12. Collective Karma
The gathering together of souls into groups, forming families, castes, nations, races, introduces a new element of perplexity into karmic results, and it is here that room is found for what are called “accidents” as well as for the adjustments continually being made by the Lords of Karma. It appears that while nothing can befall a man that is not “in his karma” as an individual, advantage may be taken of, say, a national or a seismic catastrophe to enable him to work off a piece of bad karma which would not normally have [76] fallen into the life-span through which he is passing; it appears—I can only speak hereon speculatively, not having definite knowledge on this point—as though sudden death could not strike off a man’s body unless he owed such a death to the Law, no matter into what whirl of catastrophic disaster he may be hurled; he would be what is called “miraculously preserved” amid the death and ruin that swept away his neighbours, and emerge unharmed from tempest or fiery outbreak. But if he owed a life, and were drawn by his national or family karma within the area of such a disturbance, then, although such sudden death had not been woven into his etheric double for that special life, no active interference might be made for his preservation; special care would be taken of him afterwards that he might not suffer unduly from his sudden snatching out of earth-life, but he would be allowed to pay his debt on the arising of such an opportunity, brought within his reach by the wider sweep of the Law, by the collective karma that involves him. | Việc các linh hồn tập hợp lại thành các nhóm—hình thành nên gia đình, đẳng cấp, quốc gia, chủng tộc—đưa vào các kết quả nghiệp quả một yếu tố mới đầy rối rắm, và chính tại đây có chỗ cho những điều được gọi là “tai nạn” cũng như cho các sự điều chỉnh liên tục được thực hiện bởi các Đấng Đại Diêm Vương. Dường như, dù không điều gì có thể xảy đến với một người mà không “nằm trong nghiệp quả” của y với tư cách cá nhân, thì vẫn có thể tận dụng, chẳng hạn, một tai hoạ cấp quốc gia hay địa chấn để cho phép y giải quyết một phần nghiệp xấu vốn không nằm trong [76] khoảng thời gian sống mà y đang trải qua; dường như—tôi chỉ có thể nói ở đây với tính chất suy đoán, vì không có tri kiến xác định về điểm này—rằng cái chết đột ngột không thể xảy ra với một người trừ khi y mắc nợ một cái chết như vậy theo Định luật, bất kể y có bị cuốn vào vòng xoáy của một tai hoạ thảm khốc đến mức nào; y sẽ là người được gọi là “được bảo toàn một cách kỳ diệu” giữa sự chết chóc và tàn phá cuốn phăng đi các láng giềng, và thoát khỏi cơn bão hay trận hoả hoạn mà không bị tổn hại. Nhưng nếu y còn một món nợ sinh mệnh, và bị nghiệp quốc gia hay gia đình cuốn vào khu vực của một biến cố như vậy, thì, dù cái chết đột ngột đó không được dệt sẵn trong thể dĩ thái của y cho đời sống đặc biệt này, cũng sẽ không có sự can thiệp chủ động nào nhằm bảo toàn mạng sống của y; sẽ có sự chăm sóc đặc biệt dành cho y sau đó để y không phải chịu đựng quá mức vì bị đột ngột rút khỏi đời sống trần gian, nhưng y sẽ được phép trả món nợ của mình khi có cơ hội phát sinh, cơ hội này được mang đến trong tầm tay y bởi phạm vi rộng lớn hơn của Định luật, bởi nghiệp quả tập thể bao trùm y. |
Similarly, benefits may accrue to him by this indirect action of the Law, as when he belongs to a nation that is enjoying the fruit of some good national karma; and he may thus receive some debt owed to him by Nature, the payment of which would not have fallen within [77] his present lot had only his individual karma been concerned. | Tương tự, các lợi lạc cũng có thể đến với y thông qua hành động gián tiếp của Định luật, như khi y thuộc về một quốc gia đang thụ hưởng quả lành từ một nghiệp quốc gia tích cực; và như vậy y có thể nhận được một món nợ mà Thiên Nhiên còn thiếu y, món nợ mà lẽ ra đã không được hoàn trả [77] trong kiếp hiện tại nếu chỉ có nghiệp cá nhân của y là điều duy nhất được xét đến. |
A man’s birth in a particular nation is influenced by certain general principles of evolution as well as by his immediate characteristics. The soul in its slow development has not only to pass through the seven Root Races of a globe (I deal with the normal evolution of humanity), but also through the sub-races. This necessity imposes certain conditions, to which the individual karma must adapt itself, and a nation belonging to the sub-race through which the soul has to pass will offer the area within which the more special conditions needed must be found. Where long series of incarnations have been followed, it has been found that some individuals progress from sub-race to sub-race very regularly, whereas others are more erratic, taking repeated incarnations perhaps in one sub-race. Within the limits of the sub-race, the individual characteristics of the man will draw him towards one nation or another, and we may notice dominant national characteristics re-emerging on the stage of history en bloc after the normal interval of fifteen hundred years; thus crowds of Romans reincarnate as Englishmen, the enterprising, colonizing, conquering, imperial instincts reappearing as national attributes. A man in whom such national [78] characteristics were strongly marked, and whose time for rebirth had come, would be drafted into the English nation by his karma and would then share the national destiny for good or for evil, so far as that destiny affected the fate of an individual. | Việc một người sinh ra trong một quốc gia cụ thể bị chi phối bởi một số nguyên lý tiến hóa tổng quát cũng như bởi các đặc điểm tức thời của y. Linh hồn trong tiến trình phát triển chậm rãi của mình không chỉ phải trải qua bảy Giống dân Gốc của một bầu hành tinh (tôi đang bàn về tiến hoá bình thường của nhân loại), mà còn phải đi qua các giống dân phụ. Nhu cầu này áp đặt một số điều kiện nhất định, và nghiệp cá nhân phải thích nghi với những điều kiện đó, và một quốc gia thuộc giống dân phụ mà linh hồn cần phải đi qua sẽ cung cấp môi trường trong đó các điều kiện chuyên biệt cần thiết phải được tìm thấy. Trong khi theo dõi những chuỗi tái sinh kéo dài, người ta nhận thấy một số cá nhân tiến từ giống dân phụ này sang giống dân phụ khác một cách rất đều đặn, trong khi những người khác thì thất thường hơn, có thể tái sinh nhiều lần trong một giống dân phụ. Trong giới hạn của một giống dân phụ, các đặc điểm cá nhân sẽ hướng người đó về một quốc gia này hay quốc gia khác, và ta có thể nhận thấy các đặc điểm quốc gia chủ đạo tái hiện trở lại trên sân khấu lịch sử sau một khoảng cách thông thường là một nghìn năm rưỡi; như vậy, hàng đoàn người La Mã tái sinh thành người Anh, các bản năng mạo hiểm, thực dân hoá, chinh phục, khuynh hướng đế quốc tái xuất hiện như các đặc tính dân tộc. Một người có các đặc điểm quốc gia như vậy [78] được ghi dấu mạnh mẽ, và đã đến thời điểm tái sinh của y, sẽ được nghiệp quả dẫn nhập vào quốc gia Anh và sẽ cùng chia sẻ vận mệnh quốc gia ấy, dù tốt hay xấu, trong phạm vi mà vận mệnh đó ảnh hưởng đến số phận của một cá nhân. |
The family tie is naturally of a more personal character than is the national, and those who weave bonds of close affection in one life tend to be drawn together again as members of the same family. Sometimes these ties recur very persistently life after life, and the destinies of two individuals are very intimately interwoven in successive incarnations. Sometimes, in consequence of the different lengths of the devachans necessitated by differences of intellectual and spiritual activity during the earth-lives spent together—members of a family may be scattered and may not meet again until after several incarnations. Speaking generally, the more close the tie in the higher regions of life, the greater the likelihood of rebirth in a family group. Here again the karma of the individual is affected by the inter-linked karmas of his family, and he may enjoy or suffer through these in a way not inherent in his own life-karma, and so receive or pay karmic debts, out-of-date, as we may say. So far as the personality is concerned, this seems to bring with it a [79] certain balancing up or compensation in kama-loka and devachan, in order that complete justice may be done even to the fleeting personality. | Mối liên kết gia đình tất nhiên có tính cá nhân nhiều hơn mối liên kết quốc gia, và những người kết nên mối dây yêu thương khăng khít trong một đời sống có khuynh hướng sẽ được kéo lại gần nhau lần nữa như những thành viên của cùng một gia đình. Đôi khi những mối liên kết này lặp lại rất bền bỉ qua nhiều đời sống, và vận mệnh của hai cá nhân được đan xen rất mật thiết trong các lần tái sinh nối tiếp nhau. Đôi khi, do sự khác biệt về độ dài của thời kỳ devachan—do sự khác biệt về hoạt động trí tuệ và tinh thần trong các kiếp sống trần thế mà họ đã trải qua cùng nhau—các thành viên của một gia đình có thể bị tản mác và có thể không gặp lại nhau cho đến sau vài lần tái sinh. Nói chung, mối dây liên kết càng gần gũi trên các cõi cao của đời sống thì khả năng tái sinh trong cùng một nhóm gia đình càng lớn. Ở đây một lần nữa, nghiệp của cá nhân bị ảnh hưởng bởi các nghiệp đan xen của gia đình, và y có thể hưởng lợi hoặc chịu khổ từ những nghiệp đó theo một cách không nằm sẵn trong nghiệp sống riêng của y, và như vậy nhận được hay thanh toán các món nợ nghiệp quả, nếu có thể nói, đã “hết hạn”. Xét từ góc độ của phàm ngã, điều này dường như kéo theo [79] một sự cân bằng hoặc bù trừ nào đó trong kama-loka và devachan, để công lý được thực thi một cách hoàn chỉnh ngay cả với phàm ngã ngắn ngủi. |
The working out in detail of collective karma would carry us far beyond the limits of such an elementary work as the present and far beyond the knowledge of the writer; only these fragmentary hints can at present be offered to the student. For precise understanding a long study of individual cases would be necessary, traced through many thousands of years. Speculation on these matters is idle; it is patient observation that is needed. | Việc giải thích chi tiết về nghiệp quả tập thể sẽ đưa chúng ta vượt xa phạm vi của một tác phẩm sơ đẳng như hiện tại và vượt quá tri kiến của người viết; chỉ có thể đưa ra vài gợi ý rời rạc cho đạo sinh vào lúc này. Để hiểu biết chính xác, cần có sự khảo sát lâu dài các trường hợp cá nhân, được lần theo qua nhiều nghìn năm. Sự suy đoán về các vấn đề này là vô ích; điều cần thiết là sự quan sát kiên nhẫn. |
There is, however, one other aspect of collective karma on which some word may fitly be said; the relation between men’s thoughts and deeds and the aspects of external nature. On this obscure subject Mme. Blavatsky has the following: | Tuy nhiên, còn một khía cạnh khác của nghiệp quả tập thể mà có thể nói vài lời phù hợp: đó là mối liên hệ giữa tư tưởng và hành động của con người với các phương diện của thiên nhiên bên ngoài. Về đề tài huyền bí này, Bà Blavatsky viết như sau: |
Following Plato, Aristotle explained that the term ffTOl^eia [elements] was understood only as meaning the incorporeal princi« pies placed at each of the four great divisions of our cosmical world, to supervise them. Thus, no more than Christians do Pagans adore and worship the Elements and the (imaginary) cardinal points, but the “Gods “that respectively rule over them. For the Church, there are two kinds of Sidereal Beings, Angels and Devils. For the Kabalist and Occultist there is one class, and neither Occultist nor Kabalist makes any difference between the “Rectors of Light” and the “Rectores Tenebrarum,” or Cosmocratores, whom the Roman Church imagines and discovers in the “Rectors of Light,” as soon as any one of them is called by another name than the one she addresses him by. It is not the Rector, or Maharajah, who punishes or rewards, with [80] or without “God’s “permission or order, but man himself—his deeds, or Karma attracting individually and collectively (as in the case of whole nations sometimes) every kind of evil and calamity. We produce Causes, and these awaken the corresponding powers in the Sidereal World, which are magnetically and irresistibly attracted to—and react upon—those who produce such causes; whether such persons are practically the evil-doers, or, simply “thinkers “who brood mischief. For thought is matter, we are taught by Modern Science; and “every particle of the existing matter must be a register of all that has happened,” as Messrs. Jevons and Babbage in their Principles of Science tell the profane. Modern Science is every day drawn more into the maelstrom of Occultism: unconsciously no doubt, still very sensibly. | “Tiếp theo Plato, Aristotle giải thích rằng thuật ngữ stoicheia (các nguyên tố) chỉ được hiểu là những nguyên lý vô hình được đặt tại mỗi trong bốn khu vực lớn của thế giới vũ trụ để giám sát chúng. Vì vậy, cũng như các tín đồ Cơ Đốc không thờ phượng các nguyên tố hay các điểm chính tưởng tượng, người ngoại giáo cũng không. Họ thờ ‘các Thần’ cai quản các nguyên tố đó. Đối với Giáo hội, có hai loại Sinh Thể Tinh Tú: các Thiên Thần và các Ác Quỷ. Nhưng đối với các nhà Huyền Bí Học và Huyền Linh Học, chỉ có một loại, và cả hai đều không phân biệt giữa các ‘Đấng Chỉ Đạo Ánh Sáng’ và các ‘Đấng Chỉ Đạo Bóng Tối’, hay các Cosmocratores, những Đấng mà Giáo hội La Mã tưởng tượng ra và phát hiện trong các ‘Đấng Chỉ Đạo Ánh Sáng’ ngay khi ai đó gọi các Ngài bằng tên khác với danh xưng mà Giáo hội dùng để gọi. Không phải các Đấng Chỉ Đạo hay Maharajah là những vị trừng phạt hay ban thưởng, với [80] hay không với sự cho phép hay mệnh lệnh của ‘Thượng Đế’, mà chính là con người—hành động của y, hay nghiệp quả của y, thu hút một cách cá nhân và tập thể (như trong trường hợp của cả một quốc gia) mọi loại tai họa và thảm hoạ. Chúng ta tạo ra các nguyên nhân, và các nguyên nhân ấy đánh thức các quyền năng tương ứng trong Thế giới Tinh tú, các quyền năng đó bị hấp dẫn một cách từ hoá và không thể cưỡng lại được đến với—và phản ứng lại với—những ai đã tạo ra các nguyên nhân ấy; dù những người đó thực sự là kẻ hành ác, hay chỉ là ‘người suy tưởng’ ấp ủ điều xấu xa. Vì, theo Khoa học Hiện đại, tư tưởng là vật chất; và như ông Jevons và Babbage đã viết trong Nguyên lý Khoa học: ‘mỗi hạt vật chất hiện hữu phải là một bản ghi lại mọi điều đã từng xảy ra.’ Khoa học hiện đại ngày càng bị cuốn sâu hơn vào cơn lốc của Huyền Linh Học: có thể vô thức, nhưng vẫn rất rõ ràng.” |
“Thought is matter”: not, of course, however, in the sense of the German Materialist Moleschott, who assures us that “thought is the movement of matter “—a statement of almost unparalleled absurdity. Mental states and bodily states are utterly contrasted as such. But that does not affect the position that every thought, in addition to its physical accompaniment (brain-change), exhibits an objective—though to us supersensuously objective—aspect on the astral plane.[1]1 | “Tư tưởng là vật chất”: tất nhiên, không phải theo nghĩa của nhà Duy vật Đức Moleschott, người tuyên bố rằng “tư tưởng là chuyển động của vật chất”—một phát biểu gần như phi lý nhất. Trạng thái tâm trí và trạng thái thể xác hoàn toàn đối lập nhau với tư cách là những trạng thái. Nhưng điều đó không làm thay đổi lập trường rằng mỗi tư tưởng, ngoài biểu hiện vật lý của nó (sự thay đổi não bộ), còn biểu lộ một khía cạnh khách quan—dù là khách quan đối với chúng ta trên bình diện siêu cảm quan—trên cõi cảm dục. |
It seems that when men generate a large number of malignant thought-forms of a destructive character, and when these congregate in huge masses on the astral plane, their energy may be, and is, precipitated on the physical plane, stirring up wars, revolutions, and social disturbances and upheavals of every kind, falling as collective karma on their progenitors and effecting widespread ruin. Thus then, collectively also man is the master of his destiny, and his world is moulded by his creative action. [81] | Dường như khi con người tạo ra một số lượng lớn các hình tư tưởng độc hại có tính phá hoại, và khi các hình tư tưởng đó tụ tập lại thành những khối lớn trên cõi cảm dục, năng lượng của chúng có thể, và thực sự, được ngưng tụ xuống cõi hồng trần, khuấy động nên các cuộc chiến tranh, cách mạng, rối loạn xã hội và các biến động đủ loại, giáng xuống những kẻ tạo ra chúng như một nghiệp quả tập thể và gây ra sự tàn phá rộng khắp. Như vậy, con người trong phương diện tập thể cũng là chủ nhân vận mệnh của mình, và thế giới của y được hình thành bởi hành động sáng tạo của y. [81] |
Epidemics of crime and disease, cycles of accidents, have a similar explanation. Thought-forms of anger aid in the perpetration of a murder; these Elementals are nourished by the crime, and the results of the crime—the hatred and the revengeful thoughts of those who loved the victim, the fierce resentment of the criminal, his baffled fury when violently sent out of the world—still further reinforce their host with many malignant forms; these again from the astral plane impel an evil man to fresh crime, and again the circle of new impulses is trodden, and we have an epidemic of violent deeds. Diseases spread, and the thoughts of fear which follow their progress act directly as strengthened of the power of the disease; magnetic disturbances are set up and propagated, and react on the magnetic spheres of people within the affected area. In every direction, in endless fashions, do man’s evil thoughts play havoc, as he who should have been a divine co-builder in the Universe uses his creative power to destroy. | Các trận dịch về tội ác và bệnh tật, các chu kỳ tai nạn, cũng có lời giải tương tự. Các hình tư tưởng của sự giận dữ hỗ trợ việc thực hiện một vụ giết người; các Hành khí này được nuôi dưỡng bởi tội ác, và những hậu quả của tội ác—sự thù hận và các tư tưởng báo thù từ những người yêu thương nạn nhân, cơn giận dữ dữ dội của kẻ phạm tội, cơn thịnh nộ điên cuồng của y khi bị bạo lực đẩy ra khỏi thế gian—càng làm gia tăng số lượng các hình thể độc hại; các hình thể này từ cõi cảm dục sẽ lại thúc đẩy một kẻ xấu xa khác phạm thêm tội ác, và vòng tròn của các xung lực mới lại được lặp lại, và ta có một trận dịch của các hành vi bạo lực. Bệnh tật lan truyền, và các tư tưởng sợ hãi nối theo sau sự lan rộng đó tác động trực tiếp như những yếu tố gia tăng sức mạnh cho căn bệnh; các rối loạn từ điện được khởi phát và truyền đi, rồi phản ứng lại với trường từ tính của những người nằm trong khu vực bị ảnh hưởng. Ở mọi phương hướng, bằng vô số cách, các tư tưởng xấu ác của con người gây ra tàn hoại, khi người vốn phải là một người đồng sáng tạo thiêng liêng trong Vũ trụ lại sử dụng quyền năng sáng tạo của mình để hủy diệt. |
The Secret Doctrine, i, 148, 149. ↑