10. Luật Nhân Quả—Uốn Nắn Nghiệp Quả

10. Moulding Karma

The man who has set himself deliberately to build the future will realize, as his knowledge increases, that he can do more than mould his own character, thus making his future destiny. He begins to understand that he is at the centre of things in a very real sense, a living, active, self-determining being, and that he can act upon circumstances as well as upon himself. He has long been accustoming himself to follow the great ethical laws, laid down for the guidance of humanity by the Divine Teachers, who have been born from age to age, and he now grasps the fact that these laws are based on fundamental principles in Nature, and that morality is Science applied to conduct. He sees that in his [63] daily life he can neutralize the ill results that would follow from some ill deed, by bringing to bear upon the same point a corresponding force for good. A man sends against him an evil thought; he might meet it with another of its own kind, and then the two thought-forms, running together like two drops of water, would be reinforced, strengthened, each by each. But this one against whom the evil thought is flying is a knower of karma, and he meets the malignant form with the force of compassion and shatters it; the broken form can no longer be ensouled with elemental life; the life melts back to its own, the form disintegrates; its power for evil is thus destroyed by compassion, and “hatred ceases by love”. Delusive forms of falsehood go forth into the astral world; the man of knowledge sends against them forms of truth; purity breaks up foulness, and charity selfish greed. As knowledge increases, this action becomes direct and purposive, the thought is aimed with definite intent, winged with potent will. Thus evil karma is checked in its very inception, and naught is left to make a karmic tie between the one who shot a shaft of injury and the one who burned it up by pardon. The Divine Teachers, who spoke as men having authority on the duty of overcoming evil with good, based their [64] precepts on their knowledge of the law; Their followers who obey without fully seeing the scientific foundation of the precept, lessen the heavy karma that would be generated if they answered hate with hate. But men of knowledge deliberately destroy the evil forms, under­standing the facts on which the teaching of the Masters has ever been based, and sterilizing the seed of evil, they prevent a future harvest of pain.

Người đã quyết tâm xây dựng tương lai cho chính mình sẽ nhận ra, khi tri kiến của y tăng trưởng, rằng y có thể làm nhiều hơn cả việc uốn nắn tính cách của bản thân, qua đó tạo nên định mệnh tương lai. Y bắt đầu hiểu rằng y thực sự là trung tâm của mọi sự, là một sinh thể sống động, chủ động, và tự quyết, rằng y có thể tác động lên hoàn cảnh cũng như lên chính mình. Lâu nay y đã quen với việc tuân theo các định luật đạo đức lớn lao được ban ra để dẫn dắt nhân loại bởi các Bậc Thầy Thiêng Liêng, Những Đấng đã giáng sinh qua các thời đại, và giờ đây y nắm bắt được rằng các định luật ấy dựa trên những nguyên lý nền tảng trong Thiên Nhiên, và rằng đạo đức chính là Khoa học được áp dụng vào hành vi. Y nhận ra rằng trong [63] đời sống hằng ngày, y có thể trung hòa những kết quả xấu có thể phát sinh từ một hành vi xấu nào đó, bằng cách mang lại ngay tại điểm đó một mãnh lực tương ứng cho điều thiện. Một người phát ra một tư tưởng xấu nhắm vào y; y có thể đáp lại bằng một tư tưởng cùng loại, và rồi hai hình tư tưởng, như hai giọt nước hoà vào nhau, sẽ được củng cố, được gia tăng sức mạnh bởi nhau. Nhưng người bị tư tưởng xấu bay đến này là một người hiểu biết về nghiệp quả, và y đáp lại hình thể độc hại bằng mãnh lực của lòng bi mẫn và phá tan nó; hình thể bị phá vỡ ấy không thể còn được phú linh bởi sự sống hành khí; sự sống đó tan trở về với chính mình, hình thể tan rã; quyền năng gây hại của nó vì thế bị tiêu trừ bởi lòng bi mẫn, và “hận thù chấm dứt bởi tình thương”. Những hình thể ảo tưởng của gian dối tung ra trong thế giới cảm dục; người có tri thức sẽ gửi đến chống lại chúng những hình thể của sự thật; sự trong sạch phá tan sự ô uế, và lòng từ bi phá tan sự tham lam vị kỷ. Khi tri kiến tăng trưởng, hành động này trở nên trực tiếp và có chủ đích, tư tưởng được nhắm tới với ý định rõ ràng, được chắp cánh bằng ý chí đầy quyền năng. Như thế, nghiệp xấu bị chặn ngay từ lúc mới sinh khởi, và không còn gì tạo nên mối dây nghiệp quả giữa người đã bắn mũi tên tổn hại và người đã thiêu rụi nó bằng sự tha thứ. Các Đấng Thầy Thiêng Liêng, Những Vị đã nói như những người có uy quyền về bổn phận phải lấy thiện thắng ác, đã đặt [64] những lời giáo huấn của Các Ngài trên nền tảng tri kiến về định luật; những môn đệ của Các Ngài, dù tuân theo mà chưa thật sự thấy được nền tảng khoa học của lời dạy ấy, vẫn làm nhẹ đi nghiệp nặng đáng lẽ sẽ được tạo ra nếu họ đáp lại hận thù bằng hận thù. Nhưng những người có tri kiến sẽ chủ động phá huỷ các hình thể xấu ác, hiểu rõ những sự thật làm nền tảng cho giáo huấn của các Bậc Thầy từ trước đến nay, và bằng cách triệt tiêu hạt giống của điều ác, họ ngăn chặn một mùa gặt đau thương trong tương lai.

At a stage which is comparatively advanced in com­parison with that of the slowly drifting, average humanity, a man will not only build his own character and work with deliberate intent on the thought-forms that come in his way, but he will begin to see the past and thus more accurately to gauge the present, tracing karmic causes onwards to their effects. He becomes able to modify the future by consciously setting forces to work, designed to interact with others already in motion. Knowledge enables him to utilize law with the same certainty with which scientists utilize it in every department of Nature.

Ở một giai đoạn được xem là tương đối tiến bộ so với trình độ trôi dạt chậm chạp của nhân loại trung bình, một người không chỉ xây dựng tính cách của chính mình và hành động một cách có chủ đích lên các hình tư tưởng mà y gặp phải, mà y sẽ bắt đầu thấy được quá khứ, từ đó đánh giá hiện tại một cách chính xác hơn, lần theo các nguyên nhân nghiệp quả đến tận các kết quả của chúng. Y trở nên có khả năng cải biến tương lai bằng cách chủ ý tạo nên những mãnh lực để tương tác với các mãnh lực khác đang hoạt động. Tri kiến cho phép y sử dụng định luật với sự chắc chắn giống như các nhà khoa học vận dụng định luật ấy trong mọi lĩnh vực của Thiên Nhiên.

Let us pause for a moment to consider the laws of motion. A body has been set in motion, and is moving along a definite line; if another force be brought to bear upon it, differing in direction from the one that gave it its initial impulse, the body will move [65] along another line—a line compounded of the two impulses; no energy will be lost, but part of the force which gave the initial impulse will be used up in partially counteracting the new, and the resultant direction along which the body will move will be that neither of the first force nor of the second, but of the interplay of the two. A physicist can calculate exactly at what angle he must strike a moving body in order to cause it to move in a desired direction, and although the body itself may be beyond his immediate reach, he can send after it a force of calculated velocity to strike it at a definite angle, thus deflecting it from its previous course, and impelling it along a new line. In this there is no violation of law, no interference with law; only the utilization of law by knowledge, the bending of natural forces to accomplish the purpose of the human will. If we apply this principle to the moulding of karma, we shall readily see—apart from the fact that law is inviolable—that there is no “inter­ference with karma”, when we modify its action by knowledge. We are using karmic force to affect karmic results, and once more we conquer Nature by obedience.

Chúng ta hãy dừng lại một chút để xét đến các định luật về chuyển động. Một vật thể đã được tạo chuyển động, và đang di chuyển theo một đường xác định; nếu một mãnh lực khác được đưa vào tác động lên nó, theo một hướng khác với hướng đã tạo nên xung lực ban đầu, vật thể sẽ chuyển [65] sang một đường khác—một đường hợp thành từ hai xung lực; không năng lượng nào bị mất, nhưng một phần của mãnh lực tạo nên xung lực ban đầu sẽ bị tiêu hao trong việc phản kháng một phần với mãnh lực mới, và hướng chuyển động kết quả của vật thể sẽ không phải là hướng của lực đầu tiên cũng không phải của lực thứ hai, mà là của sự tương tác giữa cả hai. Một nhà vật lý có thể tính toán chính xác góc mà y phải tác động vào một vật thể đang di chuyển để khiến nó đi theo hướng mong muốn, và dù vật thể ấy có thể nằm ngoài tầm tay trực tiếp của y, y vẫn có thể gửi theo sau nó một mãnh lực với vận tốc đã được tính toán để tác động lên nó ở một góc xác định, nhờ đó làm lệch hướng chuyển động trước đó của nó, và khiến nó đi theo một đường mới. Trong việc này không hề có sự vi phạm luật, không có sự can thiệp vào luật; chỉ có sự sử dụng luật nhờ vào tri kiến, là sự uốn nắn các mãnh lực tự nhiên để thực hiện ý chí con người. Nếu chúng ta áp dụng nguyên lý này vào việc uốn nắn nghiệp quả, chúng ta sẽ dễ dàng thấy được—ngoài việc định luật là bất khả vi phạm—rằng không hề có “can thiệp vào nghiệp quả” khi chúng ta điều chỉnh tác động của nó bằng tri kiến. Chúng ta đang dùng mãnh lực nghiệp quả để tác động lên các kết quả nghiệp quả, và một lần nữa chúng ta chinh phục Thiên Nhiên bằng sự vâng phục.

Let us now suppose that the advanced student, glanc­ing backwards over the past, sees lines of past karma [66] converging to a point of action of an undesirable kind; he can introduce a new force among the converging energies, and so modify the event, which must be the resultant of all the forces concerned in its generation and ripening. For such action he requires knowledge, not only the power to see the past and to trace the lines which connect it with the present, but also to cal­culate exactly the influence that the force he introduces will exercise as modifying the resultant, and further the effects that will flow from this resultant considered as cause. In this way he may lessen or destroy the results of evil wrought by himself in the past, by the good forces he pours forth into his karmic stream; he cannot undo the past, he cannot destroy it, but so far as its effects are still in the future he can modify them or reverse them, by the new forces he brings to bear as causes taking part in their production. In all this he is merely utilizing the law, and he works with the certainty of the scientist, who balances one force against another and, unable to destroy a unit of energy, can yet make a body move as he will by a calculation of angles and of movements. Similarly karma may be accelerated or delayed, and thus again will undergo modification by the action of the surroundings amid which it is worked out. [67]

Giờ đây, hãy giả sử rằng người đạo sinh tiến bộ, khi nhìn lại quá khứ, thấy các dòng nghiệp quả [66] hội tụ vào một điểm hành động có tính chất không mong muốn; y có thể đưa một mãnh lực mới vào giữa các năng lượng hội tụ ấy, và như vậy điều chỉnh sự kiện vốn là kết quả hợp thành từ tất cả các mãnh lực tham dự vào sự sinh thành và chín muồi của nó. Để làm được điều này, y cần có tri kiến—không chỉ là khả năng thấy được quá khứ và lần theo các đường dây nối nó với hiện tại, mà còn phải tính toán chính xác ảnh hưởng mà mãnh lực y đưa vào sẽ tác động như thế nào lên kết quả tổng hợp, và thêm nữa là các kết quả sẽ phát sinh từ kết quả ấy khi được xem như một nguyên nhân. Bằng cách này, y có thể làm giảm nhẹ hoặc triệt tiêu các kết quả của điều ác do chính mình gây ra trong quá khứ, bằng các mãnh lực thiện lành mà y tuôn đổ vào dòng nghiệp quả của mình; y không thể xóa bỏ quá khứ, y không thể tiêu hủy nó, nhưng trong chừng mực mà các hiệu quả của nó vẫn còn ở phía trước, y có thể điều chỉnh hoặc đảo ngược chúng bằng các mãnh lực mới mà y mang đến như các nguyên nhân cùng tham gia vào sự hình thành kết quả. Trong tất cả những điều này, y chỉ đơn thuần đang vận dụng định luật, và y hành động với sự chắc chắn của một nhà khoa học, người cân bằng một mãnh lực với mãnh lực khác và, dù không thể tiêu huỷ một đơn vị năng lượng nào, vẫn có thể khiến một vật thể di chuyển theo ý muốn nhờ việc tính toán các góc và các chuyển động. Cũng như vậy, nghiệp quả có thể được gia tốc hoặc trì hoãn, và do đó một lần nữa sẽ trải qua sự điều chỉnh nhờ vào tác động của môi trường nơi nó được thực hiện. [67]

Let us put the same thing again a little differently, for the conception is an important and a fruitful one. As knowledge grows, it becomes easier and easier to get rid of the karma of the past. Inasmuch as causes which are working out to their accomplishment, all come within the sight of the soul which is approaching its liberation, as it looks back over past lives, as it glances down the vista of centuries along which it has been slowly climbing, it is able to see there the way in which its bonds were made, the causes which it set in motion: it is able to see how many of those causes have worked themselves out and are exhausted, how many of those causes are still working themselves out. It is able not only to look backwards but also to look forwards and see the effects these causes will produce; so that, glancing in front, the effects that will be produced are seen, and glancing behind, the causes that will bring about these effects are also visible. There is no difficulty in the supposition that just as you find in ordinary physical nature that knowledge of certain laws enables us to predict a result, and to see the law that brings that result about, so we can transfer this idea on to a higher plane, and can imagine a condition of the developed soul, in which it is able to see the karmic causes that it has set going behind [68] it, and also the karmic effects through which it has to work in the future.

Chúng ta hãy trình bày điều này theo một cách khác, vì đây là một quan niệm quan trọng và đầy kết quả. Khi tri kiến tăng trưởng, việc giải trừ nghiệp quả quá khứ trở nên dễ dàng hơn. Vì các nguyên nhân đang hoạt động để đi đến thành quả đều nằm trong tầm nhìn của linh hồn đang tiến gần đến sự giải thoát, khi nó nhìn lại các đời sống đã qua, khi nó nhìn xuống viễn cảnh của những thế kỷ mà nó đã từ từ vượt lên, nó có thể thấy cách thức các xiềng xích đã được tạo ra, những nguyên nhân mà nó đã khởi động: nó có thể thấy bao nhiêu nguyên nhân trong số đó đã hoàn tất và cạn kiệt, bao nhiêu nguyên nhân đang tiếp tục vận hành. Nó không chỉ có khả năng nhìn về phía sau mà còn nhìn về phía trước và thấy được các kết quả mà những nguyên nhân ấy sẽ tạo ra; vậy là, nhìn về phía trước, các kết quả sẽ được thấy; nhìn về phía sau, các nguyên nhân tạo ra kết quả ấy cũng hiển hiện. Không có gì khó khăn trong giả định rằng, cũng giống như trong thế giới vật lý thông thường, hiểu biết về một số định luật cho phép chúng ta dự đoán một kết quả, và thấy được định luật tạo ra kết quả ấy, thì chúng ta cũng có thể chuyển ý niệm này lên một bình diện cao hơn, và có thể hình dung ra một trạng thái của linh hồn đã phát triển, trong đó nó có khả năng thấy được các nguyên nhân nghiệp quả mà nó đã khởi động phía sau [68] mình, cũng như các kết quả nghiệp quả mà nó phải vận hành thông qua trong tương lai.

With such a knowledge of causes, and a vision of their working out, it is possible to introduce fresh causes to neutralize these effects, and by utilizing the law, and by relying absolutely on its unchanging and unvarying character, and by a careful calculation of the force set going, to make the effects in the future those which we desire. That is a mere matter of calculation. Suppose vibrations of hatred have been set going in the past, we can deliberately set to work to quench these vibrations, and to prevent their working out into the present and future, by setting up against them vibrations of love. Just in the same way as we can take a wave of sound, and then a second wave, and setting the two going one slightly after the other, so that the vibrations of the denser part of the one shall correspond to the rarer part of the other, and thus out of sounds we can make silence by interference, so in the higher regions it is possible by love and hate vibrations, used by knowledge and controlled by will, to bring karmic causes to an ending and so to reach equilibrium, which is another word for liberation. That knowledge is beyond the reach of the enormous majority. What the majority can do is this, if they [69] choose to utilize the science of the soul, they may take the evidence of experts on this subject, they may take the moral precepts of the great religious Teachers of the world, and by obedience to these precepts—to which their intuition responds although they may not understand the method of their working—they may effect in the doing that which also may be effected by distinct and deliberate knowledge. So devotion and obedience to a Teacher may work towards liberation as knowledge might other­wise do.

Với tri kiến về các nguyên nhân như vậy, và tầm nhìn về sự vận hành của chúng, có thể đưa vào những nguyên nhân mới để trung hoà các kết quả ấy, và bằng cách vận dụng định luật, bằng cách tuyệt đối tín thác vào đặc tính bất biến và không thay đổi của định luật, và bằng sự tính toán cẩn trọng các mãnh lực được khởi động, có thể làm cho các kết quả trong tương lai trở thành những gì chúng ta mong muốn. Đó chỉ là một vấn đề của sự tính toán. Giả sử những dao động của hận thù đã được khởi động trong quá khứ, chúng ta có thể chủ ý bắt tay vào việc dập tắt những dao động đó, và ngăn chặn chúng phát ra thành hiện tại và tương lai, bằng cách phát ra đối kháng với chúng các dao động của tình thương. Cũng giống như chúng ta có thể lấy một làn sóng âm thanh, rồi một làn sóng thứ hai, và khởi động cả hai, cách nhau một chút, sao cho phần đậm đặc của sóng này trùng với phần thưa của sóng kia, nhờ đó từ âm thanh chúng ta tạo ra sự im lặng bằng sự triệt tiêu giao thoa, thì cũng vậy, trong các cõi cao hơn, có thể bằng các dao động của tình thương và thù hận—khi được vận dụng bằng tri kiến và kiểm soát bởi ý chí—đưa các nguyên nhân nghiệp quả đến sự kết thúc, và như vậy đạt đến sự quân bình, vốn là một cách nói khác của giải thoát. Tri kiến đó vượt ngoài tầm với của đại đa số. Điều mà đa số có thể làm là: nếu họ [69] muốn vận dụng khoa học của linh hồn, họ có thể chấp nhận lời chứng của các bậc chuyên gia về đề tài này, họ có thể tuân theo các lời dạy đạo đức của các Bậc Thầy Tôn giáo vĩ đại của thế giới, và bằng sự vâng phục các lời dạy ấy—mà trực giác của họ sẽ phản hồi dù họ chưa hiểu được phương pháp vận hành của nó—họ có thể thực hiện được trong hành động điều mà cũng có thể đạt được qua tri kiến minh bạch và có chủ đích. Như vậy, lòng tận hiến và sự vâng phục đối với một Vị Thầy có thể dẫn đến giải thoát như tri kiến vẫn có thể làm.

Applying these principles in every direction the student will begin to realize how man is handicapped by ignorance, and how great is the part played by knowl­edge in human evolution. Men drift because they do not know; they are helpless because they are blind; the man who would finish his course more rapidly than will the common mass of men, who would leave the slothful crowd behind “as the racer leaves the hack”, he needs wisdom as well as love, knowledge as well as devotion. There is no need for him to wear out slowly the links of chains forged long ago; he can file them swiftly through, and be rid of them as effectively as though they slowly rusted away to set him free. [70]

Khi áp dụng các nguyên lý này vào mọi phương diện, người đạo sinh sẽ bắt đầu nhận ra con người đã bị trói buộc bởi vô minh như thế nào, và tri kiến giữ vai trò lớn lao ra sao trong sự tiến hóa của nhân loại. Con người trôi dạt vì họ không biết; họ bất lực vì họ mù lòa; người nào muốn hoàn tất cuộc hành trình của mình nhanh hơn đám đông chậm chạp, người nào muốn bỏ lại phía sau những kẻ lười nhác “như người đua vượt qua kẻ phi nước kiệu”, thì người ấy cần có minh triết cũng như tình thương, tri kiến cũng như tận hiến. Y không cần phải mòn mỏi gỡ từng mắt xích của những xiềng xích đã rèn từ lâu; y có thể cắt đứt chúng nhanh chóng, và thoát khỏi chúng một cách hữu hiệu như thể chúng đã tự gỉ sét và mòn đi để giải phóng y. [70]

Leave a Comment

Scroll to Top