S3S3: TCF 237-245
|
(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR) |
(Hầu hết văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi chiếu trong các buổi học. Chú thích và tham chiếu từ các sách AAB khác và từ những trang khác của TCF được đặt cỡ chữ 14. Lời bình được đặt cỡ chữ 12. Gạch chân, In đậm và Tô sáng bởi MDR) |
|
III. WHY IS THIS SOLAR SYSTEM EVOLVING ALONG THE LINES OF DUALITY? |
III. VÌ SAO HỆ MẶT TRỜI NÀY TIẾN HOÁ THEO CÁC ĐƯỜNG HƯỚNG NHỊ NGUYÊN? |
|
1. Some thoughts arise in this connection: |
1. Một vài ý nghĩ nảy sinh liên hệ đến điều này: |
|
a. This solar system is the second major solar system through which our Solar Logos has been developing. Because it is the second, the method of duality is inescapable. |
a. Hệ mặt trời này là hệ mặt trời chính yếu thứ hai mà Thái dương Thượng đế của chúng ta đã và đang phát triển qua đó. Bởi nó là hệ thứ hai, phương pháp nhị nguyên là không thể tránh. |
|
b. In our solar system the relationship between Spirit and Matter (the major cosmic duality) is critical and balanced—again because this is the second major solar system. The number two suggests equal division. Spirit and Matter are very equally divided, just as are Rajas and Tamas in relation to the fourth ray. |
b. Trong hệ mặt trời chúng ta, mối quan hệ giữa Tinh thần và Vật chất (đại nhị nguyên tính vũ trụ) mang tính quyết định và cân bằng—một lần nữa, vì đây là hệ mặt trời chính yếu thứ hai. Con số hai gợi sự phân đôi ngang nhau. Tinh thần và Vật chất được phân đôi rất cân xứng, cũng như Rajas và Tamas đối với cung bốn. |
|
c. Our Sun is of the Fourth Order, and represents the heart chakra (in a Cosmic Logos) The heart chakra is the is the fourth chakra. Because the number four is so important in our solar system, the conflict between opposites suggested by this number is also prominent. |
c. Mặt Trời của chúng ta thuộc Trật tự Thứ tư, và biểu thị luân xa tim (trong một Thượng đế Vũ Trụ). Luân xa tim là luân xa thứ tư. Bởi con số bốn quan trọng đến thế trong hệ của chúng ta, nên xung đột giữa các đối cực mà con số này gợi ra cũng nổi bật. |
|
2. VSK would have us note energy of the Gemini Kumara, on the plane 6.6 (i.e., on the sixth level of the cosmic astral plane) It is called “Desire for Duality” (cf. EA 34). |
2. VSK muốn chúng ta lưu ý năng lượng của vị Kumara Song Tử, trên bình diện 6.6 (tức cấp thứ sáu của cõi cảm dục vũ trụ). Nó được gọi là “Dục vọng đối với Nhị nguyên” (xem EA 34). |
|
1. The Problem of Existence. |
1. Vấn đề của Hiện hữu. |
|
The third question involves one of the most difficult problems in metaphysics, and covers in its consideration the whole perplexing mystery of the reason why there is objectivity at all. |
Câu hỏi thứ ba bao hàm một trong những vấn đề khó khăn nhất của siêu hình học, và trong khi xét đến nó thì bao trùm toàn bộ huyền bí nan giải về lý do vì sao lại có khách quan tính. |
|
3. Metaphysics is the study of abstract causes and patterns originating in vibratory realms far interior to the three worlds. It is essentially an arupic study dealing with questions concerning the nature and manifestation of being |
3. Siêu hình học là khảo cứu về các nguyên nhân và mô hình trừu tượng khởi phát từ những cảnh giới rung động nội tại xa xăm so với ba cõi. Về bản chất, đó là một khảo cứu arupa, xử lý những câu hỏi liên quan đến tự tính và sự biểu hiện của hữu thể. |
|
It is one that has been asked under different forms by men of every school of thought—by religious people who enquire:—”Why did God create at all? |
Đó là câu hỏi đã được đặt ra dưới những dạng khác nhau bởi người thuộc mọi trường phái tư tưởng— bởi những người tôn giáo, họ đặt vấn nạn:—“Vì sao Thượng đế lại sáng tạo?” |
|
4. The problem with this question involves the meaning of the word “create”. If we understood the process of Creation as the process of Emanation, some problems related to objectivity and dualism would be solved, for through an understanding of Emanation, the evident Many are understood to be the invisible One. |
4. Vấn đề với câu hỏi này hệ tại ý nghĩa của từ “sáng tạo”. Nếu chúng ta hiểu tiến trình Sáng tạo như tiến trình Xuất lộ, thì một vài vấn đề liên quan đến khách quan tính và nhị nguyên sẽ được giải toả, vì nhờ hiểu Xuất lộ, cái Đa hiển nhiên được hiểu là cái Nhất vô hình. |
|
Why is existence forced upon one and all?”; |
“Tại sao sự hiện hữu bị áp đặt lên mọi hữu thể?” |
|
5. May we suggest that those upon whom existence is “forced” are, in essence, the Entity which is doing the forcing? |
5. Chúng ta có thể gợi ý rằng những ai bị “áp đặt” sự hiện hữu, về bản tính, chính là Thực Thể đang làm sự áp đặt ấy? |
|
by scientists in their search for the ultimate truth and in their endeavor to find out the motivation of all that is seen, and to account for sensuous life; |
bởi các nhà khoa học trong cuộc truy tìm chân lý tối hậu và trong nỗ lực tìm ra động cơ của mọi cái được thấy, và cắt nghĩa cho sự sống cảm quan; |
|
6. This quest is evident in the thought of astrophysicists who are ever interested in the origin of the universe—the current theory gaining the greatest adherence being the “Big Bang” (though some current thinking questions is validity). |
6. Cuộc truy tầm này hiển nhiên trong tư tưởng của các nhà vật lý thiên văn, những người luôn quan tâm đến khởi nguyên của vũ trụ—lý thuyết hiện được nhiều người tán đồng nhất là “Vụ Nổ Lớn” (dẫu một vài tư tưởng hiện thời đặt nghi vấn về tính đúng đắn của nó). |
|
by philosophers in their equally diligent search for that animating subjectivity that is expressing itself through all the moral and ethical sciences in every civilisation and among every people; |
bởi các triết gia trong cuộc tầm cầu chuyên cần ngang ngửa đối với chủ thể sinh động đang tự biểu hiện qua mọi khoa học đạo đức và luân lý trong mọi nền văn minh và giữa mọi dân tộc; |
|
7. DK seems to be saying that the philosophers are searching for Great Soul (“that animating subjectivity”) which expresses itself through the Science of Relations. |
7. Chân sư DK dường như nói rằng các triết gia đang tầm cầu Đại Hồn (“chủ thể sinh động ấy”) vốn tự biểu lộ qua Khoa học về các Quan hệ. |
|
8. If philosophers love wisdom (for that is what the word philosophy suggests—i.e., the love of wisdom) then their discipline is especially a pursuit of the dynamics of that cohesive energy we call Love-Wisdom. It is Love-Wisdom which expresses itself through all the moral and ethical sciences (sciences ruled by the planet Jupiter—the major second ray planet). |
8. Nếu các triết gia yêu minh triết (vì đó là điều từ “triết học” gợi ra—tức, tình yêu đối với minh triết) thì kỷ luật của họ nhất là sự theo đuổi động lực của năng lượng kết dính mà chúng ta gọi là Bác Ái – Minh Triết. Chính Bác Ái – Minh Triết tự biểu lộ qua mọi khoa học đạo đức và luân lý (những khoa học do Sao Mộc—hành tinh chủ đạo của cung hai —chi phối). |
|
by the biologist in his persistent application to search for the discovery of the source of life, and in his strenuous endeavour to account for the principle of life that is seen ever to evade his investigations; |
bởi nhà sinh học trong việc kiên trì dấn thân truy tầm nguồn mạch của sự sống, và trong nỗ lực dẻo dai nhằm cắt nghĩa nguyên lý sự sống vốn luôn lẩn tránh các khảo cứu của ông; |
|
9. The biological quest is not simply the study of living forms and their interrelationship. The true biologist is searching for that which vitalizes the myriad evident forms. |
9. Cuộc tầm cầu sinh học không chỉ là nghiên cứu những dạng sống và mối liên hệ giữa chúng. Nhà sinh học đích thực tìm kiếm điều tiếp sinh lực cho muôn hình vạn trạng hiển nhiên. |
|
by the mathematician, who, dealing with the form side of manifestation in all the grades of mathematics, decides that God geometrises, that law and rule pervade universally, that the one exists by means of the many, and who yet is unable to solve the problem as to who that geometrising [238] identity may be. |
bởi nhà toán học, người mà khi xử lý phương diện hình tướng của biểu hiện trong tất cả các cấp độ toán học, liền xác quyết rằng Thượng đế “kiến tạo bằng hình học”, rằng luật và quy luật thấm suốt khắp nơi, rằng cái Một hiện hữu nhờ cái Nhiều, nhưng vẫn chưa thể giải được bài toán về danh tính của Đấng [238] kiến tạo hình học đó là ai. |
|
10. The true mathematician is in search of the Great Geometrician—His thoughts and methods. |
10. Nhà toán học đích thực đi tìm Đại Kiến Trúc Sư—tư tưởng và phương pháp của Ngài. |
|
11. DK is emphasizing the idea that the quest for an understanding of why objectivity exists is universal and arduous—shared by serious thinkers who represent all the legitimate disciplines of human thought. |
11. Chân sư DK nhấn mạnh rằng cuộc tầm cầu nhằm hiểu vì sao khách quan tính hiện hữu là phổ quát và gian lao —được chia sẻ bởi các tư tưởng gia nghiêm túc đại diện cho mọi ngành kỷ luật chính đáng của tư duy nhân loại. |
|
12. The different disciplines voice the object of their quest in different terms, but what they seek is identical—no matter how variously expressed. |
12. Những ngành kỷ luật khác nhau sẽ diễn đạt đối tượng truy tầm bằng những thuật ngữ khác nhau, nhưng cái họ truy cầu là đồng nhất—dù được phát biểu muôn vẻ. |
|
13. VSK suggests that this paragraph shows the underlying symmetry in the root of inquiry around this question. |
13. VSK gợi rằng đoạn này phô bày tính đối xứng nền tảng trong căn nguyên của sự truy vấn quanh câu hỏi này. |
|
So the problems persist, and all the many lines of approach (in the endeavour to find the solution) end in the cul-de-sac of hypothesis, and in the recognition of an ultimate something of such an elusive nature, that men are forced seemingly to predicate a source of energy, of life, of intelligence, and to call it by diverse names according to the trend (religious, scientific or philosophical) of their minds. |
Vậy nên các vấn đề vẫn còn đó, và mọi đường hướng tiếp cận (trong nỗ lực tìm lời giải) đều vào ngõ cụt của giả thuyết, và trong sự thừa nhận một “cái gì đó” tối hậu có bản tính lẫn tránh đến mức con người dường như bị buộc phải tiền giả định một nguồn năng lượng, sự sống, trí tuệ, và gọi nó bằng những tên gọi khác nhau phù hợp với xu hướng (tôn giáo, khoa học hay triết học) của tâm trí họ. |
|
14. Men have not solved the problem, but, if sincere and persevering in their thought, are in agreement concerning the existence of an extraordinarily “ultimate something” which is the source of energy, life, intelligence, etc. |
14. Con người chưa giải được bài toán, nhưng nếu chân thành và kiên trì trong tư duy, họ đồng thuận rằng có một “cái gì đó” tối hậu phi thường, vốn là nguồn của năng lượng, sự sống, trí tuệ, v.v. |
|
15. It is here that division between the various types of thinkers enters because, according to the nature and quality of their thought, so if their formulation of this “ultimate something”. As a result of their differing trends of thought, men fight over the correctness of the words by which they name this “ultimate something”. |
15. Chính ở đây mới phát sinh phân kỳ giữa các loại tư tưởng gia, vì tùy theo bản chất và phẩm tính tư duy của họ, định thức về “cái gì đó tối hậu” cũng khác nhau. Hệ quả của xu hướng tư duy sai khác, con người tranh đấu về tính đúng đắn của những từ ngữ dùng để gọi tên “cái gì đó tối hậu” này. |
|
16. Those who have truly found the Ultimate do not fight over formulations intended to indicate its nature. |
16. Những ai thực sự tìm ra Đệ Nhất Thể thì không tranh đấu quanh các định thức dùng để chỉ bày bản tính của Ngài. |
|
God, the Universal Mind, Energy, Force, the Absolute, the Unknown,—these terms and many others are forced from the lips of those who, by means of the form side, seek the Dweller within the form, and cannot find Him as yet. |
Thượng đế, Vũ Trụ Trí, Năng lượng, Mãnh lực, Tuyệt Đối, Cái Bất Tri, —những thuật ngữ này và còn nhiều từ khác nữa bị buộc phải thốt ra từ môi miệng những ai, bằng phương diện hình tướng, truy tầm Đấng Cư Ngụ trong hình tướng, mà họ vẫn chưa thể tìm thấy Ngài. |
|
17. The human mind is still much limited by the form. That which is behind the form is sensed but not directly experienced by most. |
17. Thể trí con người vẫn bị giới hạn rất nhiều bởi hình tướng. Cái nằm sau hình tướng được cảm nhận nhưng chưa được trực nghiệm bởi đa số. |
|
18. Master DK brings before our consciousness a number of formulations by which the “ultimate something” is known. We gather than it makes no difference by what name this “something” is called. It is what It is. “I am That and That am I”. |
18. Chân sư DK đưa ra trước ý thức chúng ta một số định thức dùng để gọi tên “cái gì đó tối hậu”. Chúng ta hiểu rằng gọi tên “điều ấy” thế nào cũng chẳng tạo khác biệt. Nó là như Nó là. “Ta là Cái Đó và Cái Đó là Ta”. |
|
This failure to find Him is due to the limitations of the physical brain, and to the lack of development in the mechanism whereby the spiritual may be known, and whereby He may, and eventually will, be contacted. |
Sự bất thành trong việc tìm thấy Ngài là do những giới hạn của não bộ hồng trần, và do sự thiếu phát triển ở cơ chế nhờ đó điều tinh thần có thể được biết, và nhờ đó Ngài có thể, và rốt cuộc sẽ, được tiếp xúc. |
|
19. That which is sought exists and is experienced by those who have the equipment to do so. Our failure to find That which underlies all rests with the limited development of our instruments of perception—i.e., with the insufficiently developed apparatus of perception of the average human being. |
19. Điều được truy cầu hiện hữu và được thể nghiệm bởi những ai có đủ khí cụ. Sự bất thành của chúng ta trong việc tìm thấy Cái nền tảng của mọi sự nằm ở trình độ phát triển hạn chế của các khí cụ tri giác—tức ở bộ máy tri giác chưa đủ phát triển của trung bình nhân. |
|
20. There are, of course, those who can perceive, and they attest to the reality of That which is sought. |
20. Tất nhiên, có những người có thể tri nhận, và họ chứng tín cho thực tại của Cái được truy cầu. |
|
21. VSK calls our attention to the “Cul-de-sac of hypothesis which points to the dead end side of intellectualism”. “Yet”, she says, “the repartee continues. Why do we bother asking or proposing? Perhaps so that the benefits of inquiry and recognition of the limits may be highlighted?” |
21. VSK lưu ý “Ngõ cụt của giả thuyết cho thấy mặt tận cùng vô hiệu của chủ nghĩa duy trí”. “Tuy vậy”, bà nói, “cuộc đối thoại vẫn tiếp diễn. Tại sao chúng ta cứ hỏi hay đề xuất? Có lẽ để lợi ích của sự truy cầu và sự nhận ra giới hạn được làm nổi bật?” |
|
22. VSK would remind us that “the brain is both a limitation and a necessary organ of perception. We are evolving it.” |
22. VSK nhắc rằng “não bộ vừa là hạn chế vừa là cơ quan tri giác cần thiết. Chúng ta đang tiến hoá nó.” |
|
23. We note that the Tibetan uses the personal pronoun “Him” in (“cannot find Him as yet”). That which is sought is both impersonal and personal. It can be appreciated as both an Identity and an impersonal Principle. |
23. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư dùng đại danh “Ngài” (“chưa thể tìm thấy Ngài”). Cái được truy cầu vừa vô ngã vừa hữu ngã. Nó có thể được cảm nhận như một Bản Thể và như một Nguyên lý vô ngã. |
|
The problem of duality is the problem of existence itself, and cannot be solved by the man who refuses to recognise the possibility of two occult facts: |
Vấn đề của nhị nguyên chính là vấn đề của hiện hữu, và không thể được giải bởi ai từ chối thừa nhận khả thể của hai sự kiện huyền bí: |
|
24. Some recognitions are offered by means of which the problem of duality (another name of the problem of existence) may be solved. |
24. Một số thừa nhận được đưa ra nhờ đó vấn đề nhị nguyên (một tên gọi khác của vấn đề hiện hữu) có thể được giải. |
|
25. The reason that the “problem of duality” is considered a “problem” is that it bewilders and baffles the mind, leaving consciousness in a state of cognitive dissonance. |
25. Lý do “vấn đề của nhị nguyên” được xem là một “vấn đề” là bởi nó gây hoang mang và làm bối rối thể trí, khiến tâm thức rơi vào trạng thái bất hoà nhận thức. |
|
1. That the entire solar system embodies the consciousness of an Entity, who originates on planes entirely without the solar ring-pass-not. |
1. Toàn bộ hệ mặt trời bao trùm tâm thức của một Đấng, Đấng ấy khởi nguyên trên những cảnh giới hoàn toàn ở ngoài vòng-giới-hạn của thái dương hệ. |
|
26. The Entity is the Solar Logos. |
26. Đấng ấy là Thái dương Thượng đế. |
|
27. The “solar ring-pass-not” may, in this instance, be considered the cosmic physical plane. The true focus of the Solar Logos is upon planes ‘higher’ than the cosmic physical plane, just as the true focus of man is on levels higher than his etheric-physical apparatus. Could the Solar Logos now be attending to His etheric nature with renewed attention just as man is newly attending to his etheric nature (because of the impending Aquarian Age). |
27. “Vòng-giới-hạn thái dương” có thể, trong trường hợp này, được xem là cõi hồng trần vũ trụ. Tâm điểm chân thực của Thái dương Thượng đế đặt trên các cảnh giới ‘cao’ hơn cõi hồng trần vũ trụ, cũng như tâm điểm chân thực của con người đặt trên các cấp độ cao hơn bộ máy dĩ thái-hồng trần của y. Liệu Thái dương Thượng đế lúc này có đang chú tâm vào tự tính dĩ thái của Ngài với sự lưu ý mới, cũng như con người đang mới mẻ chú ý đến tự tính dĩ thái của mình (do thời kỳ Bảo Bình đang đến gần)? |
|
28. The origin of the Solar Logos may be considered the cosmic monadic plane just as the origin of the human being may be considered the systemic monadic plane (the second subplane of the cosmic physical plane). |
28. Khởi nguyên của Thái dương Thượng đế có thể được xét là cõi chân thần vũ trụ cũng như khởi nguyên của con người có thể được xét là cõi chân thần hệ thống (cõi phụ thứ hai của cõi hồng trần vũ trụ). |
|
29. VSK states: “Again the Gemini Kumara is suggested, with the problem of desire and necessity of duality being reflected in the two brothers, the waxing and waning, ‘day/night’, Love-Wisdom cycle”. |
29. VSK nói: “Lại nữa Kumara Song Tử được gợi ra, với vấn đề của dục vọng và tất yếu của nhị nguyên được phản chiếu trong hai anh em, trăng khuyết và trăng tròn, ‘ngày/đêm’, chu kỳ Bác Ái – Minh Triết.” |
|
30. DK would seem to suggest that in the search for the “ultimate something”, man is, in general, looking in a ‘place’ too ‘low’. |
30. Chân sư DK dường như gợi rằng trong truy tầm “cái gì đó tối hậu”, con người, nói chung, đang tìm kiếm ở một ‘nơi’ quá ‘thấp’. |
|
31. The Author of our existence is focussed on planes or vibratory levels entirely inaccessible to perceptual apparatus of the average human being. |
31. Đấng Tạo Hóa của hiện hữu chúng ta đặt tâm điểm trên những cảnh giới hay tầng rung hoàn toàn không thể tiếp cận đối với bộ máy tri giác của trung bình nhân. |
|
2. That manifestation is periodical and that the Law of Rebirth is the method that evolution takes in dealing with a man, a planetary Logos, and a solar Logos. |
2. Biểu hiện là tính chu kỳ và Định luật Tái sinh là phương pháp mà tiến hoá sử dụng để xử lý con người, một Hành Tinh Thượng đế, và một Thái dương Thượng đế. |
|
32. In the search for the “ultimate something” the Law of Rebirth is not generally recognized. The cyclic nature of all in manifestation must be cognized if the cause of that which exists is to be understood. |
32. Trong truy tầm “cái gì đó tối hậu” người ta thường không thừa nhận Định luật Tái sinh. Cần nhận biết tính chu kỳ của tất cả những gì trong biểu hiện nếu muốn hiểu nguyên nhân của cái hiện hữu. |
|
Hence, the emphasis laid in the Proem of the Secret Doctrine on the three fundamentals [97: S. D., I, 42-44.] |
Vì vậy, sự nhấn mạnh đặt trong Lời Dẫn nhập của Giáo Lý Bí Nhiệm vào ba nguyên lý cơ bản [97: S. D., I, 42-44.] |
|
a. The Boundless Immutable Principle and |
a. Nguyên lý Vô biên Bất biến và |
|
b. The periodicity of the Universe. |
b. Tính chu kỳ của Vũ trụ. |
|
c. The identity of all souls with the Oversoul. |
c. Tính đồng nhất của mọi linh hồn với Đại Hồn. |
|
33. We must be careful in our definition of the term “universe”. Usually, the term “universe” means the entirety—all that is (other than that ABSOLUTE ALL-SELF). |
33. Chúng ta phải cẩn trọng khi định nghĩa thuật ngữ “vũ trụ”. Thông thường, “vũ trụ” nghĩa là toàn thể—mọi cái là (ngoài cái TỰ NGÃ-TỐI-HẬU TUYỆT-ĐỐI). |
|
34. The term “universe”, however, can be used in a special way in occultism, to mean a solar system. |
34. Tuy nhiên, thuật ngữ “vũ trụ” đôi khi được dùng theo nghĩa đặc thù trong huyền bí học, để chỉ một hệ mặt trời. |
|
35. DK speaks of a man, a Planetary Logos and a Solar Logos. Then a huge jump is made to the consideration of the “Boundless Immutable Principle”. |
35. Chân sư DK nói về một con người, một Hành Tinh Thượng đế và một Thái dương Thượng đế. Rồi một bước nhảy khổng lồ được thực hiện đến việc xét “Nguyên lý Vô biên Bất biến”. |
|
36. In relation to a Solar Logos we may speak of “the periodicity of the Universe” (defining the Universe as the entirety of the Solar Logos’ manifestation), and we may also speak of the “identity of all souls with the Oversoul” (considering the Oversoul as the Soul of the Solar Logos), but we cannot speak of the Boundless Immutable Principle. In other words, the Solar Logos is definitely not the Boundless Immutable Principle. |
36. Liên hệ đến một Thái dương Thượng đế, chúng ta có thể nói về “tính chu kỳ của Vũ trụ” (định nghĩa “Vũ trụ” là toàn thể biểu hiện của Thái dương Thượng đế), và chúng ta cũng có thể nói về “tính đồng nhất của mọi linh hồn với Đại Hồn” (xem Đại Hồn như Linh hồn của Thái dương Thượng đế), nhưng chúng ta không thể nói về Nguyên lý Vô biên Bất biến. Nói cách khác, Thái dương Thượng đế chắc chắn không phải là Nguyên lý Vô biên Bất biến. |
|
37. The Solar Logos and its manifestation are bounded, though it can be said of the essence of the Solar Logos (just as of the essence of any entity) that it is one with the Boundless Immutable Principle. |
37. Thái dương Thượng đế và biểu hiện của Ngài là hữu hạn, dẫu có thể nói về bản thể của Thái dương Thượng đế (cũng như về bản thể của bất kỳ hữu thể nào) rằng nó đồng nhất với Nguyên lý Vô biên Bất biến. |
|
38. In any case, DK is taking our search for the “ultimate something” to the deepest possible level. He seems to be saying that if the search is to be productive of discovery, it must be a far deeper search than anticipated. |
38. Dù sao, Chân sư DK đang đưa cuộc truy tầm “cái gì đó tối hậu” của chúng ta đến tầng sâu nhất có thể. Ngài dường như nói rằng nếu cuộc truy tầm muốn sản sinh khám phá, nó phải là một truy tầm sâu xa hơn nhiều so với dự liệu. |
|
When scientists recognise these two facts then their explanations will take a different line and the truth, as it is, will begin to illuminate their reason. |
Khi các nhà khoa học thừa nhận hai sự kiện này thì lời giải thích của họ sẽ theo một đường hướng khác, và chân lý như vốn có sẽ bắt đầu soi sáng lý trí của họ. |
|
39. This is another way of saying that scientists will become occultists. Their minds will be illumined by pure reason and they will grasp the true nature of origins. |
39. Đây là một cách khác để nói rằng các nhà khoa học sẽ trở thành những nhà huyền bí học. Trí tuệ của họ sẽ được soi sáng bởi lý trí bao gồm và họ sẽ nắm bắt chân tướng của khởi nguyên. |
|
Few men are yet ready for illumination, which is simply the light of the [239] intuition breaking through the barriers that the rational faculty has erected. |
Ít người đã sẵn sàng cho sự soi sáng, vốn đơn giản là ánh sáng của [239] trực giác phá vỡ những bức tường mà năng lực lý tính đã dựng lên. |
|
40. Here we contrast intuition with the rational faculty. This is interesting because another name for intuition is pure reason, a term closely related to the rational faculty. |
40. Ở đây chúng ta đối chiếu trực giác với năng lực lý tính. Điều này thú vị vì một tên gọi khác của trực giác là lý trí bao gồm, một thuật ngữ liên hệ gần gũi với năng lực lý tính. |
|
41. There is difference, however, between pure reason (intuition) and reasoning (the exercise of the rational faculty). |
41. Tuy nhiên, có khác biệt giữa lý trí bao gồm (trực giác) và lý luận (việc vận dụng năng lực lý tính). |
|
42. DK is telling us that our habitual thoughtforms prevent us from seeing reality as it is. In this case, “the mind is the slayer of the real”. |
42. Chân sư DK cho biết rằng các khuôn tư duy thói quen của chúng ta ngăn cản chúng ta thấy thực tại như nó là. Trong trường hợp này, “thể trí là kẻ sát hại cái thực”. |
|
43. VSK queries: “What might it look like if scientists accepted an ‘extra-systemic’ ‘god? How could this be plausibly presented?” |
43. VSK nêu vấn: “Sẽ ra sao nếu các nhà khoa học chấp nhận một ‘Thượng đế’ ‘siêu hệ’? Có thể trình bày điều ấy một cách khả tín như thế nào?” |
|
44. The rational faculty is largely linear and mono-directional. It is as if we have to replace this linearity with what we might call ‘sphericity of thought’—a type of thinking which is thinking in all directions simultaneously. We might call this ‘the overcoming of time in the process of thought’. |
44. Năng lực lý tính phần lớn là tuyến tính và đơn hướng. Tựa như chúng ta phải thay thế tính tuyến tính này bằng cái có thể gọi là ‘tư duy hình cầu’—một kiểu tư duy theo mọi hướng đồng thời. Ta có thể gọi đó là ‘sự vượt thắng thời gian trong tiến trình tư duy’. |
|
45. Intuition dissolves the rigid corridors of the mind. Intuition supplies the unexpected and renders it visible everywhere. Intuition floods and overwhelms the rational mechanism—but only after that mechanism has been well used. |
45. Trực giác làm tan chảy các hành lang cứng nhắc của tâm. Trực giác đem đến điều bất ngờ và hiển thị nó ở khắp nơi. Trực giác tràn ngập và chế ngự cơ cấu lý trí—nhưng chỉ sau khi cơ cấu ấy đã được sử dụng nhuần nhuyễn. |
|
The duality of the solar system will eventually be recognised as dependent upon the following factors: |
Nhị nguyên của hệ mặt trời rốt cuộc sẽ được công nhận là tùy thuộc vào các yếu tố sau: |
|
a. Existence itself. |
a. Bản thân hiện hữu. |
|
46. Existence is mentioned, as opposed to Being. Existence may be considered the objectivity emanating from Being. |
46. Hiện hữu được nhắc đến, đối lập với Hữu thể. Hiện hữu có thể được xem là khách quan tính phát lộ từ Hữu thể. |
|
b. Time and space. |
b. Thời gian và không gian. |
|
47. Time and space represent a great duality with which all human beings must reckon when under the spell of the Great Illusion. |
47. Thời gian và không gian biểu thị một đại nhị nguyên mà mọi con người phải tính đến khi còn bị huyễn tưởng vĩ đại lôi cuốn. |
|
48. Imaginatively collapsing the factor of extension to a point is an exercise for the overcoming of the illusion of space. That is to say, one can imagine all ‘extended things’ as if they resided in a single point. |
48. Việc tưởng tượng co sập yếu tố trải rộng về một điểm là một bài luyện để vượt thắng ảo tưởng về không gian. Nghĩa là, người ta có thể hình dung mọi “sự vật có độ mở rộng” như thể chúng cư trú trong một điểm duy nhất. |
|
49. Experiences with the simultaneity inherent in every moment overwhelm the illusion of time. |
49. Những kinh nghiệm về tính đồng thời vốn tiềm tại trong mọi khoảnh khắc áp đảo ảo tưởng về thời gian. |
|
c. The quality of desire or necessity. |
c. Phẩm tính của dục vọng hay tất yếu. |
|
50. Desire reaches for that which is, apparently, not itself. Implicit in the dynamic of desire is duality—i.e., the Self and the not-Self. |
50. Dục vọng vươn tới cái, bề ngoài, không phải là chính nó. Hàm tàng trong động lực của dục vọng là nhị nguyên—tức là, Tự Ngã và phi-Tự Ngã. |
|
51. Necessity concerns ‘that which must be’. It is an internal compulsion leading to manifestation. Necessity suggest the duality of that which compels and that which is compelled. Can THAT THAN WHICH THERE IS NO OTHER, be under the compulsion of Necessity? It would seem not. |
51. Tất yếu liên hệ đến “điều phải là”. Nó là một thúc lực nội tại dẫn đến hiện lộ. Tất yếu gợi lên nhị nguyên giữa cái cưỡng bách và cái bị cưỡng bách. Liệu ĐẤNG MÀ NGOÀI RA KHÔNG CÒN GÌ KHÁC có ở dưới sự cưỡng bách của Tất yếu chăng? Có vẻ là không. |
|
52. When DK said that the Problem of Existence was one of the most difficult in metaphysics, we can see why. |
52. Khi Chân sư DK nói rằng Vấn Đề Hiện Hữu là một trong những vấn đề khó nhất trong siêu hình học, chúng ta có thể thấy vì sao. |
|
d. The acquisitive faculty inherent in life itself. This faculty, by the means of motion, gathers to itself the material whereby it achieves its desire, whereby it fabricates the form through which expression is sought, and whereby it confines itself within the prison of the sheath in order to gain experience. |
d. khả năng thủ đắc vốn tại nền tảng của chính sự sống. Khả năng này, bằng phương tiện của chuyển động, gom về cho chính nó chất liệu nhờ đó nó đạt điều nó ước muốn, nhờ đó nó kiến tạo hình tướng qua đó sự biểu lộ được tìm kiếm, và nhờ đó nó tự giam mình trong ngục thất của lớp vỏ để thu hoạch kinh nghiệm. |
|
53. The acquisitive faculty within any entity is that which reaches out to that which is not itself and gathers that which is not itself towards itself. |
53. Khả năng thủ đắc trong bất kỳ thực thể nào là cái vươn ra tới cái không phải là chính nó và kéo cái không-phải-chính-nó về phía chính nó. |
|
54. When Spirit is involved in manifestation it is called “Life”. This we learned in an early Commentary. |
54. Khi Tinh thần tham dự vào hiện lộ, nó được gọi là “Sự sống”. Điều này chúng ta đã học trong một Bản Chú Giải sớm. |
|
55. We can recognize this “acquisitive faculty” as akin to desire. |
55. Chúng ta có thể nhận ra “khả năng thủ đắc” này đồng tính với dục vọng. |
|
56. It is as if Spirit relates to Matter, or (in manifestation) Life relates to Form by means of the dynamic of acquisition. The Self wishes to acquire the not-Self, even thought the not-Self is really the Self. This major acquisition is performed under the spell of the Great Illusion. |
56. Dường như Tinh thần liên hệ với Vật chất, hoặc (trong hiện lộ) Sự sống liên hệ với Hình tướng bằng động lực của sự thủ đắc. Tự Ngã muốn thủ đắc phi-Tự Ngã, dù phi-Tự Ngã thật ra là Tự Ngã. Sự thủ đắc trọng đại này được thực hiện dưới bùa chú của Đại Ảo tưởng. |
|
57. VSK ponders on the “acquisitive faculty inherent in life itself”. She says, “It is this which revolves around the zero point, the laya point of transition from the life-cause of the Entity causing the phenomenal appearance beyond the ring-pass-not; the quiet still point (ray three key) between the centripetal and centrifugal force. Saturn”. |
57. VSK suy tư về “khả năng thủ đắc vốn tại nền tảng của chính sự sống”. Bà nói, “Chính cái này xoay quanh điểm-không, điểm laya của sự chuyển tiếp từ sinh-cớ của Thực Thể gây ra hiện tướng vượt khỏi vòng-giới-hạn; điểm tĩnh lặng yên ắng (chìa khóa cung ba) giữa lực hướng tâm và lực ly tâm. Sao Thổ”. |
|
58. If we search very deeply for the origin of duality in our solar system (or, really, anywhere in Cosmos) we shall find its origin as a function of perception. Duality arises with a change from Self-identification-as-Self to Self-perception-as-Other. When the Self registers itself perceptually (thus leaving the state of Self-identification) then duality begins. |
58. Nếu chúng ta tìm thật sâu nguồn gốc của nhị nguyên trong hệ mặt trời của chúng ta (hay, thực ra, ở bất kỳ đâu trong Vũ Trụ) chúng ta sẽ tìm thấy cội nguồn của nó như một hàm năng của tri giác. Nhị nguyên khởi sinh cùng với một chuyển đổi từ Tự- đồng-nhận-diện-là- Tự Ngã sang Tự-tri-giác – như – Kẻ-Khác. Khi Tự Ngã tự ghi nhận mình bằng tri giác (như vậy rời khỏi trạng thái Tự-đồng-nhận-diện) thì nhị nguyên bắt đầu. |
|
59. Duality arises when, through emanation (for that is how duality does arise—the One becoming the Many), the Self ‘goes forth’ from itself through an act of limited Self-cognition/perception. |
59. Nhị nguyên khởi sinh khi, qua sự xuất lộ (vì đó là cách nhị nguyên khởi sinh—Đấng Duy Nhất trở thành Muôn Nhiều), Tự Ngã ‘đi ra’ khỏi chính mình nhờ một hành vi tự-nhận-thức/tri giác có giới hạn. |
|
60. What is being said is that the sense of duality is intimately related to a necessary limitation of perception which occurs with every movement from subjectivity to objectivity. |
60. Điều đang được nói là cảm thức về nhị nguyên liên hệ mật thiết với một sự giới hạn tất yếu của tri giác vốn xảy ra cùng mọi chuyển động từ tính chủ quan sang tính khách quan. |
|
61. On all these things we must ponder deeply. |
61. Về tất cả những điều này chúng ta phải suy tư sâu xa. |
|
The supposition is correct that this theory takes for granted a mighty Intelligence who works thus through an ordered plan, and Who consciously takes shape and incarnates in order to carry out specific purposes of His own. |
Giả định là đúng rằng học thuyết này xem như đã mặc nhiên có một Trí Tuệ hùng vĩ vận hành như thế qua một Thiên Cơ có trật tự, và Ngài có ý thức kết hình và lâm phàm để thực thi các mục đích đặc thù của riêng Ngài. |
|
62. The “mighty Intelligence” here referenced is our Solar Logos. |
62. “Trí Tuệ hùng vĩ” được nhắc ở đây là Thái dương Thượng đế của chúng ta. |
|
63. All the following factors must be related to the Solar Logos: |
63. Tất cả các yếu tố sau đây đều phải được liên hệ với Thái dương Thượng đế: |
|
a. Existence itself |
a. Bản thân hiện hữu |
|
b. Time and Space |
b. Thời gian và Không gian |
|
c. The quality of desire or necessity |
c. Phẩm tính của dục vọng hay tất yếu |
|
d. The acquisitive faculty inherent in life itself |
d. Khả năng thủ đắc vốn tại nền tảng của chính sự sống |
|
But this hypothesis is but the rock bottom fact underlying the eastern teaching, and is one that is largely accepted, though diversely expressed and viewed by thinkers of all schools of thought throughout the globe. |
Nhưng giả thuyết này chỉ là sự kiện nền tảng như đá tảng nằm bên dưới giáo huấn phương Đông, và là điều được chấp nhận rộng rãi, tuy được diễn đạt và nhìn nhận khác nhau bởi các nhà tư tưởng thuộc mọi trường phái trên khắp địa cầu. |
|
64. According to DK, the eastern teaching has a preeminence even in the western world (and, presumably, even if unrecognized in the western world as of eastern origin). |
64. Theo Chân sư DK, giáo huấn phương Đông có tính ưu việt ngay cả trong thế giới phương Tây (và, có lẽ, dù không được nhận ra ở phương Tây là có nguồn gốc phương Đông). |
|
Even this conception is but a partial presentation of the real Idea, but owing to the limitations of man at this stage of evolution, it is sufficient as a working basis on which he may erect his temple of truth. |
Ngay cả quan niệm này cũng chỉ là một trình bày bộ phận của Ý Tưởng thực, nhưng do các giới hạn của con người ở giai đoạn tiến hoá này, nó đủ làm nền tảng thực hành trên đó y có thể xây dựng đền đài chân lý của mình. |
|
65. VSK muses: “Theory and hypothesis, is this not a ‘cul-de-sac’? How does one go about creating a ‘temple of truth’ with partial presentations of real Ideas?” |
65. VSK ngẫm nghĩ: “Lý thuyết và giả thuyết, chẳng phải đây là một ‘ngõ cụt’ hay sao? Làm sao người ta kiến tạo một ‘đền đài chân lý’ bằng những trình bày bộ phận của các Ý Tưởng thực?” |
|
66. May it be suggested that all temples are but ‘partialities’ and that, as partialities, will have one day to be destroyed? No temple is a perfect presentation of Truth; all are but approximations. |
66. Có thể gợi ý rằng mọi ngôi đền đều chỉ là ‘các phần mảnh’, và rằng, là các phần mảnh, một ngày kia sẽ phải bị hủy diệt? Không ngôi đền nào là một trình bày hoàn bích của Chân Lý; tất cả chỉ là các tiệm cận. |
|
67. We see again that the limited development of man’s mind and understanding prevents an apprehension of even deeper truths concerning the Solar Logos. |
67. Chúng ta lại thấy sự phát triển hạn chế của thể trí và sự thấu hiểu nơi con người ngăn trở việc lĩnh hội các chân lý sâu hơn nữa liên quan đến Thái dương Thượng đế. |
|
68. I suspect that the deeper truths would necessitate the idea of the “mighty Intelligence” becoming His creation rather than creating it. |
68. Tôi ngờ rằng các chân lý sâu hơn ấy sẽ đòi hỏi ý niệm về “Trí Tuệ hùng vĩ” trở thành chính Sáng Tạo của Ngài hơn là tạo ra nó. |
|
This Entity, Whom we call the solar Logos, is in no sense the same as the personal God of the Christian, who is no more nor less than man himself, expanded into a being of awful power, and subject to the virtues and vices of man himself. |
Thực Thể này, Đấng mà chúng ta gọi là Thái dương Thượng đế, hoàn toàn không giống với Thượng đế cá nhân của tín đồ Ki-tô giáo, vị không nhiều hơn hay ít hơn chính con người, được khuếch đại thành một hữu thể có quyền năng khủng khiếp, và chịu chi phối bởi cả các đức hạnh lẫn tật xấu của chính con người. |
|
69. We are reminded of the great truth that ‘man makes God in his own image’. This is the ultimate psychological projection. |
Thái dương Thượng đế vượt hơn con người, vì Ngài là tổng thể của mọi tiến hóa trong toàn bộ hệ mặt trời, bao gồm cả nhân loại, vốn là một tiến hóa đứng tại điểm giữa so với các tiến hóa khác. |
|
The solar Logos is more than man, for He is the sumtotal of all the evolutions within the entire solar system, including the human, which is an evolution standing at a middle point in relation to the other evolutions. |
70. Đây là một cách khác để nói rằng “Đấng Thiên Nhân Vĩ Đại” là một Hữu Thể bao gồm nhiều đẳng trật của sự sống, từ những sự sống thấp nhất, bị giới hạn bởi vật chất, cho đến và bao gồm cả những vị có tầm vóc hầu như tương đương một Thái dương Thượng đế. |
|
70. This is another way of saying that the “Grand Heavenly Man” is a Being inclusive of many orders of life, from the lowest, materially bounded lives, up to and including those whose stature is almost that of a Solar Logos. |
71. Chân sư DK đang cố gắng giải trừ trong tâm trí chúng ta quan niệm thông thường về một “Thượng đế cá nhân”. Tuy vậy, Thái dương Thượng đế vĩ đại thực sự là một ‘ Con Người ’ Vĩ Đại. |
|
71. DK is attempting to disabuse our minds of the usual notion of a “personal God”. Yet, the great Solar Logos is indeed a ‘Grand Man’. |
Ở một bên Ngài là các đoàn thể chúng sinh vượt hơn nhân loại, và trong [240] các kalpa quá khứ, đã đạt và vượt qua giai đoạn nơi con người hiện ở; |
|
On one side of him are ranged hosts of beings who are more than human, and who, in [240] past kalpas, reached and passed the stage where man now is; |
Ở một phía của y là các đạo quân những hữu thể vốn cao hơn con người, và trong những kalpa [240] quá khứ đã đạt đến và vượt qua giai đoạn mà con người hiện đang ở. |
|
72. Such beings, for instance, are Solar Angels, the informing Lives of kingdoms of nature, Globe Lords, Chain Lords, Scheme Lords, and members of the deva evolution of development higher than man, such as the Raja Deva Lords of planes and Lords of subplanes. No doubt there a many types of entities more highly developed than man. The many rungs of the ‘Ladder of Creation’ are far from fully specified. |
72. Những chúng sinh như thế, chẳng hạn, là các Thái dương Thiên Thần, những Sự Sống thấm nhuần các giới trong thiên nhiên, các Chúa Tể Bầu hành tinh, Chúa Tể Dãy, Chúa Tể Hệ hành tinh, và các thành viên của tiến hóa chư thiên có trình độ phát triển cao hơn con người, như các Chúa Tể Raja Deva của các cõi và các Chúa Tể cõi phụ. Chắc chắn có nhiều loại thực thể phát triển cao hơn con người. Nhiều bậc thang của ‘Chiếc Thang Sáng Tạo’ còn xa mới được chỉ rõ đầy đủ. |
|
on the other side are hosts of the subhuman evolutions who in future kalpas will achieve the stage of humanity. |
ở bên kia là các đoàn thể của những tiến hóa tiền-nhân loại vốn trong các kalpa tương lai sẽ đạt tới giai đoạn nhân loại. |
|
73. The stone becomes the plant, the plant an animal, the animal a man, the man an angel and the angel a god—to paraphrase the ancient Kabalistic doctrine. |
73. Hòn đá thành cây cỏ, cây cỏ thành thú vật, thú vật thành người, người thành thiên thần và thiên thần thành thần linh—để diễn dịch giáo lý Cáp-ba-la cổ xưa. |
|
74. We see that our Solar Logos is positioned in the same manner as Arjuna. He has His own Kurukshetra. |
74. Chúng ta thấy Thái dương Thượng đế của chúng ta được đặt trong cùng một thế như Arjuna. Ngài có chiến địa Kurukshetra của riêng Ngài. |
|
75. VSK suggests: “We have the analogy of man to solar logos, and the distinction here stated; man does not sum to the same extent – i.e., middle point vs. septenate system”. |
75. VSK gợi ý: “Chúng ta có phép loại suy giữa con người và Thái dương Thượng đế, và có sự phân biệt được nêu ở đây; con người không cộng tổng tới mức độ như thế—tức là, điểm giữa so với một hệ thất phân”. |
|
76. The factor of dualism is very strong in our Solar Logos because of His second ray/fourth ray nature. His nature is specifically (at this time) astral/buddhic. |
76. Yếu tố nhị nguyên tính rất mạnh nơi Thái dương Thượng đế của chúng ta do bản tánh cung hai/cung bốn của Ngài. Bản tánh của Ngài (vào lúc này) là cảm dục/Bồ đề một cách đặc thù. |
|
Man stands midway between the two, and is at the point of balance; herein lies his problem. |
Con người đứng ở giữa hai bờ, và ở điểm cân bằng; ở đây có vấn đề của y. |
|
77. The unique position of man (at the place of friction in the Life of the Solar Logos) is suggested. Man could, apparently, shine forth as a harmony-inducing factor in solar logoic life. |
77. Vị thế độc nhất của con người (tại nơi ma sát trong Sự sống của Thái dương Thượng đế) được gợi ý. Hình như con người có thể tỏa sáng như một nhân tố gây hòa điệu trong sự sống của Thái dương Thượng đế. |
|
78. The number four is prominent in the life of man; the fourth ray is the middlemost ray, and the ray involved in the greatest stress, friction and conflict. |
78. Con số bốn trội bật trong đời sống của con người; cung bốn là cung ở giữa nhất, và là cung dính dự vào căng thẳng, ma sát và xung đột lớn nhất. |
|
He does not partake wholly of the material side of evolution, nor is he wholly the expression of the third Logos, the Brahma aspect of the Deity, Who is an expression of pure energy or intelligence, motivating that tenuous something which we call substance. |
Y không hoàn toàn thuộc về mặt vật chất của tiến hóa, cũng không hoàn toàn là biểu lộ của Đấng Logos thứ ba, phương diện Brahma của Thượng đế, vốn là một biểu lộ của năng lượng hay trí tuệ thuần túy, tác động lên cái mảnh mảnh mà chúng ta gọi là chất. |
|
79. Is it not interesting that the “material side of evolution” seems to be differentiated from “the expression of the third Logos”? |
79. Há chẳng thú vị sao khi “mặt vật chất của tiến hóa” dường như được phân biệt với “biểu lộ của Đấng Logos thứ ba”? |
|
80. There is always a problem when attempting to conceive whether the ‘First Family’ (cosmically considered) is a three or a four. When the Mother (Matter) is differentiated from God the Holy Spirit or Third Logos, then the ‘First Family’ is seen as a four rather than a three. |
80. Luôn luôn có vấn đề khi cố gắng quan niệm rằng ‘Gia Đình Thứ Nhất’ (xét về mặt vũ trụ) là một ba hay một bốn. Khi Mẹ (Vật Chất) được phân biệt khỏi Thượng đế là Chúa Thánh Thần hay Đấng Logos thứ ba, thì ‘Gia Đình Thứ Nhất’ được thấy như một bốn thay vì một ba. |
|
81. This section seems to be suggesting that man is identified wholly with neither of these aspect of God—neither matter nor substance. |
81. Phần này dường như gợi rằng con người hoàn toàn không đồng nhất với bất kỳ phương diện nào trong hai phương diện của Thượng đế—không phải vật chất cũng không phải chất. |
|
82. Let us note the excellent definition of the Brahma aspect of Deity as “an expression of pure energy or intelligence, motivating that tenuous something which we call substance.” |
82. Chúng ta hãy lưu ý định nghĩa tuyệt hảo về phương diện Brahma của Thượng đế như “một biểu lộ của năng lượng hay trí tuệ thuần túy, tác động lên cái mảnh mảnh mà chúng ta gọi là chất.” |
|
83. Is substance to be related to the realm of matter, or does substance only exist when God the Holy Spirit/Brahma has acted within matter. |
83. Chất có nên được liên hệ với cõi của vật chất, hay chỉ hiện hữu khi Thượng đế là Chúa Thánh Thần/Brahma đã tác động trong vật chất? |
|
84. A distinction is needed between Matter, matter and substance: |
84. Cần một phân biệt giữa Vật Chất, vật chất và chất: |
|
a. Matter (with a capital M) is Mulaprakriti or Virgin Root Matter, undifferentiated and infinitely dense—a reflection of Pure Being/Spirit |
a. Vật Chất (chữ hoa) là Mulaprakriti hay Căn Chất Đồng Trinh, bất biến phân và vô cùng đậm đặc—một phản ảnh của Thuần Hữu/Thần Linh |
|
b. The second term is “matter” (with a small “m”). This is Matter upon which and within which Fohat/Holy Spirit/Brahma has done its ‘work’, creating differentiated particles (which are nothing but Fohat in multitudinous divisions working in Matter—present as animated, intelligent, “holes in Space/Matter”) |
b. Thuật ngữ thứ hai là “vật chất” (chữ thường). Đây là Vật Chất mà trên đó và trong đó Fohat/Chúa Thánh Thần/Brahma đã thực hiện ‘công trình’ của mình, tạo ra các hạt phân biệt (vốn chẳng là gì khác ngoài Fohat trong vô số phân phân làm việc trong Vật Chất—hiện diện như những “lỗ trong Không gian/Vật chất”, có sinh khí và trí tuệ) |
|
c. The relation of matter to substance is relative. When a certain type of matter is ‘vibratorily higher’ than another type of matter, it is called “substance”. When matter is lower than another type of matter which is substantial to it, it is called “matter”. |
c. Mối liên hệ giữa vật chất và chất là tương đối. Khi một kiểu vật chất nào đó ‘rung động cao’ hơn một kiểu vật chất khác, nó được gọi là “chất”. Khi vật chất thấp hơn một kiểu vật chất khác vốn là “chất” đối với nó, thì nó được gọi là “vật chất”. |
|
d. While there is nothing absolutely definitive in these definitions, they may be a source of useful differentiations when dealing with the confusing subjects of matter, substance and form. |
d. Dù không có gì tuyệt đối dứt khoát trong các định nghĩa này, chúng có thể là nguồn của những phân biệt hữu ích khi đề cập đến các chủ đề rối rắm về vật chất, chất và hình tướng. |
|
He is not wholly Spirit, the expression of the first Logos, the Mahadeva aspect, which is an expression of pure will or necessitous desire, impelling to manifestation. |
Y cũng không hoàn toàn là Tinh thần, biểu lộ của Đấng Logos thứ nhất, phương diện Mahadeva, vốn là một biểu lộ của ý chí thuần khiết hay dục vọng tất yếu, thôi đẩy đến hiện lộ. |
|
85. Until man is a Chohan, a member of the sixth or Planetary Kingdom, he is more representative of the lower two aspects of divinity than of Spirit. |
85. Cho đến khi con người là một Chohan, một thành viên của giới thứ sáu hay Giới Hành Tinh, y đại diện cho hai phương diện thấp của thiên tính nhiều hơn là cho Tinh thần. |
|
86. We are given an extraordinary definition of Spirit as the Mahadeva aspect—“pure will or necessitous desire, impelling to manifestation”. |
86. Chúng ta được ban một định nghĩa phi thường về Tinh thần như phương diện Mahadeva—“ý chí thuần khiết hay dục vọng tất yếu, thôi đẩy đến hiện lộ”. |
|
87. We see the inescapable link between will and desire. Will is a desire (of some greater Entity) which is necessary. It is an unavoidable or inevitable desire, which if followed (as it must be) will lead towards appearance or manifestation. The old saying, “your wish is my command” reveals an important relationship between the desire of that which is higher and the will of that which is lower. |
87. Chúng ta thấy mối liên kết bất khả thoát giữa ý chí và dục vọng. Ý chí là một dục vọng (của một Thực Thể lớn hơn) vốn là tất yếu. Đó là một dục vọng không thể tránh hay tất định, nếu đi theo (như tất phải đi theo) sẽ dẫn đến xuất hiện hay hiện lộ. Câu nói xưa, “ước muốn của ngươi là mệnh lệnh của ta” hé lộ một mối liên hệ quan trọng giữa dục vọng của cái cao hơn và ý chí của cái thấp hơn. |
|
88. Of course, there is also, eventually, a necessitous desire for abstraction or liberation—i.e., for the end of manifestation. |
88. Dĩ nhiên, cuối cùng cũng có một dục vọng tất yếu hướng đến siêu trừ hay giải thoát—tức là, hướng đến sự chấm dứt của hiện lộ. |
|
It is the fundamental motive itself or the great will to be. |
Đó là chính động cơ nền tảng hay đại chí muốn hiện hữu. |
|
89. We are being told that the fundamental motive, presumably substanding all entities, is the “great will to be”. |
89. Chúng ta đang được cho biết rằng động cơ nền tảng, có lẽ nằm dưới mọi thực thể, là “đại chí muốn hiện hữu”. |
|
90. The motive of the First Logos is the “will to be”—presumably to exist in the presence of something rather than to continue to abide as itself in the presence of nothing. These are paradoxical thoughts, but if pondered may yield some illumination. |
90. Động cơ của Đấng Logos thứ nhất là “ý chí hiện hữu”—có lẽ để hiện hữu trong sự hiện diện của cái gì đó hơn là tiếp tục an trụ như chính mình trong sự hiện diện của hư vô. Đây là những tư tưởng nghịch lý, nhưng nếu suy gẫm có thể đem lại chút soi sáng. |
|
91. The great will to be is related to continuity—incessant being without interruption. There is no dualism in it. It can be conceived as the sustainment of Presence. |
91. “Đại chí muốn hiện hữu ” liên hệ với tính liên tục —hiện hữu bất tuyệt không gián đoạn. Trong đó không có nhị nguyên. Nó có thể được quan niệm như sự duy trì của Hiện Diện. |
|
Man is a product of the union of the two; he is the meeting place of matter or active intelligent substance, and of Spirit or the basic will. |
Con người là sản phẩm của sự giao hợp giữa hai bên; y là nơi gặp gỡ của vật chất hay chất trí năng hoạt động, và của Tinh thần hay ý chí căn bản. |
|
92. If man is the product of Spirit and matter (or active intelligent substance), then man is light or solar fire, or the second aspect of divinity which can only arise from the union of the first and third aspects. |
92. Nếu con người là sản phẩm của Tinh thần và vật chất (hay chất trí năng hoạt động), thì con người là ánh sáng hay Lửa Thái dương, hay phương diện thứ hai của thiên tính vốn chỉ có thể khởi sinh từ sự phối hiệp của phương diện thứ nhất và thứ ba. |
|
93. This is a new way, perhaps, of thinking about man. |
93. Đây có thể là một cách mới để nghĩ về con người. |
|
94. We are given a definition of Spirit as the “basic will”. And the basic will is the “will to be”. |
94. Chúng ta được cho một định nghĩa về Tinh thần như “ý chí căn bản”. Và ý chí căn bản là “ý chí hiện hữu”. |
|
He is the child born of their marriage or at-one-ment. He assumes objectivity in order to express that which is in each of the two opposites, plus the result of their merging in himself. |
Y là đứa con sinh ra từ cuộc hôn phối hay sự hợp nhất của họ. Y mang thân ngoại hiển để biểu lộ cái ở trong mỗi bên đối nghịch, cộng với kết quả của sự hòa hợp của họ trong chính y. |
|
95. We are given to understand the composite nature of man—representing both Spirit and Matter/matter and yet something other born of the merging of the two within himself. |
95. Chúng ta được hiểu về bản chất tổng hợp của con người—đại diện cả Tinh thần lẫn Vật Chất/vật chất và đồng thời là một cái gì khác sinh ra từ sự hòa hợp của hai bên trong chính y. |
|
96. Man is, therefore, a vehicle of expression for both Spirit and Matter/matter. |
96. Vậy con người là một vận cụ biểu lộ cho cả Tinh thần lẫn Vật Chất/vật chất. |
|
97. From this perspective, man is the “son” (on his own level) just as the “Grand Heavenly Man” is the “Son”. |
97. Từ viễn cảnh này, con người là “đứa con” (trên cõi riêng của y) cũng như “Đấng Thiên Nhân Vĩ Đại” là “Ngôi Con”. |
|
98. VSK sees “Man thus as Gemini incarnate (again, both, but neither this or that fully”). |
98. VSK thấy “Con người như thế là Song Tử nhập thể (một lần nữa, cả hai, nhưng không hoàn toàn cái này hay cái kia).” |
|
2. Its Nature and Duality. |
2. Bản Chất và Nhị Nguyên Tính của Nó. |
|
99. Again, we are referring to a solar system. |
99. Lặp lại, chúng ta đang nói về một hệ mặt trời. |
|
In terms of quality what have we? Active intelligence at one with will or power produces that “Son of necessity” (as H. P. B. expresses it; 98: S. D., I, 74.) |
Xét về phẩm tính chúng ta có gì? Trí năng hoạt động hợp nhất với ý chí hay quyền năng sản sinh “Người Con của tất yếu” (như Bà H. P. B. diễn đạt; 98: Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 74.) |
|
100. A solar system is a “Son of necessity” and man, also, is a ‘son of necessity’. Both are born of “necessitous desire” which is the pure “will to be” or “basic will”. Will is born of that which is understood as desire on a plane higher than that on which will originates. |
100. Một hệ mặt trời là một “Người Con của tất yếu” và con người cũng vậy, là một “người con của tất yếu”. Cả hai đều được sinh ra từ “dục vọng tất yếu” vốn là “ý chí hiện hữu” thuần khiết hay “ý chí căn bản”. Ý chí được sinh ra từ cái vốn được hiểu là dục vọng trên một cõi cao hơn cõi mà ý chí khởi nguyên. |
|
Who embodies intelligence, will or desire, and their united latent demonstration, love-wisdom. |
Người thâu nhiếp trí năng, ý chí hay dục vọng, và sự biểu hiện tiềm tàng hợp nhất của chúng, tức là bác ái–minh triết. |
|
101. It is amazing that DK, in this context, is always linking will with desire. |
101. Thật đáng kinh ngạc khi Chân sư DK, trong mạch văn này, luôn nối kết ý chí với dục vọng. |
|
102. By doing this, He creates a link to the desire which is superior to the will in question. |
102. Khi làm như vậy, Ngài tạo ra một nối kết với dục vọng vốn siêu việt ý chí đang được nói đến. |
|
103. When will/desire merge with intelligence, love-wisdom is created. In other words, a “son” or “Son” is born. |
103. Khi ý chí/dục vọng hòa nhập với trí năng, bác ái–minh triết được sinh thành. Nói cách khác, một “người con” hay “Ngôi Con” được sinh ra. |
|
In terms of Fire how might we express an analogous thought? |
Xét về phương diện Lửa, chúng ta có thể diễn đạt một tư tưởng tương tự như thế nào? |
|
104. We have been viewing the subject of duality in terms of the divine aspects—such as Matter/matter (or intelligence) and will/desire. |
104. Chúng ta đã khảo sát chủ đề nhị nguyên tính theo phương diện các Phương diện thiêng liêng—như Vật Chất/vật chất (hay trí năng) và ý chí/dục vọng. |
|
105. Now we will consider the same subject in terms of Fire. |
105. Nay chúng ta sẽ xét cùng chủ đề ấy theo phương diện Lửa. |
|
The fire latent in matter—itself a product of an earlier manifestation of the same cosmic Identity, or the relatively perfected quality worked out by Him in a previous cosmic incarnation—is set in motion again by the desire of that same Identity to circle once more the wheel of rebirth. |
Ngọn lửa tiềm tàng trong vật chất—bản thân nó là sản phẩm của một lần hiện lộ trước đó của cùng Một Định Danh vũ trụ, hay phẩm tính tương đối đã được hoàn thiện mà Ngài đã triển khai trong một lần lâm phàm vũ trụ trước— được tái khởi động bởi dục vọng của chính Định Danh ấy muốn một lần nữa chu du bánh xe luân hồi. |
|
106. The same cosmic identity is the Solar Logos. In a previous solar system He developed a certain quality which now manifests as the “fire latent in matter”. That solar system was largely a fohatic solar system. |
106. Cùng một Định Danh vũ trụ ấy là Thái dương Thượng đế của chúng ta. Trong một hệ mặt trời trước, Ngài đã phát triển một phẩm tính nhất định mà nay biểu hiện như “ngọn lửa tiềm tàng trong vật chất”. Hệ mặt trời đó chủ yếu là một hệ mặt trời mang tính Fohat. |
|
107. We note that the “fire latent in matter” is called a “relatively perfected quality”. The mode and manner of this fire are, therefore, distinctive of this great cosmic identity—the Solar Logos. |
107. Chúng ta lưu ý rằng “ngọn lửa tiềm tàng trong vật chất” được gọi là một “ phẩm tính tương đối đã được hoàn thiện”. Cách thức và cung cách của ngọn lửa này, do đó, mang tính đặc trưng của Định Danh vĩ đại vũ trụ—Thái dương Thượng đế. |
|
108. It is this lowest fire (considered in relation to our solar system) that is set in motion by the desire of the Solar Logos for another incarnation. |
108. Chính ngọn lửa thấp nhất này (xét trong tương quan với thái dương hệ của chúng ta) được khởi động bởi dục vọng của Thái dương Thượng đế muốn thêm một lần lâm phàm nữa. |
|
That “fire by friction” produces heat and radiation and calls forth a reaction from its [241] opposite “electric fire” or spirit. |
“Ngọn ‘lửa do ma sát’ đó” tạo ra nhiệt và bức xạ và gọi mời một phản ứng từ [ 241] đối cực của nó là “Lửa Điện” hay Tinh thần. |
|
109. It is important to realize the sequence: the reactivation of that relatively perfected quality, fire by friction, is that which evokes “electric fire”. First the demonstration of fire by friction and then the response of electric fire. |
109. Điều quan trọng là nhận ra trình tự: sự tái hoạt hóa phẩm tính tương đối đã được hoàn thiện, tức là lửa do ma sát, là cái gợi lên “Lửa Điện”. Trước tiên là sự trình hiện của lửa do ma sát rồi sau đó là sự đáp ứng của Lửa Điện. |
|
Here we have the thought of the Ray striking through matter, for the action of electric fire is ever forward, as earlier suggested. The one Ray “electric fire” drops into matter. This is the systemic marriage of the Father and the Mother. |
Ở đây chúng ta có ý tưởng về Cung xuyên kích qua vật chất, vì tác động của Lửa Điện bao giờ cũng là tiến tới, như đã gợi ý trước. Một Cung duy nhất là “Lửa Điện” rơi vào vật chất. Đây là cuộc hôn phối mang tính hệ thống của Cha và Mẹ. |
|
110. The “systemic marriage of the Father and the Mother” is described in arresting terms. |
110. “Cuộc hôn phối mang tính hệ thống của Cha và Mẹ” được mô tả bằng những từ ngữ gây ấn tượng mạnh. |
|
111. We are given words (in relation to the Ray of Electric Fire) like “striking through matter”. We are reminded of the section in EP II under “The Blessed Ones” in which we are told of the ray one Monad: |
111. Chúng ta được trao những từ (liên hệ đến Cung của Lửa Điện) như “xuyên kích qua vật chất”. Chúng ta được nhắc đến đoạn trong Tâm Lý Học Nội Môn II, nằm dưới nhan đề “Các Đấng Chân Phúc”, nơi chúng ta được cho biết về Chân thần cung một: |
|
“The Blessed One flies like an arrow into matter. He destroys (or ruptures) the way by which he might return. He grounds himself deeply in the depths of form”. (EP II 36) |
“Đấng Chân Phúc bay như mũi tên vào vật chất. Ngài phá hủy (hay bẻ gãy) con đường nhờ đó Ngài có thể quay về. Ngài tiếp đất sâu thẳm trong vực của hình tướng.” (EP II 36) |
|
112. We are reminded of the nature of ray one motion—ever forward, “progress onward”, “driving forward through space”. |
112. Chúng ta được nhắc đến bản chất vận động của cung một—bao giờ cũng tiến tới, “tiến lên phía trước”, “xô đi xuyên qua không gian”. |
|
113. What may be the exact physics of “striking through matter” we can only imagine. It seems to be an act of penetration which perhaps vivifies the nucleus of any unit of matter. |
113. “Vật lý học chính xác” của “xuyên kích qua vật chất” có thể là gì chúng ta chỉ có thể hình dung. Có vẻ đó là một hành vi xuyên thấu có lẽ làm sinh động hạch nhân của bất kỳ đơn vị vật chất nào. |
|
The result is the blending of these two fires, and their united production of that expression of fire which we call “solar fire.” Thus is produced the Son. Active Intelligence and Will are united and love-wisdom, when perfected through evolution, will be the outcome. |
Kết quả là sự pha hòa của hai ngọn lửa này, và sự sản sinh hợp nhất của chúng thành biểu thức của lửa mà chúng ta gọi là “lửa Thái dương”. Như thế Ngôi Con được sinh thành. Trí Năng Hoạt Động và Ý Chí được hợp nhất và Bác Ái–Minh Triết, khi được hoàn thiện qua tiến hóa, sẽ là kết quả. |
|
114. This is the long-familiar story. |
114. Đây là câu chuyện quen thuộc từ lâu. |
|
115. We use a word like “blending” but it covers a type of interplay which should be described (were it possible to us) as technically as any chemical reaction. |
115. Chúng ta dùng một từ như “pha hòa” nhưng nó che phủ một kiểu tương giao mà (nếu có thể với chúng ta) lẽ ra phải được mô tả kỹ thuật như bất kỳ phản ứng hóa học nào. |
|
116. VSK suggests: “heat or radiation calls forth electric fire; the ‘female matter’ or the receptive pole invoke the positive action”. |
116. VSK gợi ý: “nhiệt hay bức xạ gọi mời Lửa Điện; ‘vật chất nữ’ hay cực tiếp thụ khẩn cầu hành động dương tính”. |
|
Electric fire or Spirit, united to fire by friction (heat) produces solar fire or light. |
Lửa Điện hay Tinh thần, kết hợp với lửa do ma sát (nhiệt) tạo ra lửa Thái dương hay ánh sáng. |
|
117. Two simple definitions are given: |
117. Hai định nghĩa đơn giản được đưa ra: |
|
a. Fire by friction is heat |
a. Lửa do ma sát là nhiệt |
|
b. Solar fire is light |
b. Lửa Thái dương là ánh sáng |
|
118. The fire of Spirit and fire within Matter manifesting as matter create the fire of Mind. |
118. Lửa của Tinh thần và lửa ở trong Vật Chất biểu hiện như vật chất tạo ra lửa của Trí. |
|
119. The light here produced is really the light of the soul. |
119. Ánh sáng được tạo ra ở đây thực ra là ánh sáng của linh hồn. |
|
120. Is it not interesting to understand solar fire as light? It also has a love component which is not here emphasized—for, in its own right, it is a dual fire. |
120. Há chẳng thú vị khi hiểu lửa Thái dương như ánh sáng? Nó cũng có một thành phần tình thương vốn không được nhấn mạnh ở đây—vì, tự thân, nó là một ngọn lửa kép. |
|
121. It becomes clear that evolution, even humanly speaking, is an emergence from heat into light. |
121. Rõ ràng rằng tiến hóa, ngay cả xét về mặt con người, là một sự trổi hiện từ nhiệt vào ánh sáng. |
|
122. We have been speaking of two kinds of unions: |
122. Chúng ta đã nói về hai dạng hợp nhất: |
|
a. A union of fires |
a. Hợp nhất của các ngọn lửa |
|
b. A union of distinct divine qualities |
b. Hợp nhất của các phẩm tính thiêng liêng biệt dị |
|
Hence, when the cosmic Entity takes form, there is added to the active intelligence which is the product of His earlier incarnation, a further quality, which is inherent and potential, that of love-wisdom. |
Vậy nên, khi Thực Thể vũ trụ thọ thân, được gia thêm vào trí năng hoạt động vốn là sản phẩm của lần lâm phàm trước của Ngài, một phẩm tính nữa, vốn nội tại và tiềm thể, đó là bác ái–minh triết. |
|
123. It would seem that every such Entity is endowed within its monadic nature with intelligence, love and will. This trinity is inherent within every being. |
123. Có vẻ như mọi Thực Thể như thế đều được phú sẵn trong bản tánh chân thần của mình bằng trí năng, tình thương và ý chí. Bộ ba này vốn nội tại trong mọi hữu thể. |
|
124. These qualities, however, are developed during the course of manifestation or objectification, so when we speak of the “active intelligence’ which is the product of the Solar Logos’ earlier incarnation, we are speaking of the degree to which this inherent quality has been developed and exercised. |
124. Tuy nhiên, các phẩm tính này được phát triển trong suốt tiến trình hiện lộ hay khách thể hóa, nên khi chúng ta nói “trí năng hoạt động” là sản phẩm của lần lâm phàm trước của Thái dương Thượng đế, chúng ta đang nói về mức độ mà phẩm tính nội tại này đã được phát triển và vận dụng. |
|
125. Within the Solar Logos, love-wisdom is both “inherent and potential”, just as active intelligence was before it was worked out in the previous solar system. |
125. Nơi Thái dương Thượng đế, bác ái–minh triết vừa “nội tại vừa tiềm thể”, như trí năng hoạt động đã từng như thế trước khi được triển khai trong hệ mặt trời trước. |
|
126. In all this we realize that every entity, in its evolutionary unfoldment, builds upon past accomplishment. |
126. Qua tất cả điều này chúng ta nhận ra rằng mỗi thực thể, trong cuộc khai mở tiến hóa của mình, xây dựng trên thành tựu quá khứ. |
|
This is the ability to love that which is objective or the not-self, and ultimately to use with wisdom the form. |
Đây là năng lực yêu mến cái vốn khách thể hay phi-ngã, và sau cùng là dùng hình tướng một cách khôn ngoan. |
|
127. The form cannot be used with wisdom unless it is loved. |
127. Hình tướng không thể được dùng một cách khôn ngoan nếu nó không được yêu mến. |
|
128. We might say that the love of Self is fundamental to the Self. In the presence of the Great Self, love flows naturally. What must be learned is the ability to “love that which is objective” or the apparent not-Self. |
128. Chúng ta có thể nói tình yêu Tự Ngã là nền tảng đối với Tự Ngã. Trong sự hiện diện của Đại Tự Ngã, tình yêu tuôn chảy tự nhiên. Điều phải học là năng lực “yêu mến cái vốn khách thể” hay cái biểu kiến là phi-Tự Ngã. |
|
129. Even though the not-Self is the Self, because of the process of emanation, it appears at first foreign and other, and so, natural love-of-Self does not immediately apply to that extension of Self we call the not-Self. |
129. Dẫu phi-Tự Ngã là Tự Ngã, do tiến trình xuất lộ, nó thoạt đầu xuất hiện như xa lạ và khác biệt, và vì thế, tình yêu-tự-nhiên-đối-với-Tự-Ngã không lập tức áp dụng cho phần mở rộng của Tự Ngã mà chúng ta gọi là phi-Tự Ngã. |
|
130. It is interesting to contrast the usual ray two and ray six attitudes towards form. Those on the second ray, under the influence of compassion and tolerance, often consider the form temporarily adequate, and embrace the form within the circle of buddhic life. Ray six individuals are often too idealistic, hating the limitations of the form. Thus, a name for this ray is “The Hater of Forms” (EP I 80). |
130. Thật thú vị khi đối chiếu các thái độ thông thường của cung hai và cung sáu đối với hình tướng. Những người cung hai, dưới ảnh hưởng của bi mẫn và bao dung, thường xem hình tướng tạm thời là đủ, và ôm ấp hình tướng trong vòng sống Bồ đề. Những người cung sáu thường quá lý tưởng, ghét những hạn chế của hình tướng. Do đó, một tên của cung này là “Kẻ Ghét Các Hình Tướng” (EP I 80). |
|
131. We gather from the extract above that the form must be treated both lovingly and wisely. |
131. Chúng ta rút ra từ đoạn trích trên rằng hình tướng phải được đối đãi vừa với tình thương vừa với minh triết. |
|
Pure will is as yet an abstraction, and will only be brought into full development in another incarnation of the Logos. |
Ý chí thuần túy vẫn còn là một trừu tượng, và chỉ sẽ được đưa vào phát triển viên mãn trong một lần lâm phàm khác của Đấng Logos. |
|
132. By an abstraction we may mean that which exists in latency but is currently not present within the field of manifestation. |
132. Bằng một trừu tượng, chúng ta có thể muốn nói đến cái hiện hữu trong tiềm tàng nhưng hiện chưa có mặt trong trường hiện lộ. |
|
Mind or Intelligence is not an abstraction; it is something that IS. |
Thể trí hay Trí tuệ không phải là một trừu tượng; nó là cái ĐANG LÀ. |
|
133. This is another way of saying that the Primordial Ray has been long-established and is the foundation of all present development. |
133. Đây là một cách khác để nói rằng Cung Nguyên Sơ đã được thiết lập từ lâu và là nền tảng của mọi phát triển hiện nay. |
|
Neither is love-wisdom an abstraction. It is in process of development or bringing into manifestation, and is the aspect of the Son. |
Bác ái–minh triết cũng không phải là một trừu tượng. Nó đang trong tiến trình phát triển hay được đưa vào hiện lộ, và là phương diện của Ngôi Con. |
|
134. The quality of love-wisdom is intermediate. It not an abstraction, but neither is it completely established. Rather, it is emerging. Microcosmically, it is emerging as well. |
134. Phẩm tính bác ái–minh triết là trung gian. Nó không phải là một trừu tượng, nhưng cũng chưa hoàn toàn được thiết lập. Đúng hơn, nó đang trổi hiện. Xét về vi mô, nó cũng đang trổi hiện. |
|
135. Love-wisdom is the “aspect of the Son” or the characteristic quality of the Son. |
135. Bác ái–minh triết là “phương diện của Ngôi Con” hay phẩm tính đặc trưng của Ngôi Con. |
|
136. VSK states: “If we would quantify this ‘dilution’ of electric fire, it would be necessary to realize that we can only conjecture on the basis of what we know from a position of ‘mid solar fire’. How far off must we must be! |
136. VSK nói: “Nếu chúng ta muốn định lượng ‘sự pha loãng’ của Lửa Điện, cần nhận ra rằng chúng ta chỉ có thể phỏng đoán dựa trên những gì chúng ta biết từ vị trí ‘giữa lửa Thái dương’. Chúng ta còn cách xa đến nhường nào!” |
|
137. VSK offers some profound thoughts on color: “we have the ‘black’ of active intelligence, the pure Saturn of the first solar system. The Blue Logos, love, conjoined to the evolved black-midnight blue-indigo of ‘enlightened’ or solarized matter, results in the love-wisdom blue-indigo. Black (that which IS, or Mahat) has been synthesized into ‘blackest night’, the synthetic indigo revealed from Earth as part of a dual system. A dual system is one which revolves and creates day and night; duality, and love-wisdom are intrinsic. |
137. VSK đưa ra vài tư tưởng thâm thúy về màu sắc: “chúng ta có ‘đen’ của trí năng hoạt động, Saturn thuần khiết của hệ mặt trời thứ nhất. Đấng Logos Xanh, tình thương, kết hợp với đen–đêm–chàm được tiến hóa của vật chất ‘được soi sáng’ hay được thái dương hóa, tạo nên xanh–chàm bác ái–minh triết. Đen (cái vốn LÀ, hay Mahat) đã được tổng hợp thành ‘đêm đen nhất’, sắc chàm tổng hợp được hiển lộ từ Trái Đất như một phần của một hệ nhị nguyên. Một hệ nhị nguyên là một hệ xoay vần và tạo ra ngày và đêm; nhị nguyên, và bác ái–minh triết là những điều nội tại. |
|
What is above stated is in no way new, but these thoughts on essential duality are gathered together, in order to convey to our minds the necessity of viewing these things from the standpoint of their place in the cosmic scheme, and not from the point of view of our own planetary evolution and of man himself. |
Điều vừa nêu không hề mới, nhưng các tư tưởng về nhị nguyên tính căn yếu này được tập hợp lại để truyền đạt vào tâm trí chúng ta sự cần thiết phải nhìn các điều này từ lập trường vị trí của chúng trong đồ án vũ trụ, chứ không phải từ quan điểm của riêng tiến hóa hành tinh của chúng ta và của con người. |
|
138. The term “cosmic scheme” is arresting. We are used to thinking of planetary schemes, but only rarely do we think of our solar system as a scheme in relation to a cosmic scheme. Yet to a Cosmic Logos, our solar system must be but a scheme—a solar scheme. |
138. Thuật ngữ “đồ án vũ trụ” gây ấn tượng. Chúng ta quen nghĩ về các hệ hành tinh, nhưng chỉ hiếm khi nghĩ thái dương hệ của chúng ta như một hệ trong tương quan với một đồ án vũ trụ. Tuy thế, đối với một Thượng đế Vũ Trụ, thái dương hệ của chúng ta hẳn chỉ là một hệ—một hệ thái dương. |
|
139. Just as the planetary schemes are really as chains when compared to the Solar Logos manifesting through a solar scheme, so our solar scheme is really a chain within the cosmic scheme. Each entity, in its own right, may be considered a scheme; when we consider the entity in relation to the greater scheme that contains it, we call it a chain. |
139. Cũng như các hệ hành tinh thực ra chỉ là các dãy khi so với Thái dương Thượng đế biểu lộ qua một hệ mặt trời, thì hệ thái dương của chúng ta thực ra là một dãy trong đồ án vũ trụ. Mỗi thực thể, tự thân mà xét, có thể được xem như một hệ; khi chúng ta xét thực thể ấy trong tương quan với đồ án lớn hơn bao hàm nó, chúng ta gọi nó là một dãy. |
|
140. We are studying the essential duality of our particular Solar Logos and His system. Wherever there is manifestation, there is duality, but in our solar system, particularly, the factor of duality is paramount for it is a Love-Wisdom system related to the constellation Gemini. |
140. Chúng ta đang khảo cứu nhị nguyên tính căn yếu của Thái dương Thượng đế đặc thù của chúng ta và hệ của Ngài. Hễ ở đâu có hiện lộ, ở đó có nhị nguyên, nhưng trong thái dương hệ của chúng ta, đặc biệt, yếu tố nhị nguyên là tối thượng vì đây là một hệ Bác Ái–Minh Triết tương ưng với chòm Gemini. |
|
141. DK is in the process of decentralizing our thought, removing us not only from the human-centered position but from the geo-centric position. |
141. Chân sư DK đang tiến hành phi tập trung hóa tư tưởng của chúng ta, không chỉ rút chúng ta khỏi vị thế người-trung-tâm mà còn khỏi vị thế địa-tâm. |
|
Humanity is that evolution through which the Son aspect is to express itself most perfectly in this cosmic incarnation. |
Nhân loại là tiến hóa mà qua đó phương diện Ngôi Con sẽ tự biểu lộ một cách trọn vẹn nhất trong lần lâm phàm vũ trụ này. |
|
142. Given the present state of human turbulence, this is, perhaps, a surprising statement. |
142. Với tình trạng biến động của nhân loại hiện nay, đây có lẽ là một khẳng định gây ngạc nhiên. |
|
143. The soul ray of humanity will, however, one day be the second, and its personality ray, the fourth. Humanity is meant to be a ‘love being’ functioning through the quality of harmony. |
143. Tuy nhiên, cung linh hồn của nhân loại một ngày kia sẽ là cung hai, và cung phàm ngã của nó, cung bốn. Nhân loại được định là một “hữu thể tình thương” vận hành qua phẩm tính hòa điệu. |
|
Man blends the pairs of opposites, and the three fires meet in him. He is the best expression of the manasic principle and might be considered, from one very interesting [242] standpoint, the chef-d’oeuvre of Brahma. |
Con người pha hòa các cặp đối cực, và ba ngọn lửa gặp nhau trong y. Y là biểu lộ tốt nhất của nguyên lý manasic và có thể được xem, từ một [242] lập trường rất thú vị, như là kiệt tác của Brahma. |
|
144. The French term, chef-d’oeuvre, means, literally, “leading work”: a masterpiece especially in art or literature |
144. Thuật ngữ tiếng Pháp, chef-d’oeuvre, nghĩa là, theo sát chữ, “tác phẩm đứng đầu”: một kiệt tác, đặc biệt trong nghệ thuật hay văn chương. |
|
145. Man at his present stage of development is largely manasic. Man is meant, however, to carry the vibration of the Heart of the Sun, or the second aspect. The focus of the Monads of the Fourth Creative Hierarchy is the buddhic plane, promising for Man-the-Monad this fulfilment of the buddhic principle of love-wisdom. |
145. Con người ở giai đoạn phát triển hiện nay phần lớn là manasic. Tuy nhiên, con người được định sẽ mang rung động của Tim Thái Dương, hay phương diện thứ hai. Định chú của các Chân Thần thuộc Huyền Giai Sáng Tạo Thứ Tư là cõi Bồ đề, hứa hẹn cho Con-người-là-Chân-Thần sự thành tựu nguyên lý Bồ đề của bác ái–minh triết. |
|
146. The present rays of humanity are the ray four soul and the ray five personality. |
146. Các cung hiện tại của nhân loại là cung bốn linh hồn và cung năm phàm ngã. |
|
147. We can see why man, with his fifth ray relating to Brahma’s third ray, and his fourth ray relating to artistic perfection, could be considered Brahma’s masterpiece. |
147. Chúng ta có thể thấy vì sao con người, với cung năm liên hệ đến cung ba của Brahma, và cung bốn liên hệ đến sự hoàn thiện nghệ thuật, có thể được xem như kiệt tác của Brahma. |
|
148. A Master of the Wisdom is one who has ascended to the peak of Brahmic creation. He is man, and thus the four, or member of the fourth kingdom, but He is also the five pointed star and thus the embodiment in a particular form of a fivefold Brahmic perfection. The number five is was the number of the previous or Brahmic solar system. |
148. Một Chân sư Minh triết là người đã thăng lên đỉnh sáng tạo Brahma. Ngài là con người, và do đó là số bốn, hay một thành viên của giới thứ tư, nhưng Ngài cũng là sao năm cánh và như vậy là hiện thân trong một hình tướng riêng của một sự hoàn thiện Brahma ngũ phân. Con số năm là con số của hệ mặt trời trước, tức hệ của Brahma. |
|
He is the sheath for the life of God; he is the individualised consciousness of the Logos, manifesting through the seven divine Manasaputras, or Heavenly Men, in Whose bodies each unit of the human family finds place. |
Y là vỏ bọc cho Sự sống của Thượng đế; y là tâm thức được cá biệt hóa của Thượng đế, biểu lộ qua bảy Manasaputra thiêng liêng, hay các Đấng Thiên Nhân, trong Thân của Các Ngài mỗi đơn vị thuộc gia đình nhân loại tìm thấy chỗ của mình. |
|
149. From a higher perspective, the individualized consciousness of man is not his own entirely. It is actually “the individualized consciousness of the Logos”. Considered in this way, man’s consciousness is an extension of solar logoic consciousness. |
Từ một quan điểm cao hơn, tâm thức được biệt ngã hoá của con người không hoàn toàn là của riêng y. Thực ra nó chính là “tâm thức được biệt ngã hoá của Logos”. Được xem xét theo cách này, tâm thức của con người là một sự mở rộng của tâm thức Thái dương Thượng đế. |
|
He is the Vishnu aspect in process of development through the intelligence of Brahma, impelled by the will of Mahadeva. |
Y là phương diện Vishnu đang trong tiến trình được phát triển qua trí tuệ của Brahma, được thôi đẩy bởi ý chí của Mahadeva. |
|
150. This is a remarkable definition of “man”. The name “man” accords closely with “manas”, and so it is only natural for man to have a mental identification. |
150. Đây là một định nghĩa đáng lưu ý về “con người”. Danh xưng “man” gần gũi với “manas”, nên thật tự nhiên khi con người có một đồng nhất thức trí tuệ. |
|
151. We learn, however, that man is even more essentially Vishnu than Brahma. Pondered upon, the loving destiny of humanity is clear. The human race is intended to reflect the second ray soul of planet Earth. |
151. Tuy vậy, chúng ta học được rằng con người còn vốn là Vishnu nhiều hơn là Brahma. Suy gẫm điều này, định mệnh yêu thương của nhân loại trở nên rõ rệt. Nhân loại được định phản chiếu cung hai linh hồn của Trái Đất. |
|
152. Mahadeva (or Shiva) is always the aspect responsible for impulsion. |
152. Mahadeva (hay Shiva) luôn là phương diện chịu trách nhiệm cho xung lực. |
|
Therefore, in a peculiar sense man is very important, as he is the place of at-one-ment for all the three aspects; nevertheless, he is very unimportant for he is not the apex of the triangle, but simply the middle point, if we view the triangle thus: |
Vì vậy, theo một nghĩa đặc biệt con người rất quan trọng, vì y là nơi hợp nhất cho cả ba phương diện; tuy nhiên, y lại rất không quan trọng vì y không phải là đỉnh của tam giác, mà chỉ là điểm ở giữa, nếu chúng ta hình dung tam giác như sau: |
|
Spirit-Father. |
Tinh thần–Cha. |
|
The Son or man. |
Ngôi Con hay con người. |
|
Matter-Mother. |
Vật chất–Mẹ. |
|
153. We are being given an idea of the true place of man in the scheme of things. |
153. Chúng ta đang được trao một ý niệm về vị trí thực của con người trong cơ cấu vạn hữu. |
|
154. His importance stems from the fact that three divine aspects are united in him. |
154. Tầm quan trọng của y bắt nguồn từ việc ba phương diện thiêng liêng được hợp nhất trong y. |
|
155. The term “at-one-ment” is associated with man, which is fitting, as man is intended to be a buddhic being, and the buddhic plane is also called the plane of at-one-ment. |
155. Thuật ngữ “hợp nhất” gắn với con người, điều này thích hợp, vì con người được định là một hữu thể Bồ đề, và cõi Bồ đề cũng được gọi là cõi của hợp nhất. |
|
156. DK offers the decentralizing comment, however, that “man is not the apex of the triangle, but simply the middle point”. |
156. Tuy nhiên, Chân sư DK đưa ra lời bình phi tập trung hóa rằng “con người không phải là đỉnh của tam giác, mà chỉ là điểm ở giữa”. |
|
157. Man is, interestingly, the “Son”, and the Son is less important, in this delineation, than the Father (or even the Mother, it would seem). |
157. Thú vị thay, con người là “Ngôi Con”, và trong đường nét này, Ngôi Con kém quan trọng hơn Cha (hay thậm chí Mẹ, dường như là vậy). |
|
158. When we are considering man in this light, we are considering him as a soul, just as the “Son” is considered as the soul of the Solar Logos. |
158. Khi chúng ta xét con người dưới ánh sáng này, chúng ta đang xét y như một linh hồn, cũng như “Ngôi Con” được xét như linh hồn của Thái dương Thượng đế. |
|
159. Let us remember the five-pointed star from the diagram of the Divine Pleroma. The middle figure is associated with the five! The number five, so associated with man, gives him a middle position in the range of integers, or whole numbers. |
159. Hãy nhớ ngôi sao năm cánh trong sơ đồ của Thần Pleroma. Hình trung tâm gắn với số năm! Con số năm, vốn gắn với con người, đem lại cho y một vị trí ở giữa trong dãy các số nguyên. |
|
160. Thus, man’s fourness gives him a middle position in the septenate, and his fiveness gives him a middle position in the usual series of integers. |
160. Vậy, tứ tính của con người đem lại cho y vị trí ở giữa trong bảy cung, và ngũ tính đem lại cho y vị trí ở giữa trong dãy số nguyên quen dùng. |
|
The evolution of the Son, or the cosmic incarnation of the Christ, is of immense importance in the plans of the Being greater than the solar Logos, HE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID. |
Sự tiến hóa của Ngôi Con, hay lần lâm phàm vũ trụ của Đức Christ, có tầm quan trọng mênh mông trong các kế hoạch của Đấng lớn lao hơn Thái dương Thượng đế, ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ. |
|
161. There are many Beings greater than our Logos. The Cosmic Logos is the Being immediately greater than our Logos and He, too, can be called “HE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID”. |
161. Có nhiều Đấng lớn hơn Logos của chúng ta. Thượng đế Vũ Trụ là Đấng lớn hơn ngay lập tức so với Logos của chúng ta và Ngài cũng có thể được gọi là “ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”. |
|
162. The Being greater than “HE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID” is, however, the One we usually refer to as the One About Whom Naught May Be Said, and is a ‘Super-Cosmic Logos’. |
162. Đấng lớn hơn “ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ” tuy vậy là Đấng mà chúng ta thường gọi là Đấng Bất Khả Tư Nghị, và là một ‘Siêu Thượng đế Vũ Trụ’. |
|
163. In whose plans is the cosmic incarnation of the Christ of such immense importance? |
163. Trong kế hoạch của ai mà lần lâm phàm vũ trụ của Đức Christ lại có tầm quan trọng mênh mông như vậy? |
|
164. Since our Solar Logos is the embodiment particularly of the second aspect of divinity, the aspect associated with the “Son”, one would be tempted to say that the Being here discussed is the Cosmic Logos informing the Seven Solar Systems of Which Ours is One. |
164. Vì Thái dương Thượng đế của chúng ta là hiện thân đặc biệt của phương diện thứ hai của thiên tính, phương diện gắn với “Ngôi Con”, người ta sẽ có khuynh hướng nói rằng Đấng đang được bàn tới đây là Thượng đế Vũ Trụ thấm nhuần Bảy Hệ Thái Dương Mà Hệ Của Chúng Ta Là Một. |
|
165. What is said here points to the importance of our solar system of love in the plans of a certain great and inclusive Being. |
165. Điều được nói ở đây nêu bật tầm quan trọng của hệ thái dương tình thương của chúng ta trong các kế hoạch của một Đấng bao hàm vĩ đại. |
|
166. This relative importance of our Solar Logos parallels the importance of our apparently unimportant little planet, Earth, and also the importance of man. All of them, in this solar system at least, are to be expressions of the second Ray of Love-Wisdom. |
166. Tầm quan trọng tương đối này của Thái dương Thượng đế của chúng ta song song với tầm quan trọng của hành tinh nhỏ nhoi dường như không quan trọng của chúng ta, Trái Đất, và cũng song song với tầm quan trọng của con người. Tất cả—ít nhất trong thái dương hệ này—đều sẽ là các biểu hiện của Cung Hai Bác Ái–Minh Triết. |
|
The animating principles of allied constellations and systems watch the progress of the evolution of the Son with keenest attention. |
Những nguyên lý sinh động của các chòm sao và hệ đồng liên kết dõi theo tiến trình của sự tiến hóa của Ngôi Con với sự chú mục cao nhất. |
|
167. We are being given a vast picture. There are allied constellations within the sphere of the One About Whom Naught May Be Said and allied solar systems within the sphere of the One Who has just been called “Him of Whom Naught May Be Said”—the local Cosmic Logos. |
167. Chúng ta đang được trao một bức tranh bao la. Có những chòm sao đồng liên hệ trong phạm vi của Đấng Bất Khả Tư Nghị và những hệ mặt trời đồng liên hệ trong phạm vi của Đấng vừa được gọi là “Ngài về Đó Không Thể Nói Gì”—vị Thượng đế Vũ Trụ địa phương. |
|
168. The “animating principles” are sentient Beings of vast power and scope, each responsible for the manifestation of a system or constellation. |
168. Các “nguyên lý sinh động” là những Đấng hữu tri đầy uy lực và tầm vóc vĩ đại, mỗi Vị chịu trách nhiệm cho sự biểu lộ của một hệ hay một chòm sao. |
|
169. It may be that within constellations other than our own (our own constellation being the Seven Solar Systems of Which Ours is One) there are animating principles of systems who are especially watchful of the progress within our solar system. |
169. Có thể rằng trong các chòm sao khác ngoài chòm sao của chúng ta (chòm sao của chúng ta là Bảy Hệ Mặt Trời Mà Hệ Của Chúng Ta Là Một) có các nguyên lý sinh động của các hệ vốn đặc biệt canh chừng tiến trình trong hệ mặt trời của chúng ta. |
|
170. We are here dealing with what we might call ‘macrocosmic group consciousness’. |
170. Ở đây chúng ta đang đề cập đến điều mà chúng ta có thể gọi là “tâm thức nhóm đại thiên địa”. |
|
171. Among the watchful animating principles of systems intimately allied to our own might be included the Logoi of Sirius, Alpha Centauri, Procyon and others whose names are more debatable. |
171. Trong số các nguyên lý sinh động canh chừng của các hệ mật thiết đồng liên hệ với hệ của chúng ta, có thể kể đến các Thượng đế của Sirius, Alpha Centauri, Procyon và những vị khác có danh xưng còn đáng bàn luận hơn. |
|
172. Among the watchful animating principles of allied constellations might be included the Constellational Logoi of the Seven Solar Systems of Which Ours is One, of Draco, the Great Bear, the Little Bear, the Pleiades, the Centaur, the Southern Cross, etc. Their main attention, it would seem would be directed to the progress of that Entity who is the Principle of Animation for the Seven Solar Systems of Which Ours is One. |
172. Trong số các nguyên lý sinh động canh chừng của các chòm sao đồng liên hệ, có thể bao gồm các Thượng đế chòm sao của Bảy Hệ Mặt Trời Mà Hệ Của Chúng Ta Là Một, của Draco, Đại Hùng (Great Bear), Tiểu Hùng (Little Bear), Pleiades, Nhân Mã Bán Mã (the Centaur), Thập Tự Phương Nam (Southern Cross), v.v. Trọng tâm chú ý của Các Ngài, dường như, sẽ hướng về tiến trình của Thực Thể là Nguyên Lý Sinh Động cho Bảy Hệ Mặt Trời Mà Hệ Của Chúng Ta Là Một. |
|
173. Our Solar Logos, expressing presently as the “Son”, is in the process of that type of evolution which is intended to bring the Cosmic Christ into fuller manifestation. In His local cosmic environment, He is closely observed. |
173. Thái dương Thượng đế của chúng ta, hiện đang biểu lộ như “Ngôi Con”, đang ở trong tiến trình của loại tiến hóa nhằm đưa Đức Christ Vũ Trụ vào biểu lộ đầy đủ hơn. Trong môi trường vũ trụ địa phương của Ngài, Ngài được quan sát rất sát sao. |
|
174. We do see that all, on their own level, and according to their own scale, struggle to become what they are intended to be. |
174. Chúng ta thấy rằng mọi đấng, trên cấp độ riêng của mình và theo thang tỉ lệ riêng của mình, đều vật lộn để trở nên điều mà các Ngài được định là. |
|
Just as the planet called the earth is regarded as the turning point or the battle-ground between Spirit and matter, and is therefore, from that very consideration, of great importance, so our solar system holds an analogous place in the cosmic scheme. |
Cũng như hành tinh được gọi là Trái Đất được xem là điểm ngoặt hay chiến trường giữa Tinh thần và chất liệu, và do đó, chỉ từ cân nhắc ấy thôi, đã là vô cùng quan trọng, thì hệ mặt trời của chúng ta giữ một vị trí tương đồng trong cơ đồ vũ trụ. |
|
175. We are given an understanding of the critical position in which our Solar Logos ‘stands’—just as critical, on His own level, as the position of our Planetary Logos or the position of the human kingdom. |
175. Chúng ta được cho thấy sự thấu hiểu về vị thế then chốt mà Thái dương Thượng đế của chúng ta “đang đứng”—cũng then chốt, trên cấp độ của Ngài, như vị thế của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta hay vị thế của giới nhân loại. |
|
176. The issue is not decided regarding the success of any of these three (Grand Heavenly Man, Heavenly Man, Man) and the struggle is on. |
176. Vấn đề về thành công của bất kỳ trong ba đối tượng này (Đại Thiên Nhân, Thiên Nhân, Con Người) vẫn chưa được quyết định và cuộc vật lộn đang diễn ra. |
|
177. We often speak of planetary schemes. In the teaching there is at least one reference to the “solar scheme” (TCF 259). In this section the term “cosmic scheme” is used more than once. |
177. Chúng ta thường nói về các hệ hành tinh. Trong giáo huấn có ít nhất một tham chiếu đến “hệ mặt trời” (TCF 259). Trong phần này thuật ngữ “cơ đồ vũ trụ” được dùng nhiều lần. |
|
178. It is as if our solar system is but a solar chain in a greater cosmic scheme. It is as if the greater cosmic scheme (that of the Seven Solar Systems of Which Ours is One) is but a cosmic chain in a still greater and super-cosmic scheme. |
178. Tựa hồ hệ mặt trời của chúng ta chỉ là một Dãy mặt trời trong một cơ đồ vũ trụ lớn hơn. Tựa hồ cơ đồ vũ trụ lớn hơn (tức cơ đồ của Bảy Hệ Mặt Trời Mà Hệ Của Chúng Ta Là Một) chỉ là một Dãy vũ trụ trong một cơ đồ còn lớn hơn nữa, siêu vũ trụ. |
|
179. Cosmically considered, our solar system is to be considered a turning point in the battle between Spirit and matter. |
179. Xét về phương diện vũ trụ, hệ mặt trời của chúng ta phải được xem là một điểm ngoặt trong trận chiến giữa Tinh thần và chất liệu. |
|
180. When, in relation to humanity, this turning point was reached in the Atlantean civilization, we had the great Atlantean War of which the Battle of Kurukshetra is a reminder—both literal and symbolic. |
180. Khi, liên quan đến nhân loại, điểm ngoặt này được đạt tới trong nền văn minh Atlantis, chúng ta có Đại Chiến Atlantis mà Trận Kurukshetra là một lời nhắc—vừa theo nghĩa đen vừa mang tính biểu trưng. |
|
181. The planet Earth is going through its own Kurukshetra, and now we learn that this is true of our Solar Logos as well. |
181. Hành tinh Trái Đất đang trải qua chính Kurukshetra của nó, và giờ đây chúng ta biết rằng điều này cũng đúng với Thái dương Thượng đế của chúng ta. |
|
182. All of these type of “men” (human, planetary, systemic) must necessarily be characterized by the number four. Humanity is the fourth kingdom. Planet Earth is the fourth from the Sun and its symbol is the fourfold cross within the circle; and our Solar Logos is a heart center within the Logos of the Seven Solar Systems of Which Ours is One. The heart center is the fourth chakra. The Atlantean War took place, naturally, during the fourth or Atlantean rootrace, and, it is reasonably conjectured by the occult historian Phillip Lindsay, in the fourth subrace of that rootrace. |
182. Tất cả những loại “con người” này (nhân loại, hành tinh, hệ thống) tất yếu phải được đặc trưng bởi con số bốn. Nhân loại là giới thứ tư. Hành tinh Trái Đất là hành tinh thứ tư tính từ Mặt Trời và biểu tượng của nó là thập giá tứ phân trong vòng tròn; và Thái dương Thượng đế của chúng ta là một trung tâm tim trong Thượng đế của Bảy Hệ Mặt Trời Mà Hệ Của Chúng Ta Là Một. Trung tâm tim là luân xa thứ tư. Cuộc Chiến Atlantis diễn ra, một cách tự nhiên, trong giống dân gốc thứ tư hay Atlantis, và, theo suy đoán hợp lý của nhà sử học huyền môn Phillip Lindsay, trong giống dân phụ thứ tư của giống dân gốc ấy. |
|
183. We see the close analogy between all these types of entities and why, using the fourth ray or ‘Ray of Analogy’ it is natural for Master DK to draw comparisons between them. |
183. Chúng ta thấy sự tương đồng gần gũi giữa tất cả những kiểu thực thể này và lý do tại sao, qua việc dùng cung bốn hay “Cung của tương đồng”, thật tự nhiên khi Chân sư DK so sánh chúng với nhau. |
|
184. In the midst of all this struggle, we can see that the human kingdom has a responsibility—not only for the outcome of the struggle through which our Planetary Logos is passing—but, in some small measure, for the outcome of the Solar Logos’ struggle. |
184. Giữa bối cảnh tất cả cuộc tranh đấu này, chúng ta có thể thấy giới nhân loại có một trách nhiệm—không chỉ đối với kết cục của cuộc tranh đấu mà Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang trải qua—mà, ở một mức độ nhỏ, còn đối với kết cục của cuộc tranh đấu của Thái dương Thượng đế. |
|
The cosmic man, the solar Arjuna, is wrestling for His individualised perfected self-consciousness, and for freedom and liberation from the form, and from the not-self. |
Vị nhân vũ trụ, Arjuna Thái dương, đang vật lộn vì tự-ý thức đã được biệt ngã hoá và hoàn thiện, và vì tự do, giải thoát khỏi hình tướng, và khỏi phi-ngã. |
|
185. This is another way of defining the great solar struggle. |
185. Đây là một cách khác để định nghĩa đại cuộc tranh đấu thái dương. |
|
186. Our Solar Logos is called “the solar Arjuna”. One wonders what the analogy to rootraces might be on the planetary and solar levels. If there are such structures, it would seem that our Solar Logos is in the fourth such division. Are there, as it were, ‘rootraces’ of Heavenly Men? |
186. Thái dương Thượng đế của chúng ta được gọi là “Arjuna Thái dương”. Người ta tự hỏi sự tương đồng với các giống dân gốc ở cấp độ hành tinh và thái dương có thể là gì. Nếu có những cấu trúc như vậy, dường như Thái dương Thượng đế của chúng ta đang ở phân đoạn thứ tư như thế. Có chăng, như thể nói, các “giống dân gốc” của các Thiên Nhân? |
|
187. Several terms are equivalent: Grand Heavenly Man, Cosmic Man, the Solar Arjuna. |
187. Vài thuật ngữ là tương đương: Đại Thiên Nhân, Thiên Nhân Vũ Trụ, Arjuna Thái dương. |
|
188. Really, the Solar Arjuna refers to our Solar Logos considered as a disciple. In His soul nature He probably does not wrestle, just as man, as a soul, is above the fray. But as a soul-in-incarnation (a disciple), He indeed wrestles. |
188. Thực ra, Arjuna Thái dương ám chỉ Thái dương Thượng đế của chúng ta được xét như một đệ tử. Trong bản tính linh hồn của Ngài, có lẽ Ngài không vật lộn, cũng như con người, xét như một linh hồn, ở trên vòng xoáy tranh đấu. Nhưng xét như một linh hồn đang nhập thể (một đệ tử), Ngài quả thật đang vật lộn. |
|
189. Another name for this Solar Arjuna could be Agni—for Agni is, in a way, the personality of the Solar Logos and is focussed on the eighteen cosmic subplanes. |
189. Một tên gọi khác cho Arjuna Thái dương có thể là Agni—vì Agni, theo một nghĩa, là phàm ngã của Thái dương Thượng đế và chú tâm trên mười tám cõi phụ vũ trụ. |
|
190. It is as if our Solar Logos is but a kind of aspirant or probationary disciple in the cosmic scheme of things. We also know He is a member of a cosmic quaternary and it not yet found within the corresponding cosmic triad. |
190. Tựa hồ Thái dương Thượng đế của chúng ta chỉ là một kiểu người chí nguyện hay đệ tử dự bị trong cơ đồ vũ trụ của sự vật. Chúng ta cũng biết Ngài là một thành viên của một bộ bốn vũ trụ và chưa ở trong tam nguyên vũ trụ tương ứng. |
|
191. Following the process of analogy we might ask, “is our Solar Logos yet an accepted disciple, and if so, of Whom?” |
191. Theo tiến trình của phép tương đồng, chúng ta có thể hỏi: “Thái dương Thượng đế của chúng ta đã là một đệ tử được chấp nhận hay chưa, và nếu rồi, thì của Ai?” |
|
192. Would “individualised perfected self-consciousness” signify the third initiation. We are told (TCF 384) that the third cosmic initiation is the goal of the Solar Logos. |
192. “Tự-ý thức đã được biệt ngã hoá và hoàn thiện” có ám chỉ lần điểm đạo thứ ba không. Chúng ta được cho biết (TCF 384) rằng lần điểm đạo vũ trụ thứ ba là mục tiêu của Thái dương Thượng đế. |
|
So man on this planet battles for similar ideals on his tiny scale; |
Vì thế con người trên hành tinh này cũng chiến đấu vì các lý tưởng tương tự trên tầm mức bé nhỏ của mình; |
|
193. We have the inference, then, that the Solar Logos is battling for certain cosmic ideals. |
193. Vậy chúng ta có hàm ý rằng Thái dương Thượng đế đang chiến đấu vì những lý tưởng vũ trụ nhất định. |
|
so battle in heaven Michael and His Angels, or the divine Heavenly Men, Whose problem is the same on the higher scale. |
và trên trời, Michael và các Thiên thần của Ngài, hay các Thiên Nhân thiêng liêng, cũng chiến đấu, và vấn đề của Các Ngài là tương tự nhưng trên tầm mức cao hơn. |
|
194. Here the Tibetan’s terminology turns Biblical. It is clear however that “Michael and His Angels” are, from this perspective, the Planetary Logoi of our solar system. |
194. Ở đây thuật ngữ của Chân sư Tây Tạng chuyển sang Kinh Thánh. Tuy nhiên, rõ ràng rằng “Michael và các Thiên thần của Ngài” từ viễn cảnh này là các Hành Tinh Thượng đế trong hệ mặt trời của chúng ta. |
|
195. If Michael and His Angels hold place within a solar system in which struggle is the rule, They, too, must be struggling, even though among them, few struggle as does the Logos of Planet Earth. |
195. Nếu Michael và các Thiên thần của Ngài ở trong một hệ mặt trời mà trong đó cuộc tranh đấu là quy luật, thì Các Ngài cũng phải đang tranh đấu, dù rằng trong số Các Ngài, ít ai tranh đấu như Hành Tinh Thượng đế của Hành tinh Trái Đất. |
|
196. We are assuming the term “divine Heavenly Men” means Planetary Logoi. |
196. Chúng ta đang giả định thuật ngữ “các Thiên Nhân thiêng liêng” có nghĩa là các Hành Tinh Thượng đế. |
|
197. The term “Michael” in this context could be open to expansion. “Michael and His Angels” could be the Solar Logos and His Planetary Logoi (His Angels). And the battle in the heavens would be for soul consciousness in our solar system. |
197. Thuật ngữ “Michael” trong mạch văn này có thể được mở rộng. “Michael và các Thiên thần của Ngài” có thể là Thái dương Thượng đế và các Hành Tinh Thượng đế của Ngài (các Thiên thần của Ngài). Và cuộc chiến trên trời sẽ là vì tâm thức linh hồn trong hệ mặt trời của chúng ta. |
|
198. If we expand the concept to include a ‘Cosmic St. Michael’, we could conceive of the four cosmic Archangels as the four members of the cosmic quaternary of which our Solar Logos is one member. We are told that He holds place within such a quaternary. |
198. Nếu chúng ta mở rộng khái niệm để bao gồm một “Tổng Lãnh Michael Vũ Trụ”, chúng ta có thể hình dung bốn Tổng Thiên Thần vũ trụ như bốn thành viên của bộ bốn vũ trụ mà Thái dương Thượng đế của chúng ta là một thành viên. Chúng ta được cho biết rằng Ngài nắm vị trí trong một bộ bốn như thế. |
|
199. Going with this idea, we would see our Solar Logos fighting with the Dragon—who is His personality. Michael fights His own unspiritualized nature, and St. George fights the Dragon. Michael and St. George are similar. |
199. Theo ý tưởng này, chúng ta sẽ thấy Thái dương Thượng đế của chúng ta chiến đấu với Con Rồng—vốn là phàm ngã của Ngài. Michael chiến đấu với bản tính chưa được tinh thần hóa của chính Ngài, và Thánh George chiến đấu với Con Rồng. Michael và Thánh George là tương tự. |
|
200. The conquest will be achieved in this Solar System. Why? Because the Solar Logos will achieve the fourth or fifth initiation in this Solar System. Thus far, our Logos has not yet achieved the third. |
200. Cuộc chinh phục sẽ được hoàn tất trong Hệ Mặt Trời này. Tại sao? Vì Thái dương Thượng đế sẽ đạt lần điểm đạo thứ tư hoặc thứ năm trong Hệ Mặt Trời này. Cho đến giờ, Đấng Logos của chúng ta vẫn chưa đạt lần thứ ba. |
|
Duality, and the interplay between the two produces: |
Nhị nguyên, và sự tương tác giữa hai cực sản sinh ra: |
|
201. “The two” are Spirit and Matter. |
201. “Hai cực” là Tinh thần và Chất liệu. |
|
[243] |
|
|
a. Objectivity, or the manifested Son or Sun. |
a. Tính khách quan, hay Ngôi Con hay Mặt Trời được biểu lộ. |
|
202. Here the “Son” and “Sun” are given equivalence. |
202. Ở đây “Ngôi Con” và “Mặt Trời” được xem là tương đương. |
|
b. Evolution itself. |
b. Chính tiến hoá. |
|
203. Here evolution means the tendency toward merging, fusion and union. |
203. Ở đây tiến hoá có nghĩa là khuynh hướng dung hợp, hòa nhập và hiệp nhất. |
|
c. The development of quality. |
c. Sự phát triển của phẩm tính. |
|
204. Quality is associated with the second aspect of divinity. |
204. Phẩm tính gắn với Phương diện thứ hai của thiên tính. |
|
d. Time and space. |
d. Thời gian và không gian. |
|
205. Without the appearance of the Son or “Form-Builder”, time and space would not appear. Time and space are related to form. They are not related to the abstractions, Spirit and Matter. |
205. Nếu không có sự xuất hiện của Ngôi Con hay “Đấng Kiến Tạo Hình Tướng”, thời gian và không gian sẽ không xuất hiện. Thời gian và không gian liên hệ với hình tướng. Chúng không liên hệ với các trừu tượng là Tinh thần và Chất liệu. |
|
206. If and when Spirit wins the struggle then time and space consciousness disappear. |
206. Nếu và khi Tinh thần thắng thế trong cuộc tranh đấu, thì tâm thức về thời gian và không gian biến mất. |
|
207. VSK Queries: “Have we had development of quality referred to explicitly before? What is quality, especially in a co-measured context of ‘objectivity’, ‘evolution’, and time and space?” |
207. VSK hỏi: “Chúng ta đã từng thấy sự phát triển của phẩm tính được nhắc tới cách tường minh trước đây chưa? Phẩm tính là gì, nhất là trong đối sánh cùng thang đo với ‘tính khách quan’, ‘tiến hoá’, và thời gian, không gian?” |
|
208. May we suggest that quality always relates to the nature of the energy which patterns form? |
208. Xin gợi ý rằng phẩm tính luôn liên hệ với bản chất của năng lượng vốn định hình khuôn mẫu cho hình tướng? |
|
The questions we are now engaged in answering embody certain fundamental aspects of manifestation, viewed principally from the subjective or psychic angle. |
Những câu hỏi mà chúng ta hiện đang nỗ lực trả lời bao hàm các phương diện căn bản của sự biểu lộ, chủ yếu được nhìn từ góc độ chủ quan hay huyền cảm. |
|
209. VSK queries: “What must we change in our thinking or perspective to ensure now that we view the following questions from the subjective or psychic angle? How are these qualitatively, different than those questions which have gone before?” |
209. VSK hỏi: “Chúng ta cần thay đổi gì trong tư duy hay viễn kiến để bảo đảm từ đây nhìn các câu hỏi tiếp theo từ góc độ chủ quan hay huyền cảm? Về phẩm tính, chúng khác với những câu hỏi trước ra sao?” |
|
210. May we suggest that soul and psyche are equivalent? We are examining all these questions from the perspective of the middle principle, and in relation to the Fire of Mind (solar fire, the second fire). |
210. Xin gợi ý rằng linh hồn và tâm linh (psyche) là tương đương? Chúng ta đang khảo sát tất cả các câu hỏi này từ viễn cảnh của nguyên khí trung gian, và liên hệ với Lửa của Thể Trí (Lửa Thái dương, loại lửa thứ hai). |
|
211. Our concern is no longer strictly concerned with the matter aspect as it was during the beginning of the book. |
211. Sự quan tâm của chúng ta không còn thuần túy dính chặt với phương diện chất liệu như ở phần đầu của cuốn sách nữa. |
|
IV. WHAT IS CONSCIOUSNESS? WHAT IS ITS PLACE IN THE SCHEME OF THINGS? |
IV. TÂM THỨC LÀ GÌ? VỊ TRÍ CỦA NÓ TRONG CƠ ĐỒ SỰ VẬT LÀ GÌ? |
|
Consciousness might be defined as the faculty of apprehension, and concerns primarily the relation of the Self to the not-self, of the Knower to the Known, and of the Thinker to that which is thought about. |
Tâm thức có thể được định nghĩa như là năng lực lãnh hội, và chủ yếu liên hệ tới tương quan của Tự-ngã với phi-ngã, của Thức giả với Cái được biết, và của Người Tư duy với điều được tư duy đến. |
|
212. Consciousness is a term difficult to define. |
212. Tâm thức là một thuật ngữ khó định nghĩa. |
|
213. Of what is consciousness a “faculty”. I think we should say that it is a faculty of the essential Identity—really a faculty which is an extension of being. |
213. Tâm thức là “năng lực” của cái gì? Tôi cho rằng chúng ta nên nói đó là một năng lực của Căn Tính cốt yếu—thực ra là một năng lực vốn là sự mở rộng của bản thể. |
|
214. When we use a term like “apprehension”, it suggests a ‘reaching forth’ and a ‘taking in’, a ‘grasping’. |
214. Khi chúng ta dùng một thuật ngữ như “lãnh hội”, nó gợi ý một sự ‘vươn tới’ và một sự ‘thu nhận vào’, một sự ‘nắm bắt’. |
|
215. Does consciousness exist when the realization arises that there is no not-Self? In such cases, thinkers speak of “consciousness without at object”. |
215. Tâm thức có tồn tại khi khởi lên chứng ngộ rằng không có phi-Tự-ngã? Trong những trường hợp như thế, những nhà tư tưởng nói về “tâm thức không có đối tượng”. |
|
216. Is there an interface in which that which we normally call consciousness merges into that which we understand as being? I think so. I think that a maximally intensified consciousness becomes the experience of being. |
216. Có chăng một giao diện trong đó điều mà chúng ta thường gọi là tâm thức hòa nhập vào cái mà chúng ta hiểu là bản thể? Tôi nghĩ có. Tôi nghĩ rằng một tâm thức được thăng lên đến cực điểm trở thành kinh nghiệm về bản thể. |
|
217. The factor of consciousness is always dependent upon the factor of relation. The existence of relation, however, depends upon the existence of a ‘this’ and a ‘that’. When this distinction is overcome, then consciousness (at least as we know it) evaporates and becomes something else—identification, perhaps. |
217. Nhân tố tâm thức luôn tùy thuộc vào nhân tố tương quan. Tuy nhiên, sự hiện hữu của tương quan lại tùy thuộc vào sự hiện hữu của một ‘cái này’ và một ‘cái kia’. Khi phân biệt này được vượt qua, thì tâm thức (ít nhất như chúng ta biết) tan biến và trở thành cái gì khác—có lẽ là đồng nhất thể. |
|
All these definitions involve the acceptance of the idea of duality, of that which is objective and of that which lies back of objectivity.99 |
Tất cả những định nghĩa này hàm ý sự chấp nhận ý niệm về nhị nguyên, về cái khách quan và về cái nằm phía sau khách quan.99 |
|
218. VSK suggests: “in other words, the faculty of apprehension is the acceptance of the ‘idea’ of duality, specifically regarding: |
218. VSK gợi ý: “nói cách khác, năng lực lãnh hội là sự chấp nhận ‘ý niệm’ về nhị nguyên, cụ thể là về: |
|
a. Self to not-self |
a. Tự-ngã với phi-ngã |
|
b. Knower to the Known |
b. Thức giả với Cái được biết |
|
c. Thinker to that which is thought about.” |
c. Người Tư duy với điều được tư duy đến.” |
|
219. The meaning of the term “objectivity” is certainly variable and flexible. To denote something as “objective” depends upon the position of the viewer. |
219. Ý nghĩa của thuật ngữ “tính khách quan” chắc chắn là biến đổi và linh hoạt. Việc gọi một điều gì đó là “khách quan” tùy thuộc vào vị trí của người quan sát. |
|
Footnote 99: |
Chú thích 99: |
|
“Consciousness is the kosmic seed of superkosmic omniscience. It has the potentiality of budding into divine consciousness.”—S. D., III, 555. |
“Tâm thức là hạt giống vũ trụ của toàn tri siêu vũ trụ. Nó hàm sẵn tiềm năng nảy nở thành tâm thức thiêng liêng.”—S. D., III, 555. |
|
220. For students of esotericism, this is almost an article of faith. |
220. Đối với các đạo sinh huyền bí học, điều này gần như một tín điều. |
|
221. What really is “omniscience”? Can a human being ever possess it? It is unlikely, as even a Solar Logos is as a crystal when compared to some far greater Beings, who, themselves, must be as tiny units to still greater beings. |
221. Thực sự “toàn tri” là gì? Liệu một con người có thể sở hữu nó không? Điều đó khó có khả năng, vì ngay cả một Thái dương Thượng đế cũng như một tinh thể khi so với những Đấng còn vĩ đại hơn nhiều, mà tự Các Ngài, hẳn cũng chỉ như những đơn vị nhỏ bé trước những Đấng còn lớn hơn nữa. |
|
222. The term “omniscience” is relative and depends upon what we consider to be the whole. |
222. Thuật ngữ “toàn tri” là tương đối và tùy thuộc vào điều chúng ta coi là toàn thể. |
|
The universe is an aggregate of states of consciousness. —S. D., II, 633. |
Vũ trụ là một tập hợp các trạng thái tâm thức. —S. D., II, 633. |
|
223. This seems a reasonable statement. States of consciousness are relative. Can we say that ‘states of being’ are relative, or is the raw fact of existence, ‘isness’ or “being” shared in the same measure by anything that exists? |
223. Đây dường như là một mệnh đề hợp lý. Các trạng thái tâm thức là tương đối. Chúng ta có thể nói rằng ‘các trạng thái của bản thể’ là tương đối không, hay sự kiện trần trụi của hiện hữu—“là” hay “bản thể”—được chia sẻ ở cùng một mức bởi bất cứ cái gì hiện hữu? |
|
Consciousness may be roughly divided into: |
Tâm thức có thể được phân chia đại lược như sau: |
|
1. Absolute or God Consciousness Unmanifested Logos. |
1. Tâm thức Tuyệt đối hay Tâm thức của Thượng đế Thượng đế không biểu hiện. |
|
“I am That I am.” |
“Ta là Đấng Ta là.” |
|
2. Universal/Group Consciousness Manifested Logos. Consciousness of planetary Logos. |
2. Tâm thức Phổ quát/Nhóm Thượng đế biểu hiện. Tâm thức của Hành Tinh Thượng đế. |
|
“I am That.” |
“Ta là Cái Đó.” |
|
3. Individual or Self-Consciousness Human consciousness. |
3. Tâm thức cá thể hay Tự-ý thức Tâm thức của con người. |
|
“I am.” |
“Ta là.” |
|
4. Atomic Consciousness Sub-human consciousness. |
4. Tâm thức nguyên tử Tâm thức cận nhân loại. |
|
224. In this tabulation we are still dealing with relativity. It is likely that the kind of consciousness here referenced goes no further than our Solar Logos. |
224. Trong bảng này chúng ta vẫn đang xử lý tính tương đối. Nhiều khả năng kiểu tâm thức được tham chiếu ở đây không đi xa hơn Thái dương Thượng đế của chúng ta. |
|
225. Yet, this tabulation could have a universal extension; in other words, it could (with some adaptation) refer the to the entirety of the Universe |
225. Tuy vậy, bảng phân này cũng có thể có một sự mở rộng phổ quát; nói cách khác, nó có thể (với vài điều chỉnh) tham chiếu đến toàn thể Vũ trụ. |
|
226. VSK queries: “Is point one above referring to the Solar Logos, in this sequence; if not, where is He?” |
226. VSK hỏi: “Mục một ở trên có đang nói về Thái dương Thượng đế trong chuỗi này không; nếu không, Ngài ở đâu?” |
|
227. Indeed, it seems that in this tabulation, point one does refer to the Solar Logos. |
227. Quả vậy, dường như trong bảng phân này, mục một có nói về Thái dương Thượng đế. |
|
The goal of consciousness for: |
Mục tiêu của tâm thức đối với: |
|
1. A planetary Logos Absolute consciousness. |
1. Một Hành Tinh Thượng đế Tâm thức tuyệt đối. |
|
228. We see that “absolute consciousness” in this context means the consciousness of the Solar Logos. We see that the term “absolute”, therefore, is very relative. |
228. Chúng ta thấy rằng “tâm thức tuyệt đối” trong mạch văn này có nghĩa là tâm thức của Thái dương Thượng đế. Như vậy, thuật ngữ “tuyệt đối” ở đây rất tương đối. |
|
2. Man Group consciousness. |
2. Con người Tâm thức nhóm. |
|
229. Group consciousness is the consciousness of the Planetary Logos. |
229. Tâm thức nhóm là tâm thức của Hành Tinh Thượng đế. |
|
3. Atom Self-consciousness. |
3. Nguyên tử Tự-ý thức. |
|
230. Does the tiny unit of matter become self-conscious, or do aggregations of units of matter become, together, self-conscious? The latter would seem, more reasonably, to be the case. |
230. Liệu đơn vị vật chất nhỏ bé có trở nên tự-ý thức, hay các tập hợp của những đơn vị vật chất trở nên, cùng nhau, tự-ý thức? Điều sau có vẻ hợp lý hơn. |
|
The Logos is the Macrocosm for Man. —S. D., I, 288, 295. |
Logos là Đại thiên địa đối với Con Người. —S. D., I, 288, 295. |
|
231. It is generally understood that the Solar Logos is the “Macrocosm for Man”. The Planetary Logos, while a great being, is not usually given this distinction. |
231. Nói chung người ta hiểu rằng Thái dương Thượng đế là “Đại thiên địa đối với Con Người”. Hành Tinh Thượng đế, dẫu là một Đấng vĩ đại, thường không được gán đặc ân này. |
|
Man is the Macrocosm for the Atom. |
Con Người là Đại thiên địa đối với Nguyên tử. |
|
232. Is the scale accurate? In other words, is an atom to a man, as a man is to a Solar Logos? I think man is a structure greater in relation to the SL than an atom is in relation man. This is because man is a “cell” to a Planetary Logos. The difference between a Planetary Logos and a Solar Logos is great but not that great. The difference between a cell and an atom is huge. |
232. Tỉ lệ so sánh này có chuẩn xác không? Nói cách khác, một nguyên tử đối với con người có tương xứng như con người đối với Thái dương Thượng đế không? Tôi cho rằng con người là một cấu trúc lớn hơn, theo tỉ lệ, so với SL hơn là một nguyên tử so với con người. Bởi vì con người là một “tế bào” đối với một Hành Tinh Thượng đế. Khoảng cách giữa một Hành Tinh Thượng đế và một Thái dương Thượng đế là lớn nhưng không quá lớn như vậy. Còn khoảng cách giữa một tế bào và một nguyên tử là khổng lồ. |
|
Summation: The Life and the Lives. —S. D., I, 281, 282. |
Tổng kết: Sự sống và các sự sống. —S. D., I, 281, 282. |
|
Consciousness expresses that which might be regarded as the middle point in manifestation. It does not involve entirely the pole of Spirit. |
Tâm thức biểu lộ điều có thể được xem như điểm ở giữa trong sự biểu lộ. Nó không hoàn toàn bao gồm cực của Tinh thần. |
|
233. Yet consciousness may be aware of the pole of Spirit, just as of the pole of Matter/matter. |
233. Tuy thế, tâm thức có thể hay biết cực của Tinh thần, cũng như cực của Chất liệu. |
|
It is produced by the union of the two poles, and the process of interplay and of adaptation that necessarily ensues. |
Nó được sản sinh bởi sự hợp nhất của hai cực, và bởi tiến trình tương tác và thích ứng tất yếu theo sau đó. |
|
234. We are reading word symbols which describe a most intricate process entirely beyond the possibility of human apprehension. For the time being, however, this is the best we can do. |
234. Chúng ta đang đọc những ký hiệu ngôn từ mô tả một tiến trình vô cùng tinh vi hoàn toàn vượt ngoài khả năng lãnh hội của con người. Tuy nhiên, trong lúc này, đó là điều tốt nhất chúng ta có thể làm. |
|
It might be tabulated as follows, in an effort to clarify by visualisation: |
Nó có thể được lập bảng như sau, nhằm cố làm rõ bằng sự hình dung: |
|
[244] |
|
|
First Pole The Point of Union Second Pole |
Cực thứ nhất Điểm Hợp nhất Cực thứ hai |
|
First Logos Second Logos Third Logos. |
Logos thứ nhất Logos thứ hai Logos thứ ba. |
|
Mahadeva Vishnu Brahma. |
Mahadeva Vishnu Brahma. |
|
Will Wisdom-Love Active Intelligence. |
Ý chí Minh Triết–Bác Ái Hoạt động Thông tuệ. |
|
Spirit Consciousness Matter. |
Tinh thần Tâm thức Chất liệu. |
|
Father Son Mother. |
Cha Con Mẹ. |
|
Monad Ego Personality. |
Chân thần Chân ngã Phàm ngã. |
|
The Self The relation between The Not-Self. |
Tự-ngã Mối tương quan giữa Phi-ngã. |
|
The Knower Knowledge The Known. |
Thức giả Tri thức Cái được biết. |
|
Life Realisation Form. |
Sự sống Nhận chân Hình tướng. |
|
235. These are some of the foremost triplicities involving the basic ‘Trinity of Life’. Students should be familiar with them. |
235. Đây là vài bộ ba hàng đầu liên quan đến ‘Tam vị của Sự sống’ căn bản. Các đạo sinh nên quen thuộc với chúng. |
|
236. Some unusual entries are found. Between Will and Active Intelligence a term called “Wisdom-Love” is to be found. This suggests that Wisdom is closer to Will and Love closer to Active Intelligence. |
236. Xuất hiện vài mục lạ thường. Giữa Ý chí và Hoạt động Thông tuệ xuất hiện một thuật ngữ gọi là “Minh Triết–Bác Ái”. Điều này gợi rằng Minh triết gần với Ý chí hơn và Bác ái gần với Hoạt động Thông tuệ hơn. |
|
237. We also note that “Realisation” is placed between “Life” and “Form”. The term “Realization” suggests accurate seeing and is akin to “Consciousness” though it is a more specialized term. |
237. Chúng ta cũng lưu ý rằng “Nhận chân” được đặt giữa “Sự sống” và “Hình tướng”. Thuật ngữ “Nhận chân” gợi sự thấy biết chính xác và gần với “Tâm thức” dù nó là thuật ngữ chuyên biệt hơn. |
|
238. Missing from the list is a trinity much developed in the beginning of EP I: “Life, Quality, Appearance”. |
238. Vắng bóng trong danh sách là một bộ ba được triển khai nhiều ở đầu EP I: “Sự sống, Phẩm tính, Hiện tướng”. |
|
One could go on piling up terms, but the above suffices to demonstrate the relationship between the threefold Logos, during manifestation. |
Ta có thể tiếp tục chồng chất các thuật ngữ, nhưng những điều trên đã đủ để minh chứng mối tương quan giữa Logos tam phân, trong thời kỳ biểu lộ. |
|
239. We note that all the trinities are expressive of relationships existing between the three aspects of the “threefold Logos”. Although the trinities could be applied to far higher levels of cosmos, we are confining ourselves to that which occurs within the ring-pass-not of our Solar Logos. |
239. Chúng ta lưu ý rằng tất cả các bộ ba đều biểu đạt những mối tương quan tồn tại giữa ba phương diện của “Logos tam phân”. Dẫu các bộ ba có thể được áp dụng cho các cấp vũ trụ cao xa hơn, chúng ta vẫn tự giới hạn trong những gì diễn ra trong vòng-giới-hạn của Thái dương Thượng đế của chúng ta. |
|
240. VSK would have us note the twoness, the duality implicate in creating the threefold; i.e., the “second pole”. |
240. VSK muốn chúng ta lưu ý tính hai ngôi, nhị nguyên hàm ẩn trong việc tạo thành cái tam phân; tức là, “cực thứ hai”. |
|
Emphasis must be laid upon the above fact: The solar system embodies the above logoic relationship during evolutionary objectivity, and the whole aim of progressive development is to bring the Son of the Father and the Mother, to a point of full realisation, of complete self-consciousness, and to full and active knowledge. |
Cần nhấn mạnh điều trên: Hệ mặt trời hiện thân mối tương quan logoic kể trên trong suốt thời kỳ khách quan tiến hoá, và mục tiêu toàn bộ của sự phát triển tuần tự là đưa Người Con của Cha và Mẹ tới điểm của sự nhận chân viên mãn, của tự-ý thức trọn đủ, và của tri thức đầy đủ, linh hoạt. |
|
241. If one thinks of the spiritual mantram for Virgo—“I am the Mother and the Child, I God, I Matter, am”—one grasps something of the equality of the three aspects within the One Life which contains them all. |
241. Nếu người ta nghĩ đến mantram tinh thần cho Xử Nữ—“Ta là Mẹ và Con, Ta là Thượng đế, Ta là Chất liệu”—người ta nắm được phần nào sự bình đẳng của ba phương diện trong Một Sự Sống bao hàm tất cả các phương diện ấy. |
|
242. The entire evolutionary process is one of, metaphorically, ‘raising the Son and bringing Him to a point of maturity’. Of course, in human families, the father and the mother also change during the process. Does the analogy hold good for beings far greater than the human being? After all, fathers and mothers are also sons and daughters—from the human standpoint at least. |
242. Toàn bộ tiến trình tiến hoá, ẩn dụ mà nói, là ‘nâng Người Con lên và đưa Ngài đến điểm trưởng thành’. Dĩ nhiên, trong gia đình loài người, người cha và người mẹ cũng thay đổi trong tiến trình ấy. Liệu phép tương đồng này có đúng với những Đấng vĩ đại hơn con người chăng? Rốt cuộc, cha mẹ cũng là con trai con gái—ít nhất xét từ lập trường nhân loại. |
|
243. It would seem that the monadic awareness of the Solar Logos will constantly evolve, and that His potential for material demonstration will also evolve. |
243. Dường như nhận thức chân thần của Thái dương Thượng đế sẽ liên tục tiến hóa, và tiềm năng biểu lộ vật chất của Ngài cũng vậy. |
|
244. A great question in relation to the theme of evolution is: “Does perfection already and forever exist, or must it be achieved?” |
244. Một câu hỏi lớn trong chủ đề tiến hoá là: “Liệu sự hoàn thiện đã hiện hữu sẵn và mãi mãi, hay phải được thành tựu?” |
|
245. I would answer this (according to my present understanding) by saying that relative perfection must always be achieved and that ABSOLUTE PERFECTION exists forever and always has. |
245. Tôi sẽ trả lời (theo hiểu biết hiện thời của tôi) rằng sự hoàn thiện tương đối luôn phải được thành tựu và SỰ HOÀN THIỆN TUYỆT ĐỐI thì hiện hữu vĩnh viễn và xưa nay vẫn vậy. |
|
This Son is objectively the solar system, inherently will or power, and subjectively He is love-wisdom. This latter quality is in process of development through the utilisation of active intelligence. |
Ngôi Con là hệ mặt trời xét về mặt khách quan, bẩm sinh là ý chí hay quyền năng, và về mặt chủ quan Ngài là bác ái-minh triết. Phẩm tính sau này đang trong tiến trình phát triển thông qua việc vận dụng hoạt động thông tuệ. |
|
246. When the subjective Son expresses Himself in objectivity, He is the solar system. |
246. Khi Ngôi Con chủ quan tự biểu đạt mình trong khách quan, Ngài chính là hệ mặt trời. |
|
247. We come to a contrast of two significant terms: “inherently” and “subjectively”. We see (and this is significant) that that which is inherent applies to the Spirit/Monad, and that which is subjective applies to the soul. |
247. Chúng ta đi đến một đối chiếu giữa hai thuật ngữ quan trọng: “bẩm sinh” và “chủ quan”. Chúng ta thấy (và điều này có ý nghĩa) rằng điều bẩm sinh ứng với Tinh thần/Chân thần, còn điều chủ quan ứng với linh hồn. |
|
248. The Father inheres in the Son. The Son is subjective to objective manifestation. |
248. Người Cha tồn tại bẩm sinh trong Người Con. Người Con là chủ quan đối với biểu lộ khách quan. |
|
249. Though will is within the Son, love-wisdom is His own truest energy. |
249. Dù ý chí ở trong Người Con, bác ái-minh triết là năng lượng chân thật nhất của Ngài. |
|
250. We also realize that without the expedient of active intelligence, the Son could not develop. In order to develop, love-wisdom requires active intelligence. Active intelligence allows for the creation of those arrangements in form which are reflective of pure reason (the quality of love-wisdom). |
250. Chúng ta cũng nhận ra rằng nếu không có phương tiện là hoạt động thông tuệ, Người Con không thể phát triển. Để phát triển, bác ái-minh triết cần đến hoạt động thông tuệ. Hoạt động thông tuệ cho phép kiến tạo những sắp đặt trong hình tướng phản chiếu lý trí bao gồm (phẩm tính của bác ái-minh triết). |
|
251. This is all very clear. |
251. Tất cả điều này rất minh bạch. |
|
252. VSK States: “The Son, the objective solar system, is inherently will or power. Thus, we are now concentrating, when developing solar fire, upon his ‘subjective’ reality, that of the merging of the poles, love-wisdom. Taking into consideration the fact that the Son is ‘inherently will or power’, we see the threefoldness contained within the one Son—love, wisdom and inherent will/power”. |
252. VSK nói: “Ngôi Con, tức hệ mặt trời khách quan, bẩm sinh là ý chí hay quyền năng. Vậy nên, khi phát triển Lửa Thái dương, chúng ta đang chú tâm vào ‘thực tại chủ quan’ của Ngài, tức sự hòa hợp của hai cực, bác ái-minh triết. Xét đến thực tế Ngôi Con ‘bẩm sinh là ý chí hay quyền năng’, chúng ta thấy tính tam phân bao hàm trong một Ngôi Con—bác ái, minh triết và ý chí/quyền năng bẩm sinh.” |
|
253. VSK states: “We see the numerical rationale here for the five being necessary to a TWO system, as the three is utilized by the two, necessarily resulting in the fifth plane”. |
253. VSK nói: “Chúng ta thấy lý do số học ở đây vì sao năm là cần thiết cho một hệ NHỊ nguyên, vì ba được hai vận dụng, tất yếu dẫn đến cõi thứ năm.” |
|
The three manifested Persons of the logoic Triad seek full development by means of each other. |
Ba Ngôi biểu lộ của Tam vị logoic tìm kiếm sự phát triển viên mãn nhờ lẫn nhau. |
|
254. When considering the Science of Triangles, we must realize that all members of the triangle are completely interdependent. |
254. Khi xét Khoa học về Tam giác, chúng ta phải nhận ra rằng mọi thành phần của tam giác hoàn toàn tương thuộc. |
|
255. This fact touches on the relative significance of the three major rays; none is greater or more important than any other. They are all indispensable to each other and are, in fact, the same thing. |
255. Sự kiện này chạm đến ý nghĩa tương đối của ba cung chính; không cung nào lớn hơn hay quan trọng hơn cung nào. Tất cả đều bất khả thiếu đối với nhau và, thực vậy, chúng là một. |
|
256. Some Biblical phrases which suggest this interdependence (at least between the first and second aspects) are as follows: |
256. Vài câu Kinh Thánh gợi sự tương thuộc này (ít nhất giữa phương diện thứ nhất và thứ hai) như sau: |
|
a. “He who hath seen me hath seen the Father” |
a. “Ai đã thấy Ta là đã thấy Cha” |
|
b. “No man commeth unto the Father except through me” |
b. “Không ai đến được cùng Cha nếu không qua Ta” |
|
257. Certain thoughts and questions arise: |
257. Khởi sinh một vài ý tưởng và câu hỏi: |
|
a. Does Love-Wisdom represent a higher stage of development of the Son than does Wisdom-Love? |
a. Liệu Bác Ái–Minh Triết biểu hiện một giai đoạn phát triển cao hơn của Ngôi Con so với Minh Triết–Bác Ái chăng? |
|
b. Wisdom is older. The Buddha is older than the Christ. In Wisdom, there is more of the third ray and the past. And yet, Wisdom is also closely related to the first ray. |
b. Minh triết xưa hơn. Đức Phật xưa hơn Đức Christ. Trong Minh triết, có nhiều phẩm tính của cung ba và quá khứ. Và tuy thế, Minh triết cũng liên hệ mật thiết với cung một. |
|
c. Love and Wisdom represent one kind of duality within our solar system so related to the dualistic, second ray sign, Gemini. |
c. Bác ái và Minh triết biểu thị một dạng nhị nguyên trong hệ mặt trời của chúng ta, vốn liên hệ với dấu song đôi, cung hai, Song Tử. |
|
The will to be, of the Mahadeva aspect, seeks, with the aid of the intelligence of Brahma, to develop love-wisdom, or the Son aspect, the Vishnu aspect. |
Ý chí tồn hữu, của phương diện Mahadeva, tìm cách, với sự trợ giúp của trí tuệ của Brahma, để phát triển bác ái-minh triết, hay phương diện Ngôi Con, phương diện Vishnu. |
|
258. One would wonder why these fundamental facts must be so oft repeated—except for the fact that they are fundamental and indispensable for deeper understanding. |
258. Người ta sẽ tự hỏi vì sao những sự kiện nền tảng này phải được lặp lại nhiều lần—ngoại trừ vì chúng là căn bản và bất khả thiếu cho sự thấu hiểu sâu hơn. |
|
In the microcosmic system, the reflection of the threefold Logos, the man is endeavoring through the three vehicles to attain the same development on his own plane. |
Trong hệ vi mô, phản chiếu của Logos tam phân, con người đang nỗ lực thông qua ba vận cụ để đạt cùng sự phát triển ấy trên bình diện riêng của mình. |
|
259. What is “his own plane”? May we say with reason that it is the buddhic plane—the true and intended area of expression for the members of the Fourth Creative Hierarchy? |
259. “Bình diện riêng của y” là gì? Có thể chúng ta hợp lý mà nói đó là cõi Bồ đề—khu vực biểu hiện chân thực và được định sẵn cho các thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư? |
|
260. VSK suggests: “So would this be the case, similarly, within the three-level worlds? Would we have the personal will, via mind, working through the intelligent activity taken by the body in action, seeking to develop compassion in the astral body?” |
260. VSK gợi ý: “Vậy điều này cũng sẽ đúng, tương tự, trong ba cõi giới? Liệu chúng ta có ý chí thuộc phàm ngã, qua trí, làm việc xuyên suốt hoạt động thông tuệ do thân xác tiến hành, nhằm phát triển lòng bi mẫn nơi thể cảm dục?” |
|
On higher planes the Heavenly Men (through atma-buddhi-manas) aim at a similar progression. |
Trên các cõi cao, các Thiên Nhân (thông qua atma-buddhi-manas) nhắm đến một tiến trình tương tự. |
|
261. We are reminded how closely the Heavenly Men are related to atma-buddhi-manas. |
261. Chúng ta được nhắc nhớ Thiên Nhân liên hệ mật thiết với atma-buddhi-manas. |
|
262. We must remember that atma-buddhi-manas represents, in this instance, the middle position, and so for the Heavenly Men we have a fivefold division: Spirit-Atma-Buddhi-Manas-Matter |
262. Chúng ta phải nhớ rằng atma-buddhi-manas trong trường hợp này đại diện vị thế trung gian, và như vậy đối với các Thiên Nhân chúng ta có một phân chia ngũ phân: Tinh thần–Atma–Bồ đề–Manas–Chất liệu. |
|
263. We also remember that even a high master does not achieve mastery upon the five systemic planes of the cosmic physical plane, but only upon three. One must be a Heavenly Man to achieve mastery upon the buddhic and atmic planes, as strange (and limiting—to us) as that may seem. |
263. Chúng ta cũng nhớ rằng ngay cả một chân sư cao cũng không đạt làm chủ trên năm cõi hệ thống của cõi hồng trần vũ trụ, mà chỉ trên ba. Phải là một Thiên Nhân mới đạt làm chủ trên cõi Bồ đề và cõi Atma, điều này, đối với chúng ta, vừa lạ lùng vừa giới hạn. |
|
These two, the Heavenly Men plus the units in Their bodies, which are composed of deva and human monads form, in their totality, the Grand Heavenly Man. |
Hai nhóm này, tức các Thiên Nhân cộng với các đơn vị trong thân thể của Các Ngài, vốn được cấu thành bởi các chân thần thiên thần (deva) và chân thần nhân loại, hợp lại, trong toàn thể của mình, thành Đại Thiên Nhân. |
|
264. Are the bodies of Heavenly Men composed only of deva and human Monads? This seems to be the inference. |
264. Thân thể của các Thiên Nhân có phải chỉ được cấu thành bởi các chân thần thiên thần và chân thần nhân loại không? Có vẻ như là hàm ý như vậy. |
|
When man achieves, then the Heavenly Men likewise achieve; when They reach Their full growth and knowledge, [245] and are self-conscious on all planes, then the Son achieves, and the solar system (His body of manifestation and experience) has served its purpose. |
Khi con người thành tựu, thì các Thiên Nhân cũng thành tựu; khi Các Ngài đạt tăng trưởng và tri thức viên mãn, [245] và tự-ý thức trên mọi cõi, thì Ngôi Con thành tựu, và hệ mặt trời (thân thể biểu lộ và kinh nghiệm của Ngài) đã hoàn tất mục đích của nó. |
|
265. We always understand that the lesser is dependent upon the greater, but this excerpt reveals how very dependent is the greater upon the lesser. |
265. Chúng ta luôn hiểu rằng tiểu vũ trụ lệ thuộc đại vũ trụ, nhưng đoạn này cho thấy đại vũ trụ lệ thuộc tiểu vũ trụ đến mức nào. |
|
266. As human beings, our progress contributes to the liberation of the Heavenly Man. We are responsible, in a way, for the success of our superiors. |
266. Là những con người, tiến bộ của chúng ta góp phần vào giải thoát của Thiên Nhân. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta chịu trách nhiệm cho sự thành công của những Đấng cao hơn mình. |
|
267. We must remember, however, that a Planetary Logos is a composite being, and that, one day, many of us, together, may be a particular Planetary Logos. The thought is unusual and subtle, and for the latter reason is probably not much developed, as it would escape comprehension by most. |
267. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng một Hành Tinh Thượng đế là một hữu thể tổng hợp, và một ngày kia, chúng ta, nhiều người, hợp lại, có thể sẽ là một Hành Tinh Thượng đế nào đó. Tư tưởng này vừa lạ thường vừa vi tế, và chính vì tính vi tế ấy có lẽ không được triển khai nhiều, vì nó vượt khỏi khả năng thấu triệt của đa số. |
|
The Son is liberated. Extend the idea of this threefold development of consciousness to the Logos in a still larger cycle (to that of the three solar systems of which this is the middle one) and we have repeated on cosmic levels in connection with the Logos, the process of the development of man in the three worlds. |
Ngôi Con được giải thoát. Hãy mở rộng ý niệm về sự phát triển tam phân của tâm thức này đến Logos trong một chu kỳ lớn hơn nữa (đến ba hệ mặt trời mà hệ hiện tại là hệ ở giữa) và chúng ta có tiến trình phát triển của con người trong ba cõi, được tái hiện trên các cấp vũ trụ trong liên hệ với Logos. |
|
268. It seems to require at least two solar systems to develop Love-Wisdom. The solar systems are, it would seem, sequential and not simultaneous. Within each of the solar systems, the three aspects are demonstrating in varying proportions. |
268. Có vẻ cần ít nhất hai hệ mặt trời để phát triển Bác ái–Minh triết. Các hệ mặt trời, dường như, là tuần tự chứ không đồng thời. Trong mỗi hệ mặt trời, ba phương diện biểu hiện theo tỉ lệ khác nhau. |
|
269. VSK suggests that we think of how atma-buddhi-manas are the Heavenly Man’s vehicles for this process by which the relationship between the one and the three yield the two. Does this atma-buddhi-manas relationship implicate the third, fourth, and fifth Creative Hierarchies–those in relation to which the human soul/buddhi is as the heart. |
269. VSK gợi ý chúng ta suy nghĩ về cách atma-buddhi-manas là các vận cụ của Thiên Nhân cho tiến trình mà trong đó mối tương quan giữa Một và Ba sản sinh ra Hai. Liệu mối tương quan atma-buddhi-manas này có hàm ẩn ba Huyền Giai Sáng Tạo thứ ba, thứ tư và thứ năm—những huyền giai liên hệ mà trong đó hồn người/Bồ đề là như trái tim. |
|
270. VSK suggests that these thoughts are “likely a systemic correspondence to Mars, Earth, Mercury – in terms of the numbering of the solar septenate schemes. Earth thus correlating with the four of buddhi, the true home of man, the solar angel”. |
270. VSK gợi ý rằng những suy tưởng này “nhiều khả năng là một tương ứng hệ thống đối với Sao Hỏa, Trái Đất, Sao Thủy—xét về số thứ tự của bảy hệ hành tinh thái dương. Trái Đất do đó tương quan với số bốn của Bồ đề, ngôi nhà chân thật của con người, của thiên thần mặt trời”. |
|
THE MACROCOSM |
ĐẠI THIÊN ĐỊA |
|
– The first solar system…embodied……the “I am” principle. |
– Hệ mặt trời thứ nhất…đã hiện thân……nguyên lý “Ta là”. |
|
– The second solar system…is embodying…the “I am that” principle. |
– Hệ mặt trời thứ hai…đang hiện thân…nguyên lý “Ta là Cái Đó”. |
|
– The third solar system…will embody…the “I am that I am” principle. |
– Hệ mặt trời thứ ba…sẽ hiện thân…nguyên lý “Ta là Đấng Ta là”. |
|
271. It is amazing to think that a vast process such as a solar system would have as its predominating theme a significance expressed in a simple mantram. |
271. Thật kinh ngạc khi nghĩ rằng một tiến trình bao la như một hệ mặt trời lại có chủ âm trổi vượt được biểu đạt trong một mantram đơn giản. |
|
272. It is obvious that the principle of relationship was not much developed in the first solar system, yet if there is to be any interaction, relationship is inescapable. |
272. Rõ ràng nguyên lý tương quan chưa được phát triển nhiều trong hệ mặt trời thứ nhất, tuy nhiên nếu có bất kỳ tương tác nào, thì tương quan là bất khả né tránh. |
|
273. In the second solar system, the principle of relationship and unity is developed, and in the third solar system, the principle of identification. |
273. Trong hệ mặt trời thứ hai, nguyên lý tương quan và hợp nhất được phát triển, và trong hệ mặt trời thứ ba, nguyên lý đồng nhất thể. |
|
THE MICROCOSM |
TIỂU THIÊN ĐỊA |
|
– The first manifestation, the Personality, embodies the “I am” principle. |
– Sự hiện lộ thứ nhất, Phàm ngã, hiện thân nguyên lý “Ta là”. |
|
– The second manifestation, the Ego, is embodying the “I am that” principle. |
– Sự hiện lộ thứ hai, Chân ngã, đang hiện thân nguyên lý “Ta là Cái Đó”. |
|
– The third manifestation, the Monad, will embody the “I am that I am” principle. |
– Sự hiện lộ thứ ba, Chân thần, sẽ hiện thân nguyên lý “Ta là Đấng Ta là”. |
|
274. The 777 symbolic incarnations are not enough to develop fully these three phases of consciousness, for the 777 are correlated to the three tiers of petals of the egoic lotus (an energy structure which must be destroyed and transcended before the “I am That I am” realization can be established). |
274. 777 kiếp lâm phàm biểu tượng là chưa đủ để phát triển trọn vẹn ba pha tâm thức này, vì 777 tương quan với ba tầng cánh của Hoa Sen Chân Ngã (một cấu trúc năng lượng phải bị hủy và được vượt qua trước khi chứng ngộ “Ta là Đấng Ta là” có thể được an lập). |
|
275. VSK would have us remember the following: “Correlating this to the footnote on 243, we see that the |
275. VSK muốn chúng ta nhớ điều sau: “Đối chiếu với chú thích ở trang 243, chúng ta thấy rằng |
|
a. “I am” is correlated to the individual or self, human consciousness; |
a. “Ta là” tương quan với cá thể hay tự, tâm thức con người; |
|
b. “I am That” is correlated to the Planetary Logos, ‘consciousness of planetary logos”. |
b. “Ta là Cái Đó” tương quan với Hành Tinh Thượng đế, ‘tâm thức của Hành Tinh Thượng đế’. |
|
c. “I am That I am” is correlated to the Absolute or God, the unmanifested Logos. |
c. “Ta là Đấng Ta là” tương quan với Tuyệt đối hay Thượng đế, Thượng đế không biểu hiện. |
|
This emphasizes that the second manifestation, “b.”, the Ego is equated to the consciousness of the Planetary Logos; and, that “a.”, the Personality, has a human connotation. Distinctions between Ego and personality are directly correlated to the planetary and human consciousnesses. Ego or Soul consciousness, thus, is correlated to group or Planetary Consciousness. How does this profundity work out, in the lives of great personages?” |
Điều này nhấn mạnh rằng sự hiện lộ thứ hai, “b.”, Chân ngã được đồng nhất với tâm thức của Hành Tinh Thượng đế; và rằng “a.”, Phàm ngã, mang hàm nghĩa nhân loại. Các phân biệt giữa Chân ngã và phàm ngã được trực tiếp đối chiếu với các tâm thức hành tinh và nhân loại. Tâm thức của Chân ngã hay Linh hồn, như vậy, tương quan với Tâm thức nhóm hay Tâm thức Hành tinh. Sự thâm áo này ứng vào đời sống của các vĩ nhân ra sao?” |
|
Thus the different factors play their part in the general scheme of things, and all are interrelated, and all are interested parts and members one of the other. |
Như thế các yếu tố khác nhau đóng vai trò của chúng trong cơ đồ chung của sự vật, và tất cả đều tương liên, và tất cả đều là những phần tử hữu quan, là những chi thể của nhau. |
|
276. VSK suggests: “This would be a good quote to have handy in the back pocket for use in almost all occasions. Nods all around … from physicists to teachers and politicians and futurists”. |
276. VSK gợi ý: “Đây là một câu đáng để bỏ túi để dùng trong hầu hết mọi dịp. Gật đầu khắp nơi… từ các nhà vật lý đến các nhà giáo, chính khách và những người dự phóng tương lai”. |
|
277. We close this section with a vision of interdependence. Such a vision, we realize, is sadly lacking in today’s world, though it is being forced upon humanity by world conditions. “No man liveth unto himself alone”. Our elevations raise many; our falls take others down. Do we realize this in practical fact when, for instance, our vibration is lower than it should be? |
277. Chúng ta khép lại phần này với một thị kiến về tính tương thuộc. Chúng ta nhận ra rằng thị kiến như vậy đang thiếu vắng đáng buồn trong thế giới hôm nay, dù nó đang được bức bách áp vào nhân loại bởi các điều kiện thế giới. “Không ai sống cho riêng mình”. Sự thăng lên của chúng ta nâng nhiều người khác; sự sa sút của chúng ta kéo kẻ khác xuống. Chúng ta có nhận ra điều này trong thực tế khi, chẳng hạn, rung động của chúng ta thấp hơn mức nên có? |
|
278. The sense of interdependence is the antidote to selfishness. |
278. Ý thức về tính tương thuộc là đối dược của tính vị kỷ. |