắc hơn là chi tiết. Do đó, chúng ta có trong suốt một chu kỳ sống: |

The results of these will be tendencies, capacities, activities, opportunities, environment, etc., chiefly in future life-periods, worked out in accordance with definite laws. | Kết quả của những điều này sẽ là xu hướng, khả năng, hoạt động, cơ hội, môi trường, v.v., chủ yếu trong các chu kỳ sống tương lai, được thực hiện theo các định luật định rõ ràng. |
Lucifer, October 1892, art. “Life and Death.” ↑
See Chapter: THE GENERATION OF THOUGHT FORMS ↑
See Chapter: THE GENERATION OF THOUGHT FORMS, and also diagram, p. 6. ↑
These words downwards and upwards are very misleading; the planes of course interpenetrate each other. ↑
The Secret Doctrine, i, 157-159. ↑
Ibid., stanza i, of the Book of Dzyan, and see Conclusion. ↑