11. The Ceasing of Karma
Karma brings us ever back to rebirth, binds us to the wheel of births and deaths. Good karma drags us back as relentlessly as bad, and the chain which is wrought out of our virtues holds as firmly and as closely as that forged from our vices. How then shall the weaving of the chain be put an end to, since man must think and feel as long as he lives, and thoughts and feelings are ever generating karma? The answer to this is the great lesson of the Bhagavad Gita, the lesson taught to the warrior prince. Neither to hermit nor to student was that lesson given, but to the warrior striving for victory, the prince immersed in the duties of his state. | Nghiệp quả luôn đưa chúng ta trở lại vòng tái sinh, trói buộc chúng ta vào bánh xe sinh tử. Nghiệp tốt cũng kéo chúng ta trở lại một cách không khoan nhượng như nghiệp xấu, và sợi xích được rèn từ các đức hạnh của chúng ta giữ chặt và chắc không kém gì sợi xích được rèn từ các tật xấu. Vậy làm thế nào để việc đan dệt sợi xích ấy được chấm dứt, khi con người phải nghĩ và cảm suốt thời gian còn sống, và tư tưởng cùng cảm xúc thì luôn tạo ra nghiệp quả? Câu trả lời cho điều này chính là bài học vĩ đại trong Bhagavad Gita, bài học được truyền dạy cho vị hoàng tử chiến binh. Bài học ấy không dành cho ẩn sĩ hay đạo sinh, mà cho người chiến binh đang phấn đấu giành chiến thắng, cho vị vương tử đang đắm mình trong bổn phận trị quốc. |
Not in action but in desire, not in action but in attachment to its fruit, lies the binding force of action. An action is performed with desire to enjoy its fruit, a course is adopted with desire to obtain its results; the soul is expectant and Nature must reply to it, it has demanded and Nature must award. To every cause is bound its effect, to every action its fruit, and desire is the cord that links them together, the thread that runs between. If this could be burned up the connection would cease, and when all the bonds of the heart [71] are broken the soul is free. Karma can then no longer hold it; karma can then no longer bind it; the wheel of cause and effect may continue to turn, but the soul has become the liberated Life. | Không phải trong hành động, mà là trong dục vọng; không phải trong hành động, mà là trong sự chấp thủ kết quả, mới là lực ràng buộc của hành động. Một hành động được thực hiện với lòng ham muốn được hưởng kết quả; một lộ trình được chọn với mong cầu đạt lấy thành quả; linh hồn chờ đợi, và Thiên Nhiên phải hồi đáp lại; nó đã đòi hỏi, và Thiên Nhiên phải ban phát. Với mỗi nguyên nhân luôn đi kèm một kết quả, với mỗi hành động một quả báo, và dục vọng là sợi dây nối kết chúng lại, là sợi chỉ chạy giữa hai đầu. Nếu sợi chỉ này có thể bị đốt cháy thì mối liên kết sẽ chấm dứt, và khi tất cả các mối dây của con tim [71] bị phá vỡ, linh hồn sẽ được tự do. Khi ấy nghiệp quả không còn có thể níu giữ nó; nghiệp quả không còn có thể trói buộc nó; bánh xe nhân quả có thể tiếp tục quay, nhưng linh hồn đã trở thành Sự Sống được giải thoát. |
Without attachment, constantly perform action which is duty, for performing action without attachment, man verily reacheth the Supreme.[1] | Hãy hành động không chấp thủ, không ngừng nghỉ, với bổn phận là động cơ, vì người hành động không chấp thủ quả báo thực sự sẽ đạt đến Đấng Tối Cao. |
To perform this karma-yoga—yoga of action—as it is called, man must perform every action merely as duty, doing all in harmony with the Law. Seeking to conform to the Law on any plane of being on which he is busied, he aims at becoming a force working with the Divine Will for evolution, and yields a perfect obedience in every phase of his activity. Thus all his actions partake of the nature of sacrifice, and are offered for the turning of the Wheel of the Law, not for any fruit that they may bring; the action is performed as duty, the fruit is joyfully given for the helping of men; he has no concern with it, it belongs to the Law, and to the Law he leaves it for distribution. | Để thực hành karma-yoga—yoga của hành động—như người ta gọi, con người phải thực hiện mọi hành động chỉ như là bổn phận, làm mọi việc trong sự hoà điệu với Định Luật. Tìm cách điều chỉnh với Định Luật trên bất kỳ cõi hiện tồn nào mà y đang hoạt động, y nhắm đến việc trở thành một mãnh lực cộng tác với Thiên Ý trong tiến hoá, và hoàn toàn tuân phục trong mọi khía cạnh hành vi của mình. Do đó, tất cả hành động của y mang bản chất của sự hy sinh, và được hiến dâng để vận hành Bánh Xe của Định Luật, chứ không vì bất kỳ kết quả nào mà chúng có thể mang lại; hành động được thực hiện như một bổn phận, kết quả của nó được hoan hỷ trao đi vì sự giúp đỡ cho nhân loại; y không màng đến thành quả ấy, nó thuộc về Định Luật, và y để lại nó cho Định Luật phân phối. |
And so we read: | Và như vậy, ta đọc thấy: |
Whose works are all free from the moulding of desire, whose actions are burned up by the fire of wisdom, he is called a Sage by the spiritually wise. | Ai thực hiện mọi hành động không bị khuôn đúc bởi dục vọng, ai có hành động được thiêu rụi bởi lửa của minh triết, thì người đó được những người có tâm linh gọi là một Bậc Hiền Triết. |
[72]Having abandoned all attachment to the fruit of action, always content, seeking refuge in none, although doing actions, he, is not doing anything. | Ai đã từ bỏ mọi chấp thủ vào kết quả hành động, luôn luôn mãn nguyện, không tìm nơi nương tựa nào, dù đang hành động, nhưng thực ra không làm gì cả. |
Free from desire, his thoughts controlled by the SELF, having abandoned all attachment, performing action by the body alone, he doth not commit sin. | Không có dục vọng, tâm tư được điều khiển bởi Chân Ngã, đã từ bỏ mọi ràng buộc, hành động chỉ bằng thân thể, người ấy không tạo nghiệp xấu. |
Content with whatsoever he receiveth, free from the pairs of opposites, without envy, balanced in success and failure, though he hath acted he is not bound; | Hài lòng với bất cứ điều gì mình nhận được, thoát khỏi hai cực đối đãi, không ganh ghét, quân bình trong thành công và thất bại—dù hành động nhưng không bị trói buộc; |
For with attachment dead, harmonious, his thoughts established in wisdom, his works, sacrifices, all his actions melt away.[2] | Vì khi sự chấp thủ đã chết, hài hoà, tư tưởng được an trụ trong minh triết, mọi hành động của y, các lễ hiến dâng, tất cả tan biến đi. |
Body and mind work out their full activities; with the body all bodily action is performed, with the mind all mental; but the SELF remains serene, untroubled, lending not of its eternal essence to forge the chains of time. Right action is never neglected, but is faithfully performed to the limit of the available power, renunciation of attachment to the fruit not implying any sloth or carelessness in acting: | Thân thể và thể trí vẫn hành xử đầy đủ các chức năng; với thân thể, mọi hành động thể chất được thực hiện; với thể trí, mọi hành động trí tuệ; nhưng CHÂN NGÃ vẫn an nhiên, không xao động, không đem bản chất vĩnh cửu của mình để rèn nên những sợi xích của thời gian. Hành động chân chánh không bao giờ bị bỏ quên, mà được thực hiện một cách trung thành trong giới hạn năng lực hiện hữu; sự xả bỏ chấp thủ kết quả không hề bao hàm sự lười biếng hay cẩu thả trong hành động: |
As the ignorant act from attachment to action, O Bharata, so should the wise act without attachment, desiring the maintenance of mankind. | Như người vô minh hành động với sự chấp thủ, hỡi Bharata, thì bậc trí giả cũng nên hành động không chấp thủ, với mục đích duy trì trật tự nhân loại. |
Let no wise man unsettle the mind of ignorant people attached to action: but acting in harmony (with Me) let him render all action attractive.[3] | Không một bậc trí giả nào nên làm rối loạn tâm trí của những người vô minh vốn còn chấp thủ vào hành động: mà hãy hành động hoà điệu (với Ta), khiến cho mọi hành động trở nên hấp dẫn. |
The man who reaches this state of “inaction in action”, has learned the secret of the ceasing of karma: he destroys by knowledge the action he has generated [73] in the past, he burns up the action of the present by devotion. Then it is that he attains the state spoken of by “John the divine” in Revelation, in which the man goeth no more out of the Temple. For the soul goes out of the Temple many and many a time into the plains of life, but the time arrives when he becomes a pillar, “a pillar in the Temple of my God”; that Temple is the universe of liberated souls, and only those who are bound to nothing for themselves can be bound to everyone in the name of the One Life. | Người đạt đến trạng thái “vô hành trong hành” này đã học được bí mật của sự chấm dứt nghiệp quả: y tiêu hủy hành động quá khứ bằng tri kiến, y thiêu rụi hành động hiện tại bằng sự tận hiến. Và rồi y đạt đến trạng thái được “John thần thánh” nhắc đến trong Khải Huyền, nơi người đó không còn “ra khỏi Đền Thờ” nữa. Vì linh hồn đã đi ra khỏi Đền Thờ vô số lần để bước vào đồng bằng cuộc sống, nhưng đến một thời điểm, y trở thành một cột trụ—“một cột trụ trong Đền Thờ của Đức Chúa Trời của Ta”; Đền Thờ ấy chính là vũ trụ của các linh hồn được giải thoát, và chỉ những ai không còn ràng buộc vào điều gì cho bản thân mới có thể được ràng buộc với mọi người trong danh nghĩa của Một Sự Sống Duy Nhất. |
These bonds of desire then, of personal desire, nay of individual desire, must be broken. We can see how the breaking will begin; and here conies in a mistake which many young students are apt to fall into, a mistake so natural and easy that it is constantly occurring. We do not break the “bonds of the heart” by trying to kill the heart. We do not break the bonds of desire by trying to turn ourselves into stones or pieces of metal unable to feel. The disciple becomes more sensitive, and not less so, as he nears his liberation, he becomes more tender and not more hard; for the perfect “disciple who is as the Master” is the one who answers to every thrill in the outside universe, who is touched by and responds to everything, who feels and answers to everything, who just because he desires [74] nothing for himself is able to give everything to all. Such a one cannot be held by karma, he forges no bonds to bind the soul. As the disciple becomes more and more a channel of Divine Life to the world, he asks nothing save to be a channel, with wider and wider bed along which the great Life may flow: his only wish is that he may become a larger vessel, with less of obstacle in himself to hinder the outward pouring of the Life; working for nothing save to be of service, that is the life of discipleship, in which the bonds that bind are broken. | Những sợi dây ràng buộc bởi dục vọng ấy, của dục vọng cá nhân, thậm chí là của dục vọng cá thể, cần phải bị phá vỡ. Chúng ta có thể thấy sự phá vỡ ấy sẽ bắt đầu ra sao; và tại đây có một sai lầm mà nhiều đạo sinh trẻ tuổi dễ rơi vào, một sai lầm rất tự nhiên và dễ hiểu đến nỗi nó liên tục tái diễn. Chúng ta không phá được “các dây ràng buộc của trái tim” bằng cách cố gắng giết chết trái tim. Chúng ta không phá được dây ràng buộc của dục vọng bằng cách cố gắng biến mình thành đá hay sắt không biết cảm xúc. Người đệ tử trở nên nhạy cảm hơn, chứ không phải ít cảm xúc hơn, khi y tiến gần đến giải thoát; y trở nên dịu dàng hơn, chứ không cứng rắn hơn; vì người đệ tử hoàn hảo, “người đệ tử như là Bậc Thầy” là người đáp ứng với mọi rung động từ vũ trụ bên ngoài, người được cảm xúc chạm đến và phản ứng lại với tất cả, người cảm và ứng với mọi điều, người mà chính vì không ham muốn gì cho riêng mình nên có thể hiến dâng tất cả cho muôn loài. [74] Một người như vậy không thể bị nghiệp quả ràng buộc, y không tạo nên sợi xích nào để trói linh hồn. Khi người đệ tử càng lúc càng trở thành một kênh dẫn của Sự Sống Thiêng Liêng cho thế giới, y không mong cầu gì ngoài việc được làm một kênh dẫn, với lòng máng ngày càng rộng để Dòng Sống Vĩ Đại có thể tuôn chảy: ước nguyện duy nhất của y là trở thành một bình chứa lớn hơn, với ít chướng ngại hơn trong bản thân để cản trở sự tuôn đổ ra bên ngoài của Sự Sống; làm việc không vì gì khác ngoài sự phụng sự, đó chính là đời sống đệ tử, trong đó các mối dây ràng buộc đều được phá vỡ. |
But there is one bond that breaks not ever, the bond of that real unity which is no bond, for it cannot be distinguished as separate, that which unites the One to the All, the disciple to the Master, the Master to his disciple; the Divine Life which draws us ever onwards and upwards, but binds us not to the wheel of birth and death. We are drawn back to earth—first by desire for what we enjoy there, then by higher and higher desires which still have earth for their region of fulfillment—for spiritual knowledge, spiritual growth, spiritual devotion. What is it, when all is accomplished, that still binds the Masters to the world of men? Not anything that the world can offer them. There is no knowledge on earth they have not; there is no power [75] on earth that they wield not; there is no further experience that might enrich their lives; there is nothing that the world can give them, that can draw them back to birth. And yet they come, because a divine compulsion that is from within and from without sends them to the earth—which otherwise they might leave for ever—to help their brethren, to labour century after century, millennium after millennium, for the joy and service that make their love and peace ineffable with nothing that the earth can give them, save the joy of seeing other souls growing into their likeness, beginning to share with them the conscious life of God. | Nhưng vẫn có một mối dây không bao giờ bị phá, đó là mối dây của sự hợp nhất thực sự vốn không phải là một ràng buộc, vì nó không thể được phân biệt như một điều gì riêng biệt—đó là cái hợp nhất Đấng Duy Nhất với Toàn Thể, đệ tử với Bậc Thầy, Bậc Thầy với đệ tử của Ngài; Sự Sống Thiêng Liêng ấy luôn lôi kéo chúng ta tiến về phía trước và lên trên, nhưng không trói buộc ta vào bánh xe sinh tử. Chúng ta bị kéo trở lại thế gian—ban đầu bởi khát vọng những điều ta hưởng thụ nơi đó, rồi bởi những khát vọng ngày càng cao hơn vốn vẫn lấy trần thế làm nơi thể hiện—như khát vọng tri thức tinh thần, sự trưởng thành tinh thần, sự tận hiến tinh thần. Nhưng điều gì, khi mọi thứ đã được hoàn tất, vẫn còn ràng buộc các Bậc Thầy với thế giới loài người? Không phải bất kỳ điều gì mà thế gian có thể hiến tặng. Không có tri thức nào ở thế gian mà Các Ngài chưa có; không có quyền năng [75] nào nơi thế gian mà Các Ngài không sở hữu; không còn kinh nghiệm nào nữa có thể làm phong phú cuộc sống của Các Ngài; không có gì mà thế gian có thể ban tặng để lôi kéo Các Ngài trở lại cõi sinh tử. Và vậy mà Các Ngài vẫn đến, bởi một sự thôi thúc thiêng liêng từ bên trong lẫn bên ngoài khiến Các Ngài trở lại thế gian—mà lẽ ra Các Ngài đã có thể rời bỏ mãi mãi—để giúp đỡ các huynh đệ của mình, để lao tác từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác, vì niềm hoan lạc và sự phụng sự tạo nên tình thương và bình an khôn tả của Các Ngài—với chẳng điều gì mà thế gian có thể ban, ngoại trừ niềm hoan hỷ khi thấy các linh hồn khác đang trưởng thành theo hình ảnh của Các Ngài, bắt đầu chia sẻ với Các Ngài đời sống tỉnh thức trong Thiên Chúa. |